Ngày nay người ta có thể dễ dàng mua chu sa, hùng hoàng, khinh phấn, thiên hoa phấn và hồng táo tại các hiệu thuốc đông y lớn có giấy phép kinh doanh để chế thành bài thuốc làm đẹp da. Tuy nhiên, những vị thuốc có tính độc này có thể gây hại cho người dùng, nếu không theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Chu sa
Vị này còn được gọi là châu sa, đơn sa, xích đơn, quang minh sa hoặc thần sa, là một loại khoáng vật màu đỏ. Y học cổ truyền coi chu sa là một vị thuốc vị ngọt, tính hơi hàn và có độc, vào được kinh tâm, có tác dụng trấn tĩnh, an thần và giải độc. Vị thuốc này được dùng để chữa các chứng bệnh như tâm phiền bất an, mất ngủ, ngủ hay mê, điên cuồng, trẻ em hay khóc đêm, mụn nhọt, thũng độc, họng sưng, miệng lở...
Tuy nhiên, vì trong thành phần của chu sa có HgS nên tuyệt đối không được dùng trực tiếp hoặc gián tiếp với lửa, bởi khi đó chất HgS sẽ kết hợp với O2 tạo thành SO2 và Hg rất độc. Các y thư cổ đều nói chu sa phải dùng sống tuyệt đối, không dùng lửa vì có thể gây chết người; cũng không được dùng lâu, dùng nhiều vì có thể làm cho người thành si ngốc.
Hùng hoàng
Vị này còn được gọi là thạch hoàng, hùng tinh, hoàng kim thạch, hoàng thực thạch, hắc hoàng thiên dượng hoàng hay kê quan thạch, là một loại khoáng vật được dùng để làm thuốc, có thành phần chủ yếu là asen sunfua (AsS). Theo y thư cổ, hùng hoàng vị cay đắng, sát trùng, táo thấp và trừ đàm; thường dùng để chữa các chứng ung nhọt, nha cam tẩu mã, hầu phong hầu tý, ghẻ, trùng tích, sốt rét, rắn độc cắn, tràng nhạc, trĩ, viêm loét... Tuy nhiên, đây cũng là một vị thuốc có độc, nên khi dùng phải hết sức thận trọng và phải được thầy thuốc có chuyên khoa chỉ định.
Khinh phấn
Vị này còn được gọi là hồng phấn, cam phấn, thuỷ ngân phấn, dùng cả trong đông y và tây y. Theo đông y, khinh phấn vị cay, tính lạnh, có độc, vào được ba kinh can, thận và đại tràng. Thuốc có công dụng trừ đàm, trục thuỷ, thông tiện (dùng trong), công độc, sát trùng, chống ngứa, làm sạch vết thương (dùng ngoài).
Khinh phấn thường được dùng để chữa các chứng kinh phong, đàm ủng suyễn nghịch, thủy thũng chướng mãn, đại tiểu tiện bất lợi, mụn nhọt, lở ngứa, trứng cá đỏ... Tây y coi khinh phấn là một vị thuốc trừ giun, lợi đại tiểu tiện và thông mật. Tuy nhiên, cả tây y và đông y đều xếp khinh phấn vào loại thuốc nguy hiểm.
Thiên hoa phấn
Vị này còn được gọi là qua lâu căn, qua lâu phấn, thiên qua phấn hay hoa phấn, là rễ phơi hay sấy khô của cây qua lâu. Theo y học cổ truyền, thiên hoa phấn vị ngọt hơi đắng, tính hơi hàn, vào được kinh phế và vị, có công dụng thanh nhiệt, sinh tân, nhuận phế hoá đàm, tiêu thũng, bài mủ. Thuốc được dùng để chữa các chứng bệnh có sốt nóng, môi khô, miệng khát, tiêu khát (đái đường), phế nhiệt táo khái, lở loét, thũng độc...
Hồng táo
Vị này còn có tên gọi khác là đại táo. Trong y học cổ truyền, đại táo là một trong những vị thuốc hết sức thông dụng, có vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ trung ích khí, dưỡng huyết an thần. Đại táo có tác dụng cải thiện công năng miễn dịch, chống mệt mỏi, bảo vệ tế bào gan, hạ huyết áp, giảm ho, trừ đờm và chống ung thư.
Tuy nhiên, khi kết hợp với các vị thuốc nói trên thành bài thuốc làm đẹp da dùng nhiều lần, hồng táo có thể làm suy kiệt người sử dụng.
Ths.Hoàng Khánh Toàn, Khoa học & Đời sống
Chu sa
Vị này còn được gọi là châu sa, đơn sa, xích đơn, quang minh sa hoặc thần sa, là một loại khoáng vật màu đỏ. Y học cổ truyền coi chu sa là một vị thuốc vị ngọt, tính hơi hàn và có độc, vào được kinh tâm, có tác dụng trấn tĩnh, an thần và giải độc. Vị thuốc này được dùng để chữa các chứng bệnh như tâm phiền bất an, mất ngủ, ngủ hay mê, điên cuồng, trẻ em hay khóc đêm, mụn nhọt, thũng độc, họng sưng, miệng lở...
Tuy nhiên, vì trong thành phần của chu sa có HgS nên tuyệt đối không được dùng trực tiếp hoặc gián tiếp với lửa, bởi khi đó chất HgS sẽ kết hợp với O2 tạo thành SO2 và Hg rất độc. Các y thư cổ đều nói chu sa phải dùng sống tuyệt đối, không dùng lửa vì có thể gây chết người; cũng không được dùng lâu, dùng nhiều vì có thể làm cho người thành si ngốc.
Hùng hoàng
Vị này còn được gọi là thạch hoàng, hùng tinh, hoàng kim thạch, hoàng thực thạch, hắc hoàng thiên dượng hoàng hay kê quan thạch, là một loại khoáng vật được dùng để làm thuốc, có thành phần chủ yếu là asen sunfua (AsS). Theo y thư cổ, hùng hoàng vị cay đắng, sát trùng, táo thấp và trừ đàm; thường dùng để chữa các chứng ung nhọt, nha cam tẩu mã, hầu phong hầu tý, ghẻ, trùng tích, sốt rét, rắn độc cắn, tràng nhạc, trĩ, viêm loét... Tuy nhiên, đây cũng là một vị thuốc có độc, nên khi dùng phải hết sức thận trọng và phải được thầy thuốc có chuyên khoa chỉ định.
Khinh phấn
Vị này còn được gọi là hồng phấn, cam phấn, thuỷ ngân phấn, dùng cả trong đông y và tây y. Theo đông y, khinh phấn vị cay, tính lạnh, có độc, vào được ba kinh can, thận và đại tràng. Thuốc có công dụng trừ đàm, trục thuỷ, thông tiện (dùng trong), công độc, sát trùng, chống ngứa, làm sạch vết thương (dùng ngoài).
Khinh phấn thường được dùng để chữa các chứng kinh phong, đàm ủng suyễn nghịch, thủy thũng chướng mãn, đại tiểu tiện bất lợi, mụn nhọt, lở ngứa, trứng cá đỏ... Tây y coi khinh phấn là một vị thuốc trừ giun, lợi đại tiểu tiện và thông mật. Tuy nhiên, cả tây y và đông y đều xếp khinh phấn vào loại thuốc nguy hiểm.
Thiên hoa phấn
Vị này còn được gọi là qua lâu căn, qua lâu phấn, thiên qua phấn hay hoa phấn, là rễ phơi hay sấy khô của cây qua lâu. Theo y học cổ truyền, thiên hoa phấn vị ngọt hơi đắng, tính hơi hàn, vào được kinh phế và vị, có công dụng thanh nhiệt, sinh tân, nhuận phế hoá đàm, tiêu thũng, bài mủ. Thuốc được dùng để chữa các chứng bệnh có sốt nóng, môi khô, miệng khát, tiêu khát (đái đường), phế nhiệt táo khái, lở loét, thũng độc...
Hồng táo
Vị này còn có tên gọi khác là đại táo. Trong y học cổ truyền, đại táo là một trong những vị thuốc hết sức thông dụng, có vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ trung ích khí, dưỡng huyết an thần. Đại táo có tác dụng cải thiện công năng miễn dịch, chống mệt mỏi, bảo vệ tế bào gan, hạ huyết áp, giảm ho, trừ đờm và chống ung thư.
Tuy nhiên, khi kết hợp với các vị thuốc nói trên thành bài thuốc làm đẹp da dùng nhiều lần, hồng táo có thể làm suy kiệt người sử dụng.
Ths.Hoàng Khánh Toàn, Khoa học & Đời sống