CÁCH TRỊ BẾ KINH Ở PHỤ NỮ
Nguyên nhân bế kinh ở phụ nữ rất nhiều, phần lớn là do bị bệnh lâu ngày, thiếu máu suy dinh dưỡng, hoặc tử cung phát dục không hoàn toàn, bị lao bộ phận sinh dục hoặc bộ phận sinh dục có bệnh mãn tính khó chữa gây ra, cũng có những trường hợp do " nội thương " hoặc " ngoại thương " gây ra.
Bệnh bế kinh có thể chia làm 2 loại là hư chứng và thực chứng. Hư chứng thường là do khí huyết không đầy đủ, nên cũng gọi là " huyết hư bế kinh ". Thực chứng thường là do " Khí trệ, huyết ứ " , cũng gọi là " huyết trệ bế kinh ".
A/ Bế kinh thực chứng
Thường biểu hiện các bệnh trạng như bụng dưới trướng đau, không thích ai lấy tay đè, ngực nặng , hay bực bội, dễ cáu gắt, miệng đắng, lưỡi màu tía, hai môi đỏ bầm mà khô.
Trị thực chứng " huyết trệ bế kinh " nên lấy việc hoạt huyết hành trệ là chính. Thường các lương y hay dùng bài thuốc " Huyết phủ trục ứ thang ", bài thuốc này có công dụng trục ứ huyết, hoạt huyết, thông ứ.
BÀI THUỐC HUYẾT PHỦ TRỤC Ứ THANG ( Y LÂM CẢI THÁC )
Thành phần
Đương quy 12g, Sinh địa 12g, Đào nhân 16g, Hồng hoa 12g, Chỉ xác 8g, Xích thược 8g, Sài hồ 4g, Cam thảo 4g, Cát cánh 6g ,Xuyên khung 6g, Ngưu tất 12g.
Cách dùng
Lượng trên thuộc nguyên phương - mỗi ngày 1 thang, có tác dụng hoạt huyết hành ứ, lý khí, chỉ thống.
Chủ trị
Đau đầu ngoan cố ( đau đầu lâu không khỏi), ngực đau, bên trong cơ thể nóng ( nội nhiệt ), phiền táo, ách nghịch ( nấc ), tâm quý ( hồi hộp ) , mất ngủ , sốt về buổi chiều và chứng thổ huyết ( nôn ra máu ) , có biểu hiện ứ huyết. Nếu xanh lờ mờ , hai mắt quầng thâm, đau, như rìa lưỡi có gân xanh, ban ứ, mặt lưỡi có vân đậm, chỗ đau cố định...cũng đều dùng bài thuốc này.
Giải bài thuốc
Phương thuốc này là hợp phương của Đào hồng tứ vật thang với Tứ nghịch tán ( Sài hồ, Chỉ thực, Cam thảo, Bạch thược ) lại gia thêm Cát cánh, Ngưu tất. Bài thuốc " Đào hồng tứ vật thang " có tác dụng hoạt huyết hành ứ. Bài " Tứ nghịch tán " có tác dụng sơ can lý khí. Lại gai thêm vị Cát cánh để khai khí uất ở vùng hung cách ( vùng ngực ). Vị Ngưu tất để dẫn huyết ứ đi xuống. Đó là cách nhất thăng , nhất giáng phối ngũ một cách hoàn hảo mà thành phương, nên chữa được tất cả các chứng khí trệch huyết ứ cho nên gọi là " Trục ứ ".
Cách gia giảm
Trên lâm sàng ứng dụng hay bỏ Cát cánh gia thêm vị Thanh bì ( vỏ chanh ) , Hương phụ ( Cỏ gấu ) để tăng cường sức lý khí chỉ thống.Nếu đau dữ còn gia thêm Toàn yết ( Bò cạp ) , Ngô công ( Rết ) , Sơn giáp ( vẩy tê tê ), Địa long ( Giun đất ) để thông lạc chỉ thống.
B/ Bế kinh do hư chứng
Thường có bệnh trạng như cả người màu da vàng nhạt, mặt trắng bệch như không có máu, chóng mặt hoa mắt, tim đập nhanh, hơi thở ngắn, không muốn ăn uống, thân thể gầy gò, tay chân kém sức, tâm trạng buồn phiền không yên, lòng bàn tay đỏ ửng, có khi hai bên má cũng đỏ, da khô hoặc hơi nóng, ho suyễn, màu lưỡi nhạt mà ít bợn , tinh thần và sức khoẻ đều bị lộ vẻ mệt mỏi. Chứng bế kinh này có người gọi là " Can huyết lao ".
Trị liệu bệnh " Huyết hư bế kinh " nên trước bổ sau công. Thông thường có thể dùng , " Tứ vật thang " làm phương thuốc chính nhưng nên gia giảm biến thông cho phù hợp.
BÀI THUỐC " TỨ VẬT THANG " GỒM CÁC VỊ
Đương quy 24g, Xuyên khung 16g, Thục địa 32g, Bạch thược 16g ( dùng cho thuốc thông kinh, có khi phải dùng liều cao hơn ).
- Nếu tỳ hư gia thêm : Đảng sâm, Bắc hoàng kỳ, Bạch truật - mỗi vị 20g, Kê nội kim 16g đem nấu uống.
- Nếu tâm thận hư tổn gia thêm vào bài thuốc trên các vị thuốc sau : Long nhãn, Thỏ ty tử, Ngưu tất - mỗi thứ 20g, Kỷ tử 16g ( sắc uống ).
Người phụ nữ dùng thuốc trị bế kinh, nên dùng theo chu kỳ kinh nguyệt sẽ có hiệu quả tốt hơn.
Lương y Lâm Huy Nhuận
HKỳ typing theo KTGĐ
Nguyên nhân bế kinh ở phụ nữ rất nhiều, phần lớn là do bị bệnh lâu ngày, thiếu máu suy dinh dưỡng, hoặc tử cung phát dục không hoàn toàn, bị lao bộ phận sinh dục hoặc bộ phận sinh dục có bệnh mãn tính khó chữa gây ra, cũng có những trường hợp do " nội thương " hoặc " ngoại thương " gây ra.
Bệnh bế kinh có thể chia làm 2 loại là hư chứng và thực chứng. Hư chứng thường là do khí huyết không đầy đủ, nên cũng gọi là " huyết hư bế kinh ". Thực chứng thường là do " Khí trệ, huyết ứ " , cũng gọi là " huyết trệ bế kinh ".
A/ Bế kinh thực chứng
Thường biểu hiện các bệnh trạng như bụng dưới trướng đau, không thích ai lấy tay đè, ngực nặng , hay bực bội, dễ cáu gắt, miệng đắng, lưỡi màu tía, hai môi đỏ bầm mà khô.
Trị thực chứng " huyết trệ bế kinh " nên lấy việc hoạt huyết hành trệ là chính. Thường các lương y hay dùng bài thuốc " Huyết phủ trục ứ thang ", bài thuốc này có công dụng trục ứ huyết, hoạt huyết, thông ứ.
BÀI THUỐC HUYẾT PHỦ TRỤC Ứ THANG ( Y LÂM CẢI THÁC )
Thành phần
Đương quy 12g, Sinh địa 12g, Đào nhân 16g, Hồng hoa 12g, Chỉ xác 8g, Xích thược 8g, Sài hồ 4g, Cam thảo 4g, Cát cánh 6g ,Xuyên khung 6g, Ngưu tất 12g.
Cách dùng
Lượng trên thuộc nguyên phương - mỗi ngày 1 thang, có tác dụng hoạt huyết hành ứ, lý khí, chỉ thống.
Chủ trị
Đau đầu ngoan cố ( đau đầu lâu không khỏi), ngực đau, bên trong cơ thể nóng ( nội nhiệt ), phiền táo, ách nghịch ( nấc ), tâm quý ( hồi hộp ) , mất ngủ , sốt về buổi chiều và chứng thổ huyết ( nôn ra máu ) , có biểu hiện ứ huyết. Nếu xanh lờ mờ , hai mắt quầng thâm, đau, như rìa lưỡi có gân xanh, ban ứ, mặt lưỡi có vân đậm, chỗ đau cố định...cũng đều dùng bài thuốc này.
Giải bài thuốc
Phương thuốc này là hợp phương của Đào hồng tứ vật thang với Tứ nghịch tán ( Sài hồ, Chỉ thực, Cam thảo, Bạch thược ) lại gia thêm Cát cánh, Ngưu tất. Bài thuốc " Đào hồng tứ vật thang " có tác dụng hoạt huyết hành ứ. Bài " Tứ nghịch tán " có tác dụng sơ can lý khí. Lại gai thêm vị Cát cánh để khai khí uất ở vùng hung cách ( vùng ngực ). Vị Ngưu tất để dẫn huyết ứ đi xuống. Đó là cách nhất thăng , nhất giáng phối ngũ một cách hoàn hảo mà thành phương, nên chữa được tất cả các chứng khí trệch huyết ứ cho nên gọi là " Trục ứ ".
Cách gia giảm
Trên lâm sàng ứng dụng hay bỏ Cát cánh gia thêm vị Thanh bì ( vỏ chanh ) , Hương phụ ( Cỏ gấu ) để tăng cường sức lý khí chỉ thống.Nếu đau dữ còn gia thêm Toàn yết ( Bò cạp ) , Ngô công ( Rết ) , Sơn giáp ( vẩy tê tê ), Địa long ( Giun đất ) để thông lạc chỉ thống.
B/ Bế kinh do hư chứng
Thường có bệnh trạng như cả người màu da vàng nhạt, mặt trắng bệch như không có máu, chóng mặt hoa mắt, tim đập nhanh, hơi thở ngắn, không muốn ăn uống, thân thể gầy gò, tay chân kém sức, tâm trạng buồn phiền không yên, lòng bàn tay đỏ ửng, có khi hai bên má cũng đỏ, da khô hoặc hơi nóng, ho suyễn, màu lưỡi nhạt mà ít bợn , tinh thần và sức khoẻ đều bị lộ vẻ mệt mỏi. Chứng bế kinh này có người gọi là " Can huyết lao ".
Trị liệu bệnh " Huyết hư bế kinh " nên trước bổ sau công. Thông thường có thể dùng , " Tứ vật thang " làm phương thuốc chính nhưng nên gia giảm biến thông cho phù hợp.
BÀI THUỐC " TỨ VẬT THANG " GỒM CÁC VỊ
Đương quy 24g, Xuyên khung 16g, Thục địa 32g, Bạch thược 16g ( dùng cho thuốc thông kinh, có khi phải dùng liều cao hơn ).
- Nếu tỳ hư gia thêm : Đảng sâm, Bắc hoàng kỳ, Bạch truật - mỗi vị 20g, Kê nội kim 16g đem nấu uống.
- Nếu tâm thận hư tổn gia thêm vào bài thuốc trên các vị thuốc sau : Long nhãn, Thỏ ty tử, Ngưu tất - mỗi thứ 20g, Kỷ tử 16g ( sắc uống ).
Người phụ nữ dùng thuốc trị bế kinh, nên dùng theo chu kỳ kinh nguyệt sẽ có hiệu quả tốt hơn.
Lương y Lâm Huy Nhuận
HKỳ typing theo KTGĐ