Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Chân tu cửu yếu

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Chân tu cửu yếu

    CHÂN TU CỬU YẾU
    TUYÊN NGÔN CỦA ĐẠO GIA KHÍ CÔNG

    Mục lục
    CHÂN TU CỬU YẾU - TUYÊN NGÔN CỦA ĐẠO GIA KHÍ CÔNG .................................................. ............ 01
    CHÂU THIÊN NGHỊCH CHUYỂN CÔNG PHU CHÍNH TÔNG.............................................. ....................... 08
    THIỀN ĐỊNH.............................................. .................................................. ...................................... 08
    TIẾN DƯƠNG CÔNG.............................................. .................................................. ........................... 10
    THOÁI ÂM CÔNG.............................................. .................................................. ............................... 10
    NGOẠI CHÂU THIÊN............................................. .................................................. ........................... 10
    TÂM TỨC TƯƠNG Ý................................................. .................................................. ........................ 10
    ĐỘNG TÁC THU CÔNG.............................................. .................................................. ....................... 10
    CÁC BÀI GIẢNG CỦA SƯ HUYNH HUYỀN QUANG TỬ................................................ ............................ 11
    CÁC HỎI ĐÁP CỦA SƯ HUYNH HUYỀN QUANG TỬ VÀ NGƯỜI MỚI NHẬP MÔN........................................... 22
    NHỮNG SAI LẦM TRONG KHÍ CÔNG HIỆN ĐẠI .................................................. .................................. 38
    HỎI - ĐÁP V Ề NHỮNG SAI LẦM TRONG KHÍ CÔNG HIỆN ĐẠI............................................... ................ 41
    HOẠ BÀN "HOÀN NGUYÊN THIÊN"............................................ .................................................. ........ 44
    KHẨU QUYẾT TỐI THƯỢNG TU TIÊN THIÊN............................................. ........................................... 52
    CÁCH KHÔNG ĐẢ VẬT............................................... .................................................. ....................... 56
    MẬT TÔNG - BÍ MẬT CỦA MẬT TÔNG ĐẠI THỦ ẤN VÀ KINH MẠCH.............................................. ......... 57
    THẬP NHỊ ĐOẠN CẨM (bài tập tự chữa bách bệnh)............................................. ................................. 62










    -------- Tựa Tu chân cửu yếu --------

    Thê Vân Sơn Tố Phác tán nhân Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh sáng tác
    Môn nhân Trương Dương Toàn duyệt lại
    Đạo tu chân là việc lớn nhất trong thiên hạ, cũng là việc khó nhất trong thiên hạ. Vì nó rất lớn và rất khó, nên cổ nhân đều gọi là việc hiếm có trong thiên hạ. Việc này, nếu không hiểu sâu tạo hóa, hiểu rõ Âm Dương, giữ chí lâu bền không đổi, tuần tự mà tiến, thì không thể thi hành được. Người học sau này, chẳng thèm nghiên cứu xem việc này là việc gì, chưa từng học đạo, mà liền muốn thành đạo chưa từng học làm người, mà liền muốn làm tiên. Chẳng lạ là người tu đạo như lông trâu, mà người thành đạo như sừng lân vậy. Ta từ nhỏ mộ đạo, chưa gặp được bậc chính nhân, chẳng phân phải trái, như rối trí như khổ sở, cơ hồ thụ hại. May gặp thầy ta là Kham Cốc lão nhân, thoảng nghe lời ngọc, mới biết sai lầm từ trước của mình, cũng biết đạo nhân trong thiên hạ quá nửa là nhầm. Nhân thuật lại ý của thầy ta, đề ra cương lĩnh tu chân, tóm lại chín điều, tên là Tu chân cửu yếu. Phép này từ nông đến sâu, từ thấp lên cao, vì người mới học mà làm một cái bậc thang. Bất luận học đạo tu đạo, cứ theo cửu yếu, tuần tự mà nhập, cuối cùng tất học được thâm sâu, còn có thể biết được manh sư minh sư , luận được tà đạo chính đạo. Dù không thể thi hành cái việc hi hữu trong thiên hạ này, cũng có thể biết là có cái việc hi hữu trong thiên hạ này, tiếp là không để uổng phí tháng năm, uổng sống trong kiếp này.
    Năm Mậu Ngọ, nhà Đại Thanh năm Gia Khánh thứ ba, ngày mừng chín tháng tám, Thê Vân sơn Tố Phác tán nhân Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh tự viết bài tựa trong Tự Tại Oa.


    Khám phá thế sự đệ nhất yếu
    Đệ nhất yếu - Khám phá thế sự
    Chao ôi! Nhân sinh ở đời, như mộng ảo bóng nước, trăm năm tuế nguyệt, chỉ trong chớp mắt. Khi Vô Thường tới, dù có bạc vàng chất đống, mà chẳng mua được Tính Mệnh hiếu tử hiền tôn, phân không hết ưu sầu. Nếu không sớm thu xếp, thì lúc lâm sự tay chân bấn loạn, Diêm Vương lão tử chẳng chịu lưu tình, một khi đã mất thân người thì vạn kiếp trầm luân. Kẻ có chí với đạo, cần đem cái cửa ải này nhanh chóng mở ra, mới thông được ra con đường lớn. Nếu chẳng vậy, trần duyên không đoạn, mà vọng tưởng thành đạo sao. Tuy thân đã xuất gia, mà tâm chưa từng xuất gia, nhất cử nhất động, chẳng qua là công phu hay dùng ở thế tục, lúc đi lúc đứng, đều là công việc ở nhân tình, không chỉ không thể thành đạo, mà còn hết cách để nghe đạo, quý báu gì xuất gia như vậy? Xưa đến nay vô số người học, phần nhiều dẫm vào vết này. Vì vậy mà người học đạo như lông trâu, người đạt đạo như sừng lân. Ngộ Chân nói: “Thí vấn đôi kim như đại nhạc, vô thường mãi đích bất lai vô?-Thử hỏi bạc vàng cao như núi, mua được Vô Thường không đến không”. Liễu đạo ca nói: “Tiên tương thế sự tề phóng hạ, hậu bả đạo lí tế nghiên tinh.-Đầu tiên đem thế sự nhất tề buông bỏ, sau đem đạo lí nghiên cứu kĩ càng” là nói thế sự đều là giả, Tính Mệnh cực chân, muốn biết cái chân, đầu tiên phải bỏ cái giả vậy. Vì sao thế? Khi nhận cái giả, thì tâm phục dịch cái giả, một cái giả thì không gì không giả, càng ngày càng xa đạo, thì không là người tự quý Tính Mệnh. Không tự quý Tính Mệnh, huyền hư chẳng thật, uổng qua năm tháng, đến già thì chết, có ích gì đâu? Xưa Lữ tổ nhân một giấc mộng mà các tư tưởng lập tức giải thoát, Mã tổ nhân gặp cái chết mà thành đạo rất nhanh, là vì đầu tiên khám phá thế sự rồi sau đó tu chân. Vì thế thành chân liễu đạo còn dễ với người khác, huống gì người xuất gia tu hành tất nhiên phải khám phá thế sự. Nếu chưa khám phá mà cưỡng xuất gia, hữu danh vô thực, vốn muốn đăng thiên mà ngược lại bị rơi xuống đất, nhanh chóng thất bại, há không uổng phí tâm cơ sao? Ta mong người học, bất luận tại gia hay xuất gia, nếu muốn biện luận về đại sự thiết thân, đầu tiên đem thế sự thăm dò qua một lượt. Thăm dò đi thăm dò lại, thăm dò đến một chỗ không có một chút mùi vị, mới biết vạn duyên đều là không, Tính Mệnh là việc lớn, từ đây đem toàn bộ các việc hư giả ngoài thân xóa bỏ toàn bộ. Chân đi thực địa, tầm sư phỏng hữu, dũng mãnh tinh tiến, vì đạo quên mình, tự nhiên lòng thành cảm động trời cao, tổ sư âm thầm nâng đỡ, sẽ có chân nhân độ dẫn vậy.


    Tích đức tu hành đệ nhị yếu
    Đệ nhị yếu - Tích đức tu hành
    Ngộ Chân nói: “Nhược phi tu hành tích âm đức, động hữu quần ma tác chướng duyên. – Nếu không tu hành tích âm đức, thì động có quần ma làm ra các duyên chướng” có thể biết tích đức tu hành là việc cần thiết của người tu đạo. Nếu rời xa đức để nói đạo, thì là dị đoan tà thuyết, bàng môn ngoại đạo, sai lầm nhiều vậy. Nên thánh nhân đời xưa, đầu tiên phải hiểu rõ đạo hiền nhân đời xưa, đầu tiên phải tích đức. Chưa từng có ai không hiểu rõ đạo mà có thể là thánh, chưa từng có ai không tích đức mà có thể thành người hiền. Nhưng muốn mong thánh đầu tiên phải mong hiền, nếu muốn thành đạo đầu tiên phải tích đức. Đạo và Đức lưỡng dụng, trong ngoài giúp nhau, thì đắc cái sự nghiệp học của thánh hiền vậy. Đạo là việc của ta, Đức là việc người. Tu đạo có tận cùng mà tích đức thì vô cùng. Từ xưa đến nay, sau khi tiên phật thần thánh thành đạo, còn phải hòa quang đồng trần, tích lũy công hạnh, đợi đến tam thiên công mãn, bát bách hành hoàn , mới nhận thiên chiếu. Huống gì Kim Đan Đại Đạo bị quỷ thần căm ghét, chẳng phải người đại trung đại hiếu thì không thể biết, chẳng phải người đại hiền đại đức thì chẳng dám truyền. Nếu cưỡng truyền mà bị biết, quỷ thần không vui, thế tất ngầm giáng tai ương, đẩy nhanh thọ số. Chẳng những vô ích, mà còn có hại. Ta từ khi được Kham Cốc tiên chỉ dạy, coi đại công là điều hoài bão, mỗi lần gặp kẻ chí sĩ, liền muốn tiếp dẫn. Thỉnh thoảng hơi bảo cho biết đầu mối, từ từ xem sau đó, không lâu thì họ tự mãn tự túc, nên chẳng thể vào sâu, cuối cùng đến càng lâu ngày càng lười nhác, chí khí mất cả. Họ tiếc tham phiền não, quá cả người thường. Trước sau vài người, đều như vậy cả. Ôi! Bọn đó chắc là tổ tiên vô đức, tự mình vô hạnh, chỉ vì đầu tiên chăm chỉ cuối cùng lười nhác, nên mê mất chân tông, mà không thể vãn hồi vậy. Ta vì tự mình không cẩn thận, lỡ lời nói với bọn phỉ đồ, cũng gặp nhiều ma chướng. May mà không quan hệ lớn, chân bảo chưa bị cướp đi. Xem xét điều này, sau liền giấu lưỡi, không dám khinh lộ phong thanh, mà phải đợi người có đại lực mới dốc túi truyền trao vậy. Người học ở đời mới nhập môn hộ, thẳng coi thần tiên là công việc rất dễ, mà liền lừa dối thập phương, không sợ gì cả. Tuyệt không nghĩ một mảy một may đều là mồ hôi và máu của thập phương một chén nước một miếng cơm đều là khổ lực của chúng sinh. Hoặc có kẻ dùng lời miệng lưỡi về thiền để lôi kéo người hoặc có kẻ dùng giả đạo pháp để nhiếp tiền tài hoặc có kẻ dùng thuật hoàng bạch để âm mưu lừa bịp thiên phương bách kế, không thể đếm xuể. Sau này mắc nợ mười phần tiền của, không biết tiêu hóa thế nào. Cổ nhân nói: “Lưỡng chỉ giác hoặc hữu hoặc vô, nhất điều vĩ thiên định vạn định-Hai cái sừng hoặc có hoặc không, một sợi đuôi ngàn định vạn định”, phải bọn đó không? Người có chí với đạo, cần coi đức hạnh là trọng, tự lập tiết tháo, không được hồ đồ gây sự, để lỡ mất tiền trình. Thế nào là đức? Giúp người già giúp kẻ nghèo, thương kẻ cô quả, bố thí thuốc men, sửa cầu sửa đường, phù nguy cứu khốn, khinh tài trọng nghĩa, thi hành rộng rãi các điều tiện lợi là vậy. Thế nào là hành? Ta chịu khó làm lợi cho người, chăm chỉ làm việc vất vả ở trần gian, thi đức mà không mong báo, có oán mà không kết thù, có công mà không khoe, có khó khăn không ngại, gặp việc nghĩa là phải làm là vậy. Hay tích đức, hay lập hạnh, càng lâu càng cố gắng, đức phục quỷ thần, phẩm hạnh vượt kẻ tầm thường, cao nhân mà gặp, quyết định lọt vào mắt, có hi vọng về đại đạo vậy. Nếu không vậy, không tích dù chỉ một đức, không sửa dù chỉ một hành vi, vọng tưởng thành đạo, ngẫu nhiên mà gặp cao nhân, giấu cái xấu mà nêu ra cái tốt, tự nói có thể lừa người, thực không biết người ta nhìn mình, như thấy cả gan ruột vậy. Còn có những kẻ không chăm chú vào bổn phận, tác nghiệt trăm điều, sáng rượu chè rồi tối phấn son, miệng đạo đức mà tâm đạo chích, hại người lợi ta, ngàn kì trăm quái, không biết tự hối, lại quay lại oán tự mình vô phúc vô duyên, mà phỉ báng đan kinh toàn lời nói dối. Lúc chuyển thế trong địa ngục, bị đầu thai vào loại khác, mong làm người còn chẳng được, sao dám mong thành tiên đây.
    Ôi! Đức là việc của tự thân nhân thế. Đạo là việc thầy truyền mà thành tiên. Không tích đức mà muốn tu đạo, nhân sự còn chẳng thể, tiên đạo sao thành được, có thể không suy nghĩ sao


    Tẫn tâm cùng lí đệ tam yếu
    Đệ tam yếu – Tận tâm cùng lí
    Thuyết quái truyện nói: “Cùng lí tận tính, dĩ chí vu mệnh. – Xét đến cùng về lí, hiểu tường tận về Tính cho đến Mệnh” có thể thấy cái học tận Tính chí Mệnh, toàn nhờ vào việc xét đến tận cùng về Lí mà định thị phi vậy. Thấu triệt đến cùng về Lí, thì Tính có thể toàn vẹn, Mệnh có thể bảo, thẳng vào vùng vô thượng chí chân không thấy được tận cùng về Lí, thì Mệnh khó tu, Tính khó liễu, cuối cùng hối hận đến già mà chẳng ích gì. Người học ngày nay, hồ đồ xuất gia, hồ đồ học đạo, hồ đồ tu hành, sống thì đã hồ đồ, lúc chết sao có thể trong sáng được? Tính Mệnh là việc thế nào, mà ngươi làm bừa như vậy! Đạo Kim Đan, là đạo bao la trời đất, đạo trộm đoạt tạo hóa vậy, chí tôn chí quý, chí thần chí diệu, không dễ dàng biết được đâu. Người học không nghĩ xem Tính Mệnh của mình là vật gì, chẳng phân biện pháp ngôn của tổ sư có nghĩa gì, chỉ suốt ngày ăn no, chẳng dụng tâm chút nào, nghĩ ngợi lung tung về diệu kỳ của một câu nửa chữ, mà liền muốn thành đạo, ngày thì lêu lổng lung tung, đêm thì kê cao gối ngủ ngon lành, coi Đan kinh là lời vô dụng, coi Tử thư là lời sáo rỗng dối người. Giả xưng người có đạo, lấy sai dẫn sai, cuồng mong thành chân, lấy mù dụ mù. Liền có một hai kẻ có lòng tin, cũng chẳng qua là cưỡi ngựa xem hoa, đâu đã từng suy nghĩ sâu sắc, nghiên cứu đến cùng thực lí. Cổ nhân cũng có nói: “Nhược hoàn chỉ thượng tầm chân nghĩa, biến địa đô thị đại la tiên-Nếu chỉ tìm chân nghĩa trên giấy, thì mặt đất này đầy Đại La Tiên”, là riêng vì kẻ không chịu cầu thầy mà nói ra, chứ không phải nói Đan kinh, Tử thư là vô dụng. Người sau này không biết ý của cổ nhân, phần nhiều dựa vào đó làm bằng chứng, mà liền không thèm hỏi đến kinh thư, thật sai lầm, thật sai lầm. Pháp ngôn của Tiên Chân, một chữ một ý đều không dám xằng bậy đưa ra, một lời nửa câu đều tàng diệu nghĩa, không biết tốn hết bao nhiêu tấm lòng nhân ái, vì đời sau mà làm cái thang tốt, vì giáo môn mà lưu lại những điều quan trọng. Nay ngươi quay lại phỉ báng, tội đó còn có thể nói được sao! Sau này, cao nhân hiền sĩ có sáng tác hay làm gì đó, nói chung đều ở trong phạm vi của cổ nhân, xét đến cùng sự thực, vị tất cao hơn cổ nhân. Cao nhân đời này không lừa người học, thì có thể thấy tiên chân đời xưa chẳng mê hoặc người đời sau đâu. Ta khuyên kẻ có chí, lấy pháp ngôn của cổ nhân, xem xét tỉ mỉ đến tận cùng, nhất quyết cầu thầy, thông tiền đạt hậu, không còn một điểm nghi hoặc, mới có thể thi hành, cẩn thận mắc phải sai lầm tự coi mình là thông minh, mà coi ta là nhất chẳng coi ai ra gì cũng không được chỉ nghe phong thanh, mà để người mê hoặc ta cho đến người học mà không thông văn tự, cũng cần ở tục ngữ thường ngôn, mà biện luận ra nghĩa thực. Vì Đại Đạo tàng ở trong tục ngữ thường ngôn, chỉ do người chưa nghĩ sâu thôi. Như “một thể diện”, “một nhân hình”, “hữu khiếu đạo”, “hảo tự tại”, “điên tam đảo tứ”, “tùy phương tựu viên”, “tùy cơ ứng biến”, “sa lí đào kim”, “vô trung sinh hữu”, “thất tử bát hoạt”, “hữu kỉ vô nhân”, “bất tri tử hoạt”, “bất cố tính mệnh”, “chỉ tri hữu kỉ, bất tri hữu nhân”, “tẩu tam gia bất như thủ nhất gia”, “lễ hạ vu nhân, tất hữu sở đắc”, “chỉ tri kì nhất, bất tri kì nhị”, những câu này là đại lộ thiên cơ, rút lấy một hai câu có sao đâu, mà làm cái để tham ngộ, sáng xem chiều nghĩ. Dù không rõ ý chính, mà tri thức dần rộng mở, càng gần với Đạo, cũng không uổng phí tháng năm. Học đến tận cùng về lí, bất luận hiền ngu, ai ai cũng có thể làm được, nếu công phu chăm chỉ không thiếu, thì lâu ngày sẽ tự có sở ngộ. Nhưng cái ngộ đó là ý kiến riêng của mình, không được hạ thủ lung tung. Nếu gặp minh sư, thì cần phải thấu triệt từ đầu đến cuối, truy cứu đến mức rõ ràng, thấy rõ chân tri, đắc tâm ứng thủ, mới không lầm lẫn. Nếu biết trước mà không biết sau, hay biết sau mà không biết trước, biết Âm mà không biết Dương, biết Dương mà không biết Âm, biết thể mà không biết dụng, biết dụng mà không biết thể, hoặc biết hữu vi mà không biết vô vi, hoặc biết vô vi mà không biết hữu vi, hoặc thấy Huyền Quan mà không biết Dược sinh, hoặc biết Dược mà không biết già non, hoặc biết kết Đan mà không biết phục Đan, hoặc biết kết Thai mà không biết thoát Thai, hoặc biết Văn đun mà không biết Vũ luyện, hoặc biết Vũ luyện mà không biết Văn đun, hoặc biết Dương Hỏa mà không biết Âm Phù, hoặc biết Tiến Hỏa mà không biết dừng lại, hoặc biết ôn dưỡng mà không biết trừu thiêm-thêm bớt, chỉ sai một li là đi ngàn dặm, chưa thể thành chân. Không chỉ như vậy, mà còn Âm Dương có trong ngoài, ngũ hành có chân giả. Hai đoạn công phu Tính Mệnh, trước sau hai trời cách biệt, có chân có giả, có giả trong chân, có chân trong giả, có chân trong chân, có giả trong giả. Các chỗ quan trọng này nếu nghiên cứu không thấu triệt, thì đi mà không đến luận mà không rõ, thì làm mà không thành. Vì thế Lữ Tổ ba lần Hoàn Đan mà chưa thành, sau được Thôi Công [Nhập Dược Kính] mà mới hoàn thành công phu tổ Tử Dương có cái lo về phong lôi lúc nửa đêm, lại tiếp tục tu trì mà mới xong việc. Như hai vị này, là lãnh tụ trong các thần tiên, một chút không rõ, còn có chỗ không dự liệu được, huống gì người khác đây? Người học cần thật lưu ý


    Phóng cầu chân sư đệ tứ yếu
    Đệ tứ yếu - Phỏng cầu chân sư
    Cổ tiên nói: “Nhược vô sư chỉ nhân tri đích, thiên thượng thần tiên vô trụ xử - Nếu không thầy chỉ mà người tự biết được, thì thần tiên trên trời không chỗ mà ở”. Tiếp nữa [Ngộ chân] nói: “Nhiêu quân thông tuệ quá Nhan Mẫn, bất ngộ chân sư mạc cưỡng sai – Mặc anh thông tuệ hơn Nhan Mẫn, không gặp chân sư chớ đoán xằng”, thật là đúng về cái học Tính Mệnh, phải có thầy truyền, không thể đoán xằng đoán bậy mà biết được, xưa tổ Đạo Quang đốn ngộ viên thông, mà tự biết nhất định phải tiếp tục vươn lên, sau gặp được tổ Hạnh Lâm mà thành Đại Đạo tổ Thượng Dương dù được khẩu quyết của Duyên Đốc, mà không dám tự coi là đủ, còn phải gặp Thanh Thành mà mới đủ hỏa hậu tổ Tam Phong chịu khổ qua hơn mười năm ở Tung Sơn, chẳng đắc được gì, sau cảm động được Trịnh Lữ nhị tiên chỉ điểm, mới biết đại sự. Dù là nghề mọn thuật con ở thế gian, còn phải nhờ thầy truyền mới biết, huống gì Tính Mệnh đại sự, há có thể không thầy mà biết? Vì đạo Tính Mệnh, là trộm Âm Dương, đoạt tạo hóa, chuyển sinh sát, bắt Khí cơ, là cái đạo Tiên Thiên-trước trời mà trời không trái, quỷ thần không thể dò, cỏ thi mai rùa không thể bói ra được, người được nó liền bước lên đất thánh, sang thẳng Bỉ Ngạn, là việc lớn nhất thiên hạ, là việc khó nhất thiên hạ, nếu không phải Thánh sư ghé tai truyền ngôn, làm sao mà biết được? Chỉ là bàng môn 3.600 môn, Đan pháp 72 phẩm, lấy tà hại chính, lấy giả loạn chân, ai là manh sư-thầy mờ, ai là minh sư-thầy sáng, thật khó luận rõ. Nhưng luận rõ cũng dễ, thường là cao nhân xuất thế, tự mệnh bất phàm, độc huyền tuyệt điều , không kết giao bừa bãi, không nịnh đời, không đồng đảng, không cần danh, chẳng nhờ tiền tài, không mưu lợi, không dối người, không quái đản, một câu một lời, đều có ích với thế đạo, đi hay đứng, đều có ích lớn cho thánh giáo. Tham, sân, si, ái đều không có. Ý, tất, cố, ngã đều hóa hết. Phẩm tiết thanh cao, ai ai cũng không thể bằng, tấm lòng rộng mở, chẳng ai đạt được. Thảng hoặc đề cử chí sĩ, cũng phải vất vả trăm chiều, thử nghiệm chân giả, nếu thực là ngọc quý không vết, mới dám chỉ ra đầu mối nếu là kẻ xấu, thì quyết không dám tiết lộ thiên cơ. Vì thế mà là minh sư-thầy sáng vậy. Nếu như manh sư-thầy mờ chả có gì mà coi là có, rỗng tuếch mà coi là đầy, chẳng dám tự nghĩ mình sai, lại đem đường sai ra dạy người. Có kẻ chỉ nam nữ là Âm Dương, có kẻ coi gạo thường là Thử Châu, có kẻ coi Lô Hỏa là Ngoại Đan, có kẻ luyện tâm thận là Nội Đan, có kẻ coi tồn tưởng là ngưng thần, có kẻ thi hành Tý Ngọ trừu thiêm-thêm bớt, có kẻ vận chuyển lộc lô là Chu Thiên, có kẻ nhận ngoan không là vô vi, có kẻ coi vận khí là hữu vi, có kẻ coi vong hình là tu tĩnh, có kẻ luyện thụy-luyện ngủ là Thoái Âm, có kẻ uống lưu hoàng là Tiến Dương, có kẻ nhịn ăn ngũ cốc để kéo dài tuổi thọ, đủ loại như vậy, không sao đếm xiết. Cái bọn ấy, không nói việc công đức, tiết tháo thì không lập, thân mặc áo vá mà eo lưng giắt túi tiền, đầu đội mũ cài trâm mà tâm như rắn rít, thấy phú quý thì lưu tâm, gặp khốn khổ thì quên đạo, uống rượu ăn thịt, chẳng quan tâm đến mồ hôi và máu của thập phương, mất danh dự bại giáo quy, có hay vạn kiếp trầm luân lúc làm việc, chỉ dụng công ở chỗ tiền tài, khi cử động, toàn phí tâm tư vào quần áo và ăn uống, vừa lậy một cái, liền thu làm đồ đệ, một chén trà một bữa cơm, liền truyền đạo luôn, mượn môn hộ của thánh hiền, mà tự lừa dối thế nhân, trộm pháp ngôn của Tiên Phật, mà tác yêu tác quái, chỉ biết thân mình no ấm, quản gì người khác sống chết. Người học nếu nghe thấy nói năng như vậy mà không xét kỹ hành vi, lấy hữu đạo mà xem xét, thì chưa có ai không mắc vào lưới mà làm thương hại Tính Mệnh. Huống gì bị lời đó mê hoặc, nhận giả làm chân, cố kết không gỡ được, tuy có cao chân thánh sư muốn nâng đỡ, cũng chẳng có cửa mà vào. Đạo nhân trong thiên hạ gặp cái khó này, không chỉ một đâu. Bọn tu hành áo đen áo vàng, đi đông đi tây, ai không có vài tập công án? Ai không có vài câu sáo ngữ? Chỉ dựa vào mấy lời nói suông mà chọn người, thì ai ai cũng là Phật, người người là Tiên. Xin hỏi, người học đạo ngàn ngàn vạn vạn, người thành đạo được bao lăm? Đại để thánh hiền không thường gặp, Tiên Phật chẳng được nhiều, vì không thường thấy, không được nhiều, nên là cao nhân. Cao nhân hơn hẳn đồng loại, vượt hẳn hơn người, há vì vài lời nói suông mà thành cao nhân! Năm xưa thầy ta bí mật truyền kim thạch nhất phương, thích phân biện thân phận cao thấp của người. Nếu gặp người tu hành, lấy tửu sắc tài khí mà thử, nếu có thể không động tâm, tất là kẻ phi phàm, bèn lấy [Ngộ chân], [Tham đồng] ra căn vặn, mà ứng đối trôi chảy, tức là minh sư. Thí nghiệm nhiều lần, bách phát bách trúng, nguyện đem phép này, dâng tặng các vị cùng chí hướng.


    Luyện kỉ trúc cơ đệ ngũ yếu
    Đệ ngũ yếu - Luyện kỉ trúc cơ
    Thấm viên xuân nói: “Thất phản Hoàn Đan, tại nhân tu tiên luyện kỉ đãi thì-Thẩt phản Hoàn Đan, là ở người ta đầu tiên Luyện Kỉ đợi thời”. [Ngộ chân thiên] nói: “Nhược yếu tu thành cửu chuyển, tiên tu luyện kỉ trì tâm-Nếu muốn tu thành cửu chuyển, đầu tiên cần Luyện Kỉ giữ tâm”. Vì đạo tu chân, thì Hoàn Đan rất dễ, mà Luyện Kỉ rất khó, nếu không Luyện Kỉ mà muốn Hoàn Đan, thì tuyệt không có lí này. Hoàn Đan giống như cột chính của phòng ốc Luyện Kỉ giống như nền móng của phòng ốc. Nếu chưa xây đắp nền móng, thì cột chính không chỗ mà dựng chưa từng Luyện Kỉ, thì Hoàn Đan không thể ngưng kết. Người học đắc khẩu quyết của thầy, cần nhanh chóng Luyện Kỉ, Luyện Kỉ thuần thục, thì lúc vào Lô, kinh nghiệm đầy mình, đắc tâm ứng thủ, Diên Hống nhảy vào nhau, Tình Tính tương hợp, tự nhiên không bị cái họa có rồi lại mất. Chỉ vì người ta từ lúc sinh ra đến nay, Dương cực sinh Âm, Tiên Thiên chạy mất, Hậu Thiên chiếm quyền, vật cũ năm xưa, hoàn toàn chẳng còn là của ta, thêm vào trăm cái ưu phiền cảm nhiễm vào tâm, vạn sự làm lao nhọc thân thể, Tinh rò rỉ, Thần hôn mê, Khí suy bại, coi ảo thân này giống như nồi hỏng hũ vỡ. Nồi hỏng hũ vỡ, không chứa được nước thân thể con người suy bại, thì hoàn không được Đan, cũng là một lí cả. Nên tuy là Hậu Thiên giả vật, không phải là dược liệu để Hoàn Đan, nhưng chưa Hoàn Đan, thì vẫn còn phải nhờ cậy nó để thành công, và cũng không được có tổn thương. Cổ nhân nói: “Nhược vô thử mộng ảo, đại sự hà do bạn? Nhược hoàn đại sự bạn, hà dụng thử mộng ảo?-Nếu không có mộng ảo này, thì đại sự làm từ đâu? Nếu còn làm đại sự, thì dùng mộng ảo thế nào?” lại nói: “Bất phạ Tiên Thiên vô chân chủng, chỉ phạ Hậu Thiên bất phong quang-Chẳng sợ không có chân chủng của Tiên Thiên, chỉ sợ Hậu Thiên không tươi tốt”. Vì Hậu Thiên đủ thì Tiên Thiên có thể hồi phục, Tiên Thiên hồi phục thì Hậu Thiên có thể hóa, công phu Luyện Kỉ trúc cơ, há có thể coi thường! Thế nào là Luyện Kỉ? Bớt tham không ái là Luyện Kỉ giữ chắc Âm Tinh là Luyện Kỉ rèn luyện ma ngủ là Luyện Kỉ vất vả làm lợi cho người là Luyện Kỉ ra sức làm việc là Luyện Kỉ lòng chẳng kể công, bỏ hết thế sự là Luyện Kỉ dũng mãnh tinh tiến, coi đạo là nhiệm vụ của ta là Luyện Kỉ chân bước vào thực địa, bước nào cũng cố gắng là Luyện Kỉ phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất là Luyện Kỉ bị hạt hoài ngọc, đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết là Luyện Kỉ. Công phu Luyện Kỉ khá nhiều, tóm lại là lấy vô kỉ-không vì ta làm mục tiêu hướng đến. Lão Tử nói: “Ngô chi sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?-Ta sở dĩ có nỗi lo lớn, là vì ta có thân, đến lúc ta không có thân, thì ta có lo gì”. Luyện Kỉ luyện đến lúc vô kỉ, ngoại kì thân nhi thân tồn , Hậu Thiên ổn thỏa, nền móng kiên cố, Tiên Thiên Chân Dương quay lại, trộn vào nhau thành một. “Tiên Thiên Khí, Hậu Thiên Khí, đắc chi giả, thường tự túy-Tiên Thiên Khí, Hậu Thiên Khí, người được nó, thường tự say”, chỉ trong một giờ đảm bảo Đan thành. Nếu Luyện Kỉ, mà nhanh chóng thi hành công phu nhất thời, thì Hậu Thiên không vững chắc, Tiên Thiên tuy gần trong gang tấc, mà chưa chắc đã là của ta. Vì là Diên đến mà Hống đón lầm, Khảm tới mà Li không nhận, anh tới mà tôi không đợi vậy. Ôi! Lúc trúc cơ cần dùng thác thược, lúc Luyện Kỉ còn cần Chân Diên. Luyện Kỉ trúc cơ, há dễ làm sao
    Hòa hợp Âm Dương đệ lục yếu


    Đệ lục yếu - Hòa hợp Âm Dương
    Đạo tu chân là đạo Kim Đan đạo Kim Đan là đạo của tạo hóa đạo của tạo hóa là đạo của Âm Dương. [Dịch] nói: “Nhất âm nhất dương chi vị đạo-Một Âm một Dương gọi là Đạo”. lại nói: “Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh-Trời đất mịt mờ vạn vật hóa thuần, nam nữ giao tinh, vạn vật hóa sinh”. Mà cô Âm bất sinh, độc Dương bất trưởng, nên Âm Dương tương hợp, mới có thể sinh đẻ được. Đạo Kim Đan chỉ là hái giữ Tiên Thiên Chân Nhất Chi Khí. Tiên Thiên Chi Khí, vô hình vô tượng, nhìn thì không thấy, lắng tai nghe cũng chẳng thấy, bắt thì không được, là thứ từ trong hư vô tới. Thánh nhân lấy cái thực để hình dung cái hư, lấy cái hữu để hình dung cái vô. Thực mà hữu là Chân Âm Chân Dương hư mà vô là Khí Nhị Bát Sơ Huyền. Khí Sơ Huyền là Tiên Thiên Khí, Khí này không phải là do Âm Dương giao cảm, nên không thể có hình tượng. Nếu muốn tu Kim Đan Đại Đạo, trừ cái Âm Dương này ra, chẳng có thuật gì khác. Nhưng Âm Dương không giống nhau, nếu như nhận giả là chân, thì phí hoài tâm lực, vô ích hữu tổn, không thể không tranh biện. Âm Dương của nam nữ là Âm Dương của trần thế Âm Dương của tâm thận là Âm Dương của ảo thân Âm Dương của nhật nguyệt là Âm Dương của trời đất Đông Chí Hạ Chí là Âm Dương của một năm sáng ngày Sóc tối ngày Vọng là Âm Dương của một tháng giờ Tý giờ Ngọ là Âm Dương của một ngày nhị hậu tứ hậu là Âm Dương của một giờ. Những cái đó đều không phải Âm Dương của Kim Đan. Âm Dương của Kim Đan, lấy ngã gia-nhà ta làm Âm, lấy tha gia-nhà nó làm Dương ngã-ta là Li, tha-nó là Khảm Nhất Âm trong Li là Chân Âm, Nhất Dương trong Khảm là Chân Dương. Thủ Khảm điền Li, là lấy Chân Âm cầu Chân Dương, lấy Chân Dương giúp Chân Âm dã. Còn nữa, Âm Dương có trong ngoài khác nhau: Âm Dương bên trong, là Âm Dương thuận hành, là việc sau khi sinh thân, là Hậu Thiên, là nhân đạo Âm Dương bên ngoài, là Âm Dương nghịch vận, là việc trước khi sinh thân, là Tiên Thiên, là Tiên đạo. Âm Dương trong ngoài đều không có các tướng nam nữ, phi sắc phi không, tức sắc tức không phi hữu phi vô, tức hữu tức vô. Nếu chấp vào sắc không hữu vô chi hình, thì không phải là dấu vết thật của Chân Âm Chân Dương. Đã biết Âm Dương, cần phải điều hòa cho chúng tương đương nhau, không nhiều không ít, không lệch không nghiêng, không nhanh không chậm, chẳng có chẳng không, không gần không xa, không nóng nảy không hèn yếu, hoặc Dương động mà Âm theo, hoặc Âm cảm mà Dương ứng, hoặc dùng Dương trong Âm, hoặc dùng Âm trong Dương, hoặc mượn Âm để làm đủ Dương, hoặc dùng Dương để chế Âm, hoặc dùng Âm Dương bên trong để trợ bên ngoài, hoặc dùng Âm Dương bên ngoài để giúp bên trong, trong ngoài hợp đạo, Kim Đan kết tựu từ trong hư vô, lấy xuống mà uống, thì trường sinh bất tử.
    Tham đồng nói: “Đồng loại dịch thi công, phi chủng nan vi xảo-Đồng loại thì dễ thi công, khác giống thì khó mà làm cho phù hợp được”.
    Ngộ chân nói: “Nội Dược hoàn đồng Ngoại Dược, nội thông ngoại diệc tu thông, đan đầu hòa hợp loại tương đồng, ôn dưỡng lưỡng bàn tác dụng-Nội Dược hoàn cùng Ngoại Dược, trong thông ngoài cũng cần thông, Đan hòa hợp các loại tương đồng, có hai tác dụng ôn dưỡng”.
    Tổ Tam Phong nói: “Thế gian Âm Dương nam phối nữ, sinh tử sinh tôn đại đại truyền. Thuận vi phàm, nghịch vi tiên, chỉ tại trung gian điên đảo điên-Âm Dương ở đời là nam phối nữ, sinh con sinh cháu nối đời đời. Thuận là phàm, nghịch là Tiên, chỉ nhờ ở trong điên đảo điên”.
    Đạo điều hòa Âm Dương toàn là như vậy.


    Thẩm minh hỏa hậu đệ thất yếu
    Đệ thất yếu - Thẩm minh hỏa hậu
    Cổ kinh nói: “Thánh nhân truyền Dược bất truyện Hỏa, hỏa hậu tòng lai thiểu nhân tri-Thánh nhân truyền Dược không truyền Hỏa, xưa nay hỏa hậu ít người hay”. Tức là Dược vật thì dễ biết, mà hỏa hậu là cực khó. Vì Dược vật tuy khó tìm, nhưng nếu gặp minh sư chỉ rõ, nhìn rõ Chân Tri, hiện tại đã có, chẳng cần cầu nơi khác, vì thế mà dễ biết. Còn đến hỏa hậu, có Văn đun, có Vũ luyện, có hạ thủ, có dừng nghỉ, có trong ngoài, có trước sau, có thời khắc, có cân lượng, có nhanh chậm, có dừng lại, mỗi bước lại có mỗi bước hỏa hậu, bước nào cũng có hỏa hậu của bước đó, biến hóa đa đoan, tùy thời mà thi hành, mới có thể đúng được. Nếu sai một li là đi ngàn dặm. Vì thế mà cực khó. Thế nào là Hỏa? Là Thần Công nung luyện. Thế nào là Hậu? Là thời khắc vận dụng vậy. Thời khắc vận dụng ở lúc Hồng Mông mới phân, mà Âm Dương còn chưa phân Thần Công nung luyện là ở lúc tại thiên nhân hợp phát, hữu vô chẳng lập. Còn có Ngoại Hỏa Hậu, Nội Hỏa Hậu. Ngoại Hỏa Hậu là hội tụ ngũ hành, hòa hợp tứ tượng Nội Hỏa Hậu là mộc dục ôn dưỡng, phòng nguy lự hiểm. Tuy Nội Ngoại Nhị Dược tương đồng, mà vận dụng Hỏa Hậu lại rất khác nhau, chẳng gặp chân sư, sao mà biết được? Hội tụ ngũ hành, hòa hợp tứ tượng, là trộm sinh cơ của trời đất, trộm Tổ Khí của Âm Dương, quay Đẩu Bính mà chuyển Thiên Khu, mở Khôn Môn mà đóng Cấn Hộ, kì diệu ở lúc sau khi tích Âm thì Nhất Dương Lai Phục. Lúc này cùng thiên địa hợp đức, cùng nhật nguyệt hợp sáng, cùng bốn mùa hợp thứ tự, cùng quỷ thần hợp cát hung, mà nói một năm chỉ có một tháng, một tháng chỉ có một ngày, một ngày chỉ có một giờ là vậy. Chỉ có một giờ này, dễ mất mà khó tìm, dễ lầm mà khó gặp, được nó thì nhập vào con đường sống, mất nó thì nhập vào con đường chết. Trong một giờ này, Thánh nhân vận động Âm Phù Dương Hỏa, rút Thiên Căn mà khoan Nguyệt Quật, phá hỗn độn mà nhón lấy Thử Châu, hồi hết những cái quan trọng của 72 hậu , đoạt chính khí của 24 tiết. Thủy hỏa tương tế ở đây, Kim Mộc giao nhau tại đây, Diên Hống nhảy vào nhau ở đây, An Thân Lập Mệnh tại đây, xuất tử nhập sinh tại đây. Nếu qua mất giờ này, thì Âm Dương phân li, cái Chân tàng mất mà cái Giả chiếm quyền, mà rơi vào Hậu Thiên, không dùng được vậy.
    Rồi đến:
    - “Khúc Giang ngạn thượng nguyệt hoa oánh-Trên bờ Khúc Giang ánh trăng lóng lánh”, là Hỏa Hậu sinh Dược
    - “Phong tín lai thì mịch bổn tông-Lúc tiếng gió đến thì tìm bản tông”, là Hỏa Hậu hái Dược
    - “Thủy sinh nhị dược chánh chân, nhược đãi kì tam bất khả tiến-Thủy sinh hai Dược là chính chân, nếu đến ba lần không được tiến”, là Hỏa Hậu già non
    - “Diên ngộ Quý sinh tu cấp thái, Kim phùng vọng viễn bất kham thường-Diên gặp Quý mà sinh thì nhanh chóng hái, Kim phùng vọng viễn không dám nếm”, là Hỏa Hậu nhanh chậm
    - “Hốt kiến hiện long tại điền, tu mãnh phanh nhi cấp luyện đãn văn hổ khiếu nhập quật, nghi đảo chuyển dĩ nghịch thi-Đột nhiên thấy Hiện Long Tại Điền, cần nấu luyện mạnh mẽ chỉ nghe Hổ gầm xông vào huyệt, cần đảo chuyển để làm ngược lại”, là dùng Vũ Hỏa Hậu
    - “Mạn thủ dược lô khán hỏa hậu, đãn an thần tức nhậm thiên nhiên-Chẳng cần giữ lò canh hỏa hậu, chỉ an thần tức mặc thiên nhiên”, là dùng Văn Hỏa Hậu
    - “Vị luyện hoàn đan tu cấp luyện, luyện liễu hoàn tu tri chỉ túc-Chưa luyện Hoàn Đan cần mau luyện, luyện xong rồi cần biết dừng lại”, là Hỏa Hậu ôn dưỡng
    - “Chỉ nhân hỏa lực điều hòa hậu, chủng đắc Hoàng Nha tiệm trường thành-Chỉ vì sức hỏa được điều hòa, mà trồng được Hoàng Nha tự lớn lên”, là Hỏa Hậu của Đan thành
    - “Thác tâm tri, cẩn hộ trì, chiếu khán lô trung hỏa hậu phi-Bày tâm trí, cẩn thận hộ trì, chiếu xem trong lô hỏa hậu phi”, là Hỏa Hậu bảo vệ Đan
    Đó đều là Hỏa Hậu của Hoàn Đan. Đến Hỏa Hậu của Đại Đan, lại có diệu dụng riêng.
    - “Thụ khí cát, phòng thành hung-Nhận Khí lành, đề phòng hung hiểm lúc thành”, là Hỏa Hậu của kết Thai
    - “Hỗn độn thất nhật tử phục sinh, toàn bằng lữ bạn điều thủy hỏa-Hỗn độn bẩy ngày chết rồi sống lại, toàn nhờ bạn hữu điều hòa thủy hỏa”, là Hỏa Hậu củng cố vững chắc thành công
    - “Tống quy Thổ Phủ lao phong cố, thứ nhập Lưu Châu tư phối đương-Đưa về Thổ Phủ giam chắc lại, rồi nhập Lưu Châu là lúc phối hợp”, là Hỏa Hậu dưỡng Thai
    - “Dụng Diên bất đắc dụng phàm Diên, dụng liễu Chân Diên dã Khí quyên-Dùng Diên không được dùng Phàm Diên, dùng xong Chân Diên cũng bỏ đi”, là Hỏa Hậu trừu thiêm-thêm bớt
    - “Đan táo hà xa hưu khốt khốt, hạc thai quy tức tự miên miên-Lò bếp nấu Đan, Hà Xa ngừng chăm chỉ, thì hạc thai quy tức tự liên miên”, là Hỏa Hậu mộc dục-tắm gội nghỉ ngơi
    - “Nhất nhật nội, thập nhị thì, ý sở đáo, giai khả vi-Trong một ngày, 12 giờ, ý mà đến đều có thể tiến hành”, là Hỏa Hậu phòng nguy
    - “Anh Nhi thị nhất hàm chân khí, thập nguyệt thai hoàn nhập thánh cơ-Anh Nhi là Nhất Hàm Chân Khí, mười tháng thai tròn vào đất Thánh”, là Hỏa Hậu thành Thai
    - “Quần âm bác tẫn đan thành thục, khiêu xuất phàm lung thọ vạn niên-Lọc hết cặn Âm thì Đan chín đủ, thoát khỏi cõi phàm thọ vạn niên”, là Hỏa Hậu thoát Thai đây là Hỏa Hậu từ đầu đến cuối của Đại Đan. Còn có Hỏa Hậu trong ngoài hai tác dụng.
    - “Phàm tục dục cầu thiên thượng sự, dụng thì tu yếu thế gian tài-Kẻ phàm tục muốn cầu lên trời, thì cần phải dùng tiền tài thế gian”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu hái Dược
    - “Yển Nguyệt Lô trung Ngọc Nhụy sinh, Chu Sa Đỉnh lí Thủy Ngân bình-Ngọc Nhụy sinh trong Yển Nguyệt Lô, Thủy Ngân bình trong Chu Sa Đỉnh”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu Kết Đan “Đệ thất nhật dương phục khởi thủ, biệt diệu dụng hỗn hợp bách thần-Ngày thứ bảy Dương bắt đầu phục, có diệu dụng riêng hợp Bách Thần”, là Hỏa Hậu trong Hỏa Hậu Kết Thai
    - “Hữu vô câu bất lập, vật ngã tất quy không-Hữu vô đều không lập, ta vật phải cùng không”, là Hỏa Hậu của Hỏa Hậu Thoát Thai
    Bí mật về Hỏa Hậu của Nội Ngoại Nhị Đan, tất cả là ở đây vậy. Bên trong còn có chỗ cực kì tinh vi ảo diệu, cần phải dùng thần mà soi sáng, tồn ở trong người, lúc tới thì biến thông, không thể dùng câu chữ để truyền vậy.
    Ngoại dược liễu mệnh đệ bát yếu
    Đệ bát yếu - Ngoại Dược liễu Mệnh
    Ngộ chân nói: “Hưu thi xảo ngụy vi công lực, nhận thủ tha gia bất tử phương-Ngừng thi hành công lực giả dối, nhận giữ nơi bất tử của nhà kia”. Duyên Đốc Tử viết: “Tiên Thiên Chi Khí tự hư vô trung lai-Tiên Thiên Chi Khí từ trong hư vô tới”. Nói nhà kia, nói hư vô, thì biết là không phải vật của một mình ta sinh ra. Nói đến chỗ này, trời và người đều đang kinh nghi vậy. Trời dựa vào Âm Dương ngũ hành mà hóa sinh vạn vật, Khí đã thành hình, người được chính khí trời cho, mà là vạn vật chi linh, có Khí này là có cái Lí này. Khí là Mệnh Lí là Tính. Là Tính Mệnh tức là do trời trao cho. Mới đầu thì trời trao cho, cuối cùng thì trời đoạt lấy, đây là cái thế tất phải có. Nếu dựa vào vật Hậu Thiên ảo thân mà tranh quyền với trời, tóm lại chỉ ở trong bàn tay của tạo hóa, sao có thể thoát khỏi tạo hóa? Nếu không có đạo Kim Dịch Hoàn Đan, mà vọng tưởng bảo toàn Tính Mệnh, thì tuyệt không có lí này. Đạo Kim Dịch Hoàn Đan, là đạo Tiên Thiên-trước trời. Đạo Tiên Thiên thì bao la trời đất, vận động Âm Dương, là cái cơ bí mật nằm ngoài trời đất, nên có thể hết sinh tử mà tránh luân hồi, xuất phàm trần mà nhập thánh cơ. Nhưng cái cơ này tuy xa cách ngàn dặm, mà lại gần trong tấc gang, chỉ tiếc là thế nhân không chịu nhận cái Chân, nên nó ngày càng xa cách, tuyệt không quay lại, thật là tự đuổi Tính Mệnh. Nếu có chí sĩ, nghiên cứu đến cùng thực lí, đột nhiên phá hết chỗ hồ nghi, rõ ràng buông bỏ, thẳng lên Bỉ Ngạn, thì Kim Đan đỏ rực một ngày là thành, chẳng phải đợi ba năm chín năm làm gì. Nhưng Đan thành rất dễ, mà tu luyện rất khó, giả sử không có đạo hư thực tương ứng, Âm Dương biến hóa, dùng thuật kéo dài Mệnh, thì Kim Đan không kết. Đạo dùng thuật kéo dài Mệnh, là đạo đoạt quyền của thiên địa tạo hóa, trộm cơ quan tin tức của Âm Dương, chuyển sinh sát, lay Đẩu Bính, Tiên Thiên-trước trời mà trời không trái. [Âm phù kinh] nói: “Kì đạo cơ dã, thiên hạ mạc năng tri, mạc năng kiến-Cái cách trộm cơ quan này, thiên hạ chẳng ai hay, chẳng ai thấy”. [Ngộ chân] nói: “Thủy vu hữu tác nhân nan kiến, cập chí vô vi chúng thủy tri. Đãn kiến vô vi vi yếu diệu, khởi tri hữu tác thị căn cơ-Bắt đầu ở hữu tác thì người khó thấy, đến lúc vô vi họ mới hay. Chỉ thấy vô vi là yếu diệu, há hay hữu tác là căn cơ”. Vì người ta từ sau khi Tiên Thiên thất tán, Chân Dương đã hao tổn, hình hài tuy là đàn ông, mà bên trong đều là Âm, nếu chấp vào tự mình mà tu, chẳng qua là Thế Thóa Tân Tinh Khí Huyết Dịch , chẳng qua là Nhãn Nhĩ Tị Thiệt Thân Ý, chẳng qua là thất tình lục dục, ngũ uẩn bát thức, tam bành bách huyệt, là dùng Âm giúp Âm, thì Mệnh do đâu mà tiếp, Đan do đâu mà tiếp? Nên Tham đồng nói: “Tẫn kê tự noãn, kì sồ bất toàn-Gà mái tự đẻ trứng, thì không ấp thành gà con được”, là chứng cớ vậy. Cái mà Đan kinh gọi là Ngoại Dược là vì Chân Dương ngã gia-nhà ta thất tán ra ngoài, không thuộc về ta, ở nhà tha gia-nhà khác, nên lấy từ ngoại để đặt tên. Kẻ mê không biết, hiểu lầm chữ tha-chỗ khác, chữ ngoại-bên ngoài, hoặc lầm thành Ngự Nữ Khuê Đan, hoặc nhầm thành Ngũ Kim Bát Thạch, hoặc nhầm thành thiên địa nhật nguyệt, hoặc nhầm thành mây trời cây cỏ, cho đến bao nhiêu là vật hữu hình. Thật không biết rằng Đại Dược chân chính, phi sắc phi không, phi hữu phi vô, là cái Khí ban đầu lúc Hồng Mông chưa tách, là cái cốt lõi ban đầu khi trời đất chưa phân, thuận thì sinh người sinh vật, nghịch thì thành Tiên thành Phật. Thánh nhân dùng phép truy nhiếp, trong một giờ kết thành một hạt Thử Châu, tên gọi Dương Đan, cũng gọi là Hoàn Đan, cũng gọi là Kim Đan, cũng gọi là Chân Diên, dùng Chân Diên này điểm hóa Âm Hống của ta, như mèo bắt chuột, chớp mắt Càn Hống kết thành Thánh Thai, vì thế có tên là Ngoại Dược. Thử bày tỏ tỉ mỉ xem:
    - “Dược xuất tây nam thị Khôn vị, dục tầm Khôn vị khởi li nhân-Dược ra tại vị trí Khôn ở Tây Nam, muốn tìm vị trí Khôn há lại rời người” là Ngoại Dược
    - “Sơ tam nhật, Chấn xuất Canh, Khúc Giang ngạn thượng nguyệt hoa oánh-Ngày mùng ba, Chấn ở phương Canh, trên bờ Khúc Giang ánh trăng óng ánh” là Ngoại Dược
    - “Kim Đỉnh dục lưu Chu lí Hống, Ngọc Trì tiên hạ Thủy trung Ngân-Trong Kim Đỉnh muốn giữ Hống trong Chu, đầu tiên trong Ngọc Trì phải hạ Ngân trong Thủy” là Ngoại Dược
    - “Thủ tương Khảm vị tâm trung thật, điểm hóa Li cung phúc nội Âm-Lấy một hào Dương trong quẻ Khảm, điểm hóa hào Âm giữa quẻ Li” là Ngoại Dược
    - “Yển Nguyệt Lô trung Ngọc Nhụy sinh, Chu Sa Đỉnh nội Thủy Ngân bình- Ngọc Nhụy sinh trong Yển Nguyệt Lô, Thủy Ngân bình trong Chu Sa Đỉnh” là Ngoại Dược
    - “Khảm Li chi khí hòa hợp, Hoàng Nha tự sinh-Khí của Khảm Li hòa hợp thì Hoàng Nha tự sinh”, là Ngoại Dược nhưng Dược vốn ở bên ngoài, làm sao mà hướng được vào trong mà sinh? Dược thuộc về tha-chỗ khác, làm sao được là của ngã-ta? Kinh nói:
    “Ngũ hành thuận sinh, pháp giới hỏa khanh ngũ hành điên đảo, đại địa thất bảo-Ngũ hành mà thuận sinh thì pháp giới là vực lửa, Ngũ hành mà điên đảo thì khắp mặt đất là Thất Bảo”.
    Mộc vốn sinh Hỏa, nay Hỏa phản sinh Mộc Kim vốn sinh Thủy, nay Thủy phản sinh Kim trong Kim Mộc Thủy Hỏa ẩn tàng Mậu Thổ và Kỉ Thổ, hòa tứ tượng mà phối ngũ hành, vận dụng Nhất Khí, phục thành Thái Cực, công phu hỏa hậu đến ngày, luyện thành một hạt Chí Dương Đan, lấy mà nuốt, thì trường sinh bất tử, cùng trời đất đồng xuân, cùng nhật nguyệt tranh sáng, mà nói “Nhất lạp Kim Đan thôn nhập phúc, thủy tri ngã mệnh bất do thiên giả-Một hạt Kim Đan nuốt vào bụng, mới hay sống chết chẳng do trời” là vậy. Ôi! Vạn lạng hoàng kim mua không được, trước Thập Tự Nhai tiễn kẻ chí nhân. Kim Đan đại đạo, vạn kiếp nhất truyền, chí tôn chí quý, kẻ được nó lập tức lên đất thánh, không đợi đầu thai kiếp sau, trước mắt có được thần thông của Phật, người thích gì mà không tích đức tu đạo vậy?


    Nội dược liễu tính đệ cửu yếu
    Đệ cửu yếu - Nội Dược liễu Tính
    Đạo đức kinh nói: “Hữu dục dĩ quan kì khiếu, vô dục dĩ quan kì diệu-Hữu dục để xem cái Khiếu đó, vô dục để xem điều kì diệu”. Hai câu này là từ đầu đến cuối của Kim Đan đại đạo, là yếu quyết của người học xưa nay. Không được Ngoại Dược, thì không thể ra khỏi Âm Dương không thành Nội Dược, thì không thể hình thần câu diệu. Bậc Thượng Đức thì tu Nội Dược, mà Ngoại Dược liền toàn vẹn kẻ Hạ Đức tu Ngoại Dược, mà Nội Dược mới thành được. Ngoại Dược là tiệm pháp-phép dần dần mà tiến, Nội Dược là đốn pháp-phép xong nhanh chóng. Ngoại Dược là để siêu phàm, Nội Dược là để nhập thánh. “Hữu dục quan khiếu” là Ngoại Dược, trộm đoạt công phu của tạo hóa, là việc của ảo thân “Vô dục quan diệu” là Nội Dược, là cái học minh tâm kiến tính, là việc của pháp thân. Nếu Ngoại Dược đã đắc, mà không tu Nội Dược, là như Lữ Tổ nói “Thọ đồng thiên địa nhất ngu phu-Một kẻ ngu thọ cùng trời đất” vậy. Huống gì cái mà Đại Đan khó được chính là Ngoại Dược, Ngoại Dược đến tay, tức là Nội Dược, thì Thánh Thai có hình tượng, công phu Âm Phù, chính nhờ như vậy. [Tham đồng] nói: “Nhĩ mục khẩu tam bảo, bế tắc vật phát thông, chân nhân tiềm thâm uyên, phù du thủ quy trung-Tại mắt miệng tam bảo, đóng lại không thông ra ngoài, chân nhân ẩn thân nơi vực sâu, bồng bềnh giữ Quy Trung” mà nói “Vô dục quan diệu” là vậy. “Vô dục quan diệu” là đạo vô vi, nhưng vô vi chẳng phải là cỏ khô tro lạnh, tuyệt không nói đến một việc, mà bên trong có triêu truân mộ mông-sáng tụ chiều che, rút Diên thêm Hống, phòng nguy lự hiểm, công phu củng cố vững chắc việc thành Thánh Thai. Vì thế dung hòa ngũ hành mà hóa Âm Dương, cho đến khi đạo pháp đều quên, hữu vô chẳng lập, mười tháng sương bay, ngoài thân có thân, cực vãng tri lai , quay về nơi Chân Như Đại Giác, là Phật Tổ nói Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn Diệu Tâm, đại đạo Tối Thượng Nhất Thừa. Nếu chẳng phải là sau khi liễu Mệnh mà vội thì hành công phu này, thì căn bản không vững, hư mà không thực, chưa từng được nung luyện trong Đại Tạo Lô, dù cho liễu được Chân Như Tính, nếu có một chút rò rỉ, thì khó tránh khỏi cái họa phao thân nhập thân. Hậu nhân không biết cái ý của cổ nhân khi lập ngôn, phần nhiều coi cái Lí về Tính là không đáng quý trọng, thử hỏi người học ở thế gian, có bao kẻ biết rõ về Niết Bàn Chi Tâm đây? Có bao kẻ thấy rõ Chân Như Tính đây? Niết Bàn Tâm, Chân Như Tính, trong văn vắt, đỏ rừng rực, tròn quay quay, sáng lấp lánh, thông thiên triệt địa, không thể dùng Hậu Thiên nhân tâm huyết tính mà nhìn. Cổ nhân cũng có người liễu Tính mà không liễu Mệnh, nên có câu “vạn kiếp Âm Linh khó nhập thánh”, là riêng vì kẻ chưa tu Mệnh chỉ tu Tính mà nói ra. Nếu đã liễu Mệnh, sao lại không tu Tính? Nếu không tu Tính, thì cố chấp khi ứng vật, uổng có gia tài mà không có chủ. Nếu không tu Tính, tuy ảo thân đã thoát, mà pháp thân khó thoát. Nếu không tu Tính, thì chỉ có thể trường sinh, mà không thể vô sinh. Nếu không tu Tính, dù có thể liễu được lúc mới sinh thân, mà khó hoàn thiện được lúc trước khi sinh thân. Công phu Nội Dược liễu Tính, quan hệ rất lớn, sự nghiệp vô cùng, đều cần ở chỗ này kết quả, sao được coi thường Tính? Ta mong người thành đạo, trước khi tu Tính, hãy nhanh chóng tu Mệnh sao khi liễu Mệnh, hãy nhanh chóng liễu Tính. Âm Dương cùng sử dụng, Tính Mệnh Song Tu, từ hữu vi mà nhập vô vi, đến khi hữu vô chẳng lập, đả phá hư không, nhập vào nơi Bất Sinh Bất Diệt, thì việc tu chân có thể xong vậy.

    ========== CÁC B ÀI TẬP CÔNG TRUYỀN ==========

    CHÂU THIÊN NGHỊCH CHUYỂN CÔNG PHU
    Mục đích: Thanh lọc bản thể, khai mở hệ thống kinh mạch, gia tăng sức khoẻ, đẩy lùi bệnh tật, đưa tâm dần dần trở nên vi tế bước vào cảnh giới nhập định.
    Thời gian: Tập vào giờ tí (23h đêm - 01h sáng), công phu lâu mau tùy theo sức .
    Không gian: Phòng hoàn toàn tối, không lọt một chút ánh sáng nào.
    Điều thân: Ngồi bán già, chân phải để trên chân trái, bàn tay phải nắm bàn tay trái đặc trước bụng.
    không được nhắm mắt, hai mắt lim dim nhìn xuống dưới, mới đầu công phu chỉ cần hơi khép mắt lại, sau khi đã nhập định thì tự nhiên sẽ lim dim, không cưỡng ép.miệng ngậm, lưỡi để tự nhiên ở hàm dưới, công pháp này không yêu cầu phải cong lưỡi vì ảnh hưởng tới nhập tĩnh
    Điều tâm: Ngừng tạp niệm, không tập trung vào bất cứ điều gì, theo ánh mắt nhìn xuống khoảng đen tối trước mắt.
    Điều tức: Yêu cầu phải thở được kiểu bụng ngược, hít vào thì phần bụng dưới rốn thót lại, thở ra thì phình ra, các bạn nào chưa rõ thì tìm cách sách khí công để tham khảo cho biết chính xác cách hít thở.Hiện nay các sách khí công thường đưa thêm hướng dẫn cong lưỡi và co rút hậu môn nhằm nối thượng, hạ thước kiều, công phu này không dùng tới, yêu cầu bỏ phần đó, chỉ cần chú ý tới phép hít thở ngược thôi. tập điều tức khi nào thuần thục thì hãy bắt đầu công phu Châu thiên nghịch chuyển
    Châu thiên nghịc chuyển:
    Sau khi đã điều thân, điều tâm, điều tức vài ba hơi để tập co giãn bụng dưới thì bắt đầu chuyển pháp luân.
    Theo phép thở bụng kiểu ngược thì khi hít vào bụng dưới từ từ co lại, đến đây thay vì thở ra hành giả tiếp tục hít vào, hít vào.. (thời gian tối thiểu phải đạt được là 1 phút), bụng dưới vẫn tiếp tục co lại đến khi cảm thấy ngộp thở không thể hít vào tiếp tục được nữa thì từ từ thở ra bằng mũi, nhưng không cố gắng phình bụng hết sức như kiểu thở ngược mà chỉ thở ra từ từ, bụng dưới chỉ hơi phình như đang giãn ra mà thôi, không thở ra hết không khí trong phổi, đó là một hiệp
    Tiếp tục thực hiện hiệp hai, ba đến khoảng chín hiệp thì ngừng, có thể tự nhiên nhập vào đại định.có nhiều người khi thực hiện khoảng ba hiệp thì thấy tự nhiên nhập định, thì cứ để nhập định như vậy, tạm thời ngưng pháp luân, đến khi xuất định lại tiếp tục pháp luân, nếu thấy nhiều tạp niệm thì dùng thần chú ''Úm ma ni bát mê hồng" vài ba lần sẽ hết.
    công phu xong thì nằm xuống ngủ luôn, lợi dụng giấc ngủ để cho nội khí tự động vận hành.
    chứng nghiệm:
    Sau khi nằm xuống có thể thấy điện giật, bên tai có gío bão nổi lên, mắt nhìn thấy những đốm sáng như sao, đó là nội khí vận hành không có gì đáng ngại, thường người mới tập luyện do kinh mạch chưa thông thoáng dễ thấy hiện tượng trên, sau một thờ gian cơ thể được thanh lọc sẽ hết.
    Những lưu ý để tập tốt Châu thiên nghịch chuyển:
    - Muốn nhập định thì phải Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt chất lượng
    Vậy thế nào là đạt chất lượng? đó là:
    - Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt 9 hiệp thì phải cảm thấy rất mệt, hết sức lực
    - Nguyên tắc của Châu Thiên Nghịch Chuyển là khi hít vào mặc dù biết không thể hít thêm vẫn cố gắng hít thêm tối đa đến khi không thể cố gắng được nữa mới thở ra, một hiệp tối thiểu đạt 1 phút.
    - Làm Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt chất lượng, thì sau mỗi hiệp hơi thở sẽ dồn dập, phải nghỉ điều hoà hơi thở 3,5 hơi (điều hoà bằng thở thuận) rồi lại tiếp tục hiệp2, nếu có thể làm liện tục hiệp 1, 2, 3.. 9 mà không cần nghỉ là chưa đúng nguyên tắc.
    - Làm Châu Thiên Nghịch Chuyển đạt chất lượng thì sẽ tự nhiên nhập định, hơi thở tự nhiên chứ không phải thở nghịch nữa, thở nghịch chỉ dùng khi làm Châu Thiên Nghịch Chuyển thôi.
    Điểm quan trọng: vì chúng ta sử dụng ''''phong'''' để khai thông kinh mạch, nên Châu Thiên Nghịch Chuyển quan trọng nhất là động tác hít vào, hít vào, hít vào nữa, không thể hít vào nữa vẫn tiếp tục hít vào, khi này chắc chắn một phần không khí sẽ bị đẩy ngược ra ngoài để có chỗ trống cho phần không khí mới tiếp tục vào, và cứ thế đẩy ra cứ thế hít vào , đây là yếu quyết chính để Châu Thiên Nghịch Chuyển thành công, khi đó các bạn có thể sẽ nhận thấy là phần bụng dưới bị nén chặt cũng có thể bị rung động nhào nắn mạnh, thấy như vậy là bạn đã hoàn thành Châu Thiên Nghịch Chuyển trọn vẹn.
    THIỀN ĐỊNH
    (Sau khi tập CTNC được 6 tháng thì bắt đầu tiến hành thiền định.)
    Pháp luân nghịch chuyển hay còn gọi là châu thiên nghịch chuyển là phép luyện tinh hoá khí, thiền định là phép luyện khí hoá thần, cho nên sau khi châu thiên nghịch chuyển (PLNC) thì chân khí sẽ tiến sang đốc mạch, thì bắt buộc phải thiền định để chân khí vượt ngọc chẩm nhập vào nê hoàn cung hoá thần. Đây là công pháp truy nhiếp nguyên thần về nê hoàn cung mà cổ tiên giấu kín, nay sư huynh đem ra công truyền. Người luyện thiền định này coi như đã đặt một chân vào đại đạo, cho nên khi thực hành nếu có gặp nhiều trải nghiệm huyền ảo cũng không nên lo sợ.
    Nguyên tắc của phép thiền định đạo gia là ''tâm tức tương ỷ'', đó là phép làm cho thần khí quyến luyến lẫn nhau không rời ra, nói theo thế tục thì thần khí cũng như âm dương, nam nữ, dùng chân ý làm người mai mối khiến cho thần khí giao kết thì sẽ tiến vào cảnh giới nhập định, có thể khiến cho hô hấp ngừng lại, đạo gia gọi là thai tức, phép này được chỉ rõ trong ''Lục diệu pháp môn'' của nhà Phật và ''Thái ất kim hoa tông chỉ'' của Lã Tổ, Chỉ có điều người xưa khi truyền công pháp đều muốn người ta phải phát huy ''ngộ tính'' thì mới có thể chứng nghiệm hiệu quả. Vì thế mà phép này truyền ra đời cũng ít thấy ai hiểu mà tu luyện hiệu quả. Nay tôi đặc biệt chỉ ra chỗ ''ngộ'' này cho các bạn hiểu.
    Nếu thiền với tư thế ngồi thì sau khi châu thiên nghịch chuyển, thì bước sang thiền định, về tư thế thì có thể hai tay vẫn ôm nhau như khi châu thiên nghịch chuyển, hoặc là hai tay tách ra đặt xuống hai đầu gối, tư thế nằm thì nằm ngửa hay nghiêng cũng được miễn sao cho thoải mái. Tùy theo từng người thấy phép nào hợp thì theo
    Yếu quyết: Miệng ngậm, hai mắt nhắm kín, hai tròng mắt ngước nhìn lên khoảng đen tối phía trên trán, im lìm như mèo nằm rình chuột, tuy nhiên không được quá tập trung căng thẳng, đầu óc không suy nghĩ gì cả, ngưng mọi tạp niệm. nếu thấy tạp niệm khởi lên thì dùng tâm tức tương ỷ mà thâu nhiếp, tuyệt đối không thủ ý vào bất kỳ huyệt đạo nào trên đầu. Thời gian thiền định tối thiểu là 30 phút.
    Thông thường sau khi châu thiên nghịch chuyển thì tự nhiên nhập định rồi, được một lúc sẽ thấy mức độ nhập định không sâu nữa gọi là sắp xuất định thì thực hiện pháp ''Tâm tức tương ỷ'' này, từ từ hít vào, trong lúc này tâm theo dõi quá trình hít vào, sau đó lại từ từ thở ra, tâm theo dõi quá trình thở ra, nguyên tắc là hít vào 8 phần hơi, thở ra 6 phần hơi, không được hít đầy, cũng không được thở ra cạn hơi, một lần hít vào thở ra là một hiệp, thực hiện 3 hiệp như vậy rồi ngưng, tiếp tục nhập định, ngưng mọi tạp niệm, khi đó sẽ cảm thấy trí giác ngày càng lịm đi, đến khi nào thấy sắp sửa xuất định thì lại thực hiện ''Tâm tức tương ỷ''. Làm tốt pháp này thì có thể ''siêu phàm nhập thánh'', chứng nghiệm được mọi ấn chứng được nói tới trong ''Toạ thiền chỉ quán'' của nhà Phật.
    - lưu ý: khi ''Tâm tức tương ỷ'' tiến hành hô hấp bụng kiểu thuận, khi hít vào bụng căng lên, thở ra xẹp xuống.
    - Giải thích: Tại sao chỉ hô hấp 3 hiệp trong một lần ''Tâm tức tương ỷ''?
    Vì chân ý như bà mai mối cho thần khí vậy, khi tâm theo dõi hơi thở chính là đang mai mối cho thần và khí, nếu chân ý cứ theo dõi liên tục mấy chục hiệp thì cũng như nam nử đến gặp nhau mà có bà mai đứng đó ngó hoài thì làm sao kết hợp được, đây là điểm mấu chốt của pháp này, vì thế nhiệm vụ của bà mai chỉ là dẩn dắt đoạn đầu rồi sau đó phải đi chổ khác thì thần khí mới phối hợp được, do đó mà mỗi lần "tâm tức tương ỷ" chỉ làm 3 hiệp thì ngừng.


    ====== CÁC BÀI TẬP PHỤ TRỢ CỦA CTNC ======
    BÀI TẬP NỘI CÔNG
    - Bài tập này các bạn tập vào buổi sáng, có tác dụng hấp thu địa khí, làm khí huyết lưu thông, giãn gân cốt do ngồi thiền lâu, ổn định nhịp tim và huyết áp bất thường.có thể chữa được bệnh đau thần kinh toạ, hoặc những ai do luyện khí công bị đau chân thì cũng công hiệu tốt.
    - Đứng thẳng, hai chân dang rộng hơn vai, hít vào, bụng căng ra, nâng hai tay (mở chưỡng) lên ngực, bắt đầu nín thở, hai chân rùn xuống tấn mã bộ, hai chưỡng hướng xuống đất, gồng cứng hai chân và hai tay, tưởng tượng mặt đất đang nâng lên còn mình thì đang dồn toàn bộ sức lực xuống chân để ấn mặt đất xuống, tùy theo khả năng nín thở rồi bắt đầu thu thế, từ từ thở ra bằng miệng, hai chân từ từ đứng thẳng như cũ, hai tay nâng lên ngực rồi hạ xuống hai bên thân về tư thế ban đầu.
    TIẾN DƯƠNG CÔNG
    - Đứng thẳng, hai chân rộng hơn hai vai, hai tay mở chưởng buông xuôi theo thân mình.
    - Bắt đầu hít sâu vào bụng, xuống trung bình tấn, hai chưởng xoay ra sau lưng, tưởng tượng hai chưởng đang hổ trợ lưng đẩy một tảng đá lớn đang tiến tới áp sát lưng, vẫn tiếp tục hít sâu vào.
    - Vẫn tưởng tượng kết hợp hít sâu vào, đến khi nào không thể chịu đựng được nữa thì từ từ đứng thẳng dậy, hai chưởng xoay ngửa theo hai bên thân đẩy thẳng lên trời, đồng thời kết hợp thở ra từ từ bằng mũi.
    THOÁI ÂM CÔNG
    - Đứng thẳng, hai chân rộng hơn hai vai, hai tay mở chưởng buông xuôi theo thân mình.
    - Bắt đầu hít sâu vào bụng, xuống trung bình tấn. Hai chưởng đẩy thẳng tới trước măt. Tưởng tượng hai chưởng đang đẩy một tảng đá lớn đang từ từ tiến đến áp sát ngực. Tưởng tượng hai chưởng không thể chống đỡ nổi tảng đá vẫn đang tiến tới áp sát vào ngực, hai chưởng bị tảng đá đẩy phải co về trước ngực, vẫn tiếp tục hít sâu vào.
    - Vẫn tưởng tượng kết hợp hít sâu vào, đến khi nào không thể chịu đựng được nữa thì bất ngờ đẩy mạnh hai chưởng về trước, tưởng tượng tảng đá bị đẩy bật văng ra xa, đồng thời kết hợp thở ra thật mạnh bằng mũi.
    Thời gian: Tập hai buổi chính là sáng và chiều.
    NGOẠI CHÂU THIÊN
    Hai chân đứng bằng vai , quay 2 tay từ sau ra trước khi 2 tay sau lưng thì bàn tay ngửa lên khi 2 tay qua đầu đi xuống thì úp bàn tay lại , khi qua đỉnh đầu khoảng cách 2 tay nhỏ hơn vai , không để hai tay chạm nhau , quay tốc độ vừa phải sao cho khi tay đi lên hít vào khi tay đi xuống thở ra
    Bài này luyện phần phách bao quanh thân và đồng thời cũng có tác dụng thông mạch (có tác dụng thông mạch tương tự bài phất tay Dịch cân Kinh nhưng khó tập hơn vì mau mỏi tay mỏi vai ,tuy nhiên tập tốt và chăm chỉ có thể gây tự phát động công và tay quay tự động hàng nghìn vòng không mỏi).
    TÂM TỨC TƯƠNG Ỷ
    đây là một công pháp rất nhiều huyền diệu
    Từ từ hít vào, trong lúc này tâm theo dõi quá trình hít vào, sau đó lại từ từ thở ra, tâm theo dõi quá trình thở ra, nguyên tắc là hít vào 8 phần hơi, thở ra 6 phần hơi, không được hít đầy, cũng không được thở ra cạn hơi, một lần hít vào thở ra là một hiệp
    Tâm theo dõi hơi thở . thở nhịp nhàng khoảng 3 lần vào ra như vậy thì dừng để nội khí tự vận hành , thần khí tự quyến luyến nhau ,khoảng vài phút lặp lại một lần
    Chăm tập TÂM TỨC TƯƠNG Y và nhận thấy nó rất tuyệt , nó thúc đẩy nội khí vận hành rất mạnh , thần khí quyện vào nhau , tâm trí như say , như mơ. lúc tập nên thả lỏng tâm trí , buông lơi tất cả , bám vào hơi thở thật nhẹ nhàng, không nên dùng sức mà thật nhẹ nhàng ta sẽ thấy tất cả như quyện chặt vào nhau.... rất khó tả
    ĐỘNG TÁC THU CÔNG
    Mọi người tu tập CTNC khá lâu rồi mà chưa thấy sư huynh nói gì tới thu công chắc cũng có người thắc mắc, bây giờ sư huynh mới nói rõ tại sao. Trong các bài quyền thuật khí công thường khi kết thúc có động tác thu công, vậy động tác này dùng làm gì? xin trả lời động tác thu công dùng để đưa hệ thống kinh mạch trỡ lại bình thường , như vậy CTNC chưa dạy thu công chắc là có thiếu sót hay sao? không phải vậy, thực ra động tác thu công chỉ thực hiện khi nào hệ thống kinh mạch đã khai mở mà thôi, và không những thu công chỉ dùng sau khi tập mà bất kỳ lúc nào cũng có thể sử dụng vì mục đích của nó là giúp cho sư vận hành khí điều hoà bình thường, do đó nếu kinh mạch chưa khai thông thì thu công không có ý nghĩa gì cả, đối với khá nhiều bài quyền thuật khí công, sư huynh thấy chỉ là một động tác quy tắc mà thôi. Động tác thu công được thực hiện như sau: hai bàn tay chắp lại như khi lễ Phật, nhưng từng cặp ngón tay tách rời nhau ra thoải mái chứ không khép sát nhau như khi lễ Phật.
    Để hiểu tại sao phải dùng động tác thu công như trên sư huynh nhường lại cho mọi người tự tìm hiểu, sau khi kinh mạch khai thông thì sẽ tự có lời giải đáp


    CÁC BÀI GIẢNG CỦA S Ư HUYNH HUYỀN QUANG TỬ
    1. Ấn chứng ngưng thần: Đan kinh gọi ngưng thần là dùng diên chế hống, ví thần hoả như thủy ngân tính hay bốc lên, lại thường hay bay mất lên ví như long (rồng) . Muốn chế ngự thủy ngân phải dùng chì, tức là vận nguyên khí trong tinh thủy tới nê hoàn mới mong chế ngự được nó .Thường giai đoạn đầu quá trình vận khí phải chia ra 2 thời rất rõ rệt, giờ tí vận khí tới ngọc chẩm, giờ ngọ lại vận tiếp từ ngọc chẩm vào nê hoàn . Cứ thế tích lũy lâu ngày sẽ bất ngờ xảy ra hoạt tí thời, không rõ nguyên khí từ đâu mà tới , vào giờ tí đột xuất nguyên khí ầm ầm theo vĩ lư xông lên, nhập vào nê hoàn rồi ngưng tụ ở trong đó, từ đó về sau trong nê hoàn xuất hiện một vật khi thì như trái bóng nhỏ, khi thì như cơn gió lốc di chuyển qua lại không ngừng . tồn tại thường hữu mà không bao giờ mất đi, đó là ấn chứng ngưng thần .Sau thời kỳ này thường khi nhắm mắt ngủ nó lại xuất hiện, tựa như đang cố gắng khai thông các khiếu huyệt, trên thì xông tới đỉnh đầu, dưới thì xộc xuống vòm họng, thời kỳ đầu vật này di chuyển sẽ thấy bộ nảo chia làm bốn khu vực rất rõ rệt là ngọc chẩm, bách hội, mỏ ác, vòm họng, sau khi khai thông 4 điểm này rồi thì không còn phân biệt đêm ngày nữa. giờ nào cũng vậy, hễ nhắm mắt thì lại thấy vật này . Giai đoạn này là đạt được phân nửa của quẻ thủy hoả ký tế, tức mới đem được tinh thủy đi lên giao với hoả mà thôi, lại cần phải giáng hoả này trở xuống giao với thủy mới là đạt được thủy hoả ký tế trọn vẹn, từ đây về sau đan kinh gọi là cứ thế thong thả trên con đường cái, chậm rãi rốt cuộc cũng có ngày về đến nhà .
    2. Bí Mật: Thiên cơ sâu xa bí mật không thể dễ tiết lộ, cho nên đan pháp bí mật từ xưa đến nay chẳng dính líu đến văn tự, chỉ truyền miệng trao tâm khiến người học đem tâm thần lãnh hội mà thôi. Hứa Tổ nói: "Đan thành tự có khí xung thiên, chỉ để lại bí quyết trên đời". Ngộ Chân ghi: "Chỉ là kim đan không khẩu quyết, làm sao anh biết kết linh thai".
    - Chú: Lời thế tục có câu: "Chớ lo rắng không được quyền cao, mà nên lo mình không đủ tài năng. Chớ sợ rằng không được hưỡng phú quý, mà nên sợ mình phúc đức còn ít". Việc thế tục tạm bợ mà còn như thế, há việc thần tiên có thể dễ dãi hơn hay sao? Cho nên việc học đạo tối kỵ là mang tâm nhỏ mọn cho rằng Thầy Tổ ích kỷ chẳng truyền bí quyết, mà nên lo tu dưỡng thêm công hạnh thì hơn. Lại còn một hạng người ỷ vào tài trí thông minh, vô sư vô sách mà dám bàn chuyện tu luyện. Bí quyết Kim đan nếu quả thật có thể suy luận mà biết thì các vị tú tài binh thư thuở xưa đã suy luận ra rồi, có đâu nảy sinh ra 3600 thứ bàng môn tả đạo như thế?
    3. Minh sư: Tiên pháp luyện đan có nội ngoại âm dương, tứ tượng ngũ hành, bát quái biến hoá, có giả trong thật, thật trong giả, thật trong thật, giả trong giả, có vô vi hữu vi, có trật tự trước sau, có thái dược hợp dược, có kết đan hoàn đan, có kết thai thoát thai. Sư việc ấy phức tạp, cách làm bất nhất, nếu như chẳng phải minh sư từ đầu chí cuối mỗi mỗi phân biệt, chỉ dạy rõ ràng thì khó mà tự biết. Dù có Đan kinh, nhiều cách thí dụ, nhưng trong đó xét kỹ có chỗ mà văn tự không thể diễn tả hình dung được. Chung Tổ nói: “Có duyên gặp được minh sư, trong khoảnh khắc sinh ra tạo hoá”. Tổ Tử Dương nói” “Cho dù ông thông tuệ hơn Nhan Mẫn, nếu không gặp chân sư thì đừng miễn cưỡng phỏng đoán”.
    - Chú: Lời của tiên thánh chẳng hề nói không một câu, không hề nói ngông một chữ. Người học Đạo đọc duyệt đan kinh, dù chưa gặp thầy truyền pháp mà hiểu rõ lý lẽ tu chân thì dù chỉ học được nửa chữ cũng phải tôn sùng các ngài như bậc thầy Tổ. Bằng như kẻ tự cao tự đại, ăn nói khoác lác, lại không hay biết Đan vốn có chân có huyễn, kẻ tu bàng môn kết được ảo đan mà lại không có lòng khiêm cung cầu Đạo, tự xem mình ngang hàng với bậc thượng căn há có thể mong cầu minh sư ngó ngàng đến sao?
    4. Nguyên thần, thức thần: Người xưa nói: Đời người chẳng qua là giấc mộng lớn. Đã có mộng tất phải có người trong mộng, vậy người trong mộng là ai và người ngủ nằm mộng đó là ai, là một hay là khác ?thử tượng tượng nếu như ông trời bắt con người từ khi lọt lòng sinh ra cho đến lúc chết chỉ toàn ngủ và nằm mộng không thôi thì ta sẽ nhận con người nào là thực chất của ta? người ngủ hay người trong mộng ?. Vài ý gợi mở để mọi người hiểu rõ nguyên thần thức thần.
    5. Các kỹ thuật công phu tinh khí thần: Thánh nhân vì hiểu rõ tinh khí thần có đặc tính lưu luyến nhau nên sáng tạo ra các dạng công phu tu luyện khí khác nhau:
    1- tinh khí lưu luyến: đây là nguyên tắc cơ bản của phòng trung thuật lấy yếu chỉ là hấp để toát bế để thái thủ nguyên khí, dựa vào đặc điểm tinh khí hấp dẫn nhau , khi tinh đến dương quan thì sẽ bị nguyên khí bên ngoài lôi kéo thoát ra bèn lập tức khẩn bế dương quan khiến cho tinh kéo ngược khí vào trong mà đắc được nguyên khí, một số danh môn chính phái coi phòng trung là tà thuật đó là do còn đứng trên khía cạnh nhị nguyên để phán xét, ngược lại các phái mật tông tây tạng rất coi trọng kỹ thuật này, muốn luyện được công phu này phải kết được thủ ấn khiến cho hội âm vĩ lư thông suốt.
    2- thần khí lưu luyến: công phu này lấy ngưng thần làm yếu chỉ, yêu cầu phải tĩnh định hư vô, rất nghiệm ngặt trong sinh hoạt, tai không nghe, mũi không ngửi, mắt không nhìn, miệng không nói, chân tay không cử động, làm được như thế lâu dài thì nguyên thần sẽ hồi quy, thần ở bên ngoài thì sẽ luyến khí, nên thần về thì khí cũng trở vào thân, nhờ thế đắc được nguyên khí, công phu này người già cũng có thể luyện.
    3.tinh thần lưu luyến: công phu này yêu cầu giữ tinh sung mãn, tĩnh định thân tâm thì thần dễ hồi qui, khí cũng sẽ tự hồi, loại công phu này trước 16t dễ luyện.
    6. Các kỹ thuật ngưng thần nhập khí huyệt: Nhìn chung chia làm hai kỹ thuật chính là: có kết hợp hạ chủng và không hạ chủng.
    1- Không hạ chủng: lấy cơ sở đã vận tinh thành công, thần đã ngưng tụ tại nê hoàn thì vận dụng công phu tâm tức tương y ngưng thần xuống khí huyệt .Loại kỹ thuật này nói chung là hiệu quả không ổn định , dòng công phu không hạ chủng thông thường là thiếu chân truyền mặc dù có thể vẫn đắc huyền quan .
    2- Có hạ chủng: cũng trên cơ sở thần đã ngưng tụ tại nê hoàn thì tiến hành hạ chủng kết hợp dùng tâm ý chiếu xuống khí huyệt, đây có thể coi như kỹ thuật ‘bắt nhốt’ nguyên thần tại khí huyệt , dưỡng chân tập gọi là biết cách thâu phóng thì không thấy chỗ khó của việc ngưng thần, không chỉ bắt nhốt nguyên thần tại khí huyệt mà còn bắt nhốt tại giáp tích sau lưng như phép tẩy tâm thoái tàng mộc dục trong tính mệnh khuê chỉ .
    Thiền nhà Phật cũng có công phu ngưng thần là lục diệu pháp môn, tuy nhiên không rõ có xây dựng cơ sở trên huyền quan nhất khiếu hay không, nếu không thì hàng trung căn trở xuống rất khó ấn chứng .
    7. Các thức uống cần tránh trong tu luyện: Theo sự trải nghiệm của sư huynh thì chúng ta nên tránh uống cà phê, trà , thuốc lá vào thời gian sau 17h vì nó sẽ làm cho dương khí không thể di chuyển vào đốc mạch, điều này sẽ ảnh hưởng tới việc tiến dương vào buổi công phu khuya, buổi tối nào mà sư huynh dùng những thứ trên thì không thấy dương khí chạy trong mạch đốc, tối nào mà tránh không dùng thì sấm chớp ầm ầm suốt đêm. Dẫn chứng ví dụ là những người dùng cà phê pha muối thì...lý do là cà phê làm dương khí không di chuyển ra khỏi mệnh môn , còn muối thì dẫn cà phê vào thận kinh vì thế cà phê pha muối làm dương khí không di chuyển ra khỏi thận kinh, tuy nhiên sư huynh không khuyến khích mọi người dùng cà phê pha muối đâu nhé vì tác dụng phụ của nó sư huynh chưa tìm ra.. Dĩ nhiên là ta hòan toàn có thể dùng các thức uống trên vào ban ngày.
    Buổi trưa chủ yếu là thoái âm thì tránh không uống bia trước đó, vì bia làm cho âm khí không di chuyển xuống dưới được, hơn nửa là bia còn khiến cho âm khí chạy ngược lên đầu, vì thế những người say xỉn thì dễ làm chuyện bậy bạ hơn khi tỉnh táo, dĩ nhiên là cũng không nên uống bia vào buổi tối, vì xỉn rối thì công phu gì nổi nữa. Công phu có kết quả tốt thì sẽ tự động bỏ được bia rượu
    8. Chân Ý: Tâm mới thức dậy và tâm không tán loạn do giữ gìn cẩn thận đều gọi là chân ý. Bởi "bất động" là thể của nguyên thần "cảm thông" là dụng của chân ý.
    Doãn Chân nhân nói: "Chân ý là Càn nguyên, là mẹ của trời đất, là gốc của âm dương, là cội của thủy hoả, là nguồn gốc của nhật nguyệt, là tông của tam tài, là tổ của ngũ hành, vạn vật nhờ đó mà sinh ra".
    Chú: Chân ý là cái ý chân thật còn chưa kịp khởi niệm, nó có thể điều động được nguyên thần. Phàm người tu luyện nắm bắt được chân ý thì mới có thể học được khẩu quyết tiên thiên, không nắm bắt được chân ý mà nói chuyện tu luyện thì tất sa vào bàng môn tả đạo.Vậy chân ý này vốn như thế nào? nắm bắt được sẽ thấy ra sao? ai có thể có được cái nhìn chân thực tức là nắm bắt được chân ý vậy, ai có thể tự nhìn thấy lưng mình mà chẳng khởi ý chăng? thật là kỳ lạ, nói ra để xem ai có thể học được khẩu quyết tiên thiên?
    9. Chính Pháp Nhãn Tạng: Công phu chính thu nhập đại dược hoàn toàn dựa vào đôi mắt, chặt chẽ chuyên chú nhìn trung điền, không thể xa lìa trong chốc lát. Nếu loại trừ ánh mắt này mà thái thủ thì không phải chánh pháp. Kinh Chân Nguyên Thông Tiên Đạo ghi: "Được cái lớn lao là do hoà hợp và nhìn lâu". Khưu Tổ nói: "Kim đan đại dược không khó, mắt nhìn trung điền đêm giữ lại, thủy hoả tự giao không trên dưới, một bầu sức sống ở đôi ngươi".
    - Chú: Chính pháp nhãn tạng là bất nhị pháp môn, tu luyện nếu không biết dùng nó tất là bàng môn tả đạo. Tuy thế, tiên phật vì chẳng dám tiết lộ thiên cơ nên đành nói lời úp mở. Bậc tiên dạy dùng đôi mắt nhìn vào trung điền thái dược, phàm phu lại lầm chấp vào ý thủ, tất đã lìa chính pháp quá xa, sao có thể lấy được thuốc tiên ? Giờ tí đến, thủy lại giao với hoả mà dương khí tiến vận đến cung càn, đó gọi là 'hổ hướng thủy trung sinh'. Giờ ngọ về, hoả xuống giao với thủy mà âm thần thối phù khỏi càn cung,đó gọi là 'long tòng hoả lí xuất' . Cái chỗ thuỷ hoả có thể gặp gỡ nhau đó là điều rất bí mật, nếu lìa xa chân ý thì không thể nào mối mai.Chân ý của người vốn theo ánh mắt mà tới, nhưng chớ lầm nó là ánh mắt, có thể phân biệt rõ điều này mới có thể hạ thủ pháp thái dược
    10. Âm dương lưỡng thần: Người chỉ tu tính mà thành gọi là âm thần, gọi là quỷ tiên, xuất hiện thì có bóng mà không có hình. Còn người tính mạng song tu gọi là Thần tiên , gọi là dương thần, xuất hiện thì có hình mà không có bóng. Tiên kinh ghi: “Đạo vốn không có tướng, tiên quý trọng có hình”. Đông Hoa Đế Quân nói: “Pháp thân rông lớn trùm trời đất, chân tính tròn sang thấu cổ kim. Nếu người trên trán mắt chưa mở, chớ khoe tán ảnh với phân hình”.
    - Chú: Đạo tu luyện xưa nay vốn phân chia âm dương , cái mà bàng môn chứng đắc là âm thần, là quỷ tiên, duy chỉ có phép tính mệnh song tu mới chứng đắc được dương thần mà thôi.Dương thần là nguyên thần kết hợp cùng nguyên khí mà thành, đây là đường lối tu hành của thần tiên. Âm thần vì sao mà thành? Nay xin đặc biệt chỉ rõ: Khi thần khí kết hợp tại nê hoàn, nguyên lúc ban đầu là nguyên khí phối hợp với âm thần, người tu chân đạo do biết hái tiên thiên khí có thể đủ sức mở thông đường khí quản để âm thần thoái lui về khí hải, lâu ngày âm thần thoái hết thì sẽ thấy nguyên thần xuất hiện cùng nguyên khí kết hợp thành kim đan.Bàng môn vì không có cách thông đường khí quản nên âm thần xâm nhập nê hoàn không có đường thoái lui bèn kết hợp với chút ít nguyên khí có sẵn của bản thân, lâu ngày thâm căn cố đế thành ra một vật có thể tuỳ ý bay nhảy vào ra, tuy nhiên vì là vật âm nên chỉ giống như ảo mộng và không thể trường tồn cùng trời đất, thế tục thường gọi đây là cách xuất hồn.Quỷ tiên là một hạng bàng môn khác, hoặc do từ các cõi sắc và vô sắc giáng sinh, hoặc do người thế gian tu hành trì giới gian khổ khiến nghiệp lực gần như không còn, nhưng vì không rỏ tính mệnh song tu, chỉ riêng sở hửu một điểm nguyên thần mà không có nguyên khí kết hợp, tuy có thể cùng trời đất trường tồn nhưng không có pháp lực.

    11. Phong cố: "Gói thuốc". Sau khi thái dược quy lô phải dùng thần quang luôn bao bọc không rời trong chốc lát gọi là phong cố. Liễu Chân nhân nói: "Phong cố có nghĩa ôn dưỡng, đình tức mà chẳng phải bế tức, là dùng văn hoả đem thần khí nằm phục nơi khí huyệt, hoả bức kim đi theo sau, chờ thời cơ mà hành động thì chu thiên vũ hoả từ đây khởi vận".
    -Chú: Là thuật ngữ chỉ phép công phu thứ 3 của giai đoạn đại chu thiên. Vào lúc tí sơ tiến hành tầng công phu thứ 1 là thái thủ chân diên, tầng công phu thứ 2 là thái thủ chân hống. Sau đó đóng chặt tất cả cửa ngõ, rời chân ý ra khỏi càn cung và khôn cung đưa vào huyệt nê hoàn ( thần khí huyệt) làm bà mai cho diên hống giao hội là tầng công phu thứ 3 tức là phong cố.
    12. Giảng về thái dược trong đan kinh: Bài này sư huynh giảng sơ qua về thái dược nhằm giúp mọi người dễ hiều hơn khi đọc đan kinh, tránh những ngộ nhận không cần thiết.
    Dược vật trong đan kinh có 2 thứ: chân diên là nguyên khí trong thận, chân hống là nguyên thần trong tâm.Trong tu luyện căn bản thì quan trọng nhất là thu hồi nguyên khí trong thận , tích khí xung quan, vì thế chỉ cần tiết giữ tinh khí, chuyện tâm vận châu thiên nghịch chuyễn là đạt yêu cầu.Phần thái dược cao cấp hơn là thái thủ nguyên thần tức là đem chân diên lên đỉnh đầu phối hợp với chân hống kết thành kim đan, đoạn này có tên gọi là quá quan phục thực.Tuy nhiên vấn đề nói thì dễ , làm được mới là chuyện khó.Trên đầu não có nê hòan cung giống như cái hang đá trống không, là nơi tạm trú của nguyên thần.Vì sao nói là tạm trú? vì nguyên thần vốn thường không ở trong thân, ban ngày nó rong chơi nơi ngoại cảnh tiếp với muôn vật, ban đêm tiếp mộng, nói chung là nguyên thần của người thường ở ngoài thân thể. Khi tu luyện đến mức cao thì thần mới nhập thân qua 4 khiếu huyệt trên đầu là: ngọc chẩm, bách hội, mỏ ác, sơn căn tương ứng các ngày 30, mồng 8, 15, 23 âm lịch hàng tháng. Cho nên muốn diên hống giao phối phải chọn 4 ngày này mà công phu, đan kinh nói là cứ 7 ngày thì thiên tâm dương khí trở lại là như vậy, mọi người đọc dưỡng chân tập, châu dịch xiển chơn có nói trăng mồng 8 về sau, trăng 23 về trước, lúc đó mùi khí bình bình, khí tượng toàn vẹn là ý như vậy, nếu không luyện vào 4 ngày này thì nguyên khí từ dưới lên đầu như gió vào nhà trống, chỉ cảm thấy trong não rỗng tuếch, khí dội vào vỏ não như gió dội vào đá, có lẽ đây chính là mô tả của hoả xà lên đầu không có lối thoát của yoga.
    13. Hộ Pháp: Người học đạo khi đã được cách tu tập, không thể một người âm thầm dụng pháp luyện đan mà phải trước tìm kiếm hộ pháp nội ngoại để liễu đại sự. Nếu không có nội ngoại giám hộ thì đạo kia khó thành. Như Tổ Trùng Dương dùng Lý Linh Dương, Hoà Ngọc Thiềm làm nội hộ, Mã Đơn Dương làm ngoại hộ Tổ Tử Dương dùng Lưu Thủ Ích, Bạch Long Đạo nhân làm nội hộ, Lục Công Cập, Mã Xử hậu làm ngoại hộ, vv…Trong sách sử ghi cụ thể, đây không thể nê ra hết. Xao Hào Ca ghi: “ Tầm liệt sĩ, kiếm hiền tài, cùng an lô đỉnh hoá phàm thai”. Thiên Lai Tử nói: “Học đại đạo cần kẻ tri âm, đi khắp chân trời không chỗ tìm”.
    - Chú: Hộ pháp có hai loại là ngoại hộ pháp và nội hộ pháp
    Ngoại hộ pháp là liệt sĩ, hiền tài, bạn đạo tương trợ trong những giai đoạn tu hành khó khăn, đa phần địa tiên cần dùng đến ngoại hộ pháp để bảo vệ bên ngoài .
    Nội hộ pháp là quỷ thần do bậc thiên tiên điểm hoá quy phục chính đạo mà trở lại làm thần hộ pháp. Nguyên nhân tại sao mà thiên tiên có thần hộ pháp? đều do khi tu luyện đến giai đoạn khai thông kỳ kinh bát mạch, dùng chí dương chân hoả điểm hoá toàn bộ âm khí trong thân, giống như bậc thiên tiên đem chân hoả ban tặng cho âm khí, chúng liền thọ nhận khí chí dương chân hoả này rời khỏi thân ta mà theo luật nhân quả hoá thành thần hộ pháp, năng hộ trì chính pháp, trừ diệt những kẻ bàng môn tả đạo ngấm ngầm mưu hại.
    Tương truyền Lữ Tổ có thanh kiếm trừ yêu hàng ma chính là nội hộ pháp, lại như Tây Du kể những vị thiên tiên đều cưỡi voi, sư tử, gấu làm thần vật, sức mạnh của chúng rất khó lường, Tề Thiên Đại Thánh gặp chúng cũng chưa chắc là đối thủ huống gì bàng môn phàm phu tại thế gian. Việc này các vị Thiên tiên thường dấu kỹ chẳng nói ra nhưng nay tôi đặc biệt tiết lộ, mong các anh nên biết giữ phận mà cẩn trọng, thực Thiên tiên chẳng chấp các anh nhưng hộ pháp thì không chắc là thế
    14. Huyền quan khiếu: Huyền quan khiếu được lập thành trên cơ sở của âm dương kết hợp, hễ có âm dương kết hợp thì sẽ có huyền quan. Cho nên kim mộc giao cũng đắc huyền quan , mà thuỷ hỏa giao cũng đắc huyền quan. Nơi kim mộc giao đó có thể thái thủ được nguyên tinh, nó ở khoảng sơn căn giữa hai con mắt. Nơi thuỷ hoả giao đó có thể thái thủ được nguyên khí, nó ở khoảng phía dưới rốn, tên gọi là khí huyệt, lại gọi là trung, là gốc lớn của thiên địa nhân. kim mộc giao nhưng thủy hoả bất giao thì đắc được nguyên tinh, chưa đắc được nguyên khí.
    Thủy hoả giao thì kim mộc cũng giao đó là hoà hợp tứ tượng, vửa đắc tinh, vừa đắc khí.
    Kim mộc giao đó chính là mộc công kim mẫu giao, kim mẫu sẽ sản sinh tinh thủy. Thủy hoả giao đó, thuỷ có chân dương là cha, hoả có chân âm là mẹ, hoả năng sinh thổ nên nguyên khí còn gọi là thổ khí đao khuê
    15. Khí tiên thiên: Khí tiên thiên theo dịch là quẻ càn thuộc kim nên có tính mát, tuy nhiên có tính hấp thu nhiệt cao nên khi vào môi trường nhiệt thì nóng mà vào môi trường lạnh thì hàn giống như kim loại vậy.
    Trong tu luyện cần phân biệt khí tiên thiên và tốn phong vì chúng đều có đặc điểm giúp khai thông kinh mạch.
    Khí tiên thiên có đặc tính vật chất di chuyển êm và làm cho trí óc an tĩnh sảng khoái, thường dễ cảm nhận thấy khi xâm nhập qua ngọc chẩm.
    Tốn phong có đặc tính giống dòng điện, di chuyển có lực nhưng không có chất, không tạo ra cảm giác an tĩnh sảng khoái, tuy nhiên tác dụng khai thông kinh mạch là cực nhanh cực mạnh.
    Nói chung khi luyện CTNC phần lớn là vận dụng năng lực của tốn phong hỗ trợ kéo theo khí tiên thiên được tích lũy với số lượng ít vượt qua các chướng ngại trên cột sống, nếu không có tốn phong hỗ trợ thì khí dễ bị ứ tắc tại giáp tích thường gặp trong các môn khí công thủ ý dẫn khí.
    16. Lợi và hại của Công phu Ý thủ đan điền: Công phu Ý thủ đan điền này các sách luyện đơn đều rất đề cao, chẳng phải xưa mới nói mà nay vẫn được truyền tụng.Sư huynh cũng phải công nhận nó là công phu có một không hai để tải kim đến nê hoàn nhưng nếu chỉ luyện riêng một công phu này thì e rằng chưa thành thần tiên đã thành bệnh nhân trước rồi. Vì sao vậy? Gần đây mọi người đọc Dưỡng Chân tập thấy công phu này rất được đề cao, rồi lại thấy trong Huyền Cơ Trực Giảng được Trương Tam Phong truyền dạy như thế chứng tỏ nó là công phu rất phổ biến của Đạo môn, vậy nếu luyện theo đây cớ gì mà mấy ngàn năm qua không mấy ai đắc đạo, vì sao vậy? Bởi vì Tiên thánh viết sách là truyền riêng cho đệ tử bản môn chứ nào phải có ý viết cho hạng phàm phu tục tử ngòai đời, do đó còn giấu lại chân quyết không truyền mà thôi.
    - Công phu ý thủ đan điền này lấy chính sư huynh thuở trước biết đến là do đọc được vài quyển sách của tác giả Hải Ân, trong lòng mừng rỡ vô cùng, tưởng đâu bắt được châu ngọc, ra công luyện tập đến khi thấy chân khí cuồn cuộn sống lưng tưởng đâu sắp thành thần tiên ai dè phát ngay ra chứng đau lưng, hôn trầm...có thể đảm bảo là 10 người tập thì 10 người đều bị bệnh không sai,vì thế sách Khí đạo nói có người thủ ý đan điền 10 năm mà không có công phu là vậy.
    - Vậy công phu này khi nào mới có thể luyện được: Chúng ta biết rằng khi thủ ý đan điền sẽ hút chân khí đan điền ra để thông tam quan, ở một người thường chân khí này chủ yếu để dành cho việc sinh con đẻ cái tiếp nối nòi giống, nếu hết chân khí này thì có thể sẽ tuyệt tự, hoặc là lệ thuộc vào khí người vợ mà đẻ nhiều con gái.Do đó chỉ dựa vào số vốn ít ỏi này thì không thể có công phu được.
    Bậc thầy truyền chân quyết cho đệ tử luyện bách nhật trúc cơ trước tiên phải biết lấy nguyên khí từ huyền quan về tích trữ đan điền, sách huyền diệu cảnh gọi là lấy nguyên tinh vì chân khí nhập vào nước miếng nên cũng gọi là nguyên tinh, cứ thế tích luỷ 3 tháng thì đan điền đầy ắp chân khí, khi đầy rồi thì không thể lấy thêm do đó phải vận luyện tức là luyện công phu ý thủ đan điền này rút khí đi thông suốt tam quan, sau đó đan điền lại trống thì mới tiếp tục thu chân khí huyền quan tiếp được, người xưa nói 100 ngày mà không nói 1000 ngày là lý do như vậy, cứ 3 tháng là một chu trình.
    Sư huynh nói rõ như thế vì e rằng có người ngộ nhận mà luyện thử công phu này rồi khi phát bệnh lại bảo do luyện CTNC thì rất phiền cho sư huynh. Do đó, mọi người theo ĐGKC thì chỉ nên tập các công pháp do sư huynh truyền dạy mà thôi, các công pháp trong sách thì chỉ nên đọc tham khảo, tuy là công phu tốt nhưng không dành cho mình được.
    17. Lục kỵ: Chỉ sáu điều cấm kỵ khi tĩnh toạ luyện công. Một là tu luyện mù quáng. Hai là ngồi khô nản lòng. Ba là chấp trước vào trì thủ. Bốn là nệ ở tồn tưởng. Năm là định hình ở hữu tác. Sáu là chấp vào vô vi .
    Chú: Bàng môn tu hành đều không nằm ngoài 6 điều trên. Tu luyện mù quáng thì hay gặp thầy bàng môn là do nguyên nhân không tìm hiểu lý đạo. Ngồi khô nản lòng là khi công phu chỉ biết ngồi kiết già mà thôi, có biết đâu bậc chân tiên khi tu luyện thì đến người nằm kế bên có khi cũng không hay không biết. Chấp trước vào trì thủ là loại bàng môn chuyên dùng ý hành khí, vốn không hiểu biết tiên thiên từ hư vô mà đến. Nệ ở tồn tưởng như quán tưởng thần thánh thì dễ làm bạn với ma quỷ. Định hình ở hữu tác như luyện dịch cân kinh, bát đoạn cẩm, làm sao có thể nhập đạo? Chấp vào vô vi thì chuyên ngồi thiền vô niệm, lâu ngày e trở thành loại quỷ tiên. Phàm tu luyện và lìa khỏi 6 điều trên tất là công phu chính đạo.
    18. Luyện kỷ trúc cơ: “ Luyện mình, xây nền”. “Luyện kỷ trúc cơ” chỉ là một lý, trúc cơ không nằm ngoài luyện kỷ, luyện kỳ tức ở trong trúc cơ. Luyện kỷ để nói về dụng công, trúc cơ để nói về cố khí. “Kỷ” tức là tư dục, là hữu ngã” (cái tôi, cái ta). “Cơ” là thực địa, là căn bản. Người ta không thể thành đạo là bởi cái tôi ( hữu ngã, hữu kỷ) kiên cố. Một khi có cái tôi, tư tâm tràn đầy thì không thể đứng vững ở trên thực địa, thiên ma bách chướng che lấp linh quật, bước bước âm trệ, việc việc hồ đồ, lục tặc nảy sinh, thất tình cố kết, đánh mất lương tâm, tổn thương chân tính, bản mệnh dao động, thần khí hôn trọc, không thể tiến nghiệp tu đức. Tổ sư dạy người trước hết phải luyện kỷ trúc cơ, là muốn người ta đứng vững trên thực địa, hạ công phu từ thấp lên cao, từ nông đến sâu, tuần tự tiệm tiến, cần phải rèn luyện để đầy lùi âm khí trong ngoài, công phu luyện kỷ trúc cơ là không thể thiếu được .
    - Chú: Luyện kỷ chia làm hai bậc:
    + Hậu thiên luyện kỷ: là việc của bậc trung, hạ đức cần thi hành để cầu chân sư. Phải lấy đức hạnh làm đầu, thi hành việc của người quân tử, vì nước vì dân quên mình mà làm lợi ích cho thiên hạ ắt sẽ cảm động trời xanh, quỷ thần kính phục. Sau đó lại giác ngộ lý vô thường mong cầu đại đạo ắt sẽ gặp chân sư độ dẫn. Xưa nay những bậc liệt sỹ hiền tài trong thiên hạ một khi giác ngộ vô thường thì thành đạo rất nhanh. Vì lẽ đó Tổ sư nói: Nho ,Phật , Đạo vốn là một. Xem như trên có thể thấy hậu thiên luyện kỷ chẳng phải là việc nhất thời , chẳng những là việc một đời mà còn là việc của muôn đời. Kẻ tu chân cần lấy luyện kỷ là việc của quá khứ, hiện tại, tương lai chẳng thể ngưng nghỉ. Nếu chẳng luyện kỷ mà ngẫu nhiên gặp chân sư thì cũng không mong gì đắc quyết tu chân được , phần lớn trở thành kẻ hồ đồ nơi cửa đạo mà sa vào bàng môn tiểu thuật vậy .
    + Tiên thiên luyện kỷ: Là việc của bậc thượng đức đã đắc chân quyết. Chỉ là khai thông âm khí trong thân, không quá mười ngày thì có thể hoàn tất. Nếu nê hoàn chưa thông thì tính mệnh tuy đã được mà không thể giao nhau, nếu hùynh đình còn âm khí thì tính mệnh khó hoà tan vào nhau, cuối cùng không thể đắc kim dịch hoàn đan được.

    19. Mẫu tử: Khí là mẫu, thần là tử. Mẹ một người nhưng con có muôn người, muốn nó không tan rã, nếu không giữ mẹ nó, hay bỏ con mà cầu mẹ thì đạo tự nhiên được. Thái Thượng nói: "Có vật trộn thành, tiên thiên địa sinh, lặng lẽ mênh mông, độc lập chẳng đổi, chu hành chẳng mệt, có thể gọi là thiên địa mẫu".
    - Chú: Nguyên khí từ cảnh giới tiên thiên sau khi sa vào hậu thiên liền hoá thành âm thần tạo thành bản ngã của chúng sinh, cho nên mới nói mẹ một người mà con có muôn người là vậy. Cũng như đứa trẻ mới sinh tâm hồn như giấy trắng, sau gặp cảnh thuận nghịch, thiện ác huân tập, lại gánh thêm nghiệp chướng tiền kiếp thì hoá ra tâm tính, số mệnh khác nhau. Muốn tu đạo phải bỏ con mà tìm mẹ, phải diệt âm thần hậu thiên mà tìm lại nguyên khí tiên thiên này mới được
    20. Nhâm mạch: "Mạch nhâm". Mạch này trong thông phổi, ngoài thông lỗ mũi, lúc vận hành tiểu chu thiên, từ huyệt Nê hoàn khởi, phía trước thẳng hướng xuống dưới, thông Ấn đường, qua Sơn căn, đến Trùng lâu, đi qua Hung bích, giáng đến Đan điền, dưới thông mạch Âm kiểu. Mạch này một khi thông thì tất cả bệnh nội thương đều không cần trị mà tự lành. Đan Kinh Bí Quyết ghi: "Mạch này một khi thông thì biết rõ từ mắt đến rốn là một đường rỗng giống như ánh sáng của vầng trăng".
    - Chú: Thuyết nhâm đốc nhị mạch của tục y từ xưa đến nay là một sai lầm lớn, muốn hiểu rõ hai mạch này trước phải tìm hiểu về chỗ khởi nguồn của chúng.Khi tinh cha huyết mẹ bắt đầu gặp gỡ thì liền sinh ra một khiếu hư vô huyền quan hấp thụ khí của thiên địa, thiên khí quẻ càn rơi vào hậu thiên bay lên biến thành quẻ ly là khí của nhâm mạch, địa khí quẻ khôn rơi vào hậu thiên giáng xuống biến thành quẻ khảm là khí của đốc mạch.Như vậy cội nguồn của hai mạch nhâm đốc đều bắt nguồn từ huỳnh đình, đó là một khiếu hư vô nằm dưới quẻ càn , nằm trên quẻ khôn. Mạch nhâm bắt nguồn từ huỳnh đình chạy xuyên lên tim qua cổ họng, lại xuyên qua sống mũi bắt vào huyệt ấn đường tới nê hoàn thì ngừng. Mạch đốc bắt nguồn từ huỳnh đình chạy xuống dưới thận xuyên ra sau lưng theo cột sống đi lên đầu tới nê hoàn thì ngừng. Đạo tu đơn phải hiểu rõ điều này mới có thể lấy khí của ly khảm càn khôn từ huỳnh đình đem lên nê hoàn giao hội mà ngưng kết thành nhất khí, là cái khí sinh ra trước cả càn khôn. Đan kinh từ xưa tới nay chỉ truyền dược mà không truyền hoả, tức chỉ truyền cho người ta biết cách phục diên khí quẻ khảm, mà dấu đi cách phục hống khí quẻ ly mà không hiểu vì lý do gì, có lẽ là thiên cơ bí mật không cho tiết lộ vậy, nay qua thể nghiệm phát hiện mà đặc biệt chỉ ra, nếu có đan kinh nào từng nói tới điều này thì mong được tham khảo làm ấn chứng.Nếu theo lý luận của tục y thì nhâm mạch bắt từ huyệt hội âm chạy lên thừa tương thì chẳng có lý do gì vùng hạ đan điền vốn chứa khí của quẻ khảm còn nằm trên nhâm mạch sao chẳng chạy theo mặt trước mà lại chạy ra sau lưng theo đốc mạch?
    21. Nối Thượng thước kiều: Nối thượng thước kiều nói nôm na là động tác cong lưỡi, tác hại của nó thế nào sư huynh đã nói nhiều, nay nói về cái lợi của nó cho đầy đủ.
    Khí đi qua thượng thước kiều có âm dương và thuận nghịch khác nhau, chiều thuận đi từ trên xuống là đường lưu thông của tiên thiên khí qua huyền quan và đường thoái âm khí từ nê hoàn trở xuống, hiện tượng chung là tiết nhiều nước miếng.Chiều nghịch đi từ dưới lên là đường lưu thông của âm khí từ ngũ tạng tung lên che mờ nê hoàn cung và đường lưu thông của TTK từ ngọc chẩm tung vào thanh lọc nê hoàn cung trước trán.Như vậy cùng là thượng thước kiều mà có 2 mặt lợi hại khác nhau.
    Như vậy trong CTNC nên áp dụng nối thượng thước kiều như thế nào để thu được lợi ích?
    Đối với những người mới tập CTNC thì tuyệt đối không được cong lưỡi, nhưng đối với những người tập lâu đã thấy xuất hiện hiện tượng thông tam quan, đặc biệt là ngọc chẩm quan đã khai mở , thường thấy chấn động tại ngọc chẩm thì có thể cong lưỡi nhằm vận chuyển chân khí từ ngọc chẩm xuyên ra trước trán thì ngay lúc đó lập tức cong lưỡi lên giữ nguyên như vậy đến khi kết thúc buổi tập, sau khi nằm xuống ngủ tiếp tục cong lưỡi cho đến khi thức dậy,làm như thế cho lâu sẽ thấy chân khí chấn động ở khu vực trước trán là đã hoàn tất tiểu châu thiên, đến đây sẽ thấy cốt khí thay đổi. Trong sinh hoạt thường ngày thì tuyệt đối không được cong lưỡi
    22. Phá mê thuyết: Muốn phân biệt chân đạo và nguỵ đạo thì phải:
    - Thường xuyên đọc phần ma sự của kinh lăng nghiêm, dùng nó làm kính chiếu yêu mà phân biệt chân ngụy.
    - Trả lời câu hỏi tu để làm gì? tu để tìm lại nguyên thần (chân tâm ) và tìm cách tiêu diệt thức thần.
    - Nguyên thần, chân tâm là gì? câu hỏi này đại chúng đã hỏi Phật nhưng Phật thay vì trả lời thẳng thì đã hỏi ngược lại đại chúng rằng chân tâm ở đâu? đại chúng đã dùng nhận thức của nhị nguyên luận mà suy diễn trả lời, khi thì cho là ở trên, dưới, trái, phải, trước, sau, trong , ngoài...tất thảy đều bị Phật bác bỏ? vì sao vậy? vì chân tâm thuộc phạm trù nhất nguyên luận, nay đại chúng dùng nhị nguyên luận mà suy diễn thì tất thảy đều không đúng, nhưng cuối cùng chính Phật cũng không thể chỉ ra cho đại chúng thấy được chân tâm ở đâu( vì không thể dùng nhị nguyên luận để chỉ ra được), ngược lại Phật đã dùng những suy diễn nhị nguyên luận của đại chúng về chân tâm và bảo nó chính là vọng tâm (thức thần), là căn nguyên làm cho chúng sinh bị sinh tử luân hồi, chúng sinh từ vô thỉ đã nhận giặc làm con, nay nếu muốn tìm lại chân tâm thì phải tìm cách trừ diệt vọng tâm này đi .Như vậy nếu có bất kỳ thuyết nào giảng về chân tâm mà còn nằm trong nhận thức nhị nguyên tất thảy là tà thuyết .
    - Niết bàn ( giải thoát) là gì ? Niết bàn cũng thuộc phạm trù nhất nguyên luận, nếu bất cứ thuyết nào mô tả niết bàn bằng suy luận nhị nguyên tất thảy đều là tà thuyết( ví như nói Phật có lớn nhỏ, có cấp bậc, hoặc nói niết bàn cũng có cấp bậc, ngoài tam giới lại có tam giới khác...), lấy một thí dụ để hiểu về niết bàn , như khoa học cho rằng thời gian chỉ xuất hiện sau khi vũ trụ hình thành, nghĩa là trước khi xuất hiện vũ trụ thì không có thời gian, đây thực chất là không sinh, không tử, nghĩa là không có bắt đầu, không có kết thúc, là một đặc tính không thuộc nhị nguyên luận, hiểu về niết bàn cũng tương tự .
    Hiện giờ đạo gia tuy chỉ tập trung vào công pháp tập luyện dưỡng sinh là chủ yếu nhưng sư huynh thấy cũng cần thiết phổ biến một số kiến thức cơ bản để mọi người có chính kiến, không bị vô tình sa vào tà đạo
    23. phân biệt ngưng thần và thủ ý khí huyệt: Ý thủ đan điền: ý tức là tư lự chi thần, là lậu thần, là âm thần , đem âm thần này xuống chiếu khí huyệt thì sẽ hút nguyên khí từ đan điền ra mà vận hành, đó là công pháp hại người, đan kinh nói: e sợ tư lự chi thần sẽ giao nhầm với khí hô hấp mà phản hại dược vật, phản hại dược vật nghĩa là quay trở lại làm tổn thương nguyên khí của bản thân .
    Ngưng thần nhập khí huyệt: là đem nguyên thần đã ngưng tụ trở xuống khí huyệt thì nguyên khí của trời đất sinh ra lúc nửa đêm sẽ quy nhập đan điền, là pháp thái dược quy lư, nguyên thần muốn ngưng tụ tất phải biết vận tinh ngược lên nê hoàn, lấy tinh chế thần, thần bị chế thì lại quay ngược trở xuống khí huyệt , đó chính là bí quyết thái dược. Khi thần ngưng tức là đã xong công phu lấy tinh chế thần thì mỗi khi ngủ sẽ thấy bản thể lâng lâng,bay bổng, khi nguyên thần nhập khí huyệt thì thấy sướng khóai dường như thế gian chưa từng có loại cảm giác này, trong tim ngùn ngụt cảm giác như khi hạnh phúc yêu đương, có khi thấy hô hấp ngừng lại hoặc là thấy hư tâm thật phúc, tự nhiên thấy bụng cú hút vào mãi không ngừng mà tâm thần thì hư vô, lâng lâng, bay bổng, bách mạch đều thấy khoái lạc… Phân biệt cho kỹ như thế mà biết đường hạ thủ công phu, kẻo e, sai một ly đi một dặm vậy
    24. Quán đỉnh và Hạ chủng: Quán đỉnh và hạ chủng là những nghi thức đặc biệt của Phật Giáo và Đạo Giáo trong việc thừa nhận chính thức một đệ tử. Ngày nay với những nghi lễ quán đỉnh được thấy theo kiểu sư phụ làm lễ cho đệ tử chỉ là một sự mê tín dị đoan. Sự thực quán đỉnh và hạ chủng là 2 công phu, sư huynh đặc biệt nói rõ ở đây. Hạ chủng là một bài luyện công để lập tức quy định vĩnh viễn một đệ tử có khả năng tu luyện lên bậc cao. Như vậy sau khi thực hành bài hạ chủng người đệ tử ngay lập tức có đủ tố chất để tu luyện và tố chất này tồn tại vĩnh viễn dù chỉ hạ chủng một lần duy nhất.Bài hạ chủng này chính là bài hoán đổi kinh mạch của Đạo gia.Nói về tố chất chung của nhân loại thì có nhiều dạng khác nhau, ta quan sát loài vật đi bằng 4 chân có trọng tâm đổ hẳn xuống phía dưới ngực bụng lên có tốt chất thuần âm.Người già lưng còng cũng vậy đều là âm rất thịnh không thể tu luyện. Ngay cả thanh niên cũng có nhiều người tố chất thuần âm mặc dù bề ngoài còn chưa biến đổi.Ngược lại có những người tố chất thuần dương kinh mạch (không phải là thuần dương khí)thường có dáng đi ngửa ra sau thì dễ tu luyện những không lên cao được, Duy chỉ những người có tố chất thiếu dương, trong tâm hơi nghiêng về sau thì dễ tu luyện nhất.Như vậy khởi điểm của một người nhập môn tu luyện luôn là một trong các dạng người trên do đó dẫn tới ấn chứng nhanh chậm sai khác nhau.Hạ chủng không được chân truyền, tức là học lóm thì sẽ vô tình tạo ra một loại chủng tuy có thể tu luyện nhưng khó lên tới đỉnh.
    Quán đỉnh theo tên gọi là thông suốt đỉnh đầu. Thực tế bài quán đỉnh và hạ chủng là một, nhưng thông thường khi truyền công pháp người thầy tách ra làm hai, đây coi như là thử thách đối với đệ tử.Chúng ta biết rằng bộ não con người là hết sức kỳ bí, tầng tầng lớp lớp then chốt. Sau khi thông suốt được xương sống thì trở ngại trên não bộ là rất lớn, nếu không biết quán đỉnh thì coi như vĩnh viễn dậm chân tại chỗ, nhìn chung nảo bộ chia làm 2 tầng, ngọc chẩm là tầng một và thông thường người ta chỉ thông đến đây nếu chưa quán đỉnh.Ở người thường cũng có nhiều người tự nhiên đã thông đỉnh đầu nên họ luyện một vài công phu nhập môn cũng thấy đỉnh đầu khai mở, tuy nhiên khi những người này vô tình được biết hạ chủng mà không được chân truyền thì đỉnh đầu sẽ đóng lại, bởi vì hạ chủng đã quy định tố chất mới.
    Nói dễ hiểu hơn thì hạ chủng quy định tố chất để chân khí có thể lên đầu, còn quán đỉnh là để khí khai mở đỉnh đầu, dẫu cho đắc được huyền quan khiếu mà không biết hạ chủng và quán đỉnh thì cũng chỉ là vô ích, cho nên tu luyện có thứ đệ công phu như vậy. Cổ tiên nói rằng có người đến cửa mà không biết bước lên thềm, lên thềm rồi lại không biết vào nhà, vào được nhà lại không biết vào buồng là như thế.
    25. Thái thủ: Thái thủ có hai chặng công phu, chặng thứ nhất thái nội dược nơi âm kiểu, chặng thứ hai thái ngoại dược nơi trung cung. Lấy sự ngồi ngay ngắn tu tập tĩnh định làm cơ sở cho thái thủ. Thể Chân Tử nói: "Thái là thái ngoại dược, thủ là thủ nội dược".
    Chú:Nội dược là tinh, ngoại dược là khí. Thủ nội dược nơi âm kiểu là tiểu chu thiên vận tinh qua vĩ lư. Thái ngoại dược nơi trung cung là đại chu thiên vận khí ở hoàng đình, đó là nơi càn khôn thiên địa gặp gỡ, chính là huyền quan vậy.
    26. Thước kiều: "Cầu Ô thước". Có thượng hạ hai cái, thượng thước kiều ở trong sống mũi dưới ấn đường. Có bốn con đường rẽ, hai đường bên trái phải lỗ mũi, một đường nơi tiền khẩu, một đường nơi hậu hậu, trung hạ là lưỡi mềm mại, trên ấn đường dưới tỵ khiếu một hư một thực. Hạ thước kiều ở trong xương vĩ lư cũng có bốn con đường rẽ, hai đường ngoài thông đại tiểu tiện, hai đường trong phía trên thông tâm, phía sau hai khiếu bên xương sống, chỉ có ở giữa thông tủy đạo trong xương sống thẳng đến nê hoàn, trước cốc đạo sau vĩ lư cũng là một hư một thực. Nhập Dược Cảnh ghi: "Thượng thước kiều, hạ thước kiều, thiên ứng tinh, địa ứng triều".
    Chú: Thước kiều là bí mật của thần tiên dùng để thái thủ đại tiểu dược. Thượng thước kiều cũng gồm nhiều loại không đồng nhất, khi 100 ngày bá nhật trúc cơ cần dùng lưỡi chống đỡ vòm miệng thu ngọc dịch về qua đường thực quản làm cơ sở cho tiểu chu thiên. Khi 10 tháng luyện đại chu thiên lúc khí lên tới đốt xương cổ muốn vượt ải ngọc chẩm cần chống lưởi lên vòm miệng để thông suốt một đường tới nê hoàn.Chân khí lên tới đây sẽ trở xuống đến ấn đường thì gặp trở ngại lớn khó vượt qua, cần được thầy truyền bí quyết mới có thể dẩn khí thông suốt dọc sống mũi đến tận đầu mũi chuyển nhập vào chân răng cửa chạy dọc theo vòm miệng vào sâu trong cổ họng rồi theo đường khí quản đi xuống giáng cung. Tóm lại, thượng thước kiều gồm hai đường dẫn vào thực quản và khí quản là như vậy .Hạ thước kiều là chỉ đường thông giữa hội âm tới vỉ lư cần dùng trong khi tiểu chu thiên vận tinh, cũng phải cầu chân quyết mới có thể hạ thủ công phu
    27. Chân Chủng Tử: Long hổ luyện thành một vật hay động hay lắc, cái có được trong lúc chân tĩnh là chân chủng tử. Tổ Tử Dương nói: "Trong đỉnh nếu không có chân chủng tử thì cũng như đem thuỷ hoả nấu trong cái chõ trống không".
    - Chú:Khi luyện đại tiểu chu thiên thấy chân khí giống như một vật hay động hay lắc, lúc ở huỳnh đình khiến trong bụng lùng bùng như nồi nước sôi, khi chuyển ra sau lưng làm xương sống co rút hoặc lay động như rồng rắn uốn khúc, khi tới nê hoàn nếu không biết phép thâu nguyên thần thì như lọt vào cái động đá trống không, nếu có khẩu quyết thu nguyên thần thì thần khí sẽ hút lấy nhau say mê như nam châm hút sắt, lâu ngày tất sẽ kết thành kim đan.Chuyện tu luyện nếu chẳng được những hiệu nghiệm này thì chỉ là uổng công vô ích như nhóm lửa đốt cái chõ trống không.
    28. Vấn đề thủ ý dẫn khí: Nhiều người đọc sách luyện đơn thấy trong sách nói dẫn khí từ hạ đơn điền qua vĩ lư, lên giáp tích, qua ngọc châm..thì tưởng rằng muốn dẫn khí phải thủ ý, kỳ thật đó chỉ là cách mượn văn để tải đạo không thể không nói như thế, kỳ thực lại không phải là thế. Như sách huyền diệu cảnh nói 'người đời chấp rắng nó có thiệt tướng của phương vị nên suốt đời không thành công' là ý nói đừng thủ ý vây. Sách TMKC có mấy bài như ngọc dịch luyện hình, tẩy tâm thoái tàng tưởng như dạy thủ ý dẫn khí mà kỳ thực đó là lời ẩn dụ của chân quyết, khó mà dùng cách nói khác được. Ví như sư huynh mô tả mão dậu chu thiên khí từ cột sống qua ngọc chẩm vào não trái....thì cũng là mô tả trải nghiệm chứ không phải dạy thủ ý dẫn khí như vậy.Khí tiên thiên khi di chuyển có đường lối của nó chứ không thể dùng ý chí điều khiển được, và lại xung lực khí rất nhanh rất mạnh, như sấm như chớp, như gió, như điện, chưa đầy một phần giây nó đã có thể đi xong một vòng châu thiên rồi, muốn điểu khiển khí tiên thiên chỉ có dùng thủ ấn để tạo kiểu kinh mạch thì khí sẽ tự thay đổi khi chạy trong hệ thống vận hành mới, sau nữa là dùng ánh mắt để điều khiển sư thăng trầm, sách TMKC gọi là dùng công lực mắt để vận chuyển óc, khi ngước mắt nhìn lên thì khí lên tới đỉnh đầu để tiến dương, khi ngước mắt nhìn xuống thì khí hạ xuống thoái âm, nhưng đây đã là phần công phu cao cấp
    29. Văn vũ hoả hậu: Hoả hậu như nấu cơm, lúc mới nhuốm lửa nước lạnh gạo sống, phải dùng vũ hoả mãnh liệt khiến nó mau nóng. Nếu hoãn gấp không điều hoà, lúc cháy lúc tắt thì cơm được nấu sống chin không đều, vị cũng không ngon. Nếu đã dùng lửa lớn nấu qua thì nên dùng lửa nhỏ nấu từ từ, cơm chin thì dừng lửa, nếu như vẫn dùng lửa lớn thì có sư sôi trào nước và cơm khê vị đắng. Luyện đan vận dụng văn vũ hoả hậu cũng thế, như trăm ngày tiểu chu thiên lúc luyện tinh nên dùng vũ hoả, mười tháng đại chu thiên lúc luyện khí nên dùng văn hoả. Nhưng nấu cơm là nấu vật có hình cho nên thời gian ngắn mà dễ, còn tu luyện kim đan là vật không hình không chất, nếu hoả hậu không được thích hợp thì ít thành công. Vì thế phải cầu minh sư chỉ dạy, không cho phép sai khác mảy tơ, đan kinh chẳng phải là lời giả dối. Hư Tĩnh thiền sư nói: “Lòng dục một khi sinh khởi mau dùng vũ hoả”.
    - Chú: Văn vũ hoả hậu là bí mật thần tiên không cho nói rõ nên mới có lời rằng “người tuy biết dược biết hoả mà không biết hoả hậu thì cũng là sự vô duyên”. Vũ hoả biết ra cũng dễ nhưng Văn hoả thì cực khó. Vũ hoả là ngọn gió thái dược, gió này khởi lên từ bên ngoài thổi vào hai mạch nhâm đốc. Văn hoả là ngọn gió khi phong cố, gió này khởi từ bên trong mà thổi lên huyệt nê hoàn giúp diên hống giao hội. Nếu trong lúc thái dược cần dùng vũ mà lại dùng văn thì không thể hái thuốc. Nếu trong lúc phong cố cần dùng văn mà ngược lại dùng vũ thì không thể kết đan. Tiên thánh đặt tên Văn hoả , Vũ hoả chẳng phải là để ví dụ cho ngọc gió lớn , gió nhỏ mà chữ Văn vốn là đối nghĩa của chữ Vũ, phương pháp dùng hai ngọn gió Văn Vũ này cũng hoàn toàn đối lập trái ngược nhau. Vì thế văn vũ hoả hậu cần phải cầu minh sư chỉ bảo.
    30. Sinh con khỏe mạnh tốt đẹp (mục này không thuộc bài giảng của sư huynh HQT) trong Kinh thư "Kim quan ngọc tỏa" của Tổ vương Trùng Dương có viết:
    "....Hỏi rằng: Vì sao có người đẹp người xấu. Khẩu quyết: Dung mạo đẹp đẽ là bởi nhị khí của cha mẹ cảm ứng với nhật nguyệt. Trước giờ ngọ và sau giờ sửu thụ thai thì con sinh ra đẹp đẽ, dồi dào tinh lực, sống thọ, có bổng lộc, hình hài đẹp đẽ làm cha mẹ vui lòng. Nhưng sau giờ ngọ và trước giờ sửu thụ thai thì dung mạo không đẹp, có các bệnh như điếc, câm, mù, nhiều tính xấu, không được người yêu thích, mệnh nghèo nàn, không có bổng lộc, tuổi thọ không dài. Đây là gốc của tạo hoá...."
    Hy vọng điều này có thể giúp ích cho nhiều người ,có lẽ sau sửu tam dương khai thái .Xưa nay thường nói sinh vào giờ dần sướng nhưng lại không thấy nói đến thụ thai giờ nào tốt ,đây có lẽ là một trong những điều quí giá của tổ vương trùng dương để lại .Anh em sau này sinh con kết hợp với bài giảng ngủ trưa của sư huynh hy vọng sẽ có được những đứa con toàn vẹn.








    31. Làm sáng tỏ nghĩa lý của Tính mệnh khuê chỉ:
    Hùynh Thiềm Tử nóiược thủ Tiên thiên khí.Hỏa tầm Thái Dương tinh.Năng tri dược thủ hỏa.Định Lý kiến Đơn thành. BS Nguyễn Văn Thọ dịch:Tiên thiên khí là dượcCòn Hỏa ấy nguyên thầnBiết dược và biết hỏaTrong định đơn sẽ thành
    Huyền Quang Tử chú:
    Thánh nhân dùng hai từ Hỏa, Dược để ám chỉ Nguyên thần, Nguyên khí.Ngòai ra có khi cũng gọi nguyên thần là nội dược, vì là thứ vốn từ vô thủy vô chung ta đã có nó, gọi nguyên khí là ngọai dược, bởi là thứ sinh ra do tạo hóa từ khi Thái cực còn mập mờ chưa phân.Đơn tức chỉ Kim đơn là thuốc Trường sinh do lấy Nguyên khí chế Nguyên thần, Chân diên chế Chân hống như Chì chế Thủy Ngân thì sẽ tự nhiên ngưng tụ, Nguyên thần bị chế ngự sẽ ẩn thân ở Nê hoàn cung ngày đêm chiếu sáng Thượng điền , như thế là đắc Nhất vậy.

    Tử Trung Đạo nhân nói:Yết tân nạp khí thị nhân hànhHữu dược phương năng tạo hóa sinhĐỉnh nội nhược vô chân chủng tử?Do tương nhiệt hỏa chử không đang BS Nguyễn Văn Thọ dịch:Yết tân nạp khí chuyện người làmTĩnh tọa thuốc không sao hóa được?Như nếu trong nồi không có thuốcThì như nhóm lửa đốt nồi không.
    SH Huyền Quang Tử chú:
    Bốn câu thơ này nói lên cái sai lầm của hai nhà Thích , Đạo giống như hai người mỗi bên nắm một tay áo mà xé làm đôi. Thích trọng tu tính , Đạo trọng luyện mệnh, đều là thiếu sót.Trong nồi không thuốc là sai lầm của nhà Thích trọng thiền công,do tu luyện không biết cầu huyền nơi thủy phủ.Trong đỉnh không có chân chủng tử (nguyên thần) là sai lầm của nhà Đạo không biết tu định ở cung ly.Nếu biết lư, đỉnh lại biết khí, thần đó chính là tính mệnh song tu vậy
    32. Chất và lượng trong tu luyện: Trong triết học có khái niệm về sự vận động và biến đổi giữa lượng và chất, trong tu luyện cũng như vậy. Trái đất này có hàng tỷ con người, căn cơ và tố chất khác nhau nhưng đều có một điểm chung là có "tố chất của con người".
    Tố chất của con người là giới hạn để xác định một cá thể là một con người, trong đó lại chia ra các mức tố chất nhỏ hơn như: người tầm thường, bình thường,có tài, thiên tài, siêu nhân..
    Triết học nói rằng số lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ khiến chất thay đổi, tu luyện cũng như vậy, chúng ta là một người thường bắt đầu tu luyện thì sẽ có tố chất nằm trong giới hạn người thường, để tiến lên tố chất mới thì phải vượt qua giới hạn cũ, muốn vậy thì phải kiên nhẫn không ngừng, tuy nhiên phải hiểu rõ điều này: khi lượng tích lũy chưa đủ thì chất với chưa thay đổi, do đó trong quá trình tu luyện sẽ cảm thấy có một khoảng thời gian dường như không thấy tiến bộ, thực ra thì chúng ta mổi ngày tu luyện là mổi ngày không ngừng nâng cao, nhưng do lượng có biến đổi mà chưa đạt tới giới hạn thay đổi chất nên chúng ta không thể nhận thấy mà thôi.Do đó sư huynh khuyên mọi người không ngừng tu luyện sẽ không ngừng tiến bộ.
    33. Hoạt tí thời: Hoạt tí thời là hiện tượng đặc biệt trong tu luyện, nó thể hiện sự đồng bộ giữa cơ thể và trời đất, trong trạng thái này người tu luyện thu hái được tiên thiên khí cùng lúc với trời đất vào lúc nửa đêm.
    Hoạt tí thời hiện nay chính xác vào khoảng 23:30 kéo dài đến 1:30 sáng, sau đó cường độ giảm dần.
    Hoạt tí thời diễn ra khi người tập rơi vào trạng thái 'yểu yểu minh minh', tức là trạng thái chuyển tiếp khi sắp sửa ngủ say, khi đó ta thấy đầu óc bỗng nhiên tĩnh lặng một cách kỳ lạ, rồi bỗng nhiên tại vị trí bên trên vĩ lư
    thấy động khí, bắp thịt máy động khoảng chục lần, đó là tiên thiên khí chuẩn bị di chuyển, ngay kế tiếp đầu óc có cảm giác lịm đi,một nguồn năng lượng xông vào trong não bộ qua ngọc chẩm, cảm thấy tê mê trong óc, tê mê ra tới tận tay chân, cảm giác này diễn ra trong chốc lát khoảng vài giây, bên tai nghe thấy một hồi trống vang dồn, hồi trống càng dồn dập thì lượng tiên thiên khí vào não càng nhiều, sau đó người luyện cảm thấy rất tỉnh táo, rồi hoạt tí thời lại tái hiện khi bắt đầu yểu yểu minh minh như vậy.
    Một số người cũng nghe thấy hồi trống bên tai nhưng không thấy cảm giác tê mê diễn ra thì tiên thiên khí chưa vào được não bộ mà đã bị kẹt lại ngọc chẩm, đó là một kho dư trữ khí của não bộ, những người sau đầu thấy có xương ngọc chẩm nhô cao là có tiên thiên khí đồn trú nhiều, dù không tu luyện nhưng đến một giai đoạn nào đó của đời người số lượng tiên thiên khí này sẽ thâm nhập não bộ thể hiện thành tài năng đặc biệt trong lĩnh vực nào đó.
    34. Công phu 2 thời tí ngọ: Vấn đề công phu 2 thời tí ngọ rất quan trọng, nó liên quan đến vòng tiểu châu thiên vận hành tự nhiên của cơ thể. tại sao chúng ta lại buốn ngủ vào buổi đêm và buổi trưa? Nếu các bạn chú ý quan sát thì những đứa trẻ nào ít ngủ trưa khi lớn lên sẽ kém thông minh, và khi lớn lên một chút nữa chúng sẽ ngủ trưa li bì để bù đắp lại. Nhưng quá trình phát triển của tự nhiên đã đi qua, và phần lớn những người này khi trưởng thành đều kém thông minh, thiếu năng lực so với những người mà thời thơ ấu ngủ trưa đủ giấc. Trẻ em ngủ trưa đủ giấc khi trưởng thành lại có năng lực hoạt động cao và ít có nhu cầu ngủ trưa hơn. Vấn đề này có lẽ chưa được khoa học nghiên cứu thấu đáo. Nhưng ở VN trước đây thời tôi còn đi học tiểu học thì những lớp hệ A (khá giỏi) thường được xếp học buổi sáng. hệ B(học trung bình yếu) thường được xếp học buổi chiều. kết quả dường như là, học sinh giỏi thì ngày càng giỏi, còn học sinh trung bình thì ngày càng kém đi.( Nhưng nguyên nhân lại bị đổ lỗi cho việc đến lớp ngủ gà ngủ gật dẫn đến không tiếp thu được bài hoc...)
    Nguyên nhân được giải thích theo lý luận của sư vận hành khí như sau:
    Khi ta ngủ một giấc từ tối đến sáng thì dương khí sẽ bắt đầu từ vĩ lư dâng lên đến ngọc chẩm thì ngưng. Sau đó ta sẽ có giấc ngủ ngắn buổi trưa tiếp tục khiến dương khí từ ngọc chẩm dâng lên nê hoàn cung. Quá trình thoái âm thì trong giấc ngủ trưa, âm khí thoái từ nê hoàn xuống sơn căn, và với giấc ngủ đêm, âm khí thoái từ sơn căn xuống hội âm.
    Như vậy nếu một đứa trẻ thiếu giấc ngủ trưa thì chúng sẽ thiếu hai tiến trình trong vòng tiểu châu thiên tự nhiên liên qua đến sư phát triển trí tuệ là dương khí tiến vào nê hoàn và âm khí thoái xuống sơn căn.
    Việc công phu CTNC là đưa cơ thể trở lại với sư vận hành quen thuộc thời thơ ấu. Do đó cần phải lấy hai thời công phu buổi đêm và buổi trưa là quan trọng nhất.
    35. Cô tu: Trong lời chú về "Tĩnh tọa cô tu" của Lưu Nhất Minh thời Thanh ghi: "Hoặc quán không, hoặc định tức, hoặc tư thần, hoặc thủ xảo, hoặc ban vận đều là :
    tĩnh toạ cô tu", chỉ có âm mà không có dương. Không chỉ vô ích cho tính mệnh, mà còn thương tổn đến tính mệnh. Càng tu thì khí càng khô.
    - Chú: Quán không, định tức, tư thần, thủ xảo, ban vận vốn là các dạng tu trì bàng môn. Bao bọc quanh người có 7 lớp phách thuộc âm thần, theo đạo kim đan phải dùng tiên thiên nhất khí tiêu diệt 7 lớp phách này mới đạt tới thuần dương. Bàng môn thì dùng 7 lớp phách này tu luyện nên gọi là tu âm thần, thu vào phóng ra chỉ có thể hoán đổi vị trí cho nhau, tuy nhất thời có thể thấy khỏi bệnh tật, nhưng không hay rằng việc đó chẳng qua chỉ là hoán đổi vị trí trước sau. Bệnh tật vẫn còn đó chẳng hề tiêu biến, lâu ngày nghiệp bệnh tích tụ có thể sinh trọng bệnh mà tổn thọ .
    36. Tiến dương hoả, thoái âm phù: Tiến dương hoả có 2 mức độ:
    - mức thấp:là khi nửa đêm nằm ngủ, ngoại thận dục cử, thì dương khí vượt vĩ lư tiến lên nhưng ta không cảm nhận được.
    - mức cao: là hoạt tí thời, dương khí tiến lên tự động vào giờ tí, xông qua ngọc chẩm vào nê hoàn, hoạt tí thời đã xuất hiện thì sẽ xuất hiện mãi, mỗi đêm đều xảy ra một cách tự nhiên.
    Ngoài ra tiến dương hoả có thể thực hiện vào giữa trưa cho đến chiều tối khoảng giờ thân dậu vẫn được.
    tiến dương hoả là phép thủy hoả giao chuyển động theo chiều từ dưới lên trên lọt vào nê hoàn thì ngừng.
    tiến dương hoả rồi lại phải biết thoái âm phù nếu không thì không thấy được công dụng của dương khí, như vậy tiến dương hoả là điều kiện cần, thoái âm phù là điều kiện đủ trong tu luyện.
    Chú:Thoái âm phù: sách 'tính mệnh khuê chí gọi là phép tả truyền hữu chuyển, thực chất là sự thay đổi bộ vị của thủ ấn trái phải qua lại để dương khí tích luỹ sau khi tiến dương hoả sẽ tiến vào hai khu vực kim mộc của cơ thể thanh lọc lục phủ ngũ tạng.
    tay trái thuộc mộc, tay phải thuộc kim, kim mộc giao là 'long hổ giao đâu' là căn bản của bách nhật trúc cơ cũng đồng thời là phép thoái âm.
    Gan thuộc mộc là cơ quan giải độc bên trong, nếu gan yếu thì cơ thể sẽ tích độc. Phổi thuộc kim là cơ quan giải độc bên ngoài, khai khiếu ra mũi và làn da khắp cơ thể, phổi yếu thì làn da xấu mà các khiếu không thông thoáng sinh ra bệnh tật như ngòi lạch bị ứ tắc, kim sinh thủy nên phổi bệnh thì thận cũng suy, hệ bài tiết sẽ suy giảm chức năng.
    Người tu luyện chỉ biết tiến dương mà không biết thoái âm thì cũng như người có một kho tàng báu vật mà không có chìa khoá mở cửa, biết được thoái âm thì sẽ thấy hiệu nghiệm trước mắt, toàn bộ bệnh tật cũ đều biến mất hết, là sự thành tựu bước đầu trong tu luyện.
    37. Nên hay không nên truy cầu gấp Huyền quan nhất khiếu: Khi các bạn đến với Đạo gia khí công được nghe nhắc đi nhắc lại về 'huyền quan khiếu' tất không thể không khỏi có nhiều thắc mắc, đó là lẽ hiển nhiên.Huyền quan khiếu là gì? và khi biết rằng nó là điểm quan trọng mấu chốt của Đạo gia khí công thì hay có tâm trạng nóng gấp vứt bỏ cái dễ thấy mà truy cầu cái khó thấy, tức là vứt bỏ bộ công pháp nền tảng công truyền mà nghiền ngẫm truy tìm huyền quan khiếu, thậm chí dễ dẫn đến việc thêm thắt sửa đổi công pháp nền tảng theo suy nghĩ chủ quan của mình nhằm truy cầu mục đich chính, điều này hết sức không hay, dẫn đến tình trạng sôi hỏng bỏng không, rất khó tiến bô. Tại sao tôi phải nhắc các bạn không nên gấp gáp truy cầu huyền quan khiếu?
    Vì nó là điều qúy trọng của đạo pháp xưa nay, khó thấy khó gặp, sách huyền diệu cảnh nói rằng 'tuy ngu muội, dầu đứa tiểu nhân mà biết huyền quan thì cũng đặng về cõi thánh' thì các bạn cũng hiểu uy lực của nó đến mức nào, chính vì uy lực đến thế thì càng trở nên bí hiểm khó tìm.
    Xưa nay truy cầu được huyền quan khiếu chỉ do:
    - Được thầy truyền trao
    - Ngộ tính cực cao, tự biết, tự chứng, trong đó có sự đóng góp của yếu tố may mắn rất lớn
    - Tiệm tiến theo pháp nền tảng công truyền, không truy cầu huyền quan mà tự nâng cao ngộ tính đến một mức nhất định thì vừa đắc được 2 điều trên: -được thầy gợi mở - tự ngộ, tự chứng
    Như vậy, theo 2 con đường trên thì rất khó, mà theo con đường thứ 3 thì tiệm tiến mà vững chắc, nền tảng tốt thì mới mong truy cầu cao siêu chứ mong cầu một sự đột biến là điều xưa nay vốn không tưởng, tất sẽ có phát sinh biến dị không thể lường trước đươc.
    Nhiều bạn thắc mắc khi thấy tôi nói rằng Huyền quan nhất khiếu không có vị trí xác định, lại không thể thủ ý để truy cầu vậy thì phải làm sao?
    Xin trả lời huyền quan khiếu không ở trong thân , chẳng ở ngoài thân , không có vị trí cụ thể để có thể quan sát, sờ nắn nên chẳng thể thủ ý để khai mở, nó vừa là khiếu vừa chẳng phải là khiếu, chứng ngộ được nó thì trong thân tự có huyền quan, không chứng ngộ được thì trong thân chẳng có khiếu này.
    - Vậy làm sao có thể chứng ngộ huyền quan?
    Nay tôi tiết lộ thiên cơ bị che dấu bao đời nay cho các bạn biết, huyền quan khai mở khi âm dương trong người kết hợp
    - Vậy âm dương làm sao có thể kết hợp?
    Âm dương kết hợp theo hai cách:
    - Giao kết thông qua hình thể động tác, cái này cần phải có thầy truyền, trong đó còn nhiều vấn đề rất khó nói dựa vào ngộ tính và may mắn mới có thể dùng đươc.
    - Do sự phối hợp của thần khí dựa vào thai tức pháp làm cho tâm tức tương y, cái này ai cũng có thể chứng được nếu cố gắng hết sức, thần khí bên trong phối hợp sẽ tự phát động công làm cho hình thể động tác giao kết âm dương, như vậy âm dương trong ngoài đều có thể giao kết, là thứ giao kết chân chính nhất dựa vào tự lực.
    Như vậy các bạn có thể thấy được tầm quan trọng của thai tức pháp trong việc truy cầu huyền quan là như thế nào rồi, xưa nay thai tức là pháp quan trọng chỉ có các bậc thầy tổ mới đạt được, cho đến về sau dường như thất truyền, nhắc đến thai tức như nghe chuyện viễn tưởng vây.Ngày nay tôi đã tận tiết thiên cơ lại hướng dẫn cặn kẽ pháp thai tức rồi, hy vọng các bạn cố gắng nhiều hơn nữa.
    Hùynh Thiềm Tử nóiược thủ Tiên thiên khí.Hỏa tầm Thái Dương tinh.Năng tri dược thủ hỏa.Định Lý kiến Đơn thành. BS Nguyễn Văn Thọ dịch:Tiên thiên khí là dượcCòn Hỏa ấy nguyên thầnBiết dược và biết hỏaTrong định đơn sẽ thành
    SH Huyền Quang Tử chú:
    Thánh nhân dùng hai từ Hỏa, Dược để ám chỉ Nguyên thần, Nguyên khí.Ngòai ra có khi cũng gọi nguyên thần là nội dược, vì là thứ vốn từ vô thủy vô chung ta đã có nó, gọi nguyên khí là ngọai dược, bởi là thứ sinh ra do tạo hóa từ khi Thái cực còn mập mờ chưa phân.Đơn tức chỉ Kim đơn là thuốc Trường sinh do lấy Nguyên khí chế Nguyên thần, Chân diên chế Chân hống như Chì chế Thủy Ngân thì sẽ tự nhiên ngưng tụ, Nguyên thần bị chế ngự sẽ ẩn thân ở Nê hoàn cung ngày đêm chiếu sáng Thượng điền , như thế là đắc Nhất vậy.
    38. làm thế nào để luyện tập đạt kết quả cao nhất: Đây là câu hỏi mà bất kỳ ai cũng muốn hỏi mỗi khi thấy sự tiến bộ bị ngưng trệ.
    Tôi trả lời rằng : HÃY THÔNG BIẾN. Trong cuộc sống nếu khéo léo áp dụng HÃY THÔNG BIẾN thì ta sẽ thành công. Tu đạo cũng vậy, HÃY THÔNG BIẾN thì sẽ tiến bộ không ngừng, giống như dòng nước chảy khi gặp chướng ngại thì liền tìm hướng khác để đi vậy.
    Ba bài tập hiện nay gồm : CTNC, Tiến dương công, thoái âm công là giáo trình chính thức cho tất cả các bạn. Riêng với các bạn đã tập luyện lâu thì đã biết tới một số bài tập trước đây, vậy thì các bạn sẽ áp dụng thế nào cho có hiệu quả nhất? tôi cũng trả lời rằng HÃY THÔNG BIẾN, hãy tự lắng nghe cảm nhận của cơ thể mà đề ra đường lối tập luyện tốt nhất. Sau cùng là 'học thày không tày học bạn' , bởi vì sao? căn cơ, tố chất mỗi người mỗi khác , tôi không thể đem những kinh nghiệm tập luyện của mình truyền đạt mà các bạn có thể cũng tập luyện đạt kết quả như tôi được. Do đó hãy trao đổi với bạn bè, những người bạn đồng tu để học hỏi kinh nghiệm , tìm ra cách thức tập luyện tốt nhất cho mình.
    39. Các triệu chứng bệnh do tắc nghẽn khí và cách xử lý: Đan điền là bể chứa tiên thiên khí, khi còn trong bào thai, cửa huyền quan thường mở , chân khí qua đó mà thâm nhập tàng chứa tại đan điền, sau đó phân phối cho ngũ tạng lục phủ, một phần lớn cung cấp cho mệnh môn tiết ra ngoài theo tinh sinh dục để thụ thai, cho nên trong tinh sinh dục có chứa khí tiên thiên, nếu sinh hoạt tình dục quá độ, rút hết khí của đan điền thì thì đan điền sẽ tự động rút khí của ngũ tạng và lục phủ để cung cấp cho hoạt động này, kết quả là sẽ yểu mệnh.cho nên sinh hoạt tình dụng điều độ thì sẽ không hao tổn tiên thiên khí qúa mức, nhưng cũng không cần diệt dục vì đó là quy luật tự nhiên, tiên thiên khí vẫn sẽ hao tổn khi ngủ mê nếu bị dồn nén lại.bàng môn tiểu thuật bày ra thuyết luyện tinh hoá khí thực ra không phải là tinh có thể bốc hơi thành khí mà là trong khi xuất tinh thì tìm cách giử tiên thiên khí lại đưa qua huyệt vĩ lư, đây chẳng qua là cách tiết kiệm chân khí để kéo dài tuổi thọ mà thôi.
    Các phép luyện khí công dạy người ý thủ đan điền, nếu ở người có tiên thiên khí bẩm sinh mạnh thì lực lượng ở đan điền sẽ đủ mạnh để đột nhập vĩ lư, nếu không đủ lực lượng thì nó sẽ hút khí ngũ tạng lục phủ ra để làm việc này, vì vậy mà khi mới bắt đầu thủ ý thường không có cảm giác, sau một thời gian thì bắt đầu nhận được khí cảm là do khí từ tạng phủ được hút từ từ vào đan điền. Khi chân khí ở đan điền đủ mạnh thì nó đột nhập vĩ lư huyệt, thời gian này thường thấy huyệt hội âm nhảy nhót rung động, khí đi qua vĩ lư như dòng nước mát chảy qua, nhưng thường nó sẽ không qua hết, một phần bị tắc nghẻn lại và tồn lưu xuống kinh mạch ở mông và hai chân, người này sẽ mắc bệnh đau giống như đau thần kinh ở mông và chân, bệnh khi nặng khi nhẹ bất thường, trường hợp đau nặng không thể đi lại được. Phần khí vượt qua vĩ lư sẽ tiếp tục đi lên mệnh môn, thời gian này thấy mệnh môn thường nhảy động, sau khi đủ lực lượng tiếp tục thẳng lên giáp tích, đây là cữa ải khó vượt qua, nếu bị tắc nghẽn ở đây thì sẽ bị đau mỏi lưng, người bệnh không thể nằm ngữa khi ngủ, bệnh tăng nặng vào đêm, đau mỏi dữ dội, nơi đau không cố định mà di chuyển qua lại, biểu hiện giống như đau các dây thần kinh ở vùng lưng, ban ngày thì bệnh giảm nhẹ hoặc khỏi hẳn, đêm lại phát bệnh, không gây tổn thương ở xương sống. Một phần chân khí sẽ vượt giáp tích và tiến lên huyệt đại chùy và phong phủ đột nhập ngọc chẩm quan, đến đây sẽ gặp tắc nghẽn, chân khí sẽ thâm nhập vào cổ họng và lưỡi làm tê cứng vùng họng và lưỡi, lưỡi thường xuyên bị tê đau cứng, đặc biệt khi căng thẳng thần kinh và khi đọc sách các triệu chứng càng tăng mạnh kèm theo nhức đầu, có thể gây ra các chứng viêm xoang, tắc mũi, đau khớp thái dương, đặc biệt triệu chứng dễ thấy bên ngoài nhất là hay ngáp dài, không buồn ngủ cũng ngáp, cứ 5 phút thì lại ngáp một lần, trường hợp này khí không thể nhập ngọc chẩm quan mà bế tắc tại phong phủ, các triệu chứng trên ảnh hưởng vô cùng lớn tới năng xuất làm việc.
    cách xử lý có hai phương pháp
    - Theo truyền thống, dùng ý thủ tại những nơi tắc nghẽn, nhằm tập trung chân khí bị tắc nghẽn lại và vượt ải, lần lượt tập trung lâu dài ở vĩ lư, giáp tích, thiên đột, phong phủ, chỉ tập trung chứ không dẫn khí, để nó tự vượt ải, khi vượt ải thì thấy xương sống bị kéo căng ra đến mức mỏi cơ xương sống, khi không thể chịu đựng được nữa thì chuyển sang huyệt kế tiếp, khi toàn bộ khí đột nhập qua ngọc chẩm quan rồi thì không cần quan tâm nữa, nó sẽ nhập vào não môn.
    - Nếu theo cách truyền thống không hiệu quả thì có thể dùng châm cứu tại những nơi bế tắc , nhưng cách này dễ làm cho chân khí bị hao tán.


    ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Nhật Ký Châu Thiên Nghịch Chuyển:
    (trích dẫn một trường hợp của sh vivu thông nhâm đốc mạch cho sinh động)
    Có việc này thấy lạ, kể cho anh chị em nghe.Chiều qua, 6/1/2008, lúc gần 5h chiều, vivu đang đọc sách ngoài sân, tự dưng thấy người nôn nao khó tả, có cái gì nó bập bùng trong người mà không rõ là từ đâu, khiến mình chợt thấy lo lắng, hoảng sợ. Thấy bất an quá, mình vội vào nhà, trèo ngay lên giường, nằm im. Có cái gì đó nó vẫn bùng nhùng trong người, không xác định được nó từ đâu, cổ họng nghèn nghẹn, khó tả, nước mắt cứ chảy ra. Mình nằm như thế khoảng 1 lúc, bỗng dưng thấy từ dưới Vĩ Lư có 1 luồng khí cực mạnh, cuồn cuộn to cỡ quả trứng gà, nó chuyển động tiến dần lên lên đỉnh đầu, "quả trứng" này đi đến đâu, người mình kêu lách cách đến đó, cảm thấy sống lưng như bị nó nới rộng ra gấp mấy lần. Mình nằm ngửa, khi "quả trứng" đi lên phía trên, nó làm cho người mình thấy nổi cộm hẳn lên. Khi nó chạy đến vùng gáy, nó làm cho xương cổ mình giật nảy, mạnh lắm, đầu bị nâng lên, không chạm được vào gối nữa. Cho đến khi nó chui tọt vào trong đầu, tan ra thì đầu mình mới tự hạ xuống gối được. "Quả trứng" này vào trong đầu, tan ra, làm cho đầu mình như bị bơm hơi, cảm giác căng như quả bóng đầy những bọt khí mát lạnh. Nó tạo ra 1 áp lực rất lớn đè nặng lên phần mặt của mình. Rồi tự dưng, "quả trứng" ấy lại xuất hiện, nó xuyên từ trong đầu xuống dưới mũi, dưới cổ họng, đi đến đâu biết đến đó, đi đến đâu là nổ lách tách đến đó. Xuống vùng ức, nó dừng lại, sủi dữ dội một lúc, rồi phi thẳng xuống vùng bụng dưới và tan ra ở đó. Mọi cảm giác bất an và lo sợ của tôi tan biến. Tôi thấy người thật nhẹ nhõm. Tôi thấy dường như có 1 đường thẳng từ trên đỉnh đầu xuống tận Đan Điền. Tạm gọi nó là "cái ống" nhé. Cái ống này nằm sâu bên trong, rất khó xác định vị trí. Tôi thấy mạch đằng sau lưng và đằng trước hình như bắt đầu có sự liên quan đến nhau. Đêm qua, tôi không dám tập, chỉ ngồi im. Thấy khí nó vẫn chạy cuồn cuộn sau lưng, lên não, rồi một mạch phi theo "cái ống" ấy xuống tận Đan Điền. Chứ nó không chạy xuống theo đường Tĩnh Mạch ở 2 bên cổ như trước nữa. Trưa ngày hôm nay, tôi mới hít được có 1 cái, lại thấy có 1 "quả trứng" nó lao từ trên đỉnh đầu xuống thẳng Đan Điền. Cảm giác cơ thể rất thông thoáng, mọi thứ hình như có liên hệ đến nhau, rất nhịp nhàng. Chỉ có điều, Đan Điền, vùng bụng dưới của tôi đêm qua và trưa nay cảm thấy lạnh thôi. Lạnh khá lâu. Phải chăng là vivu đã thông được Nhâm Mạch ?? Post lên đây xin mọi người chỉ giáo !

    ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    CÁC HỎI ĐÁP CỦA SƯ HUYNH HUYỀN QUANG TỬ VÀ NGƯỜI MỚI NHẬP MÔN
    Những vấn đề liên quan đến huyền quan khiếu và tiên thiên khí

    Hỏi: Trong Khí công thì nói rằng dùng ý dẫn khí đi theo vòng (Chu thiên), chiều của nó là dương trưởng, âm tiêu. Nhưng trong Năng lượng trường sinh học thì âm trưởng, dương tiêu, mỗi sách giải thích một khác. Vậy cái nào đúng, cái nào sai? hay cả hai cái đều sai?
    Đáp: Tu luyện khí công phải biết phân biệt hai thứ khí là thiên khí và địa khí, cách vận hành của chúng khác nhau xa lắm, ngày nay các môn nhân địên dạy người ta mở luân xa thu khí chính là địa khí mà thôi, thứ khí này không có tác dụng về mặt dưỡng sinh, không thể cải lảo hoàn đồng, sự vận hành của nó nằm bên ngoài cơ thể, cấu tạo thành các lớp năng lượng, có lẽ môn nhân điện gọi địa khí là năng lượng sinh học là có thể chấp nhận được. Thiên khí được hấp thu qua khiếu huyền quan, còn được gọi là hư vô huyệt, huyệt này rất bí mật, dẫu cho bậc đại thánh dùng con mắt huệ từ cõi vô hình mà nhìn trộm cũng không thấy được nó, nên có tên là huyệt hư vô là vậy, thiên khí này mới là thứ khí thực sự được nói tới trong khí công,nó chính là tiên thiên khí,là thứ khí được bẩm thụ khi còn trong bào thai, có thể cải lão hoàn đồng, giúp người trường sinh, tu thành tiên phật, thiên khí này chu lưu bên trong kinh mạch của thân thể.
    Môn nhân điện vận hành năng lượng đi theo mạch nhâm từ dưới lên là đúng bãn chất của địa khí vốn được hấp thu từ dưới đất đi lên
    môn khí công thì vận hành tiên thiên khí, từ huyền quang khiếu theo mạch nhâm mà chạy xuống là đúng bản chất vận hành của thiên khí. Nhưng thực sự thì sự vận hành của khí là tự nhiên , khí đầy thì tự vận hành theo đường của nó.
    Hỏi: Trước đây có người nhận định :"yếu tiên thiên sẽ không có khả năng phục hồi, vì tiên thiên là thứ chỉ có thể thu được từ trước khi sinh ra, sau khi sinh ra rồi thì có luyện gì cũng vẫn chỉ là hậu thiên, vậy đã sinh ra rồi thì không có cách nào sử dụng được tiên thiên...".
    Vậy như HQT nói, thì thông qua vô vi khiếu có thể thu được tiên thiên khí, tức là có thể phục hồi nhược điểm từ khi còn là mầm phôi của những trường hợp bị yếu tiên thiên?
    Đáp: Đúng là như vậy, tu luyện khí công là quá trình phục hồi và phát triển khí tiên thiên, cải tạo lại tình trạng bẩm sinh của con người, là quá trình rèn luyện thần khí, tiêu chuẩn để phân biệt một khí công sư với người thường trước hết là sự khác biệt về thần khí, người xưa thường mô tả những người tu luyện khí công là tiên phong đạo cốt, thần khí khác phàm, mắt sáng, nhãn thần mạnh, tiếng nói mạnh...những người tự nhận là khí công sư hoặc chức danh tương tự mà không đạt tiêu chuẩn về thần khí thì không đáng tin, dẫu cho họ có công năng đăc dị đi nữa, về bản chất công năng đặc dị và tiên thiên khí không có quan hệ hai chiều, luyện thành tiên thiên khí thì sẽ phát sinh công năng nhưng có công năng không hẳn là đã luyện thành khí tiên thiên, có nhiều quy luật về luân hồi nhân quả nghiệp báo chi phối điều này.
    ngay tại trung quốc, nơi có số lượng khí công sư đông nhất thế giới nhưng số người thực sự luyện được tiên thiên khí là rất ít, phần nhiều đều là những người có mang theo công năng đặc dị bẩm sinh, rồi tự mình sáng chế công pháp dạy người mà thôi, những thứ công pháp đó chỉ thích hợp với riêng vị đó chứ không thích hợp với tất cả mọi người, thật đáng buồn khi chúng ta đọc tin thấy một khí công sư chuyên phát khí chữa bệnh mà lại chết vì bệnh đứt mạch máu não khi chưa tới tuổi thất thập cổ lai hy, cách đây mười năm tôi thật sự thất vọng khi tham gia lớp học về năng lượng khi thụ giáo với những vị thầy mà thần khí tối tăm lạnh lẻo hơn ngừơi thường, thậm chí có vị chỉ trước sau một năm chữa bệnh cho người mà tóc đen hoá bạc trắng cả đầu...

    Vấn: tiên thiên khí được hấp thu như thế nào?
    Đáp:tiên thiên khí được hấp thu qua khiếu huyền quan, nhờ bắc thượng thước kiều nên nó chạy dọc theo lưỡi có cảm giác như một dòng nước mát, đến gốc lưỡi thì trong miệng tự nhiên tiết ra rất nhiều nước bọt, đây là dấu hiệu duy nhất để nhận biết tiên thiên khí có được hấp thu hay không, tiên thiên khí lúc này nhập vào trong nước bọt, khi đầy miệng thì hành giả nuốt xuống, tiếng nước bọt này đi xuống có thể tạo thành tiếng sôi ùng ùng trong bụng, trạm dừng chân đầu tiên cvủa TTK là giáng cung, chứ không phải là trung đan điền tại huyệt đản trung như các sách vẫn nói, tại đây nó tập trung lực lượng, thường thấy khu vực này nhảy nhót,sôi như sấm động, khi đủ lực lượng rồi thì lưu thông xuống hạ đan điền, lúc này thấy hạ đan điền động khí, thường phát động tình dục, toàn thân bốc nóng,sau khi TTK vượt qua vĩ lư quan thì các hiện tượng trên đều giảm hẳn, quá trình tích luỹ TTK lại liên tục như vậy thông quan huyền quang khiếu, thực hiện quá trình thủ khảm điền ly, nếu không biết cách hấp thu TTK qua huyền quang khiếu thì lực lượng khí tại đan điền chỉ đủ lực lượng cho một lần vượt vĩ lư duy nhất sau đó đan điền sẽ trống rỗng, lúc này nếu tiếp tục ý thủ đan điền sẽ thấy cơ bụng bị nén chặt như thể đan điền đang cố sức hút một cái gì đó, đây là đều đáng lo chứ không phải đáng mừng.con đường vận hành của TTK từ huyền quang khiếu như vậy giống như đường vận hành của hệ tiêu hoá không phải là vận hành theo mạch nhâm ở ngoài da. TÔI XIN TRÌNH BÀY RÕ Ở ĐÂY ĐỂ MỌI NGƯỜI CUNG HIỂU:
    1. Huyến quan khiếu và tiên thiên khí: là nền móng của tu luyện nội đan, nay tôi chỉ thẳng ra khiếu này ở trong đầu, khu vực sơn căn ấn đường, không phải vô cớ mà thuật tướng mệnh gọi chỗ này là mệnh cung, nhưng không có khẩu quyết khai mở thì coi như vô ích, không thể sờ nắn, mà cũng không thể tập trung để khai mở được, ngoại đạo không rõ nên dùng phép thủ ý ấn đường để mở huyền quan, làm vậy vô tình lại đem tiên thiên khí trong người đi ngược trở ra làm hại tính mệnh, vì thế đan kinh dùng cách nói hư ảo, khiến người ta tưởng là nó không có vị trí cụ thể, mục đích là muốn hành giả không phạm sai lầm thủ ý vậy.
    kỳ thực nói rằng nó không có vị trí xác dịnh cũng không sai, nhưng đây là chuyện của ''huyền quan lộ xuất'' sẽ nói sau.
    Khẩu quyết là :
    muốn thái dược, phải không hái mới hái được
    muốn thủ được phải không thủ mới thủ được
    phải tĩnh định, không dùng động tác mới được
    (tính mệnh khuê chỉ toàn thư)
    tiên thiên khí còn có tên là chân diên,là nguyên khí, là ngoại dược dùng để lập mệnh, dẫu đắc sư truyền cũng chỉ đến đó mà thôi, từ đây về sau thì tự biết đường mà đi rồi, sách kim đơn chất đầy 3 xe ngựa cũng toàn nói chuyện từ đây về sau cả
    2. Ngọc dịch luyện hình: ngọc dịch là nước miếng trong miệng sinh ra để tiếp dẫn TTK dùng để luyện hình, tức là luyện thân xác, nó là của báu dưỡng sinh, có thể cải thiên mệnh, đoạt tạo hoá, làm cho sắp chết mà sống lại được là nó,nuốt được ngọc dịch này qúy gấp ngàn lầm ăn nhâm sâm nghìn năm, chớ lầm tưởng nó là nước dãi sinh ra do dùng lưỡi quét miệng, thứ nước dãi này do ngoại đạo phát minh ra làm gì có TTK trong đó, ngọc dịch sinh ra tự nhiên trên cơ sở hấp thu nguyên khí qua huyền quan, bổ dưỡng thân xác hao tổn,khôi phục lại tiên thiên, làm cơ sở để phục mệnh, thời gian trên dưới 100 ngày thì coi như luyện hình đã hoàn tất.
    3. Hoạt tí thời: Ngọc dịch luyện hình 100 ngày xây dựng nền móng để phục mệnh đã xong, lúc này tiên thiên đã tòan vẹn,trời và người chung một nhịp vận hành, đồng điệu cùng nhau, thì sẽ gặp thời cơ'' hoạt tí thời'', là lúc ''nhất dương lai phục'', ''huyền quan lộ xuất'',''nội đan xuất khoáng''
    sách ''tính mệnh khuê chỉ'' viết
    "lúc ấy là giữa quẻ khôn và quẻ phục, lúc ấy là lúc trời đất đóng mở, là lúc nhật nguyệt hợp bích, là lúc thảo mộc manh nha, là lúc âm dương giao hội trong thân, thần tiên thái dược vào lúc ấy, lúc ấy là lúc nội chân, ngoại ứng, tương phù ,tương hợp như hai miếng ấn tín chẻ đôi.đó chính là thiên nhân hợp phát chi cơ, thật là chí diệu, chí diệu vậy.
    ................................
    Trong khoảnh khắc ấy, một khiếu nhỏ phát sinh, cơ thể mềm như tơ, tim thấy hoảng hốt, dương vật tự nhiên cử phát. lúc ấy dương khí lưu thông tới thương đan điền, thời cơ đã tới.đó chính là hoạt tí thời, hai lỗ mũi sẽ trương nở. đó là lúc thời chí thần hoá, lúc đại dược sản sinh.trong bụng sôi như sấm, và đan điền cũng trương khai.nguyên khí hùng dũng xung tiến vào đan điền,lúc ấy là lúc huyền quan lộ xuất, và là lúc nội đan xuất khoáng"
    Lúc này nguyên khí xung tiến qua huyền quan khiếu với lực lượng rất lớn đến nỗi phát ra ánh sáng,phát hiện quan cảnh hồi quang phản chiếu, trên có thể nhìn thấy khiếu huyền quan, dưới nhìn thấu đan điền, nguyên khí hùng dũng vào đan điền, xuyên vĩ lư, vượt tam quan đốc mạch.
    4. Huyền quan lộ xuất: nay lại nói thêm về huyền quan, sách ''tính mệnh khuê chỉ'' viết:
    "khiếu này gọi là tổng trì môn, là kinh đô vạn pháp, nó không có biên cương, không trong ngoài. không dùng hữu tâm mà giữ được, không dùng vô tâm mà cầu được.
    lấy hữu tâm mà cầu, sẽ sa vào sắc tướng, lấy vô tâm mà cầu sẽ lạc không vong. như vậy phải làm sao, thầy có khẩu quyết là:
    khiếu này trống rỗng không bờ bến
    biết mà không giữ ấy công phu

    trương hoà cảnh nói:hỗn độn khiếu kia gọi tiên thiêntrong thấy hư vô hợp tự nhiêntừ trước khi sinh tìm ra đượcbiết ra chắc phải đại la tiên tư mã tữ vi nói:hư vô một khiếu gọi huyền quangiữa lòng trời đất với nhân giantám vạn bốn nghìn phân thương hạ9,3,5,6 liệt tuần hoànlớn trùm pháp giới không lưu vếtnhỏ nhập trần ai, chẳng thấy nhancái đó gọi là chân tổ khiếutrường sinh, linh bảo vốn hàm tàng tiết tữ hiền viết:thiên địa không trung như lò bễthổi được bễ này sẽ là aicăn nguyên động tĩnh là do đóbạn muốn thử xem hãy giơ tay"
    huyến quan khiếu là ngôi trung nằm giữa cảnh tiên thiên và hậu thiên, con người và thiên địa đều thuộc cảnh hậu tiên, cùng chung khiếu này giao với tiên thiên là cái có trước thiên địa nhân
    thánh nhân ví huyền quan khiếu như ống bể mà con người và thiên địa củng thổi chung thông với tạo hoá
    vì thế trong lúc ''hoạt tí thời'', con người và thiên địa đồng điệu thổi chung ống bễ huyến quan, trong thời khắc mà nhìn thấy cả tiên thiên và hậu thiên, cho nên phát hiện ra ngôi trung này, gọi là'' huyền quan lộ xuất'', nó thông với tạo hoá, nên gọi là không có biên cương là vậy.

    Tiểu sử Lưu Nhất Minh: Lưu Nhất Minh (1734 - 1821) là truyền nhân của Long Môn Phái đời thứ 11.năm 17 tuổi bị bệnh nặng, càng uống thuốc, bệnh càng nặng, may gặp được một chân nhân cho thuốc chữa trị. Năm 17 tuổi đi phỏng đạo mọi nơi. Gặp Kham cốc lão nhân dạy cho bí quyết nội đơn, sau bái ngài làm thày.sau đó để cầu tham chứng, ông ở kinh sư 4 năm, hà nam 2 năm, nhiễu đô 1 năm, tây tần 3 năm, đi nhiều nơi khác 4 năm.Trong vòng 13 năm, đọc hết Tam giáo kinh thư. Năm Càn long 37, ông lên chơi Hán Thượng, gặp tiên ông Lưu Trượng Nhân, được ông chỉ điểm.bao nhiêu nghi ngờ trong 13 năm qua đều được giải quyết.
    Đoạn tiểu sư trên mô tả một bức tranh chung nhất của những người đắc đạo, trước hết người này phải có bẩm sinh tiên thiên rất yếu kém, đây là một qúy cách ''tuyệt xứ phùng sinh'', ''cùng tắc biến'' là yếu tố tiên quyết để cầu đạo, ông đã bỏ 13 năm cầu tham chứng, lúc đầu bái Kham cốc lão nhân làm thày nhưng chưa học được chân truyền, nên sau đó phải đi nhiều nơi, đặc biệt là đọc nhiều sách của tam giáo để gieo trồng túc duyên, nên cuối cùng nhân đi chơi Hán Thương, gặp tiên ông Lưu Trượng Nhân chỉ điểm chứ không hề bái sư, mà đắc chân đạo, có thể thấy đạo kim đan giản dị thế nào, đến nổi chỉ cần chỉ điềm mà thành. thật đúng là đạo huyền quan khó gặp dễ thành là thế.
    Đoạn tiểu sử này tôi thấy hay , có nhiều ý nghĩa nên viết chen ngang vào đây.
    Từ chỗ này trở lên toàn nói về ''khí''
    Từ chỗ này trở xuống là thuộc về ''đạo''
    Lão Tử nói:"còn dùng lời nói được thì không phải đạo"
    xưa kia khi Thích, Đạo, Dịch còn riêng rẽ, khi nói tới đạo, có nhiều chỗ đành im lặng
    về sau Đạo tham cứu thêm Dịch và Thích mới phát hiện ra chỗ cuối của Đạo mới là đoạn giữa của Thích, lại dùng ''tượng Dịch'' thay cho lời mà diễn được nghĩa lý của đạo.
    nay tôi tổng hợp kiến giải của 3 nhà , trong đó lấy tư tưỡng Đại Thừa của Nhà Phật làm kim chỉ nam để nói về đạo, có chỗ nào thiếu sót mong các bậc học giả bác học bỏ quá cho.
    5. Nguyên thần: còn gọi là chân hống
    Kinh Thủ Lăng Nghiệm viết: "Phật bảo ông A- nan và cả đại chúng:"các ông nên biết, mười hai loài chúng sinh trong thế giới hữu lậu, tâm thể giác viên bản giác diệu minh, cùng thập phương chư phật, không hai không khác. Do vọng tưởng, các ông mê chân lý thành ra lỗi lầm. Si ái phát sinh, sinh mê cùng khắp, nên có hư không hoá mãi cái mê không thôi, nên có thế giới sinh ra các cõi nước số như vi trần ở mười phương, trừ cõi vô lậu, đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.Nên biết, hư không sinh trong tâm ông, cũng như chút mây điểm trên vùng trời, huống nữa là các thế giới ở trong hư không,..."
    Đoạn kinh trên cho ta biết, nguyên lúc ban sơ chúng ta là cái chân tâm diệu minh, do mê vọng trong chân tâm nảy sinh ra hư không, hư không và chân tâm vốn cùng bản chất nhưng đã phân ra chủ thể và khách thể, sau đó trong hư không lại sinh ra các cõi nước, sau nữa thì chính chúng ta bị chìm đắm trong các cõi nước đó.ta có thể hình dung chân tâm như một vật màu trắng rất thanh nhẹ ngày càng nhiểm đen nặng nề sa xuống thấp, rốt cuộc đó chính là chúng ta ngày nay, mục đích của đạo là ta phải gột rửa chân tâm lấm đen này thành ra trắng , từ từ nổi trở lên cao.tức là phải gột rửa các cõi nuớc trong hư không trước , sau đó gột rửa cả hư không trong tâm.
    Theo Dịch thì nguyên thần của ta lúc ban sơ tiên thiên là quẻ càn thuần dương, sau bị rơi vào cảnh hậu thiên biến thành quẻ ly có một âm chính giữa hai dương, muốn trở lại thì phải gột rửa hào âm này trở lại thành quẻ càn
    nhưng quẻ càn tuy thuần dương cũng vẫn còn tính đối đãi nhị nguyên để phân biệt với âm, quẻ càn này chính là tầng cao nhất của cõi trời vô sắc giới trong tam giới của nhà Phật, kinh Thủ lăng Nghiêm viết:" thức tính vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng trong chỗ không thể hết, phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn mà không phải còn, hình như hết, mà không phải hết một loài như thế, gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ."
    tư tưỡng của đạo gia nguyên thủy là liễu mệnh, tức là trở về quẻ càn thuần dương, tưởng là rốt ráo tột cùng hoá ra vẫn chỉ là cảnh cao nhất trong tam giới của Nhà Phật.
    6. Vài nhận thức quan trọng:
    vấn:hư không và chân tâm vốn cùng bản chất, nhưng có phân biệt chủ thể và khách thể, vậy rốt cuộc hư không là cái gì?
    đáp:chân tâm vốn là quẻ càn thuần dương thì dĩ nhiên hư không cũng là quẻ càn thuần dương , nhưng chân tâm thì biết nhận thức nên là chủ, hư không thì không có nhận thức nên là khách, đạo gia gọi chân tâm là tính, hư không này là mệnh là tiên thiên chân nhất chi khí vậy.
    vấn:tiên thiên và hậu thiên là cái gì
    -tiên thiên là cái có cùng bản chất với chân tâm, nên chân tâm và hư không ( tiên thiên khí) thuộc về tiên thiên
    -hậu thiên là cái không cùng bản chất với chân tâm là các cõi nước sinh ra trong hư không đó.
    vấn:làm sao gột rửa chân tâm đã lấm đen (thức thần) thành chân tâm trong sáng
    đáphải dùng hư không tức là tiên thiên khí mà gột rửa, chân tâm nhiễm trần ví như bình nước dơ, hư không tiên thiên chân nhất chi khí ví như cả đại dương nước sạch, lấy nước sạch từ đại dương đổ mãi vào bình thì nước dơ sẽ biến thành nước sạch.
    7. Khảm ly giao cấu: còn gọi là thủ khảm điền ly, tức lấy chân dương trong quẻ khảm xung vào chỗ khuyết của quẻ ly, biến ly thành càn, tức là biến cái tâm phàm thành chân tâm.Đoạn công phu này diển ra tiếp sau hoạt tí thời vậy.
    sách tính mệnh khuê chỉ viết: "Hoàn nguyên thiên viết:
    biết đạo âu rành thanh tĩnh lý
    ngồi thẳng yên người giữ nê hoàn
    Đó là căn bản công phu, đó là học vấn đầu não, đó là thủ đoạn mở cửa trời, đó là linh chương để thoát tử tịch, Đạo lý này là bí mật của thượng thiên , xưa nay tiên phật không dám nói rõ. Cho nên trong ngàn vạn người may mới được một hai người biết.Thật là huyền diệu. lại có những khẩu quyết nói không hết lời.
    Người xưa đinh ninh dặn dò rằng: khi chân diên nhập đỉnh, phải khu trừ tạp niệm, đem hết tinh thần, mắt hướng đỉnh đầu, dụng hết tâm trí, trong chớp nhoáng đó, Nguyên thần nguyên khí sẽ giao hợp, tạo hoá sẽ vận chuyển, sấm vang điện giật, cảm thông kiền khôn, bách mạch khai thông, cửu cung thấu triệt, kim tinh quán đỉnh, chân khí bốc lên trời
    Trong khoảnh khắc, nhiệt độ nơi thượng hạ đan điền sẽ giảm, đó là triệu chứng đan thành, Hoàng nha bạch tuyết sẽ xuất hiện, nguyên thần nguyên khí, âm dương, hồn phách, như đôi vợ chồng hoà hợp với nhau, phát ra tiếng long ngâm cọp hú.Dương tinh hống tủy ngưng kết như châu.
    lúc đó, huyền châu thành tượng, quặng mất, vàng còn, và một điểm kim dịch sẽ rơi xuống chốn cũ huỳnh đình vậy"
    huyền châu là chân tâm, nguyên thần được tẩy rửa kết thành viên ngọc ma ni ngày đêm chiếu sáng thượng đan điền.
    kim dịch là hào âm trong quẻ ly trở xuống chốn cũ huỳnh đình biến quẻ khảm thành quẻ khôn gọi là kim dịch hoàn đan,tên là nội dược, có mùi vị thơm tho dễ chịu, vậy là khảm ly nay phục lại khôn càn, biến người thành trời vậy.
    từ đoạn công phu ''khảm ly giao phối'' cho tới khi khảm ly phục lại khôn càn gọi là liễu mệnh, là một giai đoạn dài, gọi là ''tiến dương hoả, thoái âm phù'', khi ly đã biến thành càn tức là toàn bộ chân âm đã bị chân dương thay thế, lúc này ''thiên môn thường mở, địa hộ vĩnh bế'' tức là trên thì thiên môn khai khiếu, đỉnh đầu phát ra tiếng nổ, chân tâm thuần dương tùy ý xuất nhập đi xuyên qua ba cõi, không chịu chi phối của sinh tử luân hồi nữa, nếu muốn trở lại cõi trần thì được tự tại lựa chọn nơi chốn đầu thai, thường những bậc thượng đẳng căn khí, tổ sư thiền tông là những vị này, nếu chẵng thích tu luyện thì đầu thai là hoàng làm đế tại cõi nhân gian,cho nên người xưa bảo làm vua phải có chân mệnh đế vương là vậy.
    ''địa hộ vĩnh bế'' tức là dục tình đến đây tự diệt, vì chân dương trong quẻ khảm đã bị hào âm thay thế thành quẻ khôn rồi.
    tu luyện chưa tới mức thuần dương thì cũng được sinh lên các tầng trời cõi sắc giới, ở nhân gian thì là các bậc tài danh kiệt xuất, sơn hà đại địa nắm trong lòng bàn tay.
    tu luyện đến mức chân tâm thuần dương, xưa nay được coi là mục tiêu cao nhất của ngoại đạo theo cách gọi của Phật bao gồm các đạo bà la môn, yoga, tu thần tiên....tu luyện đến mức này thì lên được tầng cao nhất của cõi vô sắc giới gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ, rồi không thể lên cao hơn được nữa, lúac này hành giả triền miên trong thiền định nhưng không làm sao tách rời chân tâm ra khỏi hư không được, vì càng dụng tâm để tách rời thì càng sa vào sự phân biệt đối đãi nên rốt cuộc lại từ từ sa xuống các tầng thấp hơn, vậy đến đây phải làm sao? đó chính là lý do mà Phật xuất hiện ra đời để chỉ giáo cho ngoại đạo biết con đường phải đi tiếp ra sao, phải làm sao nhảy thoát ra ngoài tam giới thì mới viên mãn được, đức Phật đã chỉ dạy thế nào?
    kinh Thủ Lăng Nghiêm viết:
    "Lại nữa, A-nan, từ chỗ cao nhất của sắc giới, lại có hai đường trẻ.Nếu nơi tâm phóng xả, phát minh được trí tuệ, trí tuệ sáng suốt viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A-la-hán, vào Bồ-tát-thừa: một loài như thế, gọi là Hồi-tâm-đại-a-la-hán.
    Nếu nơi tâm phóng xả, khi thành tựu được sự phóng xả rồi, lại cảm thấy cái thân làm ngăn ngại và tiêu cái ngăn ngại ấy vào hư không, thì một loài như thế gọi là không xứ.
    .................................................. ......................."

    đoạn kinh trên Phật dạy rằng, khi chân tâm thuần dương thì sẽ gặp hai con đường trẽ tại đỉnh cao nhất của sắc giới, nếu tại đây hành giả thấy cái thân còn ngăn ngại bèn tiêu luôn thân vào hư không thì bước tiếp vào vô sắc giới, ngược lại theo con đường khác thì sẽ bước vào Bồ tát thừa, gọi là Hồi-tâm-đại-a-la-hán
    Vậy Bồ tát thừa là gì? đó là con đường đi ngược trở xuống nhân thế, thậm chí vào cảnh địa ngục để độ tận chúng sinh
    thật là một sự trùng hợp thú vị giữa tư tưỡng đại thừa của nhà phật và chặng đường tu tiến của đạo gia gọi là càn khôn giao phối, lấy chân tâm thuần dương trở ngược xuống giao phối quẻ khôn thuần âm.
    8. Càn khôn giao cấu:
    Sách "tính mệnh khuê chỉ" viết: "cho đến khi khói tan lửa tắt, khoáng tận, kim thuần.bấy giờ mới được một hạt long hổ kim đơn, tròn tròn, sáng rở rở, như sương , như điện, không phải sương mù, không phải khó, huy hoàng rực rỡ, chói lọi Côn Lôn.Phóng ra khai thông thiên địa huyệt, thu lại thì ẩn tại Thúy Vi cung( thượng đan điền)"
    Lúc này dược không sinh cũng chẳng chuyển, tân dịch không đi xuống, lửa chẳng bốc lên,Ngũ khí đều chầu về thượng dương, tam hoa đều quy tụ về đỉnh đầu. Lúc ấy âm tận dương thuần, đơn thục, châu linh, Tử Dương Ông viết:
    quần âm tiêu tận, đan thành thục
    chuồng lồng thoát khỏi, thọ muôn năm
    Cho nên Đường Tống chư tiên, chủ trương thoát xác (nguyên thần xuất khiếu, bỏ lại nhục thể) có đường lối hẳn hoi, có thể tùy ý hoá thân, tự do xuất hiện tiêu thất......................
    Nhưng châu ở Côn Lôn (đỉnh đầu), làm sao xuống dưới để kết thành thánh thai? nhất định phải nhờ mũi, rồi trộm Linh Dương Chân Khí để đẩy ép nó, dùng thái dương chân hoả để ép nó xuống.Thúc ép lâu dần, linh đan sẽ tự rơi xuống, sẽ chui xuống miệng, trực xạ xuống đan điền. Khoảnh khắc mây tuôn mưa rải, sấm chớp rền vang, đánh tan hết âm khí, và bách linh sẽ quy tụ cả về, y thức như các tai hoa xe đều gom về trục xe, và thất bửa trong con người cũng đều quy tụ nơi đó vậy.
    .................................
    Khi mà hai dương trong ngoài kết hợp, khi thánh thai vừa kết, thì phải thường thường quan tâm, cẩn cẩn hộ trì, như rồng con dưỡng ngọc, như thiếu nữ mới có thai, phải đóng chặt đan điền không được cho nó thấm lậu ra ngoài......
    Lại trong mọi thời khắc, phải cận thận đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng lưu tâm chú ý như vậy, như tại mẫu thai, phải như si ngốc không biến cải, không được gián đoạn khi nào"
    đoạn trên sàch ''tính mệnh khuê chỉ'' viết tối nghĩa, chỉ nêu hiện tượng còn lý luận chưa rõ ràng, không những tính mệnh khuê chỉ mà cả các sách đan thư khác cũng không sao chỉ rõ được tại sao mà càn khôn giao cấu kết thánh thai thì nhảy ra ngoài tam giới, nay tôi đem kiến giải của mình tạm giải thích như sau:
    - Chân tâm: 3 hào dương
    - Hư không: 3 hào dương
    như vậy quá trình thủ khảm điền ly hoàn tất thì chân tâm thuần dương thực chất là 6 hào dương ( vì chân tâm và hư không vẫn còn dính mắc vào nhau )
    - Quẻ khôn: 3 hào âm
    trong pháp giới có một lý tự nhiên nhi nhiên , không biết sao ra vậy, đó là âm dương hễ găp nhau thì giao cảm phối ngẫu bên nhau, do đó:
    - Càn khôn giao cấu: 6 dương phối với 3 âm nên 3 âm của hư không tách rời 3 dương của chân tâm phối với 3 âm của quẻ khôn tạo thành một vòng hư vô là thánh thai.
    Tại sao vậy, đây là đạo đi ngược, hư vô thuận sinh ra thái cực là chân âm chân dương, nay thái cực đi ngược thì trở lại vô cực, vậy là chân tâm thuần dương tách khỏi hư không liền nhảy vào vòng tròn vô cực này, ra khỏi tam giới( tam giới chính là thái cực).
    Tu luyện tới chặng đường này là rất cao, thời nay rất hiếm người đạt tới, sau khi kết thánh thai thì bắt buộc phải sống đời tu hành như các thiền sư mới có thể bảo dưỡng thánh thai không chết non,thiết nghĩ có viết tiếp thì cũng chỉ là những gì chép ra từ sách vở, bản thân tôi chưa có gì để chứng thực tới giai đoạn này nên xin dừng bài viết ở đây.

    Vấn: xin chỉ dẫn về huyền quan khiếu
    Đáp: trả lời thật khó, xin tạm mượn lời của Ngộ Nguyên Tử Lưu Nhất Minh vậy:
    "Sở chỉ chi phương là Tiên thiên nhất chi khí, đó là tổ khí sinh muôn vật, xưa nay các bậc tiên chân đều hái tổ khí đó, để liễu tính, liễu mệnh. cho nên nói: đắc kỳ nhất, vạn sự tất vậy, đó là nói tới khí đó."
    Kim đơn tử thư không dám khinh truyền cang tinh là cái gì, nhất khí là ở nơi đâu, sợ rằng người không ra gì sẽ được, và sẽ bị trời quở trách, Ngộ Nguyện Tử xem sao là do Tổ sư truyền chân tả thần, nếu có tiết lộ đôi chút thiên cơ, mà có chí sĩ nào biết, thì là do họ tâm tri mặc hội, đó là do quỷ thần dạy họ chứ không phải là tội của Ngộ Nguyên vậy (trích "tham đồng khế trực chỉ")

    Hỏi: Nếu vậy thì phép luyện công theo Lữ Tổ bách tự cũng chưa thu được tiên thiên rồi. Vì dạy cụ thể cửa vào huyền quan khiếu và thủ ý chữ Phẩm động đậy. Mà theo gợi ý của HuyenQuangTu thì huyền quan khiếu không có điểm cụ thể....
    Đáp: Chào bạn, hãy suy tửơng về huyền quan khiếu, đến một lúc nào đó cơ duyên sẽ tới , bàng môn vì không biết diệu dụng của huyền quan nên không giác ngộ được.
    phép tu theo ''thái ất kim hoa tông chỉ'' chỉ ra được chân tác dụng của huyền quan khiếu là thiên tâm, nhưng phần dụng công đã cố ý chỉ dẫn sai, mục đích không gì khác hơn là để người có lợi căn biết rằng trên đời có huyền quan mà không lạc vào con đường sai, có dịp HQT sẽ bàn về vấn đề trên.

    Hỏi: Vậy thì chủ trương tính mệnh song tu cũng vẫn là hậu thiên rồi... vì đoạn gợi ý của huyenquangtu cho thấy đã hái được tổ khí thì tự động liễu tính liễu mệnh? Và quan trọng hơn để biết ai đó có nhân duyên tiên thiên hay không là xem sao (phải chăng là chính tinh thủ mệnh?).
    Đáp: Vấn đề hái được tổ khí mới chỉ là nhập môn tu luyện thôi, nhưng cũng từ đây mà liễu tính liễu mệnh, đan kinh tuy viết về tính mệnh nhưng thật giả khó phân, thứ tự công trình cũng bị đảo lộn, người rất thông minh dẫu có đọc được cũng khó hình dung, mặc dù topic chuyên về khí công, nhưng bạn là người có căn khí, tôi sẽ vì bạn mà nói tóm lược công trình tu luyện của tiên thánh, sau này nếu có cơ duyên tôi sẽ nói rõ hơn ở một topic khác. Muốn học được môn cùng lý tận tính chí mệnh thì phải hiểu nhiều danh từ đạo môn, sau phải đọc sách nhiều, phải hiểu được các vấn đề sau:huyền quan khiếu, tiên thiên khí, chân diên,chân hống, ngọc dịch luyện hình,thế nào là hoạt tý thời,nhất dương lai phục, khảm ly giao cấu, nội giao hợp, ngoại giao hợp,kim dịch hoàn đan,kim đan,đến đây gọi là liểu mệnh, tiếp đến là càn khôn giao cấu, trưởng dưỡng thánh thai, từ đây trở đi là tu tính cho đến khi xuất anh nhi, rồi luyện thần hoàn hư, luyện hư hợp đạo là đắc phật quả.

    Hỏi: HuyenQuangTu có thể nói thêm vì sao lưu xuất tiên thiên ra đời lại thay đổi nhân quả rất lớn được không? (mình muốn biết tác động tích cực tiêu cực cụ thể của tiên thiên lên đời sống đối tượng).
    Đáp: Trả lời bạn về điều này có thể lòng vòng sa vào mê tín dị đoan, bạn đọc kỹ kinh Thủ Lăng Nghiêm, phần ma sự sẽ rõ tại sao, tôi chỉ nói ngắn gọn là, nếu một người nghiệp quả nặng nề mà may mắn đắc pháp tiên thiên tu luyện thì vùng đất đó có thể chịu thảm hoạ động đất ghê gớm, vì thế người xưa truyền chính pháp đều tránh ''''tam khẩu lục nhĩ'''' tức là chỉ đơn truyền mà thôi, mỗi đời chĩ truyền cho một đệ tử, tuy nhiên cũng có những thời kỳ đặc biệt thì truyền đồng loạt hàng trăm nghìn người vì mục đích theo đuổi thiên cơ.
    về tác động lên đối tượng thì hoàn toàn theo chiều tích cực, vì nghiệp lực là phần âm bám vào chân tâm, nay ta dùng tiên thiên loại bỏ nó ra nên về nguyên tắc sẽ không phải trả nghiệp nữa, ví dụ thậm chí kiếp trước một kẻ phạm trọng tội ví dụ giết người, kiếp này nhờ tu tiên thiên nên không phải trả nghiệp này( bị người giết lại), nhưng cái nghiệp đó ai sẽ gánh thay? đượng nhiên là không có ai gánh cả mà nó sẽ tích tụ ở một chỗ nào đó chờ dịp nổ tung đễ tự giải phóng, đức Phật nói rằng khi chuyện đó xảy ra, thì thậm chí cung điện của các loài ma vương cũng bị chấn động, ở nhân gian thì sẽ là các vụ động đất.
    vấn đề dùng tiên thiên giải nghiệp thì kinh Yoga có quan điểm tương tự "prana thiêu đốt các tội lỗi như lửa thiêu dầu, nó là cây cầu giúp băng qua bể khổ"
    Sau một thời gian suy nghĩ tôi thấy rằng diễn đàn này là mảnh đất tốt để gieo trồng hạt giống thiên thiên, tôi sẽ truyền trao một vài pháp môn mở đường để nâng cao ngộ tính của những người có duyên, sau một thời gian tu tập các bạn sẽ có ấn chứng về khí, về tâm linh, và đặc biệt có thể có những chứng ngộ về tâm một cách đặc biệt, pháp này không hề xung khắc với các pháp khác như nhân điện, thiền định, khí công...mà còn đưa các bạn nhập vào cảnh giới thiền định một cách dễ dàng, pháp này đặc biệt giúp nâng cao thể lực và trí lực, tập luyện có lợi ích trong đời sống bình thường, nó thuộc phần pháp môn công truyền trong tiên thiên khí công, đặc biệt nếu những ai lợi căn, tố chất tốt thì chỉ một pháp môn này có thể là cứu cánh ra khỏi sinh tử. sau một thời gian tôi sẽ có phương tiện đặc biệt để xem xét ai là người có thể tiến sâu hơn vào môn tu luyện tiên thiên này mà truyền trao bí mật huyền quan.

    Hỏi: nếu trường hợp không cong lưỡi lên thì có cần phải nâng hàm lên để cho phần lưỡi không chạm vào hàm trên không, hay cứ để lưỡi tiếp xúc với cả hàm trên như bình thường?
    Còn nữa, khi ngồi bán già thì tay phải nắm bàn tay trái có phải là trong tư thế bắt tay không, làm cho huyệt lao cung ở hai bàn tay tiếp úc với nhau, hay là để tay trên, tay dưới như thế thiền thường thấy ?
    Đáp: bạn thắc mắc rất đúng. Chỉ cần đầu lưỡi không đụng vào hàm trên là được rồi, bàn tay này nắm lấy tay kia, mục đích là khi hít thở có thể hai tay hơi nắm chặt lại để tập trung, không phải là huyệt lao cung úp vào nhau như thế bắt tay mà là lòng bàn tay phải úp lên mặt ngoài tay trái, nếu bạn biết cách nắm tay theo ''tí ngọ liên hoàn bát quái thủ'' của đạo gia thì cũng được
    Hỏi: Xin hỏi thầy Huyenquangtu: khi ngủ dậy tôi thường thấy luỡi mình dính lên hàm trên, ko hiểu có bị ảnh hưởng gì ko và nếu có thì khắc phục như thế nào??
    Đáp: vấn đề của bạn thực ra cũng không có gì nghiêm trọng, có thể là do vô tình chống lưỡi theo thói quen thôi, tôi chỉ nhắc trước như vậy để các bạn khác biết chừng đề phòng vậy thôi, khi khí chạy ngược trong lúc ngủ thì bạn sẽ thấy có lực hút kéo lưỡi lên, tâm thần bất an, có thể thấy ác mộng, thông thường là sẽ giụt mình thức giấc ngay sau đó. Bạn cứ làm đúng như tôi hướng dẫn thì sẽ không có sai lệch.

    Hỏi: Xin lỗi các huynh đệ nếu tại hạ có điều gì chưa đúng, sự thật dễ mất lòng mà.
    Từ xưa đến nay tại hạ chưa nghe nói tới truyền pháp qua mạng bao giờ cả, phải chăng đó cũng là 1 đặc điểm của "khí công hiện đại"
    Rồi thì người truyền pháp bản lĩnh thực sự đến đâu, hay chỉ lôi sách tiên nhân ra chép lại???
    Mong các huynh đệ cẩn thận, kẻo gặp biến cố thì nguy
    Đáp: đúng như bạn đã phát biểu, việc nghi ngờ pháp là cần thiết, vả chăng, mỗi người mỗi căn cơ
    thượng sĩ nghe đạo thì ân cần làm theo
    trung sĩ nghe đạo như nhớ như quên
    hạ sĩ nghe đạo thì cười lớn lên
    việc tu luyện cũng không phải tính theo ngày giờ mà phải tính bằng năm tháng, ai luyện thấy hợp và tốt thì theo, không hợp và không tốt thì không theo, đơn giản là như vậy thôi.
    những người ham thích khí công thường mắc cái bệnh buồn cười là cứ ra hiệu sách thấy cuốn khí công nào mới cũng ôm về luyện thử, thế nhưng khi có người đem pháp tới mời thử thì lại đa nghi lắm chuyện.
    những gì tôi truyền thụ thuộc phần công truyền của tiên thiên khí công, nhưng cũng đã là phần mật so với khí công trên sách ngày nay, hiển nhiên sách thị trường không thể tìm thấy, và tôi cũng khuyến cáo trước là ai muốn tập mà sợ bị tẩu hoả nhập ma thì tốt nhất đừng có dại mà luyện thử nhé .

    Hỏi: Tôi là người "ngoại đạo" nên cũng không rõ lắm nhưng nếu đã có thở bụng kiểu nghịch thì ắt có kiểu thuận. Thuận hay nghịch thì cái nào là tự nhiên đây?
    Thở bụng kiển nghịch có thể là kiểu thở bụng có kiểm soát đai bụng (co đai bụng) không biết có đúng không?
    Đáp: bạn mắc quá nhiều kiến chấp bởi các sách vở khí công thị trường, nếu tập theo sách đó mà thành công thì sao có quá nhiều người thất bại? nếu bạn tập khoảng 5,10 năm rồi thì tôi nói bạn sẽ nhận ra cái sai, còn bây giờ bạn giống như người mới bước vào đường sai của người đi trước nên không tự nhận ra được.
    -thở bụng kiểu nghịch là phép thở căn bản nhập môn của đạo gia, mục đích là để đả thông huyệt mệnh môn, nhằm lợi dụng "phong" trong hô hấp thông đốc mạch dọn đường trước cho "hoạt tí thời".
    -cong lưỡi để lối thông nhâm đốc? làm gì có chuyện tu luyện như vậy, sách vở khí công thị trường viết như vậy vì họ có biết gì là tu luyện đâu, lấy mạch y gia thay cho mạch tu luyện thì làm sao có kết quả?
    -đường vận hành của tiên thiên khí sau khi tích tụ ở đan điền là bắt đầu từ vĩ lư quan lên đến nê hoàn cung ở đỉnh đầu thì chấm dứt, hoàn toàn giống với đường vận hành của hoả xà theo yoga, (chứ không có chuyện lại còn chạy tiếp xuống mạch nhâm làm thành vòng tròn)
    -cái bạn sửa trước mắt cần nhất là bỏ thói quen cong lưỡi và thở bụng, nếu kiến chấp còn năng thì chỉ nên sử dụng trong lúc tu thiền,còn lúc bình thường nên bỏ hoàn toàn sẽ tốt hơn cho tâm sinh lý, rồi từ từ bạn sẽ nhận biết ích lợi của nó mà bỏ luôn
    -đứa trẻ thở bụng vì cơ ngực chưa phát triển kịp, khi bạn ngồi thì trọng tâm nằm ở bụng, nên bạn sẽ thấy thở bụng dễ dàng, khi bạn đứng thẳng trọng tâm nằm ở ngực nên phải thở ngực là đúng, điều này phải tuân thủ theo cơ chế tự nhiên, làm ngược sẽ có hại.
    giải thích sơ sơ cho bạn là như vậy, tôi nghĩ là bạn có hỏi sư phụ thật của bạn( nếu có) thì chắc cũng không được giải thích nhiều đến như vậy.
    ------------------ Tôi đã gặp khoảng một chục người cong lưỡi và thở bụng như bạn ở ngoài đời, họ đa số là những người học khí công theo sách từ thuở nhỏ nên vô ý không nhận ra sự biến đổi về tâm lý, cứ nghĩ điều đó là tự nhiên. bây giờ bạn thử làm theo tôi thế này xem nhé, trong sinh hoạt bình thường tiếp tục thở bụng nhưng hạ lưỡi xuống, bạn sẽ thấy hô hấp sẽ bị nghẽn không thông như khi bạn cong lưỡi, sau đó bạn bỏ thở bụng chuyển lên thở ngực thì sẽ thấy hô hấp thông trở lại, nhưng thói quen cong lưỡi khiến âm khí xông vào não làm tắc các khiếu tai, mắt, mũi, họng nên sau khi chuyển hô hấp ngực bình thường có thể bạn sẽ mang bệnh liên quan, đây là một kiểu sai lệnh phổ biến của khí công.
    những người như bạn phần nhiều lại có nhiệt tâm trong tu luyện, vì nếu không vậy thì chẳng bao giờ bạn cong lưỡi thở bụng thành thói quen được.
    tôi nói với bạn nhưng đồng thời cũng đang nói với những người khác, những người có thể đã, đang, và sẽ phạm sai lầm này ----------------------
    Thêm chuyện này nói rất thật, rất anh em với bạn là bạn cong lưỡi và thở bụng mà là có quan hệ sinh lý thì mất hết cả chì lẫn chài, chẳng những là tiên thiên trong mệnh môn mất mà cả tiên thiên trong nảo cũng mất luôn, vì cửa dưới mở ra thì nó hút hết sạch, vậy nhé.

    Hỏi : Bây giờ quen thở thuận và lúc nào cũng tự động bắc thước kiều rồi. Thay đổi thói quen khó đây. Có những lúc tôi thiền có cảm giác cơ thể mình tan biến dù vẫn tri giác được cơ thể cảm giác về hơi thở mất đi, nếu hướng tâm vào chót mũi một lát mới thấy nó rất nhẹ, dài. Trong trạng thái ấy, tinh thần vẫn rất tỉnh táo, không có hôn trầm, thuỵ miên. Và trong đầu văng vẳng tiếng rền vang "Um, um"... Có lúc nằm xuống mà thấy người mình dài ra, rồi đầu và chân thì thấy rất xa nhau, người mỏng như tờ giấy dính ép vào giường... Vẫn rất tỉnh táo. Như thế có phải là nhập định chưa ạ?
    Đáp: Có nhiều bạn đã từng tu tập thiền định lâu và nhiều bạn thì chưa từng thiền định bao giờ nên chắc chắn sẽ có những ấn chứng không giống nhau, nhưng tôi thành thật mà nói thì các bạn tu luyện mà cong lưỡi lên như vậy thì 90% sẽ có kết quả ngược vì như thế là các bạn đang dùng thứ thiền định của âm giới tu luyện, trong khi tu luyện chính pháp thì vận dụng dương khí tiên thiên mà triệt tiêu âm khí hậu thiên.
    Bạn có thể tham khảo sách ''khí đạo'' để biết cái sai của việc cong lưỡi như thế nào theo lý luận của tác giả nhé.(t/g:Lục Lưu)
    Tôi thì sẽ nói với bạn thế này, trong cơ thể người có hai mạch quan trọng là đốc mạch chủ quản dương khí, nhâm mạch chủ quản âm khí, tu luyện chính pháp chỉ sử dụng đốc mạch để đưa dương khí vào cung nê hoàn trong đầu mục đích là cho chân tâm trở thành thuần dương, còn âm mạch thì tuyệt đối không bao giờ được đưa vào nê hoàn, tạo hoá rất chặt chẽ nên sinh ra con người thì tự nhiên lưỡi hạ xuống dưới cắt đứt đường giao thông của âm khí vào nê hoàn cung, nếu nâng lưỡi lên trong thiền định tức là đem âm khí hậu thiên nhập cung nê hoàn, luyện như vậy sẽ khiến chân tâm ngày càng nhiễm âm, biểu hiện của những thứ thiền tà ngụy này là chán đời , bi quan, hay gặp nghịch cảnh trong cuộc sống, nói chung là đưa con người vào con đường thất bại trên mọi phương diện ( một số ''minh sư'' lại bảo như thế là trả nghiệp sớm), còn thiền định dương khí thì hướng tới sức sống , năng động, thành công, may mắn...
    Kỳ thực động tác cong lưỡi chỉ dùng tiếp dẫn tiên thiên khí sau khi được truyền thụ về huyền quan mà thôi, những người học lỏm không rõ bí mật huyền quan thì sẽ chuốc lấy tai học, có thể nói 90% các sai lêch đều do nguyên nhân ''cong lưỡi'' mà ra.
    thuốc đắng giã tật, lời thật thì mất lòng, bạn có nghe rồi chứ?
    tôi nhận thấy là hiện nay nhiều bạn đã mắc thói quen cong lưỡi và thở bụng, điều này hoàn toàn trái với quy luật sinh lý thông thường, nó sẽ gây bệnh tật cho các bạn nhiều hơn, nếu mắc thói quen này trong sinh hoạt bình thường thì sẽ thu mình trong vỏ ốc, không muốn giao thiệp với người lạ, hoạt động bình thường của nó là hạ lưỡi và thở bằng ngực, bạn hãy làm thử và nói cho tôi biết bạn đã nhìn thấy đời sống như thế nào vào vài ngày tới
    -bạn lầm lẫn giữa thở bụng kiểu nghịch với thở ngực thông thường là chứng tỏ bạn chưa biết cách thở đúng, có thể liên hệ với những bạn nào rành cách thở này hướng dẫn thêm
    - nếu bạn vẫn giữ ý định tập thử CTNC kết hợp với động tác cong lưỡi thì chắc chắn sẽ chỉ tốn công vô ích thôi.
    -tiêu chuẩn để phân biệt đã thiền đúng đường lối chưa là xem tác dụng của thiền định thuộc dương giới hay âm giới, một người thiền định theo âm giới thì chẳng khác gì một con nghiện được ''phê'' một liều thuốc rồi bảo anh ta ngồi bán già, anh ta cũng thấy mình đang ở trên 9 tầng mây vậy có thể gọi là nhập đại định hay không?
    -nhập định không phải là để truy cầu cảnh giới, mà là để tạo điều kiện cho nội khí vận hành đả thông kinh mạch, cho nên các ấn chứng đều không quan trọng mà cần thiết là phải luôn làm chủ được mình.

    Hỏi: Pháp tu luyện của Lã Động Tân, "một trong Bát tiên, tiêu biểu cho khuynh hướng tu tiên ở Trung Hoa và thế giới", cũng là pháp tiên thiên khí công nói trên? Phép luyện công này từ xưa là do Lão Tử khởi xướng đúng không? Đọc truyện chưởng "Phong thần", Lão Tử còn có 1 huynh đệ nữa và còn có sư phụ (quên tên rồi). Lúc ấy cùng một gốc phân ra Xiển giáo và Triệt giáo.
    Đáp:bạn đọc truyện phong thần thấy có hai phái triệt giáo và xiển giáo, một chính một tà tiêu biểu cho hai khuynh hướng thiền dương gíơi và âm giới, sách ''''phép luỵên công theo Lả động Tân" trong phần hồi quang sai lệch viết về lối thiền âm giới sẽ khiến hành giả may mắn lắm mới còn được làm người, còn đa phần trở thành loài hồ ly tinh chuyên hút tinh khí của người để tu luyện, chuyện này không phải là hoang đường đâu.
    - Tôi phải nói rõ với các bạn thêm : Hai phép thở thường được dùng trong khí công là thở thuận và thở nghịch đều tốt cả, đặc biệt là thở thuận được sử dụng phổ biến trong thiền định, chính tôi cũng thở như vậy khi nhập thiền định, nhưng trong luyện khí công thì thở nghịch mới có thể thông được mạch đốc, thở thuận khả năng thông đốc mạch không cao, tôi chỉ khuyến cáo không nên áp dụng cách thở bụng thuận trong sinh hoạt bình thường vì điều này trái với tự nhiên, thường gây ra bệnh nghịch khí, ngựơc lại, trong thiền định vì khi chúng ta ngồi trọng tâm dồn xuống bụng nên điều này lại trở thành thuận tự nhiên, tốt.
    - Nói thêm với 1 số bạn: -lưỡi thông với tim, cong lưỡi sẽ dẫn tâm hoả vào não, những người này thường khi ngủ trưa, trời nắng nóng, tâm hoả vượng sẽ hay ngủ mơ, thấy ác mộng, bóng đè, khi tỉnh dậy thường mệt mỏi rũ rượi như sắp hết hơi, ngoài ra cong lưỡi có thể làm bán cầu não trái hoạt động yếu, thậm chí tổn thương,bán cầu não trái xác định khả năng hiện thực hoá cuộc sống, nếu bị tổn thưong thì sẽ sống trong mơ mộng nhiều nhưng lại thiếu tính hành động, ví dụ mơ mộng tu hành nhưng lại lười biếng công phu, thích đọc sách thánh hiền nhưng hành động lại giống như kẻ tiểu nhân,có tâm lý tự mâu thuẫn rất mạnh...tôi đặc biệt phải nói đi nói lại điều này, vì nó là nguyên nhân sai lệnh chính của người tu luyện, tạo ra tiêu cực trong cuộc sống, như việc tránh né cuộc sống, muốn ẩn dật, không muốn phấn đấu công danh sự nghiệp, chỉ muốn yên thân...con đường tu luyện theo hướng dương khí sẽ biến đổi một người tầm thường thành phi thường rồi từ phi thường trở thành siêu thường, siêu nhân chứ không phải biến đổi một người bình thường thành những kẻ mê tín, ích kỷ, trốn né cuộc đời.

    Hỏi: Mới tập vài hôm, mình quan sát thấy : khi phần bụng dưới thắt lại, thì vùng chứa khí hít vào sẽ bắt đầu từ phần cơ hoành (tương ứng với phần giữa cơ thể như HuyenQuangTu vừa nêu), nhưng do hít vào từ từ đến mức đầy, nên từ phần cơ hoành trở lên sẽ dần dần đầy chỗ chứa : phần giữa đầy, phần ngực đầy cũng phải căng lên, phần ngực đầy rồi sẽ tới phần cổ đầy, phần cổ đầy rồi vẫn còn chỗ chứa nữa là các hốc xoang, khi các hốc xoang đầy rồi thì sẽ không hít vào được nữa.
    Tới giai đoạn thở ra, thì ngay khi thở ra sẽ không thể phình bụng ngay được, mà hơi ở vùng trên được giải toả hết rồi thì vùng dưới mới phình ra được. Tức là quá trình phình phải lần lượt từ trên xuống dưới, khi hơi ở xoang ra hết sẽ đến cổ, đến ngực, khi hơi ở ngực ra hết thì mới bắt đầu có thể phình phần giữa và khi hơi ở phần giữa ra hết thì mới bắt đầu có thể nới lỏng dần đai bụng dưới rốn từ từ.
    Như vậy quá trình phình bụng khi thở ra cũng phải nương theo quá trình không khí thoát ra một cách tuần tự, chứ không cố ý ngay từ đầu được.

    Hỏi: Xin nói rõ hơn về phạm vi chứa khí được không ? Vì nếu đã hít đầy hơi thì phần ngực sẽ căng hơn phần giữa vì thể tích nó lớn hơn nhiều (có chỗ nào chứa được sẽ tự nhiên chứa bằng hết).
    Đáp: bạn mô tả cách hít thở bụng kiểu nghịch như vậy là chính xác và khoa học, tuy nhiên chúng ta không nên quá quan tâm đến chuyện không khí sẽ vào ra như thế nào, vì thực sự chúng ta không sử dụng không khí để khai thông kinh mạch, mà sử dụng một lực lượng gọi là ''Phong'', nó nương theo không khí vào cơ thể khi ta hít vào, phạm vi hoạt động của nó vượt ra ngoài không khí, vì thế nếu quá chú tâm vào không khí sẽ chứa ở đâu thì sẽ bị máy móc, các bạn chỉ cần biết rằng mình đang hít thở vào sâu dài từ từ theo kiểu bụng nghịch thì không khí sẽ tự biết vào đúng chỗ của nó, dĩ nhiên như bạn Tienkyanh đã mô tả, thì quả thật không khí sẽ vượt lên chứa đầy cổ và cả các xoang, khi thở ra cũng vậy, ta cũng chỉ chú ý vào chuyện thở ra từ từ và tập trung vào động tác dãn bụng dưỡi cho đến khi phình ra.
    Những gì bạn mô tả là hoàn toàn chính xác. Điểm quan trọng:vì chúng ta sữ dụng ''phong'' để khai thông kinh mạch, nên CTNC quan trọng nhất là động tác hít vào, hít vào, hít vào nữa, không thể hít vào nữa vẫn tiếp tục hít vào, khi này chắc chắn một phần không khí sẽ bị đẩy ngược ra ngoài để có chỗ trống cho phần không khí mới tiếp tục vào, và cứ thế đẩy ra cứ thế hít vào , đây là yếu quyết chính để CTNC thành công, khi đó các bạn có thể sẽ nhận thấy là phần bụng dưới bị nén chặt cũng có thể bị rung động nhào nắn mạnh, thấy như vậy là bạn đã hoàn thành CTNC thành công trọn vẹn.

    Hỏi: Huyenquangtu cho Laido hỏi là trong thời gian tập CTNC thì có thể duy trì các môn tập mà mình hiên đang theo đuổi không? Ví dụ như nhân điện, NLTSH dưỡng sinh, .... chẳng hạn? Nó có ảnh hưởng gì không? Tập CTNC Laido có cảm giác như là phái sau lưng (đối diện với rún ra sau) có một luồng gió làm áo hơi phồng ra, không biết có đúng không?
    Đáp: bạn mới tập ít ngày mà đã thấy ấn chứng như vậy là rất tốt, cứ từ từ sẽ tiến bộ dần.
    CTNC chính là phép luyện đả thông mệnh môn ( là phần đối diện với rốn ở sau lưng), nên bạn thấy có cảm giác gió ở đó là tốt. Tu luyện sai lệch phần nhiều do các nguyên nhân thủ ý, dẩn ý, cong lưỡi, nay CTNC không dùng tới tất cả những phép luyện đó, nên không thể có sai lệch, hoàn toàn phù hợp nếu kết hợp với các môn khác, và hỗ trợ chửa trị nếu do tập các môn khác phát sinh sai lệch, nếu kết hợp với các môn khác thì nên tập CTNC sau cùng, rồi sau đó ngồi thiền định nhập tĩnh luôn
    Bạn lưu ý, là sau khi tập CTNC thì phải dành khoảng 30 phút thiền định nhé, vì CTNC là để hỗ trợ thiền định mà.

    Hỏi :Laido vẫn tập CTNC sau cùng vì theo ý chủ quan của Laido thì CTNC có tác dụng rất lớn trong việc điều chỉnh sai sót (do tập môn khác... ), đây là cảm nhận riêng sau khi tập được mấy ngày.
    HQT nói là sau khi tập CTNC phải thiền khoảng 30'''' . Vậy phương pháp thiền định này sẽ không cần cong lưỡi phải không ạ? Cứ điều khí bình thường, có nghĩa là thở tự nhiên (duyên tức), không cần thủ ý... . Laido hỏi câu này là vì phương pháp thiền theo các sách hiện nay là đều phải cong lưỡi, quán tưởng thủ ý tại đan điền, ...
    Đáp :tất cả những gì tôi hướng dẫn đều tuyệt đối không cong lưỡi, ngồi thiền cũng không cong lưỡi, tôi nói cho bạn hiểu nhé:
    - thời gian gần đây nhiều môn thiền thường hay tham bác của nhau nên đưa thêm động tác cong lưỡi vào.
    -Những người hướng dẫn thiền định đa số lớn tuổi dương khí đã suy, khi họ thiền cong lưỡi sẽ đem âm khí vào não nên cảm thấy lâng lâng sảng khoái, nhưng vì là khí âm nên nó phát sinh ra tạp niệm động loạn, thực sự là họ lâng lâng trong động loạn
    - Những người thường xuyên cong lưỡi khi ở một mình thường có biểu hiện tâm thần, tự nói cười một mình, tự hỏi đáp với chính mình, thực ra họ rất tỉnh táo nhưng họ làm vậy vì cảm thấy vui , nếu bất chợt có người thấy thì họ lập tức bình thường và cảm thấy mắc cỡ
    - Đầu óc có khuynh hướng tốt tăm, dần dần u mê, không biết phân biệt phải trái đúng sai, hay tưởng tượng những điều không có thật.
    - Nếu các bạn trẻ đang yêu mà mắc tật cong lưỡi thì tôi nói thật là xui xẻo hết chỗ nói, các bạn sẽ bị thất tình, và việc cong lưỡi làm bạn đau khỗ gấp 2,3 lần người bình thường, vì lưỡi sẽ kích động phần vỏ não khiến hình ảnh đối tượng cứ hiện lên mà không xoá nhoà theo thời gian (có nhiều người 2 năm không gặp lại mà vẫn nhớ), việc chửa trị rất dễ, chỉ cần bỏ lưỡi xuống thôi, bạn sẽ quên đối tượng sau 1 tháng không gặp mặt.
    vài góp ý vui với bạn laido và các bạn khác

    Hỏi: Khuyên thật các bạn đang theo tập nên thỉnh thoảng đo huyết áp để theo dõi thể trạng nhé. Hít thở tăng sức khoẻ nhưng cũng có thể gây bệnh, không có thầy theo dõi thì lại càng cần phải tự lo cho mình.
    Đáp: cảm ơn bạn đã góp ý, tôi cũng khuyến cáo là CTNC thích hợp nhất với các bạn trẻ tuổi, không có vấn đề về tim mạch, huyết áp , những người lớn tuổi từ 50t trở lên nếu muốn tập luyện thì phải đảm bảo không mắc các bệnh trên, vì truyền thống đạo gia khi thu nhận đệ tử đều chọn người trẻ tuổi, cỡ khoảng 40 trở lên thì dương khí đã bắt đầu suy thường bị loại từ vòng ngoài

    Hỏi: Mình đang tập thử theo CTNC nhưng có mọt số thác mác khi tập mong bạn giải thích giúp: khi hít vào bụng mình thóp lại được rất ít, khi hít vao đầy khong khí mà vẫn hít tiếp để cố gắng đủ một phút tức là lúc đó thực sự không hít vào được không khí mà chỉ có ý thức hít vào thôi có đúng không bạn và thực chất lúc đó là nhịn thở và cảm thấy mặt bị cảm giác đúng như nhịn thở lâu. Mong bạn chỉ giúp cảm giác đó có đúng không ?
    Đáp: Theo những gì bạn mô tả là bạn tập sai rồi
    - Trạng thái nín thở là trạng thái thanh quản bị đóng lại, nên sẽ có hiện tượng đỏ mặt
    - CTNC hoàn toàn không có trạng thái đóng thanh quản, thanh qủan lúc nào cũng mở nên không có trạng thái nín thở, mà thực sự khi bạn hít vào đầy hơi , vẫn tiếp tục hít vào thì sẽ có một phần không khí ở phía trên cổ và các xoang sẽ bị đẩy ra để không khí mới vào, bạn hãy hình dung không khí trong cơ thể bạn và bên ngoài vẫn thông suốt với nhau chứ không có hiện tượng ngăn cách trong và ngoài khi làm CTNC
    - Khi bạn thở ra, thì phần không khí ở phía trên sẽ ra trước, khi phình bụng bạn sẽ có cảm giác là không khí vừa ra đằng mũi làm ngực trống mà vừa đi sâu xuống bụng dưới khi phình bụng.
    Đúng là phải hít đến mức đầy, rồi không khí bung ra giật vào liên tục khiến cơ mặt + cơ bụng rung bần bật, thì hiệu quả mới khác hẳn. Nếu chỉ hít vào đến mức suýt soát đầy, chưa đến giới hạn, thì sẽ hưng phấn -> khó ngủ, hoặc ngủ sẽ không sâu, sáng dậy không thoải mái (như Summersby nói). Miễn là hít đến giới hạn không hít được nữa, khi đó muốn tình trạng bật không khí xảy ra, chỉ cần hít mạnh hơn lúc trước là sẽ rơi vào trạng thái đó. Mà khi đã đạt trạng thái giới hạn bật hơi, thì sẽ buồn ngủ nhanh, sáng dậy thoải mái.
    - Mình suy đoán thế này : Việc thắt bụng lại khi hít vào sẽ ngăn chặn đại lượng phong nạp vào 3 phần âm bên dưới (thận âm, hội âm, thái âm), để 3 phần này không được phát triển thêm dục tính (dễ đoạ mất thân người), phong chỉ được nạp đầy vào các phần trên. Đây là quá trình nạp năng lượng từ ngoài vào.
    Giờ Tý khí dương mới sinh trong cơ thể là thứ khí dương trong sạch nhất, nương theo thì hít vào đến mức đầy, sẽ đưa khí thanh dương lên đầu. Và việc thắt bụng lại lúc này cũng nhằm ngăn không cho trọc khí của 3 phần âm bên dưới lên đầu. Đây là quá trình hoán chuyển dương khí của thân lên não - như HuyenQuangTu nói ở topic kia.
    Còn với hơi thở ra, bao giờ hơi thở ra cũng đưa thực dương lên trên, mà thì này không khoá bụng nữa, nên trọc khí của 3 phần dưới cũng dễ theo thực dương lên đầu. Nên cần phình bụng trong thì này để hút trọc khí + thực dương ngược xuống, không cho lên đầu.
    Vậy là theo tự nhiên thông thường : hít vào năng lượng trầm xuống, thở ra năng lượng thăng lên. Trong sự trầm xuống và thăng lên tự nhiên này, có cả năng lượng xấu và tốt đi lên đi xuống lẫn lộn. CTNC sẽ nghịch đảo chiều hướng tốt xấu, phân chia rành mạch năng lượng trong quá trình này, đưa năng lượng xấu xuống dưới & hạn chế phát triển, đẩy năng lượng tốt lên trên.

    Hỏi: Nhưng có điều mình chưa hiểu, HuyenQuangTu giải thích thêm giúp mình nhé : vì sao hít đến mức giới hạn tạo hiệu quả bật không khí ra vào lại có tác dụng vượt trội như thế?
    Đáp: Bạn Tienkyanh phân tích hoàn toàn chính xác, những bạn nào đang tập CTNC thì nên theo những mô tả của Tienkyanh mà tập theo cho đạt hiệu quả.
    Đúng như bạn đã phân tích, việc nén bụng dưới để ngăn chặn phần âm không đi lên đầu, do đó sau khi bước vào nhập định thì sẽ thấy rất tĩnh lặng, không có tạp niệm.Việc tập luyện luôn có các ngưỡng cần vượt qua thì sẽ tạo hiệu quả đột xuất, khi bật không khí xảy ra thì phong đã được hấp thu vượt ngưỡng, hơn nữa khi phần bụng dưới chấn động thì cửa mệnh môn cũng được kích động mở ra nhằm khai thông đốc mạch nên tạo hiệu quả đặc biệt. Sau này khi tập luyện thuần thục thì có nhiều người có khả năng kéo dài 1 hiệp tới 5 phút, khi này hiệu quả là rất đặc sắc, có thể chỉ cần 1 hiệp là nhập định luôn, và trong trạng thái này việc vận hành khí vẫn tuân theo đường lối của pháp luân nghịch chuyển, tức là thăng thanh, giáng trọc, cho đến khi chấm dứt thì tự nhiên xuất định.

    Hỏi: Cho hỏi: Sau khi tập CTNC xong khoảng 9 lần thì có bắt buộc phải Thiền hay không ? Nếu có thì Thiền bằng cách chú ý vào vùng bụng dưới là đúng hay sai ? Xin anh Huyenquangtu hướng dẫn.
    Đáp: sau khi CTNC đầy đủ và hiệu quả thì cơ thể sẽ tự động chuyển sang trạng thái thiền định, đầu óc tự nhiên ngưng bặt tạp niệm, có cảm giác năng lượng trong người dâng lên, khi thiền định thì vẫn tuân thủ phép điều thân, tức là mắt mở lim dim, nhìn thẳng xuống khoảng đen tối trước mắt, không thủ ý ...thực tế sau khi CTNC thì cơ thể tự động thiền định, nếu bạn cố ý sử dụng ý thức như thủ ý thì sẽ phản lại tự nhiên, khó nhập định.
    -Tôi giải thích thêm một chút về tại sao 2 mắt mở lim dim, sách luyện đan có khẩu quyết ''cơ tại mục'', cho rằng mắt và tâm có quan hệ chặt chẽ như giương cung bắn tên vậy, khi bạn lim dim thì hai tròng sẽ ngưng chuyển động thì tâm cũng ngưng chuyển động, nếu bạn trước đây vẫn nhắm mắt thiền thì nên tập thói quen này, mới đầu khó nhưng khi đã thuần thục thì sẽ thấy dễ, dĩ nhiên đã tập thiền mở mắt thì yêu cầu là phòng phải tối, nếu có ánh sáng sẽ kích thích mắt không thể nhập tĩnh được.
    Đối với vấn đề có bắt buộc phải thiền không thì nếu bạn mới tập chưa từng thiền bao giờ thì lúc đầu có thể không cần thiền, nhưng sau khi CTNC nên nằm ngủ ngay, bạn sẽ làm quen dần với thiền trong giấc ngủ.

    Hỏi: Huyenquangtu và các bạn khác đã có kinh ngiệm cho tôi hỏi: lúc ngồi có phải giữ cho bách hội và hội âm trên một đường thẳng hay không? khi hít vào tôi thấy lưng cung có cảm giác nở ra có đúng không và cảm giác này có phải là cảm giác "khí dính lưng" trong nội gia thái cực quyền không .Cảm ơn nhiều.
    Đáp: Ngồi thiền giữ cho bách hội và hội âm thẳng là phần quan trọng của điều thân , nhưng đối với nhiều người sau khi nhập định thì khó mà giữ thằng, vậy cứ theo tự nhiên,nếu gượng ép quá thì ảnh hưởng đến nhập tĩnh, vấn đề ''khí dính lưng'' là yếu lĩnh thái cực quyền, tôi nghe nói gần đây TCQ có phối hợp thêm phép thở bụng kiểu nghịch, bạn tập CTNC một thời gian sẽ thấy khu vực mệnh môn sau lưng như có vòi nước nhúc nhích chuyển động theo dòng, đó là TTK được thu giữ lại thay vì chuyển cho hoạt động sinh dục.

    Hỏi: sư huynh huyenquangtu trong khi hít vào, đến một lúc nào đó thấy phận bụng dưới rốn nó co bóp (cuộn cuộn, co bóp, kiểu như sôi bụng cuộn lên), nhưng không thường xuyên, hiện tượng này có sao không ạ ?
    Đáp: Đó là hiện tượng tốt, chứng tỏ bạn đã tập đúng.
    Khi thiền định các bạn chú ý : thiền mở mắt không phải là trừng mắt ra nhìn chăm chăm, như thế sẽ mỏi mắt, mà là mắt khép lim dim, chỉ chừa một khe hở nhỏ, khi thiền trong phòng tối hoàn toàn thì thậm chí bạn cũng không phân biệt rõ là mình đang mở mắt hay nhắm mắt nữa, nếu vào định mà tự nhiên mắt nhắm lại luôn thì cứ để vậy, không gượng ép, lâu dần sẽ tự nhiên uốn nắn được, thiền nhắm mắt thường có hiện tượng tròng mắt di chuyển qua lại hoặc thỉnh thoảng hay chớp mắt, khó nhập định sâu được, hơn nữa khẩu quyết của một số môn phái còn cho rằng lim dim mắt có thể thu được tiên thiên khí, khi TTk trở về thì sẽ thấy trước mắt xuất hiện ánh sáng trắng chập trùng như mây, đó là ý nghĩa ''phải tìm nó trong chỗ hoảng hốt, phải cầu nó trong cảnh yểu minh'' mà các đan thư nói tới, tuy chưa phải là yếu quyết chân chính, nhưng đối với một số người lợi căn thì vẫn có thể thu được TTK.

    Hỏi: Các bạn cho hỏi khi hít vào thì từ từ nhưng đến đoạn cuối tôi phải hít nhanh mới có cảm giác không khí đầy lên hết cả đầu. Nếu không hít nhanh doạn cuối thì không có cảm giác đầy chỉ thấy không hít vào đựoc nữa thoi. THứ hai là rất mỏi lưng. Mong được chỉ giáo.
    Đáp: đúng vậy, lúc đầu thì hít từ từ, nhưng về cuối thì không cần thiết phải hít từ từ nữa, cứ thuận theo tự nhiên, cơ thể tự nó sẽ hướng dẫn cho bạn làm như thế nào là đúng. cảm giác mỏi lưng có thể là do bạn đã từng luyện khí công hoặc thiền, một phần chân khí bị tắc nghẽn ở mạch đốc, bây giờ bạn CTNC thúc đẩy nó tiến lên , nhưng giáp tích bạn chưa thông, có cảm giác mỏi lưng, vậy trước mỗi buổi tập hãy tập trung tại giáp tích phối hợp với hô hấp bụng kiểu thuận sâu dài khoảng 10 phút, sau đó hãy làm CTNC.

    Hỏi: Tôi đã từng tập luyện khí công (một cách không hệ thống, học theo sách báo) từ năm lớp 8. Thật sự là càng về sau càng cảm thấy bất ổn, vụ bất ổn rõ nhất là cảm thấy khí thoát bách hội, đau đầu. Càng về sau (đến giờ được hơn 10 năm) tôi càng ít tập, điều này có lẽ thật may! (toàn tập kiểu đáp kiều, chạy khí tiểu chu thiên, đại chu thiên). Hiện tại tập CTNC, có mấy điều sau xin hỏi HuyenQuangTu:
    1. Thời điểm đầu, có cảm giác mình vẫn hít vào được tiếp, có cảm giác mình đang hít vào mà thời gian khá lâu (30s, thậm chí 1 phút) mà không bị đầy bụng, đầy ngực. Vậy đây là cảm giác hay là thật và có nên để kệ nó không?
    2. THời gian sau, khi bụng bắt đầu đầy, mỗi lần cố gắng hít vào là phần bụng trên (bụng dưới thì đương nhiên đang hóp lại rồi) rung lên bần bật (có cảm giác như cái trống bị đánh vậy ). Lúc đầu thì nó chỉ rung thôi, nhưng lặp lại nhiều lần thì mỗi lần bụng rung, tôi có thấy rõ ràng nó đang đẩy khí ngược lại khỏi mũi. Tôi đọc thấy bạn nói bụng rung là đúng, nhưng còn hiện tượng nó đẩy khí khỏi mũi thì sao? (Vì tất nhiên khi bụng tự đẩy khí thì lúc đó là lúc mình không thể hít vào được nữa, sau khi bụng hết rung mới có thể tiếp tục hít vào).
    3. Thời gian trước tôi thiền toàn nhắm mắt nên bây giờ cứ ngồi là mắt nhắm. Nếu để mắt mở hé rất khó chịu vì mi mắt cứ rung rung không chịu nằm yên. Nếu tập trung vào hít thở một lúc thì phát hiện ra mắt đã nhắm tự lúc nào. Nếu mở mắt thì thực sự là phải khá tập trung để mắt không nhắm và để mắt khép hờ (mất tập trung tập thở).
    4. Thời điểm nào dễ chịu (tinh thần không vướng mắc, cơ thể không bị lệch lạc gì) thì chỉ sau 1 - 2 hơi thở tôi đã cảm thấy rất dễ chịu (kiểu dễ chịu toàn thân thanh thản, cảm giác nắm biết rõ ràng). Vậy có cảm giác đó có phải là nhập định hay không?
    5. Sau khi tập CTNC xong thì cảm giác rất dễ chịu, cảm giác mình có thể ngồi như thế cả đêm (vì hơi thở thấy nó đã tự điều hoà, thân tâm dễ chịu) duy chỉ có chân thì thấy mỏi (ngồi bán già, chân bị tê). Cảm giác của tôi: nếu chân không bị tê có thể ngồi như vậy cả đêm, không cảm thấy mỏi người, không cảm thấy lạnh (tất nhiên mặc vừa đủ ấm trong nhà rồi). Đó có phải là CTNC đã hỗ trợ tốt cho thiền không
    Đáp : Tôi xin trả lời bạn
    1.bạn mới tập thì nên khoảng 1 phút là tốt, sau này thì sẽ tự biết làm thế nào là thích hợp nhất.
    2.không nên nén bụng dưới chặt quá, rung động ở phần bụng dưới mới đúng, việc khí bị đẩy ra khỏi mũi là phản ứng tự nhiên của cơ thể khi bạn cố gắng hít vào thêm, khi đẩy ra thì cũng hít vào ngay sau đó,đẩy hít diễn ra liên tục. Bạn thấy như thế có thể là do kéo dài thời gian hít vào nhiều quá, khống chế trong 1 phút thôi.
    3.phải tập luyện cho quen dần, vì khi khép hờ mắt thì lúc đầu sẽ rung thần kinh mắt, tập lâu sẽ quen, nhưng khởi đầu thì không cố ý khép quá, chỉ hơi khép thôi, khi nhập định thì sẽ tự nhiên khép lại gọi là ''buông rèm''.
    4.cảm giác đó là bắt đầu nhập định, trí giác bỗng nhiên thấy ''lịm'' đi.khi nhập định nếu thấy căng mỏi ở bất cứ chỗ nào( xương sống, đầu cổ..) thì phải lập tức thư giãn , thậm chí là ngưng thiền định ngay, đó là cảm giác không tốt, khí bị tắc.
    5.muốn ngồi lâu không tê chân thì dùng phép ''luân phiên bán già'', tức là đổi chiều của chân và tay lại, hơn nữa, khi bán già khí phân phối nhiều ở một nửa thân, đổi chiều bán già sẽ phân phối khí đồng đều, có thể tăng gấp đôi thời gian thiền định.

    Hỏi: Mình có thiền vào buổi sáng. Nay mình muốn dùng CTNC để nhập định trươc khi thiền có được không? Vì sau một thời gian tập CTNC , mình thấy CTNC có thể làm cho mình dễ nhập định . Cám ơn bạn trước
    Đáp: chào bạn , vì mục đích sức khoẻ thì tập CTNC vào buổi sáng sẽ rất tốt, nhưng sau này bạn muốn tiến xa về tâm linh thì sẽ tự động tập vào buổi đêm.

    Hỏi: Đêm qua mình tập CTNC, thấy sau mỗi lần bật hơi ra thì có một luồng ớn ớn chạy dọc xương sống từ dưới lên, tương đối nhanh, liên tục gợn theo cột sống lên đầu sau mỗi lần bật hơi ra.
    Được vài lần như thế thì không biết là tín hiệu gì, nên mình dừng lại nghe ngóng.
    Đáp: bạn Tienkyanh: đốc mạch của bạn đang khai thông, ngoài cảm giác đó còn có thể thấy dòng điện chạy lên đầu.

    Hỏi: Huyenquangtu và các bạn đa tập cho tôi hỏi tôi bị cảm giác này là đúng hay sai, tốt hay sấu:
    - Khi thở ra tôi thấy bụng dưới hơi dật dật theo kiểu nhịp như mạch đập. sờ vào bụng lại chẳng thấy gì?
    - Khi hít vào ( đoạn trước tôi nói thở ra là nhầm xin đính chính lại)đên đoạn cuối cùng toi cảm thấy ấn đường
    có cảm giác lạ, khó tả: nó là cảm giác hơi mãt hay hơi te gì đó mà tôi không tả được. Các hiện tượng nhu TienKyAnh tôi lại không thấy
    Đáp: Bạn nhatchithien: cảm giác ở bụng giật, rung...là tốt, huyệt ấn đường của bạn cũng đang khai mở, thời gian sau có thể bạn sẽ thấy nó nặng nặng, giựt giựt mặc dù không thủ ý ở ấn đường, sau đó nhắm mắt sẽ thấy ánh sáng như sao, hoặc đang công phu bỗng thấy ấn đuờng chói loà ánh sáng....

    Hỏi: Bây giờ tôi bắt đầu tập CTNC tốt hơn trước rồi. "Hiện tượng" cũng gần gần như mọi người tả ở trên.
    Nhưng với những người chưa học thiền, KC... dấu hiệu còn rõ ràng. Còn những người đã thông hoàn toàn Nhâm - Đốc thì còn có , khi tập CTNC, còn cảm giác khí chạy như điện mà bạn nói ở trên không? Và những người có khí quang tương đối tốt rồi, khi tập CTNC, dựa vào đâu để biết "tiên thiên khí đang trở về"?
    Đáp: các ấn chứng xuất hiện nhiều trong thời gian khai thông kinh mạch, sau đó sẽ giảm dần, thay vào đó là khả năng nhập thiền định ngày càng nhanh và sâu hơn, CTNC là phép khai thông kinh mạch đồng thời vận chuyển chân khí trong tinh sinh dục lên não, không phải là phép hấp thu chân khí ở huyền quan, nhưng đối với một số người căn cơ thì vẫn thu được TTk một cách tự động khi nhập tĩnh cao độ, dấu hiệu hấp thu TTK là nước miếng sẽ ứa ra nhiều, sau khi hấp thu thì có động khí ngay tại giáng cung (vị trí tương ứng huyệt trung quản) cốt khí trên mặt dần dần thay đổi, khu vực ấn đường cao và mở rộng hơn, mắt có thần , nhìn lâu không chớp.

    Hỏi: Huyenquangtu xem hộ tôi :
    - Bản thân đã có hiện tượng rung bần bật cơ bụng và cả cơ mặt, đầu như muốn nổ tung khi cố hít thêm vào. Sau khi tập xong, cảm thấy ngứa râm ran ở vùng bụng trước và vùng mệnh môn. Tập xong thì thiền định và gần như hết cảm giác mệt, thấy thoải mái nhưng 2 tai còn hơi ù.
    - Các hiệp đầu thì hít vào và thở ra thì rất dài, đều. Sau đó, mỗi hiệp đều phải hô hấp sâu để nghỉ. Các hiệp sau thì mệt nên không dài bằng.
    - Lúc mới tập thì khí quang trước ấn đường dần dần rõ dần rồi rực rỡ - tựa một quả cầu ngũ sắc rực rỡ xoay tròn, các màu sắc quện vào nhau. Nhưng về sau, khí quang mờ dần, và chỉ còn thấy vùng sáng trắng bàng bạc có lẫn màu vàng lốm đốm. Vùng ngọc chẩm thấy hơi tức. Tại sao khí quang lại giảm đi?
    - Vẫn chưa tự động nhập định được. Song nước bọt cũng tiết ra nhiều trong khi tập. Việc thu tiên thiên khí - như bạn nói, biểu hiện duy nhất là nước bọt tiết nhiều - là lúc đang tập hay là lúc đã tự động nhập định?
    Đáp: -những bạn nào tập luyện mà thấy ngứa ngáy, kim châm chích, kiến bò...đó là trược khí đang thoát ra, các hiện tượng này thường xảy ra nhiều với những người trước đây hay cong lưỡi thu hút nhiều trược khí vào người, khi đã tập CTNC thì phải bỏ hẳn thói quen này, cố chấp sẽ ngày càng nhiểm trược
    -cong lưỡi cũng làm cho cơ đầu cổ hay bị co rút lại, cảm giác căng cứng như có ai cầm đầu kéo lên, đó là khí bị tắc nghẽn
    -thấy khí ngũ sắc đó là khí ngũ hành, TTK co màu trắng bạc. khí ngũ hành thuộc về hậu thiên cần đưa trở xuống ngũ tạng.
    -tập CTNC mà muốn thu TTK thì phải nhập tĩnh cao độ, làm CTNC mà chưa thấy nhập tĩnh là hệ thống kinh mạch chưa được khai thông.

    Hỏi: Hôm trước, trước khi tập CTNC, Laido tập thiền và cảm thấy phía sau lưng nó cứ nóng râm ran, nhất là đoạn giữa lưng (LX4), nhưng không phải như kim châm . Sau khoảng 35'' thì thấy bừng lên, ngợp cả phía sau gáy, Laido để ý cơ thể thì không thấy gì đặc biệt, nhưng thấy có biểu hiện mỏi cơ vai. Laido đã thư dãn nhưng nay vẫn cảm thấy hơi mỏi. KHông biết trường hợp này có phải là khí bị tắc không? xin được bác chỉ bảo cách khác phục. Nếu trường hợp thông mạch, khí chạy từ dưới (đoạn xương cụt) lên trên đầu (gáy) thì có sao không, cái này có nguy hiểm như là khí trong luyện (Hoả xà) không ạ?
    Đáp: Đó là một biểu hiện của chân khí dâng lên cột sống, khi bạn thiền định, tâm có cảm nhận vi tế nên cảm giác về khí sẽ khác nhau, bạn thấy mỏi vai là huyệt giáp tích chưa thông, đa số các bạn trước khi tập CTNC đều có tập các môn khác, đặc biệt là những môn có thủ ý thì đều đã có sẵn sai lệch tiềm ẩn, khi CTNC sẽ lộ rõ ra, cách chữa thì hễ thấy đau mõi ở đâu thì thủ ý và phối hợp hô hấp sâu, riêng vị trí giáp tích thì cần sử dụng thường xuyên hơn,nên dành khoảng 10 phút để làm việc này trước khi tập CTNC và thiền định.CTNC không thể tạo ra hiện tượng hoả xà vì lượng chân khí chuyển hoá từ năng lượng tính dục không đủ để có thể gây nguy hiểm, bạn cứ yên tâm.

    Hỏi: Khi tập CTNC đến hiệp thứ 4,5 em thấy có cảm giác rất lạ. Toàn bộ phần trên cơ thể ( từ rốn trở lên ) bỗng nhiên nặng trĩu và có cảm giác cơ thể mình như một quả bóng hơi đang được bơm căng vậy, càng hít vào càng phồng to ra. Nhiều nhóm cơ nhất là cơ lưng bị cứng lại lúc cố sức hít vào. Càng hít thêm thì cảm giác đó càng rõ ràng.
    Đáp: Do bạn trước đây chưa từng tập khí công , thiền định nên cơ thể chưa có bất kỳ sự khai thông nào, cảm nhận đối với khí trở nên nặng nề, cũng như một người không bao giờ tập thể dục lại bắt anh ta chạy đường dài thì nhất định sẽ bị đau cơ cả tuần lễ, bạn nên tập CTNC khoảng 3 hiệp thôi, từ từ sẽ tăng dần lên.

    Hỏi: Hôm vừa rồi, Laido thấy nóng râm ran tại Giáp tích sau đó nó bừng lên đầu (vùng chẩm - sau gáy), tạo cảm giác lạ lắm.. Lúc đầu Laido cũng sợ nó sẽ làm tổn thương não như luyện (hoả xà) nhưng không phải (phần trên Huyền Quang Tử đã giải thích rõ rồi). Laido sợ vì có lần khi tập NLSH, LX 1 và 2 đã vận hành và nóng ran lên, sau đó nó chạy lên đầu, tạo cảm giác nâng nâng mất mấy ngày, tuy không thấy hại gì nhưng Laido không dám tiếp tục, phải nghỉ vài ngày cho bình thường.
    Trước đây, Laido tập thiền và NLSH , việc cong lưỡi là bắt buộc. Đồng thời thủ ý tại các điểm (Luân xa), sau đó dùng ý để vận hành khai thông mạch nhâm - đốc. Khi thấy đầu lưỡi có hiện tượng tê tê, Laido đã ngộ nhận là mạch nhâm đốc được khai thông (100% người tập đều tưởng vậy), bây giờ tập CTNC mới biết mạch chưa thông - vẫn tắc như thường...
    Đáp: bạn laido: khi thiền thấy có luồng gió mát thổi từ vòm họng xuống là hiện tượng tốt, cứ chờ một lúc thì nuốt thành ngụm như nuốt nước bọt vậy.lưỡi cứ để hạ xuống, nếu cong lên có thể mất cảm giác trên
    ngày xưa tôi cũng từng học NLSH được dạy ngồi thiền hai tay đặt ngửa trên hai đùi, thu năng lượng vào hai tay,nhưng còn có cách thu NLSH vào hai chân trong tư thế vận động có hiệu quả hơn nhiều thì không thấy nói tới, NLSH tạo ra thể phách bao bọc cơ thể có thể chống được các bệnh ngoại cảm , thời tiết, hiệu quả với bệnh viêm xoang ngạt mũi,bệnh tà ma, nếu biết vận dụng cũng tạo ra được công năng đặc dị, tuy nhiên thứ NL này mà vào đầu thì sẽ bị nhức đầu khó chữa trị.

    Hỏi: Xin huyenquangtu hướng dẫn cụ thể hơn về thì thở ra ? Thì thở vào thì dễ nhưng thì thở ra thì khó. Và mỗi hiệp phải điều hoà hơi thở, nhưng ko quan trọng là bao nhiêu lần hô hấp, chỉ cần bình ổn lại thì tiếp hiệp sau?. Tối qua tập, dù mở mắt cũng thấy cả vùng trước trán sáng loá, toàn là màu trắng nhưng hơi hồng? Nếu người nào chưa qua tập KC, thiền... chỉ qua thời gian tập CTNC mà khai thông kinh mạch, và khai mở ấn đường thì thật đáng nể. Nhưng những người huyết áp cao, có bệnh tim mạch và sức khoẻ kém dẻo dai thì không được tập CTNC?
    Đáp: bạn summersby: khi thở bụng kiểu nghịch ở thì thở ra sẽ cố gắng phình bụng ra tốt đa, không khí bị đẩy ra hết, còn CTNC khi thở ra thì chỉ phình bụng ra bằng phân nửa mà thôi, khi tập lâu rồi thì thở ra phình bụng sẽ có điểm rơi để nhập định, nếu vượt quá hoặc chưa tới thì nhập định không hiệu quả, tùy mỗi người vận dụng cho phù hợp, giữa hai hiệp thì dừng lại điều hoà hơi thở khoảng 2-5 hơi thở tùy người, nhưng không nên dừng lâu quá làm mất tác dụng hiệp trước đó.
    đối với những người bị tim mạch, cao huyết áp thì đều phải kiêng cữ vận động mạnh, cho nên tập CTNC cũng phải như vậy, làm vừa sức mình, và kiểm tra huyết áp ngay sau thiền định( nếu kiểm tra ngay sau CTNC thì HA chắc chắn sẽ tăng là đương nhiên)

    Hỏi: cám ơn Huyenquangtu hướng dẫn va chỉ dẫn rất chi tiết.... mình đã đọc rất nhiều lần để tìm hiểu ... và quyết định tập. Hôm qua là ngày đầu tiên ... nhưng không hiểu tại sao minh bị mất ngủ và nghe như ve kêu bên tai vậy...
    Đáp: tập CTNC sẽ luyện tinh hoá khí, làm tinh thần thịnh vượng, đối với người mới tập chưa quen trạng thái đó, nên cảm thấy hưng phấn, khó ngủ, tai có tiếng ve là hiện tượng xảy ra với hầu hết người mới tập, do năng lượng khai thông hai khiếu ở tai.

    Hỏi: Sau một thời gian tập cách thở nghịch, đến hôm nay tôi cảm thấy mình đã có thể thở nghịch đúng cách nên quyết định làm CTNC. Ngay lần đầu tiên, sau khi hít vào cố sức đến khi toàn thân rung lên bần bật thì không thể tiếp tục được nữa (nhưng chỉ được khoảng 30 giây thôi), ngay khi bắt đầu thở ra tôi thấy tiếng gió thổi rất mạnh hai bên tai. Tôi tưởng có tiếng gió thật ngoài thiên nhiên, ngồi điều hoà hơi thở một lúc thì tiếng gió cũng hết. Sau lần CTNC đầu tiên, tôi bỗng thấy dọc sống lưng mát lạnh và chỗ gần xương cụt như có gió thổi. Làm được 4 lần thì tôi thấy mệt quá nên ngừng. Lạ là người tôi toát mồ hôi đầm đìa, nhưng chỉ sau lưng mà thôi, phía người trước khô nguyên).Có 2 vấn đề của tôi là hít vào không được lâu, và lúc làm CTNC một lúc là mắt tôi cứ nhắm lại.
    Đáp: vấn đề của bạn đều tốt cả, cột sống của bạn tương đối thông thoáng, thấy mát ỡ vĩ lư là một ít chân khí đã được hút sang, thấy ra nhiều mồ hôi tốt cho sức khoẻ, đang thanh lọc trược khí, nghe thấy tiếng gió thỗi là đang thông khiếu tốt, có thể nghe thấy tiếng nổ lớn sau này. Đối với bạn mới tập thì CTNC 30 giây là chấp nhận được, về lâu dài thì phải cố gắng thiền mở mắt, cần có thời gian tập luyện cho thần kinh mắt quen dần

    Hỏi: Cho hỏi là việc tập CTNC có ảnh hưởng gì đến khả năng tình dục nói riêng cũng như bất kỳ mặt nào khác trong cuộc sống bình thường hay không? Một điều nữa là phụ nữ có thể tập CTNC được không nhỉ?
    Đáp:CTNC thực hiện 2 nhiệm vụ: 1.khai thông kinh mạch --- 2.luyện tinh hoá khí
    cho nên nếu người già yếu thì vẫn đạt được mục đích 1 và hoàn toàn không ảnh hưởng đến khả năng sinh dục, phụ nữ tập luyện CTNC thì cũng có tác dụng giống nam giới.

    Hỏi: Huyenquangtu cho hoi:
    1. Khi tap CTNC, dù đã cố gắng mở mắt nhưng sao mắt rất sốn và chảy nước mắt.
    2. Tập CTNC có cần phải kiêng rượu bia không? và nếu có uống thì có ảnh hưởng gi không? Sau khi uống bao lâu thì có thể tập được.
    Đáp:chào bạn
    1.trạng thái lim dim mắt khi thiền định là rất khó , phải tập luyện dần dần cho thần kinh mắt quen dần, với các bạn mới tập thì cách làm dễ nhất là cố gắng tập trong phòng hoàn toàn tối, khi đó bạn sẽ có cảm giác nhắm mắt hay mở mắt là như nhau, và bạn chỉ cần hướng ánh mắt nhìn xuống dưới trong khi thiền định, một thời gian sau tự động hai mắt bạn sẽ khép lại, tuy nhiên nếu thấy nó nhắm luôn thì cũng không sao cả, từ từ khi thuần thục rồi bạn sẽ điều chỉnh được.
    2.tập CTNC vào ban đêm thì không nên uống rượu bia vào buổi tối, tuy nhiên nếu chỉ uống ít, và bạn cảm thấy không có dấu hiệu nào khác thường giữa trước và sau khi uống bia ( ví dụ hơi say) thì vẫn có thể CTNC được.

    Hỏi: Xin hỏi huyenquangtu:
    - Từ hôm đầu tiên tập, đến nay em đã tập được gần 1 tuần. Tuy nhiên những dấu hiệu thấy ở lần đầu tiên là thấy mát sống lưng, toát mồ hôi (có thể do trời quá lạnh) không còn nữa. Tai cũng dần dần không còn nghe tiếng gió thổi. Không hiểu có phải tại phòng không tối và không yên lặng nên ồn, khó tập trung dẫn đến chất lượng kém hơn chẳng?
    - Hiện nay em đã làm CTNC được gần 1 phút. Dấu hiệu khác lạ duy nhất là khi thở ra có cảm giác tê tê ở đầu và mặt. Em vẫn không rõ Thiền nhập định nghĩa là thế nào, vì thế sau khi cố gắng làm CTNC 9 lần thì chỉ ngồi nguyên hít thở nhẹ nhàng thư giãn sau đó nằm ngủ luôn mà thôi.
    Đáp: Xin trả lời bạn:
    -những dấu hiệu mát cột sống, nghe gió thổi chỉ xuất hiện một thời gian ngắn lúc đầu thôi, khi cơ thể bạn thích nghi với trạng thái vận hành năng lượng rồi thì sẽ không có cảm giác nữa, hơn nữa , là những chỗ bế tắt đã thông suốt thì cũng không thấy cảm giác như trước nữa, tu luyện không lấy sự truy cầu cảm giác, mà trọng vào sự nhập định , khi đó nội khí mới có thể vận hành được.
    -nhân đây tôi muốn nói với tất cả các bạn, làm CTNC muốn cho tốt và không cảm thấy quá sức thì phải tuyệt đối tuân theo những gì tôi hướng dẫn, không được tự tiện sửa pháp theo ý mình, khi làm CTNC thì hai tay cần phải nắm lại đặt trước bụng, và tuyệt đối không được pha trộn công pháp, dùng các thủ pháp kết ấn của các môn phái khác sẽ làm khí di chuyển ngược chiều gây ra biến chứng sai lệnh, kết thủ ấn là pháp bí mật không được tiết lộ và tập luyện một cách tùy tiện, hiện nay thì tôi chưa hướng dẫn cách các bạn kết thủ ấn thế nào, và cả tư thế ngồi bán già hiện nay của các bạn cũng có thể thực hiện tự nhiên thoải mái, cảm thấy thuận chân nào thì thực hiện bán già chân đó , thậm chí là đổi chiều cũng không sao cả, khi các bạn tu luyện lên cao hơn, đã được hướng dẫn kết thủ ấn rồi thì mới phải tuân theo quy tắt nam tả nữ hữu.Một điều nữa là không được cong lưỡi là tuyệt đối tuân theo,vì hiện nay tôi quan sát trong diễn đàn có người đang dạy các bạn cong lưỡi và kết ấn làm khí chạy ngược, nếu điều này được pha trộn với CTNC thì sẽ rất tai hại.
    -tu luyện hướng đến dương khí thì sẽ ít thấy mộng mị, không bao giờ gặp ma quỷ, các công pháp nào mà khiến người tu tập thấy những điều trên thuộc về tà pháp.
    - về tư thế thiền định hiện nay thì cách dễ dàng giúp các bạn nhập định nhất là sau khi CTNC thì bỏ hai tay ra đặt xuống hai bên đùi, lòng bàn tay mở ra úp xuống đùi, mắt nhìn hướng xuống dưới.
    Xin các bạn chú ý: các bạn tập CTNC thì tuyệt đối không được kết ấn tuỳ tiện, có một số loại thủ ấn chỉ được dùng cho bậc giác ngộ , không dùng được cho người thường, bởi vì sự vận hành khí của bậc giác ngộ và người thường không giống nhau, hơn nữa là đối với các bạn mới nhập môn chưa nên quan tâm đến kết ấn, hệ thống kinh mạch của các bạn chưa thông suốt thì các bạn không thể nhận được tác dụng nào của việc kết ấn mà ngược lại sẽ làm các bạn khó nhập định hơn.
    Như ấn định tâm, định pháp giới giống ấn vẽ hình Đức Phật ngồi thiền (hai tay xếp chồng lên nhau, hai đầu ngón cái đụng nhau), loại ấn này của Phật không còn đặc tính Âm Dương, trong khi người thường thì còn Âm Dương.

    Hỏi: Qua mấy hôm tập CTNC, em thấy có mấy triệu chứng như sau:
    -Khi đã hít đầy không khí, nếu cố hít thêm vào thì em thấy phần bụng và đầu rung rất mạnh. Sau khi hết một hiệp, lúc thở ra thì thấy trong tai như có tiếng ve đồng thời đôi khi có tiếng kêu "lách tách".
    -Cũng có lúc ở phía sau lưng, từ phần thắt lưng trở xuống em có cảm giác man mát - như có gió nhẹ vậy, nhưng chỉ có ở phía dưới chứ không chạy dọc sống lưng như mọi người.
    -Hiện tượng tê mặt và đầu em cũng gặp nhưng thường thì phải làm CTNC đến hiệp thứ 5,6 thì mới thấy.
    - Mấy buổi đầu tiên thì mồ hôi hay toát ra phía sau lưng, còn hiện tại thì lại hay ở trán
    Đáp: chào bạn
    -tai nghe thấy tiếng ''lách tách'' là khớp xương trên đầu đang mở ra, đó là hiện tương tốt.
    -chỉ thấy gió mát ở dưới lưng là chân khí đã tiến lên mênh môn.
    -tê trên đầu mặt là các kinh mạch trên đầu đang khai thông, về sau nó chạy rần rần trên đầu trong khoảng một tháng thì sẽ hết, sau đó nhắm mắt thường thấy ánh sáng.
    -mồ hôi toát ở chỗ nào là chỗ đó có trược khí đang bị đẩy ra.

    Hỏi: Anh huyenquangtu có thể nói cho em biết sự khác nhau về lợi ích giữa tập CTNC vào đêm và ngày không ạ? Mỗi khi em hít vào lúc căng rồi chỉ thấy hơi tức ở chỗ mỏ ác, còn khi làm xong cũng không thấy có biểu hiện gì đặc biệt như mọi người ở đây cả
    Đáp: luyện công chú trọng vào giờ tí, vì khi đó chân khí đến tang thận, các khiếu huyệt vĩ lư, mệnh môn rất dễ khai mở, CTNC đem tốn phong xuống mở mệnh môn, lại nhân thời cơ cửa mệnh môn mở sẵn thì rất dễ thông qua, sau khi các cửa này mở hẳn ra thì CTNC vào giờ nào cũng được.

    Hỏi: Xin hỏi HuyenQuangTu mấy điểm:
    1. Tập CTNC có quan trọng hướng ngồi không? Tôi tập mặt Tây, lưng Đông có ảnh hưởng gì không?
    2. Một hai hôm nay khi tập có hiện tượng sau: đến gần cuối giai đoạn hít vào thì cảm giác có gió mát thổi vào mũi, từng chập một. Không hiểu tín hiệu này tốt hay xấu.
    Đáp:chào bạn
    1.Tập CTNC thì không quan trọng về hứơng ngồi, nhưng để thuận theo phương hướng thì trước mặt là phương nam, sau lưng là phương bắc vậy nên quay mặt theo hướng nam là đúng nhất.
    2.thấy gió mát thổi vào mũi, thông xuống vòm miệng là hiện tượng tốt, các khiếu huyệt dọc theo sống mũi của bạn đã khai thông.

    Hỏi: Kính chào Huyền Quang Tử,
    Như đã nói ở bài post trước, đến nay hiện tượng nóng lên của tôi ngày càng rõ rệt hơn. Mỗi khi hít vào (chưa cần đến lúc khí đã đầy), người tôi nhất là phía sau lưng, cổ và đầu đã tràn ngập hơi nóng. Thậm chí có lúc cảm tưởng hơi nóng thoát ra ở gan bàn chân phải (bàn chân phải đặt ở phía trên). Tôi cảm thấy khá lo ngại vì triệu chứng của mình khác với mọi người, không biết có phải đã tập sai ở đâu không?
    Đáp:những dấu hiệu của bạn đều tốt, bạn không phải lo sợ thoát dương khí , vì dương khí chỉ bị thoát một cách duy nhất theo đường sinh dục mà thôi, cơ thể chúng ta ở phần bên ngoài được bao bọc bởi khí âm có tác dụng bao bọc và giữ dương khí, chỉ khi nào về già, các khí âm bị tan rã thì dương khí mới thoát mất.

    Hỏi: Tôi chưa bao giờ tập khí công cả nên có một số điều muốn hỏi :
    1. Thở bụng kiểu nghịch: Trong lúc thở tôi cố gắng thót bụng dưới thì cảm thấy phần trên của bụng không phình ra được mà ngực lại có xu hướng phình ra. Ngoài ra, bạn có nói đến việc khi đã hít vào gần đến cực điểm thì không khí trong người bị đẩy ra ngoài. Như vậy cụ thể là đẩy ra ở chỗ nào? Nếu đẩy ra theo đường mũi, miệng thì lúc đó không khí vừa vào vừa ra à?
    2. Mọi người có nói đến việc sau khi thực hiện CTNC thì "thiền nhập định". Mình không hiểu khái niệm này, bạn giải thích giúp được không?
    TKA: Mình cũng mới tập CTNC như các bạn thôi, như mình thấy thì chỉ việc thót bụng lại hít vào, còn chỗ nào phình ra cứ để cho nó tự nhiên, ko cần chú ý đến. Khi hít đầy thì không khí sẽ tự bật ra rất nhanh, còn chưa đầy thì chưa phụt ra. Bạn cứ hít vào thật đầy rồi sẽ biết, tả rõ thì cũng ko hình dung được.
    Bạn cũng ko cần quan tâm là thiền thế nào, nhập định ra sao, khi nào bạn làm CTNC hiệu quả, thì sẽ tự nhiên đi vào trạng thái vắng lặng, lúc đó cứ ngồi yên thả lỏng mà hưởng thụ trạng thái đó. Đó là nhập thiền một cách tự nhiên, không cần nhiếp tâm tập trung tư tưởng như các cách thiền bình thường. Số lần CTNC càng nhiều thì trạng thái vắng lặng càng sâu. Vài lần đầu thì chỉ sâu đến mức "mất cơ thể", 2-3 lần cuối sẽ mất cả thần thức, nhưng vẫn tỉnh biết.
    Bạn có thể dễ dàng nhập thiền sâu như vậy, nếu thực hiện CTNC hiệu quả.

    Hỏi: Em tập CTNC cũng được một thời gian rồi,tuy ngắn thôi nhưng cũng đã thấy một số dấu hiệu tốt,nhưng sao giờ cảm giác nhúc nhíc và nóng ở bụng dưới của em không có nữa,chỉ có hôm nọ đi đường lạnh mà em mặc ít áo thì tự nhiên thấy nóng rẫy một cách bất ngờ ở phần bụng dưới rồi lan lên ngực,sau đó ra phần lưng ở đối diện bụng dưới tiếp theo lan dần ra khắp lưng nhưng càng lan ra thì cảm giác nóng ở bụng dưới càng giảm,ko còn kiểu nóng nhói lên mà chỉ còn ấm ấm thôi,tuy nhiên thì cảm giác nóng đó ko lan lên mặt,đầu và 2 bàn chân em,em thấy kỳ kỳ nên muốn hỏi một chút, như thế là sao ạ.
    Đáp: mấy hôm nay tôi rất bận nên không có thời gian trả lời thắc mắc của các bạn kịp thời, nói chung các hiện tượng các bạn nêu ra là tốt, , đối với các bạn có điều kiện sinh sống ở nơi có thời tiết lạnh thì tập CTNC rất tốt, khi thời tiết lạnh thì dương khí trong cơ thể sẽ tự nhiên vận hành để bảo vệ cơ thể chống lại hàn khí, nên tác dụng của CTNC càng rõ rệt, trường hợp của bạn là do một lượng dương khí tích trữ ở đan điền đã thông sang mạch đốc và một số kinh mạch do bẩm sinh bị thiếu dương khí nay đã được bổ sung( khí tích trữ ở đan điền có xu hướng sử dụng cho hoạt động sinh dục đã được chuyển hoá cho cơ thể)

    Hỏi: Hai hôm nay có hiện tượng cơ thể tự động rung lắc liên hồi một cách tự nhiên xin hỏi có ai gặp trường hợp này chưa ?
    Đáp:bạn có nhiều dương khí , nhưng hệ kinh mạch thì lại bế tắc nhiều, khi CTNC dương khí xông vào nơi bế tắc quá mạnh dẫn đến hiện tượng rung lắc, một thời gian sau thông suốt rồi thì sẽ hết.

    Hỏi: Hiện giờ em có một số hiện tượng như sau:
    - Khi tập CTNC thì cảm giác nóng đã lan lên tới phía sau gáy, nhưng chỉ tới chỗ xương lồi ra sau đầu là dừng, ko lên được típ , ngoài ra thì phía trước ngực cũng rất nóng nhưng cảm giác nóng trước ngực thường tập trung từ vùng trung đan điền rồi lan ra dọc theo hai bên sườn .
    - Khi thiền thì phía trán, nhất là ấn đường thấy nóng, nặng và sống mũi cảm thấy rất tức như có gì ở trong muốn bung ra
    Đáp: Cảm giác nặng như muốn bung ra ở sống mũi là do tập luyện thanh lọc tốt, một phần khí âm ở nê hoàn bị đẩy xuống chưa thoát hẳn ra ngoài, thông rồi sẽ thấy đầu óc nhẹ nhõm, thông minh

    Hỏi: em có một điều này thắc mắc từ lâu nhưng hôm nay mới dám hỏi,đó là sư huynh Huyen Quang Tu đã từng nhắc nhở rằng tập CTNC thì ko nên cầu hiện tượng mà nên cầu nhập định và các hiện tượng theo thời gian sẽ mất dần,nhưng bản thân em thì cứ tập 1 thời gian lại xuất hiện một hiện tượng khác lạ,có cái thì nhỏ nhỏ,chỉ 1,2 hôm là biến mất,cũng có hiện tượng phải 5,6 ngày mới biến mất,hiện giờ thì trong mỗi hiệp em đều thấy bên người trái ớn lạnh và rùng mình,cảm giác ớn lạnh chạy từ phía sau vai trái xuống tay trái và dừng ở đó,thỉnh thoảng thì thấy đầu các ngón tay hơi tê tê,em gặp hiện tượng này đã 4 ngày nay,ko hiểu đây là hiện tượng gì ạ ?
    Đáp:Trong tu luyện quan trọng nhất là mạch đốc và hai đường mạch thông ra hai cánh tay, theo quy tắc nam tả nữ hữu thì đối với nam, chân khí khi tiến lên theo mạch đốc sẽ có nhánh rẽ ra hai tay , trong đó đường kinh mạch ra tay trái sẽ lớn hơn tay phải, ở nữ thì ngược lại.Cho nên, khi CTNC sẽ thường thấy hiện tượng có tín hiệu thần kinh lan truyền chủ yếu là cột sống và hai cánh tay. Thông thường tín hiệu lan truyền theo chu kỳ cứ khoảng vài giây thì lan truyền từ một điểm A tới B hoặc là vào một giờ nhất định thì lan truyền, có thể lấy lông tóc dựng đứng, tín hiệu này rất tốt, chứng tỏ kinh mạch đang khai thông hoặc là cơ thể đang tiếp tế chân khí vào kinh mạch, sau một thời gian thì hiện tượng sẽ giảm và hết, không có gì phải lo ngại cả.

    Hỏi: Hiện nay khi em tập NC, tập xong 1 hiệp thì bị nghẹt mũi nhẹ. Xin hỏi mấy sư huynh có bị vậy không?
    Đáp: Tập nội công sẽ hấp thu một phần địa khí sẽ vào đầu, do đó nó làm ngạt mũi tạm thời, ở một số người thấy nhức đầu tức là cấu tạo não không thoáng làm địa khí khó thoát ra thì không nên tập nội công, NC là bài tập phụ trợ không bắt buộc tập thường xuyên, có thể tập khi nào thấy người có vẻ sắp bệnh như trúng gió, sổ mũi, thời thiết thay đổi thì có tác dụng đẩy lui bệnh rất nhanh.


    NHỮNG SAI LẦM TRONG KHÍ CÔNG HIỆN ĐẠI
    Chào các bạn, có dịp tôi sẽ trình bày về những sai lầm hay có thể là những điểm bí mật không được phép phổ biến công khai trong khí công dẫn đến ngày nay người tập khí công tuy nhiều mà thành công không có bao nhiêu, phần nhiều những người thành công được là do ngộ tính rất cao được thần minh chỉ bảo mà phát hiện ra công pháp, nếu bạn không cho rằng việc tu luyện là nghiệp suốt đời thì không bao giờ được khai ngộ, rốt cuộc sẽ sa vào bàng môn tả đạo mà thôi.
    Chào các bạn, phải chân thật khẳng định rằng công phu chân chính không bao giờ có trong sách vở cổ kim, các bạn đang luyện bất kỳ môn công phu nào được rút từ sách vở ra hoặc là do được thầy truyền dạy mà thấy trùng hợp công pháp trong sách (bao gồm cả khí công, nhân điện, năng lượng sinh học,yoga..) thì nên biết đã luyện sai rồi, ý thủ đan điền lâu ngày thì đảm bảo sẽ mang bệnh đó, đau các dây thần kinh sau lưng và chân, lời thật mất lòng, không biết các bạn còn muốn nghe lời khó nghe nữa không?
    Huyền quang tử xin trích dẫn nguyên văn một vài sách cổ để minh chứng cho lời cuồng ngôn của mình nhé
    sách ''tính mệnh khuê chỉ'' , phần ''chính tà thuyết'' viết rằng:
    ''Ngày nay những người học đạo, đội mũ cao, mặc bào vuông, tự mãn, tự túc, không chịu hạ mình đến xin thầy ta chỉ cho thứ tự tu trì, như mù lại giắt mù, chạy vào đường ngang ngõ tắt, há chẳng biết đại pháp có 3600 thứ, với 24 phẩm đại đơn, tất cả đều là bàng môn, chỉ có đạo kim đơn này mới là tu hành chính lộ, trừ đạo này ra, không có đường nào khác để thành tiên thành phật
    Chung Ly Quyền nói: đạo pháp ba nghìn sáu trăm môn; mỗi người nắm được một miêu côn; hay đâu là khiếu huyền quang đó; không thấy có trong 3600 môn.

    Vì đại đạo huyền quang khó gặp dễ thành, bàng môn tiểu thuật thì dễ học khó thành. Cho nên những kẻ hiếu sắc tham tài thường thường mê muội và chẳng giác ngộ.
    Trong đó có số người thích lô hoả ( luyện ngoại đơn hoàng bạch hay kim ngọc), có số người lại thích nữ sắc để thái âm hộ dương, có người chuyên ngó đỉnh môn(thượng đơn điền), có người chuyên giữ gốc rốn, có người chuyển vận đôi mắt để luyện công, có số người chuyên trì thủ ấn đường, có số người chuyên chà xát vành rốn, có người thích lắc giáp tích, có người thích xoa bóp ngoại thận để tồn thần dưỡng khí, có người thích vận chuyển chân khí, có người thích dùng gái trinh để thái âm, có người thích bú sữa tại phòng trung, có người thích bế tức hành khí, có người ưa co duỗi để hành khí, có người thích vận động tam đan điền, có người thích hóp bụng co hậu môn để khỏi mất tinh(thở nghịch), có người thích hơ lưng nằm tuyết để tu luyện, có người thích ăn linh chi và bạch truật, có người thích thôn khí yết tân( nuốt nước miêng, có người thích nội quan tồn tưởng(quán tưởng), có người thích hưu lương tịch cốc, có người chịu lạnh và ăn bẩn, có người thích ban tinh vận khí, có người nhìn mũi điều hoà hơi thở, có người bỏ vợ vào núi, có người định quan giám hình, có người hùng kinh điểu thân ( tập ngũ cầm hí), có người nuốt sương và thực khí, có người chuyên ngồi không nằm, có người lo trừ thất tình, tảo trừ tạp niệm, có người thiển định bất ngữ, có người trai giới đoạn vị, có người thích mộng du tiên cảnh, có người yên lặng chầu về thượng đế, có người luyện mật chú trừ tà, có người luyện kiến văn chuyển tụng, có người ăn tinh khí mình để hoàn nguyên, có người bế huyệt vĩ lư để khép đóng dương quan, có người nấu luyện tiểu tiện gọi là thu thực, có người thu kinh nguyệt đàn bà mà họ gọi là hồng diên, có người luyện chế nhau người làm tử hà xa để làm thuốc cường dương, có người dùng chân khí để thông kinh hành khí, trợ giúp cho việc vợ chồng, có người nhắm mắt minh tâm để luyện bát đoạn cẩm, có người thổ cố nạp tân dùng hư ha hô hi suy, có người chuyên diện bích có chí muốn hàng long, phục hổ(đem nguyên thần xuống hạ đơn điền để phát động thận khí), có người tập khinh công để đạp gió cưỡi rồng, có người muốn hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, có người ưa đạp cương lý đẩu để xem sao, có người nương theo các quẻ truân mông để luyện hoả hầu, có người luyện thuật kim ngân hoàng bạch, thiêu mao lộng hoả, có người mong trường sinh bất tử, có người muốn bạch nhật siêu thăng lên trời, có người chấp sắc tướng không muốn hoá, có người tu trì hư tĩnh cho khí tán không trở lại ( thiền định), có người giữ giới định tuệ để mong giải thoát, có người muốn trử sân si để cầu thanh tĩnh, có người khi còn sống mà muốn siêu thăng tây vực phật giới, có người nguệyn lên thiên đường khi chết......phân phân loạn loạn như vậy không sao kể xiết.
    Có nhiều người theo đạo theo Thích, chỉ theo một thuật một quyết như vậy, mà cho đó là kim đơn đại đạo, ô hô, họ như bọn quản trung thiết báo(dùng ống quản mà xem beo), đáy giếng nhìn trời, quấy dẫn trăm mối, chi ly vạn trạng, đem chí đạo phá đoạn phân môn, lấy mê dắt mê, manh tu hạt luyện, dẫn người vào đừơng tà.''
    Sách ''tham đồng khế trực chỉ tiên chú'' viết rằng:


    "Thị phi sách còn ghi
    có kẻ thích nội quan
    chân bước theo khôi cương
    lại thích luyện lục giáp
    có người luyện phòng trung
    chín nông, một lần sâu
    có người vận hô hấp
    có người tu luyệt lương
    ngày đêm không chịu nằm
    suốt tháng không ngừng nghỉ
    thân thể yếu mòn dần
    hoảng hốt như điên cuồng
    tạng phủ muốn sôi lên
    lòng không được thanh thản
    có người thích lập đàn
    sáng chiều lo tế tự
    bè bạn cùng ma quỷ
    những muốn được trường sinh
    đi sai ngược đường trời
    thân hình sẽ hủ hoại
    tà thuật có rất nhiều
    đều ngược với hoàng lão
    rốt cuộc sẽ tử vong
    người hay biết yếu chĩ
    sẽ hiểu rõ đầu đuôi


    Người học đạo thời nay, không gặp được chân sư, nên chạy vào bàng môn, có người thì định tâm chỉ niệm, tập nội quan, có người thì bước theo sao bắc đẩu và luyện lục giáp, có ngừơi theo tà thuật cửu nhất, có người thì vận hô hấp, có người thì tuyệt lương, có người thì ngày đêm không nằm, lúc nào tinh thần cũng hoảng hốt như điên cuồng, có người thì tí ngọ hành khí, làm cho bách mạch như sôi lên vậy, có người đáp đất lập đàn bè bạn cùng ma
    Những người như vậy lập ra nhiều chuyện, đi ngược đại đạo, mong được trường sinh mà trái lại làm cho mình bị thương tổn, tự chuốc lấy tai họa của cửu đô, những người đó há không biết thế gian còn có thất phản cửu hoàn, kim dịch hoàn đơn chi đạo, có thể biến nữ thành nam, cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử hay sao? Nếu có bậc minh triết chí sĩ, lại gặp được chân sư và biết được yếu chỉ của đại đạo, thì sẽ biết rằng đạo tu chân không ở trong 3600 pháp môn tà đạo vậy"
    Đoạn khác lại viết rằng:
    "khi thần minh muốn dạy người
    thì tâm linh sẽ tự ngộ
    hãy tìm cho ra manh mối
    sẽ thấy rành cửa ngõ
    Thiên đạo vô tư, thường tryền cho các bậc hiền tài, vì đạo là điều quý báu của trời đất, không phải người đại trung đại hiếu thời không truyền, không phải đại đức, đại hạnh thời không trao. Nếu quả là người hiền đức thì có bao giờ lại không chịu truyền trao?"
    Huyenquangtu tham gia diễn đàn với mục đích là chỉ ra các sai lầm trong khí công hiện đại và hé mở chút kiến thức về nhập môn tu luyện chân chính, không có ý định post sách vào đây, mà chỉ trích dẩn những gì cần thiết mà thôi , thực sự ngay cả ''tính mệnh khuê chỉ'' một cuốn sách tổng hợp đầy đủ nhất về luyện kim đan cũng chỉ hé mở chút ít cho người có duyên, chứ không hề chỉ dẫn bí mật tu luyện thế nào
    khi thần minh muốn dạy người
    thì tâm linh sẽ tự ngộ
    Đạo pháp chân thật thì giản dị, không phức tạp như nhửng gì đã nói trong sách khí công ngày nay, khi tỉnh ngộ thì giật mình nhìn lại, quả là không có trong 3600 môn pháp ở thế gian..cửa ngỏ nhập môn của khí công tu luyện chính là huyền quan khiếu, nếu không biết nó thì nguyên khí không thể vào ra, thánh nhân khi hít thở thì thông khiếu huyền quan thấu suốt đan điền, đan điền có khí hay không là nhờ ở khiếu huyền quan, chứ không phải là do tinh hoá khí, khiếu huyền quan là then chốt của tu luyện đời đời.
    Sách ''châu dịch xiển chơn'' phần ''trung đồ'' viết rằng:
    "..... Một chữ trung này, sau như trước, là việc quan trọng nhất của kẻ tu hành trúc cơ tại đó, thể dược tại đó, phanh luyện tại đó, ôn dưỡng tại đó, tiến đơn tại đó,thối âm tại đó, kết đơn tại đó,thoát đơn tại đó.Trong phép thất phản cửu hoàn, chẳng có việc gì mà không ở tại đó.
    nhưng chữ Trung nhày người không dễ thấy, cũng không dễ biết, chẵng khá dùng hữu tâm mà cầu, chẳng khá lấy vô tâm mà giữ.
    hữu tâm mà cầu nó thì ngã về nẻo sắc tướng, vô tâm mà gồm nó thì đoạ vào chỗ lặng không, cả hai đều chẳng phải là trung đạo, là ngôi trung chơn chánh.
    Nó chẳng phải có, chẳng phải không, mà tức có tức không, nó chẳng phải sắc chẳng phải không mà tức sắc tức không.
    Nó chẳng chênh lệch theo mặt nào, phải cầu nó trong cảnh hoảng hốt, phải tìm nó trong chỗ yểu minh, mới là mong gặp được nó.
    Thiên hạ học đạo mà chẳng biết chữ trung này là vật gì hoặc gọi là huyệt huỳnh đình hoặc gọi là huệyt thiên cốc hoặc gọi là huyệt bá hội hoặc gọi là giáng cung hoặc gọi là minh đường hoặc gọi là yết hầu hoặc gọi là khoảng giữ hai thận.
    Họ nắm giữ huyệt khiếu ở trong huyễn thân, mà gọi là ''bảo trung thủ nhất''.họ mong đặng trường sinh,mà chẳng những không đặng sống lâu, lại còn chết gấp là khác, buồn thay....."
    Phần ''kim đơn đồ'' lại viết rằng:
    ".....Kẻ thế không rõ kim đơn là việc gì, là vật chi, nên độ chừng nó ở trong thân thể có hình có dạng của ta đây, hoặc tưởng nó là loài kim loài đá luyện thành hoặc tưởng nó là khí huyệt của con trai con gái kết nên hoặc tưởng nó là cái tâm giao cùng cái thận mà đọng kết lại hoặc tưởng nó là do tinh thần quy tụ mà có hoặc cho nó ở tạo đơn điền, khí hải hoặc cho nó ở huỳnh đình, nê hoàn hoặc cho nó ở minh đường, ngọc chẩm hoặc cho nó ở khoảng giữa hai thận.
    Những điều sai lầm như thế, không sao kể xiết, đều là chuyện đưa gạch mà gạt là ngói, nhìn giả mà gọi là chân. cho nên nói: người học đạo như lông trâu, còn kẻ thành đạo như sừng lân là vậy....."
    Năm 1997, NXB Mũi Cà Mau có ấn hành cuốn ''Khí đạo'' của tác giả Lục Lưu, một khí công sư Trung Hoa đắc chân truyền của thái cực môn có nhiều nhận định rất chính xác, phần ''sai lệnh khi luyện khí công'' viết rằng:
    * Khả năng sai lệnh:
    - Tu sơ cấp khí tụ như kênh lạch, sai lệch vô hại
    - Tu trung cấp khí tụ như sông hồ, sai lệch ít di hại
    - Tu cao cấp khí tụ như biển cả, sai lệch có hại
    Giải thích (Lục Lưu): luyện khí như tụ nước, lúc đầu còn vơi, rót vào thoải mái không sao.Đến mức lưng lửng đã phải chú ý. Khi nước đã cao, sông đã quá đầy thì thành tai họa lụt lội, đến lúc đó mới xảy ra sai lệch đáng kể...
    * Phân biệt công pháp chân thật:
    - Quyết pháp không thấy trong sách cổ kim
    - Công pháp chân thật không giống với những gì viết trong sách cổ kim
    Giải thích: Tất cả những gì xưa nay đã công bố ra cho công chúng đều là nền tảng của pháp phổ truyền.Tất cả những gì thuộc về bí pháp của các đại tông phái đều không công bố rõ cho đời nên dù có sao chép được cũng khó mà biết được.
    ùng cách này soi vào nội hàm của các công pháp thì phát hiện được ngay dấu vết của việc sao chép, thật giả sẽ được phân biệt.
    Phần sai về" ý thủ đan điền" viết:
    * Lò lửa lư đỉnh đan điền:
    - Lò lửa: chỗ bắc bếp nổi lửa, lò lửa có vị trí xác định
    - Đan điền: chỗ lạc hoàng kết thành đan, đan điền không có vị trí xác định
    Giải thích: Ngày nay nhiều người cho rằng tập trung ý niệm vào bụng dưới là "ý thủ đan điền" đó là một quan nệm rất sai lầm? Ở bụng dưới đó chỉ là chỗ "bắc bếp nổi lửa", cần có "phi đan", "lạc hoàng", rồi khi ấy mới có thể định vị đan điền được.Nay đan vẫn chưa ló ra, làm sao có đan điền được.
    * Chỗ bắc lò nổi lửa:
    - Không phải là kết cấu thực thể, chẳng rơi vào cảm xúc bên ngoài
    - Trước thận sau rốn, dưới ly trên khảm
    giải thích ngày nay mọi người lấy một điểm nào đó ở mặt da rồi cho đó là nơi thủ khiếu, thật là sai lầm lớn! tiếp xúc của con người vốn ở mặt ngoài của da, nếu thủ ý như vậy càng làm cho khí thường tụ đến mặt da, tiết ra ngoài mà hao tổn dần.Tu vốn là việc tụ khí để tăng tinh, vì sao lại tự mở đập chắn để xả nước?
    * Cái mất của thủ khiếu:
    - Thủ ý tiếp xúc ở bên ngoài sẽ tạo ra khai khiếu phóng khí
    - Tụ hoả nhiệt thì lửa bừng lên tiêu hao hết khí
    giải thích:"thủ ý đan điền" lúc cảm thấy nóng, lúc cảm thấy lạnh, lúc thấy khí hành, lúc không thấy, khí tụ thì nóng, khí trệ thì lạnh tụ nhiều thì thấy trôi chảy dào dạt, thoát ra thì mất. Vì vậy có người thủ khiếu đến hàng chục năm mà vẫn không có công phu. nay xin vạch rõ để uốn nắn, người luyện công pháp này cần hết sức tránh phạm sai lầm đó!
    Cái sai của việc "lấy ý lĩnh khí":
    * Quy luật vận hành của khí":
    - Khí thịnh thì tự vận hành nếu khí không vận hành thì dẫn nó phỏng có ích gì?
    - Khí vận hành hợp với đường của nó, có đường rồi còn đặt thêm đường vào đâu nữa?
    Giải thích: Khí vận hành một cách tự nhiên, hình thành trước sau, chủ thứ, hướng đi thuận nghịch, cần chi phải dẫn dắt nó để phạm đến tính tự nhiên của khí?
    * Sai lầm của việc đạo dẫn khí:
    - Lấy mạch của ý gia thay cho mạch tu vận hành chắc phải sai
    - Biến khí nội tu thành khí ngoại tản, tu chính khí không thành!
    Giải thích: vòng vận hành của khí đều có đường đi riêng của mình, mạch của đông y là mạch sinh lý bệnh lý, mạch của phật, đạo là mạch công lý tu lý, nguồn cội của chúng hoàn toàn khác nhau, không thể lẫn lộn. Khí của con người thường phát tán ra ngoài, nên cần phải luyện tu, khiến cho khí quy trở bvề tụ ở giữa, nay lại dẫn khí tuần h2nh theo mạch y học mà đưa ra bề ngoài, há chẳng phải là tự làm hao mất khí đã tụ hay sao? vậy ai còn nói theo cái sai đó, thì nên sửa ngay đi!
    * Dẫn khí bị mất:
    - Khí không đủ mà dẩn sẽ bị hư dương manh động
    - Khí thinh tụ m2 dẫn thì sẽ bị hao tản ra ngoài
    - Khí tĩnh ở trong mà dẫn thì sẽ làm loạn cơ chế khí
    Giải thích: vốn dĩ khí đang tĩnh mà lại dẫn bửa đi, sẽ làm cho khí bị nhiễu loạn, huống hồ còn nỗi lo, khí bị tiêu hao, tản ra ngoài?
    * Dẫn bừa nên gây ra bách bậnh:
    - Khí không tuân theo đường đi chính thường mà đi ngược ngịch
    - Khí không chạy theo đường của nó mà cướp đường đi chéo
    - Khí dẫn bừa vào chổ bí kết đút nút lại
    * Ba thuyết chu thiên:
    - Phù dương chu thiên: vòng vận hành chỉ trên phần ngoài (biểu), là ngụy(giả) chu thiên
    - Thần khí chu thiên: vòng vận hành lưỡng nghi, là tiểu chu thiên
    - Nguyên thần chu thiên: vòng vận hành tam giới - đại chu thiên
    Giải thích: Ngày nay người ta thường lấy noãn khí phù dương tuần hành trên mặt da, chỉ vận hành nổi theo mạch nhâm đốc của y gia, mà gọi là đại tiểu chu thiên, sai lầm quá lắm.
    * Cái mất của vòng vận hành nổi (phù chu)
    - Lấy ý dẩn khí phạm vào tính tự nhiên.
    - Nội hkí ngoại dẫn, phạm vào hoà âm dương.
    - Do con người tuần kinh vận hành, lấy mạch của y gia thay cho mạch tu đạo.
    Giải thích: Pháp ý thủ hạ nguyên để "bắc lò nổi lửa" là giai đoạn ban đầu xây dựng nền móng của đan đạo môn, lúc này khí phù dương ít tụ mà thường tuần vận.Tuy vậy chuyện khí phù dương thông suốt dồi dào chỉ mang tính nhất thời, cần phải dẫn chúng quy trở về, chớ có dẫn vận làm chúng hao tán mất, tự mình phải biết mà bớt lửa lò! người đời nay không hiểu rõ lý này, khi hkí phù dương mới động đã dẫn hoả vận hành theo đường tròn, còn tự cho đó là "đại tiểu chu thiên". chao ôi, thật ngu lắm! những ai mới học cần chú ý phân biệt!
    * Phù dương thông biểu:
    - Một là bị hao tán
    - Hai là trở ngại đối với việc tu
    - Ba là khó bảo toàn
    - Bốn là khó chữa bệnh
    Giải thích: vòng vận hành của khí phù dương, đối với lĩnh vực tu hành không được tính là nhập môn, đối với công phu không được coi là có trình độ. Cái chính là giữ cái hoà của việc thông biểu. cách làm này khó duy trì được lâu, cần tránh sa vào sai lầm này!
    * Tu và động tác:
    - Hễ do nội khí dẫn động tạo ra động tác thì đều gọi là tu luyện
    - Hễ do con người tạo tác ra động tác thì đều không gọi là tu luyện!
    Giải thích: có tu nên mới có tư thế ngoại động, thì tư thế đó chính là tư thế tu, những tư thế của người không tu, chỉ là tư thế bình thường! cho nên tu với không tu, là do bên trong chứ không phải do bên ngoài. Ngày nay người đời thường chấp vào động tác khí công, đúng là bỏ gốc lấy ngọn, bởi vì họ chưa biết vận động vốn không phải là lối tu chân chính của khí công! than ôi, giới nhân sĩ khí công thời nay, mỗi khi soạn động tác, đều đưa thuyết " ý thủ đan điền", "lưỡi chống lên vòm hàm trên", "lấy ý lĩnh khí","đại tiểu chu thiên","động công", "tĩnh công", rồi tự sáng tác công pháp, viết thành sách tung ra cho đời, chỉ đạo tập luyện. Ôi chao! nếu gọi đấy là khí công tu chân thì làm sao mà lại không đạt kết quả? nếu đúng như họ nói thì nhày múa ca hát, ăn mặc đi lại đều là công pháp cả ư! Khí công đến mức này đúng là lạm phát quá quẩn.

    HỎI - ĐÁP VỀ NHỮNG SAI LẦM TRONG KHÍ CÔNG HIỆN ĐẠI
    laido hỏi: Kính chào bác Huyenquangtu! Đọc những phần bác viết ở trên, quả thật không biết đâu mà lần. Đúng là có duyên sẽ gặp, vô duyên trước mặt cũng chẳng thấy đâu.
    Thưa Bác! Trong KHí công thì nói rằng dùng ý dẫn khí đi theo vòng (Chu thiên), chiều của nó là dương trưởng, âm tiêu. Nhưng trong Năng lượng trường sinh học thì âm trưởng, dương tiêu, mỗi sách giải thích một khác. Vậy cái nào đúng, cái nào sai? Hay cả hai cái đều sai? Laido khong hiểu mong Bác giải thích giúp.
    Xin chân thành cảm ơn bác.
    huyenquangtu trả lời: Tu luyện khí công phải biết phân biệt hai thứ khí là thiên khí và địa khí, cách vận hành của chúng khác nhau xa lắm, ngày nay các môn nhân địên dạy người ta mở luân xa thu khí chính là địa khí mà thôi, thứ khí này không có tác dụng về mặt dưỡng sinh, không thể cải lảo hoàn đồng, sự vận hành của nó nằm bên ngoài cơ thể, cấu tạo thành các lớp năng lượng, có lẽ môn nhân điện gọi địa khí là năng lượng sinh học là có thể chấp nhận được. Thiên khí được hấp thu qua khiếu huyền quan, còn được gọi là hư vô huyệt, huyệt này rất bí mật, dẫu cho bậc đại thánh dùng con mắt huệ từ cõi vô hình mà nhìn trộm cũng không thấy được nó, nên có tên là huyệt hư vô là vậy, thiên khí này mới là thứ khí thực sự được nói tới trong khí công,nó chính là tiên thiên khí,là thứ khí được bẩm thụ khi còn trong bào thai, có thể cải lão hoàn đồng, giúp người trường sinh, tu thành tiên phật, thiên khí này chu lưu bên trong kinh mạch của thân thể. Môn nhân điện vận hành năng lượng đi theo mạch nhâm từ dưới lên là đúng bãn chất của địa khí vốn được hấp thu từ dưới đất đi lện
    môn khí công thì vận hành tiên thiên khí, từ huyền quang khiếu theo mạch nhâm mà chạy xuống là đúng bản chất vận hành của thiên khí
    nhưng thực sự thì sự vận hành của khí là tự nhiên , khí đầy thì tự vận hành theo đường của nó.

    tienkyanh hỏi: hay quá, mình đang muốn tìm hiểu về vấn đề này. Trước đây có người nhận định :"yếu tiên thiên sẽ không có khả năng phục hồi, vì tiên thiên là thứ chỉ có thể thu được từ trước khi sinh ra, sau khi sinh ra rồi thì có luyện gì cũng vẫn chỉ là hậu thiên, vậy đã sinh ra rồi thì không có cách nào sử dụng được tiên thiên...".
    Vậy như HQT nói, thì thông qua vô vi khiếu có thể thu được tiên thiên khí, tức là có thể phục hồi nhược điểm từ khi còn là mầm phôi của những trường hợp bị yếu tiên thiên?
    huyenquangtu trả lời: Chào bạn tienkyanh Đúng là như vậy, tu luyện khí công là quá trình phục hồi và phát triển khí tiên thiên, cải tạo lại tình trạng bẩm sinh của con người, là quá trình rèn luyện thần khí, tiêu chuẩn để phân biệt một khí công sư với người thường trước hết là sự khác biệt về thần khí, người xưa thường mô tả những người tu luyện khí công là tiên phong đạo cốt, thần khí khác phàm, mắt sáng, nhãn thần mạnh, tiếng nói mạnh...những người tự nhận là khí công sư hoặc chức danh tương tự mà không đạt tiêu chuẩn về thần khí thì không đáng tin, dẫu cho họ có công năng đăc dị đi nữa, về bản chất công năng đặc dị và tiên thiên khí không có quan hệ hai chiều, luyện thành tiên thiên khí thì sẽ phát sinh công năng nhưng có công năng không hẳn là đã luyện thành khí tiên thiên, có nhiều quy luật về luân hồi nhân quả nghiệp báo chi phối điều này.
    Ngay tại Trung Quốc, nơi có số lượng khí công sư đông nhất thế giới nhưng số người thực sự luyện được tiên thiên khí là rất ít, phần nhiều đều là những người có mang theo công năng đặc dị bẩm sinh, rồi tự mình sáng chế công pháp dạy người mà thôi, những thứ công pháp đó chỉ thích hợp với riêng vị đó chứ không thích hợp với tất cả mọi người, thật đáng buồn khi chúng ta đọc tin thấy một khí công sư chuyên phát khí chữa bệnh mà lại chết vì bệnh đứt mạch máu não khi chưa tới tuổi thất thập cổ lai hy, cách đây mười năm tôi thật sự thất vọng khi tham gia lớp học về năng lượng khi thụ giáo với những vị thầy mà thần khí tối tăm lạnh lẻo hơn ngừơi thường, thậm chí có vị chỉ trước sau một năm chữa bệnh cho người mà tóc đen hoá bạc trắng cả đầu...

    tienkyanh hỏi: Nếu vậy thì phép luyện công theo Lữ Tổ bách tự cũng chưa thu được tiên thiên rồi. Vì dạy cụ thể cửa vào huyền quan khiếu và thủ ý chữ Phẩm động đậy. Mà theo gợi ý của HuyenQuangTu thì huyền quan khiếu không có điểm cụ thể....
    huyenquangtu trả lời: chào bạn tienkyanh, hãy suy tửơng về huyền quan khiếu, đến một lúc nào đó cơ duyên sẽ tới , bàng môn vì không biết diệu dụng của huyền quan nên không giác ngộ được. phép tu theo ''thái ất kim hoa tông chỉ'' chỉ ra được chân tác dụng của huyền quan khiếu là thiên tâm, nhưng phần dụng công đã cố ý chỉ dẫn sai, mục đích không gì khác hơn là để người có lợi căn biết rằng trên đời có huyền quan mà không lạc vào con đường sai, có dịp HQT sẽ bàn về vấn đề trên.

    tienkyanh hỏi: Vậy thì chủ trương tính mệnh song tu cũng vẫn là hậu thiên rồi... vì đoạn gợi ý của huyenquangtu cho thấy đã hái được tổ khí thì tự động liễu tính liễu mệnh? Và quan trọng hơn để biết ai đó có nhân duyên tiên thiên hay không là xem sao (phải chăng là chính tinh thủ mệnh?)
    huyenquangtu trả lời: vấn đề hái được tổ khí mới chỉ là nhập môn tu luyện thôi, nhưng cũng từ đây mà liễu tính liễu mệnh, đan kinh tuy viết về tính mệnh nhưng thật giả khó phân, thứ tự công trình cũng bị đảo lộn, người rất thông minh dẫu có đọc được cũng khó hình dung, mặc dù topic chuyên về khí công, nhưng bạn là người có căn khí, tôi sẽ vì bạn mà nói tóm lược công trình tu luyện của tiên thánh, sau này nếu có cơ duyên tôi sẽ nói rõ hơn ở một topic khác. Muốn học được môn cùng lý tận tính chí mệnh thì phải hiểu nhiều danh từ đạo môn, sau phải đọc sách nhiều, phải hiểu được các vấn đề sau:huyền quan khiếu, tiên thiên khí, chân diên,chân hống, ngọc dịch luyện hình,thế nào là hoạt tý thời,nhất dương lai phục, khảm ly giao cấu, nội giao hợp, ngoại giao hợp,kim dịch hoàn đan,kim đan,đến đây gọi là liểu mệnh, tiếp đến là càn khôn giao cấu, trưởng dưỡng thánh thai, từ đây trở đi là tu tính cho đến khi xuất anh nhi, rồi luyện thần hoàn hư, luyện hư hợp đạo là đắc phật quả.

    Summersby hỏi: Tớ chưa hiểu. Đầu óc u tối. Cố ý chỉ sai mà không cho hành giả biết là mình đã cố ý chỉ sai thì có hại nhân, ám toán người ta. Thà rằng chỉ nói cho người có đủ duyên, có đủ căn cơ, chứ không tiết lộ bừa bãi --> nghe còn có lý. Biết là bị thầy chỉ sai (dù là vô tâm hay hữu tâm), thì đâu có dại mà theo. Sai 1 ly, di 1 dặm. Vấn đề đau đầu làm thế nào biết mình đã bị chỉ sai. Đọc truyện Kiếm hiệp Kim dung (quên mất tên rồi) có môn phái luyện kiếm, thầy toàn cố ý dạy sai khẩu quyết, bày vẽ kiếm thế phức tạp, trông thì đẹp mắt nhưng mà giảm hẳn hiệu quả. Vốn dĩ là rồng, phượng thì bị biến thành lợn gà...
    Mãi về sau mới phát hiện ra, và tác giả có cho biết sự cố ý đấy không phải là do thiện tâm, mà là do sợ có người hơn mình.
    huyenquangtu trả lời: Sách ''Thái ất kim hoa tông chỉ'' phần giới thiệu ghi rõ là pháp chân truyền của long môn toàn chân giáo do tổ sư Lã Động Tân viết ra, thiên hạ thừa nhận như vậy tôi cũng chẳng dám cho là sách giả, mất công đối đầu với cả giáo phái toàn chân thì nguy,thôi thì nói rằng họ cố ý chỉ sai vậy, nhưng có điều xưa nay ''quyết pháp không có trong sách kim cổ'' là điều khằng định, ít ra luyện theo thái ất kim hoa dù không thành công thì người ta cũng biết được ba chữ ''huyền quang khiếu'' còn hơn là bảo bối ''ý thủ đan điền'' chứ.
    Ngày xưa các bậc vương tướng, hoàng đế vẫn cầu trường sinh, tu luyện thần tiên, thường phong quan chức cho những ai tiết lộ bí mật tu luyện, nên xuất hiện những thứ gọi là ''mối lái trong đan đạo'', vì thế mà sách đan kinh mới viết đầy ba xe chở không hết.

    tienkyanh hỏi: Trước khi nói tiếp về trình tự luyện đan, Huyenquangtu có thể giải thích thêm quy luật - những người có duyên tiên thiên lại thường yếu tiên thiên - được không?
    Vì theo lẽ nhân quả, ai đó đã có duyên đặc biệt với tiên thiên khí công, thì hẳn đã huân tập nhiều kiếp và truyền dạy nhiều người trong quá khứ, vậy lý ra họ phải đầy đủ tiên thiên chứ nhỉ?
    huyenquangtu trả lời: Khi chưa liễu mệnh thì mạng này của trời, chẳng phải của ta,trời cho nhiều thì được nhiều, cho ít thì chịu ít, chẳng dám trách ai, nhưng vì gieo trồng túc duyên nhiều kiếp, tâm huyết về phục mệnh thì nhân duyên sẽ đưa đẩy để đầu thai tới nơi thích hợp, và sẽ làm người có tiên thiên yếu để có ham muốn phục mệnh, nếu bẩm sinh tiên thiên mạnh thì sẽ ham công danh không ham tu luyện.

    tienkyanh hỏi: HuyenQuangTu có thể nói thêm vì sao lưu xuất tiên thiên ra đời lại thay đổi nhân quả rất lớn được không? (mình muốn biết tác động tích cực tiêu cực cụ thể của tiên thiên lên đời sống đối tượng).
    huyenquangtu trả lời: Trả lời bạn về điều này có thể lòng vòng sa vào mê tín dị đoan, bạn đọc kỹ kinh Thủ Lăng Nghiêm, phần ma sự sẽ rõ tại sao, tôi chỉ nói ngắn gọn là, nếu một người nghiệp quả nặng nề mà may mắn đắc pháp tiên thiên tu luyện thì vùng đất đó có thể chịu thảm hoạ động đất ghê gớm, vì thế người xưa truyền chính pháp đều tránh ''''tam khẩu lục nhĩ'''' tức là chỉ đơn truyền mà thôi, mỗi đời chĩ truyền cho một đệ tử, tuy nhiên cũng có những thời kỳ đặc biệt thì truyền đồng loạt hàng trăm nghìn người vì mục đích theo đuổi thiên cơ. Về tác động lên đối tượng thì hoàn toàn theo chiều tích cực, vì nghiệp lực là phần âm bám vào chân tâm, nay ta dùng tiên thiên loại bỏ nó ra nên về nguyên tắc sẽ không phải trả nghiệp nữa, ví dụ thậm chí kiếp trước một kẻ phạm trọng tội ví dụ giết người, kiếp này nhờ tu tiên thiên nên không phải trả nghiệp này( bị người giết lại), nhưng cái nghiệp đó ai sẽ gánh thay? đượng nhiên là không có ai gánh cả mà nó sẽ tích tụ ở một chỗ nào đó chờ dịp nổ tung đễ tự giải phóng, đức Phật nói rằng khi chuyện đó xảy ra, thì thậm chí cung điện của các loài ma vương cũng bị chấn động, ở nhân gian thì sẽ là các vụ động đất.

    But_hienlen hỏi: "...dùng tiên thiên giải nghiệp" như trên có phải là một loại mật chú nào đó của đức Phật không? Vì mật chú cũng giải nghiệp nhưng có gây động đất đâu nhỉ
    huyenquangtu trả lời: Vấn đề dùng tiên thiên giải nghiệp thì kinh Yoga có quan điểm tương tự "prana thiêu đốt các tội lỗi như lửa thiêu dầu, nó là cây cầu giúp băng qua bể khổ"
    bản thân tôi không sử dụng mật chú của Phật trong tu luyện, nên không thể trả lời là có giống nhau hay không. Khi dùng Mật chú của chư Phật tức là mượn Tha lực của Phật để tu luyện, có thể là nghiệp lực được đưa ra khỏi tam giới để hoá giải, đó chỉ là suy luận của tôi thôi.

    HOẠ BÀN "HOÀN NGUYÊN THIÊN"
    ---------------
    Diên hống thành chân thể, âm dương kết thái nguyên
    Diên hống làm thành cái thể chân thật, âm dương kết thành chỗ thái nguyên
    Đãn tri hành nhị bác, tiện khả luyện kim đan
    Đã biết tiến hành nhị bác, liền có thể luyện kim đan
    Hống thị thanh long tủy, diên vi bạch hổ chỉ
    Hống là tủy của rồng xanh, diên là mỡ của hổ trắng
    Xuyết lai quy đỉnh nội, thái thủy yêu tri thời
    Nhặt lấy đem về trong đỉnh, hái lấy phải biết lúc
    Sá nữ kỵ diên hổ,kim ông khoát hống long
    Xá nữ (cô gái) cưỡi diên hổ, kim ông (ông già vàng) cưỡi hống long
    Giáp canh minh chính lệnh, luyện thủ nhất lô hồng
    Giáp canh làm rõ chính lệnh, luyện nên một lò đỏ hồng
    Xà phách cầm long tủy, quy hồn chế hổ tinh
    Phách rắn bắt tủy rồng, hồn rùa nắm tinh hổ
    Hoa trì thần thủy nội, nhất đoà ngọc chi sinh
    Trong nước thần thủy của ao Hoa trì, một cành ngọc sinh ra
    Bạch tuyết phi quỳnh uyển, hoàng nha phát ngọc viên
    Tuyết trắng bay trong vườn châu, mầm vàng nhú ở vườn ngọc
    Đãn năng tri yển nguyệt, hà xứ luyện hồng diên
    Có thể biết được lò như yển nguyệt, thì luyện hồng diên ở nơi nào
    Dược tài khai hỗn độn, hỏa hậu luyện hồng mông
    Thuốc mở cõi hỗn độn, hỏa hậu luyện chỗ mơ hồ
    Thập nguyệt khai tiên hóa, phương tri cửu chuyển công
    Mười tháng thai hóa thành tiên, mới hay về công phu cửu chuyển
    Long chính tàng châu xứ, kê phương bão noãn thời. thùy tri diên hống hợp, chính khả ẩm Đao khuê
    Nơi rồng đang giấu châu, lúc gà đang ấp trứng. ai biết diên hống đã hòa hợp, chính là lúc có thể uống Đao khuê
    Mộc dục tư thần thủy, xúy hư lại tốn phong
    Tắm gội nhờ vào thần thủy, hà hơi phải nhờ gió tốn
    Anh nhi vô nhất sự, độc xử Thái vi cung
    Anh nhi không làm gì cả, riêng ở nơi cung Thái vi
    Tử phủ tầm ly nữ, Chu lăng phối khảm nam. Hoàng bà môi hợp xứ, Thái cực tự hàm tam
    Ở Tử phủ tìm ly nữ, ở Chu lăng phối cho khảm nam. Hoàng bà là nơi mối mai cho hòa hợp, Thái cực tự chứa đựng cả ba thứ
    Càn mã ngự kim hộ, khôn ngưu nhập mộc cung
    Ngựa càn chạy qua cửa vàng, trâu khôn đi vào cung mộc
    A thùy tương xá nữ, giá khứ dữ kim ông
    Ai đem xá nữ gả cho kim ông
    Xá nữ phương nhị bát, kim ông chính cửu tam
    Xá nữ đang lúc nhị bát, kim ông đang lúc cửu tam
    Động phòng sinh thụy khí, hoan hợp sản sơ nam
    Khi động phòng sinh khí tốt lành, hợp hoan sinh con trai đầu
    Tác dạ tây xuyên ngạn, thiềm quang chiếu bích đào. Thái lai quy ngọc thất, đỉnh nội nhật tiến ngao
    Đêm qua trên bờ suối phía tây, ánh sáng của cóc chiếu lên sóng biếc. Hái quay về nhà ngọc, trong đỉnh nấu mỗi ngày
    Ly khảm phi giao cấu, càn khôn tự hóa sinh. Nhân năng minh thử lý, nhất điểm lạc Hoàng đình
    Khảm ly không giao cấu, trời đất tự chuyển hóa sinh thành. Người có thể hiểu lý lẽ này, chân khí rơi vào Hoàng đình
    Đan cốc sinh thần thủy, Hoàng đình hữu thái thương. Cánh vô cơ khát tưởng, nhất trực nhập tiên hương.
    Đan cốc sinh ra nước thần (thần thủy), Hoàng đình có kho lớn. Không còn nghĩ chuyện đói khát, đi thẳng vào đất tiên
    Ý mã quy thần thất, tâm viên thủ động phòng
    Ý như con ngựa chạy đã về nơi thần thất, tâm như con vượn nhảy nhót đã trấn giữ phòng hoa
    Tinh thần hồn phách ý, hóa tác tử kim sương
    Tinh, thần, hồn, phách và ý đều hóa thành giọt tử kim sương (sương màu vàng tía)
    Nhất khổng tam quan khiếu, tam quan yếu lộ đầu. Hốt nhiên khinh vận động, thần thủy tự chu lưu
    Một lỗ cùng ba cửa đểu là khiếu, ba cửa là đầu đường trọng yếu. Bỗng nhiên vận động nhẹ, thần thủy tự chảy khắp nơi
    Chế phách phi tâm chế, câu hồn khởi ý câu
    Chế phục hồn không dùng tâm, câu thúc hồn không cần dùng ý
    Duy lưu thần dữ khí, phiến hưởng kết huyền châu
    Chỉ khi giữ lại thần và khí, trong phút chốc có thể kết thành huyền châu
    Khẩu quyết vô đa tử, tu đan tại phiến thời
    Khẩu quyết không nhiều lời, luyện đan chỉ trong phút chốc
    Ôn ôn hành hỏa hậu, thập nguyệt sản anh nhi
    Hỏa hậu giữ vừa vừa, mười tháng sinh ra anh nhi (đứa trẻ sơ sinh)
    Phu phụ sơ hoan hợp, niên thâm ý chuyển nùng. Động phòng sinh thụy khí, vô nhật bất xuân phong
    Sậu vũ chỉ hồ điệp, kim lô ngọc mẫu đan. Tam canh hồng nhật hách, lục nguyệt tố sương hàn
    Đột nhiên mưa đổ trên bướm giấy, hoa mẫu đơn ngọc rơi vào lò vàng. Canh ba mặt trời hồng cháy đỏ, tháng sáu đổ sương lạnh
    Hải để phi kim hỏa, sơn điên vận thổ tuyền. Phiến thời giao cấu tựu, ngọc đỉnh khởi thanh yên
    Tư đáy biển bay lên ngọn lửa kim, trên đỉnh núi tuôn trào dòng suối thổ. Trong phút chốc việc giao cấu thành tựu, đỉnh ngọc bốc lên làn khói xanh
    Đạc phá huyền quan khiếu, xung khai hỗn độn quan
    Đục phá lỗ huyền quan, mở toang cửa hỗn độn
    Đãn tri hanh thủy hỏa, nhất nhậm hổ long bàn
    Đã biết nung thủy hỏa, cứ mặc rồng hổ cuộn tròn
    Bà Kiệt thủy trong hỏa, Côn Luân sơn thượng ba. Thùy năng tri vận dụng, đại ý yêu Hoàng Bà
    Lửa trong nước Bà Kiệt, sóng trên núi Côn Luân. Ai có thể biết vận dụng, đại ý cần đến Hoàng Bà
    Dược thủ tiên thiên khí, hỏa tầm thái ất tinh. Năng tri dược thủ hoả, định lý kiến đan thành
    Thuốc lấy khí tiên thiên, lửa tìm tinh thái ất. Có thể biết dược lấy hỏa, thì trong định tĩnh thấy đan đã thành
    Nguyên khí như hà phục, chân tinh bất dụng di. Chân tinh dữ nguyên khí, thử thị đại đan cơ
    Nguyên khí làm thế nào uống vào được, chân tinh không cần di chuyển. Chân tinh cùng nguyên khí, đây là nền để thành đại đan
    Nho gia minh tính lý, Thích thị đả ngoan không. Bất thức thần tiên thuật,kim đan khoảnh khắc công
    Nhà nho hiểu rõ tính và lý, nhà Phật cố chấp ở chỗ không. Không biết phép thuật thần tiên, công phu trong khoảnh khắc mà thành kim đan
    Yển nguyệt lô trung hống, chu sa đỉnh nội diên. Quy xà chân nhất khí, sở sản tại tiên thiên
    Hống trong lò yển nguyệt, diên trong đỉnh chu sa, rồng rắn chính là nhất khí, sinh ra ở tiên thiên
    Sóc vọng tầm huyền hối, trừu thiêm tượng khuyết viên. Bất tri chân tạo hóa, hà vật thị chân diên
    Mồng một ngày rằm tìm ngày trăng khuyết, ba mươi, rút ra thêm vào vẻ như khuyết tròn, không biết đâu là tạo hóa chân thật, vật nào là chân diên
    Khí thị hình trong mệnh, tâm vi tính nội thần. Năng tri thần khí huyệt, tức thị đắc tiên nhân
    Khí là mệnh trong hình, tâm là thần trong tính, có thể biết được huyệt của thần và khí, ắt là thành tiên nhân
    Mộc tủy phanh kim đỉnh, tuyền lưu chú ngọc lô
    Tủy của mộc nấu trong đỉnh vàng, dòng suối chảy vào lò ngọc
    Thùy tương tam bách nhật, mạn mạn trước công phu
    Ai có thể trong ba trăm ngày, từ từ trao dồi công phu
    Ngọc đỉnh phanh diên dịch, kim lô dưỡng hống tinh
    Đỉnh ngọc nấu nước diên, lò vàng dưỡng tinh của hống
    Cửu hoàn vi cửu chuyển, ôn dưỡng tượng chu tinh
    Cửu hoàn là cửu chuyển, việc ôn dưỡng giống như sao trên trời
    Ngọc dịch tư thần thất, kim thai kết khí khu. Chỉ tầm thân nội dược, bất dụng kiểm đan thư
    Ngọc dịch tràn trong thần thất, kim thai kết thành trục khí. chỉ cần tìm thuốc trong thân, không cần kiểm tra sách luyện đan
    Hỏa táo nguyên vô hạch, giao lê khởi hữu tra. Chung triêu hành hỏa hậu, thần thủy quán kim hoa
    Táo đỏ vốn không có hạt, giao lê há có bã. Luôn chú ý vận hỏa hậu, để thần thủy tưới vào kim hoa
    Luyện khí đồ thị lực, tồn thần nhậm dụng công. Khởi tri đan quyết diệu, trấn nhật ngoạn chân không
    Luyện khí nhờ thi triển lực, tồn thần dựa vào việc dụng công. Há biết chỗ kỳ diệu của bí quyết luyện đan là suốt ngày đùa ở chốn chân không
    Dục luyện tiên thiên khí, tiên can hoạt thủy ngân. Thánh thai như kết tựu, phá đỉnh kiến lôi minh
    Muốn luyện được khí tiên thiên, trước tiên làm ra thủy ngân sống. Thai thánh nếu đã kết, tung đỉnh nghe sấm rền
    Khí sản phi quan thận, thần cư bất tại tâm. Khí thần nan tróc mạc, hóa tác nhất đoàn kim
    Khí sinh không liên quan đến thận, thần ngụ không tại tim. Thần, khí khó nắm bắt, hóa làm một khối vàng
    Nhất khiếu danh huyền tẫn, trung tàng khí dữ thần. Hữu thùy tri thử khiếu,cánh mạc ngoại tầm chân
    Nhất khiếu gọi là huyền tẫn, trong ẩn chứa khí và thần. ai biết được lỗ này, chớ ra ngoài tìm chân
    Tỳ vị phi thần thất, bàng quang nãi thận dư. Khuyến quân hưu chấp nê, thử bất thị đan thê
    Tỳ và vị không là thần thất, bàng quang chỉ là chỗ kéo dài của thận. Khuyên anh chớ trông vào chúng, chúng không phải chiếc thang giúp luyện thành đan
    Nội cảnh thi thiên thủ, trung hoàng tửu nhất tôn. Tiêu dao vô vật lụy, thân ngoại hữu càn khôn
    Cảnh bên trong chứa nghìn bài thơ, “Hoàng” bên trong có rượu một chung. Tiêu dao không vật gì ràng buộc, ngoài thân còn có đất trời
    Điểu thố tương tiến chử, quy xà tự nhiễu triền. Hóa thành đan nhất hạt, ôn dưỡng tác thai tiên
    Chim thỏ cùng nung nấu, rùa rắn tự quấn nhau. Hoá thành một hạt đan, ôn dưỡng thành thai tiên
    Vạn vật sinh giai tử, nguyên thần tử phục sinh. Dĩ thần quy khí huyệt, đan đạo tự nhiên thành
    Vạn vật sinh ra rồi đều chết đi, nguyên thần chết rồi lại sống lại. Đưa thần quay về huyệt khí, con đường luyện đan tự nhiên thành tựu
    Thần khí quy căn xứ, thân tâm phục mệnh thời. Giá ban chân khổng khiếu, liệu đắc thiểu nhân tri
    Thần khí quay về gốc, là lúc thân tâm đã phục mệnh. Lỗ chân khiếu này, e rằng ít người biết
    Thân lý hữu huyền tẫn, tâm trung vô cấu trần. bất tri thùy giải thức, nhất khiếu nội hàm chân
    Trong thân có huyền tẫn, trong tâm không có bụi bẩn. Không biết sao có thể giảng giải, trong nhất khiếu có chứa chân
    Tâm hạ thận thượng xứ, can tây phế tả trung. Phi tràng phi vị phủ, nhất khí tự lưu thông
    Chỗ dưới tim trên thận, trong nơi phía tây gan phía trái phổi. Không phải ruột cũng không phải dạ dày, nhất khí tự lưu thông
    Diệu dụng phi quan ý, chân cơ bất dụng thời. Thùy năng tri thử khiếu, thả mạc nhậm vô vi
    Diệu dụng không liên quan đến ý, chân cơ không dựa vào giờ. Ai có thể biết khiếu này thì chớ phó mặc theo sự vô vi
    Hữu vật phi vô vật, vô vi hợp hữu vi. Hóa quyền quy thủ nội, điểu thố kết kim chi
    Có vật không phải là không có vật, vô vi hợp cùng hữu vi. Quyền biến hoá quay về trong tay, chim và thỏ kết thành mỡ vàng
    Hổ khiếu tây sơn thượng, long ngâm bắc hải đông. Xúc lai tu dã chiến, ký tại Cấn Khôn cung
    Hổ hú trên núi Tây Sơn, rồng ngân nga phía đông biển Bắc Hải. Muốn bắt về phải giao chiến ngoài đồng, rồi gửi ở không Cấn và khôn Cung
    Phục cấu tư minh hối, Độn Mông trực hiểu hôn. Đan lô ngưng bạch tuyết, vô xứ mịch viên tâm.
    Quẻ Phục và Cấu chủ về sáng và tối, quẻ Độn và Mông rõ là ban mai và hoàng hôn. Lò đan có ngưng tụ tuyết trắng, không tìm thấy tâm vượn ở nơi đâu
    Hắc hống sinh hoàng diệp, hồng diên điện tử hoa. Cánh tu hành hỏa hậu, đỉnh lý kết đan sa
    Hống đen sinh ra lá vàng, diên hồng nảy lên hoà tía. Càng phải vận hành hỏa hậu, trong đỉnh sẽ kết được đan sa
    Trừu thiêm đương mộc dục, chính thị nguyệt viên thời
    (Rút – thêm chính là tắm gội, đúng lúc mặt trăng tròn
    Vạn lai phong sơ khởi, thiên sơn nguyệt chính viên. Cấp tu hành chính lệnh, cánh khả vận chu thiên
    Từ vạn ống sáo gió bắt đầu nổi, trên nghìn đỉnh núi trăng đang tròn. Cấp tốc tu hành chính lệnh, liền có thể vận chuyển khắp trời đất
    Dược tài phân lão nộn, hỏa hậu dụng trừu thiêm. Nhất hạt đan quang khởi, hàn thiềm xạ ngọc thiềm
    Dược liệu chia ra già và non, hỏa hậu dùng đến sự rút – thêm. Một hạt đan sáng lên, cóc lạnh chiếu hiên ngọc
    Phong phúc châu tằng phẫu, kê khoa noãn dị tầm. Vô trung sinh hữu vật, thần khí tự tương xâm
    Trong bụng con ong từng mổ ra hạt châu, trong tổ gà dễ tìm ra trứng. Trong vô sinh ra vật hữu hình, thần và khí tự xâm chiếm lẫn nhau
    Thần khí phi tử mẫu, thân tâm khởi phu phụ. Đãn yêu hợp thiên cơ, thùy thức kết đan xứ
    Thần và khí không phải là con và mẹ, thân và tâm không phải là vợ chồng. Muốn hợp với thiên cơ, ai biết về nơi kết đan
    Đan đầu sơ kết xứ, dược vật dĩ ngưng thời. Long hổ giao tương chiến, Đông Quân tổng bất tri
    Nơi đan mới kết, lúc thuốc đã ngưng. Rồng hổ giao chiến với nhau, Đông Quân không hề biết gì
    Bàng môn tính tiểu pháp, dị thuật cập nhàn ngôn. Kim dịch hoàn đan quyết, hỗn vô đệ nhị môn
    Những phái không chính tông đưa ra những phương pháp vớ vẩn, những luận thuyết lạ lùng và những lời nói vô căn cứ. Chân quyết về kim dịch hoàn đan, không có lời khác
    Quý tiện tính cao hạ, phu phụ dữ đệ huynh. Tu tiên như hữu phân, giai khả khán đan kinh
    Quý và tiện, cao và thấp, vợ chồng và anh em. Tu tiên nếu có duyên phận đều có thể xem kinh sách luyện đan
    Ốc phá tu dung dị, dược khô sinh bất nan. Đãn tri quy phục pháp, kim bảo tính như sơn
    Nhà đã bị phá sửa lại dễ dàng, thuốc đã khô làm sống lại mấy khó. Chỉ cần nắm được cách quy phục (về nguồn cội), vàng ngọc tích đầy như núi
    Hồn phách thành tam tính, tinh thần hội ngũ hành. Tựu trung phân tứ tượng, toàn thốc kết thai tinh
    Hồn phách làm thành ra ba tính, tinh thần hội tụ ngũ hành. Tập trung lại chia ra tứ tượng, gôm tụ lại kết thành thai tinh
    Định chí cầu diên hống, hôi tâm mịch thổ kim. Phương tri chân nhất khiếu, thùy thức thử u thâm
    Định chí để cầu được diên hống, che lấp tâm để tìm thổ kim. Mới biết về lỗ chân nhất, ai biết đây là nơi thâm u
    Tạo hóa vô căn đế, âm dương hữu bản nguyên. Giá ta chân quyết xứ, phụ tử bất tương truyền
    Tạo hóa không có gốc có cuống, âm dương có cội nguồn. Những chỗ kỳ diệu của chân quyết, cha còn cũng không truyền cho nhau
    Lưu hống cư kim đỉnh, tương diên nhập ngọc trì. Chủ tân vô tả hữu, chỉ yếu thức anh nhi
    Giữ lại hống trong đỉnh vàng, đưa diên vào ao Ngọc trì. Chủ khách không phân chia trái phải, chỉ cần nhận biết anh nhi
    Hoàng bà song nhũ mỹ, Đinh lão phiến tâm từ. Ôn dưỡng vô tha thuật, vô trung dưỡng tựu nhi
    Hoàng bà có bầu ngực đẹp, Đinh lão có tấm lòng nhân từ. Ôn dưỡng không có cách nào khác hơn, trong vô dưỡng lấy đứa trẻ thơ
    Giáng khuyết tường thanh phượng, đan điền dưỡng ngọc thiềm. Hồ trung thiên bất dạ, bạch tuyết lạc tiêm tiêm.
    Cửa Giáng bay lượn chim phượng xanh, nơi đan điền dưỡng con cóc ngọc. Bầu trời trong quả bầu không có đêm, tuyết trắng rơi lả tả
    Cầm sắt hợp giai hậu, cơ cừu liễu đương thời. Bất tu cầu hỏa hậu, hựu khủng tổn anh nhi
    Sau khi giai điệu đàn cầm đàn sắt hòa hợp, là lúc đã nối nghiệp thành công. Không nên vận hành hỏa hậu, chỉ e tổn hại đến anh nhi
    Trưởng nam phương nhập Đoài, thiếu nữ tiện quy Càn. Tốn cung tính thổ vị, quan tỏa tự chu thiên
    Trưởng nam mới đi vào Đoài, thiếu nữ liền quay về Càn. Cung tốn và vị trí của thổ, đóng khóa khắp mọi nơi
    Huyền hậu huyền tiền xứ, nguyệt viêm nguyệt khuyết thời. Trừu thiêm tượng hình đức, mộc dục an doanh khuy
    Ở vào khoảng trăng thượng huyền và trăng hạ huyền, khi trăng tròn khi trăng khuyết. Rút và thêm tượng trưng cho hình và đức, tắm gội phải dựa vào đầy vơi
    Lão hống tam cân bạch, chân diên nhất điểm hồng. Đoạt tha thiên địa tủy, giao cấu phiến thời trung
    Lão hống ba cân trắng, chân diên một chấm hồng. Đoạt được tủy của trời đất, giao cấu trong phút chốc
    Hỏa hầu thông huyền xứ, cổ kim thùy khẳng truyền. Vị tằng tri thái thủ, thả kỳ vấn chu thiên
    Hỏa hậu thông được qua chỗ huyền bí, xưa nay ai dám truyền điều này. Chưa từng biết việc hái lấy, đã hỏi về chu thiên
    Vân tán hải đường nguyệt, xuân thâm dương liễu phong. A thùy tri thử ý, cử mục vấn hư không
    Mây tan đi trăng chiếu bóng hải đường, mùa xuân đậm đà với ngọn gió thổi qua cành liễu. Ai hiểu ra ý này, ngước mắt hỏi hư không
    Nhân gian vô vật lụy, thiên thượng hữu tiên giới. Dĩ giải thừa vân liễu, tướng tương bạch hạc lai
    Nhân gian không vật gì làm lụy đến, trên trời có cõi tiên. Đã biết cách cưỡi mây thì như sắp có hạc trắng bay lại
    Tâm điền vô thảo tuế, tính địa tuyệt trần phi. Dạ tĩnh nguyệt minh xứ, nhất thanh xuân điểu đề
    Tâm là mảnh ruộng không có loài cỏ rơm, tính là vùng đất không chút bụi bay lên. Nơi trăng chiếu sáng trong đêm thanh tĩnh, một tiếng chim mùa xuân hót lên
    Bạch kim phanh lục quái, hắc tích quá tam quan. Bán dạ tam canh lý, kim ô nhập quảng hàn
    Bạch kim nấu sáu quẻ, thiếc đen chảy qua tam quan. Đang canh ba nửa đêm, quạ vàng vào cõi lạnh
    Đan thục vô long hổ, hỏa chung thể hống diên. Thoát thai dĩ thần hóa, cánh tác Ngọc thanh tiên
    Đan đã thuần thục không còn rồng và hổ, lửa đã kết thúc thì thể là diên hống. Thoát thai là đã hóa thành thần, liền làmtiên ở cõi Ngọc thanh
    Tắc đoạn hoàng tuyền lộ, xung khai tử phủ môn. Như hà hải thiềm tử, hóa hạc xuất Nê hoàn.
    Lấp con đường xuống suối vàng, mở tung cửa tử phủ. Làm sao con cóc biển, hóa thành hạc bay khỏi Nê hoàn
    Giang hải quy hà xứ, sơn nhai thuộc thậm nhân. Kim đan thành thục hậu, tổng thị ốc trung trân
    Sông biển trở về nơi nào, núi non thuộc về ai. Sau khi kim đan thành thục, chúng đều là châu báu trong nhà
    Lã thừa Chung khẩu quyết, Cát thụ Trịnh tâm truyền. Tổng một nhàn ngôn ngữ, đô lai chỉ hống diên
    Lã nhận lấy khẩu quyết của Chung, Cát được Trịnh tâm truyền. Đều không có một lời dư thừa nào, tất cả chỉ hống và diên
    Hống diên quy nhất đỉnh, nhật nguyệt yêu đồng lô. Tiến hỏa tu phòng kỵ, giáo quân kết ngọc tô
    Diên hống quay về trong một đỉnh, mặt trăng mặt trời phải cùng lò. Tiến hỏa phải đề phòng, dạy anh kết lấy bơ ngọc
    Thái dược tính giao kết, tiến hỏa dữ mộc dục. Cập chí thoát thai thời, cửu cửu dương số túc
    Hái thuốc và giao kết, tiết hỏa và tắm gội. cho đến khi thoát thai, chín lần chín tám mốt là số dương đã đủ
    ----------------
    'Hoàn Nguyên Thiên' do Thạch Hạnh Lâm chân nhân sáng tác, sau này có Mẫn Nhất Đắc chân nhân tiến hành chú giải gọi là 'Hoàn Nguyên Thiên Xiển Vi', tuy nhiên bản chú giải này được tiến hành khi ông còn chưa thành đạo. Do đó, HQT chỉ sử dụng bản chú giải này làm tài liệu tham khảo ngõ hầu cố gắng làm sáng tỏ thêm ý của Thạch chân nhân, cũng như làm sáng tỏ thêm những gì mà Mẫn chân nhân muốn gửi gắm cho hậu thế mà không thể nói cho rõ.
    Xét vì trình độ tu luyện của HQT tự biết sẽ có nhiều khiếm khuyết khi luận giảng , vì thế không dám gọi là bản chú giải mà chỉ dám xưng là họa bàn với chư vị tiên thánh vậy.
    Diên hống thành chân thể, âm dương kết thái nguyên.
    Diên hống làm thành cái thể chân thật, âm dương kết thành chỗ thái nguyên
    Thể chân thật là cái thể của tiên thánh chư phật, cái thể này vĩnh cữu bất hoại khác xa với huyễn thể của phàm phu trăm năm ngắn ngủi. Cái thể chân thật này nhà Phật gọi là pháp thân, nhà Tiên gọi là thánh thai. Nó do diên hống là cái âm dương của tiên thiên ngưng kết ở chỗ thái nguyên, tức nơi chỗ mà hậu thiên hữu hình không thể nhòm ngó tới.
    Đãn tri hành nhị bát, tiện khả luyện kim đan.
    Đã biết tiến hành nhị bát, liền có thể luyện kim đan.
    Nhị bát là thời gian thượng huyền và hạ huyền, lúc này mặt trăng sáng được phân nửa có đường thẳng như dây chằng, là tượng âm dương quân bình. Đạo kim đan lấy hình tượng nhị bát làm tượng ngôn cho kim đan đại đạo, tức là nhất âm nhất dương chi vị đạo, là đạo phối hợp âm dương quân bình. Câu này thể là công lý tu chân có thể tiết lộ, dụng là công pháp hạ thủ khó thể tiết lộ truyền ra ngoài .
    Hống thị thanh long tủy, diên vi bạch hổ chỉ.
    Hống là tủy của rồng xanh, diên là mỡ của hổ trắng.
    Hống khi giận dữ thì dễ bay mất có thể cướp mất sinh mệnh của người trong phút chốc nên ví với sự hiểm ác của rồng. Diên khi dục vọng nổi lên thì dễ chạy mất có thể đoạt sinh mệnh của người nên ví với sự hung ác của hổ. Rồng thuộc mộc sắc xanh nên gọi thanh long, hổ thuộc kim sắc trắng nên kêu bạch hổ .
    Tạp đàm: thường thấy người cao tuổi khi giận giữ thì dễ bị lên máu (tăng xông) mà chết đột ngột, đó thực là sự hiểm ác của rồng cướp đoạt sinh mệnh, chứ chẳng riêng gì sắc dục mới có thể giết người không thôi .
    Xuyết lai quy đỉnh nội, thái thủy yêu tri thời.
    Nhặt lấy đem về trong đỉnh, hái lấy phải biết lúc
    Nhặt tức là lấy cái diên hống sẵn có trong tâm thận của ta cho vào trong đỉnh, đỉnh là nê hoàn. Hái lấy phải biết lúc là sự phân chia thời gian tý ngọ, tý thời tiến dương hoả, đem cái diên từ khảm thủy bốc lên đỉnh. Ngọ thời thoái âm phù, đẩy lui âm khí khiến cho hống từ ly hoả bay ngược vào đỉnh. Diên hống cùng phối hợp trong đỉnh đây gọi là hoạt tý thời.
    Sá nữ kỵ diên hổ,kim ông khoát hống long.
    Xá nữ (cô gái) cưỡi diên hổ, kim ông (ông già vàng) cưỡi hống long.
    Hống là tính thuộc âm ví với xá nữ, diên là mệnh thuộc dương ví với kim ông. Diên hống đã quy đỉnh thì chúng tự nhiên phối hợp, rồng cưỡi hổ, hổ lại cưỡi rồng, kết thành một điểm chân ý, làm căn bản cho tu luyện bậc cao.
    Giáp canh minh chính lệnh, luyện thủ nhất lô hồng.
    Giáp canh làm rõ chính lệnh, luyện nên một lò đỏ hồng.
    Giáp canh chỉ đông và tây.Mặt trăng mọc lên từ phía tây kim, trong trăng có thỏ ngọc là chân diên, vì thế gọi diên là bạch hổ. Mặt trời mọc lên từ phía đông mộc, trong mặt trời có quạ đen là chân hống, vì thế gọi hống là thanh long.Chính lệnh là quỹ đạo của mặt trời mặt trăng trong đại tự nhiên, người tu đạo trông pháp tượng thiên địa mà bắt chước tu chân thì kim đan kết thành một lô hồng .Câu này là khẩu quyết đan đạo bậc cao , là hoả hậu của mộc dục giúp hoàn đan thành thai.
    Tạp đàm: Danh từ rồng - hổ để gọi diên hống thực ra là có cơ sở thâm ảo, chứ không phải cổ nhân đặt suông. Một số học giả hiện nay không có công phu, khi tìm hiểu đan kinh chỉ dựa vào cái thông minh của thế gian trí, vì thế có người cho là đan kinh dùng nhiều khái niệm nô đùa, thực là sai lầm vậy.
    phụ chú: Mặt trời quay từ đông sang tây nghịch với chiều quay của trái đất từ tây sang đông nên gọi là mặt trời mọc theo đường bên trái thuộc dương là phía đông. Mặt trăng quay từ tây sang đông cùng với chiều quay của trái đất nên gọi là mặt trăng mọc theo đường bên phải thuộc âm là phía tây. Nếu đứng từ một điểm trên địa cầu quan sát thì đều thấy mặt trời và mặt trăng mọc từ đông sang tây, nhưng đây không phải là hệ toạ độ của đại tự nhiên.
    Xà phách cầm long tủy, quy hồn chế hổ tinh
    Phách rắn bắt tủy rồng, hồn rùa nắm tinh hổ
    Rắn thuộc hoả, rồng thuộc mộc, phách rắn bắt tủy rồng là trong hoả có mộc, mộc hoả chung nhà. Rùa thuộc thủy, hổ thuộc kim, hồn rùa nắm tinh hổ là trong thủy có kim, kim thủy chung nhà.Câu này nối tiếp câu trên tiết lộ hoả hậu của mộc dục, sự tắm gội là điều cần làm trước khi hoàn đan, phân biệt rõ sự tiến thoái cùng nhau của rắn và rồng, của rùa và hổ, lấy mão dậu làm gianh giới phân chia giới hạn .
    Tạp đàm: Đây là một câu khó hiểu, cần phải có công phu mới có thể lĩnh hội.
    Hoa trì thần thủy nội, nhất đoà ngọc chi sinh
    Trong nước thần thủy của ao Hoa trì, một cành ngọc sinh ra
    Hoa trì là huyệt dưới gốc lưỡi, chỗ đó hình dạng lõm xuống như cái ao nên gọi là hoa trì, nơi đó thuỷ dịch sinh ra tưới nhuần khắp toàn thân.Người tu chân đã hiểu rõ chính lệnh canh giáp, tiến dương thoái âm theo chuẩn tắc thì trong nước thần ở ao hoa trì sinh ra châu ngọc, đó là diên dịch và hống dịch tưới vào toàn thân, thứ dịch này khác với dịch thông thường, nuốt qua cổ họng tòan thân tâm đại tĩnh, âm thần âm khí nháo nhào bỏ chạy khỏi thân, đây gọi là sự tắm gội để đạt tới thuần dương.
    Bạch tuyết phi quỳnh uyển, hoàng nha phát ngọc viên
    Tuyết trắng bay trong vườn châu, mầm vàng nhú ở vườn ngọc
    Bạch tuyết sắc trắng thuộc kim ví với dịch của chân diên, hoàng nha sắc vàng thuộc thổ buộc kết mậu kỷ tượng cho kim đan đã thành tựu. Khi uống nước diên ở hoa trì như người say thấy tuyết trắng bay khắp thân phơi phới. Đạo kim đan khi có thể ngưng thần là đã có thể uống được hống dịch, đến khi ngũ khí triều nguyên thì diên dịch mới tràn đầy, cho nên thấy bạch tuyết bay thì hoàng nha đã kết thành .
    Đãn năng tri yển nguyệt, hà xứ luyện hồng diên
    Có thể biết được lò như yển nguyệt, thì luyện hồng diên ở nơi nào
    Yển nguyệt là mặt trăng ngày mồng 3 phần trên rất tối mà phía dưới có ánh sáng le lói, hình dáng ngửa lên như mày ngài mọc ngược, là tượng nhất dương phục sinh. Đan đạo gọi yển nguyệt là sinh môn, ở cửa đó dương khí phát sinh và lớn mạnh, các bậc chân nhân bao đời noi theo hình tượng yển nguyệt này mà đảo ngược sự vận hành của tạo hoá, từ trong chổ chết mà tìm ra con đường sống, thoát ra ngoài sự vận động thuận chuyển của âm dương ngũ hành.Cho nên đã biết được yển nguyệt lư thì có thể làm cho dương khí từ khảm thủy dần lớn mạnh, xuyên qua con đường đốc mạch mà đạo nghịch chuyển có thể thành công.
    Phụ chú: Trái với yển nguyệt là hình tượng mặt trăng sau hạ huyền có hình dáng úp xuống, trên sáng mà dưới tối là tượng âm khí phát triển lớn mạnh bóc dần dương khí, đây gọi là tử hộ, là cánh cửa đưa người vào chỗ chết. Tử hộ là con đường dương khí vận hành thuận chiều của phàm nhân, ly hoả bốc lên, khảm thủy chảy xuôi xuống, hoả bốc lên tới đỉnh không gặp dương khí giữ gìn thì thoát bay mất, thuỷ chảy xuôi thì vào cửa sinh dục mà tự thất thoát. Hoả mất ở trên, thủy mất ở dưới mà người phải chết vậy.
    Dược tài khai hỗn độn, hỏa hậu luyện hồng mông
    Thuốc mở cõi hỗn độn, hỏa hậu luyện chỗ mơ hồ
    Hỗn độn, hồng mông là khi càn khôn chưa phân chia. Sau khi chân diên tách thành càn và khôn thì vũ trụ mới bắt đầu tượng hình. Luyện hoả hậu là luyện diên hống cho nên nói là luyện ở chỗ hồng mông, phải dùng vô vi không thể lấy hữu vi mà cầu được.
    Tạp đàm: Bàng môn tả đạo cho dược ở cung khảm, hoả hậu ở cung ly nên hằng ngày lấy hạ điền và thượng điền vận luyện. Dùng tồn tưởng chuyển trái xoay phải mà cho là chấn đoài đều là dùng hữu vi của hậu thiên mà cầu vô vi của tiên thiên, đáng thương là tuổi thọ bị rút ngắn mà không hay, hãy cảnh tỉnh.
    Thập nguyệt khai tiên hóa, phương tri cửu chuyển công
    Mười tháng thai hóa thành tiên, mới hay về công phu cửu chuyển
    Đã biết luyện dược luyện hoả ỡ chỗ hồng mông, tất cả đều phó mặc cho sự vô vi thì lâu ngày tích lượng đổi thành chất, hoả dược vụt hoá thành thai tiên, thoát xác bay lên. Mười tháng chỉ là tượng ngôn, không nhất thiết phải câu nệ.
    Long chính tàng châu xứ, kê phương bão noãn thời. thùy tri diên hống hợp, chính khả ẩm Đao khuê.Nơi rồng đang giấu châu, lúc gà đang ấp trứng. ai biết diên hống đã hòa hợp, chính là lúc có thể uống Đao khuê.
    Hống thuộc hoả, rồng thuộc mộc, hoả đi vào đất mộc thì được nuôi dưỡng nên nói là rồng giấu châu. Diên thuộc thủy, gà thuộc kim, thủy đi vào đất kim thì được nuôi dưỡng nên nói là gà ấp trứng. Đây là khẩu quyết mộc dục.
    Phụ chú: hoả trường sinh ở dần, vượng ở ngọ, mộ ở tuất, nay hoả đi vào đất mão thì được mộc dục. Thủy trường sinh ở thân, vượng ở tí, mộ ở thìn, nay thủy đi vào đất dậu thì được mộc dục.Nếu không nắm rõ hoả hậu thì dù đắc khẩu quyết kim đan mà vận luyện hỗn loạn thì sẽ khiến hoả đi vào tử địa của đất dậu, thuỷ đi vào tử địa của đất mão, hình thần phân hai, rất là đáng thương. Cho nên kim đan đại đạo sai một li mà lệnh đi nghìn dặm, các bậc chân thánh sư đời sau nên cẩn thận .
    Tạp đàm: Tiên kinh ghi: ngũ hành thuận sinh pháp giới là hầm lửa, ngũ hành điên đão mặt đất là thất bảo. Ngũ hành điên đão là đạo nghịch sinh của tiên thiên, nơi đó là vị trí mộc dục ( khoa lý số coi mộc dục là vị trí tiết khí chính vì nghịch sinh ).Hoả mộc dục ở mão thì hoả sinh mộc, thuỷ mộc dục ở dậu thì thuỷ sinh kim. Ngũ hành thuận sinh là hậu thiên chi đạo, một năm có 4 mùa xuân hạ thu đông, mộc sinh hoả, hoả khắc kim, kim sinh thủy, thủy tận mà hết năm. Đời người cũng thuận hành như trời đất, sống hết tuổi thu đông thì già rồi chết đi và bắt đầu vòng luân hồi mới. Các bậc chân nhân vận dụng ngũ hành điên đão, lấy thủy hoả vô tận trong trời đất thực hành đạo nghịch sinh, hoả lại sinh mộc, thủy lại sinh kim, vì thế mà đồng xuân cùng trời đất
    Mộc dục tư thần thủy, xúy hư lại tốn phong
    Tắm gội nhờ vào thần thủy, hà hơi phải nhờ gió tốn
    Mộc dục nghĩa là tắm gội, lấy chân hống tẩy sạch vọng hồn phải nhờ mộc hoả, mộc chủ lông tóc nên hợp với nghĩa gội. Lấy chân diên rửa sạch vọng phách phải nhờ kim thủy, kim chủ da lông nên hợp với nghĩa tắm. Tắm gội phải dùng nước nên cần có thần thủy ở hoa trì, muốn sinh ra thần thủy phải nhờ hoả văn vũ nên cần đến gió tốn.
    Anh nhi vô nhất sự, độc xử Thái vi cung
    Anh nhi không làm gì cả, riêng ở nơi cung Thái vi
    Kim đan đại đạo lý luận huyền vi sâu xa người thường xem qua khó mà hiểu được. Người có chí tu chân được thần minh điểm cáo hốt nhiên ngộ hiểu các sách mới thấy trong sự huyền ảo phức tạp có sự giản dị vô cùng. Tất cả chỉ nhờ cậy một điểm chân ý mà có thể đão ngược sự vận hành của tạo hoá nên nói là anh nhi không làm gì cả, không làm mà thực ra lại làm tất cả. Kim đan đại đạo không cậy nhờ một điểm chân ý này thì không thể thành công.
    Từ chỗ này trở lên đã tóm lược đầy đủ những chỗ cốt yếu của kim đan đại đạo.

    Tử phủ tầm ly nữ, Chu lăng phối khảm nam. Hoàng bà môi hợp xứ, Thái cực tự hàm tam.
    Ở Tử phủ tìm ly nữ, ở Chu lăng phối cho khảm nam. Hoàng bà là nơi mối mai cho hòa hợp, Thái cực tự chứa đựng cả ba thứ.
    Tử phủ là chốn thần tiên nơi các bậc chân nhân được đề danh, ly nữ là chân hống vốn chẳng thể tìm kiếm được ở trong cảnh giới hậu thiên, vì thế mà nói ở Tử phủ mới tìm được ly nữ.Chu lăng theo Mẫn chân nhân chú giải là động đá trên đỉnh núi Nam Nhạc, trong thân người chính là nê hoàn cung trên đầu não.
    Khảm nam là chân diên, đưa diên tới Chu Lăng trước, tìm hống ở Tử phủ sau, hai vật này cùng phối hợp ở nê hoàn, cần dựa vào hoàng bà là nhất điểm chân ý mối mai cho hoà hợp, kết thánh một bầu thái cực bên trong hàm chứa thần , khí và ý .
    Càn mã ngự kim hộ, khôn ngưu nhập mộc cung
    Ngựa càn chạy qua cửa vàng, trâu khôn đi vào cung mộc
    Câu trên tiết lộ nơi tìm ly nữ, câu dưới tiết lộ chỗ kiếm khảm nam. Muốn kiếm khảm nam phải tìm ra dấu vết của ngựa càn, trâu khôn. Muốn đón đầu chúng thì tới mộc cung, kim hộ mà chờ trước. Đã bắt được ngựa và trâu thì hai quẻ càn khôn tiên thiên phối hợp thành nhất điểm chân diên, Khảm nam sẽ tự bay đến Chu lăng .Ai có thể biết được cách này, người ấy chính tiên nhân.
    A thùy tương xá nữ, giá khứ dữ kim ông
    Ai đem xá nữ gả cho kim ông
    Khảm nam đã về Chu Lăng trước, kế tiếp dẫn Ly nữ vào sau, nên nói là đem xá nữ gả cho kim ông. Muốn dẩn xá nữ vào phải cậy nhờ Hoàng bà làm mai mối cho hai bên hoà hợp.
    Phụ chú: Hống hoả tính linh hoạt dễ bay, diên thủy tính trầm trệ. Muốn phối hợp diên hống thì phải đưa thủy vào đỉnh trước, kế đó mới dẫn lửa vào sau, hoả gặp thủy níu giữ thì không bay mất. Nếu ngược lại trong đỉnh chưa có thủy mà dẫn hoả vào trước thì hoả sẽ bay mất ngay.
    Xá nữ phương nhị bát, kim ông chính cửu tam
    Xá nữ đang lúc nhị bát, kim ông đang lúc cửu tam
    Mặt trăng tròn đầy là tượng một cân, nhị bát là thời điểm mặt trăng sáng được phân nửa chính là lúc xá nữ phương nhị bát.Một quẻ có 6 hào, kim ông chính cửu tam là được ba hào dương cũng là phân nửa, nửa cân âm phối hợp với nửa cân dương là quẻ địa thiên thái.
    Phụ chú : nhị bát là tượng ngôn không phải chỉ thời gian để tu luyện. Qua thể nghiệm sau khi đã có khảm nam thì ly nữ tự nó điều hoà số lượng cho cân bằng. Khảm nam do một phần quẻ càn phối hợp với một phần quẻ khôn mà thành 2 phần thủy thì tự nhiên ly nữ cũng vào đúng 2 phần hoả.
    Động phòng sinh thụy khí, hoan hợp sản sơ nam
    Khi động phòng sinh khí tốt lành, hợp hoan sinh con trai đầu
    Sự phối hợp của khảm nam và ly nữ ban đầu là từ nguồn tính mệnh sẵn có trong khảm ly kết thành một điểm chân ý gọi là hoan hợp sản sơ nam. Kế tiếp, dùng chân ý này thái thủ ly nữ và khảm nam của đại tự nhiên để nuôi dưỡng sơ nam này ngày càng lớn mạnh tới mức tạo bước đột phá mới phá vỡ cấu trúc âm dương của hai quẻ càn khôn tiến tới hợp nhất càn khôn, cấu trúc hai mạch nhâm đốc đột nhiên bị phá vỡ không còn vết tích. Lúc này công việc tìm kiếm khảm nam không cần phải dựa vào hai quẻ càn khôn mà hoàn toàn dựa vào vô vi của chân ý mà thành.
    Tạp đàm: Qua thể nghiệm đặt ra giả thiết rất có thể hệ kinh mạch trong thân người do âm khí cấu tạo nên, giống như trong tự nhiên đất bồi lâu ngày sẽ tạo thành các lối đi ngoằn nghèo. Việc tăng nguồn tiên thiên tới một giới hạn nhất định sẽ phá vỡ cấu trúc kinh mạch do âm khí tạo nên tiến tới toàn thân trở thành một ống dương khí tiên thiên.Như vậy, sự phát sinh bệnh tật là do âm khí phát triển quá độ lấp mất lối đi của dương khí ở một bộ phận nào đó trong cơ thể.
    Tác dạ tây xuyên ngạn, thiềm quang chiếu bích đào. Thái lai quy ngọc thất, đỉnh nội nhật tiến ngao.
    Đêm qua trên bờ suối phía tây, ánh sáng của cóc chiếu lên sóng biếc. Hái quay về nhà ngọc, trong đỉnh nấu mỗi ngày.
    Bờ suối phía tây là nơi phát sinh diên thủy, con cóc trong mặt trăng tượng chân diên. Đại ý là bắt con cóc trong mặt trăng hoá thành chất thủy dịch nuốt vào bụng. Hái quay về nhà ngọc, trong đỉnh nấu mỗi ngày nghĩa là hái lấy chân diên trong tiên thiên quay về đỉnh nê hoàn nấu luyện hoá thành nước suối ở phía tây.
    Phụ chú: Phía tây trong câu này có nhiều nghĩa, có thể hiểu là phía tây kim có chân diên, có thể hiểu là huyệt bên phải gốc lưỡi nơi phát sinh diên dịch, đại ý nuốt diên dịch nên theo đường bên phải không nên theo đường bên trái thì không sai hoả hậu.
    Ly khảm phi giao cấu, càn khôn tự hóa sinh. Nhân năng minh thử lý, nhất điểm lạc Hoàng đình
    Khảm ly không giao cấu, trời đất tự chuyển hóa sinh thành. Người có thể hiểu lý lẽ này, chân khí rơi vào Hoàng đình
    Câu này nói rõ cách hái chân diên ở trên. Khảm ly không giao cấu, trời đất tự chuyển hóa sinh thành là do chân ý đã lớn mạnh tự nó kết hợp càn khôn trong hư vô không cần phải dựa vào hai quẻ càn khôn , khảm ly trong thân. Việc hái lấy chân diên lúc này chỉ là vô vi, Hái lấy chân diên, nuốt lấy thần thủy này thì tự nó trôi về hoàng đình.
    Phụ chú:Việc dùng hai quẻ càn khôn phối hợp thành chân diên thuộc giai đoạn nuôi lớn chân ý. Việc uống thần thủy ở hoa trì là giai đoạn vận dụng sự vô vi của chân ý. Không rỏ nguồn chân diên này có sẵn trong đại tự nhiên hay là do chân ý tự nó tổng hợp càn khôn ngoài thân ta.
    Đan cốc sinh thần thủy, Hoàng đình hữu thái thương. Cánh vô cơ khát tưởng, nhất trực nhập tiên hương
    Đan cốc sinh ra nước thần (thần thủy), Hoàng đình có kho lớn. Không còn nghĩ chuyện đói khát, đi thẳng vào đất tiên
    Thần thủy gồm hai thứ là diên dịch và hống dịch, nuốt hai thứ nước thần này lâu ngày sẽ mở được đường thông xuống Thổ phủ, đây là nơi chứa đựng diên hống sau khi hái được, dược vật từ Thổ phủ vượt qua 12 tầng trùng lâu thông suốt hoàng đạo rồi mới về hoàng đình. Nên biết Hoàng đình và Thổ phủ tuy nằm cùng chỗ mà khác về tầng lớp. Hoàng đình thuộc tì vị cho nên được ví với kho lớn.Dược quy hoàng đình lâu ngày sẽ thay thế khí của ngũ cốc vì thế mà không còn biết đến đói khát vậy.
    Phụ chú: Mô tả về hà xa phần lớn là giống nhau ở những điểm chung nhưng vẫn có sự khác biệt về chi tiết tùy theo căn cơ mỗi người. Do đó khi xem đan kinh thường thấy các ngài mô tả không đồng nhất. Tiểu hà xa từ vĩ lư thông tam quan nên nê hoàn thuộc hàng sơ cấp, đến khi hợp nhất càn khôn, nhâm đốc biến mất thì lại xuất hiện hà xa theo đường lối riêng, việc này do chân khí đủ thì tự vận hành không phải do ý chí chủ quan vậy.

    KHẨU QUYẾT TỐI THƯỢNG TU TIÊN THIÊN
    (bản chú giải)

    Xem chân tâm là chủ, xem chân khí là dụng, xem tam bảo là nền tảng. ngoại tam bảo (nhĩ, mục, khẩu) không lậu (rỉ ra) thì nội tam bảo (tinh, khí, thần) tự hợp, trước đắc thiên nhân (nội ngoại) cảm ứng, tiên thiên nhất khí tự nhiên sẽ thu nhập vào bên trong thân thể. Thân thể máu thịt của con người vốn là vật chất tất cả đều thuộc về hậu thiên âm đục nên không thể siêu phàm nhập thánh mà chỉ khí của tiên thiên thuần dương chí linh chí diệu, yểu minh mạt trắc (mờ mịt không lường), hỏang hốt nan đồ ( như bức đồ hình khó thấy đích xác) là có thể. Tuy nói từ ngoài đến nhưng thật ra thai nghén ở bên trong. Tiên thiên (động lực ban đầu) nếu không mượn nơi hậu thiên (vật chất) sẽ lấy gì mà thu nhập? hậu thiên nếu không đắc tiên thiên cũng không thể khởi biến hóa. Ấy là trong vô sinh hữu, trong hữu chứa vô. Hữu mang nhân vô mà thành hình, vô có gốc hữu mà thông linh.
    Tiên gia diệu dụng, tuy chỉ chú trọng thái thủ tiên thiên nhất khí được xem là mẹ của kim đan mà có thể điểm hóa phàm thân thành thánh thể, nên tri đạo pháp tự nhiên mà không miễn cưỡng được gọi là trí vậy.

    Phương pháp tối thượng thừa tu luyện thiên tiên.
    Bộ thứ nhất
    Thần không rời khí, khí không li thần. hô hấp tương hàm (hàm chứa lẫn nhau).
    Không để tâm loại bỏ mà cũng không để ý ánh sáng. Giao phó tâm ý cho thanh hư, thường chiếu trong vắng lặng
    (giả thích: tiên thiên nhất khí từ trong hư vô đến, hai khí tương giao tự nhiên thần ôm ấp khí, khí ôm ấp thần. khí tiên thiên và hậu thiên tương giao tương đắc thì hồn như say mộng, tự nhiên nhi nhiên, vô nhất hào tác vi (không làm chút gì). thần hô khí hấp, thượng hạ qua lại, trở về bổn nguyên luyện kết thành đan gọi là thai, thân tâm đại định vô vi mà thần khí tự nhiên sẽ giúp. Phó mặt tâm trí hư vô, không thể tồn tưởng. Giống như thiên địa đều định tĩnh thì tự nhiên dương thăng âm giáng, nhật nguyệt qua lại mà tạo nên vạn vật. khi công phu lâu ngày tĩnh sẽ sinh định, thần nhập vào trong khí, khí thần hòa hợp thì ngũ hành tứ tượng tự nhiên (toàn thốc) hòa hợp, tinh ngưng khí kết, ấy là khảm ly giao cấu. công phu tĩnh lúc đầu, khí thuần âm bên dưới cần dùng dương hỏa nung luyện vừa đắc là chân khí sẽ phát sinh, thần minh tự đến, luyện tự nhiên thuần thục, công phu tĩnh lâu ngày, tự nhiên thần khí giao hợp. thần thuộc phương nam hỏa, hỏa ở quái là ly. Tinh thuộc phương bắc thủy, thủy ở quái là khảm, hồn thuộc phương đông mộc, mộc ở quái là chấn, phách thuộc tây phương kim, kim ở quái là đoài. Ý thuộc trung ương thổ, thổ ở quái là khôn là trung cung hoành đình. Tiên thiên huyền quan là kiền, khi thần khí đã hợp thì thần nhập khí trung, tự nhiên ngũ hành tứ tượng toàn thốc (hòa hợp), ấy là khảm ly giao cấu. thuần âm dụng hỏa là ngưng thần hạ chiếu khôn cung, yểu yểu minh minh ( mờ mờ, mịt mịt) mà đắc chân khí phát sanh, thần minh tự đến đó là nhất dương lai phục.

    đệ nhị bộ
    Thần thủ thần (khôn) cung, chân khí tự động, hỏa nhập vào trong thủy, thủy tự hóa khí, dùng nhiệt lực chưng cất bay lên, yểu yểu minh minh (mờ mờ, mịt mịt), tự có hình trạng.
    ấy là dược vật sơ sanh, không thể thái vội, ví như có chút niệm khởi thì chân khí liền tan.
    (giải thích: khôn cung là trung hoành đình trong thân người, là khiếu của hư không, là nơi chân khí phát sinh. Nhất khiếu ấy là cung của tổ khí nên gọi là khôn cung. Khôn bèn theo đó mà tạo thành vạn vật vậy, đầy tràn sẽ sản dược xuyên về nguồn là nơi âm dương giao cấu. thần thủ khôn cung quan trọng là trưa tối không rời, nguyên thần hạ chiếu, hồi quang tĩnh định, nghịch thi tạo hóa (nghịch lại sự sắp đặt của tạo hóa), bạt (lấy được) chuyển thiên quan, đại dược từ đấy mà sinh, kim đan do đó mà kết. hỏa của khôn cung gọi là hỏa của chân nhân vậy. Thường lấy thần chiếu khôn cung nung luyện âm dương, tinh sẽ hóa khí. Chuyên tâm trì chí, lấy thời gian đi đứng nằm ngồi, tất cả tùy theo ý mà thủ, không cho tán loạn. lâu ngày không thấy có công hiệu tất cả là do trong tâm tạp loạn. Nếu nung luyện lâu ngày, tinh được hỏa luyện tự nhiên hóa khí. Lâu ngày ba tiếng vang làm chấn động thượng nê hoàn, hóa thành cam lộ, giáng hạ trọng lâu, ngưng thành tinh dịch, trở về khôn vị. phôi thai nguyên khí, dần dần tráng vượng, thần hô khí hấp, tự nhiên nuôi dưỡng, chu lưu không ngừng, khí mạch dừng mà nhập tĩnh định, trong đại định hốt nhiên sinh động là tiên thiên nhất khí phát sinh. Từ khôn cung mà đến như mẫu luyến tử, tự nhiên cảm hàm (cảm nhận được), thần biến mạt trắc (thần biến đổi khôn lường), nghe theo tự nhiên không được dục tốc thì khí đến sẽ biến hóa tự nhiên sẽ thấy công hiệu vậy. thiên quang là thần quang vậy. Công phu tĩnh lâu ngày thần quang chiếu soi, tĩnh thì thần linh, thấu hết trong ngoài, phát hiện hình tướng ngoại sắc ấy không thể gây trở ngại, ái dục không thể che lấp, tự nhiên cách tường thấy vật, biết được tiền kiếp. thiên là thanh nhẹ tại thượng, địa là trọng trọc ở hạ. khi khí hóa cùng cực, thanh khí thăng lên là thiên, trọc khí hạ xuống ngưng là địa, nhị khí nhân uân ( hai khí trời đất hòa hợp), hóa sanh vạn vật. tiên thiên chân dương cùng hậu thiên chân âm, âm dương hỗn nhất. hốt nhiên trong định sanh động, tạo hóa tự hiện, như thiên địa phân chia lần đầu, biệt lập kiền khôn như thế vậy. Nếu nhất vật hoặc minh hoặc ẩn, ấy là huyền châu đã thành hình. Huyền châu ấy như ở bên ngoài, nhắm mắt lại rất phân minh như là ở bên trong, mở mắt ngay có thanh bạch tượng. Người khác không thấy. vô hình chỉ mình mình thấy phân minh gọi là vô tượng huyền châu. Đó là mầm đại dược vừa mới sinh, dược còn non nên không thể thái. Nếu có vọng niệm thái là mất huyền châu, tan mất thiên chân chí bảo, phản thành ma cuồng, hô hấp lọan không thể cứu. tính mệnh quý giá không thể xem nhẹ là điều ấy)

    bộ thứ 3
    Thần thủ khôn cung, chân khí tự tụ.
    đầu tiên là ngưng thần ở khôn lô (bếp lò), nung luyện âm tinh, hóa thành dương khí thượng thăng. kế là ngưng thần ở càn đỉnh, dương khí dần tích tụ nhiều, trong suốt sáng láng, thượng hạ thông sáng, ấy là nội chân ngoại ứng, tiên thiên nhất khí từ trong hư vô tự nhiên đến.
    tồn tưởng không giới hạn, không nhờ vào động tác. Hỏa hầu của Tiên thiên nhất khí vừa đến thì nê hòan sinh phong, đan điền hóa lửa cháy mạnh. chu du thân thể, quan khiếu đồng khai, các đốt xương tán ra, xốp nhuyễn như bông, hồn dung (hòa tan) như say.
    (giải thích: khôn cung thuộc địa là âm, ứng với người hậu thiên có hình hữu chung (có kết thúc). Kiền cung thuộc thiên ứng với thần tiên thiên vô trước, kiền cung là hư vô huyền quan nhất khiếu, thật là nguồn của tạo hóa, từ vô mà tạo hữu, từ hữu mà hóa vô, vì có tạo mà có hóa. Khởi đầu do tụ khí ở hư vô nhất khiếu mà sinh ra, kết thúc vì tinh tán nơi ý ảo vọng, lục hại mà chết, tạo hóa tuần hoàn không biết bao nhiêu vạn kiếp, người bẩm (có được) thiên địa âm dương hai khí mà sinh, khí chân dương tại thân là diên là tinh là khảm, khí chân âm tại tâm là hông là thần là li, về hình tượng là người cùng thiên địa đồng thể khí. Người tu chân đã đắc đại dược ban đầu, huyền châu thành hình mà tinh thần tráng vượng, đang giao nhau như vậy, tinh trong thần hạ giao ở khảm, thần trong tinh thượng giao ở li. Nội thì tinh thần giao hợp ở trong. Ngoại thì âm dương giao hợp ở bên ngoài, trong ngoài minh triệt (thông suốt), chiếu diệu thượng hạ, hóa thành một hạt minh châu, hơi tròn tròn sáng rực, tam quan thăng giáng, thượng hạ tất cả chuyển động như luân (bánh xe), chu lưu không ngừng. thấy cảnh tượng như vậy là bên trong tinh thần đã hòa hợp, kim mộc giao hợp, thủy hỏa bắt đầu giao nhau. Đó là bên trong chân thật nên ứng với cảnh tượng bên ngoài. nếu không phải tự thân tạo chân cảnh, lẽ nào có khả năng thế ấy. khí của tiên thiên là mẫu khí, khí của hậu thiên là tử khí, tự nhiên cảm hợp, phản lại tạo hóa kỳ diệu, lúc đầu đắc dược từ ngoài đến. mẫu khí, thiên khí tử khí, nhân khí, nếu người thường thanh tịnh, thiên địa tất cả đều quay trở về. trước khôn sau kiền còn có tên là dời đỉnh hoán lô, ấy là chân khiếu diệu của kim đan, là bí quyết tiên thiên hỏa hầu. lúc mới luyện đan, trước tiên đợi thần chiếu khôn cung, lấy hỏa luyện dược, lấy thần chế khí. Đợi chân khí phát sanh, sau thủ kiền cung, bên trong huyền thai đỉnh (lô đỉnh), kết thành huyền châu, luyện thành đại dược, nuốt vào trong bụng, điểm hóa hết âm khí thành thể kiền dương, ấy là Diệu dụng của không trung. người bây giờ không ngộ diệu dụng của không trung, không ngộ sự truyền thụ của chí nhân, nghe đạo theo thuyết, mù mờ tu luyện, tiện hướng vào trong thủy cầu nó, thủy là mờ mịt, quên niệm quên thể ở trong yểu minh (mờ mịt), há không lạc ở hư không mờ mịt sao, tất cả kết lại là đan không thành. Lấy dùng dương toại (đồ lấy hỏa thời xưa) mọi phương, nhờ lý cảm thông của thủy hỏa, tự đắc được đầu mối là dương toại hỏa châu ở thái dương chánh cung, lấy hỏa châu hướng đến mặt trời thu hỏa. hướng của hạt thủy châu là thái âm chánh cung, lấy thủy châu hướng nguyệt châu. thiên địa huyền cách chi viễn (xa) nhưng chỉ trong một khắc mà tự nhiên đắc thủy hỏa vậy. vật đấy thụ khí của thiên, trên có thể cảm thông nhật nguyệt, đắc thủy hỏa trong khỏanh khắc. huống gì người là vạn vật chi linh, tĩnh định bên trong, há không cảm thông trong thân diệu hóa mà kết thành kim đan sao?. không biết như đang say, ấy là cảnh tượng đắc dược.đang lúc huyền châu thành hình, nhật nguyệt giao quang, là chánh thời kỳ thái dược (hái thuốc), chính là hỏa hầu tiên thiên, đương lúc đang giao ấy, nê hòan tự giác sanh phong, từ thiên thổi xuống hạ, quán nhập vào huyền quan ở giửa hai mắt, bèn thông toàn thân, quan khiếu đều mở, các đốt xương như đoạn lìa, mềm mại như bông, tâm lạnh như băng tuyết, đan điền như hỏa, thân tâm sảng khoái, cẩn thận chớ sợ hải, đó chính là thời gian kích phát chưng nấu thủy hỏa, long hổ thủy hỏa giao hội, sau ít phút ba cung khí tràn đầy, hai khí hòa sâu vào nhau, hết tuyệt trần tình, thần khí thái định, hỏang như say mơ, giống như vạn thủy vạn mộc hỗ tương cảm kích, không biết đến cái ngã của thiên địa nhân. Than ôi chỉ nghe ngàn tiếng chuông như sấm sét, vạn đạo hào quang linh minh nội ngoại, tiếng ngọc tràn cả không gian, tiếng sấm điện vang lừng, lay thông cả kiền khôn. Thái dược trở về, cái ấy diệu dụng, như cái máy nửa thốn bắn ra ngàn nỏ đồng lọat, nhất thủy trở lại quay vần cái chu vạn học. kinh sách nói rằng người phát sát ky, thiên địa phản phúc (lật lại), ấy là cái dụng chân diệu, ví như nguyệt đến vị trí thiên tâm là lúc phong lai thủy diện (phong đến, thủy ngỏanh về). ví như dương liễu gió đến thổi bên trên, ngô đồng nhớ hướng nguyệt chiếu. có câu gió thanh của cung nê hòan hạ xuống cung nguyệt lãng (sáng), gió non giữa rừng, một dòng nước thiên âm giáng xuống thì tất cả hình dung tiên thiên nhất khí bên ngoài sẽ tự đến).

    bộ thứ tư
    Nhất thần quyền biến phân hai tác dụng, thượng thủ huyền quan, hạ đến mẫu phủ.
    Bên trong cái yểu yểu minh minh (mờ mịt) đó ánh hồng chớp sáng, do não bộ giáng xuống hạ đan điền. nội chân khí trong thân lập tức khởi hấp dẫn. ba phiên triều dũng ( như sóng nhỏ hợp lại vọt ra), hà úy vân chưng (như những đám ráng kết lại nhiều thành mây bay lên), cam lộ quỳnh tương , giọt giọt vào bụng. ấy là thấy kim dịch hòan đan.
    Cốt là đợi thân như bàn thạch, tâm tựa băng hồ, không bị tẩu thất.
    (gỉai thích: huyền cung là huyền quan, là luyện thử mễ chi sở (nơi luyện gạo). ví như huyền thai đỉnh, chu sa đỉnh, kiền khôn đỉnh tất cả đều do khác danh xưng mà thôi. Xưa nói kiền khôn, là nơi luyện đan ban đầu, lấy kiền khôn làm đỉnh khí. Đầu tiên ngưng thần tụ ở khôn, trong tĩnh sanh động, thái (hái) âm trong dương là thỏ tủy (tủy của con thỏ). Chân khí bay lên trên đến kiền cung, động nhưng sau tĩnh mà hợp với dương trong âm, có tên là ô can (gan của quạ). Hai vật bao dung lẫn nhau luyện thành như ý châu, gọi là khảm ly giao cấu, quý hoa phát hiện, chân duyên (diên) sơ lộ, tiên thiên sơ hiện, lúc nhất dương sơ động. như canh ba thấy tượng nhật nguyệt ấy đúng họat tý thời. thời thứ nhất phân tác lục hầu, ví như nhị hầu đắc dược, tứ hầu có diệu dụng khác biệt, đó là thời đắc dược sơ nhất hầu. đã đắc dược sơ nhất hầu thì nên nhập tĩnh thất, vận thiên thiên chi hỏa, nhập lại đỉnh đoài nửa vầng trăng hiện, đó là lúc có âm thanh của long ngâm hổ khiếu. Diên hống tròn vẹn tẩy tâm địch lự (tẩy rửa cái tâm lo nghĩ), mộc dục (phép tắm gội) đề phòng. Dần dần qua mười ba ngày thì sanh kiền giáp, khoảng năm mươi ngày ấy là lúc kiền khôn viên mãn, ngân ngạc đã thành, huyền tẫn đã lập, kim hoa đã hiện, là lúc tam dương đã đủ. Nguyệt viên mãn ở giáp phương, ứng với tượng của quẻ kiền, chỉ e ngại khi gặp kim thì mong vận chuyển, chính là nhật nguyệt trọng minh chi tế ( nhật nguyệt nặng sáng giao nhau), tái đắc hỏa hầu của dược, nhị hầu đắc dược. tứ hầu có các pháp diệu dụng riêng, là tượng hình bán nguyệt trước mắt, một nữa minh nguyệt bên trong, có âm thanh long ngâm hỗ khiếu, cốt lo phòng nguy hiểm diệu dụng. hỏa hầu của tiên thai thành, như trăng 18, dùng nhất âm thủ thành ở tốn phương, là dã chiến chi diệu dụng. kế luyện nhị âm, hạ huyền nhị thập tam, dùng cấn địa tẩy tâm mộc dục, luyện hết tận tam âm, dương thần xuất hiện, đề phòng cố tể chi diệu dụng là tiền tam tam hậu tam tam, diệu dụng của tứ hầu là lý đắc hầu của nhị dược. thần thủ huyền cung, ý nghênh tẫn phủ, ấy là câu khẩu quyết thái dược. đang lúc bên trong huyền cung, chí tinh phát sanh, chân diên là khí, phát hiện tượng hình nhật nguyệt trước mặt, chân hống là thủy, phát hiên hình tượng mặt trời hồng. bên trong nhật nguyệt đều phát ra hai đóa kim hoa, mạnh mẽ như núi đan, sắc đỏ hồng kim (vàng). ấy chính là không già không non, cấp cấp thái thủ, thái thủ ra sao?. Quyết nói chỉ là ý nghênh tẫn phủ, thần ý tương hợp, tiên thiên tự đắc. hỏang hoảng hốt hốt, yều yểu minh minh (mờ mịt khôn lường), nhất điểm hồng quang, lấp lánh nhập vào hạ nguyên, giao hội với chân âm, âm bèn tự nhiên thấu hợp, âm bèn ôm ấp dương, dương bèn kích âm, âm dương kích phát, hải lãng phiếm dũng ( sóng biển tuôn trào), từ thái huyền quan đến vĩ lư giáp tích, qua ngọc chẩm hóa thành kim dịch, quỳnh tương nhập vào trong bụng, thơm ngọt, trong trẻo, sảng khóai,tai nghe tiếng trống, tiếng vạn khỏa lôi ô (vạn hạt sấm sét), quân (bằng) thiên diệu dược, phi cầm phi sắt (không phải tiếng đàn cầm, sắt), phi địch phi tiêu (không phải tiếng địch tiêu), mà là một diệu âm bật nhất khác, như tiếng hàn tuyền (suối lạnh) làm tan ngọc, như tiếng kim khánh lay động hư không, như tiếng ve mùa thu không ngừng, tựa như gió đánh vào trống thanh tùng, thật khác thường, tiếng ngọc chấn hưởng, có tiếng của bầy quạ đồng kêu, như lòai chim hòa vận, khẩu hàm mục kinh (miệng ngậm mắt thấy sợ), tâm yêu ý thích, thành ban nhạc lớn, thật đó là thiên cung diệu cảnh, khách phàn trần như mù như điếc. thân tâm thanh tịnh, trăm quan thông suốt, vạn lổ sinh xuân, biến thành vạn đạo hào quang, hiện lên một viên quang, bên trong có tượng hình anh nhi, đó là dương thần xuất hiện vậy. tròn vẹn nên phòng ngừa nguy hiểm, không nên rời xa.)

    bộ thứ 5
    Thần thủ hùynh đình, tiên thai thự kết, sớm sớm tối tối, đi đứng nằm ngồi không thể rời nó.
    Mười tháng thai vẹn tròn, huyền châu thành tượng, ba năm đủ hỏa, âm phách tiêu hết, thân ngoại hữu thân, hiện là thần gom thu khí, trong hình không có vật chất , ẩn là khí thu vào thần. cửu tái công hòan, hình thần câu diệu, bách thiên vạn kiếp, đạo thể trường tồn.
    (giải thích: hoàng phòng là hùynh đình cung, vẫn là kiền thì hạ, khôn thì thượng, trở về khuôn phép đúng. Kim thai tức tiên thai, kim là vật cứng không bị hủy hoại, đó là nguyên thần của người, không hư không hoại, là thể thanh tịnh diệu dụng, như kim bền bĩ, như sắt cứng bền, tịnh như lưu li, sáng như trăng rằm, không giảm đi độ sáng, nếu có một niệm sai, là nhân tạo huyễn hóa (ảo hóa). Đắc phản hoàn đan đạo cốt luyện hữu hợp vô, đầu hắc kết hồng mà thành tiên thai, phản lại chân thương của bổn lai, hợp diệu dụng của nguyên thủy. kim thai tự thành, quy trung chi diệu, lấy thần thủ khí. Bên trong hòang đình, nhất ý không tán, 12 thời đều thủ trung, cốt niệm có ích, hàm quang tàng diệu, thu lại tai mắt, luôn luôn tồn tưởng, không rời một chút, như gà ấp trứng, như long dưỡng châu. Long dưỡng hạng hạ châu, tâm ý không quên, tinh thần cảm hóa, châu này có quang, đã sanh quang lâu, châu thành tiểu long, phi lên thái không, hoặc thu hoặc phóng, lúc người thấy nó đó là long tượng, long ấy là thần, thần vẹn biến hóa, lên mây gọi mưa, thóat cốt bay lên thì là thần long. Sở dỉ có thể lớn nhỏ, có thể ẩn hiện, động thì xé thái sơn phát ánh sáng hồng, tạo nên mây mù, kích phát sấm sét, tĩnh thì thần tàng ở uyên tuyền (suối sâu), là vật dương linh. Là đạo Kim đan, học tiên thiên cũng đồng lý ấy, ban đầu là bảo nguyên thủ nhất ( bảo vệ chân nguyên thủ nhất), dưỡng tiên thiên thử mễ (hạt gạo là màu vàng luyện được), nguyên thần diệu châu tồn tưởng lâu ngày, tự nhiên nguyên thần và hạt gạo vàng ấy tương hội kiếp kiếp, dần dần biến hóa lẫn nhau, trăng non đẹp đẽ trước mặt , rồi đến nửa vòng thượng huyền (trăng nửa vòng của ngày 7, 8 âm lịch), dần dần đến trăng rằm tròn tròn trước mắt. tự phát ra kim quang, nhật nguyệt hợp bích, duyên hống tương đầu (nương tựa lẫn nhau), kết thành tiên thai, dưỡng ấm ba năm, anh nhân (anh nhi) lão thành (trưởng thành), đến chín năm, công thành viên mãn, âm đục tiêu hết, một thần có thể hóa thành trăm vạn thần, hình thần câu diệu, xuất hữu nhập vô, luyện thần cùng thái hư đồng thể, phản hồi vô cực chân đạo, hợp với nguyên thủy diệu cảnh vậy, quán thiên địa tại huyền diệu cung như hạt gạo thái thượng ấy, nghe rằng một mảnh thái hư, do đâu mà ngũ hành nối liền, do đâu mà âm dương biến hóa, đó là do thiên địa, do ta bày ra, âm dương do ta nắm lấy, vĩnh vô chung vô thủy ( mãi không có mở đầu, không có kết thúc), muôn kiếp vẫn tồn tại, cùng đạo hợp chân, thần tiên thay, thần tiên thay.
    Bài trên không quá năm trăm bốn chục chữ mà bao quát tòan bộ đan pháp bên trong. Bất luận Nam phái, Bắc phái, Đông phái, Tây phái, Trần Hi Di phái, Trương Tam Phong phái tất cả không nằm ngòai phạm vi trên. Chỉ có những loại hạ phẩm khác, bàng môn tiểu thuật, giang hồ tà giáo vân vân, tài liệu những pháp ấy không được ghi ra. Ta xem người xưa soạn đan kinh, dùng nhiều ngôn ngữ ẩn dụ, dùng tòan tên lạ làm độc giả mờ mịt khó hiểu. lời văn không rỏ nghĩa, trình tự rối loạn, người sử dụng không thể theo đó mà hạ thủ công phu. Suốt năm xem xét qua (đạo tạng) năm ngàn bốn trăm tám chục quyển. cùng các sách khác ngoài sách đạo, đạo thư số lên đến ngàn quyển, cộng tính lại lên đến vạn quyển. chưa hiểu hết được tất cả, trình bày đơn giản lại như vậy.
    Khẩu quyết trên do sư phụ viết thành, từ trước đến nay, phàm đồng chí với ta để bổ túc cho duyên thế nhân. có thể sẽ ngộ. là may mắn nên chớ khing thường. nên suốt đời yêu quý sách và hay giúp đở người. Cần thiết là không nên truyền sai cho người.

    Năm ất 1995, chưa lập thu, nhật trần anh sao chép lưu trử ở y thất từ hải


    CÁCH KHÔNG ĐẢ VẬT

    Bí quyết của thuật cách không đã vật là 'tâm lực tương y', bạn đã biết 'tâm tức tương y' thế nào rồi, khi tâm hợp làm một với hơi thở thì hơi thở ngừng lại theo ý muốn của tâm, đó là thai tức. Còn tâm lực tương y là thế nào? đó là tâm hợp làm một với lực, khi lực phát ra thì cách không đả vật theo ý muốn của tâm, dĩ nhiên là phải kiên nhẫn lâu ngày thì tâm lực sẽ hợp nhất, hoàn toàn không có chuyện phóng khí hao khí ở đây, phương pháp cơ bản nhất là đánh tắt cây nến từ xa 1m theo cách luyện nội công, hít vào và nín thở tưởng tượng hai tay bê một khối không khí hoặc là một tảng đá, khi tung chưởng ra thì tưởng tượng khối không khí, (đá) bay tới dập tắt ngọn nến, khi đó kết hợp thở ra thật mạnh, bạn luyện như thế đến khi nào tắt được ngọn nến thì báo cáo tôi hay nhé
    Dĩ nhiên mức độ công phá đến đâu phải phụ thuộc vào mức độ tập trung của tâm, do đó vấn đề lại quay trở về luyện phát triển sức mạnh của tâm, nếu không thì luyện 10 năm chắc cũng chỉ đến làm tắt nến là cùng.
    Ngoài các khái niệm tâm tức, tâm lực, còn có khái niệm tâm ý hợp nhất, những người có ý chí đội đá vá trời thuộc dạng này, và đây là cái cần thiết nhất để thành công trong cuộc sống.
    Nói rõ hơn về tâm ý hợp nhất
    tâm là những gì bất biến trường tồn
    ý là mong muốn nhất thời, nó có thể bị thay đổi theo thời gian
    Khi tâm hợp ý thì sẽ khiến cho ý trở thành tâm, mong muốn nhất thời trở thành một kế hoạch nhất định phải thực hiện được, điều này để phân biệt giữa những người có ý chí hay không có ý chí, hơn thế nữa, tâm càng mạnh chứng nào thì khi hợp ý sẽ biến mong muốn trở thành hiện thực mạnh chừng ấy, điều này để phân biệt giữa người có tâm mạnh hay không, nhiều người tuy có ý chí mà không thể thành công là do tâm chưa đủ sức mạnh.








    huyenquangtu - daogiakhicong.org


    MẬT TÔNG
    BÍ MẬT CỦA MẬT TÔNG ĐẠI THỦ ẤN VÀ KINH MẠCH

    Ba món báu mật của Đạo Giáo là TINH – KHÍ – THẦN Ba món vật quí giá của Phật Giáo Hiển Tông là PHẬT – PHÁP – TĂNG Ba món vật quí báu của Phật Giáo Mật Tông là KHÍ – MẠCH – MINH ĐIỂM .
    Mật Tông chú trọng sự luyện tập của cá nhân về Ý và KHÍ Từ sự luyện tập ĐIỂM trở thành KHÍ, và từ KHÍ chuyển vận KINH MẠCH, từ đó sinh ra NỘI HỎA ( lửa bên trong ), từ nội hỏa sản sinh ra QUANG MINH ( sự chiếu sáng ), từ quang minh hòa nhập vào biển VŨ TRỤ QUANG, đạt đến cảnh giới của PHẬT QUẢ, đó là sự liên hệ quan trọng, giữa ĐẠI THỦ ẤN và KINH MẠCH .
    KINH MẠCH là gì ? người xưa có nói: Kinh mạch giả, hành khí huyết, thông âm dương. Trong cơ thể của con người, kinh mạch là những con đường, để khí huyết lưu thông đi nuôi cơ thể .
    Sự tu luyện của Đạo gia phái Côn Luân, chú trọng đến phương pháp Thông Tam Tiêu – là Thượng Tiêu, từ̉ hoành cách mô trở lên, trung tiêu là từ hoành cách mô xuống đến bụng, hạ tiêu là từ bụng xuống đến chân.
    Kinh mạch được chia ra làm 12 đường kinh mạch là: 1.- Thủ thái dương phế kinh . 2.- Thủ âm minh đại trường kinh . 3.- Túc âm minh vị kinh. 4.- Túc thái dương tỳ kinh.5.- Thủ thiếu dương tâm kinh.6.- Thủ thái âm tiểu trường kinh .7.- Túc thái âm bàng quang kinh.. 8.- Túc thiếu dương thận kinh . 9.- Thủ khuyết dương tâm bào kinh.10.- Thủ thiếu âm tam tiêu kinh.11.-Túc thiếu âm đảm kinh.12.- Túc khuyết dương can kinh.
    Kỳ kinh bát mạch gồm có: 1.- Nhâm mạch . 2.- Đốc mạch . 3.- Xung mạch.4.- Đới mạch.5.- Dương duy mạch.6.- Âm duy mạch.7.- Dương kiểu mạch.8.- Âm kiểu mạch.
    Sự tu luyện cuả Đạo gia, vận khí trong 12 kinh mạch, gọi là sự vận hành khí trong Đại Châu Thiên, còn sự vận hành khhí trong kỳ kinh bát mạch gọi là Tiểu Châu thiên .
    Phương pháp Đại Thủ Ấn của Mật Tông, không phân chia phức tạp như Đạo gia.
    Mật tông đem những Tùng Thần kinh, Chủ yếu là Kinh Mạch chia ra làm 7 trung tâm, phân chia như sau: 1.- Đỉnh đầu .2.- Giữa chân mày.3.- Ở cổ.4.- Ở giữa ngực ngang tim.5.- Ở bụng.6.- Sinh thực khí. 7.-Ở xương cùng.
    Đem nội hỏa gọi là châm lửa, đem mạch phân làm Tả mạch – Hữu mạch và Trung mạch. Do đó, 7 trung tâm và 3 mạch cuả Mật Tông và 12 kinh cùng Bát mạch của Đạo giáo, đại thể căn bản là giống nhau.
    Đại Thủ Ấn nói về vận hành khí huyết, thông kinh mạch, nước cam lồ thấm nhuần tạng phủ, thấm nhuần gân cốt, điều hòa Thủy,Hỏa, Phong, Thổ . Những tác dụng trên, đều giống cách luyện tập của Đạo gia trung Hoa .
    Phương pháp thông quan của Mật tông là đầu tiên đả thông kinh mạch sau đó hội tụ lửa thành một điểm, sau đó châm lửa đốt thành ánh sáng phương pháp nầy giống như phương pháp của Đạo gia là:
    luyện Tinh hóa Khí, luyện khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư, Luyện Hư hoàn Đạo.
    Ba điểm bí mật của Mật Tông Đại Thủ Ấn là: 1.- Quán tưởng. 2.- Thất chi thiền tọa. 3.- Chú Âm tức là thu nạp hít thở và niệm chú .
    Tam quán của Đại thủ Ấn là: Không quán – Giả quán và Trung quán.
    Không quán là quán tưởng vạn pháp tự thể là không có Giả quán là vạn pháp do duyên sanh hư tướng, sanh sanh diệt diệt . Trung quán là vạn pháp không thiệt, không giả, trung đạo, tức là áp dụng vạn pháp cho đúng lúc đúng thời, đúng Thời và Vị theo như tinh hoa cuả Kinh Dịch vậy .
    Tập luyện Tam quán cuả Đại Thủ Ấn, có thể giúp Hành giả phá vở Ba điều mê hoặc, chứng đắc Tam trí và thành tựu Tam Đức, cuối cùng vĩnh viễn thoát được Ma đạo.
    Ngoài ra còn có sự quán tưởng huyệt Đan điền là Nội quán, còn Ngoại quán, Hành giả có thể nhìn chân dung, Pháp tướng uy nghiêm, hình ảnh vị Thầy của mình, làm đối tượng để quán tưởng Hành giả nhìn vài giữa chân dung, ngay chân mày cuả Thầy mình một cách mảnh liệt và tưởng tượng từ đó phóng ra, một luồng ánh sáng trắng, phóng đến giữa chân mày của mình. Đây là phương pháp tập trung tinh thần, đem tạp niệm biến thành nhất niệm, tập như thế một thời gian, hành giả có thể tiến đến,tập nội quán, quán tưởng tại đan điền . Khi hành giả tập trung chú ý đến huyệt Đan điền, thì ánh sáng sẽ hiện ra .
    Ngoại quán, quán tưởng lấy chân dung uy nghiêm vị Thầy của mình làm đối tượng để quán tưởng còn Nội quán, quán tưởng của Đạo gia, thì đầu tiên quán tưởng huyệt đan điền, sau đến huyệt mạng môn, thứ ba quán tưởng huyệt Dủng Tuyền ở chân, thứ tư huyệt Bách hội, sau đó quán huyệt Mi tâm, giữa chân mày .
    Còn nguyên tắc Đại Thủ Ấn của Mật Tông, đầu tiên quán tưởng Đan điền, sau đó đến trung tâm ở bụng, đến trung tâm tim, thứ tư ở cổ, thứ năm mi tâm và chót hết đến đỉnh đầu .
    Trong lúc quán tưởng, không được căng thẳng thần kinh, hay chú ý quá sức, mà cần phải thư thả tự nhiên, không gấp rút ....
    Về phương pháp quán tưởng để làm phát sinh luồng nhiệt năng nội hỏa, thì hoàn toàn nhờ vào sự hít thở và tưởng tượng khi hít không khí vào, thì tưởng tượng màu trắng, khi đến đơn điền biến thành màu đỏ, khi thở không khí ra, không khí biến thành màu đen . Việc tưởng tượng màu sắc có ý nghĩa như sau: Tưởng tượng ánh sáng trắng là biểu hiện cuả sự hấp thụ thanh tịnh quang minh màu đỏ là sự phát sinh nội hỏa màu đen là sự phế thải ra khí dơ và nghiệp chướng, hoặc có thể thay màu đen thành màu lam hay xanh cũng được .
    Phương pháp quán tưởng nội hỏa:
    Đầu tiên tưởng tượng một điểm tròn màu đỏ, tại huyệt đan điền, cách dưới rốn 4 ngón tay, huyệt nầy là điểm giao thoa của Tam mạch, tả hữu và trung mạch Điểm đỏ nầy được tưởng tượng như một đốm lửa nóng như than hồng trong lò, đỏ rực tỏa ra hơi nóng, sau đó hít một hơi dài, vận khí đi vào hai mạch tả hữu, để đi đến huyệt đan điền, thổi cho điểm lửa ở đây, mổi lúc càng nóng hơn khi thở ra hành giả tưởng tượng, thở ra không khí màu đen, hít thở như vậy, một vòng gọi là một tức cứ 10 tức thì cục lửa hóa ra to lớn hơn và thăng lên một trung tâm lực cao hơn,tức từ đan điền đi lên trung tâm tim, cổ, mi tâm Hít vào đếm 6 nhịp, ngưng 2, thở ra 6, ngưng 2 là xong một chu kỳ.
    Khi tập lên cao, Thủ Ấn, Thân Ấn có thể biến thành quán tưởng Chú ngữ biến thành Thu Nạp hít thở và hít thở có thể hóa thành khí để quán tưởng đó là sự hợp nhất của Tam Quán .

    BÍ MẬT BÊN TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI
    VÀ ẤN QUYẾT MẬT TÔNG

    Tam mật trong Mật Tông là: Thân Mật – khẩu Mật và Ý Mật. Ý nghĩa nội tại của tam mật được giãi nghĩa ở ba cấp bậc luyện tập cao thấp khác nhau .
    Nói riêng về thân mật, qui nạp lại có hai ý nghĩa: 1.- Bí mật thân thể của con người và vũ trụ, trời đất có một sự tương quan liên lạcvới nhau rất mật thiết . Nhưng vì đa số con người, không có luyện tập, để có đại trí tuệ, và không được thông qua sự luyện tập hợp lý, nên vĩnh viễn không thể phát huy được, sự tác dụng hổ tương nầy và không khai mở được sự bí mật tương quan của cơ thể con người cùng vũ trụ . 2.- Mật Tông nhận thấy rằng, có nhiều phương pháp luyện tập, truyền thống bí mật, được lưu truyền từ ngàn xưa, có thể giúp con người nhanh chóng, luyện tập trong một khoảng thời gian ngắn, có thể giúp con người liên lạc, cảm ứng được Thần Linh, và kết hợp con người và vũ trụ lại làm một, tiến đến đưa con người đến quả vị Thánh và Phật .
    Nhưng từ phạm vi đạo lý và luyện tập Mật Tông của Nhật Bản và Mật tông của Tây Tạng, có những điểm căn bản khác nhau . Phía Mật tông Nhật Bản, sự kết hợp Tâm Thức và Tâm Lý, giữa sự quán tưởng, cùng một cách thức tập luyện nào đó, để kết hợp thành những hình ấn quyết khác, thông qua sự tập luyện hành giả có thể thâu đạt được những tiềm năng huyền bí, rất đáng được nghiên cứu và học tập. Về phía Mật Tông Tây Tạng, ngoại trừ uy lực của Ấn Quyết, còn có khí lực của thân người, kinh mạch, tuyến nội tiết của thân người, đều có khả năng bí mật, giúp cho con người TỨC THÂN THÀNH PHẬT, THIÊN NHÂN TƯƠNG THÔNG, HỢP NHẤT VỚI NHAU Có thể nói là rất gần với sự tập luyện khí và kinh Mạch của Đạo gia Trung Hoa .
    Những kẻ bàng quan, những kẻ không hiểu biết, khi xem qua những Ấn Quyết của Mật Tông, có thể hiểu lầm là những trò đùa của ảo thuật Nhưng thật ra, đó là những khoa học bí mật cao cấp về nhân thể quang học và Nhân Thể Điện và Hóa Học, sẽ được khoa học giải thích nội dung bí mật của nó trong một ngày gần đây .

    SỰ LIÊN QUAN GIỮA KHÍ LỰC KINH MẠCH
    CỦA HAI BÀN TAY – CHÂN ĐƯỢC XỬ DỤNG
    TRONG LÚC BẮT ẤN QUYẾT

    Ấn quyết là sự chứng nghiệm của cổ nhân để lại trong khi luyện tập, dùng hai bàn tay để bắt ấn, thì ta sẽ chứng nghiệm và cảm nhận được luồng khí lực, được phát ra rất mạnh từ hai bàn tay, và ta chỉ cần luyện tập trong một khoảng thời gian ngắn là có thể đạt được hiệu quả Dùng phương pháp Tam Mật Tương Ứng, mà hằng tâm tập luyện, các ấn quyết một cách tuần tự, chỉ trong một thời gian tập luyện liên tục đến khi khí lực trong cơ thể, đã nhờ sự tập luyện, mà tích tụ đầy đủ mạnh thì ta có thể vận dụng làm chuyển động toàn khí lực, trong toàn thân ra ngoài hai bàn tay đang bắt ấn quyết, sẽ khiến ấn quyết đang bắt, sẽ phát ra một luồng khí quang sáng rực.
    Sau đây là sự liên hệ giữa thủ ấn và kinh mạch:
    Bàn tay trái gọi là Thiện Niệm Thủ, còn gọi là Chỉ thủ – bàn tay đình chỉ, ngưng – hay còn gọi là Tam muội Thủ . Bàn tay mặt gọi là Bi Niệm thủ, còn có tên là Quán thủ, Bát Nhả . Mổi bàn tay gọi là Kim Cang Chưởng . Mười ngón tay thường được gọi là Thập Luân Viên Mản, lại còn có tên là Thập Độ, Thập Địa, Thập Giới, Thập Ba La Mật Mười đầu ngón tay được gọi là Thập Ba La Mật Phong – tức là mười đỉnh của mười ngọn núi cao . Ngón cái tay trái có tên gọi là Trí, ngón trỏ là Lực, ngón giữa là Nguyện, ngón áp út là Phương, ngón út là Huệ . Ngón cái tay mặt là Thiền, ngón trỏ là Tiến, ngón giữa là Nhẩn, ngón áp út là Giới, ngón út là Thí .
    Sau khi luyện tập thủ ấn, đã phát động được nội khí, ta có thể vận động 10 ngón tay và 10 ngón chân, để nội khí trong 12 kinh mạch và kỳ kinh bát mạch, được vận hành, khiến cho khí huyết trong cơ thể được lưu thông tốt, đẩy mạnh quá trình biến dưởng, thông qua đó giúp cho cơ thể chống được bệnh tật và sự tấn công của ngoại giới .
    Sự lay động các ngón tay,hay sự khâu vòng các ngón tay lại với nhau, có thể làm cho nội khí vận hành trong cơ thể, sản sinh ra sự kích động, làm cho cơ thể tự rung động, ngả nghiêng và kích động mảnh liệt .
    Trong lúc luyện công bắt ấn, các luồng khí lực trong cơ thể, được phát ra theo đầu các ngón tay như sau:
    -Ngón cái phát ra khí lực của Thái Âm Phế kinh.
    -Ngón trỏ phát ra khí lực của Dương minh Đại Trường Kinh .
    -Ngón giữa phát ra khí lực của kinh tâm Bào Lạc .
    -Ngón út phát ra khí lực của Tiểu Trường Kinh và Tâm Kinh .
    Trong lúc luyện công bắt ấn, các luồng khí lực trong cơ thể, được phát ra theo đầu các ngón chân như sau:
    -Ngón chân cái phát ra khí lực của Tỳ Kinh.
    -Ngón chân trỏ phát ra khí lực của Can Kinh.
    -Ngón chân giữa phát ra khí lực của Vị Kinh.
    -Ngón chân áp út phát ra khí lực của Đảm Kinh.
    Phàm lệ khi các ngón tay bắt ấn, khâu vòng vào nhau, thì có công năng luyện khí nội tại bên trong của cơ thể còn khi các ngón tay nào duổi thẳng, thì có công năng phóng phát khí lực từ bên trong ra ngoài Do đó, Khí lực nội luyện là Bổ, còn khí lực được phóng ra ngoài là Tả.
    Vì thế, tùy theo tình hình sức khõe của mổi người, mà bắt ấn Bổ hoặc Tả, để luyện tập – Cơ thể yếy thì Bổ và ngược lại, cơ thể quá dư thừa khí lực thì Tả.
    Sự Bổ Tả của khí lực dùng trong các ấn quyết trong lụ́c luyện tập là:
    KIM CANG TAM CÔ ẤN: Hai đầu ngón cái và ngón trỏ của mổi bàn tay nối lại vòng tròn, còn các ngón còn lại duổi thẳng ra, hai bàn tay để trước bụng, tay mặt để bên, trên tay trái để bên dưới, ấn nầy dùng để làm bổ khí lực của Thái Âm Phế Kinh và Đại Trường Kinh. Đồng thời bài tiết, phế thải khí lực dư thừa hay thải trược khí của ngón giữa là Tâm Bào Kinh, ngón áp út Tam Tiêu Kinh và ngón út Tiểu trường Kinh.
    QUAN ÂM CAM LỘ ẤN: Hai đầu ngón cái và ngón giữa khâu vòng lại, các ngón còn lại duổi thẳng lên, bàn tay để trước ngực . Dùng để tập luyện làm bổ cho khí lực của ngón cái là Thủ Thái Âm Phế Kinh, ngón giữa là Tâm Bào Lạc Kinh, đồng thời làm phóng khí lực hoặc làm bài tiết phế thải khí lực dư thừa hay trược khí của ngón trỏ Đại Trường Kinh, Ngón áp út Tam Tiêu Kinh và ngón út Tiểu trường Kinh và Tâm Kinh.
    KIẾT TƯỜNG ẤN: Đầu ngón cái và ngón áp út đeo nhẩn khâu vòng chạm vào nhau, các ngón khác duổi thẳng lên . Được tập luyện để làm bồi bổ khí lực của Thủ Thái Âm Kinh và ngón áp út là Tam Tiêu Kinh, làm phóng khí lực của ngón trỏ là Đại Trường Kinh, ngón giữa là Tâm Bào Lạc Kinh, ngón út là Tiểu Trường Kinh và Tâm Kinh.

    NGŨ HÀNH ẤN ĐƯỢC DÙNG TRONG VÕ THUẬT
    Khi giáp trận chiến đấu, nhà Võ Thuật Gia có thể dùng các ngón tay, đan xỏ vào nhau, để bắt thành Ngũ Hành Ấn: Địa – Thủy – Hỏa – Phong – Không . Để nhờ đó, họ có thể tập trung sự chú ý vào trong các ấn quyết nầy, để điều chỉnh năng lượng tâm thức của mình, lên đến các cảnh giới cao, chuẩn bị các thái độ cần phải có, để làm nền tảng, cho các kỷ thuật, hoặc các đòn thế thích hợp với tình hình chiến đấu cần đến .
    Ấn quyết trong võ thuật được các sát thủ Ninja Nhật Bản xử dụng trong các cuộc chiến đấu . Những ấn quyết nầy được tuyển chọn cẩn thận từ các hệ thống Yoga của Ấn Độ, và từ các phái Mật Tông của Phật Giáo .
    Các ấn quyết nầy được xử dụng, như một kỷ thuật để làm nền tảng, cho sự tập trung tất cả ý chí, cùng phát huy tận dụng toàn thể, năng lực tiềm ẩn của nhà Võ Thuật Gia, để dùng trong một cuộc chiến đấu sinh tử.
    Ngũ Hành Ấn Quyết là đại biểu cho Đất, Nước, Lửa, Gió và Không Đại, là những ấn quyết cơ bản, bắt đầu cho 81 ấn quyết, hiệu quả trong tương lai .
    81 ấn quyết được lần lượt đan quyện vào nhau, tùy hoàn cảnh và tình thế cần đến, Nhà võ thuật gia có thể làm yên lặng tâm thức của mình, và xử dụng Ngũ Hành Ấn, để mang tâm thức của mình lên cảnh giới cao hơn ( giống như lên đồng ), để tạo những thay đổi trong cơ thể theo ý muốn, như làm giảm áp suất của máu, làm tim đập chậm lại, tập trung toàn thể sự chú ý vào một vấn đề quan trọng nào cần giải quyết có thể kéo dài sự tỉnh táo trong một thời gian dài và có thể nín thở từ 3 phút trở lên .
    Ấn quyết có thể giúp Nhà Võ Thuật Gia, xử dụng tâm thức của mình một cách hoàn hảo trong mọi hoàn cảnh, dấn thân trong các sứ mạng nguy hiểm .
    Những sự tập luyện của phái Mật Tông Nhật Bản ( MIKKYO ), có thể giúp cho Nhà Võ Thuật Gia, phát triển những quyền năng tâm linh và những sức mạnh siêu hình, dùng để hổ trợ cho các giác quan và những đòn thế trong việc chiến đấu .
    Ngoài ra, các sát thủ Ninja cuả các quốc gia Đông phương còn xử dụng cả Cửu Tự Ấn Quyết của Mật Tông trong sự tập luyện và dùng cả trong chiến đấu nửa .
    Cửu tự Ấn quyết thường dùng chung với Thập Tự Quyết:
    Cửu Tự Ấn Quyết là: LÂM – BINH – ĐẤU – GIẢ – GIAI- TRẬN – LIỆT – TIỀN
    Thập Tự Quyết: là bùa Tứ Tung Ngũ Hoành vẽ đan xỏ vào nhau. Thập Tự Quyết dùng để ếm các sự xâm phạm của ma quỷ, cùng những hiểm nguy có thể xảy đến cho nhà Võ Thuật Gia, bằng cách liên tục bắt Cửu Tự Ấn, xong dùng kiếm ấn tay mặt, vẽ Thập Tự Quyết trong lòng bàn tay trái, xong nắm lại và thổi phù vào đó, đồng thời bàn tay phóng bùa nầy, vào nơi chổ mình muốn yếm hay vào nơi bị bệnh của bệnh nhân trong khi trị bệnh bằng khí công ngoại cảm cho người khác.

    THẬP NHỊ ĐOẠN CẨM
    (bài tập tự chữa bách bệnh)

    Bài tập 12 động tác này là một trong những bí quyết giữ sức khỏe của giáo sư Nguyễn Lân, một biểu tượng về chữ thọ trong làng trí thức Việt Nam (cụ thọ 99 tuổi). Ngoài việc giữ sức khỏe và giúp trường thọ, nó còn có tác dụng chữa nhiều bệnh tật.
    Nhà báo Nguyễn Trương Đàn, một người quen của giáo sư Lân kể: Khoảng đầu những năm 90 của thế kỷ trước, trong một hội nghị, các phóng viên hỏi giáo sư Nguyễn Lân về bí quyết để có được sức khỏe và sự minh mẫn ở tuổi bát tuần. Cụ Lân cười, lấy ra một tờ báo: “Tôi đã trả lời phỏng vấn về điều đó trên tờ báo này. Xin được biếu chị làm kỷ niệm và thay cho câu trả lời của tôi”. Lúc đó, ông Trần Nguyên Vấn ở Ban biên tập văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam nói chen vào: “Dạ, em cũng đã đọc bài báo của thày rồi ạ. Em cũng đang thực hiện những điều thày phổ biến. Em còn nhớ, thày dặn là khi xoa bóp toàn thân, phải nhớ xoa cho cả cái ấy nữa".
    Khi mọi người đã tản đi, ông Đàn đến bên cụ Lân. Cụ bảo: "Tôi trông sắc da anh, hình như anh có bệnh gì về nội tiết đấy! Tôi muốn biếu anh một bài thuốc, nếu anh chịu làm theo thì có thể tăng cường sức khỏe, làm báo được lâu dài”. Trong khoảng mười phút, ông đã học được 12 động tác trong bài thuốc mà giáo sư Lân truyền thụ. Sau này, ông mới biết mình bị bệnh tiểu đường. Khi phát hiện ra bệnh, ông Đàn vẫn vừa uống thuốc Tây, vừa tập luyện đều đặn bài tập đó. Dần dần, đường máu của ông luôn được giữ ở mức ổn định dù không còn dùng thuốc Tây thường xuyên. Sau này đọc các sách thuốc, ông Đàn mới phát hiện ra, đó chính là bài tập để tự chữa bách bệnh của người Trung Quốc có tên là “Thập nhị đoạn cẩm”, nghĩa là 12 tấm gấm. Việc luyện tập 12 động tác này lâu ngày sẽ làm cho huyết mạch lưu thông, trừ khử bệnh tật, kéo dài tuổi thọ.
    Phương pháp tập như sau:
    1. Cắn răng: Hai hàm răng nhẹ nhẹ cắn vào nhau 36 lần.
    2. Nuốt nước bọt: Lòng dạ thanh thản, lấy đầu lưỡi ngoáy trong mồm để nước bọt ra đầy mồm, rồi súc miệng 36 lần, nuốt nước bọt làm 3 lần và dùng ý niệm đưa nước bọt về phía đan điền (vùng dưới rốn).
    3. Rửa mặt: Hai tay xoa vào nhau cho nóng lên, rồi xoa lên mặt, từ hai khóe miệng lên cánh mũi ra hai bên má, lên hai bên thái dương, lại kéo xuống cằm, làm đi làm lại nhiều lần, xoa đến khi nóng là được.
    4. Gõ trống trời: Hai tay bịt tai, ngón tay trỏ đặt lên trên ngón tay giữa rồi bật mạnh xuống đầu, làm 24 lần.
    5. Động huyệt cao manh: Hai vai quay đi quay lại 36 lần.
    6. Đỡ trời: Nắm hai tay, sau khi hít đầy khí, nín thở, đồng thời một tay xòe ra hướng lên trời, sau đó từ từ bỏ xuống, mỗi tay làm 3 lần.
    7. Bắn cung phải trái: Nín hơi, tay trái đưa thẳng ra phía trước, tay phải làm động tác kéo dây cung. Tay phải tay trái đổi động tác cho nhau, làm 3 lần.
    8. Xoa đan điền: Tay trái để vào chỗ thận, tay phải xoa vào đan điền, hai tay thay đổi nhau 36 lần.
    9. Xoa huyệt nội thận: Nín hơi, hai tay xoa cho nóng, xoa huyệt mệnh môn (chính giữa thắt lưng, dưới đốt sống thứ 2 tính từ dưới lên) 36 lần.
    10. Xoa huyệt dũng tuyền: Tay trái cầm bàn chân trái lên, tay phải xoa vào bàn chân trái 36 lần, lại đổi sang chân phải.
    11. Xoa huyệt hiệp tích: Xoa khe xương ngực số 3 và số 4 36 lần.
    12. Vẩy chân: Chân trái đứng yên, chân phải nhấc lên vẩy 7 lần, lại đổi sang chân trái, vẩy 7 lần.
    Đây là bài tập tối thiểu cho một người bình thường nghĩa là một người khỏe mạnh khi có điều kiện cần luyện tập những môn thể dục mạnh khác, thập nhị đoạn cẩm chỉ là bài tập bổ sung.
    Những người cao tuổi hoặc có bệnh, tùy theo hoàn cảnh, nên tập đều đặn bài này, phải kiên trì tập hằng ngày, ít nhất là một lần một ngày.
    Có những người thời gian rất eo hẹp do phải đi công tác, phải thường xuyên tiếp khách khứa... Có thể chia thành nhiều phần tập vào những khoảng thời gian thích hợp trong ngày. Thí dụ: Khi đi vệ sinh, ở trong phòng toilette vẫn có thể tập các động tác từ số 1 đến số 7, chí ít là đến động tác số 5. Còn các động tác khác như xoa bóp có thể thực hiện ngay khi tắm. Lúc đó, vừa kết hợp kỳ cọ, vừa xoa bóp toàn thân, trước hết ưu tiên xoa các huyệt mà bài tập đã nêu từ động tác 8 đến động tác 10. Khi tắm, nên ngồi xuống xoa huyệt dũng tuyền ở hai lòng bàn chân, kết hợp với xoa xà phòng, kỳ cọ cả bàn chân, sẽ có cảm giác thật thú vị, hết sức dễ chịu.
    Các động tác 1, 2 nếu thực hiện đều đặn sẽ rất có hiệu quả cho hệ tiêu hóa. Trước đây, ông Đàn thường bị đau đại tràng, đau dạ dày ở vùng thượng vị, táo bón... Từ khi tập đều đặn thập nhị đoạn cẩm, nhất là các động tác 1, 2 thì các chứng trên biến mất, khiến ông ăn uống rất chủ động, không phải kiêng quá mức, dùng bia rượu vẫn không hề hấn gì.
    Động tác thứ 3 (rửa mặt) có thể vận dụng sáng tạo thêm, miễn là có thời gian và sức khỏe để thực hiện. Thí dụ: Có thể dùng hai ngón tay trỏ day các huyệt ở chân mũi, thời gian tùy ý, hoặc day mắt, xoa quanh miệng nhiều vòng.
    Động tác 4 (gõ trống trời) cũng có thể cải tiến thêm như: kẹp hai vành tai bằng ngón trỏ và ngón giữa, xoa day nhiều lần cho nóng lên, rồi mới thực hiện tiếp các điều chỉ dẫn.




    ST
    Last edited by Sapa2007; 17-08-2009, 06:44 PM.
Working...
X