Thiền và sức khoẻ
Trên thực tế, người thầy thuốc chỉ có thể chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chỉ có thể chữa được cái bệnh mà không chữa được cái hoạn.
Do vậy mà dù khoa học y học ngày càng phát triển với những thành tựu đáng kinh ngạc nhưng cũng chỉ là manh mún và thiếu sót, tình trạng tâm thần, tự tử, bạo lực, bất an và các bệnh do hành vi lối sống gây ra như tim mạch, tiểu đường, béo phì… cứ ngày càng phát triển. Thiền, phải chăng là một lối thoát?
Cho đến nay, các nhà y học chính thống và bảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vi và lối sống, đem lại những hiệu quả tích cực cho sức khoẻ của cá nhân và cộng đồng. Ngày càng có nhiều nghiên cứu về lâm sàng và về sinh lý học trong thiền nhằm soi sáng nhiều điều trước đây chỉ được biết qua kinh nghiệm. Nhưng thực ra thiền không dừng ở đó. Thiền Phật giáo lại còn có những sắc thái riêng biệt, đáng được nghiên cứu và thể nghiệm.
Con đường độc nhất đến thanh tịnh
Trong đời sống thường ngày, những người bình thường như chúng ta cũng có thể có những phút “ngộ”: đời là vô thường, là bóng câu qua cửa sổ, là bọt bèo, là giấc mộng. Nhưng ta chỉ “ngộ” một chút rồi quên, rồi “trôi lăn” theo những tham sân si, những quấn quít chằng chịt không sao thoát nổi! Ngay những triết gia quay quắt tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, sự hiện hữu của kiếp người cũng vẫn loay hoay với bao triết thuyết rồi đâu vào đó. Hẳn phải có một con đường khác.
Phật khẳng định có con đường khác đó: “Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…” Đó chính là con đường hạnh phúc mà Phật đã trải nghiệm với nụ cười tự tại trên môi, con đường nhất quán, xuyên suốt 45 năm tận tuỵ sẻ chia cho mọi người từ ngày thành đạo. Đó là con đường thực nghiệm, không lý thuyết suông, không hý luận, được kiểm chứng và có tính phổ quát. Những lời dạy cuối cùng của Phật cùng các đệ tử cũng đã không quên nhắc lại con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh này, bởi sợ rằng ngày sau người ta lại có thể say mê với những tranh luận, hý luận, mà quên thực hành, thể nghiệm. Con đường đó chính là thiền định, từ đó dẫn đến tuệ giác, giải thoát rốt ráo.
Thiền đã có từ rất lâu đời. Có lẽ từ ngày xa xưa con người tình cờ phát hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái an lạc, sảng khoái, siêu thoát nào đó, một trạng thái nói không được, mà chỉ có thể cảm nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích luỹ kinh nghiệm, truyền đạt lại cho nhau bằng nhiều cách.
Chính Đức Phật, trong khi tìm kiếm con đường giải thoát, tình cờ nhớ lại tuổi ấu thơ của mình đã có lần rơi vào trạng thái sơ thiền này mà nhanh chóng phát hiện ra con đường riêng của mình, con đường không những diệt trừ khổ ưu mà còn dẫn đến thành tựu chánh trí. Trước đó ngài đã từng rời bỏ những con đường thiền khác.
Rõ ràng thiền đã có từ xa xưa nhưng thiền Phật giáo có những sáng tạo riêng. Thế nhưng đọc cả chồng sách luận về thiền, ta càng bị tẩu hoả nhập ma, bởi có lẽ nó là cái gì đó “bất khả thuyết” và đặc biệt “bất khả đắc” khi ta nóng lòng muốn “chộp” lấy nó! Nó như thách thức những học giả, những trí thức mà lại mỉm cười với anh hàng thịt, người gánh rau, bởi nó đòi hỏi sự tinh tấn thực hành, sự nhẫn nhục thể nghiệm trên chính bản thân mình hơn là ngàn chương khảo luận.
Một phương pháp trị liệu khoa học
Âu Mỹ mới đi sâu nghiên cứu về thiền chừng khoảng hơn nửa thế kỷ nay nhưng chỉ 30 năm gần đây thì thiền mới được coi là một phương pháp trị liệu khoa học trong y học. Cũng đã có những nghiên cứu so sánh các kỹ thuật thiền. Những nghiên cứu về sinh lý học giúp thiền ngày càng được hiểu rõ hơn. Hành giả có thể giảm đến 40% nhu cầu oxy và giảm 50% nhịp thở trong lúc thiền.
Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ rằng thiền cũng giống như giấc ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng qua các nghiên cứu cho thấy thiền khác hẳn, thực sự là một trạng thái tỉnh giác, ở mức tiêu thụ năng lượng thấp nhất tuỳ trình độ hành giả. Ở những hành giả thực hành thiền dài khoảng 30 – 40 phút thấy mức lactate trong động mạch giảm, phenylalanine tăng 20%, hoạt động hệ giao cảm giảm trên bề mặt da và nhịp tim cũng giảm đáng kể.
Về nội tiết, thấy giảm cortisol (hormone chủ yếu của stress) và ACTH; TSH, GH cũng giảm, trong khi đó arginine vasopressin, được coi là có vai trò trong học tập và trí nhớ lại gia tăng đáng kể. Hiện ngày càng có nhiều nghiên cứu về beta-endorphin, corticotropin, melatonin, DHEA hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của thiền trên nhiều mặt về y sinh học.
Hoạt động điện não đồ EEG cũng cho thấy thiền có sự khác biệt với nghỉ và ngủ. Thiền không phải là giấc ngủ, trái lại là một trạng thái an tịnh tỉnh giác. Các nghiên cứu về sinh lý học trong thiền vẫn còn đang tiếp diễn. Thế nhưng đã chứng minh được thiền có khả năng làm giảm stress, cao huyết áp, tạo sự sảng khoái, yếu tố của sức khoẻ, của chất lượng cuộc sống. Nghiên cứu đối chứng về cơn đau kinh niên, lo âu, trầm cảm cho thấy thiền làm giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói chung và giảm 70% triệu chứng lo âu. Hành giả thực hành thiền hơn năm năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi.
Một nghiên cứu trên học sinh cấp hai có thực tập thiền cho thấy kết quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, có thói quen làm việc, cải thiện hành vi (xung đột, hung hãn), tăng lòng tự tin, khả năng hợp tác và quan hệ với người khác. Thiền cũng giúp làm giảm cân, giảm béo phì, nghiện thuốc lá, rượu và các chất ma tuý nói chung. Đặc biệt, một nghiên cứu đối chứng ở 44 bệnh viện cho thấy thiền đã giúp làm giảm sai sót chuyên môn y khoa đến 50%, đồng thời cũng làm giảm 70% các vụ khiếu kiện của bệnh nhân đối với bệnh viện. Ở các công nhân kỹ thuật có thực tập thiền trong tám tuần cho thấy họ làm việc phấn khởi hơn, thích thú hơn, nhiệt tâm hơn, giảm thiểu các bệnh cảm cúm thường gặp so với nhóm không thực tập thiền.
Tóm lại, hiệu quả của thiền đã được chứng minh trong nhiều lãnh vực đời sống.
BS Đỗ Hồng Ngọc
SGTT
SGTT