Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nhân tướng học

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • THỦY HÌNH CHÍNH CÁCH :
    Đầu tròn, mặt tròn và lớn hợp đúng tướng Ngũ viên (đầu tròn, mắt tròn,mặt tròn và cằm tròn trịa).Hơn đâu hết ,người Thủy đúng cách thượng thừa phải có "Tứ đậu" hợp cách,Người Thủy đúng cách thượng thừa phải có Tứ đậu hợp cách (tai mũi miệng mắt) Thủy tính nghĩa là : Tai phải tròn ,có Thùy châu rất rõ ,Luân quách phân minh nhưng dẻo dai.
    - Mắt phải lớn và hပi lồi ,có thần quang.
    - Mũi phải có gián đài ,&đình úy phân minh ,lỗ mũi che kín,chuẩn đầu lớn và tròn.
    - Miệng phải rộng , môii phải dày, có Lăng Gíac phân minh và trên dưới cân xứng.
    - Thân hình phát triển bề ngaang một cách rõ ràng nhưng dưới trên cân xứng.
    - Thân hình phát triển bề ngaang cách rõ ràng nhưng dưới trên phải cân xứng trầm ổn.
    - Tay chân ngắn hơn thân mình tròi trịa mập mạp ,xương lẳn, mỡ nhiều ,dáng vẻ có nặng nề nhưng không có vẻ mệt mỏi.
    - Sắc da ngăm đen nhტng tươi nhuận.
    - Giọng nói trong trẻo ,ti𓀯ng nói lanh lẹnhưng không nuốt và có âm vang.
    - Động tác khóang đ𓉋t ,bước chân nhẹ nhàng, khí sắc thanh thản.
    - Lông mày ngắn nhưng sợ;i mịn và bóng bẩy.
    - Đặc tính trí tuệ tr𓁉i yếu nhất của Thủy hình đúng cách là khôn khéo ,mềm mỏng ,giỏi giao tiếp.
    THỦY HÌNH LIỆT CÁCH :
    - Đầy đủ các đ;iều kiện về hình thức của hình Thủy nhưng thịt da quá mềm(tục gọi là béo bệu), gân xương quá nhỏ.
    - Đầy đủ các đ;iều kiện về hình thức của Thuỷ giữa thanh âm nhưng không phải loại Thủy thanh chính cách.
    - Có tướng Ngũ viên nhᅐng Tứ đậu không được sáng sủa đầy đủ hay thuộc loại trọc.
    - Có Thủy hình tương ૕ối nhưng hội đủ điều kiện Ngũ viên, chẳng hạn môi quá mỏng ,tai quá nhỏ ,v..v..
    THỦY HÌNH PHÁ CÁCH :
    - Mặt tròn đầy nhưnng Tư đậu không hợp Thủy cách.
    - Hợp Thủy hình thần hôôn sắc ám , cước bộ hoặc nặng nề hoặc rối loạn.
    - Tứ đậu tươngg phản về tính chất hoặc hình dạng.
    - Có Thủy hình mà không có Th𓔇y sắc hoặc Thủy âm.
    - Khuôn mặt thuộc Thủy nhưng Ngũ quan , Tứ đậu lệch lạc hoặc thân hình không đúng Thủy cách, chẳng hạn mặt mập người ốm, thân trên mập thân dưới thon...

    c) Hình Thổ: ( thổ hình nhân)
    Đặc điểm khuôn mặt : khuôm mặt hoặc bầu dục hình tròn trông tương tự như hình Thủy nhưng các Đặc điểm thân mình :tương tự như Thủy hình nhưng người Thủy mập mỡ , người Thổ mập thịt , vai rộng , mông to, bụng ngực tương đồng , dáng đi mạnh mẻ vững vàng.
    THỔ HÌNH CHÍNH CÁCH :Thổ tín Thổ trong
    - Vai lưng rộng , thẳng , tròn đầy.
    - Chân tay to lớn , chắc ch&##7855;n , tứ chi ngắn hơn thân mình và không lộ gân xương.
    - Toàn thân có tướng Ngũ hậu ( đầu cổ lớn và vững , tai lớn , dầy, có thùy châu tròng và Luân quách phân minh , mặt tròn nhiều thịt, trông chắc chắn , chân tay tương xứng với thân mình và chắc chắn , vững chãi)
    - Mắt có dạng dài , không sâuu, không lộ.
    - Bề rộng lông mày ở m&ức trung bình , bề dài tối thiểu phải bằng chiều dài của mắt.
    - Tam Đình Ngũ nhạc ભầy đặn , điều hòa đắc thế.
    - Sắc da vàng nhuận.
    - Tiếng nói lớn chậm rããi, ấm và ngân vang như đại hồng chung.
    - Đặc tính trội yế;u nhất của người Thổ là thủ tín.
    - Người Thổ chính cách kkhí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ đĩnh đạc có tiết độ, lâm sự vẫn giữ được thần thái an tĩnh. Nếu đầy đủ tất cả các đặc thái trên mà hình thể nặng nề , tâm mưunsâu sắc thì gọi là Thổ trọng .Chỉ có Thổ trọng thuần túy mà không có Mộc chất thì rất khó phát đạt.
    THỔ HÌNH LIỆT CÁCH :
    - Có đủ đặc tính hìình thể của Thổ nhưng ngũ quan có một quan quá nhỏ hoặc không đúng Thổ cách hoàn toàn.
    - Đầy đủ Thổ hình mà khí phách hẹp hòi , độ lượng nông cạn , âm hiểm tiểu tiết thì liệt về Thổ tính
    - Đầy đủ diệnn mạo Thổ mà thân mình trên to dưới nhỏ mất thế quân bình.
    - Đầy đủ diệnn mạo , hợp Thổ cách mà bước chân phiêu hốt như người yếu gân xương.
    - Đầy đủ Thổ cách về diện mạo mà tiếng nói quá nhỏ , quá cao.
    - Qúa nhiều râu tóc hoặc qua ít râu tóc mặc dầu hoàn toàn hợp Thổ cách , hoặc sắc da thuộc Thổ loại tà sắc.
    - Tướng Thổ trọng mà lại thiếu Mộc chất.

    THỔ HÌNH PHÁ CÁCH :
    - Không phải thanh Thổ ho𓐏c sắc Thổ.
    - Các bộ vị căn bả;n như Mũi Tai Miệng không hợp với Thổ cách
    - Diện mạo Thổ mà thân mình không phải thuộc Thổ cách.
    - Khí ám sắc trệ.
    - Không có đủ các đ𓌩c tính Ngũ hậu mà lại còn bị khắc phá bởi các Hành khác.
    d) Hình Hỏa : ( hỏa hình nhân)
    Đặc diểm khuôn mặt : Khuôn mặt giống như hình tam giác ( đầu thon dài , Thiên đình hẹp nhọn , Hạ đình nảy nở ) , râu tóc ít , các bộ vị quan trọng trên khuôn mặt đều lộ , sắc da hồnh hào.
    Đặc điểm thân mình : Thân vóc trung bình , thường thì xương thịt quân phân, vai thon , hông nở , chân tay gân guốc nhưng quắc thước tự nhiên.

    HỎA HÌNH CHÍNH CÁCH :
    - Tam đình tuy bình đẳng nhưng mỗi Đình đều phảng phất những nét thon nhọn phía trên hoặc dưới.
    - Có tướng Ngũ lộ (( lộ mi , lộ nhãn , lộ sỉ , lộ tỵ , lộ nhi ) nhưng lộ mà trọc trung hữu thanh.
    - Râu ria tuy ít nhưng mềm m&##7841;i tươi tắn.
    - Điệu bộ lanh lẹ , linh hoạt tuy bồn chồn nóng nảy mà vẫn giữ được tiết độ , tháo vát , không tháo thứ.
    - Sắc da hồng hào khoẻ mạnh
    - Chân tay tuy gân guốc nhưng không cong quẹo.
    - Khí sắc không tạp , tinh thhần không loạn , dù có nằm lâu cũng giử dđược tư thế ổn định.
    - Phẩm tính đặc thù c𓁗a Hoả hình là giữ được Lễ ( ở đây nghĩa là ự tiết chế được phản ứng dù trong lúc cuồng nộ)
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment


    • HỎA HÌNH LIỆTCÁCH :
      - Diện mạo , thân hình đ;úng Hỏa cách mà sắc và âm thuộc loại tà sắc , tà thanh.
      - Không hội đủ tư&##7899;ng Ngũ lộ hoặc có tướng Ngũ lộ mà thuộc loại trọc ( nghĩa là không có thần hoặc tú khí ẩn tàng sau các bộ vị lộ đó).
      HỎA HÌNH PHÁ CÁCH :
      - Tam đình Ngũ nhạc b𓏽t quân xứng.
      - Miệng rộng môi dầy , mày thanh mắt sáng nhưng không lộ và luân quách phân minh lại có Thùy châu , mũi cao và thẳng chứ không lộ.
      - Râu tóc nhiều và xanh đen. <
      - Người mập mà da l𓉩i trắng hoặc xanh.
      - Hoả hình không thuần túy hooặc pha lẫn các hình của các Hành khác xung khắc với Hỏa.
      IV-MỘT VÀI QUAN NIỆM CỦA CÁC TƯỚNG HỌC GIA TRUNG HOA VỀ NGŨ
      HÀNH HÌNH TƯỚNG :
      a) Hình Kim
      • Người hình Kim dáng dấp đĩnh đạc , diện mạo vuông vắn , ngay thẳng , bộ vị bất phàm , sắc da trắng ngà mà thuần khiết , xương thịt chắc chắn mà không lộ.
      Thần dị phú do Trần đoàn chú giải
      • Người hình Kim có các bộ vị ngay ngắn suông sẻ, Tam đình cân phân và đới vuông.
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • Phong giám tập

        • Dấu hiệu đặc biệt của người hình Kim là vuông vắn. Người Kim chân hình chính cục có tướng Ngũ phương ( mặt vuông , trán vuông , cằm vuông , tai vuông , đầu ngón tay và hình dạng bàn tay vuông) khí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ đoan trang, ngồi lâu mà vẫn giữ được tư thế ổn trọng. Kẻ mà có đủ các điều kiện trên thì tất nhiên sẽ có tính Kim ( nghĩa)
        Thành hòa tử
        • Người Kim chính cách khuôn mặt đới vuông , mày thanh mắt khiết , tầm vóc trung bình , eo lưng tròn đầy nhưng bụng không xệ, môi răng hoà hợp thích đáng, nước da trắng ngà tươi nhuận , khí sắc thanh tú tự nhiên.
        Nếu thần khí quá thanh khiết , sắc mặt lạnh lẽo, sắc da trắng bóng như thoa dầu , mũi lớn , mắt lồi là liệt cách , chủ về thọ mạng ngắn ngủi, công danh trắc trở.
        Nếu chỉ đúng cách về hình hài mà thần hôn khí trọc , mày thô, tai nhọn , mũi lệch ,ngón tay dài nhọnlà tướng phá cách, chủ về hậu vận không ra gì. Thần tướng toàn biên và Thủy kính tập
        b) Hình Mộc
        Người Mộc thân hình xuôi thẳng , cao ốm , xương gân vững chắc, sắc da hơi xanh.
        Thần dị phú
        Hình Mộc thân hình cao ốm , xương gân thẳng tấp , tinh anh tú khí hiện rõ ở lông mày và mắt. Phong giám tập
        * Đặc trưng quan trọng nhất của người hình Mộc là thon dài ngay thăng nên người hình Mộc không ngại vấn đề gầy ốm . Người Mộc chính cách phải hội đủ tướng Ngũ trường , khí sắc không tạp , tinh thần không loạn , cử chỉ ôn hòa bình
        đạm , bước đi thanh thản .Hội đủ các điều kể trên thì sẽ có tính Mộc ( đặc biệt là đức Nhân)
        Thành Hòa Tử
        Người Mộc chính cách thì hình hài xuôi thẳng , thon gầy , mắt sáng và có tụ thần , mày râu và tóc thanh nhã , môi hồng , ngón tay thon dài , chỉ tay nhỏ và rõ , eo lưng thon hẹp , da mịn , âm thanh cao và trong trẻo.

        Nếu tay chân hoạc thân hình nghiêng lệch , da khô , thịt bệu , hoặc lộ xương , gân tạp loạn là liệt cách.

        Xương thô , người mập và lùn , lưng cong , thân hình trường đoản tạp loạn , thần hôn khí trọc là phá cách.
        Thủy kính tập và Thần tướng toàn biên
        c) Hình Thủy

        Người hình Thủy mặt mũi tròn đầy , dáng vẻ nặng nề , vai tròn , bụng xệ , sắc da ngâm đen.
        Thần dị phú
        Tính cách nổi bật nhất của hình Thủy là mày ngắn và có vẻ thô , mắt lớn và tròn , tai dày và có Thùy châu , mập lớn , luâm quách phân minh , hình dạng tai tròn , thầ n khí thanh thản.Như thế là đúng Thủy cách vậy.
        Phong giám tập
        Căn bản của hình Thủy là tròn . Người hình Thủy chính cáchphại có đủ tướng Ngũ viên , khí sắc không tạp , tinh thần không loạn . cử chỉ khoáng đạt , bước đi nhẹ nhàng , vững chãi . Có đủ các điều kể trên thì trong Ngũ thường đức tính trội nhất là Trí.
        Thành Hòa Tử
        Người Thủy đắc cách về hình hài là mập tròn , Tứ đậu ( Tai , Mắt , Mũi , Miệng) đầy đặn tươi sáng, khí sắc không tạp ,tinh thần sáng láng thanh nhàn ,tiếng nói lanh lẹ trong trẻo rõ ràng. Nếy mập mà xương yếu thịt bệu ,thần khí đoản trọc, sắc thái khô cằn, tiếng nói vấp váp hay nuốt tiếng nghẹn hơi là liệt bại cách không chết yểu thì cũng bệnh tật liên miên ,chung thân hao bại.

        Thủy kinh tập và thần hướng toàn biên
        d) Hình Hỏa :
        Nguời hình Hỏa dáng dấp nhậm lẹ ,dù mập hay gầy thì khuôn mặt cũng có các nét gân guốt thon nhọn ,khí chất nóng nảy sắcda hồng hào như người vừa uống rượu.
        Thần dị phú
        Đã là người thuộc hình Hỏa thì thân thể lẫn khuôn mặt đều trên hẹp ,dưới rộng ,cử chỉ có vẻ tháo cấp bất định ,râu ít tóc thưa, mắt lồi, mũi lộ.
        Phong giám tập
        Người Hỏa chủ yếu ở chỗ lộ liễu, Người hình Hỏa chính cách có tướng Ngũ lộ (lông mày lộ ,mắt lộ, mũi lộ, răng lộ, tai lộ) khí sắc không tạp, tinh thần không loạn ,nằm ngồi lâu mà vẫn giữ được tư thế ổn định.Dược như thế thì đức tính trội yếu nhất sẽ là Lễ .
        Thành Hòa Tử
        Người hình Hỏa chính cách thì đầâu dài ,Thượng đình hẹp, nhọn Hạđình to rộng ,sắc da hồng hào tươi nhuận, râu tóc thưa có màu hung đỏ (như loại tóc bị rám nắng lâu ngày ) miệng hơi vẩu ,môi chúm lại giọng nói khàn.
        e) Sự phối hợp của Ngũ hành trong tướng học :
        Các loại tướng mạo con người mô tả ở trên là các loại điển hình thuần tuý (tướng học mệnh danh là chân hình chính cục , chỉ có tính cách lí tưởng và hiếm có .Vì vậy ,dưới nhãn quang tướng học bất cứ ai đúng mạo, chân hình chính cục ,bất kể
        Hành nào ,đều được xếp vào loại tướng quí ( phúc lộc đượchưởng dồi dào hay dễ dàng hơn thường dân.
        Trong thực tế, hình mạo con người thường là một sự pha trộn hình nọ với hình kia theo một tỉ lệ rất biến thiêntừ người này sang người khác.Kẻ thì sự pha trộn có tính cách lượng ,kẻ thì pha trộn cả phẩm lẫn lương ( tướng học gọi bằng từ ngữ chuyên môn là Chất hay Tính và Hình .Sự pha trộn đó là tương sinh hoặc là tương khắc .Những trường hợp hàm hỗn đó đều gọi là Kiêm hình hợp cục
        Khi xét tướng mạo một người loại Kiêm hình hợp cục thì hình nào có những bộ vị chính hay phẩm chất chính nổi bật sẽ được coi là phần chủ yếu .Kế đó, là các đường nét cúa các hành khác ít quang trọng h7on rồi dựa vào nguyên tắc sinh khắc của Ngũ hành để định tốt xấu.
        Thông thường nếu Hành chủ yếu là :
        - Thủy thì nên đới Kim kị Hỏa
        - Mộc thì nên đới Thủy,kị Thổ
        - Hỏa thì nên đới Mộc,kị Kim
        - Thổ thì nên đới Hỏa, kị Thủy
        - Kim thì nên đới Thổ, kị Mộc
        áp dụng nguyên tắc trên, tướng học đi đến việc liệt kê các loại tướng mạo Kiêm hình hợp cục dưới đây :
        1-Kim hình hợp cục có hậu quả xấu
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment


        • a) Kim hình Mộc chất : hình dạng thon lẳng dài, ngay thẳng ,thần khí sáng láng ,thanh kì là những tính chất về phẩm của loại người Giáp Mộc .Sắc da trắng trẻo ,Ngũ quan ngay thẳng, mặt mày vuông vức là hình Kim. Loại người có tướng mạo hỗn hợp kể trên gọi là kim hình Mộc chất.
          Kẻ mà tướng mạo thuộc loại kim hình mộc chất thì sơ vận gặp nhiều vất vả ,phải đợi tới khỏang trung niên trở đi thì mới thoát khỏi vận bí để trở thành cách siêu quần bạt tụy.
          b) Mộc hình đa Kim : Thân hình cao gấy ,tứ chi mảnh dẻ,thần khí bạc nhược là hình Mộc nhưng thuộc loại Aát Mộc.Sắc da trắng nhưng khí sắc kạnh lẽo quá đáng là các phẩm chất của Kim. Người kiêm cả 2 đặc thái trên gọi là Mộc hình đa Kim (hình mộc nhưng lẫn lộn quá nhiều tính chất của Kim) .Mã Y lí luận rằng loại người Aát Mộc ma 2gặp Kim tương tự như là loại cây tạp mục nát không chịu nổi búa rìu. Do đó kẻ Mộc hình đa Kim suốt đời lận đận khốn khổ cả về tiền tài ,danh vọng ,tật bệnh liên miên.
          c) Thủy hình ngộ Thổ : Da thịt mập mạp ,phì nộn, mắt tròn là các đặc trưng của Thủy hình .Sắc da vàng (muốn nói là loại tà sắc), khí sắc trì trệ là đặc tính của Thổ trong . Kẻ có 2 điều vừa kể trên bị gọi là Thủy hình ngộ trong Thổ (hình
          Thủy mà gặp các đặc tính trọng yếu nhất của Thổ). Loại tướng mạo này cũng là loại cực xấu ,quanh năm bệnh hoạn, tán tài .
          d) Hỏa hình Thủy tính : Đầu nhọn ,mắt lộ, tai lộ. Mũi lộ là tướng mạo của người hình Hỏa thuần túy, khí an tĩnh, sắc da ngăm đen ,thân thể mập mạp (mỡ nhiều hơn thịt) lại là những đặc điểm căn bản của Thủy .Kẻ kiêm hình các đặc điểm trên trong tướng pháp gọi là Hỏa hình Thủy tính (hình thuộc Hỏa àm tính chất thuộc Thủy) Hỏa hình thủy tính chủ yếu về khắc phá vợ con ,tiền của không bao giờ dư giả,
          e) Thổ phùng trọng Mộc : (nghĩa đen là hình Thổ pha trộn rất nhiều đặc tính của Mộc) :xương thịt đầy đặn, hình thể chắc chắn là các đặc tính căn bản của Thổ .Tóc nhiều đậm, xen lấn nhau ,râu ria cứng đen là các đặc chất của Mộc nhưng lại là loại Mộc trọc.Kẻ kiêm hình hợp cục theo cách nói trên tướng pháp gọi là Thổ phùng trọng Mộc
          Người bị cách cùng Thổ phùng trọng Mộc việc gì cũng không thành tựu trọn vẹn ,gia vận linh đình. Nếu ngoài các bại cách kể tên còn thêm thần hôn khí trệ thì càng tệ hơn nữa khó tránh khỏi chết trước trung niên.
          2-Kim hình hợp cục có hậu quả tốt :
          a) Kim phùng hậu Thổ : Mặt có những đường nét ngay thẳng,màu da trắng khí sắc là các đặc thái căn bản của Kim.Xương thịt mập mạp nặng,chắc nịch là các yếu tố đặc biệt của Thổ.Sự hàm hỗn hai thành phần nói trên được mệnh danh là Kim phùng hậu Thổ
          Kẻ hợp cách Kim phùng hậu Thổ là kẻ suốt đời đủ ăn đủ mặc,vận số hanh thông.
          b) Mộc Thủy tương ty: (hai hình Mộc và Thủy bổ túc và giúp đỡ nhau ): hình dạng cao dong dỏng, ngay ngắn mà dáng vẻ hiên ngang mạnh mẽ là Mộc hình .Da ngăm đen ,thần khí an dật hòa ái là đặc cách Mộc Thủy tương ty
          Hình Mộc mà lại đặc cách Thủy Mộc tương ty là loại tướng mạo rấtquý ,giàu sang đặc biệt là tài văn học siêu quần bạt tuỵ
          c) Thủy đắc Kim sinh ( Thủy được Kim hỗ trợ) :hình dáng mập mạp ,nhiều thịt xương ít ,mặt mũi tròn trịalà tướng Thủy ,sắc da trắng ngà. Khí minh lăng ,thần thái an hòa cao khiết là Kim chất thượng thừa.Kiêm cà hai đặc thái của hai
          Hành theo các htrên tướng học gọi là Thủy đắc Kim sinh, chủ về phẩm cách thiện lương, tính thông tuệ hào sảng được hưởng cả danh lẫn lợi.
          d) Hỏa cục ngộ Mộc ( Hỏa và Mộc pha trộn đặc cách) :khí sắc hòng hào tươi nhuận là Hỏa chất ,thân hình cao dỏng hiên ngang ,thần khí linh hoạt thanh tú ,là những đặc tính căn bản của Giáp Mộc. Kẻ có đủ 2 đặc tính trên hội hợp
          ngay trong người được gọi là kẻ hợp cách Hỏa cục ngộ Mộc :giống như củi đang cháy mà lại thêm củi tốt . Hợp cách kể trên thì thọ an khang, công danh cái thế vinh hiển cực phẩøm.
          Nếu là loại người Aát Mộc gặp hỏa chất ,đặc tính tốt đẹp của cách cục kể trên bị giảm thiểu chỉ được giữthọ mạng dài lâu nhưng quý hiển chỉ ở mức bình thường.
          Ngược lại, nếu Hỏa hình mà gặp Mộc chất thì thường là xấu nhiều tốt ít .
          e) Thổ hình ngộ Hỏa : hình thể nặng nề chắc chắn là đặc tính của Thổ hình ,thần khí sáng sủa hừng hực như toát hết vẻ tinh hoa ra ngoài là Hỏa chất .Kiêm cả hai hình thái nói trên gọi là Thổ hình ngộ Hỏa . Vì Thổ do Hỏa sinh nên đắc
          cách Thổ hình ngộ Hỏa (chỉ có hỏa chất mới đúng cách) sẽ làm cho Thổ phát huy được tất cả đặc tính cố hữu tốt đẹp của loại Hành này nên công việc thuận hảo xứng công vừa ý.
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • V- TỔNG LUẬN PHÉP TƯƠNG HỢP NGŨ HÀNH ÁP DỤNG VÀO NHÂN TƯỚNG HỌC :
            Nguyên tắc tương sinh khắc cổ xưa nay chưa được hoàn hảo vì không diễn gỉai hết được những sự uyên áo trong tướng học(Phép đoán tướng mạo và định tướng khắc tương sinh Ngũ hành trong tướng học từ đời ngũ Quý trở về trước bị sách Thủy kính tập liệt vào loại xưa. Từ Mã Y,Trần Đoàn trở về đến đời Minh ,Thanh được sách này coi là hiện đại ) vì chưa biết rằng sự sunh khắc đưa đến hậu quả tốt hay xấu c2on tùy theo sự tương hợp trong từng hệ cấp của từng hành.
            Nói chung ta phân ra :
            a) Thuận hợp :
            Ví dụ : Mộc hợp Hỏa
            Thủy hợp Kim
            Mộc hợp Thổ
            Thuận hợp như trên nếu đúng mức độ thì thường chỉ giàu chứ ít khi quý hiển.
            Thảng hoặc có quý hiển thì cũng rất bấp bênh, chỉ trong một thời gian nào đó rồi hết .
            b) Nghịch hợp : (thoáng nhìn thấy có vẻ khắc kị nhưng thực tế lại phù hợp và hỗ trợ lẫn nhau )
            Ta thường thấy :
            Kim nghịch với Hỏa.
            Thủy nghịch với Thổ.
            Mộc nghịch với Kim
            Thổ nghịch với Mộc
            Theo lẽ thông thường của phép sinh khắc thì các hình mạo hàm nói trên phải coi là xấu vì các Hành trong con người xung khắc lẫn nhau .Trong thực tế ,có các trường hợp Kim đa Hỏa thiểu : tức là Kim hình đới Hỏa , Thủy đa Thổ thiểu: Thủy hình đới Thổ ,tuy nghịch mà lại hợp ,kết quả tốt đẹp và bền vững hơn lại thuận hợp rất nhiều.
            Theo sự hiểu biết nông cạn thông thường thì Kim hình không nên kiêm Hỏa ,nhưng kẻ mà tai mắt ,lông mày ,tứ chi lẫn thân mình đều vuông vức, màu da trắng tuy đúng cách của Kim hình ,nhưng nếu xương thịt quá thanh khiết, thần qúa sáng ,hkí quá lạnh, mà sắc mặt hồng nhuận (tức là đới Hỏa) thì tuy Kim hình Hoả chất nghịch mà lại hợp. Tướng pháp gọi loại nghịch hợp này là Hàn Kim vi Hỏa luyện : vùng lạnh được lửa tôi luyện cho ấm lại ,chủ về thọ khang quý hiển. Ngược lại ,nếy Hỏa đa Kim thiểu ,nghĩa là Kim và Hỏa kiêm hình như kiểu mày thanh mắt sáng, da trắng mà đầu nhỏ nhọn, mũi lộ khổng ,tai luân quách đảo lộn thì lại là nghịch mà xung hkắc chứ không hợp, chủ về tai họa liên miên. ,không mấy hi
            vọng sống quá 30 tuổi.
            Thủy hình đới Thổ có thể nghịch mà hợp hoặc nghịch mà khắc tuỳ theo từng thứ bậc của Hành. Nếu Thổ thiểu Thủy đa là nghịch hợp, quý hiển tọh khang, nếu thủy thiểuThổ đa thì lại khắc nghịch ,suốt đời bần hàn ,cô độc. Tỳ như có hình Thủy ,thân hình phì mập, đúng cách nhưng nếu thịt da nhão nát, lại còn ở tuổi thanh niên thì lại là điềm yểu thọ. Do đó, loại Thủy hình phát dục quá sớm đó phảicó thể chất (đặc trưng của Thổ chất là rắn chắc ,gân cốt chìm mà vững chải, tai, nũi , miệng đều kiên ngạch) hỗ trợ ,nhưng vì chất Thổ rất ít , lại ẩn tàng nên mẹnh danh là Thủy đa Thổ thiểu .Ngược lại, đúng Thủy hình mà sai lệch Thủy sắc, như sắc da vàng xạm( thuộc về Thổ sắc, chân tay thô trọc thuộc về chất trọc của
            Thổ,v.v...) biểu hiện cho sự non yểu quẫn bách.
            Bàn về hình Mộc , cần phải phân biệt 2 loại Mộc là Giáp Mộc và át Mộc .Người Giáp Mộc thì hình dạng thon dài, cốt cách ngay thẳng, mi thanh mục tú ,hào khí lẫm liệt. Cho nên tuy thói thường là Mộc kị Kim vì hai Hành khác nhau nhưng nếu Mộc đa kim thiêu chẳng hạn như cằm vuông trán rộng, sắc da trắng xanh , còn thì các bộ vị chính yếu đều là Mộc chính cách thì nghịc mà hợp. Điều d0ó cũng tương tự như cây cổ thụ ngàn năm bị đẽo gọt, chạm trổ mới tăng phần giá trị .Còn đối với người át Mộc ,nếu gặp Kim hình hay Kim chất cũng giống như cây mục cỏ khô bị búa ríu giáng xuống tất nhiên sẽ bị trì trệ ,công danh tọh mạng đều bị ảnh hưởng tai hại.
            Bàn về hình Thổ thường vẫn lấy sự pha trộn với hình Mộc làm điều đại kị vì Mộc khắc Thổ ,nhưng cần phải biết rằng nếu hình Thổ thuần cách quá nặng (trọng Thổ) có tướng Ngũ tàng ,khiến chi tinh thần khí chất bị trì trệ, không hiện rõ ở mặt
            này được thì truờng hợp đó cần phải có Mộc chất đi kèm (ví dụ như mày thanh mắt sáng, râu tóc tươi nhuận không quá đậm và thô) để Thổ có thể trở thành đại dụng .Cách cục bổ túc nói trên tướng pháp gọi là Mộc chi sớ thông : Mộc dùng làm chất kích thích của Thổ. Loại tướng Thổ tàng (hay Thổ trọng cũng vậy ) mà gặp dược cách cục Mộc chi sớ thông rất hiếm nên tướng thuật có câu :"Thanh tĩnh quý đã đành mà trọc cũng quý khi được tướng Thổ trong hợp cách Mộc chi sớ
            thông ".
            Đến như hình Hỏa ,phép luận hình định cục khác hẳn với các hình kim,Mộc,Thủy,Thổ .Người Hỏa thì thần khí không nên ẩn tàng ,sắc không nên tĩnh ,tối kị mắt dài và sâu, mũi cao và thẳng, miệng rộng mmà lăng giác phân minh, tai có luân quách bình thường vì đó là điều hkắc tướng của người hình Hỏa.
            Bởi vậy ,bàn về người hình Hỏa phải lấy tao mọc cao và luân quách đảo ngược ,mũi lộ khổng, môi đỏ ,Tam đình đới nhọn làm hợp cách. Có đúng như vậy về hình thức mới xếp vào loại quý cách.
            Thủy kính tập
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • f) Tương quan giữa Aâm Dương và Ngũ hành trong tướng học :
              Trong phạm vi hình tướng ,sự tương quan giữa Aâm Dương và Ngũ hành là một vấn đề khá quan trọng đáng được lưu ý.
              Nói đến thuận Aâm Dương là nói đến vấn đề Dương hòa, Aâm thuận và nghịch âm
              Dương là đề cập đếnDương thác Aâm sai. .Cònthuận hay nghịch Ngũ hành phức tạp hơn vì thuận hợp và nghịch hợp (nghịch hợp có thể xấu hay tốt) rất nhiều chi tiết đặc dị trong trường ợhp cá biệt.
              Tựu trung trong tương quan âm Dương và Ngũ hành về mặt tướng học ta thấy 4 trường hợp có thể xảy ra :
              - thuận cả Aâm Dương lẫn ngũ hành.
              - âm Dương nghịch lí nhưng Ngũ hành thuận lí.
              - âm Dương thận lí nhưng Ngũ hành nghịch lí
              - Nghịch cả âm Dương lẩn Ngũ hành.
              1- Thuận âm Dương và Ngũ hành
              Về mặt tướng học ,con người có tướng thuận nguyên lí nguyên lí Aâm Dương nghĩa là kẻ có diện mạo cân xứng, da thịt và xương cốt cân phân. Nói một cách chi tiết hơn, kẻ đó hội đủ các điều kiện Dương hòa Aâm thuận. Về mặt Ngũ hành hình tướng, thuận có nghĩa là người thuận "Hành" hội đủ mọi điều kiện tốt của hành đó ,kẻ tạp cách không có sự khắc phá giữa các Hành trên cơ thể. Người thuận càv âm Dương và Ngũ hành được coi là tối thuận về đủ mọi phương diện .
              2- âm Dương nghịch lí Ngũ hành thuận lí.
              âm Dương nghịch lí là xương thịt ,diện mạo thân thể bất quân xứng .Riêng về điểm này cũng đủ để kết luận về con người như vậy là bất quân bình ,đương nhiên là có hậu quả xấu .Sự thuận lí cúa ngũ hành lúc đó chỉ có tính cách phụ thuộc và không có
              giá trị gì đáng kể. Nếu sự thuận lí có tính cách đặc biệt,.còn phần đông cơ cấu ngoại mạo bị Aâm Dương đảo nghịch thì hậu quả phần lớn đều không ra gì .
              Trong vài trường hợp đặc biệt tối thuận ,chẳng hạn phần nghịch lí cùa Ngũ hành bù trừ lại .ví dụ như người quá cáo ốm thiếu da thịt ( nghịch lí về Aâm Dương có thể được sự thuận lí của Ngũ hành hóa giải.
              3- âm Dương thận lí , Ngũ hành nghịch lí
              Nếu âm Dương hòan toàn thuận lí về cả cốt cách xương thịt ,bộ vị tứ chi, thần khí thì sự nghịch lí của Ngụ hành về mặt các nét tướng không đủ dể tiêu tán những hậu quả tốt của Aâm Dương bất kể sự nghịch lí đó nặng nhẹ ra sao .Tuy nhiên, sự nghịch lí của Ngũ hành vẫn làm cho các hiệu quả tốt của Aâm Dương bị sút giảm. Một trường hợp đặc biệt là Ngụ hành nghịch lí biểu kiến (ví như người Giáp Mộc có Kim chất ,nhưng thuộc lạoi nghịch hợp)nhưng về mặt giải đoán sự nghịch lí đó của Ngũ hành chỉ có ảnh hương thoáng qua không đáng kể, kết cục vẫn là đại phát .
              4- âm Dương và ngũ hành đều nghịch lí :
              Trường hợp này quá xấu ,không có gì đáng đề cập đến vì người bị nghịch cả âm Dương lẫn ngũ hành thì không còn đủ các yếu tố tối thiểu về hình tuớng để nói.
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • CHƯƠNG THỨ BA
                THẦN, KHÍ ,SẮC VÀ KHÍ PHÁCH

                ĐẠI CƯƠNG VỀ THẦN KHÍ SẮC :

                Thần ,Khí ,Sắc là ba ý niệm đặc biệt của tướng học Á Đông ,rất khó lĩnh hội .
                Xưa nay các sách tướng đều nói đến Thần ,Khí ,Sắc đều cho rằng Thần ,Khí ,Sắc tuy phân ra làm ba nhưng thực ra là một. Về cách qua nsát ,người thường nói xem Thần tại mắt ,khí ở nội tạng và phát thành âm thanh còn sắc ở ngoài da. Nhưng đó chỉ là một cách diễn tả khái quát không bao hàm đầy đủ mọi khía cạnh cần thiết .Đi sâu vào chi tiết, Thần ,Khí ,Sắc rất phức tạp, hàm hỗn và tương quan mật thiết .Tách rời Thần ,Khí ,Sắc ra từng phần riêng rẽ chì là một cách mổ xẻ máy móc để tiện trình bày mà thôi. Phần dẫn nhập này tóm tắt một cách khái quát những điểm trọng yếu trước khi cố gắng phân tích chi tiết từng thành tố Thần ,Khí ,Sắc trong tướng học .
                Sở dĩ tướng học Á đông xem Thần ,Khí ,Sắc là một vì đó là ba dạng thức khác nhau.,nhìn dưới những khía cạnh khác nahu của dữ kiện duy nhất ,có tính cách siêu vật thể hơn là vật thể của con người .
                Theo tướng học, chính dữ kiện đó đã tạo nên tinh hoa ,hoạt lực nội tại và các yếu tố tâm linh của con người. Người Á Đông ,nói đúng ra là người Trung Hoa ,vốn thấm nhuần truyền thuyết âm Dương Ngũ hành, dưới khía cạnh vật là một thứ khí trong khi kết hợp và biến hóa đã tạo ra vạn vật ,trong đó có con người . Nếu nói đến bản thể của khí trong con người là nói đến bản thể của khí âm Dương Ngũ hành trong vũ trụ đã hội nhập vào con người từ lúc thọ thai kết hình và cùng với nhục thể tạo thành một khối duy nhất đó là con người .
                Như vậy ,trong con người ta có thể tạm nói khí là một tứh nhựa sống vô hình, nếu thể hiện qua đầu màu đuôi mắt thì gọi là thần hiện ra một nơi cố định trên làn da thành ra màu sắc thì gọi là sắc. Do đó, Thần ,Khí ,Sắc tuy ba nhưng xét về bản chất
                thật ra là một và có tính cách bất khả phân trong thực tế. Nói cách cụ thể hơn, Thần
                ,Khí ,Sắc có thể ví như ba trạng thái khác nhau như thể hơi ,thể lỏng ,thể đặc của
                nước :thể hơi là thần, thể lỏng là khí ,thể đa75c là sắc. Thể lỏng là thể thông thường
                căn bản của nướa nhưng thể hơi và thể đặc không bao giờ hoàn toàn tách rời ra khỏi
                thể lỏng cũng như thần và sắc không bao giờ tách ra khỏi khí.
                Trong phần khí, ở khía cạnh cấu tạo (structual) nhìn dưới vị thể tĩnh nghĩa là khi con nguười bất động ,ta có thể quan sát được là khí mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,tốt hay xấu. Vì vậy ,nhiều dưới khía cạnh này, giữa khí và sắc có sự tương quan mật thiết trong tướng học người ta thường gộp chung thành một mà gọi là khí sắc với ngụ ý rằng trong việc quan sát khí thì khí chỉ được nói đến một cách gián tiếp còn sắc mới là trọng điểm .Chính vì thế mà sáchThủy kính tập gọi nó là khí sắc chi khí.
                Trong vị thế động của con người, và dưới khía cạnh cơ năng(fone-tionnel), qua các tác động của thân ìhnh ,ta thấy có thể phát hiện những cá tính đặc biệt, những đặc điểm tâm hồn từng cá nhân .Dạng thức này của khí được mệnh danh là khí phách.
                Tác gỉa Phạm Văn Viên của cuốn Thủy kính tập là người đầu tiên đặt ra danh từ khí phách để phân biệt với khí và sắc khi ông nói :"khí phách chi khí" và `khí sắc chi khí " .Trong tác phẩm của ông ,phần màu sắc của da bị xem nhẹ ,còn phần thần lại được chú trọngrất nhiều và xem như là liên kết chặt chẽ với khí . Do đó ,đôi khi ta gọi là khí phách, ta lại gọi chính danh hơn là tinh thần và khí phách, và để ch ogiả tiện ,người ta gọi tắt là thần khí .Chính phần thần khí này mới là phần cao thâm của tướng lí Á Đông, nó giúp phân biệt được quý tiện hiền ngu,dự đoán được thànnh bại của cin nguời trong tương lai cũng như mạng vận dài ngắn ,thô bạo hay thanh khiết .
                Từ trước đến ay ,thần khí vì tính cách hư hư thực thực của nó,vừa có bản chất là siêu hình vừa có bả nchất là thực tại ,lại đòi hỏi người qaun sát phải có một nhãn quang và thính giác bén nhạy đã được xếp vào loại học thuật bí truyền. Hơn nữa, cách diễn tả của nguời xưa lại rất hàm hỗn cố ý thần bí hóa và lại không được phổ biến sâu rộng như phần hình tứong ,nên từ đời Đông Hán đến gần đời Tống gần nưh bị thất truyền. Đến hai đời Minh,Thanh ,một vài cuốn sách tướng cổ điển có nhắc đến, nhưng không mô tả.
                Mãi đến đời Thanh ,sách Thủy kính tập mới lại đề cập đến ,nhưng vẫn chưa rõ ràng cho lắm .Tuy vậy ,xét qua mớ tài liệu rời rạc tản mát trong kho tàng văn hóa tướng học còn lưu lại đến nay cộng thêm với một đoạn bình chú của tướng tưh ta có thể suy diễn ra được một phần lớn những điều cổ nhân muốn gói ghém qua ý niệm khí phách .Vì vậy ,trong đoạn cuối chương này ,soạn gỉa đặc biệt dành ra một phần lớn để giới thiệu về phần tướng lí này của tướng học Á Đông để độc giả thưỡng lãm.
                THẦN
                Thử phác hoạ ý niệm "Thần":
                "Thần" là một khái niệm căn bản của tướng học Á Đông , nhưng lại là một ý niệm rất khó diễn tả. Một phần vì người xưa học tướng theo lối tâm truyền , lấy trực giác và kinh nghiệm để lĩnh hội dần dần nên không cần và có thể nói là không thể diễn tả đầy đủ , một phần là nếu vài ba cuốn tướng học cổ điễn tả thì lối diễn tả đó vừa mơ hồ vừa huyền bí khiến người đọc bị hoang mang như lạc vào mê hồn trận . Thật sự , bản chất của thần không có gì là hoang đường , cũng không đến nỗi khó lĩnh hội cho lắm.
                Đến giúp độc giả hiểu được ý niệm thần trong tướng lý Á Đông , soạn giả cố gắng phác họa lấy ý miệm thần theo một khảo hướng thực tiễn , ngược lại với lối diễn tả huyền bí của sách vở cổ điển bằng cách đưa ra nhiều ví dụ cụ thể trước khi đi vào phần định nghỉa lý thuyết.
                Trong đời , hẳn mọi người đều có dịp quan sát lắm cặp mắt có nhãn lực đặc biệt khó quên .Nhãn lực đó khi đầy ác khiến kẻ nhìn phải khiếp sợ , có khi đầy vui tươi khiến kẻ nhìn quyến luyến . Những loại ánh mắt đó gọi là ánh mắt có thần. Ngược lại , cũng có nhiều đôi mắt ảo não , xa xăm , lờ đờ , thiếu sinh lực , hoặc không gây một cảm giác nào cho người quan sát : đó là những ánh mắt thiếu thần.
                Có những tư thế đi , đứng , ngồi chũng chạc , ổn trọng tự nhiên, tạo một cảm giác uy nghi khả kính : đó là những tác phong có thần.
                Có nhiều giọng nói chanh chua gây tức giận , hoặc hùng hồn làm cho hân hoan phấn khởi , hoặc trong trẻo , êm dịu truyền cảm , khiến người nghe như bị thu hút bàng hoàng : đó là hợp âm thanh có thần .
                Một phụ nữ nhan sắc có hấp lực lôi cuốn sự chú mục không ngừng , khiến mọi người phải nhìn , nhìn hoài không chán , hoặc lúc nhìn mà động lòng ham muốn hay tấm tắc khen ngợi : đó là nhan sắc có thần.
                Cũng có phụ nữ không mấy xinh đẹp nhưng cách đi , cách đứng , giọng nói , nụ cười đều toát ra vẻ thùy mị , đoan trang khiến con người sinh lòng cảm mến cũng là loại người có thần.
                Trong đoàn vũ công dang biểu diễn , có người diễn xuất nổi bật hơn hết khiến cho khán giả thấy được ý nghĩa của điệu vũ qua cử chỉ , vũ công đó có thần trong điệu vu.õ
                Những cụ già dù gần đất xa trời , nhưng vẫn còn đầy vẻ quắc thước , nghiêm phong , dũng liệt là những kẻ có thần.
                Những trẻ em nhìn vào là thấy ngay tướng thông minh , đĩnh độ cũng là hạng người có thần.
                Những ví dụ trên cho thấy thần được biểu lộ không những ở đôi mắt mà còn trên toàn thể khuôn mặt , trong phong thấy , giọng nói , nụ cười , trong thế cử động và cả trong thế bất động của con người nữa . Thần được phát lộ rõ rệt nhất lúc vui , lúc hứng , lúc giận , lúc sợ , lúc ham muốn , lúc cãi co . lúc thuyết phục , lúc đấu võ , lúc đánh kiếm.
                Tóm lại , bất cứ lúc nào con người thoát khỏi trang thái bình thường mà toát ra những nét khác biệt kẻ phàm , trong ánh mắt , tướng đi , đứng , nằm , ngồi , cười thì đó vẫn là người có thần. Chính trong trạng thái bình thường ta thấy thần khó được lý hội nhất . Người xem tướng bao giờ cũng gặp phải đối tượng và trang thái này.
                Những ví dụ và sự diễn tả trên cho phép ta địng nghĩa thần như sau: Thần là âm hưởng nhận thức được trên các nét tướng con người , là tiếng dội trong tâm hồn người xem tướng của những nét tướng quan sát được , chỉ những nét tướng nào tạo được những cảm giác , cảm tướng , cảm xúc , dư âm trong tâm tư người xem tướng thì mới là những nét tướng có thần . Trái lại , những nét tướng nào không có ý nghĩa , không gây một chấn động nào trong tâm tư , không có gì khác biệt với thiên hạ là những nét tướng thiếu thần. Những nét tướng lộ thần rõ rệt ( như sát khí trong ánh mắt , sự thô bạo của cử chỉ , tiếng nói lớn , giọng cười to ) thì bất cứ người phàm nào cũng quan sát được. Nhưng có những nét tướng không lộ thần một cách rỏ rệt đối với người phàm thì chỉ có nhà tướng thuật thượng thừa mới tra xét được thần khí mà thôi . Như thế, quên chuẩn nhận thức thần là trực giác riêng của thần tướng , Đây hiển nhiên là tiêu chuẩn hết sức chủ quan và cá biệt . Việc khảo sát thần sở dĩ khó là vì lí do , và sự khác nhau giữa các nhà tướng chính cũng vì nguyên nhân trên.
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • Đề định nghĩa giản dị hơn , thần là tinh thần . Đó là nguồn động lực tiềm ẩn trong con người , kết tinh từ sự ham muốn , từ ý chí , từ nghị lực , từ tình cảm , từ trí tuệ , từ huyết thống , từ văn hóa được phát lộ ra ngoài , ít hay nhiều , mạnh hoặc yếu .
                  Nó có thể tiềm ẩn hoặc phat lộ , khang kiện hay suy nhược . Xem thần là xem tinh thần , xem nội tâm , xem phần chân tướng bên trong qua những nét phát biểu ra ngoài .Thường khi cái bên ngoài không gói ghém hết cái sinh động và uẩn khúc bên trong .
                  Vì vậy, thuật xem tướng bao giờ cũng phải cố gắng thấu đáo nội tâm thì mới đạt tiêu chuẩn .Đó là lí do tại sao khảo sát thần phải bằng mắt chưa đủ mà phải dùng đến tâm để tìm hiểu tâm . Cái khó của việc quan sát Thần là ở chỗ đó . Cái vi điệu cũng từ đó mà ra.
                  II ¬ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THẦN
                  a) Nguồn gốc của thần dưới nhãn quan tướng học cổ điển Thần ở đâu mà ra? Để giải đáp câu hỏi này , cổ nhân đã đưa ra lập luận sau:
                  Con người , bẩm thụ tihn hoa của trời đất mà sinh ra . Thần là vật vô hình , là tinh hoa tối cực của con người có trước rồi mới có hình hài . Hình hài sở dỉ có là đến chứa đưng nội thần . Do đó thần bàng bạc trong nội tang con người . Lúc ngủ thì nội thể , lúc thức thì hiện ra ở cặp mắt.
                  Đối với chúng ta , lập luận trên không đủ nhưng có vài điểm khả dụng . Những điểm khả dụng đó soạn giả sẽ đề cập đến ở những đoạn sau:
                  b) Vai trò cặp mắt trong việc quan sát Thần Qua những ví dụ đan cử ở đầu phần này , chúng ta thấy thần rất bao la bàng bạc chứ không phải chỉ thu hẹp ở cặp ma71t . Nhưng hẳn chúng ta đều có dịp ngắm những bức học chân dung con người , ta thấy bức họa vẽ linh hoạt hay không phần lớn là ở cặp mắt . Mạnh Tử đã từng nói :"Quan sát người thì quan sát ở cặp mắt , mắt chính đính thì tâm hồn ngay thẳng , mắt tà vay thì tâm tính cũng tà vay" .Tây phương cũng có câu:" Cặp mắt là cửa sổ tâm hồn " . Thần là tinh hoa , là tấm gương phản ánh tâm hồn con người . Thế mà quan sát mắt ( nói đúng ra là quan sát ánh mắt ) ta biết được tâm hồn nên cổ tướng học nói là quan sát ở mắt , tuy chưa đầy đủ nhưng không phải là vô lý .
                  Vả chăng quan sát mục quang ta biết được nhiều về thần của con người hơn bất kỳ bộ vị hoặc nét tướng khác . Chẳng hạn ta có thể biết ánh mắt mạnh hay yếu , dữ hay hiền hoà , gian xảo hay thuần phúc ... Do dó , ta phải thùa nhận rằng vị trí quan sát thần thuận tiện nhất là cặp mắt con người . Tuy rằng một mình nhãn thần chưa đủ
                  để tượng định một cách dứt khoát về thần của một cá nhân , nhưng người quan sát sâu sắc có khá nhiều dữ kiện cần thiết để giải đoán về phẩm cách và vận mạng nói chung của con người . VÌ THẾ NGƯỜI XƯA MỚI NÓI:" Xem quí hiển hay hạ tiện thì xem ở mắt" và ở đây ta đặt trong tâm vào việc quan sát mắt để suy luận và tìm hiểu về thần .
                  c) Phân loại Thần qua mục quang Trong tướng học Á Đông nói đến thần qua cặp mắt thì điểm cần đặc biệt chú ý không phải là hình dạng của mắt mà là tính chất của mục quang . Quan sát mục quang gúp ta phân loại được các loại Thần của con người và định được sự tương quan hợp nhãn thần với công danh sự nghiệp của một cá nhân . Đại để , căn cứ vào mục quan ta phân biệt được :
                  1 ¬ Thần tàng
                  Đây là nét thượng thừa cách về nhãn thần . Thần tàng có nghĩa lá ánh mắt sáng sủa giữa không rực rỡ tương tự như một hạt ngọc ở trong tư thế an tĩnh phát ra ánh sáng nhưng ánh sáng đó ở cặp mắt có tính cách phảng phất , nhẹ nhàng , thoáng qua như không có nhưng nhìn kỹ , ngắm lâu ta mới phát hiện được . Loại nhãn thần ẩn tàng này rất hiếm nhưng kẻ có loại nhãn thần này lá dấu hiệu chác chắn thành đạt được đại nghiệp , hưởng phú quí lâu dài.
                  2 ¬ thần lộ
                  Ngược lại với Thần tàng thì gọi là Thần lộ . Lộ ở đây không những tròng mắt lồi ra để lộ cả tròng trắng mà ánh mắt cũng quá lộ liễu tựa như cọp nhìn con mồi chằmchằm , ánh mắt sáng rực tựa bao nhiêu tinh anh của con người đều theo ánh mắt mà tiết ra ngoài . Đó là đều đã được Nguyễn Du tả qua hai câu thơ trong Đoạn Trường
                  Tân Thanh :
                  Tinh anh phát tiết ra ngoài Ngàn thu bạch mệnh một đời tài hoa
                  Dưới nhãn quang tướng học , thần lộ là kẻ tinh hoa phát tiết chủ về gin tham hình khắc , có may được quý hiển thì cũng chỉ được một quảng thời gian ngắn rồi lại lụi tàn . Số thọ cũng không được dài vì tinh hoa lộ thì thần mau kiệt mà thần là căn bản của thọ mạng .
                  3 ¬ Thần tĩnh
                  Thần tĩnh ở đây có nghĩa là mục quang sáng sủa tự nhiên hiền hòa không nôn nả , giống như mặt nước mùa thu , nhưng thoáng thấy rồi lại không thấy rõ , nhìn thật lâu lại thấy rõ. Nói một cách khác , thần tĩnh chính là lối gọi tinh thần thư thái nhàn hạ thì hiện qua ánh mắt . Người có loại thần tĩnh tâm tính nhân từ không hiểm độc , cuộc đời thanh nhàn , ít sóng gió .Đó là tướng học loại người thanh quí.
                  4 ¬ Thần cấp
                  Thần cấp là loại ánh mắt phát sáng phát động không ngừng giống như một hỏa diệm sơn phun lửa liên miên .Đó chính là loại mục quang của loại mắt jhỉ , trông thoáng qua là nhận ra ngay tính tình nóng nảy , khích động . Nếu ngôn ngữ , đi đứng , ăn nói đều có dáng vẻ gấp gáp thì kẻ đó sớm phát đạt nhưng cũng mau tàn.
                  5 ¬ Thần uy
                  Khuôn mặt lúc mở lúc , khi thu nhỏ , mục quang có oai lực tự nhiên khiến người khác nhìn vào cảm thấy kiên nể . Loại nhãn thần này là dấu hiệu của hạng người làm nên sự nghiệp phi thường . Chẳng hạn như cặp mắt của nhà độc tài Đức quốc xã A.Hitler, khi nhìn ai cũng như chế ngự kẻ đó khiến kẻ đối diện chỉ biết cúi đầu khuất
                  phục.
                  6 ¬ Thần hôn
                  Đó là loại mục quang mờ mịt , ánh sáng yếu ớt gần như không có , đại khái như mắt heo , mắt cá ( xem phần nói về các loại mắt điển hình trong tướng học ) Loại mắt này tượng trưng cho cá tính ươn hèn suốt đời không làm nên chuyện gì thường chết yểu.
                  7 ¬ Thần hoà
                  Loại mục quang này phần nào giống như loại thần tĩnh nhưng khác ở chỗ thầ tĩnh chỉ về sự ổn cố thanh thản còn thần hoà là ánh mắt chẳng những hiền dịu thường xuyên mà khuôn mặt sắc thái lúc nào cũng tươi vui lạc quan , dù lúc giận dữ cũngkhông mất vẻ từ ái ,chẳbng hạn cặp mắt của bức tranh ông Thọ của người Trung Hoa hay Phật Di Lặc trong các chùa chiền .Về mặt cá tín . người có ánh mắt xếp vào loại thần hoà tâm tính lúc nào cũng hồn nhiên bất chấp ngoại cảnh , không bao giờ mưu tính hại người .Về mặt mạng vận . ít khi bị lâm vào cảnh nguy hiểm ngặt nghèo , không quý hiển thì cũng không bao giờ đói rách , khốn khổ .
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • 8 ¬ Thần kinh ( hay còn gọi là thần khiếp )
                    Mục quan lúc nào cũng hớt hải lấm lét như đại họa sắp tới dù rằng thực tế không có gì đáng sợ . Đó là tình trạng của ke có tâm hồn bất định , ăn uống , nằm ngồi lúc nào cũng có vẻ bồn chồn , hốt hoảng bất an . Kẻ có mục quang như thế , công danh sự nghiệp hoặc thọ số không được bền lâu , thường nửa đường gãy đổ.
                    9 ¬ Thần túy
                    Ánh mắt hôn mê , lúc nào cũng như người ngái ngủ ( xem lại Túy nhãn trong chương nói về mắt ).Loại người có mục quang này tâm tính hồ đồ , thiếu sáng suốt , thường dễ bị ngộ độc ( ẩm thực , sắc dục ...) mà chết hoặc tiêu tan danh vọng sự nghiệp.
                    10 ¬ Thần thoát
                    Ánh mắt thất thần , sắc mặt thẫn thờ . Đó là trường hợp thường thấy ở những người gặp lúcn kinh hoàng tột độ thì mặt thộn ra , chân tay cứng đờ tựa như lúc thấy ma. Nếu chỉ xảy ra trong trường hợp bất thường quá đột ngột thì đó la dấu hiệu của tin thần yếy đuối bạc nhược , không tự chủ được . Nhưng nếu không vì sự kinh hoảng mà bỗng nhiên mục quang thất thần thì lại là dấu hiệu tinh lực khô kiệt báo hiệu thọ số sắp đứt đoạn.
                    d) Phân biệt vài đặc thái của nhãn thần
                    Như trên đã nói , trong khi quan sát thần người ta nghĩ ngay đến tinh hoa của con người phát hiện ra trong nhiều lãnh vữc và dưới nhiều hình thái nhưng chủ yếu vẫn là ở cặp mắt . Nói đến mắt ta không nên chú trọng nhiều lắm tới hình thể của nó ( lớn nhỏ , nông sâu , dài ngắn , rộng hẹp ...) ,à phải để ý đến mục quang . Chính mục quang mới gíup ta nhận định va phân biệt được nhãn thần . Mục quang nói chung có thể ở vào một trong hai trường hơp chính.
                    1 ¬ Phù quang
                    Đây là loại ánh mắt có vẻ sáng nổi , hời hợt , người tinh mắt có thể bằng trực giác nhận ra rằng ánh mắt tuy có vẻ sáng tỏ mà thực ra là không có thần tựa hồ như mặt trăng phản chiếu lại ánh sáng thái dương hoặc như chất lân tinh được sơn phết vào các tấm bảng chỉ đường ban đêm sáng rực khi có ánh đèn xe rọi tới.
                    2 ¬Chân quang :Ngược lại với phù quang là chân quang.Đây là loại sáng thực có sinh khí nên
                    ánh mắt linh họat nhìn vào là thấy sống động như ánh thái dương vậy.
                    Trong phép quan sát thần để định quý tiện hiền ngu , chỉ có chân quang mới đáng được lưu ý còn phù quang phải gạt bỏ, vì phù quang là ánh sáng muợn hay quá yếu ớt không đủ để kết luận rằn có thần nênkhông hể dựa vào đó mà biết được hiền ngu quý tiện. Vả lại ,phù quang còn có ý nghĩa là kẻ đò sắp chết trong tương lai rất gần. Kẻ như thế còn gì đáng bàn đến .
                    Chân quang được chia thành bốn loại tùy theo tính chất đặc tính của mục
                    quang như sau :
                    a) Thủ chân ( ánh sáng thực và giữ lại được) :
                    Tròng mắt như vì sao sáng ,không dao động mà tự phát quang ,, lúc tĩnh thì ngưng tụ, lúc động thì bừng sáng,khiến người ngoài không dám nhìn thẳng vào mắt mình.
                    b) Người có thủ chân quang tính tình trung thực ,lương hảo danh vang thiên hạ, dù gặp nguy hiểm cũng vẫn vượt qua được.
                    c) Hàm chân ( ánh sáng thực nhưng ẩn tàng vào mắt) :ánh mắt tự phát quang giống như ánh sáng của viên ngọc quý ,nhìn kĩ mới thấy vẻ sáng ,khiến người ta cảm thấy dễ chịu, tự trong thâm tâm nảy sinh cảm giác hân hoan.
                    Rộng ra khi ta nhìn thấy cây cỏ suới nước xinh tươi mà thấy ấm lòng vui mắt thì cái vẻ sáng của cảnh vật là tinh hoa của núi sông .Cái đó mệnh danh là hàm quang.
                    Người có thần mắt thuộc loại hàm chân thì đỗ đạt sớm ,lưu lại tiếng thơm cho đời.
                    d) Tàng chân : .(sáng thực nhưng lhông lộ liễu) ánh mắt sáng mờ mờ ,mới nhìn thì như không đủ mà nhìn lâu lại có vẻ dư.Kẻ có tàng chân mạng vận vinh hiển ,sự sang cả lưu tới đời sau nhưng phát đạt muộn.
                    e) Hồi chân ( sáng thực mà như sẵn sàng tuôn ra bình thường rất khó nhìn ,muốn thấy phải mở mắt thật to, lúc đó mới thấy rõ vẻ sáng .loại chân quang này thường xuất hiện trong ánh mắt những người cận thị,.Nó có thể tụ hay có thể tán ,hay lệch,có thể êm đềm nưh ánh trăng rằm ,cũng có thể như ánh sao nhấp nháy,Loại chân này nên có vẻ sáng ngấm ngầm và hơi đen ám thì mới quý.
                    Cái quý của loại mắt có chân quang này khác hẳn với ba loại trên ,tốt xấu từng trường hợp .Những kẻ kì hình dị tuớng thành đạt đều thuộc loại này.
                    Tóm lại, có chân quang dù nhiều hay ít là tướng của kẻ mưu sự dễ thành ,cầu công danh sẽ đạt.Đại khái, chỉ rất về mặt Thần Khí mà đoán kẻ có mục quang thuộc loại tàng chân hậu vận phát triển tốt đẹp, sự nghiệp chắc chắn viên mãn nhưng không thoát khỏi cảnh thiếu thời bị sóng gió ,bị vấp váp rất nhiều trong cuộc đời, không được sống thanh thản bình dị như kẻ thuộc loại thủ chân và hàm chân .Phàm người ta dù các bộ vị có bị khuyết hãm ,cốt cách có vài điểm bị xếp vào loại hạ cách mà ánh mắt lúc nào cũng có chân quang bất kể lúc nào thì cũng giống như rồng thiêng lân quý ,tuy ở nơi đầm hẹp rừng tưha coi như đủ để hóa giải những khuyết điểm của hình thể và có thể đạt được phú quý vượt ra ngoài dự liệu thường tình .Đây chính là một trong nhiều bí quyết của tướng học á Đông và thuộc về nguyên lí trọc trung hữ thanh .Sách vở bàn về tướng thuật đầy rẫy các giai đoạn liên quan tới điểm tế nhị này.
                    f) Những điều kiện tối hảo của nhãn thần
                    Nói đến nhãn thần ta không cần chú ý tới hìng dạng của mắt mà phải đặc biệt lưu ý đến mục quang .Mục quang được xem là tối hảo khi nó hội đủ 7 điều kiện sau đây :
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • 1- Tàng nhi bất hối :
                      Nghĩa là nhãn thần phải có vẻ che khuất đi được, nhưng mục quang không được tối ám.Nói một cách khác rộng rãi hôn là mục quang tuy sáng nhưng là một tứh ánh sáng có vẻ hàm xúc, động trong cái tĩnh, tương tự như vẻ sáng của một viên ngọc báu tự nó có thể phát quang nhưng không rực rỡ, lộ liễu phải quan sát thật lâu mới phát hiện được .Còn hối là mắt lờ đờ như mắt ngáy nhủ.
                      2- An nhi bất ngu :
                      Mục quang ổn định nhưng không trơ trẽn bất động,Từ ngữ ổn định tự nó đã ngầm chứa tính cáhc sống động nhưng là cái vẻ sống động linh hoạt chứ không phả ial2 giao động "trơ trẽn bất động" có nghĩa là mục quang im lìm (inertie) không biểu lộ được đầy đủ sinh khí cần thiết ,không biến thông được .
                      Nói cách khác đi ,nhãn thần sung túc thì tự nó có vẻ sáng như một ngọn đèn điện dược thắp bằng dòng nhân điện xoay chiều có thể thu rút lại cường độ trong một giới hạn nào đó. Chẳng hạnnhư khi đàm thoại ,ánh mắt ta tuy không dao động nhưng lúc thích túh và khi cụt hứng độ sáng của mắt phải có nhịp độ chuyển biến thích nghi đủ để diễn tả được cái trạng thái tình cảm nội tâm của ta lúc đó. Trái lại, mục quang của một cá nhân lúc nào cũng cùng một cường độ dù nghe câu chuyện rẻ nhạt hay giật gân mà vẫn không có gì thay đổi thì không có thể coi là an nhi bất ngu được .Lúc đó ,mục quang của kẻ đó phải được gọi là an nhi ngu .
                      3- Phát nhi bất lộ :
                      Mục quang được coi là phát khi tia mắt như xạ ánh sánh ra ngoài nhưng mức độ phát quang của nó vừa phải, không quá mạnh mẽ rõ ràng ,chỉ người quan sát thật tinh tuờng mới phát hiện ra được. Nói khác đi ,mục quang như viên ngọc sáng giữa ban ngày, tuy phát quang nhưng ánh sáng rất mờ so với ánh sáng thái dương chứ không phải là một ngọn đuốc để bất cứ ai cũng thấy được dễ dàng.
                      Từ ngữ lộ có nghĩa là tròng mắt lồi ra như nhìn trừng trừng vào đối tượng quan sát , lộ cả tròng trắng .Đại để lúc mèo rình chuột, cọp chuẩn bị vồ mồi, nhìn chằm chằm vào con mồi thì lúc đó mục quang gọi là lộ.
                      4- Thanh nhi bất khô:
                      Điều kiện ày đặt nặng vào việc quan sát cấu tạo của mắt về phương diện phẩm chất. Thanh có nghĩa là lòng đen ,lòng trắng cũng như đồng tử phải trong trẻo nghĩa là ranh giới ba phần đó phải phân biệt rõ ràng ,chất liệu cấu tạo phải thuần khiếtkhông được có các tia máu ,màng mắt xen lẫn vào , một khi có tất cả chất liệu cấu tạo đều thuần khiết thì nhìn vào mắt người ta có cảm giác như nhìn vào một hồ nướv sâu thẳm ,trong trẻo như các tiểu thuyết gia vẫn thường mô tả :mắt trong sáng như nước hồ về mùa thu .Đấy chính là điều tuớng học gọi là thanh vậy. Cònkhô có nghĩa là cằn cõi ,không có vẻ sống động hiện lên ở bề mặt .Mắt htanh mà khô có nghĩa là nhãn thần lạnh lẽo suy nhược ,không được kiên cố. Để dễ hiểu hơn,xin lấy 1 ví dụ cụ thể : thanh nhi bất khô ví như cây tùng ,bách về mùa đông , cốt cách thanh nhã và nhìn vỏ cây cành là vẫn có vẻ xanh tươi biểu hiện một sức s61ng tiềm ẩn bên trong. Gược lại, thanh nhi khô ví như thân cây lau sậy về mùa đông, cành lá trơ trọi, cằn cõi ,nhìn kĩ có htể biết ngay là thân cây hết nhựa ,chỉ còn hình mà mất hết chất.
                      5- Hòa nhi bất nhược
                      âm dịu nhưng không mềm yếu. Nói rộng ra mục quang được coi là Hòa nhi bất nhược khi ánh mắt sáng một vẻ êm dịu nhưng không mềm yếu, khả ái chứ không phải khả hiếp khiến nguời khác nhìn thấy có cảm tưởng một niềm vui thích muốn tiếp xúc với ta chứ không dám khinh mạn vì trong sự hóa ái đó ẩn tàng mo65t sức mạnh khiến kẻ đối diện phải nể phục trong lòng.chẳng hạn mắt các tượng Phật trong chùa ,tuy ánh mắt từ bi bác ái nhưng vẫn không nhu nhuợc ủy mị.
                      6- Nô nhi bất tranh :
                      Lúc giận không lộ vẻ cạnh tranh ,oán tức thì gọi là nô nhi bất tranh .Tuy nhiên ,trong ý nghĩa của tướng học , ý nghĩa câu trên phong phú hơn nhiều .Nộ phải được coi là chính khí vì khi giận dữ phát xuất ra bởi một lí do thực sực chính đáng nhưng mặt không biến sắc ,chỉ hơi cau mày, ánh mắt nghiêm nghị biểu lộ một tâm hồn ày công hàm duỡng luôn luôn giữ được bình tĩnh .Có đủ các đặc tính kể trên thì mới gọi là nộ.
                      Còn giận mà mắt đờ ra ,mắt xạm lại ,tia mắt như tóe lửa ,nưh muốn ăn tươi nuốt sống người khác là dấu hiệu bề ngoài của kẻ khôngcó đức tính trầm tĩnh, mất tự chủ gọi là tranh .Chính vì tranh bao gồm những phản ứng có ẩn ý ăn thua đủ ,chỉ biết thỏa mãn tự ái nhất thời không nghĩ đến hậu quả về sau ,nên tranh bị xếp vào loại khí luợng hẹp hòi, biểu thị khí phách nhỏ mọn ,do đó tranh bị coi là tà khí.
                      7- Cương nhi bất cô:
                      Nghĩa đen là cứng ,mạnh mà không lẻ loi ,nhưng ý nghĩa chính yếu ở đây chỉ loại mục quang tỏa ra ánh sáng hồn nhiên oai nghi khiến kẻ khác nhìn vào phải vị nể tưởng như sau con người của ta là cả một khối đông đảo sức mạnh vô hình chứ khôngphải chỉ là một cá nâhn đơn chiếc.
                      III-MỘT VÀI GIAI THOẠI :
                      Đời Minh, vĩnh lạc hoàng đế thường nghiên cứu tướng học với một nàh tướng học nổi tiếng là Viên Liễu Trang (tác giả bộ sách Liễu Trang tướng pháp hiện còn truyền rộng rãi) . Một hôm, trong lúc đàm đạo về Hình, Tướng con người , nhà vua nêu lên thắc mắc với nhà tướng học họ Liễu như sau :

                      "Trẫm thấy sách tướng nói rằng :hình hài khuyết lãm thì bần hàn Ngũ quan toàn hảo thì thông minh quý hiển. Thế thì tại sao trong triều có người làm đến thượng thư mà diện mạo lại cực kì xấu ? Lại thấy trên đời không thiếu gì những kẻ Ngũ quan tuyệt mĩ mà lại chết non ,hay mặt mày đẹp đẽ mà ngu độn ,số mạng không ra gì ?"
                      Liễu Trang đáp :" Người diện mạo xấu xí mà lại quý hiển là vì mục quang có thần :đi vững vàng như thuyền lớn ,không nghiêng ngả ,ngồi ổn trọng như là núi non đó là tướng đi ,đứng, nằm ,ngồi uy nghi có thần .Ngũ quan tuyệt mĩ mà chết non là vì mục quan hôn quyện ,thất thần :mắt mày xinh đẹp nhưng đó chỉ là bề ngoài còn ở trong thì khí trệ, thần hôn làm sao mà thông tuệ được.cho nên, bàn về quý hiển ,chỉ dựa vào hình àhi không đủ, mà còn phải lấy thần ,khí làm gốc."

                      Nhãn quang (hay mục quang cũng vậy ) con người do trời phu cho không phải muốn là được. Nhãn quang chẳng những biểu lộ ca ù tính mà còn có ảnh hưởng sâu xa tới mạng vận tử sinh của con ngừoi nữa.
                      Cách đây vài chục năm ,trước khi Nhật chiế mHương Cảng ,Aùo môn, tạo Aùo môn có một người chuyên làm nghề chài lưới là Trần Gia Câu .câu ỷ mình có thyuền buồm loại lớn nên thường ra tậ nđại dương câu cá vài ngày mới trở về ,số thu hoạch không thua gì các tàu đánh cá có động cơ .Trên tàu ,ngoài số ngư phủ có nuôi thêm một con khỉ rất khôn, để sớm hôm bầu bạn ,còn vợ con để lại Áo môn .
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • Một bữa kia ,vì số ngư phủ lành nghề bỏ đi gầ nhết ,Gia câu phải đi cùng khắp áo môn để mướn thợ mới, tình cờ gặp người quen cũ là Dương Chiếu Thản ,vốn người đồng hương ,bèn cùng nhau rủ vào quán ăn nhậu để phỉ tình tha hương ngộ cố tri .Họ Dương là kẻ vốn nòi thư hương ,lại rành nghề xem tướng ,nên trong lúc đôi bạn đàm đạo ,dương thấy sắc mặt của Gia câu chỗ thì xanh như tàu lá dừa ,chỗ thì xạm như tro tàn ,không nén được kinh di nên mới bảo rằng : " Này bạn ,tôi xem tướng thấy anh diện mạo khí sắc rất xấu ,chỉ khỏang ba tháng đổ lai tôi e rằng anh sẽ gặp tai họa rất xấu .Vậy trong thời gian ày anh không nên liều lĩnh ra khơi ,hãy chịu khó hi sinh bớt chúc lợi tức mướn thợ lưới cá về quản chủ thuyền thì may mới thoát nạn".
                        Gia Câu nghe xong ,nét mặt nhăn nhó nói :"Gần đây số tuh hoạch quá kém ,số thợ cũ bỏ đi .Baygiờ phần đông là thợ mới ,kinh nghiệm chưa có nếu không có người rành nghề biết hướng cá đi thì tổn thất quá nặng sợ kham không nổi".
                        Dương Chiếu Thản suy nghĩ hồi lâu ,xem kĩ tướng mạo của bạn rồi nói :" khí sắc của anh thật xấu nhưng may ánh mắt có thủ chân quang tức là thủ thầ nên có hi vọng thoát hiểm".
                        Câu nghe xong thắc mắc :" Xấu tốt là do khí sắc ,tại sao tướng khí tốt lại có thể cứu vãn được hoạn nạn?"
                        Dương đáp : " Tướng cách tốt thì số thọ chưa thật sự dứt ,trong thời gian đó nếu chẳng may gặp nạn thì chỉ bị kinh hiểm chứ không đến nỗi tuyệt mạng .tỷ như khí sắc trên mặt ảm đạm nhưng mắt có thầ nquang an tĩnh không bị giao động theo cùng với sắc mặt thì tuy tai họa đột nhiên xảy tới cũng vẫn vượt qua được :
                        Thấy Gia Câu quyết ý vì sinh k6é mà phải mạo hiểm ra khơi lần ày ,Dương nói tiếp : " Nếu như trong mấy tháng tới anh có gặp nạn mà thoát khỏi về sau đời anh sẽ có dịp phát đạt lớn. Theo tôi tốt hơn hết al2 không nên mạo hiểm ,nhưng nếu anh đã quyết tiếp tục ra khơi lâu ngày thì tôi hi vọng nhờ mắt anh báo hiệu là anh có thủ thần là sẽ hóa dữ ra lành. ".Nói xong đôi bạn chia tay.
                        Sau đó ,gia câu tụ tập đủ tay thợ quyết chí ra khơi ,và lần này đi rất xa bờ, hi vọng đánh được nhiều cá để gỡ lại các tổn thất trong thời gian trước. Ba tháng sau ngày giã biệt họ Dương, Câu ra khơi vẫn chưa trở lại , Dương cho là Câu đã gởi thân nơi miệng cá mất rồi ,trong lòng vô cùng thương tiếc. Nhưng khỏang bốn tháng, sau khi rời bến , Gia Câu đột nhiên xuất hiện tìm Dương Chiếu Thản cám ơn và ca tụng tướng pháp của Dương thật là vô cùng linh nghiệm.
                        Thực vậy, sau khi từ biệt bạn ,Gia câu ra khơi ròng rả 3 ngày đêm mới tới một nơi có nhiều cá để bổ lưới. Bất ngờ ,đúng lúc đó có cuồng phong nổi lên mà không có dấu hiệu gì ab1o trước nên mọi người bất phòng .Vì vậy , thuyền bị sóng gió làm bể nát. Gia Câu nhờ nhiều kinh nghiệm và bình tĩnh bám vào được một mảnh thuyền vỡ mà vô tình con khỉ khôn ngoan đã bám chặt vào đó hồi nào không rõ. Cả người lẫn vật bị sóng gió giạt vào một hoang đảo có rất nhiều ngọc trai .Lên đến bờ,
                        Câu vừa đói vừa mệt lả nên ngất đi ,một lúc tỉnh lại thấy con khỉ thân yêu đã ngồi vào cạnh với vài trái cây hoang dại. Nhờ vậy Gia câu có thực phẩm qua ngày. Từ đó. Câu khám phá ra đảo có ngọc trai nên tích luỹ được rất nhiều nhưng vô phương trở lại quê nhà chỉ còn hi vọng mỏng manh là ngày ngày dắt khỉ lên chỗ cao nấht của đảo nhìn ra khơi mong có thuyền bè qua lại để năn nỉ quá giang.
                        Một ngày kia, Câu và tên tiểu đồng khác giống đó đã mòn mỏ itrong việc quan sát ,sắp trở về chỗ tạm trú vì trời sắp tối thì bỗng nhiên gió tây bắc thổi mạnh ,một vật đen hiện lên ở chân trời rồi rõ dần trên mặt biển đang dao động ,Câu chú ý nhìn kĩ thì thấy đó là một chiếc thuyền câu có lẽ bĩ gãy mất bánh lái nên trôi nổi theo dòng nước ,lòng rộn ràng hi vọng và cầu ch othuyền giạt vào đảo.Quả nhiên đúng nưh vậy ,một lúc sau thuyền trôi đến gần đảo thì bị mắc cạn trên bãi cát. Gia Câu mừng quýnh, đứng lên chỗ cao lớn tiếng gọi người trong thuyền nghe tiếng thấy làm kì dị bèn rước Câu xuống thyuền .Sau khi đôi bên gạn hỏi, gia Câu mới biết đó là thuỵền đánh cá thuộc hệ thống gư phủ Aùo môn vì ra khơi quá xa bị gió lớn làm gãy bánh lái ,thổi tạt đến hoang đảo nàt ,Câu cũng bày tỏ nguồn gốc mình cho hay. Thế là cả bọn nhận nhau là người cùng xứ ,hợp tác cùng nhau sửa sang lại con thuyền bị hư hỏng rồi trở về áo môn với túi ngọc trai và con khỉ cứu tử.
                        Về nơi cư trú, Câu ban số ngọc trai tuh hoạch được trên đảo ,một phần nhỏ đền công cho chủ thuyền chở mình về xứ, còn bao nhiêu tậu đất xây nhà ,tao nên cơ nghiệp của một phú ông và bỏ hẳn nghề cũ.
                        Thời vua Thế Khải xưng đế ở Trung Hoa phản lại lời giao kết cách đây 40 năm nên gây ra cảnh nội chiến ,có một quân nhân cao cấp của chính quyền miền bắc là tứơng Lưu Hồng Tiêu tạo phản với ý định tranh bá đồ vương ,nhưng việc không thành, tài sản tiền bạc tiêu tan ,thân thể thương tích .Sau đó ,Lưu đế ncoi tướng thuật gia Liêu Trụ Thạch cho biết :tướng cách của ông do có thủ thần nên bị tai nạn mà không chết. Nhân vì mắt ông tròng đen nhiều ,lòng tắng ít lại thuần khiết phân minh mục quang sáng mà không lộ liễu, tĩnh thì an toàn khả ái, động tìh sáng rực có uy nên chung cuộc ắt là có phúc lộc rõ ràng. Hiện tại ông nên chuyển sang nông nghiệp bỏ võ thì có cơ đại phát tài.
                        Lưu Hồng Tiêu nghe lới ,trở về quê cũ ,tậu được vài chục mẫu ruộng trồng mía.Thực hành câu giải đáp uy điền. Quả nhiên vài năm sau đại phát và trở thành cự phú.
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment


                        • KHÍ
                          1/Thử phác hoạ ý niệm khí:
                          So với phần Thần ,ý niệm khí trong trong tướng học á Đông cò khó miêu tả hơn nhiều vì nó vừa có tính cách mông lung vừa có tính cách thực tiễn. Chẳng hạn khi quan sát xương cốt của một cá nhân ,ta thấy khí thế ổn trọng, dù người đó mập hay ốm, tạo một cảm giác khang kiện cho nội tạng. Hiện tượng đó được gọi là cốt khí mạnh mẽ .Nhìn vào khuôn mặt có ngũ nhạc triều quy nghĩa là trán, cằm, hia tai và lưỡng quyền phối trí hòa hợp (harmonieux) từ đó giúp ta suy ra cốt cách * của cá nhân đó mạnh hay yếu thì đấy cũng gọi là cốt khí.
                          Quan sát lông mày ,râu tóc ta thấy ba thứ lông đó đều tươi mát ,thanh nhân tạo ra ấn tượng ,nội tạng tốt ,nhìn Tứ đậu sáng sủa có sinh khí ,da thịt rắn chắc và ấm áp thì tất cả các dấu hiệu được coi là biểu hiện của khí tốt . Ngược lại ,lông mày ,râu tóc
                          vàng khô như cỏ úa ,Tứ đậu ảm đạm , da thịt lãnh lẽo mềm bệu thì ta biết ngay là khí xấu, điều đó cũng tương tự như người quan sát chất đất ,không cần phân tích chất đất chỉ cần nhìn cây cỏ mọc trên mặt đất là đủ biết đất phì nhiêu hay khô cằn.
                          Nghe tiếng nói của một cá nhân ta nhận biết được làn hơi của kẻ đó mạnh hay yếu qua âm thanh phát ra :có người nói tiếng rổn rảng mạnh mẽ tựa như muốn rung chuyển cả mái ngói, có kẻ rì rào như tiếng dế kêu và ta cũng thấy rằng tiếng nói to nhỏ mạnh yếu , vang đi xa ahy gần không hẳn tùy thuộc vào người tác lớn hay nhỏ, cao hay thấp mà do những nguyên do nội tạng .Nghuyên do nội tạng đặc thù của từngcon người tạo ra các trang thái âm thanh kể trên được tướng học Á Đông gọi là
                          nội khí của con người.
                          Như vậy ,khí trong nhân tướng học là phần thực tại nhưng vô hình ở trong cơ thể con người tượng trưng cho phần hoạt lực (vitaliré) tiềm ẩn có tính cách phẩm nhiều hơn lượng, phát hiện ra ngoài sự mạnh mẽ của xương cốt , sự thanh tú hay thô
                          trọc của râu, tóc, lông mày ,mắt mũi tai ,miệng, sự mạnh yếu của âm thanh ,sự rắn rỏi ấm áo hay lạnnh lẽo mềm bệu của da thịt.
                          Nói cách khác cụ thể hơn , khí trong con người có thể ví như nhựa cây nhưng đây là một thứ nhựa vô hình chu lưu bàng bạc khắp cơ thể toả ra hay thu gọn lại, mạnh mẽ hay suy yếu, thanh hay trọc ,tiến triển hay giảm thiểu tùy theo từng thời kì
                          từng cá nhân.
                          Vì hiểu vậy, người xưa co i khí là phần bản thể trong các bộ phận trong nội thể con ngườ ,nó vừa có tính cách siêu hình vừa có tính cách vật thể .
                          Với tính cách siêu hình , khí trong con người là một phần khí của âm Dương Ngũ hành bàng bạc trong vũ trụ hội nhập vào con người ,lúc thọ tinh kết thể ,nương vào con mà hình thành nên tượng, khiến cho ta có thể cảm thấy hay nhận thức được. Chẳng hạn khi Mạnh Tử nói : "Thiên dưỡng nhiên hao chi khí " ( ta cần phải khéo bồi dưỡng cái khí hạo nhiên của mình ),thì khí trong câu nói trên là khí tự nhiên của trời đất thể hiện nơi người ,không mấy liên hệ tới ý nghĩa vật thể mà lại nặng về phần
                          tiên nhiên siêu hình.
                          Với tính cách vật thể , khí phần nào được cụ thể hóa bằng hơi của buồng phổi ,tinh khí của con người. Aâm thanh hùng tráng trong trẻo ,khàn đục không llà do buồng phổi lớn hay nhỏ, người lớn các hay nhỏ con ,tính khí mạnh yếu khôngphải do người bề ngoài lớn hay nhỏ thó.Nguyên động lực của các âm thanh tinh khí ,theo người xưa là do khí mà ra. Bởi vậy ,hình thể khôi ngô ,hùng vĩ khỏe mạnh không hẳn là đã chứa đựng khí hùng mạnh .Ngược lại ,dưới nhãn quang tướng học á Đông, thân thể nhỏ bé không bắt buộc coi là khí yếu .
                          Tóm lại, khí trong nhân tướng học Á Đông là một ý niệm đặc thù dùng để chỉ cái bản thể siêu nhiên vô hình ,ta không thể dùng thị giác để nhận biết trực tiếp ,nhưng có thể nhận thức được sự hiện diện của nó nơi con người qua các tác dụng của nó hay dưới khía cạnh cấu tạo cơ thể như sự cứng cáp đắc thế hay lệch lạc của xương cốt ,sự mạng yếu của âm thanh hay dưới khía cạnh động tác này , khí luôn luôn không thể tách khỏi thần và cho ta biết được sự kiện khang của thân thể, cái cá tính
                          tâm hồn của con ngưòi nên thường được các tướng học gia mệnh danh là thần khí để phân biệt với hiện tượng khí đi kèm sắc để đoán cát hung, bệnh trạng (được gồm chung thành ỳ ngữ duy nhất là khí sắc). Đó là ý nghĩa của khí khi người ta nói đến sát khí , uất khí , khí phách, khí chất
                          II- VAI TRÒ CỦA ÂM THANH TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU KHÍ:
                          Như đã nói ở trên , khí trong con ngừơi biểu lộ ra ngoài dưới nhiều hkía cạnh, trong nhiều dạng thức, nhưng dễ nhận định nhầt và rộng rãi nhất là là dạng thức âm thanh. Nghe âm thanh của một cá nhân phát ra to nhỏ ,rõ ràng hay không rõ ràngg ,trong trẻo hay khàn đục, cao ahy thấp ,có sinh lực hay không ,người có cặp tay minh mẫn thường phân biệt được rất rõ.Những tính chất về phẩm âm thanh nói trên, không tùy thuộc vào lồng ngực lớn hay nhỏ ,người mập hay gầy , cao hay thấp mà do ở cách
                          cấu tạo nội tại tự nhiên(naturiel) của kẻ đó. Nói khác đi ,Những điễm đó do ở khí chân nguyên của mỗi cá nhân có tìm cách thiên phú ,bẩm sinh, không phải muốn có là được .Bởi nhận định như vậy, nên cổ nhân cho rằng muốn biết khí chân của người nào mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,dài hay ngắn ,ta chỉ cần xét âm là đủ...dưới nhãn quang y lí Đông phương ,khí chân nguyên mới là thọ căn (gốc thọ) của con người chứ không phải là hình hài, bộ vị .Cho nên ,Đạt ma đã nói :" Cầu toàn tại âm thanh" và người xưa nói :" Tướng pháp thượng thừa chủ ở âm thanh, hạ đẳng tướng cấp căn cứ vào hình htể con người " là vậy .
                          III- PHÂN LOẠI KHÍ :
                          Ta phân biệt Ba loại Khí :
                          a) Khí tự nhiên (chân nguyên)
                          Đó là phần tinh lực vô hình ,một thứ nhựa sống tiềm ẩn của con người có tính cách bẩm sinh. Nói cách khác đi , khí tự nhiên có tính cách tiên nhiên tùy theo lúc bẩm sinh, thanh trọc, cường nhược mà nó có thể mạnh hay yếu thanh trọc theo từng nội tạng của mỗi người.
                          b) Khí hàm dưỡng (hay tu dưỡng)
                          Đó là khí tiên thiên đã được gọt giũa sửa chữa theo chiều hướng cải thiện.
                          Dưới mắt cổ nhân, khí tiên nhiên không bất di bất dịch ,mà lại không thể chuyển biến được một phần nào. Một khi con người ý chí mạnh ý thức được sự kém cỏi tiên nhiên của thể chất thì có thể tu dưỡng để chế ngự bớt sự thô trọc hay ngăn chặn phần thô trọc và phát huy thêm phần thanh khiết, bồi bổ khí lực để ngày thêm tráng kiện.Loại khí đã được cải biến nhờ sức của con người được mệnh danh là khí hàm dưỡng .Chẳng hạn , làn hơi không được mạnh ta có thể tập cho bớt yếu ,tiếng nói quá nhanh và vấp váp ta có thể cố gắng luyện tập để nói thông thả ,gân xương lệch lạc yếu đuối có thể kiên nhẫn huấn luyện để sữa chữa phần nào .Dấu hiệu bên ngoài củ loại khí hàm dưỡng là thần khí an hòa ,tự tin ,nội tâm không bị giao động mạnh vì các biến cố bên ngoài, thanh âm ổ trạng, từ tốn. Về phép đoán tướng ,khí chất hàm dưỡng được xem là chính khí ,người luyện được chính khí là kẻ trượng phu quân tử .
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment


                          • c) Khí sở tập :
                            Khí chân nguyên tiên nhiên tốt đẹp ,khí đượcbảo trì mà buông thả khiến phần hùng kiện ,cao khiết bị tiêu ma, phần ô trọc xấu xa được dịp tăng trưởng thì gọi là Khí sở tập .Nói khác đi, có giọng nói trong trẻo ban đầu mà không gìn giữ ,trác tán ăn chơi khiến cho giọng khàn nhỏ ,xương cốt mạnh mẽ trở thành cằn cỗi suy nhợc, v.v...đều bị xếp vào loại khí sở tập. Dấu hiệu bề ngoài của khí sở tập là cư xử thô bạo , giọng nói hấp tấp buông thả .Cũng bởi loại Khí này do ngoại cảnh xấu tạo nên làm che mờ bảb chất tốt đẹp nguyên thủy hay không chịu cái tiến phần khuyết điểm của bản chất nguyên thủy cho tốt đẹp hơn ,nên bị xếp vàp loại tà khí ,tượng trưng cho hạng tiểu nhân ,tâm tính hạ tiện.
                            IV- TƯƠNG QUAN GIỮA KHÍ VÀ SẮC :
                            Khí là chất nhựa sống chu lưu trong nội tạng và phối hợp khi Aâm Dương của vũ trụ nên mắt nhìn không thấy. Bởi người ta không thể đi thẳng vào nội tạng để tìm hiểu khí mà phải quan sát gián tiếp nó qua các biểu lộ ngoại diện. Nhìn dưới nhãn quang tĩnh mà đặt nặng khía cạnh cấu tạo ta thấy giữa sắc và khí liên quan mật thiết không thể tách rời. Về đặc điểm này hầu hết đều đồng ý ở điểm sau đây:
                            "Khi ở trong da thịt ,xương tủy chưa biết được điều đó rõ ràng thì gọi là khí
                            .Khi đã định rõ được vị trí ,xét được trạng thái qua việc quan sát làn da thì gọi là sắc . Sắc và khí như vậy, bất khả phân."
                            Như thế ,ta thấy rõ ,dưới nhãn quang tướng học, sắc là phần ngoại biểu của khí khi quan sát bằng thị giác .Quan sát bằng thị giác dễ dàng hơn là vậy ,phần khí sắc( hiểu theo nghĩa quan sát khí sắc ) được trước tác rất nhiều và dành cho đại chúng.Thoạt kì thủy ,việc quan sát khí sắc chỉ có ý nghĩa giúp ta biết được kiện khang. Về sau ,từ các đời Tống, Nguyên người ta mới đề cập đền họa phúc ,may rỉu trong việc quan sát sắc.
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


                            • SẮC



                              I- Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG
                              Trong tướng học Á Đông từ ngữ sắc bao gồm nhiều lĩnh vực :
                              a) Màu da của từng cá nhân
                              Tướng học Á Đông là kết quả tích lũy thực tế của nhiều thế hệ ,chỉ áp dụng hco các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng ,có cơ thể và tầm vóc tương tự người Trung Hoa và cùng hcịu ảnh hưởng sâu đậm của phong tục và tập quán Trung Hoa như Cao Ly, Nhật bản ,Việt Nam.mà thôi .
                              Nói chung, ngưới Á Đông tuy là giống da vàng ,trong cái vàng tổng quát đó ,ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc hung đỏ như mặt Quan Công ,sắc hơi xanh mét như Đơn hùng Tín trong truyện cổ người Trung hoa.
                              Về mặt vị trí quan sát. Tuy nói tổng quát là làn da nhưng trong tướng học khi nói đến da mặt ,chỗ sắc dễ thấy nhất còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.
                              b) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hay thân thể:
                              Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau :
                              - Màu hòâøng ,màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay ,vành tai.
                              - Màu đen hay hung hung của râu tóc ,lông mày.
                              - Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu (ta thường gọi là đen) của tròng đen.
                              - Màu đỏ của các tia máu mắt. V.v...
                              c) Sự đậm lạt (tonalité) của từng loại màu
                              Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt ,làn môi ta thấy có môi hồng lạt ,hồng đậm ,hồng phương trắng :cùng một loại da trắng ,ta thấy có người trắng hồng ,trắng xanh trắng ngà. Tóm lại ,sự đậm lạt của màu cũng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.
                              d) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần
                              Cùng một màu hồng của môi, má nhưng ta thấy có người môi khô, môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô như vỏ cây hết nhựa.
                              Ngoài màu đơn thuần ,ta còn có những màu phức hôp do các màu đơn thuần hợp thành. Lĩnh vực của chúng ta cũng đồng một khuôn khổ như các lĩnh vực của các đơn sắc.
                              Sau hết ,trên khuôn mặt của 1 cá nhân, dù màu đơn thuần hay màu phức hợp , chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác hay về phẩm chất ,về độ đậm lạt ,về thành phần cấu tạo (đối với các màu phức tạp) qua thời gian. Chẳng hạn màu da trắng của một người sau 1 thời gian có thể biến thành hồng hay xanh xám :tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ ,cặp mằt trong xanh và làn môi tươi tắn có thể vì 1 lí do bệnh lí nào đó mà biến thành cặp mắt trắng dã lản môi đen sì.
                              Tóm lại, khi nói đến sắc trong tướng học là nói đến màu của các loại da, màu các bộ vị ,độ đậm lạt, phẩm chất ,sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của các màu con người từ khu vực này sang khu vực khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lĩnh vực nói trên, đi từ tổng quát đến chi tiết ,đơn giản đến phức tạp.Đôi khi quan sát bằng tịh giác chưa đủ còn phải vận dụng cả trực giác (intution) bén nhạy thiên phú nữa ,nhất là trong lĩnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.
                              II- CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC:
                              Nói đến sắc là nói đến màu ,nhưng ở đây nặng về phần màu da trên khuôn mặt Tướng học Á Đông phân ra 7 loại đơn sắc :
                              - Màu đỏ
                              - Màu hồng
                              - Màu tía
                              - Màu xanh
                              - Màu trắng
                              - Màu đen
                              - Màu vàng
                              Ba màu Đỏ Hồng Tía dược tướng học ngũ hành hóa thành hỏa sắc là màu chính thức cửa 3 tháng hè ,là màu da căn bản của người loại Hỏa trong phép phân loại Ngũ hành hình tướngø .
                              Màu xanh thuộc Mộc ,là màu sắc chính của 3 tháng mùa xuân, màu da căn bản của người hình Mộc.
                              Màu trắng thuộc Kim ,là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu ,là màu da căn bản của người hình kim.
                              Màu đen thuộc Thủy là màu sắc của mùa đông và là màu chíng của người hình thuỷ.
                              Sau cùng là vàng ,màu sắc tượng trưng ch oan lành quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.
                              a) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người:
                              Theo kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân ,người ta thấy bình thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có ý nghĩa riêng biệt như sau :
                              - Màu Xanh chỉ về lo lắng, kinh hiểm, tật ác ,trở ngại tiểu nhân nhục nhã
                              - Màu Đỏ chĩ khẩu thiệt thị phi ,quan tụng, tù ngục phá tài ,tật bệnh hung tai.
                              - Màu Đen chĩ thủy áhc. Hao phá, mất chức chết chóc.
                              - Màu Trắng chỉ hình khắc thiếu phục tật bệnh.
                              - Màu Hồng (đôi khi là Tía) chỉ các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi may mắn ngoài ý liệu.
                              - Màu Vàng chỉ vui vẻ tài lộc thăng tiến ,bình an may mắn.

                              Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, .Trong thực tế ,việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ chằng hcịt xa gần với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói "vui buồn
                              may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc.Sắc phân ra lớn nhỏ , dài ngắn ,cao thấp, rộng hẹp tùy thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt ,hay khô hay nhuận.Khởi nguyên của khí ở ngũ tạng ,sắc bắt nguồn từ khí ,ban ngày hiện ra ơ ngoài. Cái dụng của sắc còn tuỳ theo thi72i gian ,khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc, nhỏ như sợi lông con tằm ,dài như sợi lông ,ngắn như chiều dài hạttấm. Thế của sắc có tínhthịnh suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian ,khí hậu , Ngũ hành má quan sát. Trong các loại sắc ,sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác. Hay do nội tạng ,hỏa vượng mà mặt đỏ ,hay do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ ,hay do uất ức mà mặt đỏ .Chỉ đỏ sắc tự nhiên ,thiên bẩm hay vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thật là sắc đỏ của tướng học.Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đáon tật bệnh cát hung ,quan gia sự vận .
                              Nói tóm lại, biểu ý nghĩa đậc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng vào ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp (résui-tante) của nó :
                              - Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc.
                              - Tính cách thanh trọc của sắc
                              - Hư sắc hay thực sắc.
                              - Bộ vị xuất hiện.
                              - Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người(Ngũ hành hình tướng)
                              - Phối hợp hay không phối hộp với màu sắc từng mùa
                              - Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt.
                              - Đơn thuần hay tạp sắc...

                              Chẳng hạn ,màu đen tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thuỷ trong ba tháng mùa đông là đặc biệt lại ở Địa cát , với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt ,đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.
                              Màu đỏ tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu người hình Kim trong ba tháng hè ,sắc tươi tắn không hỗn tạp mà lại hanh thông.Nếu vẫn ở cá nâhn tr6en mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránhha lẫn màu xanh hay vàng mà vẫn thanh*(nghĩa là màu sắc tươi tốt về hình thái ) sắc thì tùy tai ương vẫn có nưhng mức độ nguy hại giảm thiểu đến tối đa ,rốt cục không có gì đáng ngại, Từ đó, ta co thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.
                              b) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc:
                              Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ú nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung.
                              Ngoài các yếu tố kể trên ,ta cần phải phân biệt một vài đi63m quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc .Đó là :
                              1- Hư sắc và thực sắc :
                              Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp , chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí .Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớthành ra nhìn vào vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da lên cây ,thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây ,ta không thể biết được chất nhự chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí .
                              Trái lại ,thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây ,nó phản ánh trung thực chất vỏ câychu lưu ỡ trên lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.
                              Trong tướng học chỉ có thuc sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.
                              2- Vương sắc trệ sắc ,hoại sắc .

                              Vương sắc : màu thuộc loại chính cách, sáng sủa phân bố đều khắp các bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó.
                              Vương sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.

                              Trệ sắc: màu xuất hiện đúng chỗ ,đúng lúc nhưng phẩm chất xấu hay phân phối không đều đặn (hay lốm đốm ,hay chỗ chậm chỗ nhạt)
                              Trong tướng học nói đến vương sắc và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hay các bộ vị chính yếu.
                              Như danh xưng của nó , trệ sắc chủ về các loại bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát.
                              - Kim trệ : da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là điềm báo trước về sự cùnh khốn ,ngưng trệ của của cải.
                              - Mộc trệ: Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về bệnh tật ,tai họa.
                              - Thủy trệ: toàn thể các bộ vị chính trên mặt ,nhất là hai tai ,mờ ảo như khối ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ yếu về quan trung thị phi.
                              - Hỏa trệ: mặt nổi mào đỏ trông khô héo la điểm hao tổn tiền bạc.
                              - Thổ trệ: màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô, là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.
                              Hoại sắc : xuất hiện trái thời gian ,sai bộ vị hay pha trộn nhiều màu sắc tương khắc.
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


                              • - TƯƠNG QUAN GIỮA SẮC VÀ CON NGƯỜI
                                a) Về mặt kiện khang:
                                1- nguyên tắc quan sát:
                                Quan sát màu da để biết một cá nhân bị bệnh cần để ý tới hai điều sau đây gọi là ngũ lị và ngũ tuyệt .
                                b) Ngũ kị :
                                - kị môi xám mà lưỡi đen
                                - kị yết hầu nổi màu đen hay đỏ mà ngày thường khỏa mạnh hay khi mới bị bệnh chưa thấy hai màu đó xuất hiện ở yết hầu.
                                - Kị sắc đen xạm hiện ra ở thiên tương và Địa các.
                                - Kị khóe miệng có màu vàng nghệ.
                                - Kị lòng bàn tay bỗng nhiên khô cằn.
                                Lúc chưa bị bệnh ,gặp một trong các màu trên ở các bộ vị kể trên thì chắc chắn khó tránh bị mắc bệnh,.Nếu đã bị bệnh mà phạm vào 1 hay nhiều điều cấm kị trên thì đó là dấu hiệu bệnh chuyển từ nhẹ sang nặng. Nếu phạm vào cả năm điều trên thì sác xuất càng cao hơn nữa.
                                D)NGŨ TUYỆT
                                Trong lúc bị bệnh mà gặp một trong năm tuyệt chứng sau đây thì khó mong lành , sắc càng rõ thì hậu quả càng tai hại. Nếu đồng thời hội đủ cả Ngũ tuyệt thì chắc chắn không tránh khỏi tuyệt mạng vì cả ngũ tạng điều kiệt lực.
                                -Tâm tuyệt: Hai môi túm cong lại, màu môi đen và khô, chủ về tim kiệt sức, bộ máy tuần hoàn sắp ngưng hoạt động.
                                -Can tuyệt: Bệnh nhân cứng miệng , há ra được nhưng không ngậm lại được, vành trong ,mắt hiện ra sắc đen là dấu hiệu cho biết gan đã kiệt.
                                -Tỳ tuyệt: Môi xám xanh mà thu hẹp lại, sắc mặt vàng vọt thê lương là dấu hiệu cho biết khí ở tỳ sắp tuyệt.
                                -Phế tuyệt: Mụi xạm đen, da mặt khô xạm là dấu hiệu ở phổi đã cạn.
                                -Thận tuyệt: Hai tai khô, xạm đen đột nhiên bị ù tai hoặc điếc hẳng, mứơu răng đổ máu và răng khô là dấu hiệu khí ở thận đã dức.
                                2-Các loại bệnh và dấu hiệu bệnh
                                Dưới đây là phần lược thuật phương pháp quan sát màu sắc một số bộ vị có thể biết dược căn nguyên phát sinh bệnh trạng cùng là dự đoán phần nào được sự chuyển biến của bệnh.
                                Bệnh ở tim và hệ thống tuần hoàn: Lông mày nhăn nheo, sơn căn nhỏ hẹp, hai mắt cũng như khu vực quanh mắt có khí sắc đen xạm hoặc xanh pha đen.
                                Bệnh ở gan; Hai tròng mắt có gân vàng pha hồng, khí sắc khô xạm
                                Bệnh ở khu vực tuỳ vị: Sắc mặt (bao gồm tất cả bộ vị) xanh pha vàng thuộc loại tà sắc, thần khí trì trệ, suy nhược, môi trắng bệch ăn uống kém
                                Bệnh ở bộ máy hô hấp: Lưỡng quyền xam đen và khô cằn, lúc móng lúc lạnh thất thường.
                                Bện ở thận: Sắc mặt đen xạm, đặc biệt là hai tai và trán đen hơn lúc bình thường, mục quang hôn ám.
                                Chứng khật khùng: Mắt lồi, tròng mắt có sắc vàng, phía dưới mắt có sắc trắng như màu đất mốc, đó là dấu hiệu kẻ có bản chất nóng nảy, mất tự chủ như Tôn Thất Thuyết trong lịch sử VIỆTNAM cuối thế kỷ 19.
                                Chứng thổ huyết: Sơn căn nhỏ, gày và trơ xương, mắt có sắc xanh xạm.
                                Chứng loạn huyết: Da mặt và tứ chi sắc vàng pha xanh và khô, râu ria đỏ như râu ngô(mà bản chất không phải là loại Hoả hình), tóc rụng nhiều.
                                Chứng thận suy: Phần lệ đường bị ám đen, sắc mạt ảm đạm, mắt trũng sâu là dấu hiệu của kẻ trong tuổi thanh xuân đã hoang dâm vô độ, nên thận bị suy yếu và hiện ra các khí sắc kẻ trên tại các bộ vị dẫn thượng.
                                Dấu hiệu bệnh nặng nhưng sẽ thoát khỏi hiểm nghèo : Mặc dầu bệnh trạng ra sao mà nhẵn quang thanh thản, linh hoạt , con ngươi đen lấy, có thần khí , chắc chắn không có gì nguy hiểm đén tính mạng.
                                Triệu chứng sắp chết: Hai tai, miệng (kể cả khu vực xung quanh) đều xám đen và khô, hai mắt đờ đẫn, nhãng cầu gần như ngưng đọng là dấu hiệu sắp sửa tắt thở.
                                Dấu hiệu sắp bị bệnh: Sơn căn xám đen, thiên đình có vết xám và lan rộng dần ra xung quanh, chuẩn đầu ám đen và khô.
                                h)VỀ MẶT MẠNG VẬN
                                1-Các trạng thái biến thiên của thời vận
                                Trạng thái thời vận cực thịnh: Trạng thái vận khí cực thịnh khí sắc biểu hiện vận khí cực thịnh gồm có:
                                -Mạng môn(ấn đường), chuẩn đầu đều hồng.
                                -Ấn đường sáng sủa.
                                -Chuẩn đầu hiện rõ màu tía nhạt pha lẫn màu vàng nhạt trông sáng láng.
                                -Râu ,lông mày tươi đẹp, có thần.
                                Có một trong các biểu hiện trên là dấu hiệu của thời vận cực thịnh.Làm quan sẽ thăng tiến, đi buôn se thu hoạch tối đa, càng hoạt động càng phát huy hảo sự.
                                a)Trạng thái thời vận đứng vững lâu dài: Biểu hiện bề ngoài ủa loại vận khí này là:
                                -Nhãn thần sung túc sáng sủa.
                                -Hai tai , lưỡng quyền, ấn đường, chuẩn đầu quanh năm tươi nhuận, không bị hôn ám, lòng bàn tay hồng hào mịn màng.
                                Có những dấu hiệu trên thì tuy diện mạo , bộu vị đôi lúc hôn ám bề ngoài nhưng ẩn hiện sắc sáng vẻ thanh ở trong là vận khí vững vàng thì sự hôn ám của các bộ vị khác trên mặc không đủ gây trở ngại cho tiến trình phát đạt.
                                Người có loại thời vận trên mưu sự gì cũng được toại nguyện, làm điều gì cũng có lợi.
                                b)Trạng thái thời vận bắt đầu tụ: Khi vận khí bắt đầu tụ sắc thì đó là dấu hiệu báo trước tài lộc sắp tới, càng hoạt động càng tốt đẹp thêm. ví dụ khi gặp các trạng thái sau:
                                -Sắc mặt hôn ám, nhưng gián dài, đình uý sáng sủa, có sắc hơi vàng lạt pha lẫn màu tía lạt.
                                -Mặt mũi trông hôn ám, nhưng nhìn kỹ thì lại có ẩn tàng tươi mịn bề trong, lòng trăng của mắt không có tia máu, râu tóc tươi đẹp, Trong trường hợp này bất kể là màu sắc gì mà kẻ tinh mắt thấy rõ là có khi sắc thì chắc chắn sắc tốt sắp phát hiện, tạo thành trạng thái thời vận toàn thịnh trong tương lai.
                                c)Trạng thái thời vận sắp biến chuỷên từ xấu ra tốt: Nói cho đúng , đây là loại vận khí giúp ta biến hung thành kiết, gặp dữ hoá lành, tuy gặp cảnh khó khăn nhưng rốt cuộc vẫn lước qua được. Dấu hiệu bề ngoài của trạng thái này là:
                                -Sắc mặt hôn ám nhưng ánh mắt sáng sủa.
                                -Sắc mặt xanh đen, nhưng chuẩn đầu có màu vàng lạt tuơi mịn.
                                -Sắc mặt đỏ nhưng có pha lẫn vàng lạt(hoặc hồng) tươi mịn.
                                Người có trạng thái thần sắc kể trên thì tuy gặp lúc thất bại nhưng sau đấy ,thất bại trở nên thành công, thất ý trở thành đắc ý.
                                d)Trạng thái thời vận bắt đầu xấu; Dấu hiệu của trạng thái vận khí bắt đầu xấu là khí sắc trên mặt không sáng sủa đều, hoặc trông sáng không ra sáng, trông hôn ám không ra hẳn hôn ám,hoặc cằm có râu trắng hiện ra, hoặc chuẩn đầu hiện ra hồng đậm thuần tuý không có màu vàng lat đi kèm.
                                -Thoáng trông mặt mũi rạng rỡ, nhưng nhìn kỹ thấy lác đác có vài chỗ sắc thái tạp loạn, không toàn vẹn.
                                - Mặt sáng nhưng hai tai và và chuẩn đầu ám đen hoặc không sáng, ánh mắt mờ yếu.
                                -Mặt trông sáng láng nhưng trắng bệch, không có vẻ chân khí ẩn tàng . Đây là trạng thái được tướng học mệnh danh là hữu sắc vô khí.
                                Gặp lọi khí sắc trên đột nhiên xuất hiện chỉ nên an phận thủ thường, không nên vọng động, cố cưỡng lại chỉ đi đến thất bại vô ích.
                                c)Trạng thái thời vận xấu:
                                -Sắc mặt thoáng trông có vẻ sáng sủa nhưng nhìn kỹ thì thấy khô và hai mắt hôn ám.
                                -Da mặt đen xạm khô khan.
                                Khí sắc biến đổi thất thường(hoặc một vài bữa, hoặc năm sáu ngày)không phải vì bệnh trạng mà tự nhiên phát hiện.
                                Đây là loại trạng thái khí sắc xấu nhất, tuyệt đối không nên mưu sự cầu danh trong giai đoạn có loại khí sắc kể trên xuất hiện
                                2-Sắc và vạn mạng qua thời gian.
                                a) KHÍ SẮC VÀ VẬN MẠNG THEO TỪNG MÙA :
                                Mùa xuân : ba tháng mùa xuân thuộc Mộc ,sắc xanh ,muốn coi vận ạmng của con người (chỉ nói về đàn ông) thì coi xương quyền bên trái.
                                - Quyền trái mà mùa xuân có sắc xanh thìtrước lo lắng sau vu ivẻ.
                                - Quyền trái về mùa xuân có sắc đỏ là tương sinh (Mộc sinh Hỏa) chủ về sự trước có tai họa khẫu thiệt sau thành sự đắc ýthỏa lòng
                                - Quyền trái về mùa xuân có sắc trắng là tương khắc (Kim khắc Mộc) chủ về tụng ngục ,hay tang ma trong vòng ba tháng sẽ thấy ứng nghiệm.
                                - Mùa xuân mà Quyền trái biến thành sắc vàng khè là điềm tương khắc( Mộc khắc Thổ) tối hung, có thể bản thân bệnh nặng hay chết ,nếu lưu niên vận hạn năm đó ,mùa đó cũng là Quyền trái.
                                *Ngoài ra trong ba tháng mùa xuân mà thấy :
                                - Mũi có màu đỏ tươi :thân mình bị tai nạn cây gẫy hay người nhà có thương tích, đổ máu vì cây gẫy.
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X