Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Cao huyết áp (phần 1)

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Cao huyết áp (phần 1)

    Giới thiệu về cao huyết áp

    Sự tăng huyết áp tâm thu hay huyết áp tâm trương làm tăng nguy cơ bệnh tim, bệnh thận, làm nặng thêm bệnh lý mạch máu, tổn thương mắt, đột quị (tổn thương não).

    Những biến chứng của cao huyết áp thường tác động đến cơ quan đích vì tổn thương những cơ quan này là kết quả cuối cùng của tình trạng áp lực máu cao kéo dài.

    Do đó, chẩn đoán huyết áp cao ở một cá nhân rất quan trọng để cố gắng giữ huyết áp mức bình thường, và bằng cách đó, ngăn ngừa các biến chứng.

    Huyết áp được đo như thế nào?

    Áp lực máu được đo bằng dụng cụ nhỏ, gọn gọi là huyết áp kế. Huyết áp kế cơ bản bao gồm 1 bơm khí, 1 đồng hồ đo áp lực, và 1 túi hơi. Dụng cụ này ghi nhận huyết áp bằng đơn vị gọi là mmHg (milimet thuỷ ngân)

    Túi hơi được bao lấy cánh tay và bơm phồng lên đến 1 áp lực có thể cản trở dòng máu ở động mạch chính (ÐM cánh tay) đi qua cánh tay. Sau đó, xả áp lực trong túi hơi và trên ÐM giảm dần. Khi áp lực giảm dần, nhân viên y tế sẽ nghe bằng ống nghe ngay trên ÐM ở khuỷu tay. Áp lực mà nhân viên y tế nghe mạch lần đầu là huyết áp tâm thu. Khi áp lực túi hơi giảm hơn nữa,áp lực tại đó mạch ngưng là huyết áp tâm trương.

    Huyết áp bình thường

    Mặc dù các công ty bảo hiểm, hoàn toàn có lý khi xem huyết áp cao >= 140/90mmHg nhưng mức độ này không thích hợp với tất cả cá nhân. Thực ra, nhiều chuyên gia về cao huyết áp thấy rằng áp lực máu là 1 con số thay đổi, từ ngưỡng thấp đến cao. Là biến số hàm ý không có 1 giới hạn chính xác, rõ ràng để phân chia huyết áp bình thường và huyết áp cao.

    Ở vài người, trị số huyết áp thấp hơn 140/90 có thể vẫn phù hợp với ngưỡng bình thường. Ví dụ, trong vài trường hợp như bệnh nhân bệnh thận mãn tính bị mất protein qua nước tiểu (tiểu đạm ), huyết áp lý tưởng giữ ở trị số 125/75 hay thấp hơn. Mục đích của việc hạ huyết áp ở những bệnh nhân này là làm chậm tiến triển suy thận. Bệnh nhân tiểu đường cũng vậy, huyết áp nên giữ ở mức <=140/90.

    Ngoài ra, người da đen là những người có nguy cơ biến chứng cao huyết áp, có thể giảm nguy cơ này bằng cách hạ huyết áp tâm trương <=80mmHg.

    Cao huyết áp tâm thu là gì?

    Nên nhớ là huyết áp tâm thu là trị số áp huyết cao nhất và đại diện cho áp lực tại động mạch khi tim co bóp và bơm máu vào tuần hoàn. Huyết áp tâm thu thường >140mmHg xem như cao, đặc biệt kết hợp huyết áp tâm trương cao (> 90mmHg).

    Tuy nhiên, cao huyết áp tâm thu đơn thuần được định nghĩa khi áp lực tâm thu >160mmHg với áp lực tâm trương vẫn < 90mmHg. Rối loạn này trước hết tác động ở những người già, và đặc trưng bởi áp lực mạch tăng. Áp lực mạch được định nghĩa là độ chênh lệch giữa huyết áp tâm thu và tâm trương. Sự tăng áp suất tâm thu mà không tăng áp suất tâm trương, như trong cao huyết áp tâm thu đơn thuần thì sẽ làm tăng áp lực mạch.

    Ngày xưa xem như vô hại nhưng bây giờ tăng áp lực mạch là một vấn đề sức khoẻ tương lai. Nói cách khác, áp lực mạch cao xem như dấu hiệu báo trước quan trọng chỉ ra tổn thương ở cơ quan đích một cách tiềm ẩn. Vì vậy, cao huyết áp tâm thu đơn thuần làm tăng nguy cơ 2-4 lần lớn tim, nhồi máu cơ tim, đột quị (tổn thương não) và chết vì bệnh tim hay đột quị. Những nghiên cứu lâm sàng ở bệnh nhân bị cao huyết áp tâm thu đơn thuần cho thấy giảm huyết áp tâm thu ít nhất 20mmHg xuống <160mmHg sẽ giảm được những nguy cơ trên.

    Cao huyết áp áo choàng trắng là gì?

    Trị số áp huyết cao đơn độc ở phòng khám có thể là giả vì sự tăng này chỉ mang tính tạm thời. Có lẽ, hiện tượng này do sự lo lắng của bệnh nhân có liên quan đến stress khi thăm khám. Thật vậy, đề nghị được thực hiện thấy 1 trong 4 người có huyết áp cao nhẹ có thể có huyết áp bình thường ngoài phòng khám.

    Loại cao huyết áp chỉ được ghi nhận tăng tại phòng khám được gọi là cao huyết áp áo choàng trắng. Dĩ nhiên, tên gọi áo choàng trắng tượng trưng cho thầy thuốc, gây lo lắng cho người bệnh, và ngẫu nhiên tăng áp huyết. Một chẩn đoán cao huyết áp áo choàng trắng có thể ngầm hiểu là không quan trọng và nguy hiểm.

    Tuy nhiên, cần thận trọng trong lời giải thích ngây ngô của cao huyết áp áo choàng trắng. Huyết áp tăng do stress hay lo lắng do khám BS không phải luôn luôn là vô hại. Những stress khác trong cuộc sống người bệnh cũng có thể gây tăng huyết áp mà không được ghi đo.

    Vì vậy, monitor đo áp huyết tại nhà hay ở nhà thuốc có thể giúp đánh giá tần suất và độ ổn định của trị số huyết áp cao. Ngoài ra, những test thích hợp để tìm biến chứng của cao huyết áp có thể giúp đánh giá ý nghĩa của những trị số huyết áp khác nhau.

    Cao huyết áp giới hạn là gì?

    C.H.A giới hạn được định nghĩa là tình trạng đôi khi cao huyết áp nhẹ >140/90mmHg, đôi lúc lại thấp hơn. Ở người lớn tuổi, huyết áp tâm thu cao hơn một chút, khoảng 140 đến 160mmHg, xem như là huyết áp giới hạn, miễn là huyết áp tâm trương < 90mmHg. Như trong trường hợp cao huyết áp áo choàng trắng, bệnh nhân với huyết áp giới hạn cần lấy huyết áp trong nhiều điều kiện khác nhau và tổn thương cơ quan đích của họ được đánh giá để biết khi nào tình trạng cao huyết áp của họ có ý nghĩa.

    Hãy nhớ là những người cao huyết áp giới hạn có xu hướng, khi họ già thì huyết áp họ ngày càng cao và duy trì liên tục. Do đó họ thật sự có nguy cơ cao bệnh tim mạch. Bởi vậy ngay lúc ban đầu khi cao huyết áp chưa có ý nghĩa thì ở những người cao huyết áp giới hạn can được tiếp tục theo dõi và tầm soát những biến chứng của cao huyết áp.

    Nếu suốt thời gian theo dõi bệnh nhân cao huyết áp giới hạn, huyết áp của họ ở mức ổn định cao >140/90mmHg, thì chỉ định thuốc hạ áp thường bắt đầu. Tuy nhiên, nếu huyết áp tâm trương còn ở giới hạn (thường < 90mmHg và ổn định >85) thì điều trị có thể thực hiện ở vài tình huống (Xem điều trị cao huyết áp).

    Nguyên nhân cao huyết áp ?

    Hai dạng áp lực máu cao được mô tả: cao huyết áp nguyên phát và thứ phát. Cao huyết áp nguyên phát phổ biến hơn chiếm 95% dân số bị huyết áp cao. Nguyên nhân cao huyết áp nguyên phát chưa rõ. Trong cao huyết áp thứ phát, chiếm 5% trường hợp, huyết áp cao do bất thường đặc hiệu ở một trong những cơ quan, hệ thống cơ thể (Cao huyết áp thứ phát được bàn luận rõ hơn trong những phần dưới đây).

    Cao huyết áp nguyên phát xuất hiện ở khoảng 75 triệu người Mỹ, xin lưu ý nguyên nhân cơ bản vẫn chưa biết. Tuy nhiên nhiều hiệp hội vẫn chấp nhận người cao huyết áp nguyên phát. Ví dụ như trong nhóm hay tập hợp những người có mức tiêu thụ muối cao, vượt quá 5.8 gram/ngày.

    Thật ra, việc dùng muối có thể là một yếu tố quan trọng liên quan đến cao huyết áp nguyên phát trong một số tình huống khác nhau. Vì vậy, dùng muối quá mức có lẽ liên quan đến cao huyết áp, kết hợp với tuổi cao, da màu, béo phì, di truyền và suy thận.

    Yếu tố di truyền được cho là đóng vai trò nổi bật trong sự tiến triển cao huyết áp vô căn. Tuy nhiên, gen qui định cao huyết áp vẫn chưa được nhận dạng (Gen là phần nhỏ của nhiễm sắc thể sản xuất ra protein qui định đặc điểm cá thể). Những nghiên cứu gần đây về gen tập trung vào yếu tố di truyền ảnh hưởng đến hệ Renin-Angiotensin-Aldosterone. Hệ này giúp điều hòa áp lực máu bằng cách điều chỉnh cân bằng muối và độ co giãn mạch máu.

    Khoảng 30% trường hợp cao huyết áp nguyên phát được quy cho yếu tố di truyền. Ví dụ, ở Mỹ, tỉ lệ mới mắc bệnh cao hơn ở người da đen so với người da trắng và Châu Á. Ở những người có ba hoặc mẹ bi cao huyết áp, nguy cơ cao huyết áp gấp 2 lần so với người bình thường. Hiếm hơn, vài rối loạn gen bất thường tác động đến hormone của tuyến thượng thân gây ra cao huyết áp. Cao huyết áp do rối loạn di truyền này, ngày nay xem như cao huyết áp thứ phát.

    Như đã lưu ý ở trên, nguyên nhân cơ bản của cao huyết áp nguyên phát chưa rõ. Tuy nhiên, người ta tìm thấy đa số người cao huyết áp nguyên phát thường có bất thường đặc hiệu tại động mạch. Nghĩa là họ có kháng lực mạch tăng (độ cứng hay độ đàn hồi kém) ở mạch máu nhỏ xa tim (động mạch ngoại biên). Những mạch máu ngoại biên này chưa Oxy và chất dinh dưỡng cung cấp cho tất cả các mô cơ thể. Các tiểu động mạch nối với hệ thống tĩnh mạch, mang máu trở về tim và phổi, bởi mao mạch ở mô.

    Nguyên nhân làm cho mạch máu ngoại biên cứng lên chưa rõ. Nhưng, kháng lực ngoại biên tăng cao cũng được nhận thấy ở những người cao huyết áp nguyên phát liên quan đến yếu tố di truyền, béo phì, ít tập thể dục, dùng nhiều muối và người già.

    Làm thế nào mà rượu, thuốc lá và café có thể ảnh hưởng đến huyết áp?

    Những người uống rượu quá nhiều (trên 2 lần /ngày ) có tần suất cao huyết áp tăng 1.5-2 lần. Mối liên quan giữa rượu và huyết áp cao đặc biệt chú ý khi dùng rượu >5lần/ngày. Ngoài ra, còn kết hợp hiện tượng tăng liều. Nói cách khác, càng tiêu thụ nhiều rượu, càng liên quan chặt chẽ với cao huyết áp hơn.

    Mặc dù hút thuốc làm tăng nguy cơ biến chứng mạch máu (ví dụ bệnh tim và đột quị) ở người đã bị huyết áp cao, mà nó còn làm huyết áp cao hơn nữa. Do đó, hút thuốc nhiều lần có thể tăng huyết áp tạm thời ngay lập tức 5-10mmHg. Tuy nhiên, những người hút thuốc đều đặn lại có huyết áp thấp hơn người không hút thuốc. Nguyên nhân là do nicotine trong thuốc lá làm giảm ngon miệng dẫn đến giảm cân và làm huyết áp thấp hơn.

    Trong 1 nghiên cứu, dùng chất caffeine 5 cốc/ngày có thể làm tăng nhẹ huyết áp ở người lớn tuổi đã bị huyết áp cao nhưng lại không tăng ở người có huyết áp bình thường. Hơn nữa, kết hợp giữa hút thuốc và uống cafe ở người có huyết áp cao có thể làm tăng huyết áp hơn là chỉ uống café đơn thuần. Vì vậy, hạn chế dùng café và thuốc lá ở người bị cao huyết áp sẽ có lợi trong việc điều chỉnh huyết áp cao của họ.

    Nguyên nhân của cao huyết áp thứ phát?

    Như đã lưu ý trước, 5% người huyết áp cao được cho là thứ phát. Nghĩa là huyết áp của những người này cao thứ phát sau một rối loạn cụ thể tại một cơ quan hay mạch máu, ví dụ thận, tuyến thượng thận, hay động mạch chủ.

    Cao huyết áp do thận

    Bệnh lý tại thận có thể gây cao huyết áp thứ phát. Loại cao huyết áp thứ phát này được gọi là cao huyết áp thận vì nó do tổn thương tại thận gây ra. Một nguyên nhân quan trọng của cao huyết áp thận là hẹp động mạch thận. Ở người trẻ, thường là phụ nữ, hẹp thường dày mạch máu nuôi thận (tăng sản sợi). Ở người già, hẹp thường do xơ vữa mạch máu làm tiểu cầu tụ lại gây tắc mạch.

    Làm thế nào mà hẹp động mạch thận gây cao huyết áp ? Ðầu tiên, động mạch thận bị hẹp làm giảm tuần hoàn máu đến thận. Hiện tượng thiếu máu này kích thích thận sản xuất hormone, renin và angiotensin. Những hormone này cùng với aldosterone từ tuyến thượng thận gây co thắt và tăng kháng lực mạch ngoại biên khắp cơ thể, và như đã nói, làm tăng huyết áp.

    Cao huyết áp thận thường được nghi ngờ đầu tiên khi huyết áp cao xuât hiện ở người trẻ hay huyết áp cao mới xuất hiện ở người lớn tuổi hơn. Tầm soát hẹp động mạch thận bao gồm chụp cản quang, siêu âm và MRI (chụp cộng hưởng từ) động mạch thận. Mục đích của những test này là xem có giảm lưu lượng máu đến thận không. Nếu test này bất thường hay bác sĩ nghĩ nhiều đến hẹp động mạch thận thì chụp động mạch thận can thực hiện. Chụp động mạch thận là xét nghiệm cuối cùng thật sự quan sát được động mạch thận hẹp.

    Hẹp động mạch thận có thể điều trị bằng cách tái tạo mạch bằng bóng. Trong thủ thuật này, người thực hiện, nhờ siêu âm, luồng 1 ống (catheter) nhỏ dài vào động mạch thận. Tại đó, động mạch thận sẽ được nong rộng ra bằng cách bơm phồng bong bóng ngay chỗ hẹp.Thủ thuật này cải thiện được lưu lượng máu và hạ huyết áp.Ngoài ra nó còn bảo tồn chức năng thận bị suy yếu do thiếu máu. Hiếm khi phẫu thuật can thiết để mở rộng chỗ hẹp động mạch thận.

    Bất cứ loại suy thận mãn nào cũng có thể gây cao huyết áp với cách tương tự trong hẹp động mạch thận. Ðiều quan trọng cần nhớ là không phải chỉ bệnh thận gây cao huyết áp mà cao huyết áp cũng có thể gây bệnh thận. Vì vậy, tất cả bệnh nhân huyết áp cao can được đánh giá bệnh thận để có thể điều trị đúng đắn.

    U tuyến thượng thận

    Hai loại u tuyến thượng thận hiếm gặp thường ít gây cao huyết áp (Tuyến thượng thận nằm ngay trên quả thận). Cả 2 dạng u trên đều sản xuất ra quá nhiều hormone gây huyết áp cao. Các u này có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu, nước tiểu và chẩn đoán hình ảnh tuyến thượng thận. Ngoài ra, phẫu thuật thường đòi hỏi để cắt bỏ khối u hay tuyến thượng thận, và thường làm giảm được huyết áp.

    Một trong những loại u thượng thận trên được gọi là cường Aldosterone nguyên phát vì khối u sản xuất ra lượng lớn hormone aldosterone. Ngoài cao huyết áp, bệnh này bị mất Kali qua nước tiểu, hậu quả là giảm Kali máu. Vì vậy, cường Aldosterone được nghĩ đến đầu tiên ở người có cao huyết áp kèm Kali máu thấp (Cũng vậy, như đã lưu ý ở trên, vài trường hiếm rối loạn di truyền ảnh hưởng hormone của thận gây cao huyết áp thứ phát).

    Một type khác của u thượng thận gây cao huyết áp thứ phát là pheochromocytoma. Khối u này sản xuất quá mức Catecholamines. Chẩn đoán pheochromocytoma được nghĩ đến ở những người có những lúc cao huyết áp đột ngột và hồi quy, tình trạng này liên quan da đỏ ửng, nhịp tim nhanh, và nhiều mồ hôi cộng với triệu chứng của huyết áp cao.

    Hẹp động mạch chủ

    Hẹp động mạch chủ là một rối loạn di truyền hiếm gặp và là một trong những nguyên nhân thường gặp của cao huyết áp trẻ em. Bệnh này có đặc điểm là hẹp 1 đoạn động mạch chủ, động mạch chính lớn xuất phát từ tim. Ðộng mạch chủ mang máu đến các động mạch nhỏ hơn nuôi dưỡng các cơ quan bao gồm cả thận.

    Ðoạn động mạch chủ hẹp thường bị ở chỗ trên động mạch thận, và làm giảm lượng máu nuôi đến thận. Tình trạng thiếu máu này sẽ kích hoạt hệ Renin -Angiotensin-Aldosterone làm tăng huyết áp. Ðiều trị thường là phẫu thuật sửa chữa đoạn hẹp. Ðôi khi thủ thuật tái tạo bằng bóng (như đã mô tả trong phần hẹp động mạch thận) cũng được dùng để mở rộng chỗ hẹp.

    (Theo BSGĐ)

  • #2
    Cao huyết áp (Phần 2)

    Bệnh nhân cảm thấy như thế nào khi bị huyết áp cao ?

    Huyết áp cao đơn giản thường không triệu chứng. Vì vậy cao huyết áp được mệnh danh là "kẻ giết người thầm lặng ". Nói cách khác, bệnh này có thể diễn tiến thầm lặng, không triệu chứng cho đến khi xuất hiện biến chứng chết người. Thật vậy, huyết áp cao không phức tạp có thể tồn tại lặng lẽ nhiều năm thậm chí hàng chục năm. Ðiều này xảy ra khi không có triệu chứng và chỉ được phát hiện qua tầm soát huyết áp định kỳ.

    Tuy nhiên, vài người bi cao huyết áp không phức tạp có những triệu chứng kinh nghiệm như: nhức đầu, chóng mặt, thở ngắn và nhìn mờ đi, ruồi bay trước mắt. Sự hiện diện các triệu chứng này có thể chỉ điểm để người ta đi khám bác sĩ nhằm điều trị và dễ dàng trong việc sử dụng thuốc.

    Tuy nhiên, không phải là không thường xuyên, có người đến bác sĩ đầu tiên vì đã có tổn thương ở cơ quan. Trong nhiều trường hợp, người ta đến khám, được đưa đến bác sĩ hay phòng cấp cứu với suy tim, đột quỵ, suy thận hay giảm thị lực (do tổn thương phần sau của võng mạc). Nhận thức cộng đồng cao hay tầm soát huyết áp thường xuyên có thể phát hiện những bệnh nhân huyết áp cao không được chẩn đoán trước khi có biến chứng.

    Khoảng 1% dân số huyết áp cao được chẩn đoán là cao huyết áp nặng ngay lần đầu đến khám (cao huyết áp ác tính). Những bệnh nhân này, huyết áp tâm trương vượt quá 140mmHg. Người bệnh thường bị đau đầu nhiều, ói mửa, triệu chứng về thị giác, chóng mặt, đôi khi suy thận. Cao huyết áp ác tính là 1 cấp cứu y khoa và đòi hỏi điều trị khẩn cấp nhằm ngăn chặn đột quỵ (tổn thương não).

    Như đã lưu ý, cao huyết áp mãn tính có thể dẫn đến lớn tim, suy thận, tổn thương não hay thần kinh và thay đổi võng mạc. Kiểm tra mắt ở bệnh nhân cao huyết áp nặng có thể phát hiện ra hẹp hay xuất huyết ở động mạch nhỏ tại võng mạc, phù gai thị. Từ kiểm tra này, bác sĩ có thể phân độ nặng cao huyết áp dựa trên mức độ tổn thương võng mạc.

    Như đã ghi nhận từ trước , những người cao huyết áp tăng độ cứng, hay kháng lực mạch ngoại biên khắp các mô cơ thể. Kháng lực này tăng làm cho cơ tim làm việc nặng hơn để bơm máu qua mạch máu đó. Tình trạng tăng hoạt động này làm cho tim quá tải dẫn đến rối loạn, thường đầu tiên là lớn tim. Tim to có thể đánh giá bằng X-quang, điện tâm đồ hay chính xác nhất là siêu âm tim. Siêu âm tim đặc biệt có lợi trong việc xác định độ dày tim trái. Tim lớn có lẽ là dấu hiệu báo trước của suy tim, bệnh mạch vành hay rối loạn nhịp. Ðiều trị đúng đắn cao huyết áp và biến chứng của nó có thể khắc phục được những bất thường trên.

    Xét nghiệm máu và nước tiểu có lẽ hữu dụng trong việc dò tìm bất thường tại thận ở người cao huyết áp (Nên nhớ là tổn thương ở thận có thể là nguyên nhân và cả hậu quả của cao huyết áp). Ðịnh lượng Creatinine huyết thanh có thể khảo sát được chức năng thận. Nồng độ Creatinine cao bất thường cho thấy có tổn thương chức năng thận.

    Ngoài ra, sự xuất hiện proteine trong nước tiểu (tiểu đạm) có thể phản ánh tổn thương thận mãn tính do cao huyết áp, ngay khi chức năng thận (qua creatinine máu ) vẫn bình thường. Thật vậy, proteine trong nước tiểu báo hiệu nguy cơ suy giảm chức năng thận nếu huyết áp không được điều chỉnh. Ngay cả lượng nhỏ proteine (microalbuminuria) cũng là dấu hiệu đe doạ suy thận do huyết áp cao không kiểm soát. Những bệnh nhân da đen có huyết áp cao kiểm soát kém có nguy cơ tổn thương cơ quan đích và thận cao hơn người da trắng.

    Huyết áp cao không kiểm soát có thể dẫn đến tổn thương não hay thần kinh bởi cơn đột quỵ. Ðột quỵ thường do xuất huyết hay huyết khối ở mạch máu nuôi não. Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhân (tìm thấy qua khám lâm sàng ) đánh giá tổn thương thần kinh. Một cơn đột quỵ có thể gây ra suy yếu, ù tai, liệt tay hay chân hoặc khó phát ngôn hay thị giác. Nhiều cơn đột quỵ nhỏ có thể gây mất trí nhớ. Phòng ngừa tốt nhất cho biến chứng này hay bất kỳ biến chứng nào là kiểm soát tốt huyết áp.

    Cách sống như thế nào có lợi cho điều trị cao huyết áp?

    Thay đổi cách sống, ý nhắc đến thay đổi chế độ ăn và luyện tập. Thay đổi này làm hạ huyết áp cũng như cải thiện được đáp ứng của bệnh nhân đối với thuốc. Chế độ ăn kiêng bao gồm hạn chế muối và rượu và giảm cân nếu người bệnh bị béo phì. Hiệp hội tim mạch Mỹ khuyến cáo rằng tiêu thụ muối <6gram/ngày đối với dân số chung và thấp hơn (<4 gram) đối với những người cao huyết áp. Thực hiện chế độ ăn ít muối <4 gram tức là ta không nên thêm muối vào thức ăn hay lúc nấu nướng. Cũng vậy, lượng muối trong thức ăn cần được ước lượng theo nhãn mác của các thực phẩm mua sẵn.

    Béo phì thường gặp ở bệnh nhân cao huyết áp và tính phổ biến của nó tăng dần theo tuổi. Thật vậy, béo phì là yếu tố quyết định tăng tỉ lệ mới mắc cao huyết áp theo tuổi. Béo phì có thể góp phần làm tăng huyết áp theo nhiều cách. Một cách là béo phì làm tăng cung lượng tim vì tim phải bơm lượng máu nhiều hơn để cung cấp cho mô thừa. Cung lượng tim tăng này làm tăng huyết áp. Cách khác, những người cao huyết áp béo phì có kháng lực ngoại biên cao hơn ở khắp cơ thể.

    Cuối cùng, béo phì có thể kết hợp với việc thận giữ muối. Giảm cân có thể giúp phục hồi lại những vấn đề liên quan béo phì đồng thời cũng giảm áp. Người ta đánh giá là huyết áp có thể giảm 0.32mmHg cho mỗi kilogram (2.2pounds) cân nặng giảm đi.

    Vài người béo phì, đặc biệt là những người rất mập, có hội chứng ngưng thở lúc ngủ. Hội chứng này có đặc điểm ngưng tạm thời nhịp thở bình thường trong lúc ngủ. Ngưng thở lúc ngủ có thể góp phần phát triển huyết áp cao trong phân nhóm những người béo phì này. Ðiều này xảy ra vì các giai đoạn của ngưng thở lặp lại làm thiếu Oxy. Rồi tình trạng thiếu Oxy này kích thích thận phóng thích adrenalin và các thành phần liên quan. Cuối cùng, Adrenalin và các thành phần này làm tăng huyết áp.

    Một chương trình luyện tập thể lực đều đặn có thể làm hạ huyết áp trong tương lai xa. Ví dụ hoạt động như chạy bộ, chạy xe đạp hay bơi lội trong 30-45 phút có thể làm giảm huyết áp xuống 5-15mmHg. Ngoài ra có một mối liên hệ giữa lập luyện với mức độ huyết áp hạ thấp. Do đó, bạn càng tập luyện, bạn càng hạ thấp huyết áp. Ðáp ứng có lợi của huyết áp đối với tập luyện chỉ xảy ra với chương trình aerobic (sôi nổi và duy trì liên tục ). Vì thế bất cứ chương trình tập luyện nào phải được đề nghị và đồng ý bởi bác sĩ điều trị.

    Mục tiêu điều trị cao huyết áp là gì?

    Nên nhớ là cao huyết áp thường tồn tại nhiều năm trước khi xuất hiện biến chứng. Vì vậy có ý kiến là điều trị cao huyết áp sớm trước khi nó gây tổn thương các cơ quan chính của cơ thể. Do đó, chương trình tầm soát và nâng cao ý thức cộng đồng để phát hiện sớm cao huyết áp đơn giản là chìa khoá của điều trị thành công. Ðiểm chính là ngoài điều trị cao huyết áp thành công, bạn có thể giảm được nguy cơ đột quỵ, suy tim, và suy thận.

    Mục tiêu của người bệnh cao huyết áp tâm thu và tâm trương kết hợp là giữ huyết áp 140/85 mmHg. Giữ huyết áp thấp hơn, như đã lưu ý là mong muốn của bệnh nhân da đen và bệnh nhân tiểu đường hay suy thận mãn.

    Ðiều trị cao huyết áp bắt đầu như thế nào?


    Huyết áp hằng định cao hơn 140/85mmHg được điều trị bằng thay đổi cách sống và thuốc. Tuy nhiên, nếu huyết áp tâm trương giữ ở ngưỡng (thường <90mmHg nhưng >85mmHg) thì trong vài trường hợp, điều trị nên bắt đầu. Những trường hợp này là huyết áp tâm trương giới hạn kết hợp với tổn thương cơ quan đích, cao huyết áp tâm thu, hay những yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch như tuổi>65, da đen, hút thuốc, tăng lipid máu hay tiểu đường.

    Bất kỳ nhóm thuốc nào cũng có thể sử dụng khởi đầu, ngoại trừ ức chế alpha. Thuốc ức chế alpha chỉ được dùng kết hợp với thuốc hạ áp khác trong một chỉ định y khoa cụ thể (Xem phần tiếp theo để biết rõ các thuốc hạ áp ).

    Trong vài tình huống đặc biệt, vài loại thuốc hạ áp thích hợp hơn những loại thuốc đầu tay. Ví du, thuốc ức chế men chuyển (ACE ) và ức chế thụ thể (ARB) là thuốc được lựa chọn cho bệnh nhân có suy tim, suy thận mãn (có tiểu đường hay không tiểu đường) hay nhồi máu cơ tim, những bệnh làm giảm chức năng co bóp của cơ tim. Cũng vậy, ức chế bêta đôi khi thích hợp điều trị ở bệnh nhân cao huyết áp có kèm nhịp nhanh lúc nghỉ hay nhồi máu cơ tim cấp.

    Bệnh nhân cao huyết áp đôi khi tồn tại song song một bệnh thứ 2. Trong trường hợp này, loại thuốc hạ áp đặc biệt hay các loại thuốc kết hợp có thể được chọn lựa trong điều trị ban đầu. Mục đích điều trị trong những trường hợp này là điều trị cao huyết áp đồng thời cũng có lợi cho bệnh thứ 2. Ví dụ, ức chế bêta có thể chữa trị lo lắng mãn tính hay đau đầu Migrain cũng như cao huyết áp. Cũng vậy, ức chế ACE hay thuốc ARB có thể được dùng để điều trị một vài bệnh lý tại cơ tim hay bệnh lý tại thận cũng tốt như trị cao huyết áp.

    Trong vài tình huống khác, vài loại thuốc hạ áp khác không nên dùng. Ví dụ, thuốc non-dihydropyridine, một dạng của nhóm ức chế kênh Calcium không nên dùng ở bệnh nhân có suy tim hay rối loạn nhịp. Với ý định khác nữa, những loại thuốc này có thể hữu dụng trong điều trị vài rối loạn nhịp khác. Cũng vậy, vài loại thuốc như clonidine và minoxidil rất mạnh, thường được hạ 2-3 bậc khi điều trị. Nghĩa là chúng chỉ được dùng sau khi tất cả những thuốc đầu tay khác thất bại. Cuối cùng, xem thêm phần dưới dành cho thai kỳ về thuốc hạ áp thích hợp và không thích hợp cho phụ nữ có thai.

    Khi nào dùng điều trị kết hợp?

    Sử dụng phối hợp thuốc hạ áp không phải là không phổ biến. Ðôi khi sử dụng một lượng nhỏ của một hay nhiều chất kết hợp có thể là giảm tối thiểu tác dụng phụ trong khi lại làm tăng cường hiệu quả hạ áp. Ví dụ, thuốc lợi tiểu có thể dùng đơn độc nhưng thường sử dụng liều thấp kết hợp với các thuốc hạ áp khác. Trong trường hợp này, thuốc lợi tiểu có ít tác dụng ngoại ý nhưng lại tăng cường tác dụng hạ áp của thuốc khác. Thuốc lợi tiểu cũng được dùng kèm với thuốc hạ áp khác trong trường hợp bệnh nhân cao huyết áp có giữ nước và phù.

    Thuốc ức chế ACE hay ức chế thụ thể Angiotensin có lợi khi kết hợp với hầu hết các thuốc hạ áp khác. Một cách phối hợp khác là ức chế bêta với ức chế alpha ở bệnh nhân cao huyết áp có kèm phì đại tiền liệt tuyến để điều trị cùng lúc cả 2 bệnh. Tuy nhiên, cần thận trọng khi kết hợp cả 2 loại thuốc làm giảm nhịp tim. Ví dụ, ức chế bêta với ức chế kênh Calcium non-dihydropyridine (diltiazem và verapamil) phải hết sức cẩn thận. Bệnh nhân điều trị 2 nhóm thuốc này cần được theo dõi monitor để tránh nhịp tim giảm quá mức.

    Khi nào dùng điều trị kết hợp?

    Sử dụng phối hợp thuốc hạ áp không phải là không phổ biến. Ðôi khi sử dụng một lượng nhỏ của một hay nhiều chất kết hợp có thể là giảm tối thiểu tác dụng phụ trong khi lại làm tăng cường hiệu quả hạ áp. Ví dụ, thuốc lợi tiểu có thể dùng đơn độc nhưng thường sử dụng liều thấp kết hợp với các thuốc hạ áp khác. Trong trường hợp này, thuốc lợi tiểu có ít tác dụng ngoại ý nhưng lại tăng cường tác dụng hạ áp của thuốc khác. Thuốc lợi tiểu cũng được dùng kèm với thuốc hạ áp khác trong trường hợp bệnh nhân cao huyết áp có giữ nước và phù.

    Thuốc ức chế ACE hay ức chế thụ thể Angiotensin có lợi khi kết hợp với hầu hết các thuốc hạ áp khác. Một cách phối hợp khác là ức chế bêta với ức chế alpha ở bệnh nhân cao huyết áp có kèm phì đại tiền liệt tuyến để điều trị cùng lúc cả 2 bệnh. Tuy nhiên, cần thận trọng khi kết hợp cả 2 loại thuốc làm giảm nhịp tim. Ví dụ, ức chế bêta với ức chế kênh Calcium non-dihydropyridine (diltiazem và verapamil) phải hết sức cẩn thận. Bệnh nhân điều trị 2 nhóm thuốc này cần được theo dõi monitor để tránh nhịp tim giảm quá mức.

    Khi nào cần điều trị cấp cứu ?

    Ở bệnh viện, thuốc tiêm tĩnh mạch có thể dùng điều trị cấp cứu cao huyết áp . Loại thường dùng nhất là Sodium Nitroprusside (Nipride) và Labetalol (Normadyne). Như đã đề cập, điều trị thuốc cấp cứu có thể dùng ở bệnh nhân cao huyết áp ác tính.

    Ngoài ra, điều trị cấp cứu cũng cần thiết ở bệnh nhân cao huyết áp có suy tim sung huyết cấp tính, phình tách động mạch chủ, đột quỵ và nhiễm độc thai nghén.

    Comment


    • #3
      Cao huyết áp (Phần cuối)

      Thuốc nào được dùng trị cao huyết áp?

      Ức chế men chuyển Angiotensin(ức chế ACE) và ức chế thụ thể

      Angiotensin(ARB)

      Thuốc ức chế ACE và ARB đều có tác dụng lên hệ Renin-Angiotensin, mà hệ này điều hòa huyết áp. Thuốc ức chế ACE vận hành bằng cách ức chế men chuyển đổi Angiotensin không hoạt hoá thành dạng hoạt hoá.

      Angiotensin hoạt hóa sẽ co thắt hay làm hẹp động mạch, nhưng dạng không hoạt hóa thì không thể. Với thuốc ức chế ACE, như liệu pháp đơn độc, 50-60% người da trắng đạt được huyết áp điều chỉnh. Người da đen cũng có đáp ứng nhưng họ đòi hỏi liều lượng và tần suất sử dụng cao hơn, tốt nhất khi thuốc ức chế ACE kết hợp với lợi tiểu .

      Như thêm được lợi ích, thuốc ức chế ACE có thể làm giảm bớt tim phì đại ở bệnh nhân cao huyết áp. Thuốc này có lẽ cũng làm giảm quá trình suy giảm chức năng thận ở bệnh nhân cao huyết áp và tiểu đạm. Ngoài ra, chúng đặc biệt hữu dụng trong việc làm giảm tiến trình rối loạn chức năng thận ở bệnh nhân cao huyết áp kèm bệnh thận do hậu quả của tiểu đường. Do đó, thuốc ức chế ACE là thuốc lựa chọn đầu tiên ở bệnh nhân cao huyết áp có suy tim sung huyết, suy thận mãn có hay không có tiểu đường, và nhồi máu cơ tim, những bệnh lý làm suy yếu cơ tim (rối loạn chức năng tâm thu).

      Bệnh nhân điều trị với thuốc ức chế ACE có suy thận nên được theo dõi sát để phòng xa trường hợp suy chức năng thận và tăng Kali máu. Thật ra, thuốc này có thể dùng để giảm bớt tình trạng mất Kali ở bệnh nhân điều trị bằng lợi tiểu mất Kali. Thuốc ức chế ACE cũng có một ít tác hại. Tuy vậy, một tác dụng phụ phiền toái là ho mãn tính. Thuốc ức chế ACE bao gồm : enalapril (Vasotec), captopril (Capoten), lisinopril (Zestril và Prinivil), benazepril (Lotensin) và quinapril (Accupril).

      Ðối với bệnh nhân bị ho mãn tính khi dùng ức chế ACE thì ARB là thuốc thay thế tốt. Thuốc ARB vận hành hành bằng cách ức chế thụ thể Angiotensin trên động mạch. Kết quả là Angiotensin không tác dụng lên động mạch được (Angiotensin là hormone gây co mạch). Thuốc ARB có tác dụng giống của ức chế ACE nhưng không gây ho kéo dài. Do đó, chúng cũng thích hợp trong điều trị khởi đầu cao huyết áp. ARB bao gồm: losartan (Cozaar), irbesartan (Avapro), valsartan (Diovan), và candesartan (Atacand).

      Ở bệnh nhân cao huyết áp có kèm bệnh thứ 2, phối hợp ức chế ACE với ARB có thể có hiệu quả trong điều chỉnh huyết áp cao và cả bệnh thứ 2. Ví du, trong khi điều trị cao huyết áp, sự phối hợp thuốc này có thể làm giảm tình trạng mất protein qua nước tiểu trong rối loạn chức năng thận và tăng cường cơ tim trong bệnh cơ tim. Chú ý là cả ức chế ACE lẫn ARB đều chống chỉ định ở phụ nữ có thai.

      Ức chế bêta:

      Hệ thần kinh giao cảm là một phần của hệ thần kinh điều hoà hoạt động tự động của cơ thể, bao gồm cả tim và mạch máu. Như là một bộ phận của hệ này, thụ thể bêta (nơi nhận đáp ứng kích thích ) ở tim sẽ làm tăng nhịp tim và tăng co bóp cơ tim. Vì vậy, ức chế bêta sẽ làm giảm nhịp tim và lực co bóp cơ tim. Trong lúc đó, thụ thể bêta ở cơ trơn của các động mạch ngoại biên và đường dẫn khí sẽ thư giãn.

      Do vậy, ức chế bêta gây co thắt cơ trơn mạch ngoại biên, và bằng cách đó làm giảm lượng máu đến mô. Kết quả là bệnh nhân có thể bị lạnh ở tay và chân. Cũng vậy, đáp ứng với thuốc, đường dẫn khí co thắt lại. Tác động này gây khò khè đặc biệt ở những người có khuynh hướng bị suyễn. Tóm lại, ức chế bêta làm giảm lực co bóp tống máu của cơ tim và mạch máu mà tim cung cấp.

      Ức chế bêta còn hữu dụng trong điều trị cao huyết áp, đặc biệt ở bệnh nhân có nhịp tim nhanh lúc nghỉ, cơn đau thắt ngực hay nhồi máu cơ tim gần đây. Ví dụ, ức chế bêta có thể kéo dài thời gian sống ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp.

      Tuy nhiên, thuốc ức chế bêta có thể ngăn ngừa được các vấn đề tim mạch ở bệnh nhân cao huyết áp hơn các loại thuốc khác hay không còn chưa chắc chắn. Ức chế bêta dường như giúp chữa trị hồi hộp kéo dài hay nhức đầu Migrain ở người cao huyết áp. Tác dụng phụ thường gặp của thuốc này là trầm cảm, mệt mỏi, ác mộng, bất lực ở nam giới và tăng khò khè ở người bị suyễn. Ức chế bêta gồm: atenolol (Tenormin), propranolol (Inderal), và metoprolol (Toprol).

      Thuốc lợi tiểu

      Thuốc lợi tiểu là thuốc xưa nhất trong điều trị cao huyết áp. Chúng hoạt động tại ống thận giúp thải muối ra khỏi cơ thể. Lợi tiểu có thể dùng đơn độc trong điều trị cao huyết áp. Tuy nhiên, lợi tiểu liều thấp kết hợp với thuốc hạ áp khác thường dùng hơn để làm tăng hiệu quả của thuốc đó.

      Thuốc lợi tiểu hydrochlorothiazide (Hydrodiuril) hoạt động ở đoạn cuối ống lượn xa. Với liều thấp 12.5-25mg/ngày, thuốc này có thể cải thiện được huyết áp tốt hơn những loại khác. Tác dụng phụ đôi khi gặp ở liều hydrochlorothiazide cao .Tác dụng phụ của chúng bao gồm hạ Kali, tăng triglyceride, acid uric và glucose.

      Thỉnh thoảng, khi tình trạng giữ muối gây phù nghiêm trọng thì càng nên dùng lợi tiểu kết hợp với các thuốc khác. Thuốc lợi tiểu thường dùng điều trị cao huyết áp là hydrochlorthiazide, lợi tiểu ống thận furosemide (Lasix) và torsemide (Demadex), kết hợp giữa triampterene và hydrochlorothiazide (Dyazide), và metolazone (Zaroxolyn). Chú ý thuốc lợi tiểu không nên dùng ở phụ nữ có thai.

      Ức chế kênh Calcium.

      Ức chế Calcium ngăn chặn sự di chuyển Calcium vào tế bào cơ tim và mạch máu. Calcium cần thiết cho các cơ này co bóp. Vì vậy, thuốc này làm hạ huyết áp bằng cách giảm lực co bóp cơ tim và thư giản các cơ thành mạch. Có ba loại ức chế Calcium được dùng. Một loại là dihydropyridine không làm chậm nhịp tim và gây rối loạn nhịp. Những thuốc này bao gồm amlodipine (Norvasc), nifedipine (Procardia XL, Adalate CC), felodipine (Plendil), và nisoldipine (Sular).

      Còn 2 loại khác thuộc nhóm non-dihydropyridine. Một loại là verapamil (Calan SR) và loại khác là diltiazem (Cardizem, Tiazac, Dilacor). Cả 2 nhóm dihydropyridine và non-dihydropyridine đều có tác dụng tốt khi dùng đơn độc hay kết hợp với thuốc hạ áp khác. Mặc dù nhóm non-dihydropyridine không được khuyến cáo sử dụng trong suy tim sung huyết và một vài rối loạn nhịp. Tuy nhiên, đôi khi chúng lại giống dihydropyridine có ích trong việc ngăn ngừa vài rối loạn nhịp khác.

      Nhiều loại ức chế Calcium có tác dụng ngắn và loại có tác dụng dài. Tuy nhiên, thuốc tác dụng ngắn lại có những hậu quả có hại lâu dài, như đột quỵ hay nhồi máu cơ tim. Hậu quả này có lẽ do sự dao động bất thường huyết áp và nhịp tim suốt thời gian điều trị. Sự đa động này là kết quả của tác dụng nhanh ngắn của loại thuốc tác dụng ngắn. Tuy nhiên, khi thuốc ức chế Calcium tác dụng ngắn này dùng duy trì liên tục thì ít gây dao động hơn. Do đó, ức chế Calcium duy trì có thể sử dụng lâu dài một cách an toàn. Tác dụng phụ chủ yếu của thuốc này là táo bón, phù và chậm nhịp tim (chỉ đúng với non-dihydropyridine ).

      Ức chế alpha.

      Ức chế alpha giảm áp bằng cách ức chế thụ thể alpha ở cơ trơn của mạch máu ngoại biên tại khắp các mô cơ thể. Thụ thể alpha là một bộ phận của hệ giao cảm, giống như thụ thể bêta. Tuy nhiên, thụ thể alpha lại gây co mạch ngoại biên. Do đó, ức chế alpha sẽ gây dãn mạch và từ đó giảm áp.

      Trong nghiên cứu gần đây đề nghị dùng ức chế alpha đơn độc như loại điều trị cao huyết áp đầu tay có thể làm tăng nguy cơ bệnh tim như nhồi máu cơ tim hay đột quỵ. Vì vậy, ức chế alpha không nên là thuốc lựa chọn đầu tiên trong điều trị cao huyết áp. Ức chế alpha điển hình gồm terazosin (Hytrin) và doxazosin (Cardura).

      Ức chế alpha đặc biệt có lợi cho bệnh nhân có phì đại tiền liệt tuyến (thường xảy ra ở người già) vì thuốc này làm giảm thiểu các vấn đề liên quan đến tiểu tiện. Tuy nhiên, dùng ức chế alpha đơn thuần có thể có huyết áp thấp.

      Do đó, khi cao huyết áp đi cùng phì đại tiền liệt tuyến thì một loại thuốc hạ áp khác nên dùng chung với ức chế alpha. Ví dụ, tamsulosin(Flomax) là thuốc ức chế alpha, hoạt động tốt khi kết hợp với các loại hạ áp khác. Sự kết hợp này có thể giảm thiểu vấn đề về nước tiểu nhưng cũng không làm giảm quá mức huyết áp. Thuốc phối hợp tuyệt vời này là labetalol (Normodyne) chứa đựng cả ức chế alpha lẫn ức chế bêta.

      Clonidine.

      Clonidine (Catapress) là thuốc hạ áp trung ương. Nghĩa là chúng hoạt động tại trung tâm điều hòa huyết áp ở não. Thuốc này xem như chất đồng vận alpha vì chúng kích thích thụ thể alpha của não. Tuy nhiên, kết quả của kích thích này lại gây giảm hoạt động hệ thần kinh giao cảm và làm giảm kháng lực ngoại biên. Do đó, clonidine làm giảm áp bắng cách dãn mạch ngoại biên.

      Thuốc này được lựa chọn đứng thứ 2-3 khi những thuốc hạ áp khác thất bại. Chúng cũng có lợi trong việc làm dịu sự lên xuống bất thường của huyết áp. Thuốc này có khuynh hướng gây khô miệng và mệt mỏi đến độ bệnh nhân không thể dung nạp được. Clonidine có thể dùng dưới dạng uống hay phóng thích dần qua da.

      Minoxidil.

      Minoxidil là thuốc có hiệu quả giảm áp nhất bằng cách gây dãn mạch ngoại biên. Tuy nhiên, thuốc này không hoạt động trên hệ thần kinh giao cảm ngoại biên cũng như thuốc ức chế alpha hay bêta hay tác động trung tâm điều hoà như Clonidine.

      Ðúng hơn, nó là thuốc dãn cơ trực tiếp. Minoxidil dùng cho bệnh nhân không đáp ứng với các loại thuốc hạ áp khác. Nó phải dùng chung với ức chế bêta hay Clonidine để ngăn ngừa chậm nhịp tim hay với lợi tiểu để ngăn ngừa ứ dịch. Minoxidil cũng làm phát triển lông tóc.

      Thái độ bệnh nhân đối với chế độ thuốc?

      Khi cao huyết áp đơn giản không có triệu chứng, thường thì như vậy, vài bệnh nhân sẽ có xu hướng quên dùng thuốc. Bệnh nhân cũng có xu hướng thất bại trong điều trị bằng thuốc nếu họ bị tác dụng phụ. Nên nhớ rằng chất lượng cuộc sống rất quan trọng, đặc biệt với cái nhìn thiện cảm đối với điều trị kê đơn cao huyết áp.

      Vì vậy, vài thuốc giảm hạ áp gây tác dụng phụ như mệt mỏi và bất lực. Những hậu quả này có thể có tác dụng sâu sắc nào đấy đối với chất lượng cuộc sống bệnh nhân và hiệu quả của điều trị. Cũng vậy, nhiều trường hợp kháng thuốc đòi hỏi nhiều loại thuốc hơn và có thể gây ra nhiều những tác dụng có hại và vì vậy mà giảm hiệu quả.

      Trong lịch dùng thuốc đòi hỏi sử dụng 2-4 lần/ngày, vài bệnh chỉ nhớ uống thuốc một vài lần. Ngược lại, dùng thuốc ngày một lần dễ nhớ và dùng đều đặn hơn.

      Thuốc hạ áp đắt tiền, đặc biệt nếu bảo hiểm không trả cũng có thể làm giảm hiệu quả điều trị. Lý do là mọi người cố gắng tiết kiệm tiền bằng cách bỏ liều. Nên nhớ là thuốc ít đắt tiền nhất thường là loại dùng tên chung (không có nhãn), ví dụ như loại lợi tiểu hay ức chế bêta. Giảm tiền thuốc cũng có thể thực hiện bằng cách thay đổi cuộc sống như giảm cân, chế độ ăn ít muối, hạn chế rượu và tập thể dục đều đặn. Nếu những thay đổi này có hiệu quả thì có thể giảm được thuốc.

      Thái độ bệnh nhân đối với chế độ thuốc?


      Khi cao huyết áp đơn giản không có triệu chứng, thường thì như vậy, vài bệnh nhân sẽ có xu hướng quên dùng thuốc. Bệnh nhân cũng có xu hướng thất bại trong điều trị bằng thuốc nếu họ bị tác dụng phụ. Nên nhớ rằng chất lượng cuộc sống rất quan trọng, đặc biệt với cái nhìn thiện cảm đối với điều trị kê đơn cao huyết áp.

      Vì vậy, vài thuốc giảm hạ áp gây tác dụng phụ như mệt mỏi và bất lực. Những hậu quả này có thể có tác dụng sâu sắc nào đấy đối với chất lượng cuộc sống bệnh nhân và hiệu quả của điều trị. Cũng vậy, nhiều trường hợp kháng thuốc đòi hỏi nhiều loại thuốc hơn và có thể gây ra nhiều những tác dụng có hại và vì vậy mà giảm hiệu quả.

      Trong lịch dùng thuốc đòi hỏi sử dụng 2-4 lần/ngày, vài bệnh chỉ nhớ uống thuốc một vài lần. Ngược lại, dùng thuốc ngày một lần dễ nhớ và dùng đều đặn hơn.

      Thuốc hạ áp đắt tiền, đặc biệt nếu bảo hiểm không trả cũng có thể làm giảm hiệu quả điều trị. Lý do là mọi người cố gắng tiết kiệm tiền bằng cách bỏ liều. Nên nhớ là thuốc ít đắt tiền nhất thường là loại dùng tên chung (không có nhãn), ví dụ như loại lợi tiểu hay ức chế bêta. Giảm tiền thuốc cũng có thể thực hiện bằng cách thay đổi cuộc sống như giảm cân, chế độ ăn ít muối, hạn chế rượu và tập thể dục đều đặn. Nếu những thay đổi này có hiệu quả thì có thể giảm được thuốc.

      Những nhóm thuốc hạ áp mới đang được nghiên cứu là gì ?

      Thuốc hạ áp thế hệ mới gọi là ức chế vasopeptidase đã được phát triển. Ðộc nhất ở chỗ chúng hoạt động trên 2 hệ thống cùng một lúc. Nó chặn đứng một bộ phận của hệ renin -angiotensin-aldosterone mà hệ này gây co thắt mạch ngoại biên. Nó cũng ức chế hệ điều hòa muối của cơ thể mà hệ này giữ muối. Do đó, thuốc này làm hạ áp bằng cách dãn mạch ngoại biên đồng thời tăng thải muối.

      Một trong số chúng đang được nghiên cứu là omapatrilat. Thí nghiệm trên động vật cao huyết áp, thuốc làm giảm huyết áp và có lẽ bảo vệ được cơ quan đích (tim, thận, não) khỏi tổn thương bởi cao huyết áp. Ngoài ra, thuốc làm dãn mạch ngoại biên, tăng lượng máu nuôi đến mô, tăng cường chức năng của tim ở bệnh nhân cao huyết áp có suy tim. Chưa được chấp thuận bởi FDA, omapatrilat vẫn đang được thử nghiệm về độ an toàn và hiệu quả của nó.

      Tóm lược về cao huyết áp.

      Áp lực máu cao được gọi là cao huyết áp nguyên phát hay thứ phát và được định nghĩa là tình trạng huyết áp hằng định vượt quá 140/90mmHg.

      Trong cao huyết áp nguyên phát (95% dân số cao huyết áp) không có nguyên nhân cụ thể, còn trong khi cao huyết áp thứ phát (5% dân số ) là do bất thường ở đâu đó trong cơ thể như thận, tuyến thượng thận và động mạch chủ.

      Cao huyết áp nguyên phát có thể xuất hiện trong vài gia đình và xảy ra thường hơn ở người da đen mặc dù gen qui định cao huyết áp chưa được nhận dạng.

      Dùng nhiều muối, ít vận động, béo phì, uống rượu hay café quá nhiều và hút thuốc có thể tác động bất lợi cho sức khoẻ người cao huyết áp.

      Cao huyết áp được gọi là kẻ giết người thầm lặng vì chúng không gây triệu chứng gì trong nhiều năm, nhiều khi hàng chục năm, cho đến khi chúng gây tổn thương cơ quan quan trọng.

      Cao huyết áp không kiểm soát tốt cuối cùng có thể gây tổn thương mạch máu ở mắt, phì đại cơ tim và nhồi máu cơ tim, xơ cứng mạch máu, suy thận và đột quỵ.

      Tầm soát và nâng cao ý thức cộng đồng là cần thiết để phát hiện cao huyết áp sớm đủ để điều trị trước khi có tổn thương các cơ quan quan trọng.

      Ðiều chỉnh cách sống, chế độ ăn và tập luyện và hài lòng với cách điều trị là những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả điều trị.

      Nhiều loại thuốc hạ áp có sẵn như ức chế ACE, ARB, lợi tiểu, ức chế bêta, ức chế kênh Calcium và ức chế alpha.

      Ða số thuốc hạ áp dùng đơn độc hay kết hợp: một vài loại chỉ dùng phối hợp, vài loại thích hợp trong tình huống cụ thể, và một vài loại chống chỉ định trong những trường hợp khác.

      Mục tiêu điều trị là đưa huyết áp về dưới 140/85mmHg trong dân số chung và thấp hơn ở người bị tiểu đường, người da đen và người bị bệnh thận mãn tính.

      Tầm soát, chẩn đoán, điều trị và điều chỉnh huyết áp sớm có thể giảm được nguy cơ đột quỵ, nhồi máu cơ tim và suy thận.

      (Theo BSGĐ)

      Comment

      Working...
      X