Chuyện ầm ĩ ở châu Âu chung quanh việc khoan sọ vào giữa những năm 80 thế kỷ trước được dấy lên khi một người Anh tên là John Miller tự tay khoan sọ của chính mình. Bằng một cái khoan thông thường lắp mũi khoan hình ovan, Miller đã thực hiện toàn bộ liệu pháp này trước tấm gương trong ba phút mà không cần bất kỳ một loại thuốc tê nào.
Lý do để thực hiện ca phẫu thuật này xuất phát từ việc Miller quan sát hộp sọ của trẻ em. Như mọi người đều biết, ở trẻ sơ sinh trước một năm tuổi, lỗ thóp chưa liền. Theo các nhà trường sinh học, thông qua cái lỗ này sự liên lạc thông tin với vũ trụ được duy trì. Sau khi thóp đã liền lại thì sự liên lạc gặp khó khăn và trẻ em dần dần trở thành những người “bình thường”.
Ca phẫu thuật táo bạo của Miller đã được quảng cáo rộng rãi trên báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng của Anh quốc, và mấy trăm người đã nhanh chóng lặp lại liệu pháp này. Ngay chính bản thân vợ của người sáng lập ra phương pháp đó là Amanta Miller cũng tự tay khoan sọ cho mình, sau đó đã trở nên mạnh mẽ về mặt tình dục đến nỗi nàng lập tức chia tay với người chồng và ít lâu sau cũng xây dựng tổ ấm mới.
Theo ý kiến của những người ủng hộ việc khoan sọ thì cái lỗ trên đỉnh đầu có đường kính tối đa là 7mm bởi lẽ nếu lỗ có kích thước nhỏ hơn thì nó dần dần liền lại và lên da non, còn nếu lỗ có đường kính lớn hơn thì “gió tự do rong chơi” trong đó. Tuy nhiên, theo tài liệu của các nhà khoa học Hà Lan thì đường kính tối đa của lỗ trên đỉnh đầu là vừa đúng 9,37mm. Chính cái lỗ như vậy “giúp cho việc tránh được chứng loạn tinh thần, chứng loạn thần kinh chức năng, sự trầm uất đồng thời có được sự hài hòa về mặt tinh thần và sự sáng suốt minh mẫn”...
Ở Mỹ, người ta nói đến việc “tự khoan” sớm hơn so với châu Âu – vào những năm 60 thế kỷ XX. Đặc biệt đề tài này được phổ biến trong giới giáo sư đại học, họ đã bàn luận cặn kẽ với nhau cũng như với các sinh viên của mình.
GS. Jame Neidpat của Trường đại học Oxford thuộc số những người đã thực lòng tin rằng cái lỗ trên đỉnh đầu mở ra những khả năng tiềm tàng ở con người, vĩnh viễn làm cho con người không bị trầm uất và trở thành “một sinh linh siêu thông minh và trác việt”. Bản thân Neidpat đã noi theo tấm gương của vợ mình là Amanda Filding, một nhà điêu khắc. Chính nàng đã kể lại việc mình tiến hành ca phẫu thuật không đơn giản này như sau:
“Tôi tiêm cho mình thuốc gây tê cục bộ và dưới da, rồi ngồi trước tấm gương, đeo kính để máu không chảy vào mắt và bật máy khoan điện...”.
Sau khi khoan xong, nàng chít khăn và đến dự liên hoan với các bạn bè. Hiệu quả của ca phẫu thuật này nàng cảm nhận được sau 4 giờ, và theo lời Amanda, nàng thấy khoan khoái lạ thường. Còn chồng nàng, thật ra, không dám tự khoan và do không tìm được một bác sĩ chuyên nghiệp nào ở châu Âu nhận thực hiện ca phẫu thuật như vậy nên đành phải đi tìm một thầy thuốc phẫu thuật tận Ai Cập. Cuối cùng, thủ thuật được thực hiện tại một bệnh viện ở Cairo, kéo dài 10 phút và được gây tê cục bộ. James Neidpat đã phải trả đúng 2.500 USD cho một lỗ khoan trên đầu. Theo lời vị nam tước, sau ca phẫu thuật ấy, ông đã phát hiện ở bản thân mình những khả năng mà tác động không bao giờ dám nghĩ tới, song ông không cho biết một cách cụ thể.
Nhà đạo diễn điện ảnh Mỹ Eli Cabilio, người từng phỏng vấn GS. Neidpat về chuyện này, đã kể lại những ấn tượng của mình như sau: “Tuy nhiên, nếu tiếp xúc gần gũi với ông ấy thì sẽ thấy rằng ông ấy là một người rất nghiêm túc và có trí lực rất cao”.
Hiện nay trên thế giới có đến hàng trăm người đã làm cái việc như James Neidpat, John Miller và những bà vợ của họ.
Tuy thế, các thầy thuốc phẫu thuật đã nói về ca phẫu thuật này một cách tiêu cực. Trưởng khoa phẫu thuật thần kinh thuộc Trung tâm y tế của Trường đại học New York, đã tuyên bố: “Đó chẳng qua là sự điên rồ - Patrich Kell. Người ta không chỉ khoan sọ, mà cả khoan não cũng thật dễ dàng”. Song, bất chấp lời cảnh báo của thầy thuốc, số lượng những người khoan sọ vẫn gia tăng hàng năm...
Ở Uganda và Đông Kenya cho đến nay vẫn tồn tại bộ lạc người Kiziya. Ở đó, các thầy lang thường khoan sọ trong những điều kiện nguyên thủy. Đã từng có một bộ phim tài liệu quay về chuyện này. Người ta nhìn thấy cảnh một thầy thuốc bày những dụng cụ thô sơ trên tàu lá chuối và đã tiến hành việc khoan sọ một cách thành công mà không cần gây tê, không cần khử trùng (thậm chí không cần lau đầu cho bệnh nhân!).
Ý kiến của các nhà khoa học:
Các nhà khoa học không loại trừ rằng việc khoan sọ, bất chấp tất cả sự tinh tế của thủ thuật này, là một trong những dạng phẫu thuật cổ xưa nhất. Những chiếc sọ có dấu vết khoan thuộc niên đại cách đây 4, 5 nghìn năm trước Công nguyên được tìm thấy trên khắp thế giới, có lẽ chỉ trừ châu Úc, bán đảo Mã Lai, Nhật Bản và lãnh thổ ở phía Nam Sahara.
Tuy nhiên, các học giả cho đến nay vẫn chưa đi đến một ý kiến thống nhất về việc những ca phẫu thuật tương tự ở thời cổ đại được thực hiện nhằm mục đích gì. Một số nhà nghiên cứu cho rằng việc khoan sọ thời tiền sử thuộc phạm trù nghi lễ gây thương tích. Một số khác thì tin rằng bằng thủ thuật khoan sọ người ta kích thích sự phát triển của não và do đó, kích thích những khả năng trí lực và siêu phàm khác – điều này gần với sự khẳng định của những người khoan sọ hiện đại.
Và cuối cùng, còn có một giả thuyết nữa: những người cổ đại khoan sọ để chữa bệnh tinh thần và xua đuổi ma quỷ. Lý thuyết này được xác nhận bởi giáo sư nhân chủng học John Verno. Ông đã viết rằng thậm chí trong nền văn hóa châu Âu “việc khoan sọ trong một thời gian dài được liên hệ với việc giải thoát khỏi hung thần”. Trên những hòn đảo của Thái Bình Dương, các vị tư tế dùng liệu pháp này để chữa bệnh động kinh, các chứng đau đầu và bệnh tinh thần. Những người thuộc bộ lạc da đỏ cổ đại Inki ở Nam Mỹ còn sử dụng ca phẫu thuật này, ngoài việc trừ tà, vào những mục đích y học - để loại bỏ bọc máu dưới vòm sọ do chấn thương gây ra.
Theo sức khỏe va đời sống - Phanvien.com
Lý do để thực hiện ca phẫu thuật này xuất phát từ việc Miller quan sát hộp sọ của trẻ em. Như mọi người đều biết, ở trẻ sơ sinh trước một năm tuổi, lỗ thóp chưa liền. Theo các nhà trường sinh học, thông qua cái lỗ này sự liên lạc thông tin với vũ trụ được duy trì. Sau khi thóp đã liền lại thì sự liên lạc gặp khó khăn và trẻ em dần dần trở thành những người “bình thường”.
Ca phẫu thuật táo bạo của Miller đã được quảng cáo rộng rãi trên báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng của Anh quốc, và mấy trăm người đã nhanh chóng lặp lại liệu pháp này. Ngay chính bản thân vợ của người sáng lập ra phương pháp đó là Amanta Miller cũng tự tay khoan sọ cho mình, sau đó đã trở nên mạnh mẽ về mặt tình dục đến nỗi nàng lập tức chia tay với người chồng và ít lâu sau cũng xây dựng tổ ấm mới.
Theo ý kiến của những người ủng hộ việc khoan sọ thì cái lỗ trên đỉnh đầu có đường kính tối đa là 7mm bởi lẽ nếu lỗ có kích thước nhỏ hơn thì nó dần dần liền lại và lên da non, còn nếu lỗ có đường kính lớn hơn thì “gió tự do rong chơi” trong đó. Tuy nhiên, theo tài liệu của các nhà khoa học Hà Lan thì đường kính tối đa của lỗ trên đỉnh đầu là vừa đúng 9,37mm. Chính cái lỗ như vậy “giúp cho việc tránh được chứng loạn tinh thần, chứng loạn thần kinh chức năng, sự trầm uất đồng thời có được sự hài hòa về mặt tinh thần và sự sáng suốt minh mẫn”...
Ở Mỹ, người ta nói đến việc “tự khoan” sớm hơn so với châu Âu – vào những năm 60 thế kỷ XX. Đặc biệt đề tài này được phổ biến trong giới giáo sư đại học, họ đã bàn luận cặn kẽ với nhau cũng như với các sinh viên của mình.
GS. Jame Neidpat của Trường đại học Oxford thuộc số những người đã thực lòng tin rằng cái lỗ trên đỉnh đầu mở ra những khả năng tiềm tàng ở con người, vĩnh viễn làm cho con người không bị trầm uất và trở thành “một sinh linh siêu thông minh và trác việt”. Bản thân Neidpat đã noi theo tấm gương của vợ mình là Amanda Filding, một nhà điêu khắc. Chính nàng đã kể lại việc mình tiến hành ca phẫu thuật không đơn giản này như sau:
“Tôi tiêm cho mình thuốc gây tê cục bộ và dưới da, rồi ngồi trước tấm gương, đeo kính để máu không chảy vào mắt và bật máy khoan điện...”.
Sau khi khoan xong, nàng chít khăn và đến dự liên hoan với các bạn bè. Hiệu quả của ca phẫu thuật này nàng cảm nhận được sau 4 giờ, và theo lời Amanda, nàng thấy khoan khoái lạ thường. Còn chồng nàng, thật ra, không dám tự khoan và do không tìm được một bác sĩ chuyên nghiệp nào ở châu Âu nhận thực hiện ca phẫu thuật như vậy nên đành phải đi tìm một thầy thuốc phẫu thuật tận Ai Cập. Cuối cùng, thủ thuật được thực hiện tại một bệnh viện ở Cairo, kéo dài 10 phút và được gây tê cục bộ. James Neidpat đã phải trả đúng 2.500 USD cho một lỗ khoan trên đầu. Theo lời vị nam tước, sau ca phẫu thuật ấy, ông đã phát hiện ở bản thân mình những khả năng mà tác động không bao giờ dám nghĩ tới, song ông không cho biết một cách cụ thể.
Nhà đạo diễn điện ảnh Mỹ Eli Cabilio, người từng phỏng vấn GS. Neidpat về chuyện này, đã kể lại những ấn tượng của mình như sau: “Tuy nhiên, nếu tiếp xúc gần gũi với ông ấy thì sẽ thấy rằng ông ấy là một người rất nghiêm túc và có trí lực rất cao”.
Hiện nay trên thế giới có đến hàng trăm người đã làm cái việc như James Neidpat, John Miller và những bà vợ của họ.
Tuy thế, các thầy thuốc phẫu thuật đã nói về ca phẫu thuật này một cách tiêu cực. Trưởng khoa phẫu thuật thần kinh thuộc Trung tâm y tế của Trường đại học New York, đã tuyên bố: “Đó chẳng qua là sự điên rồ - Patrich Kell. Người ta không chỉ khoan sọ, mà cả khoan não cũng thật dễ dàng”. Song, bất chấp lời cảnh báo của thầy thuốc, số lượng những người khoan sọ vẫn gia tăng hàng năm...
Ở Uganda và Đông Kenya cho đến nay vẫn tồn tại bộ lạc người Kiziya. Ở đó, các thầy lang thường khoan sọ trong những điều kiện nguyên thủy. Đã từng có một bộ phim tài liệu quay về chuyện này. Người ta nhìn thấy cảnh một thầy thuốc bày những dụng cụ thô sơ trên tàu lá chuối và đã tiến hành việc khoan sọ một cách thành công mà không cần gây tê, không cần khử trùng (thậm chí không cần lau đầu cho bệnh nhân!).
Ý kiến của các nhà khoa học:
Các nhà khoa học không loại trừ rằng việc khoan sọ, bất chấp tất cả sự tinh tế của thủ thuật này, là một trong những dạng phẫu thuật cổ xưa nhất. Những chiếc sọ có dấu vết khoan thuộc niên đại cách đây 4, 5 nghìn năm trước Công nguyên được tìm thấy trên khắp thế giới, có lẽ chỉ trừ châu Úc, bán đảo Mã Lai, Nhật Bản và lãnh thổ ở phía Nam Sahara.
Tuy nhiên, các học giả cho đến nay vẫn chưa đi đến một ý kiến thống nhất về việc những ca phẫu thuật tương tự ở thời cổ đại được thực hiện nhằm mục đích gì. Một số nhà nghiên cứu cho rằng việc khoan sọ thời tiền sử thuộc phạm trù nghi lễ gây thương tích. Một số khác thì tin rằng bằng thủ thuật khoan sọ người ta kích thích sự phát triển của não và do đó, kích thích những khả năng trí lực và siêu phàm khác – điều này gần với sự khẳng định của những người khoan sọ hiện đại.
Và cuối cùng, còn có một giả thuyết nữa: những người cổ đại khoan sọ để chữa bệnh tinh thần và xua đuổi ma quỷ. Lý thuyết này được xác nhận bởi giáo sư nhân chủng học John Verno. Ông đã viết rằng thậm chí trong nền văn hóa châu Âu “việc khoan sọ trong một thời gian dài được liên hệ với việc giải thoát khỏi hung thần”. Trên những hòn đảo của Thái Bình Dương, các vị tư tế dùng liệu pháp này để chữa bệnh động kinh, các chứng đau đầu và bệnh tinh thần. Những người thuộc bộ lạc da đỏ cổ đại Inki ở Nam Mỹ còn sử dụng ca phẫu thuật này, ngoài việc trừ tà, vào những mục đích y học - để loại bỏ bọc máu dưới vòm sọ do chấn thương gây ra.
Theo sức khỏe va đời sống - Phanvien.com
Comment