Các trường phái Phong Thuỷ
Sơ lược các phái Phong Thuỷ
- Về loan đầu tức hình thế, phái hình thế tiên phong bởi ông tổ của phái này là Phong Thủy tổ sư Quách Phác người khởi sự cho môn phái hình thế. Chủ trương phái này vô cùng chú trọng hình thế của cuộc đất, căn cứ vào hình thế của các bộ phận long huyệt sa thuỷ, hướng đi đến để luận cát hung. Hình thế phải phân chia ra làm 3 tiểu môn phái là phái loan đầu, phái hình tượng và phái hình pháp. 3 tiểu môn này hỗ trợ cho nhau khó có thể phân chia rạch ròi.
- Phái loan đầu : Phái này chú trọng xem xét hình thế tự nhiên của mạch núi dòng sông, quan sát long mạch đến đi tìm nơi kết huyệt. Căn cứ vào hình dáng bố cục của sa, sơn, thuỷ đến thủy đi luận cát hung cho huyệt.
- Phái hình tượng : Là một phái vô cùng cao thâm thượng thừa. Phái này cũng căn cứ vào hình thế tự nhiên của mạch núi dòng sông, hình tượng hoá cuộc đất thành những biểu tượng vô cùng đa dạng như những con vật như rùa, sư tử, rồng, hình tượng mỹ nữ soi gương... sau đó căn cứ ào hình tượng ấy để tìm ra nơi huyệt toạ lạc cũng như luận đoán phúc hoạ.
- Phái hình pháp : Phái này chủ trương ứng dụng những phép tắc nhất định trên cở sở phái loan đầu đã quan sát thế cục. Chủ yếu luận sự cát hung của huyệt trường phụ thuộc vào những quy tắc của loan đầu. Ví dụ như có một đường chạy đâm thẳng vào huyệt thì luận là thế xuyên tâm.
3 tiểu phái trên ranh rới không rõ ràng, chủ yếu căn cứ vào thế núi, mạch núi chạy để xem xét sự kết huyệt cũng như sự tốt xấu của huyệt bởi trong loan đầu, long mạch có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thẩm định giá trị của huyệt mà sự biểu hiện của long mạch là thông qua những thế núi bao bọc lấy huyệt.
Phái lý khí dựa chủ yếu vào lý thuyết âm dương ngũ hành, bát quái, hà đồ, lạc thư làm căn cứ luận đoán. Sau đó đem áp dụng vào huyệt để tìm sự tương giao giữa các nhân tố. Trên căn cứ này để luận đoán sự tốt xấu hiện tại và tương lai. Thường lý khí áp dụng rất quan trọng trong dương trạch nhà ở.
Về lý khí có các tiểu phái sau :
- Phái Bát Trạch : Căn cứ vào toạ sơn làm quái gốc, kết hợp với 8 quái còn lại theo du niên tạo thành 8 sao Sinh khí, phúc đức, thiên y, phục vị là tứ cát tinh, ngũ quỷ, tuyệt mệnh, lục sát, hoạ hại là tứ hung tinh. Trong bài trí thích hợp phương cát, kỵ phương hung, tối quan trọng Đông Tây đồng vị , kỵ Đông Tây hỗn loạn. Bát Trạch cũng áp dụng cho mệnh cung của từng người, người Đông tứ mệnh hợp với hướng Đông tứ trạch và tương từ cho Tây tứ mệnh. Tuy nhiên cũng theo quan điểm phải này thì có hàng vạn ngàn người cùng một mệnh Đông tứ trạch thì chỉ ở phương Đông tứ trach hay sao ? mặt khác quan niệm căn cứ vào Bát Trạch để phân chia công cửa phòng ốc là phương pháp tĩnh, không hợp với quan điểm Dịch lý, xem ra có phần thô lậu, giản đơn. Chỉ có phái Huyền Không Phi Tinh khả dĩ chuẩn xác và phù hợp.
- Mệnh lý phái : Dựa chủ yếu vào mệnh cung thân chủ, kết hợp với Huyền Không phi tinh của các sơn hướng để tìm ra các sao chiếu. Sau đó luận theo âm dương ngũ hành hỷ kỵ để tìm ra phương vị phù hợp. kết hợp thêm với trang sức, máu sắc cùng các vật dụng trong nhà để bày bố, hoả giải phù hợp.
- Phái Tam Hợp : Căn cứ theo lý luận sơn thuỷ là chủ, huyệt phải căn cứ vào bản chất của sơn thủy hay long để xem xét ngũ hành của trạch toạ trạch có tương hợp hay không. Với thủy thì phân ra 12 cung vị trường sinh để lựa chọn thuỷ đến thủy đi, thuỷ đến chọn phương sinh vượng bỏ phương suy tử. Thuỷ đi chọn phương suy tử bỏ phương sinh vượng. Phái này chủ yếu áp dụng cho âm trạch.
- Phái Phiên Quái : Chủ yếu dựa vào phiên quái pháp do Hoàng Thạch Công khởi xướng, hìnhh thành Cửu tinh Bát Quái là tham lang, cự môn, lộc tồn, văn khúc, liêm trinh, vũ khúc, phá quân, tả phụ, hữu bật phối hợp với sơn thuỷ bày bố xung quanh huyệt để luận đoán cát hung.
- Phái tinh túc : Dùng 28 tinh tú phối chiếu, căn cứ vào ngũ hành của sao, phối hợp với loan đầu núi sông để luận đoán cát hung.
- Huyền Không phi tinh quái : Một phái lớn căn cứ vào Hà đồ, Lạc thư đề xuất Cửu tinh là Nhất bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử bày bố theo thời gian chiếu vào các cung vị xung quanh huyệt. Ngoài ra còn có phi tinh của sơn hướng toạ huyệt, căn cứ vào phi tinh và vận tinh đó để luận đoán sự phối hợp tốt xấu với hình thế núi non sông nước xung quanh huyệt hình thành hoạ phúc.
Phái chia rất nhiều nhưng người học cần tinh thông về lý khí, về âm dương ngũ hành, huyền không đại quái. Sau đó kết hợp với những luận đoán về loan đầu mà tổng hợp lại dung hoà giữa tinh hoa các phái. các phái có nhiều nhưng tự trung đều quay quanh một lý thuyết hợp nhất lấy Dịch làm căn bản, cần nhát người học phải lấy tinh bỏ thô, dung hoà được những tinh hoa đúc kết dựa trên kinh nghiệm.
Phong Thuỷ là gì ?
Phong Thuỷ có một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Nó chi phối ảnh hưởng đến hoạ phúc cát hung của mỗi tổ chức, mỗi dòng họ cũng như mỗi cá nhân. Vì vậy Phong Thuỷ thuộc vào "Tứ Đại Thiên Vương" tức 4 học thuyết lớn nhất của nền văn hoá Trung Hoa, đó là Dịch học, Phong Thuỷ học, Tướng Pháp và Bát Tự Pháp.
Vậy Phong Thuỷ là gì ?
Phong Thuỷ tức là Nước và Gió, là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của Địa lý đến đời sống hoạ phúc của con người. Cụ thể là sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến mỗi cá nhân. Vì người xưa quan niệm nước và khí có quan hệ mật thiết đến sức khoẻ và đời sống con người. Trong thực tế cũng luôn luôn diễn ra, nếu ta sống ở một môi trường địa lý thuận lợi, thoáng mát thì sức khoẻ tốt, dẫn đến thành công. Còn nếu cư trú ở nơi ẩm thấp tất sinh bệnh tật, thất bại.
Phong Thuỷ chia làm hai lĩnh vực :
- Âm phần : Nghiên cứu các huyệt vị để chôn thi hài người chết. Người xưa quan niệm khi người ta chết đi, phần hồn vẫn còn và chi phối hoạ phúc của con cháu. Vì vậy nếu được chôn vào các huyệt vị tốt thì đời sau con cháu sẽ phát đạt về công danh, tài lộc giàu có.
- Dương phần : Nghiên cứu các huyệt vị để làm nhà, cách thức xây dựng, kiến trúc công trình xây dựng, nội thất nhà ở. Những điều đó cũng chi phối đến hoạ phúc cát hung của gia chủ.
Người xưa quan niệm : Số mệnh của một con người không chỉ phụ thuộc vào bản thân người đó (tức ngày, giờ sinh) mà còn chịu ảnh hưởng của Âm phần và Dương phần: “Nhất mộ, nhì phòng, tam bát tự”
Vì vậy, Phong Thuỷ có vai trò rất to lớn, tuy nhiên nó chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ không thể làm thay đổi hoàn toàn mệnh vận. Nó là nhân tố quyết định sự thành bại. Nếu Phong Thuỷ tốt sẽ giúp giảm thiểu được tai hoạ khi vào vận xấu, giúp gia tăng sự thành công và may mắn khi vào vận tốt.
Về Dương Trạch tức Phong Thuỷ của nhà ở, những vấn đề cần xét có rất nhiều như huyệt vị, làm nhà, hướng nhà, cấu trúc nhà, nội thất, ... Cần phải xét tất cả các yếu tố mới làm thành Phong Thuỷ tốt cho ngôi nhà.
Hiện tại người ta không ngừng tranh luận về tính đúng đắn, sự khen chê tất cả đều có. Nhưng cho dù có nhiều quan niệm đối nghịch thì Phong Thuỷ tự nó vẫn tồn tại trải qua hàng nghìn năm phát triển, hiên ngang thách thức khoa học hiện đại. Một khoa học chỉ tồn tại và trường tồn được với thời gian nếu nó khẳng định được tính đúng đắn của mình trong thực tế. Và Phong Thuỷ đã đạt được điều đó, nếu không chắc hẳn nó đã không thể trải qua một thời kỳ tồn tại và phát triển lâu đến như vậy.
Ngay từ thời cổ xưa, cha ông ta đã biết chọn những hang động kín đáo an toàn để tránh mưa tránh bão, chọn những nơi màu mỡ để canh tác nông nghiệp. Ngày nay dù Phương Tây hay Phương Đông khi xây dựng nhà ở đều phải chọn những vị trí hợp với môi trường địa lý xung quanh địa bàn, dù theo một lối kiến trúc nào thì cũng phải căn cứ vào địa thế xung quanh để tạo dựng một kiến trúc đẹp về thẩm mỹ, lợi về sinh hoạt. Tóm lại ít nhiều kiến trúc nhà cửa đều liên quan đến Phong Thuỷ.
Cần nhắc lại rằng Phong là Gió, Thuỷ là nước, người xưa coi khí như một khái niệm vô hình quyết định sự sinh tồn, tốt xấu của toàn bộ sự vật và đới sống con người. Khái niệm "Khí" vô hình nhưng sự biểu hiện cụ thể của nó chính là Gió và Nước. Phong Thuỷ là môn khoa học thần bí nghiên cứu về việc chọn đất, chọn hướng, bố trí nội thất nhằm tối ưu nhà ở, đem lại những điều kiện tốt nhất cho sự tồn tại và phát triển của cuộc sống con người.
Nguồn gốc hình thành Kinh Dịch
Theo các sách Hán cổ, Kinh Dịch được ra đời từ thời Ngũ Đế trong lịch sử Trung Quốc. Vua Phục Hy trong một lần đi trị thuỷ trên sông Hoàng Hà thấy một con Long Mã nổi lên. Trên lưng con Long Mã xuất hiện 9 vân, Vua Phục Hy căn cứ vào đó vạch ra một vạch liền gọi là Dương, một vạch đứt gọi là âm. Hai vạch này gọi là lưỡng nghi.
Trên mỗi nghi lần lượt thêm một vạch được tứ tượng, trên tứ tượng vạch thêm một vạch nữa sinh ra bát quái tức tám quẻ đơn.
Vua Phục Hy lại đem 8 quẻ đơn này xếp chồng lên nhau hoàn vị và hình thành nên 64 quẻ kép. 64 quẻ này chưa có tên và chưa có lời. Đến đời nhà Chu, vua Văn Vương đặt tên cho 64 quẻ kép là Càn, Khôn, Truân,... đến Vị Tế. Sau đó ông đặt lời cho từng hào trong mỗi quẻ gọi là lời quẻ. Mỗi quẻ có tượng quẻ và chiêm của quẻ mục đích là để bói xem việc lành dữ ra sao.
Đến Chu Công là con trai của Văn Vương gọi 6 vạch là 6 hào, thứ tự các hào trong quẻ gọi là ngôi của hào đại diện cho các giai tầng trong xã hội như: hào đầu là thứ dân, hào hai là tư mục, hào ba là quan khanh đại phu, hào bốn là ngôi vị đại thần trong triều đình, hào năm là ngôi vua, hào sáu đại diện cho các bô lão. Chu Công cũng đặt lời cho 6 hào gọi là hào từ. Mỗi hào từ cũng có tượng hào và chiêm của hào để người xem biết việc lành dữ ra sao.
Kinh Dịch chỉ thực sự được hoàn thiên cho đến thời Xuân Thu. Khổng Tử là người kế thừa và phát triển Kinh Dịch một cách đầy đủ nhất. Ông bổ sung “Thập dực” để giải thích và phát triển thêm những lời thoán của Văn Vương và hào từ của Chu Công. Thập Dực bao gồm Thoán Truyện, Tượng Truyện, Hệ từ và Văn Ngôn.
Đến đời Hán, các nhà Dịch học đem Thoán truyện , Tượng truyện, Hệ từ, Văn Ngôn hợp vào Kinh Dịch nguyên thuỷ của Văn Vương và Chu Công gọi là Chu Dịch.
Tóm lại Kinh dịch bao gồm các quẻ của Phục Hy, lời quẻ của Văn Vương, lời hào của Chu Công và Thập Dực của Khổng Tử.
Sơ lược lịch sử phát triển của khoa Phong Thuỷ
Thuật Phong Thuỷ hình thành rất sớm,có thể nói gần như cùng với sự ra đời của loài người thì con người từ khi sinh ra đã biết chọn những vị trí cư trú có núi non che chở bao bọc, lại gần sông ngòi, nguồn nước. Từ đời nhà Chu đã có quá trình chọn đất xây nhà tại vùng bình nguyên, đây là vùng đất mầu mỡ, có thể canh tác nông nghiệp thuận lợi. Gần nguồn nước mà vẫn tránh được lụt lội, tai hoạ thời tiết, thiên tai. Vì vậy, thuật Phong Thuỷ nghe có vẻ huyền bí nhưng thực ra lại rất thực tế và gần gũi với đời sống.
Trải qua lịch sử phát triển của các triều đại, đời nào cũng có những học giả kế tục và phát triển. Nhưng sự huyền bí của nó thể hiện ở chỗ, có rất nhiều các học phái khác nhau dựa trên những suy luận khác biệt nhau, thậm chí có khi đối lập nhau. Cho đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Vì vậy người ứng dụng Phong Thuỷ hiện đại đòi hỏi phải biết gạn đục khơi trong. Biết gạn bỏ những gì không hợp lý qua chiêm nghiệm thực tế và phát huy những gì đúng đắn nhất và quan trọng nhất là phù hợp với đời sống xã hội hiện đại ngày nay.
Trong lịch sử phát triển, thuật Phong Thuỷ hình thành nên nhiều trường phái khác nhau, mỗi trường phái có phương pháp lý luận và ứng dụng riêng. Có một số trường phái lớn được biết đến như sau :
+ Phái Bát Trạch : Do Thái Kim Oanh phát triển và hoàn thiện trong tác phẩm Bát Trạch Minh Cảnh. Phái này căn cứ chủ yếu vào sự kết hợp giữa mệnh cung của chủ nhà với các hướng để luận tốt xấu và thiết kế nhà ở.
+ Phái Huyền Không : căn cứ vào môn Cổ Dịch Huyền Không, dùng Phi Tinh tức là sự vận động các luồng khí khởi nguồn từ Bát Quái để luận đoán tốt xấu. Phái này cũng đặc biệt chú trọng tới vận khí, tức là sự tốt xấu của căn nhà theo thời gian, còn được gọi là Trạch Vận. Qua đó dự đoán được tốt xấu cho căn nhà theo từng thời điểm để có phương án bài trí và sửa chữa hợp lý.
+ Phái cảm xạ Phong Thuỷ : Nghiên cứu về khí trường Phong Thuỷ và các nguồn năng lượng sinh học.
Ngoài 2 trường phái lớn trên còn hình thành nên một số trường phái khác với những đặc trưng về học thuật và công phu nghiên cứu khác nữa, ví dụ :
+ Phái Dương Trach Tam Yếu : do Triệu Cửu Phong khởi xướng, sau là Lộc Dã Phu phát triển trong hai tác phẩm Dương Trạch Tam Yếu và Dương Cơ Chứng Giải
+ Phái Huyền Thuật Phong Thuỷ : Là môn Phong Thuỷ bí truyền trong dân gian, được truyền theo lối tâm truyền, không mấy phổ biến. Phái này chuyên nghiên cứu việc phát hiện và trấn yểm các Long Mạch, chủ yếu áp dụng cho mộ phần.
Tóm lại, Phong Thuỷ là một nghệ thuật bài trí không gian, rất tinh tuý, tuy nhiều bí ẩn nhưng nếu hiểu được và áp dụng đúng thì sẽ mang lại những hệ quả hết sức lớn lao nằm ngoài những nỗ lực về trí tuệ và sức lực thuần tuý của con người.
Sơ lược các phái Phong Thuỷ
- Về loan đầu tức hình thế, phái hình thế tiên phong bởi ông tổ của phái này là Phong Thủy tổ sư Quách Phác người khởi sự cho môn phái hình thế. Chủ trương phái này vô cùng chú trọng hình thế của cuộc đất, căn cứ vào hình thế của các bộ phận long huyệt sa thuỷ, hướng đi đến để luận cát hung. Hình thế phải phân chia ra làm 3 tiểu môn phái là phái loan đầu, phái hình tượng và phái hình pháp. 3 tiểu môn này hỗ trợ cho nhau khó có thể phân chia rạch ròi.
- Phái loan đầu : Phái này chú trọng xem xét hình thế tự nhiên của mạch núi dòng sông, quan sát long mạch đến đi tìm nơi kết huyệt. Căn cứ vào hình dáng bố cục của sa, sơn, thuỷ đến thủy đi luận cát hung cho huyệt.
- Phái hình tượng : Là một phái vô cùng cao thâm thượng thừa. Phái này cũng căn cứ vào hình thế tự nhiên của mạch núi dòng sông, hình tượng hoá cuộc đất thành những biểu tượng vô cùng đa dạng như những con vật như rùa, sư tử, rồng, hình tượng mỹ nữ soi gương... sau đó căn cứ ào hình tượng ấy để tìm ra nơi huyệt toạ lạc cũng như luận đoán phúc hoạ.
- Phái hình pháp : Phái này chủ trương ứng dụng những phép tắc nhất định trên cở sở phái loan đầu đã quan sát thế cục. Chủ yếu luận sự cát hung của huyệt trường phụ thuộc vào những quy tắc của loan đầu. Ví dụ như có một đường chạy đâm thẳng vào huyệt thì luận là thế xuyên tâm.
3 tiểu phái trên ranh rới không rõ ràng, chủ yếu căn cứ vào thế núi, mạch núi chạy để xem xét sự kết huyệt cũng như sự tốt xấu của huyệt bởi trong loan đầu, long mạch có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thẩm định giá trị của huyệt mà sự biểu hiện của long mạch là thông qua những thế núi bao bọc lấy huyệt.
Phái lý khí dựa chủ yếu vào lý thuyết âm dương ngũ hành, bát quái, hà đồ, lạc thư làm căn cứ luận đoán. Sau đó đem áp dụng vào huyệt để tìm sự tương giao giữa các nhân tố. Trên căn cứ này để luận đoán sự tốt xấu hiện tại và tương lai. Thường lý khí áp dụng rất quan trọng trong dương trạch nhà ở.
Về lý khí có các tiểu phái sau :
- Phái Bát Trạch : Căn cứ vào toạ sơn làm quái gốc, kết hợp với 8 quái còn lại theo du niên tạo thành 8 sao Sinh khí, phúc đức, thiên y, phục vị là tứ cát tinh, ngũ quỷ, tuyệt mệnh, lục sát, hoạ hại là tứ hung tinh. Trong bài trí thích hợp phương cát, kỵ phương hung, tối quan trọng Đông Tây đồng vị , kỵ Đông Tây hỗn loạn. Bát Trạch cũng áp dụng cho mệnh cung của từng người, người Đông tứ mệnh hợp với hướng Đông tứ trạch và tương từ cho Tây tứ mệnh. Tuy nhiên cũng theo quan điểm phải này thì có hàng vạn ngàn người cùng một mệnh Đông tứ trạch thì chỉ ở phương Đông tứ trach hay sao ? mặt khác quan niệm căn cứ vào Bát Trạch để phân chia công cửa phòng ốc là phương pháp tĩnh, không hợp với quan điểm Dịch lý, xem ra có phần thô lậu, giản đơn. Chỉ có phái Huyền Không Phi Tinh khả dĩ chuẩn xác và phù hợp.
- Mệnh lý phái : Dựa chủ yếu vào mệnh cung thân chủ, kết hợp với Huyền Không phi tinh của các sơn hướng để tìm ra các sao chiếu. Sau đó luận theo âm dương ngũ hành hỷ kỵ để tìm ra phương vị phù hợp. kết hợp thêm với trang sức, máu sắc cùng các vật dụng trong nhà để bày bố, hoả giải phù hợp.
- Phái Tam Hợp : Căn cứ theo lý luận sơn thuỷ là chủ, huyệt phải căn cứ vào bản chất của sơn thủy hay long để xem xét ngũ hành của trạch toạ trạch có tương hợp hay không. Với thủy thì phân ra 12 cung vị trường sinh để lựa chọn thuỷ đến thủy đi, thuỷ đến chọn phương sinh vượng bỏ phương suy tử. Thuỷ đi chọn phương suy tử bỏ phương sinh vượng. Phái này chủ yếu áp dụng cho âm trạch.
- Phái Phiên Quái : Chủ yếu dựa vào phiên quái pháp do Hoàng Thạch Công khởi xướng, hìnhh thành Cửu tinh Bát Quái là tham lang, cự môn, lộc tồn, văn khúc, liêm trinh, vũ khúc, phá quân, tả phụ, hữu bật phối hợp với sơn thuỷ bày bố xung quanh huyệt để luận đoán cát hung.
- Phái tinh túc : Dùng 28 tinh tú phối chiếu, căn cứ vào ngũ hành của sao, phối hợp với loan đầu núi sông để luận đoán cát hung.
- Huyền Không phi tinh quái : Một phái lớn căn cứ vào Hà đồ, Lạc thư đề xuất Cửu tinh là Nhất bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích, Bát Bạch, Cửu Tử bày bố theo thời gian chiếu vào các cung vị xung quanh huyệt. Ngoài ra còn có phi tinh của sơn hướng toạ huyệt, căn cứ vào phi tinh và vận tinh đó để luận đoán sự phối hợp tốt xấu với hình thế núi non sông nước xung quanh huyệt hình thành hoạ phúc.
Phái chia rất nhiều nhưng người học cần tinh thông về lý khí, về âm dương ngũ hành, huyền không đại quái. Sau đó kết hợp với những luận đoán về loan đầu mà tổng hợp lại dung hoà giữa tinh hoa các phái. các phái có nhiều nhưng tự trung đều quay quanh một lý thuyết hợp nhất lấy Dịch làm căn bản, cần nhát người học phải lấy tinh bỏ thô, dung hoà được những tinh hoa đúc kết dựa trên kinh nghiệm.
Phong Thuỷ là gì ?
Phong Thuỷ có một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Nó chi phối ảnh hưởng đến hoạ phúc cát hung của mỗi tổ chức, mỗi dòng họ cũng như mỗi cá nhân. Vì vậy Phong Thuỷ thuộc vào "Tứ Đại Thiên Vương" tức 4 học thuyết lớn nhất của nền văn hoá Trung Hoa, đó là Dịch học, Phong Thuỷ học, Tướng Pháp và Bát Tự Pháp.
Vậy Phong Thuỷ là gì ?
Phong Thuỷ tức là Nước và Gió, là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của Địa lý đến đời sống hoạ phúc của con người. Cụ thể là sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến mỗi cá nhân. Vì người xưa quan niệm nước và khí có quan hệ mật thiết đến sức khoẻ và đời sống con người. Trong thực tế cũng luôn luôn diễn ra, nếu ta sống ở một môi trường địa lý thuận lợi, thoáng mát thì sức khoẻ tốt, dẫn đến thành công. Còn nếu cư trú ở nơi ẩm thấp tất sinh bệnh tật, thất bại.
Phong Thuỷ chia làm hai lĩnh vực :
- Âm phần : Nghiên cứu các huyệt vị để chôn thi hài người chết. Người xưa quan niệm khi người ta chết đi, phần hồn vẫn còn và chi phối hoạ phúc của con cháu. Vì vậy nếu được chôn vào các huyệt vị tốt thì đời sau con cháu sẽ phát đạt về công danh, tài lộc giàu có.
- Dương phần : Nghiên cứu các huyệt vị để làm nhà, cách thức xây dựng, kiến trúc công trình xây dựng, nội thất nhà ở. Những điều đó cũng chi phối đến hoạ phúc cát hung của gia chủ.
Người xưa quan niệm : Số mệnh của một con người không chỉ phụ thuộc vào bản thân người đó (tức ngày, giờ sinh) mà còn chịu ảnh hưởng của Âm phần và Dương phần: “Nhất mộ, nhì phòng, tam bát tự”
Vì vậy, Phong Thuỷ có vai trò rất to lớn, tuy nhiên nó chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ không thể làm thay đổi hoàn toàn mệnh vận. Nó là nhân tố quyết định sự thành bại. Nếu Phong Thuỷ tốt sẽ giúp giảm thiểu được tai hoạ khi vào vận xấu, giúp gia tăng sự thành công và may mắn khi vào vận tốt.
Về Dương Trạch tức Phong Thuỷ của nhà ở, những vấn đề cần xét có rất nhiều như huyệt vị, làm nhà, hướng nhà, cấu trúc nhà, nội thất, ... Cần phải xét tất cả các yếu tố mới làm thành Phong Thuỷ tốt cho ngôi nhà.
Hiện tại người ta không ngừng tranh luận về tính đúng đắn, sự khen chê tất cả đều có. Nhưng cho dù có nhiều quan niệm đối nghịch thì Phong Thuỷ tự nó vẫn tồn tại trải qua hàng nghìn năm phát triển, hiên ngang thách thức khoa học hiện đại. Một khoa học chỉ tồn tại và trường tồn được với thời gian nếu nó khẳng định được tính đúng đắn của mình trong thực tế. Và Phong Thuỷ đã đạt được điều đó, nếu không chắc hẳn nó đã không thể trải qua một thời kỳ tồn tại và phát triển lâu đến như vậy.
Ngay từ thời cổ xưa, cha ông ta đã biết chọn những hang động kín đáo an toàn để tránh mưa tránh bão, chọn những nơi màu mỡ để canh tác nông nghiệp. Ngày nay dù Phương Tây hay Phương Đông khi xây dựng nhà ở đều phải chọn những vị trí hợp với môi trường địa lý xung quanh địa bàn, dù theo một lối kiến trúc nào thì cũng phải căn cứ vào địa thế xung quanh để tạo dựng một kiến trúc đẹp về thẩm mỹ, lợi về sinh hoạt. Tóm lại ít nhiều kiến trúc nhà cửa đều liên quan đến Phong Thuỷ.
Cần nhắc lại rằng Phong là Gió, Thuỷ là nước, người xưa coi khí như một khái niệm vô hình quyết định sự sinh tồn, tốt xấu của toàn bộ sự vật và đới sống con người. Khái niệm "Khí" vô hình nhưng sự biểu hiện cụ thể của nó chính là Gió và Nước. Phong Thuỷ là môn khoa học thần bí nghiên cứu về việc chọn đất, chọn hướng, bố trí nội thất nhằm tối ưu nhà ở, đem lại những điều kiện tốt nhất cho sự tồn tại và phát triển của cuộc sống con người.
Nguồn gốc hình thành Kinh Dịch
Theo các sách Hán cổ, Kinh Dịch được ra đời từ thời Ngũ Đế trong lịch sử Trung Quốc. Vua Phục Hy trong một lần đi trị thuỷ trên sông Hoàng Hà thấy một con Long Mã nổi lên. Trên lưng con Long Mã xuất hiện 9 vân, Vua Phục Hy căn cứ vào đó vạch ra một vạch liền gọi là Dương, một vạch đứt gọi là âm. Hai vạch này gọi là lưỡng nghi.
Trên mỗi nghi lần lượt thêm một vạch được tứ tượng, trên tứ tượng vạch thêm một vạch nữa sinh ra bát quái tức tám quẻ đơn.
Vua Phục Hy lại đem 8 quẻ đơn này xếp chồng lên nhau hoàn vị và hình thành nên 64 quẻ kép. 64 quẻ này chưa có tên và chưa có lời. Đến đời nhà Chu, vua Văn Vương đặt tên cho 64 quẻ kép là Càn, Khôn, Truân,... đến Vị Tế. Sau đó ông đặt lời cho từng hào trong mỗi quẻ gọi là lời quẻ. Mỗi quẻ có tượng quẻ và chiêm của quẻ mục đích là để bói xem việc lành dữ ra sao.
Đến Chu Công là con trai của Văn Vương gọi 6 vạch là 6 hào, thứ tự các hào trong quẻ gọi là ngôi của hào đại diện cho các giai tầng trong xã hội như: hào đầu là thứ dân, hào hai là tư mục, hào ba là quan khanh đại phu, hào bốn là ngôi vị đại thần trong triều đình, hào năm là ngôi vua, hào sáu đại diện cho các bô lão. Chu Công cũng đặt lời cho 6 hào gọi là hào từ. Mỗi hào từ cũng có tượng hào và chiêm của hào để người xem biết việc lành dữ ra sao.
Kinh Dịch chỉ thực sự được hoàn thiên cho đến thời Xuân Thu. Khổng Tử là người kế thừa và phát triển Kinh Dịch một cách đầy đủ nhất. Ông bổ sung “Thập dực” để giải thích và phát triển thêm những lời thoán của Văn Vương và hào từ của Chu Công. Thập Dực bao gồm Thoán Truyện, Tượng Truyện, Hệ từ và Văn Ngôn.
Đến đời Hán, các nhà Dịch học đem Thoán truyện , Tượng truyện, Hệ từ, Văn Ngôn hợp vào Kinh Dịch nguyên thuỷ của Văn Vương và Chu Công gọi là Chu Dịch.
Tóm lại Kinh dịch bao gồm các quẻ của Phục Hy, lời quẻ của Văn Vương, lời hào của Chu Công và Thập Dực của Khổng Tử.
Sơ lược lịch sử phát triển của khoa Phong Thuỷ
Thuật Phong Thuỷ hình thành rất sớm,có thể nói gần như cùng với sự ra đời của loài người thì con người từ khi sinh ra đã biết chọn những vị trí cư trú có núi non che chở bao bọc, lại gần sông ngòi, nguồn nước. Từ đời nhà Chu đã có quá trình chọn đất xây nhà tại vùng bình nguyên, đây là vùng đất mầu mỡ, có thể canh tác nông nghiệp thuận lợi. Gần nguồn nước mà vẫn tránh được lụt lội, tai hoạ thời tiết, thiên tai. Vì vậy, thuật Phong Thuỷ nghe có vẻ huyền bí nhưng thực ra lại rất thực tế và gần gũi với đời sống.
Trải qua lịch sử phát triển của các triều đại, đời nào cũng có những học giả kế tục và phát triển. Nhưng sự huyền bí của nó thể hiện ở chỗ, có rất nhiều các học phái khác nhau dựa trên những suy luận khác biệt nhau, thậm chí có khi đối lập nhau. Cho đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Vì vậy người ứng dụng Phong Thuỷ hiện đại đòi hỏi phải biết gạn đục khơi trong. Biết gạn bỏ những gì không hợp lý qua chiêm nghiệm thực tế và phát huy những gì đúng đắn nhất và quan trọng nhất là phù hợp với đời sống xã hội hiện đại ngày nay.
Trong lịch sử phát triển, thuật Phong Thuỷ hình thành nên nhiều trường phái khác nhau, mỗi trường phái có phương pháp lý luận và ứng dụng riêng. Có một số trường phái lớn được biết đến như sau :
+ Phái Bát Trạch : Do Thái Kim Oanh phát triển và hoàn thiện trong tác phẩm Bát Trạch Minh Cảnh. Phái này căn cứ chủ yếu vào sự kết hợp giữa mệnh cung của chủ nhà với các hướng để luận tốt xấu và thiết kế nhà ở.
+ Phái Huyền Không : căn cứ vào môn Cổ Dịch Huyền Không, dùng Phi Tinh tức là sự vận động các luồng khí khởi nguồn từ Bát Quái để luận đoán tốt xấu. Phái này cũng đặc biệt chú trọng tới vận khí, tức là sự tốt xấu của căn nhà theo thời gian, còn được gọi là Trạch Vận. Qua đó dự đoán được tốt xấu cho căn nhà theo từng thời điểm để có phương án bài trí và sửa chữa hợp lý.
+ Phái cảm xạ Phong Thuỷ : Nghiên cứu về khí trường Phong Thuỷ và các nguồn năng lượng sinh học.
Ngoài 2 trường phái lớn trên còn hình thành nên một số trường phái khác với những đặc trưng về học thuật và công phu nghiên cứu khác nữa, ví dụ :
+ Phái Dương Trach Tam Yếu : do Triệu Cửu Phong khởi xướng, sau là Lộc Dã Phu phát triển trong hai tác phẩm Dương Trạch Tam Yếu và Dương Cơ Chứng Giải
+ Phái Huyền Thuật Phong Thuỷ : Là môn Phong Thuỷ bí truyền trong dân gian, được truyền theo lối tâm truyền, không mấy phổ biến. Phái này chuyên nghiên cứu việc phát hiện và trấn yểm các Long Mạch, chủ yếu áp dụng cho mộ phần.
Tóm lại, Phong Thuỷ là một nghệ thuật bài trí không gian, rất tinh tuý, tuy nhiều bí ẩn nhưng nếu hiểu được và áp dụng đúng thì sẽ mang lại những hệ quả hết sức lớn lao nằm ngoài những nỗ lực về trí tuệ và sức lực thuần tuý của con người.