Ðầy hơi và tức ngực
Bác Sĩ Ðặng Trần Hào
(714) 531-8229 hoặc email: danghao@sbcglobal. net.
Ăn vào đầy hơi, tức ngực, tức giang sườn, ăn không thấy ngon và ăn không được nhiều thường liên quan tới thận, tỳ, vị (dạ dầy) và gan.
Ðầy hơi do tỳ khí suy
Thận chủ về thủy: Nước uống vào dạ dầy, dạ dày và lá lách khi chưng bốc mà đưa lên phế, phế khí túc giáng, thì thủy dịch chẩy xuống mà dồn về thận. Quá trình của nước từ ngoài vào cơ thể, rồi sau đi lên, đi xuống trong cơ thể là như vậy. Tuần hoàn giữa dạ dầy, lá lách, phế và thận để duy trì sự thay đổi cũ mới của nước trong cơ thể, nên thận dương suy, sự thay đổi mới của nước bị trở ngại sẽ thành bệnh thủy thũng.
Theo Hải Thượng Lãn Ông: Khí dương không thăng lên được thành chứng quan cách. Khí âm không giáng xuống được thành chứng nghẹn.
Dương vốn thăng lên, nay vì dương suy không đủ để thăng lên và bị âm khí (giả hàn) ngăn cách mà gây ra chứng quan cách (bụng trên, bụng dưới bị ngăn cách). Những chứng buồn bực, ợ chua và chứng ợ hơi (ái khí) mà nghẹn cách, hay ăn rồi không chịu được lâu lại lợm giọng có khi nôn ra (phiền vị) đều là hiện tượng của chứng quan cách.
Dĩ nhiên là do dạ dầy đi nghịch khí mà gây ra, nhưng nguyên nhân chính là do thận dương suy, làm bao tử hàn, khí không giáng xuống được mà thành bệnh đầy hơi, biếng ăn, ợ chua, buồn mửa là như vậy.
Muốn chữa trị bệnh quan cách này chúng ta phải dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang, đem thăng để giáng mới là thấu triệt lẽ âm dương. Chứ không phải bài Bổ Trung Ích Khí chỉ có nghĩa thăng dương không mà thôi.
Bổ Trung Ích Khí Thang
- Hoàng Kỳ 12 grs
- Bạch truật 12 grs
- Thắng ma 3 grs
- Sâm hoa kỳ 12 grs
- Thanh bì 6 grs
- Sài hồ 6 grs
- Ðương qui 9 grs
- Can khương 6 grs
- Cam thảo 4 grs
- Ðại táo 3 trái
Sâm hoa kỳ và hoàng kỳ: Bổ phế khí và liễm mồ hôi vì khí suy.
Sâm hoa kỳ và cam thảo: Bổ tỳ và vị gia tăng tiêu hóa.
Bạch truật và thanh bì: Kích thích và gia tăng tiêu hóa và tản khí không còn cảm thấy ngăn cách ở ngực.
Ðương qui: bổ máu, phối hợp với hoàng kỳ nuôi bì da.
Sái hồ và thăng ma: làm thăng khí và liễm mồ hôi.
Sâm hoa kỳ và đại táo kết hợp các vị thuốc và đưa tới các tạng phủ.
Ngoài chữa bệnh quan cách còn giúp chữa những bệnh chứng sau: Tăng cường thể chất yếu đuối, tứ chi hay bị lạnh và hay bị cảm, ăn ít và không tiêu hóa được, hay bị chứng đau bụng và đầy hơi, bất lực, Xệ ruột, trĩ lòi trê, tử cung bị xệ, ỉa chẩy, bại một bên người.
Ðầy hơi liên quan tới gan
Gan chủ về sơ tiết, điều hòa dương khí của toàn thân. Gan khí uất ức, không sơ tiết được thành bệnh gan khí uất kết như chứng tức ngực, nghẹt thở rất khó chịu, tưởng bị tim hành phải đi cấp cứu bệnh viện, đau một hay cả hai bên giang sườn. Gan tàng (chứa) huyết. Nên đêm người thiếu máu không tàng đủ về gan cũng sinh ra mất ngủ, khác với tâm chủ về huyết. Gan tàng huyết là chỉ việc điều tiết lượng huyết. Khi vận động lượng huyết phải gia tăng, khi nghỉ lưu lượng thông của huyết giảm bớt. Công năng điều tiết lượng huyết như vậy là nhờ vào gan.
Ngoài ra gan còn là một trong những tạng có nhiệm vụ thanh lọc rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe của con người. Nhiệm vụ chính của gan là tẩy độc. Gan sẽ trung hòa tất cả những độc tố trong máu và di chuyển chúng xuống thận. Thận, ruột non và ruột già thanh lọc một lần nữa. Thanh đi ngược lên phế trở lại, còn trọc thì tống ra ngoài theo đường tiểu tiện và đại tiện. Gan còn chế biến tất cả những đồ ăn chúng ta ăn vào và chuyển hóa thành những dưỡng chất cần yếu để cơ thể sẵn sàng hấp thụ.
Bao tử và tỳ là một cặp âm dương hỗ trợ nhau trong tiêu hóa. Bất cứ một sự mất quân bình nào của bao tử và tỳ gây ra bởi bất cứ lý do gì, cũng làm cho tiêu hóa bị trở ngại. Mà gan mộc khắc với tỳ thổ. Một khi gan mất quân bình, sẽ ảnh hưởng qua tỳ, mà Ðông y gọi là:
Ðầy hơi do gan khí phạm tỳ
Lý do vì lo âu quá độ, giận dữ, buồn phiền từ ngày nọ qua ngày kia, hay ăn uống quá nhiều chất béo, gan không hóa giải được, mà gây ra gan mất quân bình, phạm qua tỳ. Trong trường hợp này, thường chúng ta ăn vào là phải đi đại tiện ngay, hay sau khi chúng ta uống cà phê, rượu...
Có người thì đi đại tiện bình thường, có người đi bị lỏng vì tỳ khí và thận khí của người đó bị suy.
Sài Hồ Xơ Gan
- Bạch thược 12 grs
- Hoàng cầm 9 grs
- Hoàng liên 3 grs
- Ðại hoàng 6 grs
- Ðương qui 9 grs
- Quế bì 6 grs
- Mộc hương 6 grs
- Binh lăng 6 grs
- Cam thảo 3 grs
Bạch thược: Vị chính trong thang thuốc, làm giảm tức và đau ở thượng vị.
Quế bì: Ðiều hòa khí tại trung tiêu.
Ðương qui: Bổ máu và phối hợp với bạch thược để trị đại tiện lỏng và bụng bị đau.
Hoàng liên và hoàng cầm: Tiêu tích và đưa xuống ruột.
Binh lăng: Giáng khí.
Mộc hương: trị đau bụng và bao tử.
Cam thảo: Phối hợp các vị thuốc.
Ðầy hơi do gan khí phạm vị (bao tử)
Cũng có những triệu chứng như gan khí phạm tỳ, cộng thêm đầy hơi, tức ngực, khó thở, cảm thấy như có gì vướng ở cổ họng, nuốt không vô, mà khạc cũng không ra, làm chúng ta khó chịu.
Cũng dùng bài thuốc trên.
Gia:
Chỉ xác, hương phụ: Tản khí vùng trung tiêu, giảm khí uất kết.
Sa nhân, bạch truật: bổ tỳ và hóa thấp.
Lưu ý: Một khi can khí uất kết lâu ngày, phạm qua vị (bao tử) làm khí của vị đi nghịch khí lên trên, gây ra:
Mai hạc khí:
Chúng ta cảm thấy như có vật gì vướng trong cổ họng, dù đi soi cũng không thấy gì. Thỉnh thoảng bắt chúng ta phải ho, không đờm hay đôi khi có chút đờm gây khó chịu mà đông y gọi là mai hạc khí. Ðó là một loại khí nên khi soi chiếu không thấy gì cả.
Hơi thở hôi:
Hơi thở hôi, nhất là khi chúng ta ăn thịt nhiều và sự tiêu hóa chưa được hoàn tất. Ðây là một trường hợp làm trở ngại trong sự giao thiệp hàng ngày và nhất là những người thường phải đi giao tiếp với khách hàng trên thương trường, làm mất đi sự tự nhiên mà chính ra có thể hóa giải được một cách dễ dàng bằng cách dùng thuốc, để bình gan khí, tản khí và đưa vị (bao tử) khí giáng xuống là xong.
Nguồn : báo nguoiviet