Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Viêm gan

Collapse
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Viêm gan C (Phần 3)

    Vai trò của xét nghiệm RNA-HCV định lượng là gì?

    Nên chú ý rằng xét nghiệm định lượng đơn thuần lượng virus trong máu không tương ứng với độ nặng của viêm gan siêu vi C. Ngoài ra, lượng virus dao động ở những người nhiễm, mặc dù sự khác biệt này ít có ý nghĩa, nghĩa là dưới 10 lần khác nhau. Vì vậy, không có một giá trị thực tế nào định lượng virus ở bệnh nhân không theo điều trị.

    Tuy nhiên, RNA-PCR định lượng là rất đúng ở bệnh nhân đang được điều trị kháng virus hay những người được giám sát suốt thời gian điều trị. Ví dụ, ở bệnh nhân có lượng RNA-HCV ban đầu >2 triệu bản sao/ml (>800,000IU/ml) có thể có đáp ứng duy trì đối với interferon đơn thuần thông thường hay với interferon kết hợp và liệu pháp ribavirin. Hơn nữa, bệnh nhân có ít hơn 20 lần lượng virus sau 12 tuần điều trị interferon biển đổi thì cũng không thể có đáp ứng duy trì.

    Xét nghiệm nào nhận diện genotype virus ?

    Kỹ thuật PCR của acid nucleic ứng dụng để xác nhận genotype HCV. Vài trường hợp đặc biệt, mục đích xác định genotype là để định liệu thời gian điều trị kháng virus. Vì vậy, bệnh nhân với genotype 2 hay 3 có thể được điều trị 6 tháng với liệu pháp kết hợp Rebetron (xem điều trị HCV ở dưới thay vì điều trị 12 tháng dành cho bệnh nhân nhiễm genotype 1). Hơn nữa, bệnh nhân nhiễm genotype 2 hay 3 có thể đáp ứng với liệu pháp interferon hơn là những người nhiễm genotype 1. Vì vậy, hiểu biết về genotype có thể có ích trong việc tiên lượng khả năng đáp ứng thuận lợi đối với liệu pháp interferon.

    Vai trò của sinh thiết gan trong quản lý viêm gan siêu vi C ?

    Nhiều cuộc thảo luận đã tập trung vào vai trò của sinh thiết gan trong việc quản lý bệnh nhân viêm gan siêu vi C. Nhiều chuyên gia về gan nhận thấy rằng, sinh thiết gan là một phần quản lý của bất cứ bệnh nhân viêm gan siêu vi C nào. Một mặt, bệnh nhân có sẵn bệnh gan nền mà không có triệu chứng, thăm khám và xét nghiệm nào bất thường. Mặt khác, sinh thiết gan cung cấp những thông tin quan trọng về độ nặng, và từ đó giúp tiên lượng được bệnh gan.

    Một vài nhà giải phẫu bệnh sử dụng chỉ số hoạt động mô Knodell (HAI), là một chỉ số hỗn hợp kết hợp 4 đặc tính khác nhau của sinh thiết gan. Với HAI, sinh thiết gan bình thường được 0 điểm, trong khi sinh thiết cho thấy xơ gan với viêm gan đang hoạt động thì đến 22 điểm. Tuy nhiên, hầu hết các nhà giải phẫu bệnh (chuyên gia nghiên cứu về mô) ngày nay dùng hệ thống mới hơn. Hệ thống này bao gồm nguyên nhân của viêm gan, độ lớn của sẹo (hoá sợi) theo thang điểm từ 0 (không hoá sợi) đến 4 (xơ hoá), và tình trạng viêm (tế bào lympho gây nên tổn thương tế bào gan) theo thang điểm 0-4.

    Nghiên cứu gần đây cho rằng sinh thiết ngay từ đầu có thể tiên đoán được khả năng tiến đến xơ gan trong vòng 10 năm. Không có gì ngạc nhiên khi bệnh nhân với tổn thương viêm và hoá sợi trung bình có khả năng tiến đến xơ gan nhiều hơn người không có hoá sợi và tổn thương viêm tối thiểu. Ngoài ra, với mong muốn điều trị, bệnh nhân có xơ gan ít, có thể đáp ứng với liệu pháp interferon đơn thuần thông thường hơn là người không có xơ gan. Do đó, những thông tin lấy từ sinh thiết gan có thể giúp bệnh nhân và bác sĩ cân nhắc giữa nguy cơ và thuận lợi của liệu pháp kháng virus.

    Mặt khác, có những chuyên gia khác về gan không chủ trương sinh thiết gan. Họ đưa ra trong số những lý do khác, có chi phí của sinh thiết với lợi ích của nó. Sinh thiết gan thường ít làm, hơn nữa cũng mắc tiền, cho nên nhiều bệnh nhân thích hợp với điều trị kháng virus có thể cân nhắc liệu pháp này mà không cần sinh thiết gan.

    Ai nên được điều trị kháng HCV ?

    Bất kỳ ai nhiễm viêm gan siêu vi C mạn tính đều là ứng cử viên của liệu pháp kháng virus. Tuy nhiên, với những hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc tự nhiên của viêm gan siêu vi C mạn tính, và hiệu quả cũng như tác dụng phụ của liệu pháp kháng virus hiện nay. Hội nghị phát triển thống nhất NIH khuyến cáo điều trị cho những bệnh nhân có nguy cơ cao tiến đến xơ gan. Ví dụ như những người có tất cả các đặc điểm sau đây :

    ALT tăng hằng định.

    Có thể tìm thấy RNA-HCV.

    Bằng chứng của hoá sợi trên sinh thiết gan.

    Bằng chứng của tổn thương viêm vừa phải và tế bào gan (hoại tử) trên sinh thiết.

    Điều này không rõ nếu bệnh nhân có một vài nhưng không có tất cả các tiêu chuẩn này nên được điều trị không.

    Do đó, NIH thống nhất chủ trương rằng, bệnh nhân không phù hợp với tất cả tiêu chuẩn đưa ra được điều trị trong một chế độ nghiên cứu. Những nhà cố vấn báo cho những người tham gia nghiên cứu, để tin tức có thể lấy được từ kinh nghiệm điều trị những bệnh nhân này. Ví dụ những bệnh nhân có :

    Xét nghiệm gan bình thường cố định và viêm nhẹ trên sinh thiết gan.

    Xơ gan còn bù (không có dấu hiệu suy gan như vàng da, bụng báng, bệnh não, hay xuất huyết).

    Dưới 18 hay trên 65 tuổi.

    Người đồng nhiễm HIV.

    Bệnh nhân xơ gan mất bù (dấu hiệu suy gan mạn) chỉ nên được điều trị trong chế độ nghiên cứu. Ngoài ra, họ nên được theo dõi sát, tốt nhất là được ghép gan.

    Những người không nên điều trị với liệu pháp kháng virus bao gồm những người đang dùng thuốc lậu hay rượu, đang bị trầm cảm, tế bào máu thấp, bệnh tuyến giáp không điều trị, bệnh tự miễn, và những bệnh lý nghiêm trọng khác (ví dụ bệnh tim có triệu chứng, cao huyết áp không kiểm soát, hay đái tháo đường), đang có thai, hay đang nhận cơ quan ghép đặc (ví dụ thận).

    Về cơ bản, việc quyết định đối với điều trị kháng virus ở bệnh nhân viêm gan siêu vi C nên được thực hiện với cân nhắc cẩn thận về nguy cơ và lợi ích.

    Mục đích điều trị HCV là gì ?

    Mục đích sau cùng của điều trị kháng virus là loại bỏ virus, cải thiện và bình thường hoá xét nghiệm về gan và mô học, ngăn ngừa tiến triển đến xơ gan và ung thư gan, kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.

    Hiện nay, phép đo phù hợp duy nhất để đánh giá lợi ích điều trị là đáp ứng virus học đối với điều trị được đo bằng RT-PCR hay TMA. Ngoài ra, như đã chỉ dẫn ở trên, chỉ có đáp ứng duy trì là có khả năng đạt được mục đích cuối cùng. Như đã lưu ý, đáp ứng điều trị được định nghĩa là không thể tìm thấy RNA HCV 6 tháng sau khi hoàn chỉnh đợt điều trị kháng virus. Hầu hết bệnh nhân có đáp ứng duy trì vẫn còn giảm tiếp một cách mập mờ.

    Nhiều người không đáp ứng (đối với virus) vẫn có thể có đáp ứng hoá sinh (ví dụ ALT bình thường), có hoặc không có biểu hiện triệu chứng. Nhưng một đáp ứng sinh hoá (và triệu chứng ) thì không đủ để cho biết hay tiên đoán kết quả có thuận lợi. Tuy vậy, ngay ở những người có đáp ứng trở lại hay không đáp ứng, cải thiện tổn thương và sẹo ở gan đôi khi có thể nhận thấy sau điều trị interferon. Tuy nhiên, một cách tự nhiên, sự cải thiện ở những bệnh nhân này không có giá trị như ở những người có đáp ứng duy trì. Thật vậy, chỉ khi virus bị tiêu diệt thì hiệu quả điều trị mới có.

    Lựa chọn phương pháp điều trị nào cho bệnh nhân viêm gan siêu vi C mạn tính chưa được điều trị trước đây ?

    Lựa chọn điều trị cho bệnh nhân viêm gan siêu vi C mạn tính chưa được điều trị trước đây bao gồm interferon thông thường (đã lỗi thời), interferon thường kết hợp và ribavirin, interferon biến đổi và interferon biến đổi kết hợp với ribavirin.

    Interferon thường đơn độc.

    Trong quá khứ, phương pháp điều trị chính của viêm gan siêu vi C mạn tính là interferon alpha. Interferon là một họ protein tự nhiên được sản xuất bởi cơ thể nhằm chống lại virus. Interferon được cung cấp bằng tiêm dưới da, tương tự như của insulin. Khi điều trị với interferon có tiến triển, mức độ đáp ứng duy trì tăng lên đáng kể.

    Thật vậy, rất có ích khi xem lại tiến triển của điều trị interferon. Cho đến ngày nay, 3 loại interferon alpha được chấp nhận bởi FDA :interferon alpha 2b (Intron-A), interferon alpha 2a (Roferon), interferon alpha hiệu ứng (Infergen). Tất cả các dạng này dường như hiệu quả như nhau và tác dụng phụ tương tự. Mức độ đáp ứng duy trì trong 6 tháng điều trị bằng interferon alpha chỉ vào khoảng 8%. Kéo dài thời gian điều trị đến 48 tuần tăng đáp ứng duy trì đến 15%. Sau đó, với kỹ thuật phân tử, những yếu tố như genotype virus, số lượng virus trong máu, hình dạng mô gan vi thể, và một vài đặc điểm bệnh nhân được ghi nhận cho giai đoạn duy trì. Những đặc điểm có lợi này gồm :

    Genotype 2 hay 3.

    Lượng virus <2 triệu bản/ml.

    Không có xơ gan .

    Giới nữ.

    < 40 tuổi.

    Ví dụ những người bị nhiễm genotype 2 dường như đáp ứng với liệu pháp interferon thường gấp 2 lần so với bệnh nhân nhiễm genotype 1. Do đó, chọn lựa bệnh nhân với những đặc điểm này cho điều trị interferon làm tăng thêm thời gian lui bệnh (giai đoạn duy trì).

    Interferon thường kết hợp và ribavirin.

    Tác nhân kháng virus, ribavirin(Rebetol) là một chất tương tự nucleoside lấy từ miệng. Chất giống nucleoside là phân tử nhân tạo rất giống như đơn vị hóa sinh tạo nên chất liệu di truyền (RNA và DNA). Do đó, ribavirin hoạt động như kẻ giả danh lừa nguyên liệu di truyền của virus và làm chậm sự tái bản của chúng.

    Hoá ra ribavirin không có hiệu quả điều trị viêm gan siêu vi C khi dùng một mình, mà có lợi khi kết hợp với interferon thông thường. Tổng đáp ứng duy trì (SR ) với interferon alpha 2b kết hợp với ribavirin(Rebetron) trong 48 tuần khoảng 40%. Tuy nhiên, SR ở bệnh nhân nhiễm genotype 2 hay 3 là 60% so với khoảng 30% ở bệnh nhân nhiễm genotype 1.

    Bệnh nhân nhiễm genotype 1, có thể với lượng virus thấp, có lợi khi điều trị 48 tuần hơn là 24 tuần. Mặt khác, bệnh nhân nhiễm genotype 2 hay 3, bất kể lượng virus, đáp ứng tương tự dù là điều trị Rebetron 24 hay 48 tuần. Do đó, bất kể số lượng virus, bệnh nhân với genotype 1 nên điều trị 48 tuần và bệnh nhân với genotype 2 hay 3 nên điều trị 24 tuần với Rebetron.

    Kết hợp Rebetron liên quan đến tác dụng phụ nhiều hơn là liệu pháp interferon đơn thuần. Thật vậy, trên 20% bệnh nhân điều trị với Rebetron đòi hỏi phải giảm liều hay ngưng điều trị vì tác dụng phụ của nó. Tuy nhiên, điều trị kết hợp này đại diện cho tiến bộ trong điều trị viêm gan siêu vi C mạn và đã trở thành tiêu chuẩn chăm sóc mà liệu pháp tương lai phải cân nhắc.

    Trong những thử nghiệm trước đây dùng interferon đơn thuần, lượng virus tìm thấy sau 12 tuần điều trị cho thấy bệnh nhân không đáp ứng ngay khi việc điều trị kéo dài 1 năm. Ở vài bệnh nhân, khi điều trị kèm với Rebetron, còn lượng virus sau 12 tuần điều trị nhưng vẫn có đáp ứng duy trì. Do đó, bệnh nhân được điều trị kết hợp nên định lượng HCV RNA PCR sau 24 tuần điều trị. Những người có virus dương tính ở thời điểm đó nên ngưng điều trị, từ đó sẽ có thay đổi để đạt hiệu quả đáp ứng duy trì.

    Liệu pháp interferon biến đổi đơn thuần

    Interferon alpha thông thường được hấp thụ và thải trừ qua thận. Trong 12 giờ đầu điều trị interferon, thuốc tác động đến lượng virus làm giảm số lượng vì virus bị tiêu diệt bởi interferon. Tuy nhiên, sau đó virus lại tăng lên lại vì interferon được thải nhanh. Một cách để giữ lượng virus ở mức thấp là làm chậm quá trình thải interferon.

    Một tiến bộ hoá học được gọi là pegylation interferon (hình thành interferon biến đổi) đã được phát hiện có thể làm chậm sự thanh thải interferon. Pegylation làm gắn phân tử polyethylen glycol (PEG) vào interferon. Khi gắn vào interferon, PEG về cơ bản sẽ làm tăng thời gian mà interferon có thể ở trong cơ thể để diệt virus.

    Hiện nay có 2 loại interferon biến đổi : alpha 2b (Peg-Intron A) và alpha 2a (Pegasys). Peg-Intron A đã được FDA thừa nhận trong khi Pegasys thì còn đang xem xét. Cả 2 loại interferon biến đổi được dùng 1lần/tuần và kết quả là interferon tồn tại hằng định trong máu 7 ngày. Do đó, tiện ích này sẽ bỏ đi nhu cầu dùng hằng ngày đối với interferon thường. Ngoài ra, tuy sự khác biệt về cấu trúc và liều lượng giữa 2 loại inteferon pegylated nhưng không có sự khác biệt về hiệu quả và tính an toàn của chúng.

    Dữ liệu về interferon biến đổi vẫn còn đang làm rõ từ những thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hiểu là chưa có một so sánh từ đầu đến cuối giữa 2 loại interferon biến đổi này. Nói cách khác, 2 loại interferon biến đổi chưa được so sánh trực tiếp với nhau trong cùng một thử nghiệm lâm sàng. Do đó, mức độ đáp ứng duy trì (SR ) có được với 1 interferon biến đổi trong 1 nghiên cứu không thể so sánh hiển nhiên với SR lấy từ một nghiên cứu khác. SR chung ở bệnh nhân chưa điều trị trước đây dùng Pegasys 48 tuần là 39%, có thể so sánh được với SR của liệu pháp Rebetron kết hợp đã được báo cáo trước đây.

    Trong một nghiên cứu khác, SR thấp hơn đối với Peg-Intron A. Tuy nhiên, sự khác biệt từ SR được báo cáo cho Pegasys không có ý nghĩa vì có sự khác nhau về genotype 1 ở 2 nghiên cứu. Do đó, có thể an tâm nói rằng 2 loại interferon biến đổi hiệu quả SR như nhau, và tương đương với hiệu quả của Rebetron kết hợp. Bên cạnh đó, interferon biến đổi dung nạp tốt hơn Rebetron kết hợp (Xem thêm phần tác dụng phụ ở dưới).

    Interferon biến đổi kết hợp với Ribavirin.

    Trong nghiên cứu so sánh interferon biến đổi (Peg-Intron A hoặc Pegasys ) kết hợp với Ribavirin và Rebetron kết hợp, interferon biến đổi kết hợp Ribavirin có hiệu quả hơn, đặc biệt ở bệnh nhân nhiễm genotype 1. Với genotype 1, SR là 45% cho interferon biến đổi kết hợp Ribavirin so với 35% của Rebetron kết hợp. Như mong đợi, kết quả chung ở bệnh nhân genotype 2 hay 3 ở mỗi nhóm điều trị này thì cũng tốt hơn (SR 60% đến 80%). Tuy nhiên, những khác biệt giữa nhóm điều trị bệnh nhân với genotype 2 hay 3 khó khăn để đánh giá hơn bệnh nhân nhiễm genotype 1 ít nhất 2 lý do :

    Đầu tiên, tất cả bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu này điều trị 48 tuần. (Nhớ là chỉ 24 tuần điều trị Rebetron kết hợp đòi hỏi ở nhóm genotype 2 hay 3). Thứ hai, ở những dân số khác nhau mà kết quả thu được không chấp nhận trong đáp ứng điều trị.

    (Theo BSGĐ)

    Comment


    • #17
      Viêm gan C (Phần cuối)

      Những người tái phát và không đáp ứng được điều trị như thế nào ?

      Bệnh nhân được điều trị với interferon thường đơn thuần và bị tái phát có thể được điều trị lại theo 2 chế độ. Nhưng chế độ này hoặc là 24 tuần bằng Rebetron kết hợp (SR 48%) hay 48 tuần điều trị Infergen (15mg 3 lần/tuần) (SR 58%). Cả 2 dạng trên đều được chấp nhận đối với điều trị cho người bị tái phát. Hơn nữa, đối với bệnh nhân tái phát sau điều trị Rebetron kết hợp và rồi dùng Infergen (15mg) hằng ngày có thể đạt kết quả SR 50%. Dĩ nhiên, sẽ có những quan tâm đặc biệt trong nghiên cứu (từ kết quả của nghiên cứu mới) về hiệu quả của interferon biến đổi kết hợp ribavirin trong điều trị bệnh nhân tái phát sau liệu pháp Rebetron.

      Những người không đáp ứng với liệu pháp interferon đặt ra một thử thách lâm sàng khó khăn hơn những người tái phát. Cho đến nay, không có 1 chế độ điều trị hiệu quả đáng kể nào phát hiện ở bệnh nhân này. Tái điều trị với liều interferon chuẩn đơn thuần cho thấy không ích gì. Liều cao hơn cho 1 kết quả khác nhau và làm tăng tác dụng phụ. Tái điều trị với Rebetron và Infergen liều cao đạt SR chỉ 15%. Những dữ liệu dùng interferon biến đổi kết hợp ribavirin trong tái điều trị sẽ sớm ứng dụng từ thử nghiệm lâm sàng. Ngoài ra, NIH đảm bảo thử nghiệm gọi là HALT C, hiện đang điều tra nghiên cứu lợi ích tiềm tàng của liệu pháp kháng virus duy trì kéo dài ở người không đáp ứng.

      Những người bị viêm gan siêu vi C cấp có nên được điều trị không ?

      Câu trả lời ngắn gọn là có. Khoảng 85% bệnh nhân viêm gan siêu vi C cấp tiến triển thành viêm gan mạn. Do đó, mục đích điều trị kháng virus ở bệnh nhân viêm gan siêu vi C cấp là ngăn ngừa nhiễm trùng thành mạn tính. Mặt khác, không có một điều trị chuẩn và hiệu quả nào cho viêm gan siêu vi C cấp.

      Hầu hết các nghiên cứu về viêm gan siêu vi C cấp cách đây trên 10 năm đều hướng dẫn dùng interferon thường 3 lần/tuần. Từ những dữ liệu này, người ta đề nghị nên điều trị ít nhất 6 tháng điều trị interferon. Người ta nhận thấy 60 đến 80% bệnh nhân đáp ứng duy trì ở những người viêm gan siêu vi C cấp có điều trị. Do đó, ở thời điểm này, cần có ý thức điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi C cấp ít nhất 6 tháng với interferon biến đổi có hay không kèm ribavirin.

      Tác dụng phụ của điều trị HCV là gì ?

      Triệu chứng giống như cúm (giảm đi nhờ acetaminophen/Tylenol), rụng tóc, trầm cảm là những tác dụng phụ thường gặp của Interferon. Các triệu chứng này thường giảm đi sau vài tuần đầu điều trị và không nặng thêm khi thêm ribavirin. Tác dụng phụ ít gặp hơn là thiếu máu và giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu và giảm chức năng tuyến giáp. Tử vong rất hiếm và nếu có nguyên nhân chính là do suy gan cấp ở bệnh nhân có xơ gan.

      Vài tác dụng phụ phát hiện khi thêm ribavirin với interferon bao gồm : ói mửa, ho, khó thở, nổi ban, ngứa, mất ngủ, và chán ăn. Ribavirin cũng gây thiếu máu do huỷ hồng cầu. Thiếu máu này thường nhẹ nhưng có thể có ý nghĩa lâm sàng. Tình trạng này cải thiện với giảm liều và hiếm khi ngưng ribavirin. Ribavirin cũng có thể tích lũy ở tinh hoàn và buồng trứng gây khuyết tật bẩm sinh trên động vật. Mặc dù chưa ghi nhận được di tật bẩm sinh nào ở người, cả nam lẫn người nữ nên dùng phương pháp ngừa thai để tránh có thai trong và ít nhất 6 tháng điều trị ribavirin.

      Trong nghiên cứu so sánh song song giữa interferon biến đổi và interferon thường, tác dụng phụ là như nhau. Do đó, người ta vẫn giữ lý lẽ rằng tác dụng phụ của rebetron đối với interferon biến đổi kết hợp ribavirin có thể so sánh được.

      Về ghép gan ở bệnh nhân viêm gan siêu vi C ?

      Bệnh gan giai đoạn cuối (với biến chứng ) liên quan nhiễm viêm gan siêu vi C mạn là lý do ghép gan hàng đầu ở Mỹ hiện nay. Tuy nhiên, tái nhiễm HCV thường phổ biến sau ghép gan do bệnh gan. Thật vậy, khoảng 25 % bệnh nhân bị viêm gan lại (trên sinh thiết gan) trên gan mới ghép. Ngoài ra, những bệnh nhân này với viêm gan tái phát sẽ tiến triển thành xơ gan trong vòng 5 năm sau ghép.

      Vài bệnh nhân tiến triển bệnh gan nặng thật sự với vàng da đậm một thời gian ngắn sau ghép. Hai tình huống có thể dẫn đến bệnh gan tái phát nặng này : một là số lượng virus cao trong máu lúc ghép; hai là tai biến trong giai đoạn thải ghép cấp sau ghép. Giai đoạn thải ghép này đòi hỏi điều trị steroid, mà chính nó làm tăng sự sinh sản của virus. Vài trung tâm thấy rằng bệnh nhân nhiễm genotype 1b thường dễ tái nhiễm HCV nặng sau ghép, nhưng những trung tâm khác lại phản đối nhận xét này.

      Bất kể những phát hiện về tái nhiễm này, chỉ số sống 5 năm ở bệnh nhân viêm gan siêu vi C có thể so sánh với chỉ số sống ở bệnh nhân ghép gan vì bất kỳ bệnh lý gan. Mặc dù vậy, suy gan ghép do tái nhiễm HCV là lý do số 1 để tái ghép.

      Nghiên cứu tìm cách phòng ngừa và điều trị tái nhiễm HCV với Rebetron hay interferon đơn thuần hay kết hợp ribavirin đang được thực hiện. Tuy nhiên, có những lo ngại rằng interferon là chất miễn dịch thêm vào, nó có thể gây ra hay thúc đẩy thải gan ghép. Hơn nữa, interferon không được dung nạp tốt bởi bệnh nhân đang được ghép và dùng nhiều loại thuốc khác nhau.

      Những nghiên cứu gần đây và tương lai về viêm gan siêu vi C nói gì ?

      Vì ý thức nhiễm viêm gan siêu vi C tăng lên, ngày càng nhiều bệnh nhân được chẩn đoán bị bệnh này. Những lĩnh vực chính của những nghiên cứu gần đây liên quan viêm gan siêu vi C gồm chẩn đoán, diễn tíến tự nhiên, điều trị và phát triển vaccine.

      Chẩn đoán :

      Nhiều xét nghiệm chính xác hơn để bảo đảm mẫu máu truyền an toàn. Trong vài năm tới, xét nghiệm acid nucleic nhạy hơn, như xét nghiệm chuyển mã trung gian (TMA), sẽ được sử dụng thường quy trong tầm soát và chẩn đoán HCV.

      Diễn tiến tự nhiên :

      Thách thức ở đây là phân biệt giữa những người viêm gan siêu vi C không triệu chứng, không tiến triển với những người có tiến triển đến xơ gan và biến chứng của nó. Để phân biệt đòi hỏi nghiên cứu dịch tễ học lâu dài cũng như hiểu biết hơn về đặc tính sinh học của HCV và đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với virus này.

      Điều trị :

      Điều trị thành công có thể đạt được là >80% bệnh nhân nhiễm genotype 2 hay 3. Bệnh nhân nhiễm genotype 1 hay những người thất bại với interferon (tái phát, đặc biệt là không đáp ứng) tuy nhiên vẫn còn là thách thức. Thật ra, những bệnh nhân này tạo thành nhóm cần điều trị hiện nay. Trong tương lai gần, interferon vẫn là liệu pháp nòng cốt đối với HCV. Trên thực tế, interferon biến đổi và ribavirin đại diện cho thành tựu to lớn trong điều trị HCV.

      Thử nghiệm đang thực hiện với các thuốc kết hợp khác. Những thuốc kết hợp này gồm interferon biến đổi +ribavirin+ amantadine (Symmetrel, một yếu tố kháng virus dành cho cúm); interferon biến đổi + ribavirin+ mycophenylate mofetil (Cellcept, thuốc kháng thải ghép); và interferon biến đổi + thysmosin (protein tuyến ức có thể làm tăng hệ thống miễn dịch).

      Những thành phần đặc biệt gây trở ngại quá trình sinh sản của HCV vẫn đang nghiên cứu (Xem phần sinh học của HCV). Những thành phần này bao gồm các yếu tố ức chế protein của HCV (ví dụ enzyme polymerase), mà những protein này cần cho sự phát triển bình thường của virus. Một nhóm yếu tố khác đang nghiên cứu gọi là ribozyme, chúng tạo bởi chất liệu di truyền trong trường hợp này là RNA. Ribozyme sẽ ngăn chặn vòng đời của HCV bằng cách cắt và ghép các chất liệu di truyền của virus. Nghiên cứu ribozyme vẫn đang thực hiện ở người.

      Phát triển vaccine :

      Phát triển vaccine thành công để bảo vệ chống lại HCV rất khó. Như đã giải thích từ trước, lý do của khó khăn này là khả năng đột biến (tự thay đổi) của virus tránh phản ứng miễn dịch của cơ thể. Nên nhớ rằng chất liệu di tryền của các HCV có thể khác nhau. Thách thức đối với các nhà nghiên cứu là tìm ra phần bảo tồn của virus (phần không thay đổi trong những HCV khác nhau). Những mảnh virus bảo tồn này có thể làm cho các virus còn lại có thể bị tổn thương trước tế bào miễn dịch.

      Sơ lược về viêm gan siêu vi C

      Ở Mỹ, nhiễm HCV là nguyên nhân thường gặp nhất của viêm gan mạn và biến chứng xơ gan do HCV là lý do thường gặp của ghép gan.

      HCV là một trong nhiều loại virus (A,B,C,D và E) có thể gây viêm gan. HCV khác với các virus này.

      Một trong những vấn đề chính của HCV là 85% người nhiễm lần đầu (cấp tính) sẽ trở thành mạn tính. Khoảng 1/3 bệnh nhân nhiễm HCV mạn tính sẽ tiến triển thành xơ gan.

      HCV được lây truyền qua máu. Lạm dụng thuốc tiêm tĩnh mạch là phương thức lây truyền phổ biến nhất, trong khi nguy cơ lây qua quan hệ tình dục là rất thấp.

      Thông thường bệnh nhân không có triệu chứng cho đến khi tiến triển đến có xơ gan. Tuy nhiên, vài bệnh nhân chỉ mệt mỏi và không có triệu chứng đặc hiệu khi không có xơ gan. Một ít bệnh nhân có triệu chứng ngoài gan.

      Viêm gan siêu vi C được chẩn đoán bằng xét nghiệm kháng thể kháng HCV, mà chẩn đoán được khẳng định bởi xét nghiệm dựa trên acid nucleic của virus. Số lượng virus không tương xứng với độ nặng của bệnh.

      Sinh thiết gan đã từng dùng để đánh giá tổn thương gan (tổn thương tế bào gan và sẹo) và quan trọng trong tiên lượng và lên kế hoạch điều trị.

      Những tiến bộ đáng kể đã có trong điều trị viêm gan. Đối bệnh nhân nhiễm genotype 2 hay 3, điều trị bằng interferon (interferon biến đổi) kết hợp ribavirin có thể đạt kết quả trên 80% bệnh nhân.

      Điều trị bệnh nhân nhiễm genotype 1 có mức độ điều trị thành công với interferon biến đổi với ribavirin thì chỉ <50%, vẫn còn là thách thức.

      Điều trị được khuyến cáo đối với bệnh nhân có RNA-HCV có thể tìm thấy, có xét nghiệm men gan tăng hằng định và bằng chứng của sẹo và ít nhất là viêm trung bình trên sinh thiết gan nhưng không có dấu hiệu của suy gan.

      Điều trị cải thiện được tình trạng viêm và sẹo gan ở người đáp ứng duy trì và đôi khi cũng có ở người đáp ứng tái phát và không đáp ứng.

      Thử nghiệm lâm sàng đang được thực hiện để đánh giá sự kết hợp yếu tố kháng virus khác và interferon biến đổi trong điều trị viêm gan siêu vi C.

      (Theo BSGĐ)

      Comment


      • #18
        Mới đây ở VN có bán thuốc Deawoong URSA-S , đ63 bảo vệ gan , tui uống vô thấy khát nước wá xá , đi tiểu vàng có khi hơi đục. Vậy có sao không? Xin CĐX coi giùm

        Comment


        • #19
          MM tìm thấy cái này:

          URSA-S - phục hồi và bảo vệ gan

          Với hơn 500 chức năng khác nhau, gan được xem là một cơ quan phức tạp và quan trọng bậc nhất của cơ thể. Song nó cũng rất dễ bị tổn thương do nhiều yếu tố rượu bia, siêu vi, khiếm khuyết về di truyền, thuốc, hóa chất, môi trường…

          Từ xưa đến nay, theo y học cổ truyền, để bảo vệ gan, mật gấu ngựa luôn được xem là dược liệu quý giá với những tác dụng tuyệt vời trên sức khỏe và gan mật. Nhận thức về tác dụng tốt của mật gấu đã hết sức rộng rãi trong dân chúng, nhất là các nước Hàn Quốc, Trung Quốc, Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

          Tuy nhiên theo thông tin từ dược sĩ Nguyễn Hương Thảo, Giám đốc chuyên môn của công ty Hiệp Bách Niên, mật gấu đang được khai thác và bán trên thị trường thường không đạt tiêu chuẩn để chữa bệnh, do lẫn lộn giữa mật gấu ngựa và các loại mất gấu khác; chủ yếu là mật xanh, kém chất lượng và chất lượng mật gấu cũng sẽ giảm nếu lấy mật không đúng cách.

          Vì sao mật gấu ngựa lại có nhiều công dụng đặc trị, đặc biệt là dành cho các bệnh lý về gan? Đó chính là nhờ axít UDCA, một loại axít mật chỉ có ở mật gấu ngựa. Để hiểu rõ hơn về vai trò của mật gấu ngựa trong điều trị các bệnh lý về gan, tại buổi hội thảo khoa học với chủ đề DaewoongURSA-S - Xu hướng mới trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe do Công ty TNHH Dược phẩm Hiệp Bách Niên tổ chức với sự tham dự của hơn 200 đại diện các nhà thuốc trên địa bàn TP HCM, Phó Giáo Sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Bay, Trưởng bộ môn Bệnh Học, Phó Trưởng Khoa Y học cổ truyền, Trường ĐH Y Dược TP HCM đã trình bày báo cáo “Vai trò của UDCA - Mật gấu ngựa trong việc bảo vệ sức khỏe theo quan điểm y học cổ truyền” và Thạc sĩ - Bác sĩ Đinh Dạ Lý Hương, Giảng viên trường ĐH Y Dược TP.HCM, Phòng khám Viêm Gan Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP.HCM đã có phần trình bày về “Hiệu quả của UDCA trong việc bảo vệ sức khỏe, phòng ngừa và điều trị bệnh lý gan mật”.

          Cũng tại hội thảo trên, Công ty TNHH Dược phẩm Hiệp Bách Niên - nhà phân phối và tiếp thị các sản phẩm dược có uy tín trên thị trường đã phối hợp với Tập Đoàn Dược Phẩm Daewoong (Hàn Quốc) chính thức giới thiệu và ra mắt sản phẩm Daewoong URSA-S thay thế mật gấu và có tác dụng bảo vệ gan.

          Với cùng một lượng UDCA tinh khiết cung cấp cho cơ thể, giá của 1 viên Daewoong URSA-S vẫn thấp hơn rất nhiều so với 250mg mật gấu ngựa khô (tương đương khoảng 1cc mật gấu ngựa tươi nguyên chất). Hơn nữa, Daewoong URSA-S tinh khiết, không chứa các axít gây hại, an toàn, tiện dụng và mang lại hiệu quả kinh tế hơn.

          Tổ chức hội thảo Daewoong URSA-S - Xu hướng mới trong việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe và chính thức giới thiệu sản phẩm Daewoong URSA-S thay thế mật gấu, phục hồi và bảo vệ gan, công ty TNHH Dược phẩm Hiệp Bách Niên và Tập Đoàn Dược Phẩm Daewoong mong muốn đem đến cho người tiêu dùng Việt Nam nhận thức mới về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, đồng thời với việc bảo vệ và duy trì sự sinh tồn của loài gấu, một trong những loài động vật đang có nguy cơ tiệt chủng rất cao và cần được bảo vệ trên thế giới và tại Việt Nam.

          Thông tin sản phẩm:

          Sản phẩm Daewoong URSA-S (thành phần thuốc bao gồm: U.D.C.A 50mg; Vitamin B1 10mg; Vitamin B2 5mg) được khẳng định về chất lượng tại Hàn Quốc từ năm 1970, được khẳng định về chất lượng tại Hàn Quốc từ năm 1970, được nhập 100% vào Việt Nam vào tháng 7/2007. Các nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh: URSA-S có tác dụng:

          Tăng cường sức khỏe, chống mệt mỏi, uể oải
          Giảm stress, phòng ngừa loét dạ dày do stress
          Phục hồi và bảo vệ gan /trước và sau khi uống rượu
          Phục hồi và bảo vệ gan /bệnh gan mãn, viêm gan siêu vi
          Giảm cholesterol trong máu, điều trị và ngăn ngừa sỏi mật.
          Liều dùng:

          - Uống sau bữa ăn

          - Một viên nang mềm/lần x 3lần/ngày

          URSA-S chống chỉ định:

          - Mẫn cảm với TP của thuốc

          - Bệnh nhân tắc nghẽn ống mật chủ (ống mật chính)

          - Phụ nữ có thai & cho con bú

          Giá: 210.000 đồng/hộp.

          Comment


          • #20
            Cám ơn Cungdanxua .

            Comment


            • #21
              Cám ơn Cungdanxua nhìu , FS uống bia rượu nhìu lém chéc phải mua thuốc uống thoi. Mecxi.

              Comment


              • #22
                cám on nhiu lam ,em xin bai nay gui cho ngươi bai nhe, cam on!
                Việc gì cũng lưu lại chút nhân tình để mong sau này còn gặp mặt.

                Comment

                Working...
                X