Sự cố dị vật đường thở rất nguy hiểm, nhẹ thì bị ho sặc tím tái, viêm phổi, nặng sẽ tử vong. Nếu không được cấp cứu kịp thời và đúng mức, bệnh nhân có thể tử vong do ngưng thở.
Bất kỳ tuổi nào cũng có thể bị dị vật đường thở, song phổ biến nhất là từ 1 đến 3 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Dị vật có thể là thực vật như hột dưa, hột đậu phộng, hột mãng cầu..., hoặc có nguồn gốc động vật như xương cá, đốt sống cá, vỏ tép. Ngoài ra còn có dị vật kim loại như kim ghim vải, đinh hoặc thậm chí chất lỏng như sữa, cháo...
Các vị trí của dị vật:
- Dị vật to thường mắc ở thượng thanh môn, như hột chôm chôm.
- Dị vật nhỏ hơn có thể bị kẹt ở thanh môn, như xương cá.
- Dị vật có thể đi xuống dưới thanh môn, khí quản hay phế quản.
- Dị vật có thể nằm im trong khí quản hay phế quản như hột mãng cầu; di động lên xuống theo nhịp thở như hột dưa; ghim vào thành khí phế quản như lưỡi câu, kim...
Các hội chứng của người bị dị vật đường thở:
- Hội chứng xâm nhập: trẻ đang ăn hoặc chơi tự nhiên thì bị ho sặc, khó thở, tím tái cần nghĩ ngay đến dị vật lọt vào đường thở.
- Khó thở thanh quản: thở hước, thở rít, trẻ ráng sức hít vào, bứt rứt, vật vã do đường thở bị bít tắc.
- Nếu dị vật không gây các triệu chứng trên, hoặc có song thoáng qua, có thể bị bỏ qua khiến bệnh nhân sau đó bị viêm phổi tái phát.
- Khám phổi bằng ống nghe có thể phát hiện tiếng thở rít do đường thở bị hẹp hay một số triệu chứng của viêm phổi, khí thũng phổi, hoặc dấu cờ bay lật phật do dị vật di chuyển theo nhịp thở.
Cách xử trí:
- Nếu dị vật là chất lỏng: bệnh nhân khó thở do phản xạ co thắt thanh môn. Để cấp cứu, đặt trẻ nằm sấp trên lòng bàn tay hay trên đùi rồi vỗ mạnh vào lưng 2-3 cái. Nếu trẻ lớn hơn, để trẻ nằm ngửa rồi ấn tay vào thương vị, nhồi 2-3 cái để trẻ ho bắn ra và thở trở lại. Nếu trẻ vẫn chưa thở được, phải hà hơi thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng ngực nếu ngưng tim.
- Nếu dị vật cứng:
+ Trường hợp bệnh nhân không khó thở thì đưa ngay đến bệnh viện để kiểm tra, nếu có sẽ tiến hành soi gắp dị vật.
+ Khi người bệnh khó thở tím tái, cách xử trí giống như khi bị sặc chất lỏng. Nếu bệnh nhân lớn có thể làm nghiệm pháp Heimlic: để bệnh nhân đứng, người cúi ra trước, người cấp cứu đứng phía sau, hai tay bắt vào nhau thành một nắm đấm để vào vùng thượng vị của bệnh nhân, sau đó giật mạnh từ trước ra sau và từ dưới lên trên để làm tăng áp lực trong lồng ngực nhằm có thể tống dị vật ra. Nếu không kết quả phải tìm cách đưa bệnh nhân đến ngay bệnh viện để soi gắp dị vật.
+ Nếu bệnh nhân lờ đờ, vật vã, phải thọc tay móc ngay dị vật ra vì thường đây là dị vật to gây bít tắc thanh môn. Còn với vật nhỏ hơn, có thể thổi miệng đẩy luôn dị vật xuống sâu để bệnh nhân có thể thở được, sau đó chuyển đến bệnh viện. Sau khi soi, bệnh nhân cần dùng thuốc kháng viêm và kháng sinh trong 7-10 ngày.
Bác sĩ Đặng Hoàng Sơn, Sức Khỏe & Đời Sống
Bất kỳ tuổi nào cũng có thể bị dị vật đường thở, song phổ biến nhất là từ 1 đến 3 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Dị vật có thể là thực vật như hột dưa, hột đậu phộng, hột mãng cầu..., hoặc có nguồn gốc động vật như xương cá, đốt sống cá, vỏ tép. Ngoài ra còn có dị vật kim loại như kim ghim vải, đinh hoặc thậm chí chất lỏng như sữa, cháo...
Các vị trí của dị vật:
- Dị vật to thường mắc ở thượng thanh môn, như hột chôm chôm.
- Dị vật nhỏ hơn có thể bị kẹt ở thanh môn, như xương cá.
- Dị vật có thể đi xuống dưới thanh môn, khí quản hay phế quản.
- Dị vật có thể nằm im trong khí quản hay phế quản như hột mãng cầu; di động lên xuống theo nhịp thở như hột dưa; ghim vào thành khí phế quản như lưỡi câu, kim...
Các hội chứng của người bị dị vật đường thở:
- Hội chứng xâm nhập: trẻ đang ăn hoặc chơi tự nhiên thì bị ho sặc, khó thở, tím tái cần nghĩ ngay đến dị vật lọt vào đường thở.
- Khó thở thanh quản: thở hước, thở rít, trẻ ráng sức hít vào, bứt rứt, vật vã do đường thở bị bít tắc.
- Nếu dị vật không gây các triệu chứng trên, hoặc có song thoáng qua, có thể bị bỏ qua khiến bệnh nhân sau đó bị viêm phổi tái phát.
- Khám phổi bằng ống nghe có thể phát hiện tiếng thở rít do đường thở bị hẹp hay một số triệu chứng của viêm phổi, khí thũng phổi, hoặc dấu cờ bay lật phật do dị vật di chuyển theo nhịp thở.
Cách xử trí:
- Nếu dị vật là chất lỏng: bệnh nhân khó thở do phản xạ co thắt thanh môn. Để cấp cứu, đặt trẻ nằm sấp trên lòng bàn tay hay trên đùi rồi vỗ mạnh vào lưng 2-3 cái. Nếu trẻ lớn hơn, để trẻ nằm ngửa rồi ấn tay vào thương vị, nhồi 2-3 cái để trẻ ho bắn ra và thở trở lại. Nếu trẻ vẫn chưa thở được, phải hà hơi thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng ngực nếu ngưng tim.
- Nếu dị vật cứng:
+ Trường hợp bệnh nhân không khó thở thì đưa ngay đến bệnh viện để kiểm tra, nếu có sẽ tiến hành soi gắp dị vật.
+ Khi người bệnh khó thở tím tái, cách xử trí giống như khi bị sặc chất lỏng. Nếu bệnh nhân lớn có thể làm nghiệm pháp Heimlic: để bệnh nhân đứng, người cúi ra trước, người cấp cứu đứng phía sau, hai tay bắt vào nhau thành một nắm đấm để vào vùng thượng vị của bệnh nhân, sau đó giật mạnh từ trước ra sau và từ dưới lên trên để làm tăng áp lực trong lồng ngực nhằm có thể tống dị vật ra. Nếu không kết quả phải tìm cách đưa bệnh nhân đến ngay bệnh viện để soi gắp dị vật.
+ Nếu bệnh nhân lờ đờ, vật vã, phải thọc tay móc ngay dị vật ra vì thường đây là dị vật to gây bít tắc thanh môn. Còn với vật nhỏ hơn, có thể thổi miệng đẩy luôn dị vật xuống sâu để bệnh nhân có thể thở được, sau đó chuyển đến bệnh viện. Sau khi soi, bệnh nhân cần dùng thuốc kháng viêm và kháng sinh trong 7-10 ngày.
Bác sĩ Đặng Hoàng Sơn, Sức Khỏe & Đời Sống