Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Sấm Trạng Trình

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Sấm Trạng Trình

    Sấm Trạng Trình của Nguyễn Bỉnh Khiêm




    Trích dẫn từ Sấm Trạng Trình của Wikipedia, Bách khoa Toàn thư Mở





    Vận lành mừng gặp tiết lành
    Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
    Một câu là một nhiệm màu
    Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
    Trải vì sao mây che Thái Ất
    Thủa cung tay xe nhật phù lên
    Việt Nam khởi tổ xây nên
    Lạc Long ra trị đương quyền một phương
    Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
    Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
    Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
    Mở bản đồ rủ áo chấp tay
    Ngự đao phút chốc đổi thay
    Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
    Ðông a âm vị nhi thuyền
    Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
    Chấn cung hiện nhật quang minh
    Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
    Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
    Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
    Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
    Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen
    Sửa sang muôn việc cầm quyền
    Ngồi không ai dể khẳng nhìn giúp cho
    Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
    Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
    Trời sinh ra những kẻ gian
    Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
    Áo vàng ấm áp đà hay
    Khi sui đấp núi khi say xây thành
    Lấy đạt điền làm công thiên hạ
    Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
    Con yết ạch ạch tranh khôn
    Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
    Cơ trời xem đã mê đồ
    Ðã đô lại muốn mở đô cho người
    Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
    Suốt vạn dân cừu giận oán than
    Dưới trên dốc chí lo toan
    Những đua bán nước bán quan làm giàu
    Thống rủ nhau làm mồi phú quí
    Mấy trung thần có chí an dân
    Ðua nhau làm sự bất nhân
    Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non
    Dư đồ chia xẻ càn khôn
    Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
    Vội sang giàu giết người lấy của
    Sự có chăng mặc nọ ai đôi
    Việc làm thất chính tơi bời
    Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
    Xem tượng trời đã giơ ra trước
    Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
    Cuồn phong cả sớm liền trưa
    Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
    Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
    Ðể vạn dân dê lại giết dê
    Luôn năm chật vật đi về
    Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
    Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
    Cũng một lòng trời chống khác nào
    Xem người dường vững chiêm bao
    Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
    Một góc thành làm tâm chứng quỷ
    Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
    Bốn phương rời rỡ hồng trần
    Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
    Tiếc là những xuất dân làm bạo
    Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
    Nhân danh trọn hết đâu đâu
    Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
    Hùm già lạc dấu khôn về
    Mèo non chi chí tìm về cố hương
    Chân dê móng khởi tiêu tường
    Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
    Nội thành ong ỏng hư kinh
    Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
    Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
    Giửa hai xuân bỗng phá tổ long
    Quốc trung kinh dụng cáo không
    Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
    Gà đâu sớm gáy bên tường
    Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
    Thủy binh cờ phất vầng hồng
    Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
    Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
    Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
    Ai còn khoe trí khoe năng
    Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
    Chưa từng thấy đời này sự lạ
    Bổng khiến người giá họa cho dân
    Muốn bình sao chẳng lấy nhân
    Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
    Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
    Ðúc tiền ra bán tước cho dân
    Xun xoe những rắp cậy quân
    Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
    Máy hóa công nắm tay dễ ngỏ
    Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
    Thung thăng tưởng thấy đạo trời
    Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
    Cát lầm bốn bể can qua
    Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
    Quân hùng binh nhuệ đầy khe
    Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
    Bấy giờ càng khốn than ôi
    Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
    Thương những kẻ ăn rau ăn giới
    Gặp nước bung con cái ẩn đâu
    Báo thù ấy chẳng sai đâu
    Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
    Xin những kẻ hai lòng sự chúa
    Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
    Cho nên phải báo trầm luân
    Ai khôn mới được bảo thân đời này
    Nói cho hay khảm cung rồng dấy
    Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
    Chử Rằng lục thất nguyệt gian
    Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
    Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
    Thì phụ nguyên mới chổ binh ra
    Bốn phương chẳng động can qua
    Quần hùng các xứ điều hòa làm tôi
    Bấy giờ mở rộng qui khôi
    Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
    Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
    Hoàng phúc xưa đã định tây phong
    Làu làu thế giới sáng trong
    Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
    Rỏ sinh tài lạ khác thường
    Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
    Xem ý trời có lòng đãi thánh
    Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
    Chọn đầu thai những vì sao cả
    Dùng ở tay phụ tá vương gia
    Bắc phương chính khí sinh ra
    Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
    Song thiên nhật rạng sáng soi
    Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
    Ðời này thánh kế vị vương
    Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
    Uy nghi trạng mạo khác hình
    Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
    Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
    Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
    Binh thơ mấy quyển kinh luân
    Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
    Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
    Xem sắc mây đã biết thành long
    Thánh nhân cư có thụy cung
    Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
    Lại dặn đấng tú nam chí cả
    Chớ vội vàng tất tả chạy rong
    Học cho biết lý kiết hung
    Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
    Hễ trời sinh xuống phải thì
    Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
    Kìa những kẻ vội lòng phú quí
    Xem trong mình một thí đều không
    Ví dù có gặp ngư ông
    Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
    Xin khuyên đấng thời trung quân tử
    Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
    Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
    Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
    Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
    Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
    Võ thông yên thủy thần kinh
    Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
    Chớ vật vờ quen loài ong kiến
    Biết ray tay miệng biếng nói không
    Ngỏ hay gặp hội mây rồng
    Công danh sáng chói chép trong vân đài
    Bấy giờ phỉ sức chí trai
    Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
    Nặng lòng thật có vĩ kinh
    Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
    Trên trời có mấy vì sao
    Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
    Nước Nam thường có thánh tài
    Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
    So mấy lời để tàng kim quỉ
    Chờ hậu mai có chí sẽ cho
    Trước là biết nẽo tôn phò
    Sau là cao chí biết lo mặc lòng
    Xem đoài cung đến thời bất tạo
    Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
    Nguôi lòng tham tước tham giàu
    Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
    Trẻ con mang mệnh tướng quân
    Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
    Ai lấy gương vua U thủa trước
    Loạn ru vì tham ngược bất nhân
    Ðoài phương ong khởi lần lần
    Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
    Man mác một đỉnh Hoành Sơn
    Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
    Ấy là những binh thù Thái Thái
    Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
    Phá điền dầu khỉ cuối thu
    Tái binh mới động thập thò liền sang
    Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
    Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
    Lưu tinh hiện trước đôi thu
    Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
    Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
    Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
    Thành câu cá, lửa tưng bừng
    Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
    Chiến trường chốn chốn cát lầm
    Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
    Sang thu chín huyết hồng tứ giả
    Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
    Ðua nhau đồ thán quần lê
    Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
    Kẻ thì phải thủa hung hoang
    Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
    Kẻ thì mắc thủa hung tàn
    Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
    Muông vương dựng ổ cắn tranh
    Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
    Bời bời đua mạnh tranh giành
    Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày
    Bể thanh cá phải ẩn cây
    Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
    Nào ai đã dễ nhìn U
    Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
    Cây bay lá lửa đôi ngàn
    Một làng còn mấy chim đàn bay ra
    Bốn phương cùng có can qua
    Làm sao cho biết nơi hào bảo thân
    Ðoài phương thực có chân nhân
    Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
    Tìm cho được chốn được nơi
    Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
    Bốn bề núi đá riểu quanh
    Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
    Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
    Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
    Bắc kinh mới thật đế kinh
    Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
    Chim hồng vỗ cánh bay cao
    Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
    Ai dễ cứu con thơ sa giếng
    Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
    Vạn dân chịu thủa u sầu
    Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
    Cấy cày thu đãi thời mùa
    Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
    Nhân ra cận duyệt viễn lai
    Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
    Xem tượng trời biết đường đời trị
    Gẩm về sau họ Lý xưa nên
    Giòng nhà để lấy dấu truyền
    Gẩm xem bốn báu còn in đời đời
    Thần qui cơ nổ ở trời
    Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
    Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
    Sông Bảo Giang thiên định ai hay
    Lục thất cho biết ngày dài
    Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
    Có thầy nhân thập đi về
    Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
    Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
    Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
    Ra tay điều chỉnh hộ may
    Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
    Lọ là phải nhọc kéo quân
    Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
    Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
    Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
    Ân trên vũ khí vân hành
    Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
    Bản đồ chảng sót cho ai
    Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
    Vững nền vương cha truyền con nối
    Dõi muôn đời một mối xa thư
    Bể kình tâm lặng bằng tờ
    Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
    Âu vàng khỏe đặt vững chân
    Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
    Vừa năm nhâm tý xuân đầu
    Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
    Quyển vàng mở thấy sấm trời
    Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
    Một thời có một tôi ngoan
    Giúp trong việc nước gặp an thái bình
    Luận chung một tập kim thời
    Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
    Trượng phu có chí thời coi
    Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
    Tài nầy nên đấng vẻ vang
    Biết chừng đời trị biết đường đời suy
    Kể từ nhân đoản mà đi
    Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
    Tiếc thay hiền sĩ bao già
    Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
    Thử cho tay giúp ra dùng
    Tài này so cùng tài trước xem sao
    Trên trời kể chín tầng cao
    Tay nghe bằng một ti hào biết hay
    Hiềm vì sinh phải thời này
    Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
    Hợp đà thay thánh nghìn tài
    Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
    Nói ra thì lậu sự đời
    Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
    Nói ra am chúa bội quân
    Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
    Chờ cho nhân đoản hết sau
    Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn
    Trời xui những kẻ ắt gian
    Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
    Vua nào tôi ấy đã bày
    Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
    Ðua nhau bội bạn nghịch vi
    Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
    Tiếc tài gẩm được thời hay
    Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
    Tài trai có chí anh hùng
    Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
    Khá xem nhiệm nhặt tội trời
    Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
    Ði tìm cho đến đế cung
    Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
    Bảo nhau cương kỷ cho tường
    Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
    Chờ cho động đất chuyển trời
    Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
    Còn bên thì náu chưa xong
    Nhân lực cướp lấy thiên công những là
    Ðời ấy những quỉ cùng ma
    Chảng còn ở thật người ta đâu là
    Trời cao đất rộng bao xa
    Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
    Dù trai ai chửa biết tường
    Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
    Ý ra lục thất gian nay
    Thời vận đã định thời nầy hưng vương
    Trí xem nhiệm nhặt cho tường
    Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
    Vua ngự thạch bàn xa thay
    Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
    Gà kêu vượn hót vang lừng
    Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
    Nhân dân vắng mạt bằng tờ
    Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
    Vua còn cuốc nguyệt cày mây
    Phong điều vũ thuận thú rày an dân
    Phong đăng hòa cốc chứa chang
    Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
    Chính cung phương khảm vần mây
    Thực thay thiên tử là nay trị đời
    Anh hùng trí lượng thời coi
    Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
    Tìm lên đến thạch bàn khê
    Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
    Nhìn đi nhìn lại cho tường
    Dường như chửa có sinh vương đâu là
    Chảng tìm thì đến bình gia
    Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
    Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
    Tả long triều lại có thành đợt vây
    Hửu hổ uấn khúc giang này
    Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
    Ở xa thấy một con voi
    Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
    Ấy điềm thiên tử về chầu
    Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
    Song thiên nhật nguyệt sáng soi
    Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
    Ðến đời thịnh vượng còn lâu
    Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
    Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
    Muốn làm tướng súy thì xem trông này

    Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
    Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
    Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
    Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
    Kìa cơn gió thổi lá rung cây
    Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
    Tan tác kiến kiều an đất nước
    Xác xơ cổ thụ sạch am mây
    Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
    Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
    Một gió một yên ai sùng bái
    Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
    Con mùng búng tít con quay
    Vù vù chong chóng gió bay trên đài
    Nhà cha cửa đóng then cài
    Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
    Tiếc tám lạng thương nửa cân
    Biết rằng ai có du phần như ai
    Bắt tay nằm nghỉ dông dài
    Thương người có một lo hai phận mình
    Canh niên tân phá
    Tuất hợi phục sinh
    Nhị Ngũ dư bình
    Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
    Can qua tứ xứ loạn đao binh
    Mã đề dương cước anh hùng tận
    Thân dậu niên lai kiến thái bình
    Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
    Có một đàn xà đánh lộn nhau
    Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
    Lợn kia làm quái phải sai đầu
    Chuột nọ lăm le mong cản tổ
    Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
    Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
    Tìm về quê củ bắt ngựa tàu
    Cửu cửu kiền khôn dĩ định
    Thanh minh thời tiết hoa tàn
    Trực đáo dương đầu mã vĩ
    Hồ binh bát vạn nhập trường an
    Bảo Giang thiên tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Lê dân bảo bảo noản
    Tứ hải lạc âu ca
    Dục đức thánh nhân hương
    Qua kiều cư Bắc phương
    Danh vi Nguyễn gia tử
    Kim tịch sinh ngưu lang
    Thượng đại nhân bất nhân
    Thánh ất dĩ vong ân
    Bạch hổ kim đai ấn
    Thất thập cổ lai xuân
    Bắc hữu kim thành tráng
    Nam tạc ngọc bích thành
    Hỏa thôn đa khuyển phệ
    Mục giả dục nhân canh
    Phú quí hồng trần mộng
    Bần cùng bạch phát sinh
    Anh hùng vương kiếm kích
    Manh cổ đổ thái bình
    Nam Việt hửu Ngưu tinh
    Quá thất thân thủy sinh
    Ðiạ giới sĩ vị bạch
    Thủy trầm nhi bắc kinh
    Kỷ mã xu dương tẩu
    Phù kê thăng đại minh
    Trư thử giai phong khởi
    Thìn mão xuất thái bình
    Phân phân tùng Bắc khởi
    Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
    Bảo sơn thiên tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Thủy trung tàng bảo cái
    Hứa cập thánh nhân hương
    Mộc hạ châm châm khẩu
    Danh thế xuất nan lương
    Danh vi Nguyễn gia tử
    Tinh bản tại ngưu lang
    Mại dử lê viện dưỡng
    Khởi nguyệt bộ đại giang
    Hoặc kiều tam lộng ngạn
    Hoặc ngụ kim lăng cương
    Thiên dử thần thực thụy
    Thụy trình ngũ sắc quang
    Kim kê khai lựu điệp
    Hoàng cái xuất quí phương
    Nhân nghĩa thùy vi địch
    Ðạo đức thực dữ đương
    Tộ truyền nhị thập ngủ
    Vận khải ngủ viên trường
    Vận đáo dương hầu ách
    Chấn đoài cương bất trường
    Quần gian đạo danh tự
    Bách tính khổ tai ương
    Can qua tranh đấu khởi
    Phạm địch tánh hung hoang
    Ma vương sát đại quỉ
    Hoàng thiên tru ma vương
    Kiền khôn phú tai vô lương
    Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
    Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
    Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
    Ta hồ vô phụ vô quân
    Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
    Ðoài phương phước điạ giáng linh
    Cửu trùng thụy ứng long thành ngủ vân
    Phá điền thiên tử giáng trần
    Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm
    Trần công nai thị phúc tâm
    Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
    Tướng thần hệ xuất y chu
    Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành
    Hiệu xưng thiên hạ thái bình
    Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia







  • #2
    Bản khác



    CẢM ÐỀ



    Thanh nhàn vô sự là Tiên,
    Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.
    Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,
    Ðầu non mây khói tỏa,
    Mặt nước cánh buồm trôi.
    Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
    Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.
    Tuổi già thua kém bạn,
    Văn chương gởi lại đời.
    Dở hay nên tự lòng người cả,
    Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.
    Bí truyền cho con cháu,
    Dành hậu thế xem chơi.



    SẤM KÝ


    Nước Nam từ họ Hồng bàng,
    Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời.
    Từ Ðinh Lê Lý Trần thuở trước,
    Ðã bao đời ngôi nước đổi thay.
    Núi sông Thiên định đặt bày,
    Ðồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành.


    ...


    Kìa kìa gió thổi lá rung cây,
    Rung Bắc rung Nam, Ðông tới Tây.
    Tan tác kiến kiều an đất nước,
    Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
    Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
    Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
    Một ngựa một yên ai sùng bái,
    Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.
    Tiền ma bạc quỉ trao tay,
    Ðồ Môn Nghệ Thái dẫy đầy can qua.
    Giữa năm hai bảy mười ba,
    Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây.


    ...


    Cửu cửu Càn Khôn dĩ định,
    Thanh minh thời tiết hoa tàn.
    Trực đáo dương đầu mã vĩ,
    Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.
    Nực cười những kẻ bàng quan,
    Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.


    ...


    Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,
    Can qua xứ xứ khởi đao binh.
    Mã đề dương cước anh hùng tận,
    Thân Dậu niên lai kiến thái bình.


    ...


    Thần Kinh Thái Ất suy ra,
    Ðể dành con cháu đem ra nghiệm bàn.
    Ngày thường xem thấy quyển vàng,
    Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.
    Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
    Ấy thuở Sấm Trời vô giá thập phân.
    Phú quí hồng trần mộng,
    Bần cùng bạch phát sinh.
    Hoa thôn đa khuyển phệ,
    Mục giả dục nhơn canh.
    Bắc hữu Kim Thành tráng,
    Nam hữu Ngọc Bích Thành.
    Phân phân tùng bách khởi,
    Nhiễu nhiễu xuất đông chinh.
    Bảo giang Thiên Tử xuất,
    Bất chiến tự nhiên thành.


    ...


    Cơ Tạo Hóa phép mầu khôn tỏ,
    Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
    Thấy Sấm từ đây chép vào,
    Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.


    Thái Ất

    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    (đổi hướng từ Thái Ất thần kinh)



    Thái Ất thần kinh hay Thái Ất là một trong ba môn học xếp vào tam thức (Thái Ất, Ðộn giáp, Lục nhâm đại độn).


    Thái Ất tức là Thái Nhất, tên gọi khác của Thần Bắc cực.

    Trong tam thức, Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Ðất, đến con người.


    Theo một số sách bói kinh điển, Thái Ất là tôn thần của thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần. Sao Thái Ất chủ về dự đoán gió mưa, hạn hán lụt lội, chiến tranh đói rét bệnh tật, xem tình hình trong nước, sao Thái Ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn.



    Mục lục



    1 Ðối tượng dự trắc
    2 Cách lập quẻ
    2.1 Số niên cục
    2.2 Số nguyệt cục
    2.3 Số nhật cục
    2.4 Số thời cục
    3 An các sao chính
    4 Cách đoán quẻ
    5 Lưu ý
    6 Tham khảo
    7 Liên kết ngoài






    Comment


    • #3
      Ðối tượng dự trắc



      Sách Thái Ất Thần kinh tương truyền là của cụ Lương Ðắc Bằng trao lại cho Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).



      Theo Lê Quý Ðôn (1726-1784), xem Thái Ất có bốn cách:

      Tuế kế (kể năm) để xem sự lành hay dữ của quốc gia. Ðó là việc của các vua và hoàng hậu làm, để sáng chính hoá, sửa đức giáo, xét cơ động, tĩnh.

      Nguyệt kế (kể tháng), để xem lành hay dữ. Ðó là bậc công khanh xem, để xét biện được hay mất, mà điều hoà sự hoà hay trị.

      Nhật kế (kể ngày), để đo lường hoạ phúc trong nhân gian, sử dụng cho mọi người để xét lớn hay nhỏ, hưng hay suy.

      Thời kế (kể giờ), để vận trù mưu kế sách lược, xác định về chủ, khách, thắng, thua. Phàm thiên văn đổi khác, các nước lân bang động hay tĩnh, thế trận hai bên có tương đương hay không, xã hội bình yên hay có giặc cướp, đều dùng Thời kế mà xem.


      Lê Quý Ðôn viết:


      "Thuyết ấy (Thái Ất) phần nhiều nói về binh pháp: địch ta, chủ khách, lợi hại, được mất, cái cơ thịnh suy, trị loạn; cái thế thắng thua, yên hay nguy, không điều gì là không bày rõ. Nếu hiểu lẽ ấy mà biết phòng bị, ứng phó thì có thể tìm điều lành, tránh điều dữ, tiêu hoạ, vời phúc thì, mới là người giỏi dùng sách Thái Ất vậy...Làm tướng mà không biết sách ấy thì sẽ mờ tối ở chỗ đánh hay giữ, tiến hay ngừng; không lấy gì mà quyết đoán các nghi mưu khi ra trận tuyến; làm tể tướng mà không biết sách ấy thì sẽ sai lầm ở sự động hay tĩnh, cất lên hay đặt xuống; không lấy gì để quyết đoán những nghị luận lớn cho triều đình..."



      (Bài tựa cho sách Thái Ất Dị giản lục - bản dịch của Ðặng Ðức Lương, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, Việt Nam năm 2001).


      Bản dịch của Nguyễn Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là Thái Quang Việt – Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc – 2002) cũng viết:


      "...Thái Ất kể ngày luận về mệnh hạn người đời. Ðo biết hoạ phúc, định luận không sai. Suy rõ mấu chốt, nên cẩn thận tinh tường, diệu ở huyền vi tỏ biết.


      ...Phép này mọi người dân gian sử dụng để đo lường hoạ phúc cho mình, vào đời dựng nghiệp lớn hay nhỏ, được hưng hay suy, biết mấu chốt mà định luận không sai về vận hạn sống trong đời sao cho hợp với đạo nhà, đạo nước và đạo học đúng nghĩa quen gọi là Ðạo Người."


      và:


      "...Xem Thái Ất kể giờ chú trọng vào con toán nhất, rồi xem xét các chướng ngại (tù, giam, cấp...) được sử dụng cho công việc hàng ngày, nhất là xem cho việc binh bị, chủ khách thắng thua, nước ngoài động tĩnh, vận trù kế sách; đặc biệt xem thiên văn đổi thay, xã hội bị ảnh hưởng vì mưa nắng, bão gió, giặc cướp không."




      Cách lập quẻ


      Tính số cục bao gồm niên cục, nguyệt cục, nhật cục và thời cục.
      [sửa] Số niên cục


      Mỗi nguyên tý có 72 năm. Niên cục là số từ 1 đến 72 trong mỗi nguyên tý. Người ta dùng mốc tính tích niên từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng, cách năm CN 10.153.917 năm. Ðể tính số niên cục của một năm, sử dụng công thức:

      Tính Tích niên (Tuế tích) = (số của năm xem) + 10.153.917
      Tích niên chia 3.600
      Phần dư của phép chia trên chia 360
      Phần dư của phép thứ 2 chia 72 số dư của phép chia này chính là số niên cục.



      Có một số thuyết tính mốc tích niên từ Trung cổ, năm Giáp Dần đến năm tuổi Việt (tuổi Việt lấy năm dương lịch là năm 2879 TCN cộng với năm xem)


      Từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đời Thiên hoàng đến Trung cổ, năm Giáp Dần cách nhau 10.141.310 năm.


      Nếu dùng mốc Trung cổ, năm Giáp Dần, những vì sao xuất phát từ Thượng cổ, năm Giáp Tý thì phải thêm số doanh sai, tính toán phiền phức.


      Ví dụ năm 2006 (Bính Tuất), dương cục là: Tích niên = 2006 + 10.153.917 = 10.155.923, chia tích niên cho 3.600 được số dư 323, phần dư lại chia tiếp 360 dư 350, phần dư này chia tiếp cho 72 được số dư 35. Vậy được số niên cục dương 42.
      [sửa] Số nguyệt cục


      Cục tương ứng với tháng gọi là nguyệt cục. Cách tính là lấy số tích tháng từ Thượng cổ, năm Giáp Tý đến tháng xem, cộng thêm hai tháng Tý, Sửu vì người ta dùng lịch kiến Dần; hai tháng này gọi là Thiên Chính, Ðịa Chính.



      Công thức tính:



      Tính số tích tháng từ định tính so với mốc = (10.153.917 + [năm trước năm có tháng xem])*12 + 2 + [số của tháng xem]
      Chia số Tích tháng tính được cho 360
      Phần dư của phép chia trên chia tiếp cho 72, số dư là nguyệt cục.


      Ví dụ: Tính nguyệt cục của tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000)


      Từ Thượng cổ Giáp Tý đến năm trước năm có tháng xem (năm 1999) có: 10.153.917 + 1999 = 10.155.916 năm, 10.155.916 * 12 = 121.870.992 tháng. Số tháng Thiên Chính, Ðịa Chính và tháng cần xem (1) là 3, nghĩa là phải cộng thêm 3 được tổng số tháng = 121.870.992 + 3 = 121.870.995. Lấy số này : 360 dư 195, 195 : 72 dư 51. Như vậy tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) thuộc nguyên Nhâm Tý, có Nguyệt cục dương 51.


      Một số thuyết tính gốc Nguyệt cục là ngày mồng một (Mậu Ngọ) tháng 11 (Bính Tý), năm Giáp Tý, năm đầu niên hiệu Nguyên Gia, vua Tống Văn Ðế nhà Tống (420-479) ở Trung Quốc thời kỳ Nam-Bắc triều (Tương ứng với ngày 7 tháng 12 năm 424). Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này.


      Ví dụ: Tính Nguyệt cục của tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000)


      Từ tháng Bính Tý năm Giáp Tý (năm 424) đến tháng Ất Hợi (tháng trước tháng Bính Tý) năm Kỷ Mão (năm 1999) có: (2000-1) – 423 = 1.576 năm. Lấy số năm (1.576) * 12 được 18.912 tháng (mỗi năm 12 tháng). Từ tháng tháng Bính Tý năm Kỷ Mão (1999) đến tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) có 3 tháng. Vậy số Tích tháng = 18.912 + 3 = 18.915. Lấy số này chia cho 360 dư 195. Lấy dư số chia cho 72 dư 51. Như thế tháng Mậu Dần năm Canh Thìn (2000) thuộc nguyên Nhâm Tý, dương có Nguyệt cục dương 51.


      Nguyên tắc: niên cục dương thì nguyệt cục cũng dương; niên cục âm thì nguyệt cục cũng âm.






      Comment


      • #4
        Số nhật cục



        Phương pháp tính:


        Sau tiết Ðông chí, tìm ngày Giáp Tý đầu tiên gần nhất sau Ðông chí năm trước, lấy đó làm gốc đếm trở đi, tích cho đến ngày xem, được bao nhiêu là số tích ngày.

        Chia số tích ngày đó cho 360 phần dư lại tiếp tục chia cho 72, còn dư lại bao nhiêu chính là nhật cục.

        Theo sách Thái Ất thần kinh, chỉ có thời kế là có phân biệt âm cục, dương cục.


        Một số thuyết áp dụng cục âm dương trong Thái Ất kể ngày. Cục âm, dương tính như sau: Từ Ðông chí đến trước ngày Hạ chí, là dương cục; từ Hạ chí đến trước ngày Ðông chí, thuộc âm cục (chú ý tính ngày phải xét đến cả giờ chuyển tiết, khí)


        Thí dụ: Tính nhật cục ngày 14 tháng 12 năm 1992 dương lịch.

        Tính Nhật cục theo Thái Ất thần kinh:

        Ngày Ðông chí năm trước: 22 tháng 12 năm 1991

        Ngày Giáp Tí đầu tiên gần nhất sau Ðông chí năm trước là ngày 18 tháng 02 năm 1992 (Ngày Giáp Tí (15) tháng Nhâm Dần, năm Nhâm Thân)

        Số ngày tích lại: 14/12/1992 - 18/02/1992 + 1 = 301 đem chia cho 360 được số dư 301. Số dư chia tiếp cho 72 được số dư là 13.

        Vậy ngày 14/12/1992 có Nhật cục 13.

        Có thuyết tính mốc tích ngày là ngày Giáp Tí (01) tháng Giáp Tí (11), năm Quý Hợi thuộc niên hiệu Cảnh Bình đời Tống tương ứng với ngày 19 tháng 12 năm 423 theo dương lịch.

        Trước hết tính số ngày từ gốc là ngày 19 tháng 2 năm 423 tới ngày 18 tháng 2 trước ngày xét và tính được tròn số từ năm 423 tới năm xét.

        Tiếp đó người ta sử dụng công thức tính làm tròn ngày tích 365,2425 ngày/năm với số năm.

        Bước tiếp theo tính số ngày lẻ từ ngày 19 tháng 2 tới ngày xét.

        Lấy tổng số ngày (số tích ngày) chia 360 lấy dư. Lại chia tiếp 72 lấy dư làm số Nhật cục.

        Có thuyết quy định tính Tích Nhật dựa vào Tích Nguyệt. Sách Thái Ất dị giản lục có ghi cách tính này.
        [sửa] Số thời cục



        Cách tính:


        Cục âm dương của thời cục cũng tính như Nhật cục

        Số giờ từ ngày Giáp Tí hoặc Giáp Ngọ gần nhất sau Ðông chí năm trước đến ngày, giờ muốn tính

        Chia số giờ đó cho 360, số dư lại chia tiếp 72 số dư chính là Thời cục.


        Ví dụ: Tính thời cục giờ Nhâm Tý, ngày Mậu Tuất (23 tháng 1 năm 1992)


        Ngày Giáp Ngọ gần nhất sau Ðông chí là 19 tháng 1 năm 1992. Số ngày tích lại = 23/01/1992 - 19/01/1992 = 4. Số tích giờ 4*12 = 48 giờ. Cộng thêm 1 giờ của ngày Mậu Tuất là 49 giờ. 49 chia 360 dư 49, lại chia 49 cho 72 dư 49. Ngày 23 tháng 1 năm 1992 sau Ðông chí thuộc dương cục. Vậy tính được Thời cục 49 Dương.


        Cách tính số Niên cục, Nguyệt cục, Nhật cục, Thời cục gọi là Tứ kế (Tuế kế, Nguyệt kế, Nhật kế, Thời kế)
        [sửa] An các sao chính

        01. Thái Ất
        02.Tiểu Du Thái Ất, Tiểu Du Thiên Mục và Ðại Du.
        03. Thái Tuế
        04. Thần Hợp
        05. Kể Ðịnh (Kể Mục) và Toán Ðịnh
        06. Kể Thần
        07. Thái Âm
        08. Văn Xương
        09. Thủy Kích
        10. Toán Chủ - Toán Khách
        11. Ðại Tướng Chủ
        12. Ðại Tướng Khách
        13. Tham Tướng (Tiểu Tướng) Chủ và Khách
        14. Ngũ Phúc
        15. Quân Cơ
        16. Thần Cơ
        17. Dân Cơ
        18. Tứ Thần
        19. Thiên Ất
        20. Ðịa Ất
        21. Trực Phù (Phép Tôn)
        22. Phi Phù
        23. Phi Lộc Phi Mã
        24. Hạn Dương Cửu
        25. Hạn Bách Lục – Vào quẻ

        Cách đoán quẻ

        Sau khi an được quẻ Ất, căn cứ vào tính lý các cung, sao, căn cứ thuyết âm dương, ngũ hành sinh khắc, quy luật sinh vượng, chú ý các trạng thái vô thường của Thái Ất, nếu có và tùy theo lập quẻ Ất kể năm, kể tháng, kể ngày hay kể giờ mà tiến hành luận đoán.

        Trong trường hợp lập quẻ Ất kể ngày xem mệnh, còn phải hạn Dương cửu, hạn Bách Lục, căn cứ quẻ, hào Kiếp Sống tìm được, để dự đoán đời sống tiến lui lành dữ; căn cứ quẻ, hào Thái Tuế lưu niên tìm được, để dự đoán các việc và khi nào xảy ra trong năm ấy.


        Lưu ý

        Cũng mang tên môn Thái Ất còn có Thái Ất thần quẻ, là phương pháp ứng dụng Dịch lý để lập quẻ dự đoán bằng hình thức lắc hào. Quẻ gồm có năm hào, mỗi lần gieo một đồng tiền để xin Âm Dương cho từng hào, khác với môn Thái Ất này, không trình bày ở đây.



        Tham khảo

        Bằng tiếng Việt: Truyền lại đến ngày nay có hai bộ Thái Ất do hai soạn giả đồng thời vào thế kỷ 18:

        Một bộ là Huyền Phạm tiết yếu của Phạm Ðình Hổ (1768-1840) sửa lại bộ Huyền Phạm của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Cuốn này được Nguyễn Ngọc Doãn (1912-1989) với bút hiệu là Thái Quang Việt dịch sang quốc âm năm 1972; Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc phát hành với tên gọi Thái Ất Thần kinh ghi tên tác giả là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 2002, Nhà Xuất bản Văn Hoá Dân tộc cho tái bản sách Thái Ất Thần kinh được sửa chữa, bổ sung thêm những phần thiếu sót.

        Bộ thứ hai là Thái Ất Dị giản lục của Lê Quý Ðôn (1726-1784). Sách này được Ðặng Ðức Lương dịch, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin in năm 2002.

        Có người còn có Thái Ất diễn quái bí lục của Nguyễn Xuân Quang, nhưng ít thấy bán trên các hiệu sách tại Việt Nam.

        Bằng tiếng Trung:

        Thái Ất kim kính thức kinh
        Thái Ất thống tông bảo giám
        Thái Ất thống tông đại toàn
        Thái Ất Ðào Kim Ca




        Những sách này ít thấy bán trong các cửa hiệu sách ở Việt Nam.




        Nguồn : TTVHN






        Comment

        Working...
        X