Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Thần dược bí đỏ

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thần dược bí đỏ

    Bí đỏ là một loại thực phẩm rẻ tiền nhưng lại có giá trị dinh dưỡng đặc biệt. Vì vậy, người Nhật Bản luôn coi nó là một trong những món ăn trường sinh bất lão bên cạnh hải sản, rong biển, rau sống, trứng và đậu nành.

    Thịt bí đỏ là nguồn cung cấp vitamin A, đóng vai trò quan trọng cho thị giác, tăng trưởng xương và sự sinh sản, tham dự vào sự tổng hợp protein, điều hòahệ thống miễn dịch và góp phần dinh dưỡng, bảo vệ cho da. Ngoài tỷ lệ chất xơ và sắt khá cao, bí đỏ còn mang lại vitamin C, acid folic, magiê, kali và nhiều sinh tố cần thiết cho cơ thể.

    Đây cũng là thực phẩm cần cho những ai sợ mập vì 100 g bí đỏ chỉ cung cấp 26 calorie và không chứa chất béo.

    Trong bí đỏ còn có một chất cần thiết cho hoạt động của não bộ, đó là acid glutamic, đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng thần kinh, giúp các phản ứng chuyển hóa ở các tế bào thần kinh và não. Vì thế, bí đỏ được coi là món ăn bổ não, trị suy nhược thần kinh, giúp trẻ em chậm phát triển về trí óc.

    Bí đỏ được xem là một trong những loại thực phẩm chứa nhiều chất caroten có tính chất chống ôxy hóa. Màu vàng cam càng nhiều thì hàm lượng caroten càng cao rất tốt cho trẻ em. Những người thường bị táo bón cũng nên ăn bí đỏ vì chất sợi trong bí giúp ruột chuyển vận dễ dàng, đồng thời có một phần glucid là mannitol có tính nhuận trường nhẹ.

    Hạt bí đỏ không chỉ là phương tiện “giải sầu” trong những đêm mưa buồn giá lạnh mà còn là loại thuốc tẩy giun sán. Nó cũng chứa nhiều vitamin, chất khoáng cùng những amino acid cần thiết như alanin, glycin, glutamin, có thể giảm bớt các triệu chứng của bệnh phì đại tuyến tiền liệt.

    Hạt bí đỏ được dùng để chế tạo một loại dầu chứa nhiều carotenoid (beta-caroten, alpha-caroten, zéaxanthine, lutein) - những chất tương tự như vitamin A. Đây là những chất chống ôxy hóa mạnh giúp phòg ngừa các bệnh liên quan đến tuổi già suy như đục thủy tinh thể, các bệnh tim mạch và một số loại ung thư.

    Thành phần trong hạt bí đỏ:

    Magiê: Góp phần vào việc khoáng hóa xương, cấu trúc protein, gia tăng tác động dưỡng sinh của các enzym, việc co thắt cơ, sự dẫn truyền luồng thần kinh, tăng sức khỏe cho răng và hệ thống miễn nhiễm.

    Acid linoleique (omega 6): Một acid béo cần thiết mà người ta phải được cung cấp từ thực phẩm. Cơ thể cần acid béo này để giúp cho hệ thống miễn nhiễm, hệ thống tuần hoàn và hệ thống nội tiết hoạt động tốt.

    Đồng: Cần thiết trong việc hấp thu và sử dụng sắt trong việc tạo lập hemoglobine. Đồng thời tham dự vào hoạt động của các enzym góp phần tăng cường khả năng của cơ thể chống lại các tế bào gây ung thư.

    Phosphore: Hữu ích cho việc khoáng hóa răng và xương, là thành phần của các tế bào giữ phần quan trọng trong việc cấu tạo các chất thuộc hệ di truyền, là thành phần của các phospholipid, dùng trong việc chuyển vận năng lượng và cấu tạo nên thăng bằng acid-baz của cơ thể. Hạt bí ngô giàu phosphore có thể góp phần làm giảm nguy cơ sạn thận.

    Kẽm: Tham phần vào các phản ứng miễn dịch, tạo nên cấu trúc di truyền, mau lành vết thương, liền da, tạo nên tinh trùng và sự tăng trưởng của thai nhi.



    Quả bí đỏ còn được người ta dùng làm nhiều món ăn ngon như luộc, xào, nấu canh:

    Em về Bình Định cùng anh,

    Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.


    Quả bí còn dùng để nấu chè, cháo và nhất là các món ăn chay.

    Quả bí đỏ có tính thanh nhiệt, giải khát, sinh tân dịch.

    Vào mùa nóng nực nên ăn bí đỏ rất tốt cho sức khoẻ .

    Quả bí đỏ còn trị được bệnh quáng gà, khô mắt .

    Bệnh quáng gà là nhìn không rõ khi thiếu ánh sáng. Bởi vì nhìn không rõ nên hai con mắt cứ lờ quờ, lạng quạng như con gà vào lúc sẩm tối . “Quáng gà " hay “gà mơ” là cụm từ thật hay và chính xác. Người lao động lạng quạng lè phè thì bị chê là “gà mờ”, kiểu gà mờ này không liên quan gì đến vitamin A. Thiếu vitamin A sẽ bị khô mắt, quáng gà. Điều cần biết là thiếu vitamin A sinh bệnh nhưng dư vitamin A cũng bị độc. Theo tài liệu cuả Đại học Johns Hopkins 5-1999 trích đăng Annal of Internal medicine, dùng dài hạn vitamin A trên 1,5g/ngày (tương đương 5.000UI), xương không giữ được calci, tỷ trọng xương giảm 6% và tăng gấp đôi nguy cơ loãng xương, dễ gãy xương. Rõ ràng vitamin A là con dao hai lưỡi. Beta-caroten cuả bí đỏ vào cơ thể sẽ chuyến hoá thành vitamin A.

    Cơ thể là một bộ máy tuyệt vời, nó chỉ chuyển hoá caroten thành vitamin A khi cần thiết. Một khi đã đủ nhu cầu nó không chuyển hoá nữa, vì thế không sợ dư thưà vitamin A, khá an toàn . Rất hiếm khi dư caroten tới độ vàng da. Giả dụ gặp trường hợp này, chỉ cần ngưng ăn một thời gian là cơ thể tự đào thải. Nên ăn kèm cà chua, lycopen trong cà chua giúp tăng hấp thụ caroten vào máu. Beta-caroten và lycopen cùng thuộc nhóm carotenoid, chúng có khả năng chống oxy-hoá, chống lão hoá, ngăn chặn các bệnh tim mạch và ung thư. Hãy dùng thực phẩm có beta-caroten mà tránh dùng hoá chất tinh khiết.

    Bí đỏ có khả năng sinh nhiệt thấp nên được dùng vào thực đơn giảm thân trọng. Chữa được bệnh mập phì do cơ thể tích nhiều chất mỡ.

    Ăn cho sướng miệng đã thèm,

    Phát phì to béo chòm chèm cái lu.

    Nhịn ăn nhịn uống mệt đừ,

    Mà sao mỡ bụng, mỡ lườn vẫn dư !


    Quí vị chẳng may có thân hình béo phệ đừng nên nhịn ăn mà chỉ nên tiết thực, giảm chất béo. Thân trọng giảm từ từ an toàn hơn là xuống nhanh vì theo kinh nghiệm hễ xuống nhanh rồi sẽ lên cân trở lại.

    Bí đỏ còn phòng chống được bệnh tim mạch.

    Mập phì cần giảm cân đã đành, còn người bệnh tim mạch cũng cần phải ăn kiêng để giảm cân là sao ? Ăn kiêng giảm mỡ để cơ thể tiêu thụ mỡ tồn trữ trong máu. Sự kết đọng chất béo làm thành mạch máu mất tính đàn hồi nên huyết áp tăng. Vết kết đọng này kéo theo sự oxyd-hoá lipoprotein và tạo xơ động mạch, thành mạch dày thêm và mạch máu giảm khẩu độ, sự tuần hoàn thêm trì trệ, dẫn tới thiểu năng động mạch vành. “Máu nhiễm mỡ” cũng tạo thuận lợi cho sự kết đọng tiểu cầu, sản sinh ra máu cục ; máu cục làm tắc nghẽn mạch máu tim gây chết đột tử do nhồi máu cơ tim ; nó còn vào đến não gây tai biến mạch máu não. Rõ ràng việc ăn kiêng để tiêu hoá mỡ là biện pháp đầu tiên để phòng chống các bệnh tim mạch.

    Xơ động mạch do lipoprotein LDL oxyd hoá. Beta-caroten trong bí đỏ có khả năng chống oxyd hoá nên hữu ích trong trường hợp này.

    Chất xơ trong bí đỏ khoá hoạt tính cuả cholesterol và kéo theo phân. Chúng ta biết rằng chất béo phải nhờ cholesterol nhũ hoá mới ngấm được vào máu. Cholesterol bị khoá hoạt tính nên cả cholesterol và chất béo đều không vào máu mà bị bài xuất theo phân ra ngoài cơ thể . Kết quả là cholesterol và chất béo đều giảm, đồng thời giảm nguy cơ bệnh tim mạch..

    Bí đỏ còn trị được bệnh tiểu đường.

    Bệnh tiểu đường có liên quan gì đến mỡ đâu mà cũng phải kiêng mỡ và giảm thân trọng ? Sự kết đọng chất béo và xơ động mạch ngăn chặn glucoz khuếch tán vào các mô. “Máu nhiễm mỡ” làm cho tuần hoàn trì trệ, tạo thuận lợi cho việc liên kết protein-glucoz ; dưới dạng liên kết đại phân tử, glucoz không thể thoát ra ngoài mạch. Đây là hai nguyên nhân khiến glucoz-huyết tăng ở những người mập phì bị bệnh tiểu đường loại II.
    Beta-caroten chống oxyd hoá lipoprotein LDL, ngăn chặn xơ động mạch có nghĩa là giúp cho glucoz phân tán được ra khỏi mạch máu. Beta-caroten trong quả bí đỏ còn chống lão hoá, mà lão hoá là một trong những nguyên nhân cuả bệnh tiểu đường.

    Bí đỏ lại có ít chất bột nên rất thuận lợi cho thực đơn người bệnh tiểu đường.

    Bí đỏ còn giúp cho cơ thể nhuận tràng.

    Quả bí còn non nhuận tràng mạnh hơn quả bí chín. Người mập phì thường táo bón ăn bí đỏ vào vưà giảm cân vưà nhuận tràng.

    Các món ăn với bí đỏ : Tất cả các bệnh trên nên ăn món canh chay bí đỏ nấu với cà chua, nấm rơm hoặc nấm đông cô, thêm súp lơ hoặc bắp cải càng tốt.

    Công dụng của hạt bí đỏ :
    100g hạt bí (phần ăn được) sinh 541 calori, có 25g protein, 46g chất béo, gamma tocophenrol, delta-phytosterol và một aminoacid riêng biệt là cucurbitin. Các delta 5-, delta 7-, delta 8-phytosterol (24-alkylsterols) bao gồm clerosterol, isofucosterol, sitosterol, sitgmasterol, isoavenasterol, spinaterol (theo Harbal medicines 1999).

    Hạt dưa ngày Tết : Chất béo sinh 76% năng lượng cuả hạt bí đỏ, chia ra 15% do acid béo bão hoà, 35% do acid béo nhiều nối đôi, 23% do acid béo một nối đôi. Với thành phần này, chất béo trong hạt bí ngô tương đối tốt, hơn hẳn hạt dưa nhưng không bằng hạt hướng dương. Trong dịp tết, hãy thay tập quán cắn hạt dưa bằng hạt bí đỏ, vưà tốt hơn, dễ cắn hơn và không có phẩm màu (tăng nguy cơ ung thư).

    Hột bí đỏ trị được giun sán : Y học dân gian đã dùng hạt bí để trị giun sán. Mỗi lần dùng khoảng 50g hạt bí rang (kể cả vỏ). Bỏ vỏ, ăn hạt vào sáng sớm. Không nhịn ăn cũng được nhưng nhịn ăn vẫn tốt hơn. Một giờ sau uống thuốc xổ thì tốt hơn. Nên dùng vài ba lần cho hết hẳn trứng ký sinh trùng.

    Dịch chiết cồn hạt bí đỏ diệt được sán xơ mít Toenia saginata vàø Toenia solium ; nó chỉ tác dụng vào trứng và đốt sán nhưng chưa đủ hiệu lực làm tê liệt đầu sán, hãy kềt hợp với binh lang (hạt cau) thì kết quả hoàn chỉnh, 95%. Để diệt sán xơ mít, uống 90-120g hạt bí rang (đã bỏ vỏ), kết hợp với hạt cau. Thuốc có hiệu lực trong vòng 40-60 phút.

    Dịch chiết nước trị được giun đuã và giun kim. Người ta đã phát hiện trong hạt bí đỏ có chất Cucurbitine, hiện đã tổng hợp được Cucurbitin có thể trừ được giun đũa và gium kim với nồng độ ¼.000. Vấn đề chưa sáng tỏ là hoạt chất trị sán xơ mít là Cucurbitine hay chất khác.

    Ngoài ra hạt bí đỏ có khả năng diệt Schistosomia,cả ấu trùng lẫn trưởng thành.

    Hạt bí đỏ trị được bệnh tiết niệu.

    - Y học cổ truyền dùng hạt bí đỏ trị các bệnh đường tiết niệu.

    - Có khá nhiều loại bệnh tiết niệu, vì không xác định bệnh gì nên có nguy cơ dùng thuốc không đúng bệnh. Vì vậy , khi dùng thuốc trị bệnh cần phải hỏi cho chính xác. Khi nói một thuốc trị bệnh tiết niệu, cần nói rõ bệnh ở cơ quan nào: quả thận, ống tiểu, bàng quang hay ống thoát tiểu ; loại bệnh gì: nhiễm trùng, viêm, tổn thương…Thuốc đó tác dụng vào mô nào: thần kinh, cơ trơn,biểu mô…chính xác hơn là với thụ thể nào ?
    Y học cổ truyền có từ hàng ngàn năm trước. Muốn phê bình ngành học này, chúng ta phải đặt mình vào bối cảnh lịch sử hồi đó, vào thời mà khoa học còn là con số không. Y học cổ truyền trước tiên dưạ vào kinh nghiệm sử dụng. Các danh y đã rút tiả nhiều kinh nghiệm để hoàn thành các “Bản thảo” cho đời sau .

    Dùng thuốc là bước sau cùng cuả việc chuẩn đoán bằng tứ chuẩn: vọng (nhìn), văn (nghe) vấn (hỏi), thiết (xem mạch). Tuy không có ống nghe và siêu âm nhưng thày thuốc xem mạch ở ba bộ “thốn, quan, xích” và ở cả hai tay (6 điểm) nên có thể biết rành rẽ bệnh tình, dựa theo đó mà đưa ra bài thuốc chữa trị cho bệnh nhân . Người xưa ít khi dùng độc vị mà thường kết hợp nhiều vị với đủ khung “quân, thần, ta,ù sứ”. Các danh y như Hải thượng lãn ông, Tuệ Tĩnh là những người tiên phong. Tiếc rằng hậu thế không học được hết tài nghệ cuả người xưa, kèm thêm nhiều tài liệu bị thất lạc, lại chỉ có biết học truyền khẩu nên không tận dụng được tinh hoa và mai một dần. Vì thế việc làm cuả thế hệ chúng ta là dùng phương tiện hiện đại để kiểm chứng, phát huy cái hay, uốn nắn những sai lệch thiếu sót. Và hạt bí đỏ là một ví dụ.

    Lời dạy lưu truyền là hạt bí trị bệnh tiết niệu. Kiểm chứng khoa học không thấy nó có khả năng kháng khuẩn và thông tiểu nhưng nó lại kích ứng bàng quang, gây co thắt.

    Người xưa dùng hạt bí đỏ trong chứng phì đại tuyến tiền liệt. Nhưng theo hiểu biết ngày nay là không đúng. Tuyến tiền liệt phì đại chèn ép làm nghẹt ống thoát tiểu ; điều cần làm là thông tiểu và làm rỗng cơ vòng để mở khẩu độ ống thoát tiểu.
    Người xưa không dùng độc vị mà kết hợp với vài vị nữa. Còn hạt bí làm co thắt bọng đái ; nghĩa là tấn công nhiều mặt. Đây chính là việc cần làm, tìm bài thuốc và giải phương các bài thuốc này.

    Hạt bí đỏ trị bệnh Ung thư :

    Chúng ta biết rằng tiền liệt tuyến (có nhiệm vụ sinh tinh dịch) bao quanh ống thoát tiểu từ bàng quang ra dương vật. Tiền liệt tuyến phì đại (thường gặp ở đàn ông lớn tuổi) có biểu hiện bí tiểu, muốn tiểu mà tiểu không được, mỗi lần chỉ đái được một ít, vừa tiểu xong lại buồn tiểu nữa, gần như thường xuyên gác cửa cầu tiêu. Luôn luôn tức bụng, bọng đái đầy nước tiểu nhưng không thoát ra được, đúng là “tức vỡ bọng đái”. Hạt bí đỏ kích ứng bàng quang nghĩa là tăng áp lực ở bàng quang, nhưng ống thoát bị nghẹt nên càng tức bụng hơn.

    Bệnh ung thư ở phụ nữ. Các bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư tử cung thường liên quan đến estrogen. Các thực phẩm có phytosterol như đậu nành , hạt bí đỏ phần nào có ích trong việc ngăn chặn các loại ung thư này.

    Xin nhấn mạnh rằng, những thực phẩm này không thay thế được thuốc trị bệnh, chúng chỉ là thực phẩm hỗ trợ, tỏ ra hữu hiệu trong việc ngăn chặn mà thôi.

    Điều khuyên tốt nhất là hãy tăng sử dụng sản phẩm từ đậu nành, ăn thêm hạt bí đỏ thay vì hạt dưa nhưng không nên ăn nhiều.

    Loài gần giống:
    Bí đỏ mì sợi = Spaghetti squash

    Bề ngoài có hình dáng và màu sắc giống dưa bở. 100g Bí này chỉ sinh 33 calori. Nó có rất ít chất bổ dưỡng. Sau khi luộc và bóc vỏ, đánh tơi lên sẽ xuất hiện những mớ rối trông như mì sợi, do đó có tên Bí đỏ mì sợi. Bí này có tính nhuận trường, dùng làm thực phẩm giảm thân trọng./.

  • #2
    man...nghe nói như vây mà nhớ tới VN luc nhỏ có bí đỏ an là ngon rồi...còn như bên đây tới mùa halloween tụi nó liệng đầy đường ...nhớ tới luc còn ờ VN ăn cơm trộn......cả nước( hong tính mấy thằng tai to à nghen)

    Comment

    Working...
    X