Hiện nay, có nhiều người chưa hiểu hết tính năng của tam thất nên đã sử dụng tam thất một cách tùy tiện. Để sử dụng tam thất một cách khoa học, hợp lý với hiệu quả chữa bệnh cao, cần lưu ý một số điểm.
Tam thất rừng lá xẻ (mọc hoang dã) có thể sử dụng thay thế tam thất trồng.
Sơ chế trước khi dùng: Để bảo đảm hiệu quả chữa bệnh và an toàn, trước hết, rửa thật nhanh củ tam thất bằng nước đun sôi để nguội vài lần, không cho nước kịp ngấm vào ruột, phơi nắng hoặc sấy ở nhiệt độ 50-60oC (tuyệt đối không rang tam thất trực tiếp trên chảo hoặc tẩm dược liệu với mỡ gà, rồi phơi sấy khô như một số người đã làm). Khi dùng, mới thái lát hoặc tán bột. Dùng đến đâu làm đến đó vì để nguyên củ thì thời hạn sử dụng có thể kéo dài đến 2 năm; nếu thái lát hoặc tán bột, chỉ bảo quản được trong 6-12 tháng, có thể lâu hơn nếu ngâm bột với mật ong hoặc rượu.
Công dụng và cách dùng: Tam thất có hai tác dụng chính là cầm máu và bổ dưỡng do chứa saponin triterpen là ginsenozid, một hoạt chất quý của nhân sâm. Gần đây, tam thất còn được dùng trong một số trường hợp ung thư (phổi, tuyến tiền liệt, vòm họng, vú) với kết quả tốt.
Dùng sống dưới dạng bột hoặc mài với nước uống hoặc dạng lát cắt thì ngậm nhai rồi nuốt để chữa thổ huyết, băng huyết, rong kinh, chảy máu cam, máu hôi sau khi đẻ, kiết lỵ ra máu, khối u (ung thư). Bột tam thất rắc ngoài làm cầm máu nhanh các vết thương.
Dùng chín trong những trường hợp thiếu máu, suy nhược, phụ nữ sau khi đẻ, người mới ốm dậy. Củ tam thất hấp cho mềm, thái mỏng hoặc sao khô, tán bột rồi hầm với thịt gà, thịt chim, ăn hằng ngày trong vài tuần. Có thể ngâm rượu uống. Đơn giản thì hãm tam thất với nước sôi như pha trà, uống làm nhiều lần vừa dễ làm, tiện lợi, vừa giữ được hương vị, hoạt chất. Nước hãm tam thất pha với sữa dùng cho trẻ em rất tốt.
Có thể phối hợp với nhân sâm trong trường hợp uống riêng tam thất thấy có cảm giác "nóng", nhất là đối với những người mà khí, huyết đều suy kiệt. Tuy nhiên, nên uống hỗn hợp sâm - tam thất vào ban ngày và uống riêng tam thất vào buổi tối vì nhân sâm sẽ làm cho tỉnh táo, khó ngủ.
Tam thất còn phối hợp với kỷ tử, cúc hoa chữa các chứng bệnh về mắt; với hoa hòe hoặc rutin trong những trường hợp chảy máu; với linh chi lại tăng cường miễn dịch, chống stress, cải thiện trí nhớ.
Chú ý: Phụ nữ có thai không được dùng tam thất.
Cây và củ tam thất.
Liều lượng: Dùng cầm máu, giảm đau nhanh, mỗi ngày uống 10-20g chia làm 4-5 lần. Để bổ dưỡng, mỗi ngày, người lớn: 5-6g chia hai lần; trẻ em tùy tuổi bằng 1/2 - 1/3 liều người lớn. Uống sau khi ăn 5 - 10 phút. Đối với các trường hợp ung thư, mỗi ngày có thể dùng liều 10g, liên tục trong 12 tháng hoặc lâu hơn.
Các loài dùng thay thế: Ngoài cây tam thất trồng, hai loài tam thất mọc hoang đã được phát hiện, làm cho vị thuốc trở nên phong phú và đa dạng, giúp cho việc sử dụng tam thất được thuận lợi hơn. Đó là cây tam thất lá xẻ (Panax bipinna tifidus Seem.) và cây tam thất rừng (Panax stipuleanatus H.T.Tsai et K.M.Feng). Cả hai loài đều đã được nghiên cứu sâu về hóa học và dược lý với kết quả tác dụng như tam thất trồng và có thể dùng để thay thế. Tam thất lá xẻ còn được ngâm rượu, rồi chiết dưới dạng tinh sâm dùng rất tốt, đặc biệt có tác dụng kích thích sinh dục.
Phân biệt thật giả: Trên thực tế, tam thất đã bị giả mạo bởi tam thất gừng (Stahlianthus thorellii Gagnep.), thổ tam thất (Gynura pinnatifida DC.) do trùng tên gọi hoặc hồi đầu thảo (Tacca plantaginea (Hanee) Drenth) do cùng tính dược. Những dược liệu này cũng dưới dạng củ đều được bôi đen bằng mực tàu hoặc bút chì đen, rồi xoa bột hoạt thạch (talc) cho bóng giống màu của tam thất thật.
Củ tam thất gừng.
Dựa vào những sai khác sau đây về mặt hình thái thực vật, ta có thể phân biệt dễ dàng và tránh nhầm lẫn để có dược liệu tam thất đúng:
Củ tam thất hình thoi hoặc hình con quay (đa số), dài 2-4cm, đường kính 1-2cm. Đầu củ sần sùi do những vết tích của thân cây rụng hằng năm tạo thành. Mặt ngoài màu đen, có nhiều nếp nhăn dọc. Thịt màu xám đen. Vị ngọt, hơi đắng, mùi thơm nhẹ, tính ấm.
Củ tam thất gừng hình tròn thuôn một đầu hoặc hình trứng (giống quả trứng chim), dài 1,2-1,5cm, nhẵn. Mặt ngoài màu trắng vàng, có nhiều vòng song song ngang củ. Thịt màu trắng ngà. Vị cay, nóng, mùi thơm như gừng.
Củ thổ tam thất (gọi bạch truật nam) hình tròn hoặc gần tròn, dài 4-5cm, đường kính 3,5-4cm, sần sùi không đều. Mặt ngoài màu nâu vàng. Thịt màu vàng ngà. Vị nhạt, chát, hơi ngứa, không mùi.
Củ hồi đầu thảo hình tròn méo mó không đều, dài 1,5-2cm. Đầu củ sần sùi do những vết tích của lá cây rụng. Mặt ngoài màu trắng bẩn. Thịt màu trắng đục. Vị đắng, hàn, không mùi.
Lưu ý trong một số trường hợp, củ tam thất rỗng ruột còn bị kẻ xấu nhồi chì cho nặng thêm để trục lợi gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng.
TTƯT.DSCKII. Đỗ Huy Bích
Tam thất rừng lá xẻ (mọc hoang dã) có thể sử dụng thay thế tam thất trồng.
Sơ chế trước khi dùng: Để bảo đảm hiệu quả chữa bệnh và an toàn, trước hết, rửa thật nhanh củ tam thất bằng nước đun sôi để nguội vài lần, không cho nước kịp ngấm vào ruột, phơi nắng hoặc sấy ở nhiệt độ 50-60oC (tuyệt đối không rang tam thất trực tiếp trên chảo hoặc tẩm dược liệu với mỡ gà, rồi phơi sấy khô như một số người đã làm). Khi dùng, mới thái lát hoặc tán bột. Dùng đến đâu làm đến đó vì để nguyên củ thì thời hạn sử dụng có thể kéo dài đến 2 năm; nếu thái lát hoặc tán bột, chỉ bảo quản được trong 6-12 tháng, có thể lâu hơn nếu ngâm bột với mật ong hoặc rượu.
Công dụng và cách dùng: Tam thất có hai tác dụng chính là cầm máu và bổ dưỡng do chứa saponin triterpen là ginsenozid, một hoạt chất quý của nhân sâm. Gần đây, tam thất còn được dùng trong một số trường hợp ung thư (phổi, tuyến tiền liệt, vòm họng, vú) với kết quả tốt.
Dùng sống dưới dạng bột hoặc mài với nước uống hoặc dạng lát cắt thì ngậm nhai rồi nuốt để chữa thổ huyết, băng huyết, rong kinh, chảy máu cam, máu hôi sau khi đẻ, kiết lỵ ra máu, khối u (ung thư). Bột tam thất rắc ngoài làm cầm máu nhanh các vết thương.
Dùng chín trong những trường hợp thiếu máu, suy nhược, phụ nữ sau khi đẻ, người mới ốm dậy. Củ tam thất hấp cho mềm, thái mỏng hoặc sao khô, tán bột rồi hầm với thịt gà, thịt chim, ăn hằng ngày trong vài tuần. Có thể ngâm rượu uống. Đơn giản thì hãm tam thất với nước sôi như pha trà, uống làm nhiều lần vừa dễ làm, tiện lợi, vừa giữ được hương vị, hoạt chất. Nước hãm tam thất pha với sữa dùng cho trẻ em rất tốt.
Có thể phối hợp với nhân sâm trong trường hợp uống riêng tam thất thấy có cảm giác "nóng", nhất là đối với những người mà khí, huyết đều suy kiệt. Tuy nhiên, nên uống hỗn hợp sâm - tam thất vào ban ngày và uống riêng tam thất vào buổi tối vì nhân sâm sẽ làm cho tỉnh táo, khó ngủ.
Tam thất còn phối hợp với kỷ tử, cúc hoa chữa các chứng bệnh về mắt; với hoa hòe hoặc rutin trong những trường hợp chảy máu; với linh chi lại tăng cường miễn dịch, chống stress, cải thiện trí nhớ.
Chú ý: Phụ nữ có thai không được dùng tam thất.
Cây và củ tam thất.
Liều lượng: Dùng cầm máu, giảm đau nhanh, mỗi ngày uống 10-20g chia làm 4-5 lần. Để bổ dưỡng, mỗi ngày, người lớn: 5-6g chia hai lần; trẻ em tùy tuổi bằng 1/2 - 1/3 liều người lớn. Uống sau khi ăn 5 - 10 phút. Đối với các trường hợp ung thư, mỗi ngày có thể dùng liều 10g, liên tục trong 12 tháng hoặc lâu hơn.
Các loài dùng thay thế: Ngoài cây tam thất trồng, hai loài tam thất mọc hoang đã được phát hiện, làm cho vị thuốc trở nên phong phú và đa dạng, giúp cho việc sử dụng tam thất được thuận lợi hơn. Đó là cây tam thất lá xẻ (Panax bipinna tifidus Seem.) và cây tam thất rừng (Panax stipuleanatus H.T.Tsai et K.M.Feng). Cả hai loài đều đã được nghiên cứu sâu về hóa học và dược lý với kết quả tác dụng như tam thất trồng và có thể dùng để thay thế. Tam thất lá xẻ còn được ngâm rượu, rồi chiết dưới dạng tinh sâm dùng rất tốt, đặc biệt có tác dụng kích thích sinh dục.
Phân biệt thật giả: Trên thực tế, tam thất đã bị giả mạo bởi tam thất gừng (Stahlianthus thorellii Gagnep.), thổ tam thất (Gynura pinnatifida DC.) do trùng tên gọi hoặc hồi đầu thảo (Tacca plantaginea (Hanee) Drenth) do cùng tính dược. Những dược liệu này cũng dưới dạng củ đều được bôi đen bằng mực tàu hoặc bút chì đen, rồi xoa bột hoạt thạch (talc) cho bóng giống màu của tam thất thật.
Củ tam thất gừng.
Dựa vào những sai khác sau đây về mặt hình thái thực vật, ta có thể phân biệt dễ dàng và tránh nhầm lẫn để có dược liệu tam thất đúng:
Củ tam thất hình thoi hoặc hình con quay (đa số), dài 2-4cm, đường kính 1-2cm. Đầu củ sần sùi do những vết tích của thân cây rụng hằng năm tạo thành. Mặt ngoài màu đen, có nhiều nếp nhăn dọc. Thịt màu xám đen. Vị ngọt, hơi đắng, mùi thơm nhẹ, tính ấm.
Củ tam thất gừng hình tròn thuôn một đầu hoặc hình trứng (giống quả trứng chim), dài 1,2-1,5cm, nhẵn. Mặt ngoài màu trắng vàng, có nhiều vòng song song ngang củ. Thịt màu trắng ngà. Vị cay, nóng, mùi thơm như gừng.
Củ thổ tam thất (gọi bạch truật nam) hình tròn hoặc gần tròn, dài 4-5cm, đường kính 3,5-4cm, sần sùi không đều. Mặt ngoài màu nâu vàng. Thịt màu vàng ngà. Vị nhạt, chát, hơi ngứa, không mùi.
Củ hồi đầu thảo hình tròn méo mó không đều, dài 1,5-2cm. Đầu củ sần sùi do những vết tích của lá cây rụng. Mặt ngoài màu trắng bẩn. Thịt màu trắng đục. Vị đắng, hàn, không mùi.
Lưu ý trong một số trường hợp, củ tam thất rỗng ruột còn bị kẻ xấu nhồi chì cho nặng thêm để trục lợi gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng.
TTƯT.DSCKII. Đỗ Huy Bích
Comment