Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nhân tướng học

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    12. Thừa tương: Là khu vực nằm giữa khoảng giữa môi dưới và ở phía tận cùng của khuôn mặt và hơi lõm xuống (h.8), nhưng đây chỉ là hình dạng phổ thông. Ở một số người bộ phận này có thể nhô lên cao hoặc thẳng tấp. Trong những trường hợp như vậy hoặc quá hõm đều là hun tướng, chủ về hay bị tai ương sông nước hay ẩm thực . Nếu khu vực này xám tro hoặc đen thì lại càng dễ quyết đoán.

    13. Địa các: Đó là phần tận cùng của khuôn mặt, ta thường gọi chung là cằm. Cằm chủ yếu phải nẩy nở, cân xứng, không lem, không nhọn, không đưa lên cao. Địa các quá ngắn chủ yếu về yểu thọ. Quá nhọn và dài chủ về sống lâu nhưng về già lênh đênh cô độc. Địa các có nốt ruồi hay lằn vạch tự nhiên do da mặt xếp lại thì không được thừa hưởng di sản của tiền nhân để lại, dù rằng có cân xứng và đầy đặn.
    Attached Files
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment


    • #17
      12 CUNG TRONG TƯỚNG HỌC
      Về phươngg diện mạng vận từ đời nhà Tống trở đi, các sách tướng có lẻ chịu ảnh hưởng của khoa mạng số nên đã chia khuôn mặt thành 12 cung. Mỗi cung tượng trưng cho một lãnh vực của mạng vận phân phối như sau:
      1. CUNG MẠNGh9)

      Vị trí của nó là khu vực Ấn đường. Ý nghĩa chính của nó là niềm khát vọng tiềm ẩn có thể thựuc hiện đựoc khát vọng đó.
      Tuy nhiên trong phép xem tướng, một bộ vị không đủ để quyết đoán, nên phải dựa vào các bộ vị lân cận. Do đó tổng hợp các kiến giải cổ nhân cung Mạng và bộ vị lân cận giúp ta biết được một số yếu tố sau đây:
      - Nếu Ấn đường tươi sáng thì kẻ đó có số học vấn, tư chất thông tuệ .
      - Phụ hạ với Ấn đường tươi sáng là cặp mắt sáng sủa hắc bạch phân minh thì dễ giàu sang.
      - Vẫn với Ấn đường tươi sáng, khu vực trán cũng tốt trong thế phối hợp đắc cách dễ được phú quý song toàn . Ngược lại nếu ấn đường và trán đều thấp, trũng tì kẻ đó khó tránh được cảnh nghèo khổ. Trán vừa có vằn khôgn ra hình dạng nào cả, vừa hẹp lại thêm sợi mày khô vàng là tướng khắc vợ, phải sống xa nơi chôn rau cắt rốn.
      2. CUNG QUANG LỘC (h.9/2)
      Vị trí của cung Quan lộc nằm ngay ở trung tâm điểm của trán. Bộ vị này có biệt danh là Chính Trung. Ý nghĩa chính của cung Quan lộc là cho phép phỏng đoán địa vị, chức nghiệp của cá nhân trong xã hội .
      Thời xưa, trong một xả hội quân chủ trọng chức tước, người ta cho kẻ ra làm quan mới thật sự là kẻ có địa vị trong xã hội, nên được hưởng bỏng lộc. Quan lộc là bổng lộc do địa vị xã hội đem lại. Những kẻ làm quan thời xưa phần đông đều có Chính Trung sáng sủa, đầy đặn và rộng .
      Theo quan niệm trên, các sách tướng học cổ điển như Ma Y tưứng pháp, Thủy kinh tập, Thần tướng toàn biên đều nhất loạt cho rằng kẻ có Chính Trung sáng sủa tốt đẹp phối hợp với toàn thể trán rộng rãi, Sơn căn cao rộng thì suốt đời làm quan không bao giờ bị rắc rối, trắc trở đến mức phải "đáo tụng đình "Nếu khu vực Chính Trung khuyết hãm, trán hẹp, nếp nhăn của trán hỗn loạn thì hoạn lộ thường hay bắt trắc. Nếu mắt lại tự nhiên không vì bệnh tật mà có những tia máu lan khắp lòng trắng khiến người ngoài có cảm tưởng kà mắt đỏ thì gần như chắc chắn là kẻ đó không chết thảm thì cũng bị tù đầy vì khoan hoạn
      Mấy năn gần đây, chịu ảnh hưởng của Nhật -Bản, Một số tác giả đã tìm cách giải thích ý nghĩa của cung Quan Lộc theo đường lối tâm lý học. Hai nhà tướng học đương thời là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ căn cứ vào các tiến bộ của ngành cốt tướng học cho rằng phần Chính Trung nẩy nở là dấu hiệu bề ngoài của kẻ có tâm hồn thông minh, cao ngạo, thích có địa vị bằng cách nổ lực chứng minh tài ba của mình cho mọi người thấy. Hạng người đó dễ dàng thành công và thành danh trên đường mưu cầu công danh, nhất là thời xưa ,
      Sự tuyển lựa quan lại dựa vào tài năng và đức độ thực sự của chính cá nhân đó như vua Nghiêu chọn ông Thuấn, vua Thuấn chọn ông Vũ vậy .
      Phần trung ương của trán không đặc biệt nổi rõ và đẹp nhưng không bị thấp, lõm hoặc tì vết thì cũng có thể xếp vào loại cát tướng. Nếu như cung Quan lộc hẹp ,thấp, có tì vết tự nhiên thì tâm hồn vốn đã không có ý tưởng phấn đấu, ý chí bạc nhược nên khó có thể thành đạt được mộng công danh. Do đó, cổ tướng học đã có lý khi nói rằng Trung Chính khuyết hãm thì Quan lộc chẳng ra gì
      3.-CUNG TÀI BẠCH
      Toàn thể các bộ vị của Mũi đều được coi như là thuộc cung Tài bạch. Ý nghĩa chung của cung Tài bạch tiền bạc của cải. Theo quan niệm xưa, Mũi tượng trưng cho Thổ Tinh, mà Thổ là đất, nguồn gốc của tài nguyên nên Mũi mới đươc xem là Tài bạch. Tuy vậy, điều này chỉ áp dụng cho nam giới mà thôi. Đối với nữ giới, Mũi là Phu Tinh. xem tướng mũi đàn bà, ngoài một số ý nghĩa khác, người ta còn có thể đoán được của người chồng đương sự nữa .
      Ở đây riêng về mặt tài vận, nếu mũi thuộc loại Tiêm -đồng- ty, Huyền- đảm- ty phù hợp thích đáng với Trung chính ngay ngắn. Sáng sủa không khuyết hãm thì có thể đoán là giàu có vĩnh viễn, không bao giờ nghèo khổ. Ngược lại nếu mũi thuộc loại chim ưng, thấp gầy hoặc nhỏ, nhọn, lỗ mũi hếch (ngưỡng-thiên-khổng) thì tài vận khốn quẫn, của cải không bao giờ giữ được.
      4.CUNG ĐIỀN TRẠCH :
      Việc xác định vị trí của cung Điền trạch hiện nay là có hai thuyết:
      a. Thuyết thứ nhất: Các sách tướng cổ như Sử quảng hải, Ma Y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Thủy kính tập và gần đây là tào Trấn Hải, tác giả cuốn Mạng tướng giảng tọa, cho rằng vị trí của
      Cung Điền trạch là cặp Mắt . Kẻ mắt mờ, khô và không có nhiều tia máu không mong gì có ruộng vườn hoặc có thừa kế được di sản thì củng phá tán cho kỳ hết, về già tay không. Nếu cặp mắt đen lấy, lồng đen, lồng trắng phân minh ( ví dụ như mắt phượng), lông mày cao dễ có số được hưởng di sản hoặc dễ tậu ruộng vườn. Mắt lớn và lộ dễ khuynh gia bại sản.
      b. Thuyết thứ hai: Một số tác giả hiện tại như Tô Lãng Thiên trong sách Nhân tướng học đồ giải và Khuyết Nông Cư Si trong sách quan nhân thuộc loại cho rằng vị trí đích thực của cung Điền trạch là khoảng từ bờ trên cặp mắt tới bia dưới của cặp chân mày. Sự tốt xấu của cung Điền trạch biến thiên đồng chiều với sự tốt xấu của khu vực kể trên. Kẻ có Cung Điền trạch rộng rãi, sáng sủa là có rất nhiều triển vọng được hưởng di sản của tiền nhân.Trái lại, khu vực của
      Attached Files
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • #18
        Cung Điền trạch hẹp thì kẻ đó nếu có ruộng vườn là chính công lao của đương sự chứ không có mấy triển vọng trở thành điền chủ nhờ phúc ấm hoặc tặng giữ của tha nhân.
        Riêng Kiến Nông Cư Sỉ còn viết thêm rằng khu vực cung Điền trạch còn cho ta biết được một phần cá tính con người nữa. Khu vực này cao rộng thì kẻ đó có tư tưởng bảo thủ, không ưa thích các sự thay đổi sâu rộng trong nếp sống hoặc tập quán. Khu vực này hẹp thì trái lại, nghĩa là kẻ đó tính nóng, thích tranh cải, không ưa gò bó trong khuôn sáo cổ truyền. Do đó, đại đa số những kẻ như vậy đều có óc cấp tiến, không nệ cổ.
        5. CUNG HUYNH ĐỆ
        Vị trí đích thực của cung huynh đệ là cặp lông mày. ý nghĩa chính của cung này là sự tương quan gia vận giữa anh em. Ngoài ra theo các sach cổ như Ma Y, Thủy kính tập v.v... Còn có thể đoán định được số anh em trai nữa.
        Lông mày thanh nghĩa là sợi không lớn, không nhỏ khoảng cách đúng tiêu chuẩn (xem phần lông mày) và dài hơn mắt thì anh em hòa thuận. Lông mày đẹp và mịn, tình nghĩa anh em đậm đà và thấm thía, lông mày giống mặt trăng non thì trong số anh em có người nổi tiếng với đời. Ngược lại, nếu lông mày thô, chiều dài quá ngắn là điềm anh em ly tán. Sợi lông mày thô mịn xen kẽ nhau hoặc đuôi lông mày phải và trái cao thấp, dài ngắn khác nhau là kẻ có anh dị nghị. Sợi lông mày ở hai đầu lông mày giao nhau và sắc lại vàng, thưa thớt và ngắn là số có anh em hoặc chính bản thân chết ở xa nhà. sợi lông mày mọc ngược lên và xoắn nhau là số anh em bất hòa.
        Riêng về quan điểm cho là căn cứ vào lông mày mà biết được số anh em trai, gái (thuở xưa , theo quan điểm" Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" chỉ có con trai mới đáng kể), sách Ma Y tướng pháp toàn thư có ghi lại rất đầy đủ và phân biệt ra từng loại lông mày nhưng theo kinh nghiệm hiện tại lý thuyết này không xác thật, nên soạn giả không ghi vào đây.
        Tướng củng phải nói thêm là xem Tướng lông mày chỉ quan sát riêng cặp lông mày là đủ, cần phải đặt lông mày vào toàn thể các bộ vị của khuôn mặt trong thế hô-ứng liên- hoàn nhưu tác giả Tôn Đăng đã đề cặp (xem phần phụ luận ở đoạn nói riêng về lông mày trong website này)
        6. CUNG TỬ TỨC (h.9/3)
        Vị trí của cung tử tức là khu vực nằm ngay phía dưới mắt gọi là lệ đường. Cách cấu tạo và màu sắc cho biết một cách khái quát về sự ràng buột giữa đương sự và con cái thấm thiết hay lõng lẻo phần nào hậu vận của con cái triển vọng có con hay tuyệt tự.
        Về mặt liên hệ đến mạng vận của con cái, nếu Lệ đường đầy đủ, tươi hồng thì con cái được thừa hưởng phúc lộc tự nhiên, có cơ hội làm vinh hiển tổ tông. Trái lại lệ đường mà sâu hỏm, màu sắc thô sạm là biểu hiện con cái không ra gì, cha cọp sinh con chó. Nếu Lệ đường mà sâu hỏm, khí sắc lại có các vết sẹo hoặc bị tật bẩm sinh là số tuyệt tự hoặc có con thì khi già cũng thành cô đơn.
        Một vài tác giả cổ điển còn đi xa hơn nữa là phân biệt lệ đường bên phải ứng với con gái, bên trái ứng với con trai, muốn biết một cách khá chính sát phải xem tướng luôn cả khu vực lệ đường của người vợ nữa.
        Attached Files
        Last edited by 470525; 24-03-2011, 11:06 AM.
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment


        • #19
          7.- CUNG NÔ BỘC (h.9/4)
          Vị trí đích thực của cung Nô Bộc là khu vực Địa các, nhưng trong thực tế nó bao gồm phần lớn Hạ đình, từ khóe miệng xuống đến tận cằm. Ý nghĩa tổng quát của cung Nô bộc là sự hỗ trợ giữa cá nhân với các người quen biết hoặc giúp việc .
          Khu vực Địa các đầy đặn cân xứng là số có nhiều người quen biết có tài năng giúp đỡ, đối với tha nhân, đương số là kẻ có uy lực và có khả năng điều động người khác. Khu vực Địa các lệch hãm, nhỏ, nhọn là kẻ có số hay bị tiểu nhân ghen ghét ,kẻ giúp việt không hết lòng, có giúp người tận tình thì trung cuộc cũng mang lấy sự oán trách. Nếu khu vực Địa các có vết hằn, nứt tự nhiên là số có kẻ giúp việt hay thuộc cấp không ra gì, dễ dàng trở mặt đối với mình .
          8.- CUNG THÊ THIẾP (h.9/5)
          Cung Thê Thiếp ở về phía hai đuôi mắt, khu vực này có tên riêng là Gian môn Cung Thê Thiếp cho ta biết sơ qua về sự liên hệ vợ chồng, sự hạnh phúc trong vấn đề lứa đôi và tình duyên sớm muộn ....
          Gian môn đầy đặn và không bị các vạch ngang dọc làm thành khuyết hãm là kẻ thân thể khang kiện, tình dục mạnh mẽ, cho nên trong đời sống vợ chồng dễ có hạnh phúc vật chất. Nếu bộ vị đó quá nẩy nở, bất kể trai hay gái thì vì tình dục quá mạnh khiến kẻ phối ngẫu trung bình khó có thể thỏa mãn được nhu cầu tình dục. Trái lại khu vực Gian Môn quá thấp hoặc hõm (tương đối so với sự mập hay gầy của toàn thể khuôn mặt)thì kẻ đó có tính dăm dục ngấm ngầm .
          9.-CUNG TẬT ÁCH (h.9/6)
          Nằm ở khu vực sống mũi (bao gồm Sơn căn, Niên Thượng, Thọ thượng) cung Tật ách cho ta biết khái quát về sự khỏe mạnh hay suy kém của đương sự .
          Nếu khu vực Sơn căn cao và hai bộ vị kế tiếp ngay ngắn, nẩy nở và thẳng xuôi đó là biểu hiện của kẻ được trời phú có sức chịu đựng bệnh tật, rất dẻo dai, có thể bị lâm nguy, nhưng không chết vì bạo bệnh. hơn nữa kẻ đó ít bị bệnh tật .
          Khu vực sống mũi thấp, lệch, dễ bị bệnh và nếu kiêm thêm cả các vết hằn tự nhiên thì có thể quyết đoán là quanh năm bệnh tật liên miên, khó có thể trường thọ. Nếu tự nhiên khu vực cung Tật ách bị xạm đen thì đó là điềm báo trước bị trọng bệnh. Nếu các bộ vị quan trọng khác như Ấn đường, lông mày, cặp mắt đều ám đen thì có thể chết vì bạo bệnh trong một tương lai gần.
          Attached Files
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • #20
            10. CUNG THIÊN DI (h.9/7)
            Vị trí của cung Thiên Di ở hai bên phía trên của góc trán ) trong thuật ngữ của nhân tướng học, khu vực này được gọi là dịch mã). Ý nghĩa chính của cung thiên Di là sự di chuyển, giao tiếp với các tha nhân không phải là thân quyên của mình. tuy nói góc trán phía trên
            nhưng cả khu vực lân cận cũng đều được coi trọng. Nếu khu vực Dịch mã và kế phía dưới đó là Thiên thương đầy đặn, cân xứng và sáng sủa thì đi xa làm ăn có lợi, được ngoại nhân giúp đỡ. Nếu khu vực Ngư vĩ (đuôi mắt) tươi đẹp thì đến già vẫn có triển vọng ngao du xa nhà một cách hanh thông. Nếu khu vực dịch mã lõm, lệch thì suốt đời đi xa chỉ chuốt lấy thất bại, người ngoài hờ hững. Nếu bộ phận trán và địa các lệch lạc, không cân xứng thì do ở chổ ngay từ căn bản Dịch mã bị mất thăng bằng, nên kẻ đó suốt đời long đong, không yên chổ.
            II. CUNG PHÚC ĐỨC:
            Hiện nay theo chổ hiểu biết của soạn gỉa thì có hai thuyết trái ngược về cả vị trí lẫn ý nghĩa.
            a. Thuyết thứ nhất: Được các sách cổ điển về tướng học như Ma Y thần tướng toàn biên, Thủy kinh tập và gần đây như Nghiên Nông Cư Sĩ trong sách Quan nhân tử vi của cung phúc đức nằm ở hai bên má chạy dài từ thiên thương xuống đén tận cùng của khuôn mặt.
            Về ý nghĩa, cung Phúc đức cho phép dự đoán hy vọng về công danh, phú quý (do các bộ vị khác thể hiện) có thể có nhiều xác suất thành tựu trong thực tế hay không . căn cứ vào kinh nghiệm của cổ nhân thì nếu các cung khác tốt mà cung phúc đức xấu thì sự thành tựu thực tế của cá nhân dó bị suy giảm hẳn hoặc mất đi. Ngược lại nếu Cung Phúc đức tốt, các cung kia xấu thì sự xấu đó có thể nguy hại rất nhiều.
            Đại khái là cung Phúc đức đầy đặn, cân xứng (trong ý nghĩa là cả hai bên phải , trái không mất quân bình quá rõ rệt), khí sắc tươi tắn thì chủ về phú quý dễ thành. Cằm tròn, trán hẹp, thuở thiếu niên gặp nhiều vất vả, trán rộng tốt mà cằm nhọn hẹp thì về giá lận đận. Nếu các bộ vị chủ về các cung khác không mấy tốt đẹp, nhưng cũng không xấu lắm mà được mày cao, mắt sáng thì vận số bình thường. Trái lại, vẫn trường hợp trên mà chân lông mày ăn lan xuống tận bờ mắt, tai có luân quách đảo ngược vị trí mà không thuộc loại Hỏa hình nhân thì đối với kẻ đó chẳng nên đề cặp đến chuyện phúc đức làm gì vô ích.
            b)Thuyết thứ hai: Thuyết này mới được đưa ra trong mấy năm nay do hai nhà tướng học hiện tại là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ chủ xướng. Theo hai vị trên. vị trí của cung Phúc đức nằm ở phía trên phần cuối của cặp lông mày, giới hạn phía dưới là chân mày, phía trên vào khoảng trên dưới một phần tay. Ý nghĩa chính của nó là cho phép ta đón được sự may rủi có tính cách bất định của tài vận (tùy theo sự thay đổi của cách cấu tạo và khí sắc của khu vực trên, thời gian dự đón có thể lâu hay mau trước khi sự kiện xảy ra (h.9/8)
            Bộ phận kể trên có thịt, sắc thái thanh khiết được coi là điểm tốt cho việc mưu cầu tài lộc. Ngược lại, có thể nói kẻ đó ít hy vọng giàu có. Bộ phận chỉ vị trí cung phúc đức bị vằn hoặc sẹo tự nhiên hoặc nốt rùi thì phải giải thích là rủi nhiều hơn may trong khi phối hợp với các cung khác để luận đoán các hung
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • #21
              12. CUNG TƯỚNG MẠO :
              Vị trí là toàn bộ khuôn mặt bao gồm tất cả mọi bộ vị, toàn thể các cung phối hợp lại. Về điểm này, Cung tướng mạo cho ta một khái niệm khái quát về những nét trội yếu nhất của một cá nhân và tùy theo điểm trội yếu đó liên quan tới cung nào trong số 11 cung kể trên, ta sẽ biết được chiều hướng chính về mạng vận của kẻ đó sẽ đi về đâu và theo duổi hoạt động nào thì khả dĩ có nhiều triển vọng thành tựu nhất. Trở về các nguyên tắc căn bản của phép xem tướng (coi phần: 10 nguyên tắc căn bản cổ điển của phép xem tướng). Nhưng ở đây xét riêng về mặt các cung chúng ta chỉ cần định sự phối hợp Tam đình, Ngũ nhạc, Ngũ quan có cân xứng không mà thôi.
              Riêng về phần Phụ Mẫu, tướng học không xếp chung một cung. Muốn biết về cha mẹ sách Ma Y tướng pháp toàn thư khuyên ta nên quan sát phần Nhật và Nguyệt giác "Hai khu vực này cao nổi, sáng một cách thanh khiết tự nhiên thì cha mẹ trường thọ, khỏe mạnh. Ngược lại cha mẹ thường hay đau yếu (hoặc mất sớm nếu thấp hãm và có ám khí tự nhiên và kéo dài từ lúc sơ sinh ). Nhật giác mà thấp hơn Nguyệt giác thì cha mất trước mẹ. Trường hợp ngược lại thì mẹ mất trước cha. Ngoài hai vị giác ra cần phải quan sát cả vị thế cân xứng của hai lông mày nữa (vẫn theo nguên tắc: lông mày trái chỉ cha, lông mày phải chỉ mẹ) cả hai cùng một chiều hướng ý nghĩa với hai giác. chỉ khi nào hai lông mày và hai khu vực Nhật và Nguyệt giác phù hợp nhau, sự dự đoán mới tạm gọi là chính xác trong phạm vi của cung phụ mẫu. Hơn nữa, việc dự đoán các hung của cha mẹ cũng phải đạt trong phạm vi tổng quát của cung Phúc đức và nhất là cung tướng mạo .
              * Nhật giác là góc trán bên trái phía trên, Nguyệt giác là góc trán bên phải. Đôi khi người ta còn gọi Nhật giác là Tả giác . Nguyệt giác là Hữu giác.
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • #22
                13 BÔ VỊ QUAN TRỌNG
                Trong phép xem tướng khuôn mặt, người ta chia khuôn mặt thành rất nhiều khu vực nhỏ gọi là bộ vị. Thoạt đầu, theo truyền thuyết thì từ đời Đông-Chu (cách đây khoảng 2500 năm ) khuôn mặt được chia thành 13 bộ vị (h.3).

                Click image for larger version

Name:	NTH 003.JPG
Views:	3
Size:	31.5 KB
ID:	360018
                Đến đời nhà Hán thì người ta tế phân các bộ vị trên thành 120 bộ vị nhỏ hơn. Đời Đường và Tống, tổng số bộ vị trên khuôn mặt là 130. Các nhà tướng học khét tiếng như Nhất Hanh Thiền sư đời đường, Ma Y và Trần Đoàn đời Tống đều ghi lại trong sách tướng của mình con số 130. Đời sau phần lớn đều theo số 130 của Ma Y- Đến hai đời Minh, Thanh con số đó tăng lên 140. Nhưng bất kể 120,130 hay 140 đó chẳng qua điều là những tế phân vụn vặt, nhiều khi dư thừa vô ích. Ta chỉ cần biết 13 bộ vị chính yếu là đủ để quan sát khí sắc, mạng vận kiết hung. Dưới đây là 13 bộ vị trê khuôn mặt :
                -Khu vực Thượng Đình : Thiên trung, Thiên đình, Tứ không, Trung chính .
                -Khu vực Trung Đình : Ấn đường, sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng, Chuẩn đầu.
                - Khu vực Hạ đình: Nhân trung, thủy tinh (miệng), Thừa tương, Địa các
                Ý NGHĨA CỦA TỪNG BỘ VỊ :
                1. Thiên trung: Thiên trung (coi phụ họa h.3) được coi là tốt đẹp nếu đầy đặn, sáng sủa. Trong trường hợp đó thiên trung là dấu hiệu cho biết thuở nhỏ vận tốt, cha mẹ song toàn, thân thể khỏe mạnh. Ngược lại Thiên trung thấp, lõm, lệch lạc trông không có gì khả quan chủ về tuổi ấu thơ không được tốt đẹp, hoàn cảnh sinh sống lúc nhỏ khó khăn chật vật, không được song thân nuôi nấng đúng mức, thiếu tình thương. Nếu như Thiên trung có khí sắc hắc ám, ấn tàng mường tượng như mạch máu ngầm, có gân xanh chạy dài tới Ân đường (ở giữa 2 đầu long mày ), thì đó là triệu chứng trong đời khó thoát tai ương đột ngột, sinh kế phần lớn khó thành.
                2. Thiên đình: Là phần giữa trán tiếp liền dưới Thiên trung (thông thường Thiên Đình và Thiên trung chiếm 1/2 bề cao của trán. Do đó, cách quan sát và ý nghĩa tương tự như Thiên trung về mặt mạng vận cá nhân,điều hơi khác là Thiên trung chủ về cha. Thiên đình chủ về mẹ. Nếu Thiên đình khí sắc hắc hám một cách trường cửu thêm vào đó là hình thể khuyết hãm sẽ chủ về cảnh cơ khổ thiếu niên phần lớn do mẹ gây ra hoăc không được quý nhân tương trợ, do đàn bà cản trở.
                3. Tư không: Về mạng vận cũng đồng nghĩa với Thiên trung và Thiên đình nhưng thường nặng về ý nghĩa bản thân, trong khi hai bộ vị trên liên quan đến ảnh hưởng tới cha mẹ. trong thực tế khó mà tách biệt được vị trí đích thực của ba bộ vị. Nếu Tư không khuyết hãm hoặc khí sắc xấu xuất hiện thường xuyên, chủ về bản thân hay gặp trắc trở trong công việc, không được phụ huynh hay quý nhân giúp đỡ. Ngược lại Tư không sáng sủa, đầy đặn có khí thế mạnh mẽ thì đó là dấu hiệu bản thân khi hành sự được người trên hổ trợ.
                4. Trung đình: đầy đặn, sắc hồng lạt hoặc vàng, trông sáng sủa, chủ về thành đạt sáng sủa,vừa thông minh tài trí, vừa mạnh khỏe, ít tật bệnh hiểm nghèo. Nếu thấp, khuyết: chủ về ngu độn, vô tài cán. Nếu chổ này bị vết hằn ,sẹo tự nhiên thì nốt ruồi thì dể đưa đến bị người ghét bỏ, có tính nóng nảy, ngông cuồng
                5.Ấn đường: Đó là khoảng giữa hai đầu lông mày là nơi trung gian giữa trán và gốc mũi. Đối với tướng học Á- Đông cổ điển, bộ vị này rất quan trọng về phương diện mạng vận. Nguyên tắc quan sát từ Ấn đường cũng tương tự như bốn bộ vị vừa kể trên , chủ yếu là lấy sự rộng rãi, nẩy nở là tốt về hình thức, tươi tốt ,hồng nhuận là tốt về thực chất. Tốt cả chất lẫn hình chủ về mưu sự dễ thành. Hẹp hoặc khuyết hãm là xấu. Đặc biệt tối kỵ là hai đầu lông mày không được giao tiếp nhau ở ngay trên Ấn đường tạo thành một vệt đen gần như duy nhất chạy dài từ phía bắt phải sang mắt trái. Kẻ có tướng Ấn đường không mong gì có dịp giàu sang, hèn hạ suốt đời nhọc nhằn. Ấn đường có nốt ruồi ở 2 bên phải và trái chủ về tù tội
                Một đặc điểm thường thấy ở những người từ tuổi thanh niên trở đi là Ấn đường có vết hằng chạy từ 2 bên đầu long mày lên phía tráng. Sự kiện cũng được sách tướng nghiên cứu tường tận và đưa đến vài nhận xét sau đây:
                Last edited by 470525; 15-04-2011, 09:01 AM.
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • #23
                  a. Ngay chính giữa Ấn đường có một vết sâu và thẳng thì gọi là " luyến trâm văn", về mạng vận có ý nghĩa là vợ chồng sung khắc.Về mặt cá tính, đó là kẻ có ý trí mạnh, làm việc có tinh thần trách nhiệm (h.4)
                  Click image for larger version

Name:	NTH 004.JPG
Views:	3
Size:	3.6 KB
ID:	360019
                  b. Ấn đường có 3 hằn song song (h.5) chủ về phá tán gia sản, khắc vợ, sống xa quê nhà mới mong tạm đủ ăn mặc.
                  Click image for larger version

Name:	NTH 005.JPG
Views:	3
Size:	3.6 KB
ID:	360020
                  c. Ấn đường có 2 đường giao nhau như hình chữ bát (/\) (h.6) chủ về sự nghiệp ba đào. Nếu các bộ vị khác đều tốt đẹp thì phải đợi ngoài 40 tuổi mới mong thõa nguyện bình sinh. Về mặt cá tính, đó là tướng người ưa tư lự, tập trung tư tưởng dễ dàng và có ý trí mạnh.
                  Click image for larger version

Name:	NTH 006.JPG
Views:	2
Size:	4.0 KB
ID:	360021
                  d. Ấn đường có loạn văn là điềm bất thường nặng nề nhất (h.7). Đó là dấu cha mẹ sớm khuất bóng, buôn tẩu tứ phương . Nếu các vết hằng loang lổ đó sâu và rõ thì lại càng xấu, chủ về tính nết buông thả, không thể kiềm chế, đến khoảng trên dưới 30 tuổi khó tránh khỏi yếu tử (nếu các bộ vị khá tốt, mục quang có thần thì chỉ bị đau ốm hay tai ương qua loa).
                  Click image for larger version

Name:	NTH 007.JPG
Views:	2
Size:	3.7 KB
ID:	360022
                  6. Sơn căn: Đó là khoảng sống mũi nằm giữa 2 mắt. Trong quan niệm " Thiên nhân tương trữ" của Á đông,(xem h.3). Sơn căn được coi như nơi giao tiếp giữa trời và người, giữa âm và dương, cho nên sơn căn cần phải cao, thẳng, ngay ngắn thì sự giao tiếp đó mới thành tựu mỹ mãn, đưa đến hậu quả tốt. Nếu lệch, hãm, gẫy v.v...thì không thể khiến con người hấp thụ được khí của trời và trăng sao. Hơn nữa mũi là dấu hiệu quan trọng nhất của sự giàu sang, nếu sơn căn lệch , nhọn hoặc nhỏ thì gốc mũi vốn đã hư sẽ khiến cả phần còn lại của mũi bị tai hại . Nếu sơn căn tốt thì gần như một định lệ: mũi cũng tốt theo và dưa đến tài vận hanh thông.
                  Điều cần biết ở đây là nếu Sơn căn có màu xám như tàn tro thì đó là dấu hiệu báo trước của tật bệnh. Nếu khí sắc đó lan cả xuống sống mũi và xuống sát phần tiếp giáp với 2 đầu mắt thì bệnh càng nặng và có thể bị chết vì bệnh.
                  Nốt ruồi ở ngay sơn căn báo hiệu cuộc đời bôn tẩu tha hương. Ngoài ra đó cũng là dấu hiệu tai họa tù ngục, nếu mọc chính giữa khu vực của sơn căn , mọc ở hai bên phải và trái cho biết được kẻ đó trong mình có ác tật.
                  Last edited by 470525; 15-04-2011, 09:03 AM.
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • #24
                    7. Niên thượng : Đó là phần thân mũi ở ngay dưới Sơn căn và chiếm khoảng 1/4 chiều dài của mũi đo từ khoảng giữa 2 mắt tới chõm mũi. Các bộ vị như Sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng sẽ được mô tả rõ ràng ở phần nói về mũi nên ở đây chỉ chú trọng tới phần ý nghĩa căn cứ vào khí sắc và nốt ruồi của Niên thượng mà thôi.
                    Niên thượng có sắc ám đen như sương mù, chủ về người thân có bệnh .
                    Niên thượng có nốt ruồi chủ về vận kiếp có số đào hoa nghiã là hoặc do đam mê sắc dục nữ giới mà thành tai tiếng tù tội, hoặc giao du xác thịt với đàn bà mà mắc bệnh .
                    8. Thọ thượng: Phần sống mũi tận cùng ở tiếp dưới ngay Niên thượng. Nếu phần thọ thượng có xương hoặc sụn nổi cao là dấu hiệu trong đời thế nào cũng có phen thất bại nặng nề . Về nốt ruồi và khí sắc , cách luận giải tương tự như phần nói về Niên Thượng, ý nghĩa cũng vậy. Tuy nhiên, nếu hai bên(phải và trái) của Thọ thượng có sắc hồng lạt hoặc vàng và tất cả đều tươi mịn, dễ coi thì đó là triệu chứng đủ ăn đủ mặc ( với điều kiện là mũi tốt).
                    9. Chuẩn đầu: Đó là phần chõm mũi, hình dạng tròn như viên đạn của con nít thường chơi. Chuẩn đầu cần phải lớn, tròn trịa và có thịt mới tốt , tối kỵ là trơ xương. Tuy nhiên nếu chỉ tốt về hình dạng mà sắc da ở chuẩn đầu khô mốc, ám đen cũng không thể coi là tốt vì đó là dấu hiệu bệnh hoạn hoặc hao phá về tiền bạc nặng nhẹ tùy từng trường hợp.
                    Người ta thường nói mũi là nơi quan sát sự giàu nghèo, nhưng thực ra sự giàu ngèo chỉ căn cứ ở phần Thọ thượng xuống đến chuẩn đầu (nhất là chuẩn đầu mà thôi).
                    Ngoài ra về mặt xem tướng tài vận, nếu chuẩn đầu nhiều thịt, mập mạp nhưng lổ mũi quá rộng, hếch lên trời, nhiều lông, hai cánh mũi qua mỏng và ở cao hơn vị trí của chuẩn đầu thì cũng là tướng hao tài hoặc hữu danh vô thực về tiền bạc.
                    10. Nhân trung: Đó là cái rãnh sâu nằm ngay chạy từ dạ chuẩn đầu xuống tiếp giáp với môi trên .Ở phần nói về môi, miệng và khu vực Hạ đình sẽ nói tường tận về các dạng thức và ý nghĩa. Ở đây chỉ xin nói sơ qua là điều kiện tất yếu để xem là Nhân trung tốt bao gồm:
                    - Sâu và rõ ràng, dài và rộng.
                    - Ngay ngắn chứ không lệch lạc.
                    - Không có nốt ruồi hay các vạch ngang tự nhiên làm đứt đoạn.
                    - Trên nhỏ dưới rộng.
                    11. Thủy tinh: Là một danh xưng chỉ về môi miệng (trong phần nói về ngũ quan, miệng đoợc coi là xuất nạp quan và là một trong 05 đại bộ phận trọng yếu của khuôn mặt, nên sẽ được mô tả đầy đủ trong một chương riêng. Bởi vậy độc giả nên tham chiếu chương nói về miệng để biết rõ hơn).
                    Ở đây điều kiện tiên quyết của Thủy tinh hợp cách là:
                    - Môi miệng phải ngay ngắn.
                    - Hai môi phải dày mỏng tương xứng
                    - Khóe miệng phải hướng lên
                    - Bề dày phải vừa phải không nên qua dày quá mỏng
                    12. Thừa tương: Là khu vực nằm giữa khoảng giữa môi dưới và ở phía tận cùng của khuôn mặt và hơi lõm xuống (h.8), nhưng đây chỉ là hình dạng phổ thông. Ở một số người bộ phận này có thể nhô lên cao hoặc thẳng tấp. Trong những trường hợp như vậy hoặc quá hõm đều là hun tướng, chủ về hay bị tai ương sông nước hay ẩm thực . Nếu khu vực này xám tro hoặc đen thì lại càng dễ quyết đoán.
                    Click image for larger version

Name:	NTH 008.JPG
Views:	2
Size:	3.0 KB
ID:	360023
                    13. Địa các: Đó là phần tận cùng của khuôn mặt, ta thường gọi chung là cằm. Cằm chủ yếu phải nẩy nở, cân xứng, không lem, không nhọn, không đưa lên cao. Địa các quá ngắn chủ yếu về yểu thọ. Quá nhọn và dài chủ về sống lâu nhưng về già lênh đênh cô độc. Địa các có nốt ruồi hay lằn vạch tự nhiên do da mặt xếp lại thì không được thừa hưởng di sản của tiền nhân để lại, dù rằng có cân xứng và đầy đặn.
                    Last edited by 470525; 15-04-2011, 09:05 AM.
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • #25
                      12 CUNG TRONG TƯỚNG HỌC

                      Về phươngg diện mạng vận từ đời nhà Tống trở đi, các sách tướng có lẻ chịu ảnh hưởng của khoa mạng số nên đã chia khuôn mặt thành 12 cung. Mỗi cung tượng trưng cho một lãnh vực của mạng vận phân phối như sau:
                      1. CUNG MẠNGh9)

                      Vị trí của nó là khu vực Ấn đường. Ý nghĩa chính của nó là niềm khát vọng tiềm ẩn có thể thựuc hiện đựoc khát vọng đó.
                      Tuy nhiên trong phép xem tướng, một bộ vị không đủ để quyết đoán, nên phải dựa vào các bộ vị lân cận. Do đó tổng hợp các kiến giải cổ nhân cung Mạng và bộ vị lân cận giúp ta biết được một số yếu tố sau đây:
                      - Nếu Ấn đường tươi sáng thì kẻ đó có số học vấn, tư chất thông tuệ .
                      - Phụ hạ với Ấn đường tươi sáng là cặp mắt sáng sủa hắc bạch phân minh thì dễ giàu sang.
                      - Vẫn với Ấn đường tươi sáng, khu vực trán cũng tốt trong thế phối hợp đắc cách dễ được phú quý song toàn . Ngược lại nếu ấn đường và trán đều thấp, trũng tì kẻ đó khó tránh được cảnh nghèo khổ. Trán vừa có vằn khôgn ra hình dạng nào cả, vừa hẹp lại thêm sợi mày khô vàng là tướng khắc vợ, phải sống xa nơi chôn rau cắt rốn.
                      2. CUNG QUANG LỘC (h.9/2)
                      Vị trí của cung Quan lộc nằm ngay ở trung tâm điểm của trán. Bộ vị này có biệt danh là Chính Trung. Ý nghĩa chính của cung Quan lộc là cho phép phỏng đoán địa vị, chức nghiệp của cá nhân trong xã hội .
                      Thời xưa, trong một xả hội quân chủ trọng chức tước, người ta cho kẻ ra làm quan mới thật sự là kẻ có địa vị trong xã hội, nên được hưởng bỏng lộc. Quan lộc là bổng lộc do địa vị xã hội đem lại. Những kẻ làm quan thời xưa phần đông đều có Chính Trung sáng sủa, đầy đặn và rộng .
                      Theo quan niệm trên, các sách tướng học cổ điển như Ma Y tưứng pháp, Thủy kinh tập, Thần tướng toàn biên đều nhất loạt cho rằng kẻ có Chính Trung sáng sủa tốt đẹp phối hợp với toàn thể trán rộng rãi, Sơn căn cao rộng thì suốt đời làm quan không bao giờ bị rắc rối, trắc trở đến mức phải "đáo tụng đình "Nếu khu vực Chính Trung khuyết hãm, trán hẹp, nếp nhăn của trán hỗn loạn thì hoạn lộ thường hay bắt trắc. Nếu mắt lại tự nhiên không vì bệnh tật mà có những tia máu lan khắp lòng trắng khiến người ngoài có cảm tưởng kà mắt đỏ thì gần như chắc chắn là kẻ đó không chết thảm thì cũng bị tù đầy vì khoan hoạn
                      Mấy năn gần đây, chịu ảnh hưởng của Nhật -Bản, Một số tác giả đã tìm cách giải thích ý nghĩa của cung Quan Lộc theo đường lối tâm lý học. Hai nhà tướng học đương thời là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ căn cứ vào các tiến bộ của ngành cốt tướng học cho rằng phần Chính Trung nẩy nở là dấu hiệu bề ngoài của kẻ có tâm hồn thông minh, cao ngạo, thích có địa vị bằng cách nổ lực chứng minh tài ba của mình cho mọi người thấy. Hạng người đó dễ dàng thành công và thành danh trên đường mưu cầu công danh, nhất là thời xưa ,
                      Sự tuyển lựa quan lại dựa vào tài năng và đức độ thực sự của chính cá nhân đó như vua Nghiêu chọn ông Thuấn, vua Thuấn chọn ông Vũ vậy .
                      Phần trung ương của trán không đặc biệt nổi rõ và đẹp nhưng không bị thấp, lõm hoặc tì vết thì cũng có thể xếp vào loại cát tướng. Nếu như cung Quan lộc hẹp ,thấp, có tì vết tự nhiên thì tâm hồn vốn đã không có ý tưởng phấn đấu, ý chí bạc nhược nên khó có thể thành đạt được mộng công danh. Do đó, cổ tướng học đã có lý khi nói rằng Trung Chính khuyết hãm thì Quan lộc chẳng ra gì
                      3.-CUNG TÀI BẠCH
                      Toàn thể các bộ vị của Mũi đều được coi như là thuộc cung Tài bạch. Ý nghĩa chung của cung Tài bạch tiền bạc của cải. Theo quan niệm xưa, Mũi tượng trưng cho Thổ Tinh, mà Thổ là đất, nguồn gốc của tài nguyên nên Mũi mới đươc xem là Tài bạch. Tuy vậy, điều này chỉ áp dụng cho nam giới mà thôi. Đối với nữ giới, Mũi là Phu Tinh. xem tướng mũi đàn bà, ngoài một số ý nghĩa khác, người ta còn có thể đoán được của người chồng đương sự nữa .
                      Ở đây riêng về mặt tài vận, nếu mũi thuộc loại Tiêm -đồng- ty, Huyền- đảm- ty phù hợp thích đáng với Trung chính ngay ngắn. Sáng sủa không khuyết hãm thì có thể đoán là giàu có vĩnh viễn, không bao giờ nghèo khổ. Ngược lại nếu mũi thuộc loại chim ưng, thấp gầy hoặc nhỏ, nhọn, lỗ mũi hếch (ngưỡng-thiên-khổng) thì tài vận khốn quẫn, của cải không bao giờ giữ được.
                      4.CUNG ĐIỀN TRẠCH :
                      Việc xác định vị trí của cung Điền trạch hiện nay là có hai thuyết:
                      a. Thuyết thứ nhất: Các sách tướng cổ như Sử quảng hải, Ma Y tướng pháp, Thần tướng toàn biên, Thủy kính tập và gần đây là tào Trấn Hải, tác giả cuốn Mạng tướng giảng tọa, cho rằng vị trí của
                      Cung Điền trạch là cặp Mắt . Kẻ mắt mờ, khô và không có nhiều tia máu không mong gì có ruộng vườn hoặc có thừa kế được di sản thì củng phá tán cho kỳ hết, về già tay không. Nếu cặp mắt đen lấy, lồng đen, lồng trắng phân minh ( ví dụ như mắt phượng), lông mày cao dễ có số được hưởng di sản hoặc dễ tậu ruộng vườn. Mắt lớn và lộ dễ khuynh gia bại sản.
                      b. Thuyết thứ hai: Một số tác giả hiện tại như Tô Lãng Thiên trong sách Nhân tướng học đồ giải và Khuyết Nông Cư Si trong sách quan nhân thuộc loại cho rằng vị trí đích thực của cung Điền trạch là khoảng từ bờ trên cặp mắt tới bia dưới của cặp chân mày. Sự tốt xấu của cung Điền trạch biến thiên đồng chiều với sự tốt xấu của khu vực kể trên. Kẻ có Cung Điền trạch rộng rãi, sáng sủa là có rất nhiều triển vọng được hưởng di sản của tiền nhân.Trái lại, khu vực của Cung Điền trạch hẹp thì kẻ đó nếu có ruộng vườn là chính công lao của đương sự chứ không có mấy triển vọng trở thành điền chủ nhờ phúc ấm hoặc tặng giữ của tha nhân.
                      Riêng Kiến Nông Cư Sỉ còn viết thêm rằng khu vực cung Điền trạch còn cho ta biết được một phần cá tính con người nữa. Khu vực này cao rộng thì kẻ đó có tư tưởng bảo thủ, không ưa thích các sự thay đổi sâu rộng trong nếp sống hoặc tập quán. Khu vực này hẹp thì trái lại, nghĩa là kẻ đó tính nóng, thích tranh cải, không ưa gò bó trong khuôn sáo cổ truyền. Do đó, đại đa số những kẻ như vậy đều có óc cấp tiến, không nệ cổ.
                      Attached Files
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • #26
                        5. CUNG HUYNH ĐỆ
                        Vị trí đích thực của cung huynh đệ là cặp lông mày. ý nghĩa chính của cung này là sự tương quan gia vận giữa anh em. Ngoài ra theo các sach cổ như Ma Y, Thủy kính tập v.v... Còn có thể đoán định được số anh em trai nữa.
                        Lông mày thanh nghĩa là sợi không lớn, không nhỏ khoảng cách đúng tiêu chuẩn (xem phần lông mày) và dài hơn mắt thì anh em hòa thuận. Lông mày đẹp và mịn, tình nghĩa anh em đậm đà và thấm thía, lông mày giống mặt trăng non thì trong số anh em có người nổi tiếng với đời. Ngược lại, nếu lông mày thô, chiều dài quá ngắn là điềm anh em ly tán. Sợi lông mày thô mịn xen kẽ nhau hoặc đuôi lông mày phải và trái cao thấp, dài ngắn khác nhau là kẻ có anh dị nghị. Sợi lông mày ở hai đầu lông mày giao nhau và sắc lại vàng, thưa thớt và ngắn là số có anh em hoặc chính bản thân chết ở xa nhà. sợi lông mày mọc ngược lên và xoắn nhau là số anh em bất hòa.
                        Riêng về quan điểm cho là căn cứ vào lông mày mà biết được số anh em trai, gái (thuở xưa , theo quan điểm" Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" chỉ có con trai mới đáng kể), sách Ma Y tướng pháp toàn thư có ghi lại rất đầy đủ và phân biệt ra từng loại lông mày nhưng theo kinh nghiệm hiện tại lý thuyết này không xác thật, nên soạn giả không ghi vào đây.
                        Tướng củng phải nói thêm là xem Tướng lông mày chỉ quan sát riêng cặp lông mày là đủ, cần phải đặt lông mày vào toàn thể các bộ vị của khuôn mặt trong thế hô-ứng liên- hoàn nhưu tác giả Tôn Đăng đã đề cặp (xem phần phụ luận ở đoạn nói riêng về lông mày trong website này)
                        6. CUNG TỬ TỨC (h.9/3)
                        Vị trí của cung tử tức là khu vực nằm ngay phía dưới mắt gọi là lệ đường. Cách cấu tạo và màu sắc cho biết một cách khái quát về sự ràng buột giữa đương sự và con cái thấm thiết hay lõng lẻo phần nào hậu vận của con cái triển vọng có con hay tuyệt tự.
                        Về mặt liên hệ đến mạng vận của con cái, nếu Lệ đường đầy đủ, tươi hồng thì con cái được thừa hưởng phúc lộc tự nhiên, có cơ hội làm vinh hiển tổ tông. Trái lại lệ đường mà sâu hỏm, màu sắc thô sạm là biểu hiện con cái không ra gì, cha cọp sinh con chó. Nếu Lệ đường mà sâu hỏm, khí sắc lại có các vết sẹo hoặc bị tật bẩm sinh là số tuyệt tự hoặc có con thì khi già cũng thành cô đơn.
                        Một vài tác giả cổ điển còn đi xa hơn nữa là phân biệt lệ đường bên phải ứng với con gái, bên trái ứng với con trai, muốn biết một cách khá chính sát phải xem tướng luôn cả khu vực lệ đường của người vợ nữa.
                        7.- CUNG NÔ BỘC (h.9/4)
                        Vị trí đích thực của cung Nô Bộc là khu vực Địa các, nhưng trong thực tế nó bao gồm phần lớn Hạ đình, từ khóe miệng xuống đến tận cằm. Ý nghĩa tổng quát của cung Nô bộc là sự hỗ trợ giữa cá nhân với các người quen biết hoặc giúp việc .
                        Khu vực Địa các đầy đặn cân xứng là số có nhiều người quen biết có tài năng giúp đỡ, đối với tha nhân, đương số là kẻ có uy lực và có khả năng điều động người khác. Khu vực Địa các lệch hãm, nhỏ, nhọn là kẻ có số hay bị tiểu nhân ghen ghét ,kẻ giúp việt không hết lòng, có giúp người tận tình thì trung cuộc cũng mang lấy sự oán trách. Nếu khu vực Địa các có vết hằn, nứt tự nhiên là số có kẻ giúp việt hay thuộc cấp không ra gì, dễ dàng trở mặt đối với mình .
                        8.- CUNG THÊ THIẾP (h.9/5)
                        Cung Thê Thiếp ở về phía hai đuôi mắt, khu vực này có tên riêng là Gian môn Cung Thê Thiếp cho ta biết sơ qua về sự liên hệ vợ chồng, sự hạnh phúc trong vấn đề lứa đôi và tình duyên sớm muộn ....
                        Gian môn đầy đặn và không bị các vạch ngang dọc làm thành khuyết hãm là kẻ thân thể khang kiện, tình dục mạnh mẽ, cho nên trong đời sống vợ chồng dễ có hạnh phúc vật chất. Nếu bộ vị đó quá nẩy nở, bất kể trai hay gái thì vì tình dục quá mạnh khiến kẻ phối ngẫu trung bình khó có thể thỏa mãn được nhu cầu tình dục. Trái lại khu vực Gian Môn quá thấp hoặc hõm (tương đối so với sự mập hay gầy của toàn thể khuôn mặt)thì kẻ đó có tính dăm dục ngấm ngầm .
                        9.-CUNG TẬT ÁCH (h.9/6)
                        Nằm ở khu vực sống mũi (bao gồm Sơn căn, Niên Thượng, Thọ thượng) cung Tật ách cho ta biết khái quát về sự khỏe mạnh hay suy kém của đương sự .
                        Nếu khu vực Sơn căn cao và hai bộ vị kế tiếp ngay ngắn, nẩy nở và thẳng xuôi đó là biểu hiện của kẻ được trời phú có sức chịu đựng bệnh tật, rất dẻo dai, có thể bị lâm nguy, nhưng không chết vì bạo bệnh. hơn nữa kẻ đó ít bị bệnh tật .
                        Khu vực sống mũi thấp, lệch, dễ bị bệnh và nếu kiêm thêm cả các vết hằn tự nhiên thì có thể quyết đoán là quanh năm bệnh tật liên miên, khó có thể trường thọ. Nếu tự nhiên khu vực cung Tật ách bị xạm đen thì đó là điềm báo trước bị trọng bệnh. Nếu các bộ vị quan trọng khác như Ấn đường, lông mày, cặp mắt đều ám đen thì có thể chết vì bạo bệnh trong một tương lai gần.
                        10. CUNG THIÊN DI (h.9/7)
                        Vị trí của cung Thiên Di ở hai bên phía trên của góc trán ) trong thuật ngữ của nhân tướng học, khu vực này được gọi là dịch mã). Ý nghĩa chính của cung thiên Di là sự di chuyển, giao tiếp với các tha nhân không phải là thân quyên của mình. tuy nói góc trán phía trên
                        nhưng cả khu vực lân cận cũng đều được coi trọng. Nếu khu vực Dịch mã và kế phía dưới đó là Thiên thương đầy đặn, cân xứng và sáng sủa thì đi xa làm ăn có lợi, được ngoại nhân giúp đỡ. Nếu khu vực Ngư vĩ (đuôi mắt) tươi đẹp thì đến già vẫn có triển vọng ngao du xa nhà một cách hanh thông. Nếu khu vực dịch mã lõm, lệch thì suốt đời đi xa chỉ chuốt lấy thất bại, người ngoài hờ hững. Nếu bộ phận trán và địa các lệch lạc, không cân xứng thì do ở chổ ngay từ căn bản Dịch mã bị mất thăng bằng, nên kẻ đó suốt đời long đong, không yên chổ.
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment


                        • #27
                          II. CUNG PHÚC ĐỨC:
                          Hiện nay theo chổ hiểu biết của soạn gỉa thì có hai thuyết trái ngược về cả vị trí lẫn ý nghĩa.
                          a. Thuyết thứ nhất: Được các sách cổ điển về tướng học như Ma Y thần tướng toàn biên, Thủy kinh tập và gần đây như Nghiên Nông Cư Sĩ trong sách Quan nhân tử vi của cung phúc đức nằm ở hai bên má chạy dài từ thiên thương xuống đén tận cùng của khuôn mặt.
                          Về ý nghĩa, cung Phúc đức cho phép dự đoán hy vọng về công danh, phú quý (do các bộ vị khác thể hiện) có thể có nhiều xác suất thành tựu trong thực tế hay không . căn cứ vào kinh nghiệm của cổ nhân thì nếu các cung khác tốt mà cung phúc đức xấu thì sự thành tựu thực tế của cá nhân dó bị suy giảm hẳn hoặc mất đi. Ngược lại nếu Cung Phúc đức tốt, các cung kia xấu thì sự xấu đó có thể nguy hại rất nhiều.
                          Đại khái là cung Phúc đức đầy đặn, cân xứng (trong ý nghĩa là cả hai bên phải , trái không mất quân bình quá rõ rệt), khí sắc tươi tắn thì chủ về phú quý dễ thành. Cằm tròn, trán hẹp, thuở thiếu niên gặp nhiều vất vả, trán rộng tốt mà cằm nhọn hẹp thì về giá lận đận. Nếu các bộ vị chủ về các cung khác không mấy tốt đẹp, nhưng cũng không xấu lắm mà được mày cao, mắt sáng thì vận số bình thường. Trái lại, vẫn trường hợp trên mà chân lông mày ăn lan xuống tận bờ mắt, tai có luân quách đảo ngược vị trí mà không thuộc loại Hỏa hình nhân thì đối với kẻ đó chẳng nên đề cặp đến chuyện phúc đức làm gì vô ích.
                          b)Thuyết thứ hai: Thuyết này mới được đưa ra trong mấy năm nay do hai nhà tướng học hiện tại là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ chủ xướng. Theo hai vị trên. vị trí của cung Phúc đức nằm ở phía trên phần cuối của cặp lông mày, giới hạn phía dưới là chân mày, phía trên vào khoảng trên dưới một phần tay. Ý nghĩa chính của nó là cho phép ta đón được sự may rủi có tính cách bất định của tài vận (tùy theo sự thay đổi của cách cấu tạo và khí sắc của khu vực trên, thời gian dự đón có thể lâu hay mau trước khi sự kiện xảy ra (h.9/8)
                          Bộ phận kể trên có thịt, sắc thái thanh khiết được coi là điểm tốt cho việc mưu cầu tài lộc. Ngược lại, có thể nói kẻ đó ít hy vọng giàu có. Bộ phận chỉ vị trí cung phúc đức bị vằn hoặc sẹo tự nhiên hoặc nốt rùi thì phải giải thích là rủi nhiều hơn may trong khi phối hợp với các cung khác để luận đoán các hung
                          12. CUNG TƯỚNG MẠO :
                          Vị trí là toàn bộ khuôn mặt bao gồm tất cả mọi bộ vị, toàn thể các cung phối hợp lại. Về điểm này, Cung tướng mạo cho ta một khái niệm khái quát về những nét trội yếu nhất của một cá nhân và tùy theo điểm trội yếu đó liên quan tới cung nào trong số 11 cung kể trên, ta sẽ biết được chiều hướng chính về mạng vận của kẻ đó sẽ đi về đâu và theo duổi hoạt động nào thì khả dĩ có nhiều triển vọng thành tựu nhất. Trở về các nguyên tắc căn bản của phép xem tướng (coi phần: 10 nguyên tắc căn bản cổ điển của phép xem tướng). Nhưng ở đây xét riêng về mặt các cung chúng ta chỉ cần định sự phối hợp Tam đình, Ngũ nhạc, Ngũ quan có cân xứng không mà thôi.
                          Riêng về phần Phụ Mẫu, tướng học không xếp chung một cung. Muốn biết về cha mẹ sách Ma Y tướng pháp toàn thư khuyên ta nên quan sát phần Nhật và Nguyệt giác "Hai khu vực này cao nổi, sáng một cách thanh khiết tự nhiên thì cha mẹ trường thọ, khỏe mạnh. Ngược lại cha mẹ thường hay đau yếu (hoặc mất sớm nếu thấp hãm và có ám khí tự nhiên và kéo dài từ lúc sơ sinh ). Nhật giác mà thấp hơn Nguyệt giác thì cha mất trước mẹ. Trường hợp ngược lại thì mẹ mất trước cha. Ngoài hai vị giác ra cần phải quan sát cả vị thế cân xứng của hai lông mày nữa (vẫn theo nguên tắc: lông mày trái chỉ cha, lông mày phải chỉ mẹ) cả hai cùng một chiều hướng ý nghĩa với hai giác. chỉ khi nào hai lông mày và hai khu vực Nhật và Nguyệt giác phù hợp nhau, sự dự đoán mới tạm gọi là chính xác trong phạm vi của cung phụ mẫu. Hơn nữa, việc dự đoán các hung của cha mẹ cũng phải đạt trong phạm vi tổng quát của cung Phúc đức và nhất là cung tướng mạo .
                          * Nhật giác là góc trán bên trái phía trên, Nguyệt giác là góc trán bên phải. Đôi khi người ta còn gọi Nhật giác là Tả giác . Nguyệt giác là Hữu giác.
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment


                          • #28
                            TRÁN

                            1. ĐẠI CƯƠNG:

                            Trán là phần mặt của thượng đình. Trong lãnh vực cốt tướng học, Trán là phần bạo bọc phía ngoài của tiền não bộ. Vì tiền não bộ được y giới công nhận là chủ về trí tuệ nên giữa sự cấu tạo và phát triển của tiền não bộ và hính dáng của Trán có liên quan mật thiết với nhau. Do đó xét về trí tuệ con người rộng hẹp, sâu, nông không gì bằng xét hình dạng của Trán. Thông thường Trán cao rông, đầy đặn và ngay ngắn là biểu thị của trí tuệ cao thâm vì khái quát lực, thống nhất lực và quan sat lực phát triển mạnh mẽ khiến người ta dễ dàng quyết đoán kịp thưòi và chuẩn xác. Thành công và đắc lợi là ở chổ đó. Trái lại, kẻ đầu óc trì độn hay do dự bất quyết hoặc nhận định thiếu sót thường bỏ phí nhiều cơ may vận tốt. Do đó về mặt mạng vận, tướng học cổ điển gọi trán là Quan lộc cung thật là có ý nghĩa. trán rộng và cao thì đường công danh rạng rỡ, còn hẹp và thấp thì Quan lộc diên tri và trí tuệ bất túc.
                            Nhưng trán rộng hay cao, hẹp hay thấp là do sự cấu tạo tiên thiên, không do cá nhân quyết định, may mắn thì được trán tốt, tức là bẩm thụ được trí tuệ cao viễn, chẳng may thì ngược lại . Bởi vậy trán còn biểu thị cung Phúc đức của môt cá nhân, Phúc đức rộng hay hẹp , dày hay mỏng có thể do trán thể hiện một phần lớn.
                            2. CÁC DẠNG THỨC CỦA TRÁN :
                            Nếu ta gọi AC là chiều dài khuôn mặt và MN là bề ngang rộng nhất của trán thì ta sẽ có một tiêu chuẩn để định trán cao hay thấp và rông hẹp như sâu (h.10)
                            Nhìn một cáh tổng quát ta phân biệt được trán cao và rộng, trán thấp và trán hẹp, trán lồi và Trán vắt v.v...Trên thực tế các loại trên lại pha trộn với nhau tạo thành muôn vàng hình dáng dị biệt. Trước khi đi sâu vào chi tiết cần phải phân biệt thế nào là dài và rộng.


                            1. AB = 1/2 BC
                            tiêu chuẩn
                            MN = BC chung bình
                            2. AB > BC/2 Trán cao
                            AB < BC/2 Trán thấp
                            3. MN >BC Trán rộng
                            MN Trán hẹp
                            Attached Files
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


                            • #29
                              Thông thường, bề ngang khuôn mặt bằng chiều dài tính từ khỏng giữa 2 đầu lông mày tới cằm (xem h.10). Qua tiêu chuẩn mẫu đó thì coi là rộng, dưới tiêu chuẩn đó bị coi là hẹp. Về chiều cao của trán, đối với người thanh niên và không sói đầu quá sớm thì bằng một nữa chiều dài từ khoảng giữa 2 đầu lông mày tới cằm. trên mức độ đó là cao, dưới mức độ đó coi là thấp.
                              1. Trán rộng :
                              Bề ngang rộng, phẳng, có bề cao trung bình biểu thị đặc tính bị động củ trí tuệ. Người có trán rộng mà thấp là kẻ có trí nhớ dai, khả năng ghi nhận các sự kiện cụ thể rất mạnh, nhưng óc phân đoán không hoàn hảo. Họ chỉ suy luận và phán đoán một cách cụ thể. Óc tưởng tượng của họ chỉ lập lại các hoàn cảnh đã trải qua chứ không kết hợp được để sáng tạo ra những hình ảnh mới . Nói một cách tổng quát, đối với một người có trán trung bình hoặc hơi thiếu bề cao, mà lại rất rộng bề ngang thì có thể
                              quyết đoán rằng người đó có khả năng phát triển kiến thức về chiều rộng nhưng không đủ khả năng phát tiển về chiều sâu . Nếu phần dưới của trán, giáp ranh với lông mày, lại bằng phẳng và chiếm phần trội yếu thì kẻ đó thiếu hẳn trí tượng cần thiết để có thể tiên liệu được các hậu quả sẽ xảy tới trong tương lai do việc làm hiện tại của mình. Ngược lại nếu phần trên cảu trán quá rộng so với toàn bộ trán thì kẻ đó quá thiên về tưởng tượng, mơ mộng, thiếu thực tế .
                              2. Trán cao:
                              Trán chỉ có bề cao mà bề ngang xấp xỉ ở mức trung bình thì đặc điểm của trí tuệ sẽ là sự phát tiển của óc phán đoán, tập trung tư tưởng dễ và có khả năng sáng tạo (óc tưởng tượng khá dồi dào). bề ngang càng thu hẹp ở khu vực qunh mi-cốt đi đôi với sự phát triển quá đáng của phần trên sẽ là dấu hiệu của sự tưởng tượng xa với thực tế, sự lĩnh hội chỉ ở trong lĩnh vực siêu hình hoặc không tưởng.
                              Nếu Trán được phát triển cả bề ngang lẫn chiều cao thì thường thường là kẻ đó được thiên phú trí tuệ thâm viễn và hoàn hảo: óc quan sát khả năng lĩnh hội và trí tưởng tượng sáng tạo phong phú dễ thích ứng với hoàn cảnh thực tại. Tuy nhiên, các đức tính trên muốn được phát huy và trở thành hữu dụng lại còn phải tùy thuộc phần lớn vào cách cấu tạo chung của khuôn mặt, sự cân xứng của các bộ vị và nhất là đặc tính về phẩm chất của các bộ vị căn bản. Sự rộng hẹp cao thấp chỉ là dấu hiệu về lượng chưa đủ để xác định rõ ràng.
                              Ngược lại, nếu kẻ mà Trán vừa hẹp, vừa thấp là kẻ trí tuệ bị giối hạn tới mức tối đa. Mọi khả năng quan sát, lĩnh hội và phán đoán đều ở mức dưới trung bình. Các nhận xét của họ hoàn toàn dựa vào các sự quan sát nhãn tiền về các sự vật cụ thể hữu hình. Ngoài 4 trạng thái: cao, thấp, rộng, hẹp, Trán còn có thể có một trong các hình dạng sau đây tùy theo cách phối trí của chân tóc.
                              3.- Trán vuông
                              Trán có hình thể vuông vức (h.11) là dấu hiệu bề ngoài của sự trọng thực tiễn. Vuông cạnh mà cao rộng là đặc tính của tinh thần thực tiển và có khả năng thực hiện các quan niệm của mình. Phần lớn các khoa học gia, kinh tế gia, thực nghiệp gia đều có loại Trán kể trên .
                              Attached Files
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


                              • #30
                                Nếu Trán thấp hẹp mà lại có góc cạnh vuông thì trỏ óc trọng thực tiễn hoặc chỉ nhận thức được những điều thực tiễn nãng tiền nhỏ hẹp .
                                4.- Trán có góc tròn
                                Hai góc trên của Trán nẩy nở và không có tóc tạo thành hai góc tròn khá rộng khiến phần Trán tiếp giáp với chân tóc trông giống chữ M (h.12)

                                Loại Trán này nếu cao rộng là đặc tính của khả năng văn học, nghệ thuật thiên bẩm. Đối với các hoạt động vật chất thường nhật loại người có Trán như trwn thường có ý coi rẻ nên không thích ứng với các nghề thực dụng. Ở những người Trán thấp hoặc hẹp, dạng thức trên của Trán trỏ khía cạnh tiêu cực của khả năng thẩm mỹ và nghệ thuật : cảm thấy được cái đẹp nhưng không có khả năng diển đạt hoặc thực hiện
                                5.- Trán gồ (lồi)
                                Ta phân biệt ba loại .
                                a) Gồ phần giữa (h.13)
                                Trán gồ lên ở phần giữa mà toàn bộ Trán lại thấp (tức là dưới mức trung bình )
                                hẳn thực tế. Loại người này không bao giờ vạch ra được một kế hoạch khả dĩ thực hành được .
                                b) Trán gồ và ở hai phần trên dưới (h.14)
                                Trán hình dạng này biểu thị trí tuệ bất túc trong nhiều trường hợp, khả năng trí tuệ dễ dàng hướng dẫn hành đọng trong lãnh vực thực tiễn quen thuộc, nhưng nếu một nghịch cảnh xảy ra, người đó sẽ không biết phản ứng thích nghi với hoàn cảnh mới và sẻ lúng túng không tiìm được cách giải quyết ổn thỏa tinh thần luôn luôn bị ám ảnh .
                                Nếu phần lọm ở giữa Trán chỉ vừa phải, phần gồ trên dưới cũng ở mức vừa phải thì sự lúng túng sẽ có thể vượt qua sau một thời gian nghiền ngẫm. Qúa nổi bật, thì sự lúng túng đó đưa đến sự bất quyết, bần thần và có thể là sự ù lì (ỉnirtie)
                                c)Gồ ở phần dưới (h.15)
                                Thông thường, nếu Trán ở mức trên trung bình về cả cao lẫn rộng, dấu hiệu này cho biết là kẻ đó có óc thông minh
                                Attached Files
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X