Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nhân tướng học

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • - Sơn căn có sắc ám đen chỉ anh em gặp tai nạn, hay gia súc thất lạc ,v.v...
    - Khí sắc ám đen đen mà lại lan cả lênẤn đường chủ về văn chương trì trệ.
    - Khí sắc ám đen cả khu vực ,mắt chạy dài tới cả hai tai là trong nha có tang sự hay chết hụt,.
    - Mắt trái sắc sáng xanh :con trai bị tai ách, mắt phải chủ là tai ách của con gái,.
    - Mắt trái có sắc pha hồng mà tươi mịn ,chủ về con trai lại có tin vui, vợ có mang chủ sinh con trai, mắt phải có dấu hiệu tương tự chủ về con gái.
    - Nếu đàn bà có thai mà cả hai mắt và khu vực dưới mắt đều sắc ám đen, mà lại khộng được sáng sủa thì lại là dấu hiệu thai sản khó khăn, có thể nguy hại đến tính mạng thai nhi lẫn sản phụ.
    - Nếu mà trong ba tháng mùa xuân mà môi trên từ sắc thái bình thường chuyển sang sắc trắng rõ rệt là điềm báo trước ề bệnh ruột.
    - Nói chung ,nếu mũi (từ chuẩn đầu đến Aán đường ) và trán về ba tháng mùa xuân có sắc sáng do màu vàng pha hồng tạo nên thì trong vòng 27-47 ngày sẽ có tin lành đưa tới (hay là tiền bạc ,nhà cử, con cái, ...)
    Mùa hạ : ba tháng mùa hạ thuộc Hỏa ,sắc chính yếu của mùa hạ là màu đỏ( biến thái là màu tía màu hồng ) . Bộ vị được dùng để đoán vận khí xấu tốt trong ba tháng hè lá trán.
    - Trán về ba tháng hè mà có màu sắc đỏ rõ ràng là chính cách , chủ về sụ có lôi thôi khẩu thiệt , nhưng sau đó lại trở thành tốt lành . Tướng pháp gọi đó là tỷ hòa ( Hoả gặp hoả)
    - Trán về ba tháng hè có sắc xanh pha vàng là tương sinh ( Thổ mộc sinh Hoả) thì trước xấu sau tốt.
    - Trán mà ba tháng h2 có sắc đen hoặc trắng là điềm bất lợi , dễ bị bệnh hoạn.
    - Sắc tía hiện rỏ rệt trên trán trong khoảng thời gian này là điềm báo trước có nhiều sự bất trắc về quan tụng , đồ vật.
    - Hai mắt về mùa hạ cũng như lông mày , Pháp lệnh hôn ám là thân thể bất an.
    - Hai cánh mũi có sắc đen pha tía là điềm bệnh tật về khí huyết.
    - Sơn căn sắc đen chủ huynh đệ có việc lôi thôi đưa đến tụng đình hoặc đồ vật thất tán.
    - Thùy châu ám đen : vật tài hao tổn , vành tai mà đen xanh thì chính bản thân dễ chết vì bệnh tật tai nạn
    - Nếu lưỡng huyền sắc đỏ tươi , mịn màng , từ chuẩn đầu đến tận trán có pha sắc vàng pha hồng tươi sáng là điềm báo trước mọi sự thuận lợi . Nếu tất cả các bộ vị trên bị pha xanh xám pha đen xạm là điềm trăm sự thất bại.
    - Sống mũi mà đen xám nhưng chuẩn đầu tươi nhuận hồng hào thì đau ốm nhì nhằng . Nếu tất cả đều hôn ám thì khó tránh khỏi chết vì bệnh tật.
    Mùa thu: ba tháng mùa thu thuộc Kim, sắc trắng là chính cách . Muốn xem vận khí mùa thu thì lấy quyền bên phải làm chuẩn.
    - Quyền phải sắc hòng hoặc đen là chính cách hoặc tương sinh , trước buồn sau vui
    - Chuẩn đầu trong ba tháng múa thu mà có sắc đỏ như mào gà chọi là điềm quan lộc hao tổn , tụng ngục lôi thôi.
    - Phía dưới hai mắt có màu đỏ là điềm xấu về con cái. Mắt phải con gái , ngược lại là phía con trai .
    - Ngư vĩ sắc đen là có tai nạn về sông nức . Sơn căn có sắcđen , mép miệng cũng hắc ám là điềm tật bệnh nội tạng.
    - Nếu mũi ( từ đầu đến cuối) hơi có khí sắc vàng mà rõ là công danh , tài lợi tấn phát.

    Mùa đông: Ba tháng mùa đông thuộc Thủy , tượng trưng bằng màu đen. Muốn xem vận khí trong khoảng thời gian này phải lấy Địa các làm chủ.
    - Ba tháng mùa đông mà cằm có sắc đen thì trước xấu sau tốt . Có sắc xanh thì tương sinh ( Thủy sinh Mộc) kết quả tương tự.
    - Cằm có sắc vàng về mùa đông chủ về tụng ngục , sắc trắng chủ chết chóc.
    - Lưỡng quyền về mùa đông có sắc đen là biểu hiện tai nạn hoặc tiền bạc hao phá.
    - Sơn căn sắc đen pha vàng : bất lợi về khẩu thiệt.
    - án đường xanh vàng : c&##7847;u công danh sẽ thất bại , nếu có tía lẫn lộn thì phải coi chừng xe cộ sông nước.
    - Dưới hai mắt có màu xanh vàng :trong vòng mười ngày có chuyện lôi thôi, có sắc đỏ là lôi thôi quan tụng , sắc vàng là tin vui.
    - Đầu lông mày có sắc đỏ chủ lôi thôi về những chuyện không đâu.
    - Trái lại , nếu phía dưới hai mắt có sắc vàng nhuận là điềm lành , làm việc gì cũng đạt sở nguyện.
    Tuy nhiên có một điều cần lưu ý là trước khi áp dụng vận khí bốm mùa cần phải xem xét xem người đó thuộc về hình gì trong năm hình rồi áp dụng nguyên lý tương sinh tương khắc vào Ngũ hình trong Ngũ hành để ấn định tầm ảnh hưởng tổng quát tiên khởi rồi mới áp dụng vận khí bốn mùa sau. Đi ngược lại điểm khởi nguyên này , sự đoán định mất hết giá trị , đôi khi còn đưa đến kết quả ngược lại.
    b) KHÍ SẮC VÀ MẠNG VẬN HÀNG THÁNG
    * Tháng giêng ( vị trí chủ yếu ở tại cung Dần, thep Pháp lệnh phải ) , tháng giêng thì diện bộ có sắc xanh trắng hiện rõ từng điểm sáng sủa tinh khiết là sắc tốt , chủ về mạng khí đang lên.
    * Tháng hai : trên tháng hai thì trên mặt cần phải hiện rõ sắc hồng tía nếu không thì sắc xanh sáng sủa hiện thành từng mảng mới là sắc tốt , vận khí hanh thông.
    Xem khí sắc tháng hai thì phải xem ở cung Mão ( từ đuôi mắt phải đến khoảng giữa hai tai phải : xem hình vẽ 222)
    * Tháng ba : bộ vị chủ yếu tại cung Thìn , nói khác đi đó là Thiên thương ( khoảng cuối chân mày phải đến đầu bên tai phải).
    Màu vàng phương hồng : đắc cách, trắng hoặc đen rõ ràng là phá cách. Trong ba tháng màu sắc cần phải lạt . Thiên
    thương đắc cách là triệu chứng tốt bị ám đen hoặc trắng là tang chế , xanh quá rõ là dấu hiệu báo trước bản thân sẽ gặp tai ách.
    * Tháng tư : Khí vận tụ lại ở cung Tỵ ( khu vực từ Thái hà tới Nguyệt giác tức là từ phía trên mày phải tới mép tóc phải)
    Màu tốt nất là màu hồng tía sáng sủa : chủ mọi việc tốt đẹp , khí sắc trì trệ lá bất tường.
    Các màu khác đều khắc kỵ : màu đen chủ về chết chóc , xanh chủ về hình phạt , vàng chủ về thất tán, trắng chủ về ma chay.
    * tháng năm : Khí vận tụ ở cung Ngọ ( khoảng từ Aán đường chạy thẳng lên mí tóc trên trán).
    Màu đỏ hoặc hồng tía là khí vận tốt . Các màu khác đều biểu hiện sự thất ý , nhất là màu xanh.

    * Tháng sáu : Khí vận tụ ở cung Mùi ( khoảng đầu chân mày trái tới phía trên Nhật giác)
    Sắc chính trong tháng này lá cung Mùi phải có màu vàng pha tía . Nếu có sắc xanh xạm hoặc chỉ hơi hồng mà lẫn trắng trộn với nhau thì công việc trì trệ hoặc gặp tai ách.
    * Tháng bảy:Khí vận tụ ở cung Thân ( khoảng cuối đuôi mày trái tới Thiên thương)
    Sắc chính và tốt là sắc là sắc vàng và trắng . Kỵ pha sắc đỏ hoặc đen xạm . Nếu sắc chính là trắng pha chút màu vàng hoặc tía chụ đại cát.
    * Tháng tám :Khí vận tháng tám coi tại cung Dậu ( xem hình vẽ)
    Khí sắc chính là ít vàng nhiều tía , không nên có nhiều sắc hồng hoặc đỏ rõ rệt .Trong khoảng tháng tám , chẳng nhửng kỵ sắc hồng và đỏ ở cung Dậu mà còn kỵ ở bất cứ bộ vị nào nữa .
    * Tháng chín : Khí vận tháng chín coi tại cung Tuất ( xem hình vẽ) Khí sắc chính là màu vàng hồng kỹ màu đỏ , xanh , đen .
    Màu đen trong thời gian này chỉ tai họa . Màu vàng cần hiện ở ngoài , màu hồng thì mới tốt , ngược lại là xấu.
    * Tháng mười : Khí vận tháng mười coi tại cung Hợi ( xem hình vẽ)
    Màu trắng: chủ tài lộc với điều kiện sáng sủa .
    Màu đỏ: tai ách.
    Màu vàng : bệnh tật
    Màu xamh : không may mắn về công danh sự nghiệp.
    Màu sắc tốt là màu sắc đồng dạng với tháng mười . Có
    * Tháng Mười một: màu xanh hoặc đen thuần túy sáng sủa là trung bình , mười một : khítối kỵ màu hồng , màu đỏ dù là từng mảng hay từng vận coi tại cung Tý chấm nhỏ cũng vậy.
    * Tháng chạp : Khí vận tháng chạp coi tại cung
    Sửu ( từ mép miệng phải chạy ngang má và chạy dọc xuống hạ đình)
    Màu sắc chính yếu đắc thế của tháng chạp là hai màu xanh , màu vàng . Điều đáng lưu ý nhất là cả hai màu đó phải mờ ám nhưng không được ngưng trệ bởi sự xuất hiện bất chợt của các màu đen hoặc đỏ ở cung sửu.
    Tuy nhiên , vì hai cung Tý , Sửu ở sát gần nhau nên ta phải phân rõ màu sắc giao liên của chúng .Tháng chạp thì cung Sửu có thể trắng nhưng cung Tý phải đen mới hợp cách.
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment



    • Tóm lại , khi dựa vào khí sắc để đoán vận khí tốt xấu , cần phải nhớ các nguyên tắc căn bản sau đây :
      a) Theo đúng nguyên lý vạn vật biến chuyển không ngừng , khí sắc mỗi tháng cũng biến chuyển theo từng tiết ( mỗi tháng có hai tiết , mỗi năm có 24 tiết).
      - Từ mồng 1 đến 15 mỗi tháng : khí sắc tươi nhuận và rõ rệt.
      - Từ 15 đến cuối tháng chỉ cần tươi nhuận nhưng phải mờ dần.
      b) Sắc diện mỗi ngày ở một người vô bệnh tật cũng biến chuyển.
      Buổi sáng mới thức dậy : khí sắc trong sáng , buổi trưa mạnh mẽ và buổi chiều an tĩnh .
      c) Chỉ có loại khí sắc tự nhiên mới cho phép dự đoán vận hạn hàng tháng hay hàng năm mà thoi . Khí sắc hàm dưỡng hay tà khí dùng để khám phá khí phách tinh thần.
      d) Khí sắc và vận mạng hàng năm ( Xem hình vẽ trên)
      Cũng áp dụng nguyên tắc tương sinh , ta có thể phối hợp cách cấu tạo của bộ vị đó về hình thể với màu sắc của bộ vị đó đến biết được vận khí cá nhân năm đó tốt xấu ra sao.
      Sau đây là bảng liệt kê các bộ vị tương ứng với từng năm áp dụng cho đàn ông ( riêng đối với đàn bà các bộ vị bên phải của đàn bà có ý nghĩa của các bộ vị bên trái của nam giới và ngược lại . Các bộ vị trung ương có giá trị chung cho cả nam lẫn nữ)
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • TUỔI TÊN BỘ VỊ VỊ TRÍ TRÊN KHUÔN MẶT


        Tuổi Tên bộ vị Vị trí trên khuôn mặt
        1,2 Tả Thiên Luân Phía đầu tai trái
        3,4 Thiên thành Khoảng giữa tai trái
        5,6,7 Thiên quách Phần cuối tai trái
        8,9,10 Hữu thiên luân Đầu tai bên phải
        11,12 Nhân luân Khoảng giữa tai phải
        13,14 Địa luân Phần cuối tai phải
        15 Thiên trung Coi hình vẽ 223
        16 Phát tế Chân tóc trán chính giữa
        17 Nhật giác Mép tóc bên trái
        18 Nguyệt giác Mép tóc bên phải
        19 Thiên đình chính giữa trán
        20 Tả phụ giác Phần góc trán từ chân mày trái chạy thẳng lên
        21 Hữu phụ giác phần góc trán từ cuối chân mày phải đi lên
        22 Tư không Phần giữa trán ở dưới Thiên đình
        23,24 Tả hữu biên thành Hai bên phải trái của chân tóc
        25 Chính trung Phần trán ngay bên ấn đường
        26 Khâu lăng Phần xương đầu phía trên tai trái
        27 Phần mô Phần xương đầu phía trên tai phải
        28 án đường Khoảng giữa hai đầu lông mày
        29,30 Tả hữu sơn lâm Phần xương đầu hai bên sọ
        31 Lăng vân Phần trán phía trên xương lông mày trái
        32 Tử khí Phần trán phía trên xương lông mày bên phải
        33 Thái hà lông mày trái
        34 Phồn hà lông mày phải
        35 Thái dương Đầu mắt trái
        36 Thái âm Đầu mắt phải
        37 Trung dương Khoảng giữa mắt trái
        38 Trung âm Khoảng giữa mắt phải
        39 Thiếu dương Khoảng cuối mắt trái
        40 Thiếu âm Khoảng cuối mắt phải
        41 Sơn căn Phần mũi ở giữa hai mắt
        42 Tinh xá Khoảng dưới mắt trái ăn thông với mũi
        43 Quang điện Khoảng dưới mắt phải ăn thông với mũi
        44 Niên thượng Phần trên sống mũi
        45 Thọ thượng Phần dưới sống mũi
        46,47 Tả hữu quyền Quyền bên trái và quyền bên phải
        48 Chuẩn đầu Chót mũi
        49 Gían đài cánh mũi trái
        50 Đình úy Cánh mũi phải
        51 Nhân trung Vạch sâu ở dưới chuẩn đầu ăn thông với môi trên
        52,53 Tả hữu tiên khố coi hình vẽ 223
        54 Thực thương Phần kế bên trái Tả Thiên phụ
        55 Lộc thương Phần bên phải Tả Thiên phụ
        56,57 Tả hữu pháp lệnh Hai lằn sâu từ hai cánh mũi đi xuống cằm
        58,59 Tả hữu phụ nhĩ Hai phần xương sụn ở mặt che cho hai lỗ tai
        60 Thủy tinh Môi trên
        61 Thừa tướng Môi dưới
        62 Tả địa khố Hai phần bên phải và bên trái
        63 Hữu địa khố của tụng đường(xem hình vẽ)
        64 Nga áp Mép miệng bên trái
        65 Ba trì Mép miệng bên phải
        66 Tả quy lai Phần cuối pháp lệnh trái
        67 Hữu quy lai Phần cuối pháp lệnh mặt
        68 Tả quy lại Phần diện mạo ở hai bên
        69 Hữu quy lại Pháp lệnh ( xem hình vẽ )
        70 Tụng đường Phần lẹm ở ngay dưới môi dưới
        71 Địa các Phần cằm tận cùng của khuôn mặt
        72 Tả nô bộc Phần bên mặt của hai bên địa các
        73 Hữu nô bộc Phần bên mặt của hai bên địa các
        74 Tử tai cốt Phần xương má bên trái
        75 Hữu tai cốt Phần xương má bên phải





        Bắt đầu từ tuổi 76 ¬100 ,người ta không xem bộ vị ở phần diện tích Khuôn mặt mà lại coi các khu vực chung quanh mặt. Các khu vực này không có danh hiệu riêng như 75 bộ vị kể trên (phần có ghi số là tuổi)-ví dụ :95 năm là 95 tuổi,99 năm là 99 tuổi) .Ở tuổi thượng thọ (từ 70 trở lên) phần hình hài Bộ vị không được coi trọng mà cần phải đặc biệt lưu ý đến thần, khí sắc .Đại để thần mạnh sắc tươi khí hùng là dấu hiệu thọ khang :thần hôn, khí sắc ảm đạm Là dấu hiệu suy nhược báp trước sắp bệnh hoạn hay từ trần tùy theo mức độ nặng nhẹ.
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment



        • 3- Ý nghĩa từng loại sắc trên các bộ vị :

          SẮC ĐEN:
          - Thiên trung: hắc khí xuất hiện ở bộ vị này chủ về tai họa trên họan lộ ,hay các việc không may xảy ra ở ngoài ý đị nh của mình
          - Trung chính : chủ về mưu việc không thành, nội trong 100 ngày sẽ thấy hậu quả không hay. Kẻ theo đuổi họan lộ tối kị lọai khí đen xuất hiện ở Bộ vị này.
          - Dịch mã: xuất hiện ở bên trái chủ về bệnh tật ở bên tráitrong nội tạng, bên phải thì tật ở bên phải. Ngoài ra, Bộ vị này còn chủ mọi sự phá bại,tai ương.Nếu sắc đen rõ ràng thuộc loại tà sắc thì cầ nphải đề phòng tai họa sông nước. Tuy vậy, nếu sắc đen nhuận trạch và ở giữa có điểm sáng lan dàn ra xung quanh thì lại là dấu hiệu của hanh thông, nên xuất hành hay khai trương công việc .
          - Mi tâm : chủ về sự bất tường liên quan tới gia vận, anh em bằng hữu .Thấy sắc đen hiện ở hai mi tâm, tốt hơn hết là không nên bảo lãnh ,cam kết dùm cho bạn bè thân tộc.
          - Thiên thương : chủ về việc đi đường dễ gặp hiểm nghèo ,đồng thời cũng là dấu hiệu chỉ ông bà cha mẹ gặp bệnh tật ,rủi ro (nếu cung phụ mẫu cùng màu sắc)
          - Cặp mắt : hiện ra sắc đen đột ngột chủ về tai họa do nữ giới mang lại hay liên quan đến việc giao du với nữ giới .
          - Hai tai : (tai trái mệnh danh là Kim tinh, tai phải mệnh danh là Mộc tinh) hiện ra sắc đen xạm như nấm mốc là dấu hiệu gia vận bất tường, hay điềm rắc rối về pháp luật.
          - Lưỡng quyền : chỉ rắc rối tr6en hoạn lộ, làm quan có thể bị mất chức hay giảm quỳen bình .Nếu Thiên trung cũng có loại khí sắc này vào loại tà sắc thì trong 40 ngày sẽ thấy ứng nghiệm .Nhược bằng thiên trung sáng sủa ,hồng nhuận thì tai họa giảm thiểu đến mức tối đa.
          - Địa khố : chủ về tai họa ,tai tiếng do miệng lưỡi mang lại. Tuy vậy nếu Chuẩn đầu vàng tươi,sáng sủa và sắc đen Địa khố về 2 mùa thu và đông thì không đáng lo ngại.
          - Tung đường : chỉ sự bất lợi về thủy lộ ,không nênđi thuền ,tàu thường trong thời gian có sắc thái này hiện ở tụng đường.
          - Nhân trung : chủ về rủi ro tai nạn do chính bản thân hay con cái. Nếu đang bị đau ốm mà thấy sắc thái đen hiên ra ở Nhân trung thì cần cẩn trọng trong thời gian chạy chữa.
          - Chuẩn đầu : chủ về tai họa sắp tới.Nếu Aán đường không ám,nhãn quan linh hoại sáng sủa thì tai họa không có hậu quả đáng kể. Thấy sắc thái đen xạm hiện lên ở chuẩn đầu cần phải hết sức giữ mình ,không nên vọng động. Cưỡng lại tất nhiên sẽ xảy ra tai ương.
          - Ty lương : (Niên thượng và Thọ thượng ):chủ về bản thân hay trong nhà có bệnh .Nếu có đốm đen lâu dài thì biết ngay bản thân có bệnh kinh niên.
          - Sơn căn : chủ về thời vận không tốt ,phải đề phòng việc hiếu phục với người thân trong nhà.
          - án đường : chủ v&##7873; lo lắng phi thường quan trọng. Nếu ám khí lan rộng suốt bề mặt của trán là điều báo trước tai họa sắp đến.
          - Môi miệng : chủ về bệnh tật nan y ,Nếu như nhãn quan xiên xẹo ,hôn ám là loại bệnh phong hay thần kinh chết.Nếu nhãn quan có thần là bệnh nội tạng hay gặp vận bi.
          - Phước đường : chủ về lo lắng tang chế:sắc nhẹ thì thời gian ứng nghiệm chậm , sắc thái rõ ràng thời gian xảy ra kế cận.
          - Mạng môn: thời vận trì trệ ,công việc trắc trở.
          - Pháp lệnh : chủ về thọ căn bị thương tổn hay làm điều ác bị báo ứng
          (nếu âm chất cung cũng xạm đen và khô mốc.
          - Gian môn :bất lợi do việc giao thiệp với nữ gây ra.Nếu sắc đen chạy từ gian môn ra quyền cốt chủ về thê thiếp bất hảohay nhân vì chuyện vợ con mà mất tín nhiệm.

          SẮC ĐỎ :
          -ngay giữa trán : (chính ngạchh):khí sắc đỏ hiện ngay trán kể từ sát án đường tới chân tóc chủ về những trở ngại trong bước đường công danh sự nghiệp, hay tai họa do bình khí , hỏa tai mang tới.Nếu sắc khí này hiện rõ rệt và lâu dài thì trong 40 ngày sẽ thấy ừng nghiệm.
          - án đường :Nếu có vvết đỏ như da bị phỏng dầu là dấu hiệu tai họa vì miệng lưỡi hay hỏa tai trong còng 100ngày sẽ thấy.
          - Sơn căn :có khí sắc đỏ ám chỉ về quan tụng hay tai ương liên quan đến lửa hay là sinh đẻ khó khăn phải giải phẫu, theo từng hoàn cảnh ,nghề nghiệp của mỗi người ,Việc nhanh hay chậm tùy theo sắc thái đậm hay lạt.
          - Thiên thương : nhà bị gây go ,miệng tiếng đưa đến quan tụng hay những việc kinh hiểmâû
          -Lưỡng quyền : (quy𓎍n cốt) có sắc thái đỏ như màu máu đông là điềm báo trước tai họa. Đậm ,rộng thì phải đề phòng việc chết chóc vì quan tụng ,nhẹ cũng phá tán tiền bạc ,lo lắng khổ cực về tinh thần.
          - Nhân trung : rõ và rộng sắc khô thì buồn lo, mờ ảo và hẹp tìh lo lắng ít.
          -Thừa tương :có kẻ ttiểu nhân làm phiền ,sinh ra lo lắng ,buồn bực.
          - Địa các : chủ về cạnh tranh lời ăn tiếng nói mà sinh ra hao tốn tiền của hay tiền vận trì trệ tuỳ theo sự liên quan tới các bội khác.
          - Địa khố : về bệnh trạng xung huyết ,cùng lúc với việc quan tụng cùng nghĩa với khí sắc xuất hiện ở Địa các.
          - Chuẩn đầu : là khu vực đại kị ( trừ người Hỏa hình chính cách) đối với các người thuộc hình kim, Mộc, Thuỷ và Thổ, và không ở trong ba tháng mùa hạ. Khí sắc đỏ thuộc tà sắc ở chuẩn đầu xuất hiện đồng thời ở cả lưỡng quyền chủ về nhà tan người mất. Tuy nhiên với điều kiện là lan tràn đều và rõ ở khắp diện tích thuộc Chuẩn đầu và lưỡng quyền mới có hậu quả tai hoạ như trên. Nếu chỉ là tản sắc thì không đáng lo ngại nhiều.
          -Mạng môn: chủ về hao tốn của cải hoặc bị người khác làm hại.
          Ty lương: Chủ về bệnh tật của máu huýet quá khẩn trương đồng thời cũng là tại hoạ có tính cách do khẩu thiệt mang lại.
          -Mi tâm:Chỉ dấu của sự lo buồn và anh em, thân quyến hoặc bạn bè làm liên luỵ đến mình.
          Dịch mã: Chủ xuất ngoại thường gặp tai ách về lửa hoặc là cạnh tranh miệng lươĩ.
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • *SẮC XANH
            -Chính trung: Xuất hiện không đúng lúc và đúng với loại hình người là dấu hiệu của người làm quan hay giữ chức vụ bị giáng cấp hay tù tội vì công việc đàng hành xử.
            -Nhật, Nguyệt giácáu hiệu của bệnh tật, nặng nhẹ tuỳ theo mức độ của sắc thái xẫm hay lạt.
            -Dịch mã:Chủ về những rủi ro , tai nạn trong lúc đi đường hoặc xuất du ra khỏi địa phương của mình.
            -ẤN đường: Xanh xạm chủ về các tai ương hao tổn đến xe ngựa. gia súc.
            -Mi tâm: Thời vận trì trệ, anh em quyến thuộc gặp tai ách.
            -Sơn căn :Hiện sắc xanh ảm đạm cần phải đề phòng bệnh tật, một khi bị đau thì bệnh trang kéo dài. Nếu vốn đã có bệnh thì bệnh đó còn lâu mới hết.
            -Gian môn; Chủ về vợ gặp bệnh tật, nếu vợ có thai sắp sinh phải lưu ý đề phòng.
            -Lưỡng quyền: Chủ về gia vận không được thuận lợi và có mối lo do việc thưa kiện gây ra tỷ như dùng người giúp việc gặp kẻ bất trung, bảo lãnh nhầm cho kẻ quen mà mình phải gánh chịu lấy hạu quả do kẻ đó gây ra.
            -Niên thọ: Chủ về đại bại, tiêu ma sự nghiệp.Nếu gặp sắc xanh rõ rệt hiện ở sống mũi thì không bệnh tật tốn hoa tiền cũng do việc khác gây ra tổn thiệt nên tuyệt đối chớ nên vọng động trong thời gian này.
            -Nhân trung:Chủ về beenhj tật báo trước điềm do việc ăn uống cẩu thả hay dâm dục thái quá gây ra.
            -Địa khố: Chủ về tai ương hoặc là đi đường thất lợi ,hoặc là gia súc nui trong nhà bị hao hụt.
            -Địa các: Cùng ý nghĩa như gặp sắc xanh ở Địa khố nhưng con thêm ý nghĩa là cộng tác với người ngoài sẽ gặp thất lợi.
            -Chuẩn đầu; Chủ về đại hoạ liên quan đến tiền bạc và sinh mạng. Nhẹ thì hao tổn tài sản, nặng thì có thể người chết, tan cưa nát nhà.
            -Hải giác; Chủ về do tai hoạ ăn uống gây ra, đồng thời cũng là dấu hiệu của việc đi đường thuỷ gặp nhiêu bất trắc.
            Nếu thấy hiện lên đồng thời ở cả Hải giác lẫn Địa khố thì phải đặc biệt lưu ý đến viẹc phòng tai hoạ về ẩm thực.Nếu thấy đồng thời sắc xanh xuất hiện ở cả Hải giác lẫn Nhân trung phảib lưu tâm đến rũi ro sông nước trong lúc đi đường.
            -Mạng môn; Chủ về thời vận trì trệ không được hanh thông, bệnh tật tốn tiền hại sức, hay gặp lo buồn.
            -Lệ đường: Sắc xanh ảm đạm khô khan chủ về hoạt động bị tiểu nhân phá hoại ngầm hoặc đi xa gặp kẻ ngăn cản.Trái lại gặp sắc xanh tươi nhuận, khí sắc toàn diện rõ ràng, nếu có vợ hoặc chính đương sự là phụ nữ thì lại chủ về có tin vui thai sản.Lệ đường bên trái chủ về sinh con trai,bên phải con gái.Tuy nhiên cần phải phối hợp với khí sắc của ấn đường mới thêm phần chính sát.
            - Thiên đường : gặp lo lắng buồn phiền bất trác.
            - Phước đường : bị tiểu nhân hãm hại trong công việc làm quan cũng như bị đồng nghiệp gièm pha, đi buôn bị bạn bè tranh thương bất chính khiến rắc rối .
            SẮC TRẮNG :
            - Thiên đình : thiên đình có sắc trắng đục, tối; là chỉ sự ha otổn tiền bạl hay các loại kh&aacut
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • CHƯƠNG 3
              PHƯƠNG PHÁP XEM TƯỚNG

              I- NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN TRONG PHƯƠNG PHÁP XEM TƯỚNG
              Phương pháp xem tướng của Á Đông có tính cách toàn diện và tổng hợp. Toàn diện ở chổ tất cả các bộ vị trên khuôn mặt, trên thân mình, những nét tướng động tác và tinh thần đều phải được quan sát. Như thế, với ý nghĩa toàn diện, ta phải quan sát từ chân lên đến đỉnh đầu, từ phía chính diện lẫn trắc diện
              Về mặt Tổng Hợp, ta chú trọng nhiều ở chỗ phối hợp tất cả các bộ vị: Đi từ chỗ phối hợp các điều quan sát ở các bộ vị tiến tới những bộ phận lớn hơn. Từ những bộ phận kết hợp đó ta đi đến toàn thể con người. Tổng hợp còn có ý nghĩa là phối hợp những điều quan sát rút tỉa phần hình tướng về phẩm lẫn lượng với phần tâm tướng. Chỉ sau khi cân ưu và khuyết điểm của cả hai phần tâm tướng và hình tướng người ta mới có thể đưa ra phần nhận định có tính cách đúc kết tức thời (immédiat) về một cá nhân. Phép xem tướng Á Đông đề ra một số định tắc giản ước có tính cách hướng dẫn. Người xem tướng muốn việc quan sát được coi là đầy đủ phải hướng việc quan sát của mình vào mười trọng điểm. Trong các sách tướng ngày xưa, người ta thường mệnh danh đó là thập quan gồm các điểm trọng yếu sau đây:
              - Sự uy nghi: Nói một cách tổng quát, uy nghi là những gì con người một cá nhân tỏa ra ngoài, khiến cho người khác nhận thức được và tạo ở người khác một ấn tượng kiêng nể, không dám đem lòng khinh mạn. Thường thường sự uy nghi đường bệ này phần lớn do ánh mắt tạo ra nhưng không chỉ có ánh mắt mà ở toàn thể cốt cách, cử chỉ hay nói một cách rộng rãi là tác phong của một cá nhân
              - Tính cách hậu trọng và hòa cái: Tính cách hậu trọng bao gồm cả hai lĩnh vực vật thể lẫn tinh thần và có nghĩa là thân hình vững vàng, tinh thần ổn cố gây cho người ngoài một sự tin cẩn, một cảm tưởng có thể nói là an tâm nơi mình. Ví dụ như một người lúc nào cũng giữ được tác phong ung dung thư thái trước bất cứ hoàn cảnh nào, sắc mặt lúc nào cũng điềm đạm không hốt hoảng, hoang mang là kẻ được tướng học xem là tướng hậu trọng
              Còn hòa ái là sắc diện, cử chỉ, thái độ ngôn ngữ của ta khiến người khác được thoải mái, thích tiếp cận nhưng không dám khinh lờn hoặc vì cưỡng ép mà tới
              - Thẩm định sự thanh trọc: Sự thanh trọc nói ở đây có nghĩa là Thanh hay Trọc phải đúng mức, vì Thanh đi quá đà sẽ trở thành hàn. Trọc đi quá đà sẽ trở thành thô và chỉ khi nào có hàn và thô mới coi là xấu
              Nếu trong một cá nhân có cả thanh lẫn trọc, ta phải tìm xem đó là cách Thanh trung hữu hay cách Trọc trung hữu thanh. Đến đây ta lại trở về các chi tiết đã trình bày ở chương nói về Thanh Trọc
              - Quan sát cách cấu tạo xương đầu và trán: Đầu, dưới nhãn quang tướng học Trung Hoa, được xem là nơi cao quý nhất của thân tướng học ít khi nói đến đầu mà lại nói đến trán. Hơn nữa phần đầu được nói đến phần nhiều lại có tính cách hoang đường chỉ có một phần nhỏ đáng lưu ý. Đại khái, muốn được coi là cát tướng thì xương não hậu phải nổi tròn, xương hai bên phía tai phải nảy nở một cách cân xứng. Ngoài ra chiều cao và khối lượng của đầu phải tương xứng với toàn thân, không được quá lớn cũng không được quá nhỏ. Thái quá hay bất cập đều là hung tướng, dù Tam Đình có bình đẳng, Ngủ nhạc có triều quý đi nữa, thì những sự bình đẳng, triều quý đó cũng chỉ là những cái tốt chi tiết trong một cái xấu tổng quát, chỉ được ngọn mà mất hẳn gốc
              Về trán, phần này được phân tích khá đầy đủ ở chương đầu, quyển I, bạn đọc chỉ cần xem lại phần đó là đủ. Điểm cần nói ở đây là Trán cũng phải theo một quy tắc trung dung như trên, nghĩ là phải tương xứng thích nghi với đầu. Quá rộng hay quá
              thấp hẹp, đều không đưa đến hậu quả tốt đẹp thật sự vì cao quá thường lao tâm tổn thọ, quá thấp hẹp thì ngu độn vất vả
              - Quan sát ngũ nhạc và tam đình: Tam Đình và Ngũ Nhạc tuy danh xưng khác nhau nhưng thật chất lại là một. Tam đình đứng về phương diện phân chia tổng quát khuôn mặt một cách võ đoán, còn Ngũ Nhạc là đứng về phương diện phối trí các khu vực xương nổi cao trên khuôn mặt. Tất cả những ý nghĩ chính yếu của Tam Đình, Ngũ Nhạc đã được nói khá đầy đủ ở quyển I, những điểm cần phải bổ túc về kỹ thuật sẽ được trình bày ở mục III, khi chúng ta đề cập đến kỹ thuật xem tướng theo thời gian ở những trang sau. Ở đây bạn đọc chỉ cần nhớ lại một vài điểm yếu sau đây mà thôi:
              - Chiều dài lý tưởng là ba Đình phải xấp xỉ bằng nhau và không có Đình nào được lệch lạc
              - Ngũ nhạc cần phải triều củng, nghĩa là Mũi phải ở ngay chính giữa đường phân chia khuôn mặt theo chiều dọc, không được lệch sang trái, sống mũi phải ngay thẳng và không được sát với mặt phẳng của mặt. Chuẩn đầu phải cao hơn tất cả các phần khác của lông mày, xương Lưỡng quyền phải vuông vức đầy đặn không được lệch. Những điểm chính yếu sau trên về Tam Đình, Ngũ Nhạc chính là tướng thư gọi là bình đẳng và triều quy. Thông thường về mặt mạng vận của kẻ suốt đời bình an, đủ ăn, đủ mặt, ít gặp ba đào khủng khiếp
              - Quan sát hình dạng, phẩm chất của Ngũ Quan và Lục Phủ: Trong chương đầu quyển I và những chương kế tiếp, soạn giả đã giới thiệu đầy đủ về các bộ vị trên, nên
              ở dây chỉ cần lưu ý một vài điểm kỹ thuật liên quan đến thầm định chuyên biệt mà thôi
              - 1. Quan sát lục phủ muốn cho chính xác phải nhìn nghiên chứ không nên nhìn thẳng phía trước vì các phần này thuộc về phần chính diện. Do đó, việc quan sát chính diện chỉ có tính cách phụ đới nhằm bổ túc cho lối nhìn trắc diện. Trái lại, trong phép quan sát ngũ quan (trừ cặp tai không đáng kể ), trắc diện chỉ có tính cách bổ túc, chính diện quan sát mới đóng vai trò quan trọng
              - 2. Tuy người ta nói rằng lục phủ cần phải nảy nở, ngũ quan thì phải toàn mỹ, kỵ lộ nhưng những điều đó chỉ có giá trị tương đối không hoàn toàn chính xác trong mọi trường hợp, ví dụ như:
              - Về mắt, chỉ có người Mộc, người Kim, người Thổ mới kỵ lộ nhãn, còn người Hỏa thì lại không kỵ miễn là đừng lộ thần là được
              - Về Tai, Người Mộc không kỵ tại Mộc, Tai Viễn Vũ nhĩ cho người Hỏa thì tai phản nhỉ, tai Hỏa càng lộ bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu
              - Về Mũi, người Mộc không kỵ các loại Mũi gầy miền là không được thấp gãy, người Hỏa không hề kỵ Mũi lộ không
              - Về Miệng, người loại Miệng cực kỳ quý đối với người Thổ, Kim, Thủy do vậy người Hỏa lại thành xấu. Trái lại, người hình Hỏa không hề kỵ lộ xỉ, lộ hầu
              - Về Lông Mày, người Hỏa, người Thủy, không cần phải mi trường quá mục, lộ và đoản mi đối với người Hỏa lại là hợp cách
              - Quan sát các bộ vị trên thân mình: bụng, ngực, lưng, eo, vú rốn ...
              - Quan sát các nét tướng tứ chi: Tất cả những nét tướng của cả hai trọng điểm kể trên đã được trình bày đầy đủ trong quyển I, nên ở đây miễn nhắc lại. Độc giả chỉ cần tham chiếu những đoạn liên quan hai trọng điểm trên là có đủ yếu tố để phán đoán
              những đặc điểm về cá tính và vận mạng của một cá nhân qua những nét tướng về thân hình và tứ chi
              - Quan sát âm thanh và tâm hồn: âm thanh trong tướng học đóng một vai trò quan trọng trong việc đoán thọ yểu, hiền ngu, quý tiện.
              Nguồn gốc nguyên thủy của âm thanh là khí. Aâm thanh hùng mạnh, ổn cố có nghĩa là khí cũng ổn cố. Thế mà khí, theo nhãn quang tướng học của tướng lý Á Đông là gốc rẽ của sự thọ yểu, nên âm thanh sung mãn thì con người đó có rất nhiều triển vọng sống lâu, âm thanh suy nhược, trì trệ thì hy vọng trường thọ rất mong manh
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • Ngoài vấn đề thọ yểu, người rành thẩm âm có nhờ âm lượng và âm điệu mà đoán được phú quý bần hàn của một cá nhân nữa
                Đại khái tiếng nói vang dội và to lớn như tiếng sấm, trầm và ngân vang như tiếng chuông chùa, thanh cao như tiếng khánh ngọc vui vẻ tự nhiên như tiếng ngọc reo trên mâm bạc đều là loại âm thanh cực quý chủ về thông minh, quý hiển. Nói tóm lại, tiếng nói đầm ấm trong trẻo, âm lượng phong phú là dấu hiệu phú quý bất kể mặt mũi xấu xí, bộ vị khuyết hâm hoặc thân mình nhỏ bé.
                Tóm lại, thân hình lớn mà tiếng nhỏ hoặc tiếng lớn mà không có âm lượng, giọng rè như phèng la, khô khan chói tai đều là dấu hiệu của kẻ tâm tính hạ tiện, ngu độn, khó mong thành đạt
                Còn bàn về tâm hồn, ở đây ta chỉ muốn nói đến tâm tính hiểm độc hay thiện lương, hẹp lượng hay bác ái do các cử chỉ, thái độ bộc lộ ra ngoài. Tâm tướng được gọi là cái gốc của hình tướng, tâm biến cải thì hình (hiểu theo nghĩa rộng là những gì cótính cách vật thể nơi con người ) cũng biến đổi theo. Tướng hình cốt để qua hình mà xét đến tâm nên người xưa đặc biệt quý trọng phần tâm tướng. Vì vậy, Ma Y mới nói: "Vì quan huỳnh mạo, tâm tướng tâm điền ": (Chưa cần quan sát hình hài, mặt mũi hãy quan sát tâm tính trước đã ). Dưới nhãn quan tướng học Á Đông, tinh thần khí phách và âm thanh là phần tướng nội tại thuộc về lĩnh vực tâm tướng
                - Quan sát thân hình để xem cá nhân đó thuộc loại hình gì: Trọng diểm này bao gồm những loại hình tướng căn bản thường hay biến cách. Chính thường thì phép phânloại theo Ngũ hành hình tướng được coi là căn bản: biến cách thì xem cá nhân đó thuộc hình dáng cầm hay thú điển hình
                II. CÁC TƯỚNG PHÁI
                Cũng như trong bất cứ học thuật nào khác, các tướng học gia cũng đưa ra nhiều quam điểm khác nhau về loại tướng, về phép xem tướng. Tựu trung căn cứ theo tiêu chuẩn hình tướng và tâm tướng về những điểm trọng yếu, ta thấy có hai học phái khác nhau. Về những điểm lý thuyết hầu hết đều công nhận phương pháp xem tướng không đi ra ngoài mười trọng điểm quan sát được nêu ở mục A kể trên nhưng thứ tự ưu tiên từng trọng điểm dưới nhãn quang của từng học phái lại biến đổi tuỳ theo người xem tướng đứng về mặt cá nhân để phân tích cá nhân hay đứng trên cương vị của xã hội để lượng định khả năng cá nhân đó hầu phục vụ cho xã hội
                a) Tướng phái trọng hình thức:
                Người được xem như đại diện cho tướng phái này là Lã Thuần Dương một đạo sĩ nổi tiếng đời Đường. Đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cho một cá nhân, những điều khám phá ở một cá nhân phần lớn là qua những nét tướng vật thể nhằm phục vụ cho chính lợi ích của cá nhân người được xem tướng. Trong thiên biên khảo nhan đề Tướng pháp nhập môn. Lã Thuần Dương đã liệt kê các tiêu chuẩn về phương pháp xem tướng theo một thứ tự sau:
                1. Đầu tiên phải quan sát hình tướng tổng quát để biết cá nhân đó thuộc loại gì trong ngũ hành hình tướng với tất cả những phối hợp về phẩm cũng như lượng của từng loại (thuần cách hay tạp cách, có hội đủ những điều kiện tất yếu của thuần cách hay không ). Nếu là tạp cách thì sự phối hợp chủ yếu bị khắc chế hay thuận hảo ...
                2. Bước kế tiếp là quan sát sự cấu tạo của cốt cách, xem tướng của toàn thân có thuận lợi với nguyên lý âm dương ứng dụng trong tướng học không. Sau đó là phần định thần, khí để biết tranh trọc
                3. Bước thứ ba là quan sát khuôn mặt như Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ, Tứ Đậu
                4. Bước thứ tư là quan sát ngôn ngữ, cử động tức quan sát con người qua những nét tướng, âm thanh và cách thức đi, đứng, nằm, ngồi ....
                Tất cả những bước trên giúp cho người quan sát có 1 ý niệm bao quát về tướng cách của một cá nhân, giúp ta giải đoán được một
                5. Cuối cùng để biết chi tiết về may rủi hàng năm, ta phải quan sát phần khí sắc của bộ vị
                Cũng như đại đa số các tướng thuật gia cổ điển khác, Lã Thuần Dương tin rằng Tâm năng sinh Tướng (với nghĩa tướng đặc biệt ở đây là hình tướng). Hình tướng tuy được coi trọng là phần căn bản để từ đó suy ra tâm hồn, thông minh , đần độn quý tiện thọ yểu nhưng hình tướng theo tâm mà biến chuyển có thể từ tốt ra xấu, từ xấu ra tốt nên Lã Thuần Dương không câu nệ người ta vào các điều chỉ dẫn đại cương của ông mà phải nghĩ rằng hình tướng của một của một cá nhân nay vậy mai khác. Cho nên ta có thể nói rằng hình tướng của Lã Thuần Dương là hình tướng sinh soạn giả biến thiên theo thời gian và tâm linh, muốn theo sát sự biến chuyển của phần hình tướng không thể bỏ qua phần tâm tướng
                b) Tướng phái Tinh thần khí phách
                Khởi nguyên của tướng phái này có lẽ có từ lâu đời. Ngay từ thời nhà Chu cách đây khoảng hơn 2500 năm, Tư Mã Thiên đã chép là quan đại phu nước Tấn. Cô Bố Tử Khanh có biệt tài xem tướng chỉ nhìn khí phách con người là đủ đoán được công
                danh, sự nghiệp sau này của cá nhân đó. Tiếc rằng Cô Bố Tử Khanh không để lại một dấu vết gì về phép xem tướng độc đáo kể trên cả
                Đến đời Thanh, tác giả Phạm Văn Viên đã nêu lên quan niệm Khí Phách và cho đấy mới là phần căn bản của Tướng học, hình hài bộ vị không quan trọng nhưng thủy chung ông vẫn còn đứng trên cương vị cá nhân để xem tướng cá nhân. Vào đời Thanh trung hưng, Tăng Quốc Phiên là người đứng đầu trên cương vị xã hội không lấy tinh thần và khí phách làm trọng điểm trong việc xem tướng để lựa người có khả năng phục vụ quốc gia. Trong việc xem tướng, Tăng Quốc Phiên đã gạt hẳn những điều huyễn hoặc nhuộm màu triết lý siêu hình của tướng học cổ điển, ông không để ý đến hình hài bộ vị. Do đó, ta có thể coi Phạm Văn Viên và Tăng Quốc Phiên là các đại diện sáng giá nhất của tướng phái tinh thần ¬ khí phách trong tướng học Á Đông hiên nay Trong phần nói đến Khí Phách, soạn giả đã có dịp nhắc đến Phạm Văn Viên và đã thử triển khai ý niệm Khí Phách của tướng học từ cuốn Thủy kinh tập cho đến các tác phẩm trọng yếu của tướng phái Tinh Thần ¬ Khí Phách theo quan điểm của Tăng Quốc Phiên nhưngý nghĩa gói ghém trong các trọng điểm đó. Phép xem tướng của Tăng Quốc Phiên có thể thu gọn vào sáu trọng điểm sau đây:
                1. Muốn biết một cá nhân thuộc loại chính hay tà thì quan sát Mắt và Mũi
                Lòng dạ ngay thẳng hay thiên lệch phần lớn được bộc lộ ra ánh mắt. Điều này phù hợp với những kinh nghiệm của nhân loại từ Đông sang Tây. Tục ngữ Pháp có câu : "Con mắt là tấm gương của tâm hồn". Phương ngôn Trung Hoa cũng có câu nói tương tự: "Xem người ta thì xem ngay cặp mắt". Như vậy căn cứ vào ánh mắt ta có thể biết được một cách khá chính xác tâm tính của một cá nhân, miễn là ta phải có tài quan sát và óc phán xét nhạy chính xác và vô tư
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • Ngoài ra, ngay nay cũng như ngày xưa, ai củng công nhận con ngưòi cơ thể chính thường thì thông thường tâm tính củng ở mức chính thường ít khi có những thái quá bất cập. Thế mà Mũi là bộ phận trung ương của khuôn mặt nếu không ngay ngắn cân xứng thì đựơng nhiên lệch lạc, đưa đến sự thiên lệch của tâm hồn. Kinh nghiệm ngàn xưa cho thấy, chưa từng có kẻ nào ngũ quan lệch lạc mà tâm tính ngay thẳng bao giờ
                  Dó đó muốn biết cá nhân tâm tính ra sao, ta chỉ cần quan sát nhãn quang và cấu tạo của Mũi là có tạm đủ dữ kiện để phán đoán ít khi sai lầm
                  2. Muốn biết tâm sự của kẻ đối thoại thực hay là hư thì quan sát cử chỉ, động tác (đặc biệt là động tác của môi, miệng )
                  Thông thường kẻ không quen nói dối khi phải dối trá thì môi miệng lúng túng, lập cập không được được tự nhiên như lúc bình thường. Đó thường một hiện tượng bên ngoài phản ánh nội tâm không được yên ổn. Do đó, người quan sát có cặp mắt sắc bén chỉ cần quan sát động tác của làn môi, khoé miệng cũng có thể đoán được phần lớn thực hư của nội dung câu chuyện
                  Suy rộng ra, trừ một vài trường hợp quá đặc biệt của những kẻ có bản lĩnh và đã được huấn luyện thuần thục làm chủ được động tác và tình cảm không kể, một kẻ bịa đặt ra câu chuyện trái ngược lại thật sự bao giờ cũng để lộ nhiều sơ hở trong lúc thuật chuyện qua ngôn ngữ, cữ chỉ không được tự nhiên. Chuyện càng quan trọng, càng liên quan đến quyền lợi sinh tử hay sinh mạng của đương sự bao nhiêu thì sự mất tự nhiên càng dễ lộ ra bấy nhiêu
                  3. Muốn biết công danh sự nghiệp tương lại thành bại như thế nào thì nên xem tinh thần, khí phách Khí phách hiên nganh là dấu hiệu bên ngoài của người có thực tài thực lực. Họ tự tin là với khả năng, tài trí của họ. Họ đủ sức tự tồn, tự lập nên không cần luồn cúi kẻ khác. Càng có dị tài thì thừơng hay có dị tật cũng như tướng ngựa có câu châm ngôn : "Ngựa hay thường cóchứng". Tinh thần là nguồn động lực thúc đẩy nuôi dưỡng ý chí con người. Yù chí mạnh mẽ thì có thể suy ra tinh thần mạnh mẽ và ngược lại. Người có khí phách hiên ngang, tinh thần cương nghị và nhẫn nại điềm đạm thì sẽ hội đủ điều kiện chủ quan tất yếu thi thố được chí nguyện bình sinh của mình, từ việc nhỏ đến việc lớn. Do đó, họ có rất nhiều triển vọng thành đạt trong bất cứ công việc gì đang làm hay sẽ làm. Những kẻ có tinh thần khí phách như vậy nếu có đủ điều kiện khách quan tối thiểu sẽ chắc chắn thành công trên bước đường mưu cầu công danh sự nghiệp. Sách Nhân luân đại thống nhất của Trương Hành Giản đời Minh đã dựa trên lập luận này khi viết: "Thành bại tại ư quyết đoán chjí trung". Chính vì cho rằng tinh thần khí phách là các yếu tố căn bản của phép xem tướng đoán người nên tướng học đã có câu châm ngôn : "Có khí phách thì tạo ra được côngdanh sự nghiệp". Câu nói đó hàm ý có khí phách hiên ngang hoang dại, tinh thần vững mạnh thì sẽ thành công
                  4. Xem xét cách xử trí công việc không gì bằng quan sát ngôn ngữ
                  Ngôn ngữ có công dụng là biểu lộ nội tâm của mình cho người khác hiểu. Càng có chức vụ thì muốn cho công việc mà mình được giao phó sứ mạng điều khiển đôn đốc được hoàn hảo thì người đó càng phải sử dụng ngôn ngữ cho minh bạch để diễn tả được đúng đắn và đầy đủ ý muốn cho thuộc cấp hiểu thấu. Ngôn ngữ thiếu thứ tự, mạch lạc, chứng tỏ ý tưởng lộn xộn, tâm tính thiếu minh bạch quyết đoán thì làm sao thực thi đúng mức
                  Nói tóm lại muốn xem xét một kẻ nào đó có biết cách xử trí công việc hay nói cho dễ hiểu là liệu xem công việc có thành tựu được không chỉ cần nghe ngôn ngữ của kẻ đó: trình bày công tác định làm có rõ ràng, đầy đủ hay hồ đồ, hứng khởi hay uể oải, cương quyết hay do dự, khái quát hay tỉ mỉ ... Chỉ căn cứ vào đấy, người rành quan sát tâm lý và tinh thần khí phách có thể đoán trước được là công việc sẽ thành hay hỏng
                  5. Muốn biết cuộc đời có thường hay bị chìm nổi hay không thì xem chân cẳng
                  Chân cẳng có liên hệ mật thiết tới khí lực: khí lực sung mãn thì chân cẳng vững vàng, tinh thần ổn cố. Sự chìm nổi cuộc đời có nghĩa là công việc thường hay vấp váp thất bại là vì tinh thần hốt hoảng, đầu óc không tỉnh táo, không vững tâm bền chí, không biết quyết đoán. Tất cả những dữ kiện này b ắt nguồn từ khí lực bất túc
                  Qua ý nghĩa của các sách vở, khí lực là căn nguyên của tinh thần khí phách. Trong đoạn luận về Thần hữu dư của Ma Y đã nói: "Đi vững vàng thanh thản như nước chảy, đứng chắc chắn như ngọn núi sừng sững giữa đồng là một trong các dấu hiệu chỉ về thần khí sung mãn". Kẻ thần khí sung mãn thì lâm sự cương nghị, lúc nào cũng
                  bình tĩnh sáng suốtt, không biến đổi tiết tháo. Như vậy trong việc mưu tìm công danh, đại sự ít khi lâm vào cảnh thất bại
                  6. Muốn biết thọ yểu nên xem móng tay
                  Người trường thọ tất nhiên huyết dịch sung mãn: sự tương quan giữa sự sung mãn của huyết dịch với hình thể và máu sắc của móng tay là rất mật thiết. Ơû đây ta chỉ đứng về phương diện màu sắc của móng tay mà xét
                  Đại khái, móng tay có những vết nhỏ chứng tỏ rằng huyết dịch bất túc. Màu xanh xám hoặc đen là dấu hiệu khí huyết suy nhược trầm trọng, các vệt bất thường hoặc hồng lẫn lộn là biểu hiện bề ngoài của của khí huyết bất túc. Toàn thể cả móng tay
                  đều xanh xám là khí sắc bề ngoài của huyết dịch thiếu thốn trầm trọng. Sắc càng xấu thì dấu hiệu suy nhược càng rõ. Do dđã người như thế không thể sống lâu
                  Ngược lại móng tay hồng nhuận đều khắp một cách tự nhiên là dấu hiệu chắc chắn của khí lực tiềm tàng sung mãn, huyết dịch tốt đương nhiên trường thọ
                  Nói một cách khác đây là quan điểm độc đáo về tướng học của Tăng Quốc Phiên và công dụng của phép đoán khí sức được dùng một cách khoa học trong lảnh vực tương quan giữa khí sắc và con người ở một lĩnh vực mà tướng học cổ điển chưa đề cập đầy đủ. Mọi ý nghĩa thần bí về vận mạng qua khí sắc của người xưa đều bị gạt bỏ. Quan điểm này của Tăng rất phù hợp với kiến thức y học hiện đại và vô tình giữa nhận định của khoa Thủ tướng (chiromancie) của Tây Phương hiện nay và nhận xét tăng cách hơn một thế kỷ giống như một cách kỳ lạ, gần như phóng tác nhau vậy
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • IV NHỮNG GIAI THOẠI XEM TƯỚNG


                    XEM TƯỚNG ĐỂ TÌM NGƯỜI HÀO KIỆT CHƯA GAèP THỜI
                    Cuối đời tấn, có người nước Hàn là Trương Lương thuộc dòng dõi cự tộc, năm đời kế tiếp nhau làm tướng nước Hàn. Thuở nhỉ Trương Lương căm giận Tần Thủy Hoàng bạn ngược lại thâm thù kẻ đã diệt nước Hàn của mình nên chu du thiên hạ, bỏ tiền mướn võ sĩ hành thích vua Tần. Việc không thành, Trương Lương phải bỏ xứ.
                    Trốn đi lang bạt giang hồ. Trong bước đường lưu lạc, Lương gặp một vị dị nhân truyền dạy binh thư thao lược. Nhờ đó mà Trương Lương mở rộng kiến thức, biết rõ đại thế thiên hạ, thấy chưa có thời cơ đành ẩn nhẫn không còn vọng động như lúc còn nhỏ tuổi trước kia.
                    Tần Thủy Hoàng mất, con là Nhị Thế nối ngôii cực kỳ hoang dâm tàn ác, dân chúng khốn khổ đến tận cùng. Bởi vậy anh hùng thảo dã trong thiên hạ nổi lên chống đối như ong vỡ tổ. Nổi tiếng và có thế lực trong đám người khởi nghĩa lúc đó là Sở Bá Vương Hạng Vũ và bái Công Lưu Bang.
                    Hạng Vũ là người có sức mạnh vô địch, quân lực hùng hậu nhưng tính tình hung hãn, hữu dũng vô mưu, còn Lưu Bang thế lực binh bị yếu hơn nhưng khôn ngoan nhẫn nại, biết mượn sức mạnh Hạng Vũ làm sức mạnh của mình, lại hay thi ơn chuốc nghĩa nên kẻ tức thời ai cũng biết là kẻ thay nhà Tần làm vua thiên hạ là Lưu Bang chứ không phải Hạng Vũ.
                    Tuy vậy, lúc ban đầu vì Hạng Vũ thế mạnh nên Lưu Bang đành tạm khuất phục nhường cho Hạng Vũ xưng vương và chịu nhún mình làm chúa đất Thục.
                    Hạng Vũ từ ngày đăng quang chỉ ham hưởng thụ mù quáng với lợi danh vừa đạt được, khôngbiết dùng kẻ đại tài bất chấp mọi lời khuyến dục có tính chất chiến lược của quân sư Phạm Tăng. Hơn nữa Vũ tính tình bạo ngược chẳng kém gì tần Thủy
                    Hoàng nên trong lúc nóng giận đã nhẫn tâm giết vua nước Hàn là nước chhư hầu vừa mới được tái lập. Do đó, Trương Lương vừa thù nhà vừa nợ nước càng muốn lật đổ kẻ đã lấy bạo ngược thay thế bạo ngược. Lương lại có dịp xem tướng Lưu Bang và những cận thần tín cẩn thấy họ đều có tài lạ, chí lớn. Vì thế, Lương quyết tâm theo phò Lưu
                    Bang để mượn tay Lưu Bang gíup mình đạt thành sở nguyện bình sinh là diệt Hạng Vũ.
                    Nói về Lưu bang từ khi bị Hạng Vũ cướp công và phong làm chúa đất Thục là nơi thâm sơn cùng cốc, Lưu Bang đã uất hận định phản kháng thì Trương Lương đã vạch rõ thế thành bại của thiên hạ lúc đó để Lưu Bang phải ẩn nhẫn chờ thời, Lương còn khuyến dụ Lưu Bang nên khôn khéo biến các khuyết điểm của Hạng Vũ thành ra ưu điểm của mình và tự nguyện sẽ gíup Lưu Bang diệt Hạng Vũ bằng cách ly gián Hạng Vũ với các chư hầu, tìm trong thiên hạ một nhân vật có tài thao lược và chí dũng xuất chúng để đủ sức chế ngự binh lực của Hạng Vũ.
                    Trong khi lưu lại trong dinh Hạ Bá ( Bá là thúc phụ Chu Hạnh Vũ lúc đó làm thượng thư lệnh chuyên về các chiếu biểu tâu trình trần tình của Hàn Tín. Đọc xong tờ biểu này, Trương Lương toát mồ hôi lạnh khi thấy Hàn Tín đã vạch rõ cho Sở Bá
                    Vương biết tất cả những nguy hiểm đang cờ đợi mình nếu không tìm cách tiêu diệt Bái Công. Sau cùng Hàn Tín đề ra kế hoạch dự phòng mà nếu được thi hành thì chắc chắn là Bái Công sẽ chết già ở nơi đất Thục không mong gì lật ngược thế cờ.
                    Lúc dâng biểu, Hàn Tín chỉ là một viên quan có chức vị rất tầm thường. Tuy có tài nguyên nhung từng được Phạm Tăng biết đến và chính Phạm Tăng đã khuyên Hạng Vũ phải biết cách khai thác tài năng tiềm ẩn đó, nhưng Hạng Vũ kiến thức nông cạn
                    không có mắt xanh sau biết bậc đại tài.Sở dĩ Hạng Vũ không dùng Hàn Tín một phần vì tự bản thân Hạng Vũ không phải là kẻ biết dùng người, một phần nữa vì Vũ biết rằng trước kia Hàn Tín từng lồn chôn kẻ bán thịt ở chợ Hoài ¬ âm. Dưới mắt kẻ phàm tục, hành vi đó là một cử chỉ điếm nhục nhân cách biểu hiện cho hạng tham sinh quý tử tầm thường. Nhưng dưới cặp mắt xanh của cao nhân như Trương Lương thì lại khác hẳn, Lương cho rằng kẻ đã có đại tài chịu đựng
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • III. KỸ THUẬT XEM TƯỚNG THEO TIÊU CHUẨN THỜI GIAN
                      a) Quan sát vận mệnh hàng năm
                      Danh từ vận mệnh ở đây bao gồm mọi sự may mắn hoặc rủi ro về công danh sự nghiệp, gia đạo tiền bạc sức khỏe của cá nhân cũng như của một số người thân thuộc của họ như cha mẹ, vợ con, anh em ruột.
                      Thông dụng nhất là phương pháp lưu niên được ghi lại trong các sách Ma y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Tướng lý hoành chân
                      Theo phương pháp này, ta chia khuôn mặt thành từng khu vực nhất định, mỗi khu vực Triệu Giãn Tử cho từng năm tuổi. Muốn biết vận mạng mỗi năm của một cá nhân ra sao ta chỉ cần căn cứ vào cách cấu tạo của mỗi bộ vị, khí sắc của chúng. (Trong đoạn nói về phép xem khí sắc hằng năm ở chương 3, quyển II, soạn giả đã ghi rõ họ tên của từng khu vực với danh xưng riêng biệt và ứng với năm tuổi nhất định cùng sơ đồ hướng dẫn đính kèm. Độc giả chỉ cần tham khảo lại phần đó là đủ tài liệu giải đoán ). Tuy nhiên cần phải lưu ý là xem bộ vị khác nữa. Dưới đây là bảng tương quan giữa bộ vị cần quan sát và bộ vị tương ứng phối hợp với nó
                      - Tai bên trái: (Những năm từ 1 đến 7 tuổi) phối hợp với khu vực Thiên thương. Tai bên phải (Những năm từ 8 đến 14 tuổi) phối hợp với khu vực địa phố. Muốn biết rõ vận hạn căn bản của hai tai ta phải quan sát cặn kẻ khu vực sơn căn
                      - Đỉnh trán (chủ về 15 tuổi) cần phối hợp với đỉnh đầu: Thiên Trung (16 tuổi) quan sát cần phối hợp với tai phải. Trọng điểm quan sát phối hợp của cả đỉnh trán và Thiên trung là Trung chính
                      - Nhật giác (chủ về năm 17 tuổi ). Nguyệt giác (năm 18 tuổi), cần phải phối hợp với hai mắt và hai tai. Đặc biệt đi sâu vào chi tiết của từng năm thì Nhật giác phải có sự hỗ trợ của cặp mắt hơn là cặp tai, còn Nguyệt giác thì ngược lại với Nhật giác
                      - Thiên đỉnh(19 tuổi) phối hợp với vị thế chân mày, phải không được xung khắc với Nhật giác và chuẩn đầu làm trọng điểm để đoán kết quả chung cuộc của năm 19 tuổi
                      - Tả hữu phu giác: (còn gọi là phụ cốt), chủ về 2 tuổi 20 và 21 phải phối hợp với thiên thương và sống mũi
                      - Tư không (22 tuổi) phải phối hợp tương xứng với tai trái, Sơn căng và đặc biệt là Nhân Trung
                      - Bộ vị của hai tuổi 23 và 24 phối hợp đặc biệt với nhãn thần, còn cốt khí của các bộ vị gần hai vị trí của biên thanh đóng vai trò phụ trợ
                      - Trung chính (25 tuổi) lấy hai chân mày và Sơn căng làm bộ vị hỗ ứng
                      - Các bộ vị của hai tuổi 26, 27 phối hợp với thế của cặp mắt, hai tai nhất là tai phải và giữa trán
                      - ẤN đường (28 tuổi) phối hợp với mũi và miệng
                      - Lăng vân, khí (31, 32 tuổi) phối hợp với mắt và tai đặc biệt là lấy khí thế của sống mũi làm căn bản
                      - Phồn hà, Thái hà (33, 34 tuổi), phối hợp với trán và lông mày
                      - Thài dương (giữa mắt trái) phối hợp với tai phải, cũng như các làm việc lân cận của mắt như lông mày, xương phía trên tai. Luận về Thái âm (giữa mắt phải) cũng vậy. Cả hai lấy phần xương hai bên phía trên làm trọng điểm để định vận hạn của
                      chính các năm đó
                      - Trung dương: phối hợp chặt chẽ với chân mày trái. Trung âm phối hợp chặt chẽ với khí thế của mũi. Tuy nhiên, cả hai đều phải phối hợp liên hoàn với tất cả các bộ vị vừa kể và lấy Lưỡng quyền làm trọng điểm để định vận hạn
                      - Thiếu dương phối hợp với miệng, thiếu âm phối hợp với hai tai, tất cả lấy Ngư vĩ làm trọng điểm thẩm định tối hậu
                      - Sơn căn phối hợp chính với xương gáy (ót), phối hợp phụ với Địa các là lấy mắt trái làm điểm suy luận chính cho vận hạn ứng với năm tuổi tượng trưng cho Sơn căn
                      - Tịnh xá phối hợp chính với trán, Quang diện phối hợp chính với cặp chân mày, cả hai lấy Ấn đường để tìm kết quả chung cuộc
                      - Niên thượng đặt nặng phần phối hợp với mắt phải. Thọ thương đặt nặng phần phối hợp với tai phải. Cả hai lấy khí thế của mi cốt làm căn bản suy đoán vận hạn chính
                      - Lưỡng quyền lấy khí thế mi cốt làm trọng điểm phối hợp. Lấy phần xương sọ phía sau đầu đối xứng với lưỡng quyền làm căn bản suy đoán chính
                      - Chuẩn đầu phối hợp với cặp mắt và Lưỡng quyền. Nếu Quyền hãm thì Chuẩn đầu tối kỵ nhỏ nhọn mà cao, lấy miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn
                      - Gián dài, Đình uý lấy hai tai và cặp mắt làm đối tượng phối hợp với miệng làm tiêu chuẩn suy đoán vận hạn trong năm đó
                      - Nhân trung phối hợp với trán và cặp tai. Tất cả đều sáng. Bằng không một mình nhân trung tốt các bộ vị trên không ra gì thì không thể nói là năm 51 tuổi tốt được
                      - Tả hữu, Tiên khố phối hợp chặt chẽ với cặp chân mày và lấy Ấn đướng làm cơ sở kết luận
                      - Thực hương cần ứng với tai phải. Lộc thương cần thích nghi phối hợp với chân mày trái. Nốt ruồi , cả hai lấy pháp lệnh làm chuẩn về sự suy đoán vận hạn chính
                      - Pháp lệnh cả hai phần của Pháp Lệnh phối hợp với khí thế của miệng, mũi lấy Ấn Đường để làm cơ sở suy đoán vận hạn chính nhưng đi sâu vào chi tiết thì pháp lệnh bên trái đặt nặng vào sự liên hệ với mũi còn pháp lệnh bên phải liên quan mật thiết
                      với miệng hơn
                      - Tả hữu, hổ nhỉ cần phối hợp thích ứng với hai tai và hai mắt
                      - Miệng phối hợp với trán, mũi và lấy Thuỳ châi để định vận hạn về miệng
                      - Thừa tương lấy sự phối hợp đắc thế với khí thế của chân mày và các phần trên của cặp tai làm chủ yếu
                      - Địa các phối hợp chặt chẽ với khi thế của miệng, mũi và lấy mục quang làm tiêu chuẩn để luận đoán sự cát hung của năm tuổi ứng với địa các
                      b) Quan sát theo chu kỳ 9 năm
                      Với phương pháp này ta chọn 9 bộ vị căn bản là cặp chân mày. Cặp mắt, cặp tai mũi miệng và trán làm nền tảng quan sát. Mỗi bộ vị căn bản này chủ về vận hạn của một số năm gồm năm bản vị và những năm sau đó cách quãng một thời gian 8 năm. Nói khác đi, đó là những năm tuổi tiếp theo cấp số cộng sai là 9
                      Chân mày bên trái: chủ về vận hạn của năm 1 tuổi và những năm có số cộng sai là 1+9, 10+9,19+9,18+9,31+9,40+9. Nói khác đi những tuổi 1, 10, 19, 28, 37, 46, 55 thì xem chân mày bên trái. Hình thể cấu tạo phẩm chất và màu sắc của năm đó sẽ
                      cho biết vận hạn vào những năm tuổi đó ra sao
                      - Tíêp tục áp dụng cách tính này cho các bộ vị khác ta có
                      - Mũi: chủ về năm lên 2 tuổi và những năm 11, 20, 29, 38, 47, 56 tuổi
                      - Miệng: chủ về năm lên 3 tuổi và những năm 12, 21, 30, 39, 48, 57 tuổi
                      - Tai bên trái: chủ về năm lên 4 và những năm 13, 22, 31, 40, 49, 58 tuổi
                      - Mắt bên trái: chủ về năm lên 5 và những năm 14, 23, 32, 41, 50, 59 tuổi
                      - Trán: chủ về vận hạn của năm lên 6 và những năm 15, 24, 33, 42, 51, 60 tuổi
                      - Chân mày phải: chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi
                      - Mắt phải: chủ về vận hạn của năm lên 8 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi
                      - tai bên phải: chủ về vận hạn của năm lên 7 và những năm 16, 25, 34, 43, 52, 61 tuổi
                      c) Quan sát có tính cách khái quát chung thân
                      Việc quan sát vận hạn con người một cách khái quát về toàn bộ một đời người gồm sơ vận, trung vận và vãn vận, có khá nhiều phương pháp nhưng tựu trung chỉ có hai phương pháp sau đây là thông dụng nhất
                      1. Phương pháp căn cứ vào Tam đình
                      Trong phương pháp này, tuy nói là Tam đình nhưng thật sự chỉ căn cứ vào trán, mũi và toàn thể cằm (không tế phân thành những bộ vị nhỏ như trong phép đoán lưu niên hàng năm) và gia đình và nếp sống trung bình của một cá nhân là 60 tuổi. Hết 60 tuổi thì lại trở về khởi nguyên một chu trình mới. Bây giờ xin đi vào nội dung của phương pháp này:
                      - Trán: chủ về 20 năm đầu của cuộc đời 60 tuổi nên cũng còn gọi là sơ vận. Trán tốt, cách cấu tạo có khí thế, hình thể trán rộng rãi, không khuyết hãm là dấu hiệu của sơ vận tốt đẹp
                      - mũi: chủ về 20 năm kế tiếp tức là từ lúc 21 tuổi đến 40 tuổi. Hình dạng khí thế của mũi sẽ giúp ta biết được trung vận của một cá nhân
                      - Cằm: chủ về vận hạn tức là từ năm 41 tuổi đến năm 60 tuổi. Cằ, nảy nở cân xứng, có khí thế vững vàng là dấu hiệu vận hạn tốt đẹp. Trái lại cằm dài nhọn lệch hãm hoặc không có khí thế là điềm báo trước cảnh về già khốn khổ lênh đênh
                      Đọc đến đây chắc độc giả sẽ thắc mắc là phần Trung đỉnh còn cặp mắt là bộ vị trọng yếu, phần Hạ đình còn có miệng là phần rất quan trọng tại sao lại bỏ qua? Thực ra mắt và miệng tuy là các bộ vị tối quan hệ nhưng phải bỏ qua do chúng ta ở đây chỉ đứng về phương diện cốt tướng học, lấy phần có xương làm đối tượng quan sát chính theo quan điểm chung của tướng học mà điển hình là của Ma Y. Trong Thần di phú Ma Y đã nói rõ: "Cốt cách vi nhất thế vinh khô" (Cốt cách định được vận mạng của đời 1 con người, phú quý bần tiện đều phần lớn thể hiện qua cốt cách). Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa là bỏ qua ý nghĩa của mắt, miệng. Màu sắc và hình dáng miệng giúp ta biết được tước lộc tổng quát của con người. Thần khí của mắt không phải chỉ ảnh hưởng ở trung vận mà còn suốt cuộc đời con người, liên quan đến phúc họa chung thân. Cho nên mắt toàn hảo về hình thể cả về cách cấu tạo lẫn thần khí thì đầu Tam đình có bị khuyết hãm phần nào cũng không mấy tồn hại. Ngược lại nếu Tam đình hoàn hảo về hình thể mà mục quang vô thần hay ảm đạm thì không thể quyết đoán tướng kẻ thành đạt hoặc hậu vận khả quan được
                      2.- Phương pháp căn cứ vào mũi và hai tai:
                      Phương pháp này cũng giả địng rằng kiếp người trung bình là 60 năm. Tai trái chủ về sơ vận và tai phải chủ về 20 năm còn lại của cuộc đời ( nếu xem tướng đàn bà thì đổi lại thứ tự của hai tai, còn mũi thì không thay đổi. Trong trường hợp này đàn bà lấy tai phải chủ về sơ vận, tai trái chủ về vãn vận ). Hết chu kỳ 60 năm ta lại trở về phần khởi nguyên của chu trình thứ 2. Nghĩa là 61 tuổi đến 80 tuổi thì căn cứ vào tai trái mà giải đoán.
                      Tựu trung tai tố, mũi tốt thì vận tốt: tai xấu mũi hỏng thì ngược lại. Sự xấu tốt của tai, mũi đã được trình bày rất chi tiết ở các chương thuộc quyển I nên ở đây thiết tưởng không cần nhắc lại. Nếu cá nhân có cả hai tai thì có thể đoán một cách tổng
                      quát là cuộc đời kẻ đó phúc thọ dồi dào, ít bị thất bại chua cay trên đường công danh sự nghiệp. Tuy nhiên, cũng như ở phương pháp thứ nhất ( Căn cứ vào Tam Đình ) ta cần phải chú ý đến thần, khí và cả tâm tướng nữa. Nếu thần, khí và tâm tính khắc bạc thì chớ vội võ đoán bất kể là hai tai và mũi xấu tốt thế nào.
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • Ba kỹ thuật trên có nhiều điểm dị biệt vì mỗi kỹ thuật dựa trên 1 giả thuyết và đều có phần sở trường, sở đoản . Kỹ thuật quan sát vận hạn hàng năm có ưu điểm là đi sâu vào chi tiết, nhưng quá chi tiết nên thiếu mất phần đại thể. Kỹ thuật thứ 2 dựa trên ức thuyết là vận số biế chuyển theo một chu trình thông thường là 9 năm, nhưng xét kỹ vẫn là chi tiết hơn là đại thể. Loại kỹ thuật thứ 3 lại chỉ chuyên về đại thể mà không thể đi vào chi tiết. Cả ba đều căn cứ vào một số kết quả thực tế thu thập được qua một thời gian là do những người khác nhau tạo dựng. Như vậy sự dị biệt và đôi khi mâu thuẫn giữa các quan điểm về kỹ thuật xem tướng tất nhiên phải có. Vã chăng xưa nay vấn đề Định mệnh vẫn là một vấn đề triết học còn đang được tranh luận. Phương pháp xem tướng để biết được một thời điểm hầu tì hiểu vận mạng con người trong thời điểm đó tốt xấu ra sao được căn cứ vào thuyết Định mệnh nên nó chỉ là một giả thuyết chứ không phải là định luật vạn vật chính xác nư 2 với 2 là 4. Bởi vậy, về kết quả nó có thể đúng với người này mà không đúng với người kia, đúng trong thời gian này chưa hẳn đã đúng trong thời gian khác. Về căn nguyên, nó có thể phủ nhận hay được công nhận bất cứ nguyên tắt có tính giả định nào trong khoa học nhân văn này.
                        Theo thiển ý, tìm hiểu tương lai là tìm cách thích ứng để dự phòng bất trắc, dù là sự tìm hiểu đã được căn cứ vào một số giả thuyết vẫn hay hơn là cứ phó mặt cho sự may rủi để rồi nước tới chân không kịp nhảy. Tuy nhiên chúng ta cũng lhông nên vì vậy mà tin tưởng quá đáng đến chỗ lấy giả thuyết làm chân lý. Nếu chúng ta đồng ý như vậy thì phần kỹ thuật xem tướng căn cứ vào thời gian này không phải là hoàn toàn vô ích.
                        Cũng bởi lẽ các kỹ thuật xem tướng chỉ là các phương pháp đặt nền tảng trên ácc giả thuyết đã được thực nghiệm hỗ trợ, nhưng vì đấy chỉ là những kết quả hữu hạn cho nên ta không nên quá thiên về một kỹ thuật nào đó, vì mỗi kỹ thuật chỉ bao quát một số lĩnh vực chứ không bao trùm hết tất cả mọi lĩnh vực liên quan đế con người. Điều hợp lý hơn hết là ta nên dùng cả 3 phương pháp để bổ túc lẫn nhau hầu phong phú hóa các dữ kiện thu thập được trong việc tìm hiểu tương lai vận mạng con người.
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment
















                        • Last edited by 470525; 08-10-2011, 01:04 AM.
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment
















                          • Last edited by 470525; 08-10-2011, 01:09 AM.
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


















                            • Last edited by 470525; 08-10-2011, 01:15 AM.
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


















                              • Last edited by 470525; 08-10-2011, 01:21 AM.
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X