Tin thời sự lúc 6 giờ sáng ngày 15 tháng 1, 2015: Nước máy của thành phố Longueuil nơi tác giả đang cư ngụ (phía nam Montreal) có mùi lạ. Giới trách nhiệm cho biết nước đã bị nhiễm dầu diesel. Chất hydrocarbure (trong dầu diesel). Không nên uống nước robinet, kể cả đã được đun sôi, không nấu ăn, không rửa rau cải, không được xúc miệng bằng nước máy… tắm douche thì không sao.
Chỉ nên dùng nước đóng chai mà thôi.
Thật là rắc rối và hoang mang dư luận!
Có nguy hiểm không?
Những người “nhạy cảm” (sensible) thì có thể bị nôn mửa, chóng mặt chút đỉnh hay bị nhức đầu…
Siêu thị, chợ búa tại Longueuil không còn một chai nước! Tha hồ hốt bạc cắc.
Chánh phủ thành phố la hoảng lên để tránh trách nhiệm chăng?
* * *
Từ vài chục năm nay, kỹ nghệ nước đóng chai đã không ngừng phát triển một cách rất mạnh mẽ trên khắp thế giới.
Chỉ riêng trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2010, sự tiêu thụ nước đóng chai trên thế giới đã tăng 7,6% mỗi năm, từ 130,95 tỉ lít lên 188,8 tỉ lít.
Năm 2012, Canada tiêu thụ 23 tỉ lít.
Hoa Kỳ tiêu thụ 33,4 tỉ lít.
Tại Canada, năm 1999 mỗi người dân tiêu thụ trung bình 24,4 lít/năm. Đến năm 2005 tăng lên 60 lít/năm, và có một thương vụ là 652,7 triệu dollars.
Qua kết quả thăm dò của Leger Marketing, có lối 30% dân Canada không còn tin tưởng và tín nhiệm vào việc dùng nước máy để uống nữa. Hiện tượng ô nhiễm môi sinh là lý do chính của quyết định nầy.
Theo International Bottled Water Association (IBWA) dân chúng ưa chuộng nước đóng chai vì nó không gắt mùi chlorine như nước máy. Ngoài ra nó cũng có vẻ tinh khiết và bổ dưỡng cho sức khỏe nữa (?).
Bên cạnh các loại nước đóng chai đa dạng, đủ kiểu, đủ cỡ, đồng thời chúng ta cũng thấy xuất hiện các ngành kỹ nghệ phụ thuộc, như máy lọc, máy làm lạnh nước, những dụng cụ khử trùng và khử chất bẩn trong nước uống.
Nước được đựng trong các chai rất đẹp mắt, tiện lợi, dễ mang theo và cũng rất dễ tìm. Bởi những lý do nầy, nên nhiều người đã chọn nước đóng chai hoặc nước lọc để uống, tuy vậy cũng có một số người thì lại nghĩ rằng uống nước đóng chai hay uống nước máy thì cũng vậy thôi, không có gì khác biệt với nhau hết..
Ngoài ra, cũng có người còn nói là chất plastic của chai nước rất độc hại cho sức khỏe và việc sản xuất quá quy mô của kỹ nghệ nước đóng chai có thể làm tổn hại đến môi trường thiên nhiên…
Thế nào gọi là nước đóng chai?
Đây là nước uống đã được vô chai sẵn, đóng nút kỹ lưỡng và có nhãn hiệu đàng hoàng. Tại Canada, danh xưng của các nước đóng chai được luật quy định rõ rệt, và gồm có nhiều loại:
• Nước suối thiên nhiên (natural spring water), được rút từ các suối ngầm chảy trong lòng đất. Nước phải trong lành và chứa một nồng độ chất khoáng không được hơn 500ppm/lít.
• Nước khoáng thiên nhiên (natural mineral water), cũng được hứng từ những mạch ngầm dưới đất, và có một nồng độ chất khoáng rất cao. Canada ấn định nồng độ nầy phải từ 500ppm/lít trở lên (còn ở Hoa Kỳ thì trên 250ppm/lít). Thông thường nồng độ khoáng chất hòa tan trong loại nước nầy ở vào khoảng 700-800ppm, tuy nhiên cũng có loại có thể chứa trên 3000ppm chất khoáng.
Đối với hai loại nước suối và nước khoáng vừa kể, nhà sản xuất không có quyền làm thay đổi thành phần chất khoáng tiên khởi có sẵn trong nước ngầm, ngoại trừ họ có thể cho thêm khí CO2 (carbon dioxide), hoặc thêm chất fluoride. Ngoài ra họ cũng có thể sử dụng phương pháp khử trùng bằng ozone.
• Nước đã được xử lý (treated water). Đây không phải là những loại nước lấy từ nguồn nước ngầm, nhưng là nước của thành phố, tức được hứng từ vòi robinet.
Thông thường là nước sông hoặc nước ao hồ được lắng lọc, làm cho trong, và khử trùng bằng nhiều phương pháp khác nhau, như dùng tia cực tím (ultra violet), ozone, thẩm thấu ngược (reverse osmosis) hoặc sử dụng cách lọc đặc biệt gọi là absolute micronfiltration.
Nước xử lý có thể là nước cất (distilled water), nước vô khoáng (demineralized water), và nước có gaz (carbonated water)…
* Nước cất có được qua phương pháp làm bốc hơi và sau đó làm cô đọng lại thành nước. Nước cất không có chứa chất khoáng hoặc chỉ chứa một nồng độ chất khoáng thật thấp dưới 10ppm/lít…
* Nước vô khoáng là nước đã được rút bớt chất khoáng ra bằng một phương pháp nào đó ngoại trừ cách cất nước. Nồng độ chất khoáng của nó rất ư là thấp và phải dưới 10ppm/lít. Nước vô khoáng có thể được dùng để uống, để chế vô các dụng cụ điện như bàn ủi, bình batterie, để gội đầu cho các trẻ sơ sinh, tráng phim hoặc để dùng trong các phòng thí nghiệm.Tại Canada, loại nước vô khoáng thường thấy bán trong các pharmacies…
* Nước có gaz để tạo bọt nhỏ li ti (sparkling) gây the the đầu lưỡi và coi rất đẹp mắt.
Comment