Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Tặng sách bói chỉ tay

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #46
    (Tiếp)
    Khi bị bệnh nặng, nếu thấy Sơn căn, Tỵ lương, môi, miệng đều xám xanh một lúc là dấu hiệu sẽ chết trong vòng năm, bảy ngày tới. Các bộ vị trên đều từ xám xanh chuyển dần sang màu vàng nghệ thì khoảng ba bốn ngày khó tránh khỏi tuyệt mạng. Nếu mắt lộ phù quang, gián đài, đình uý khô cằn, chuẩn đầu đen, môi miệng vàng là dấu hiệu sắp chết nội trong ngày.
    Ngược lại, bệnh dù nặng, nhưng màu đỏ của ấn đừơng biến dần sang màu vàng, môi miệng từ đen xạm sang hồng lạt là dấu hiệu nội tại cho biết bệnh tạng bắt đầu thuyên giảm, sinh mạng không có gì nguy hiểm.
    6 - Tướng trẻ em trai khắc cha
    -Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật nệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường
    -Lông mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng
    -Thân mũi lệch về bên trái hoặc một trong các bộ vị bên trái của mũi bị khuyết hãm
    -Quyền trái lộ
    -Tai trái thấp hơn tai phải hoặc hình thái có Luân Quách đảo ngược -Nhân trung lệch về bên trái
    -Khoé miệng lệch về trái. Môi trên dài hơn môi dưới quá đáng
    Có từ hai dấu hiệu trên trở lên có thể coi như tướng khắc cha. Càng nhiều hơn thì sự khắc phá càng nặng. Nếu có đủ tất cả có thể quả quyết là cha sẽ chết trước mẹ, hoặc người cha sẽ khốn khổ vì đứa con đó
    7 - Tướng trẻ em trai khắc mẹ
    -Nguyệt giác thấp, lệch, lẹm có lông măng quá đậm
    -Lông mày phải có lông mọc ngược hoặc thẳng đứng, trái lẽ thường trong khi phía trái bình thường
    -Sống mũi lệch về phải, các bộ vị phía phải của mũi có hình dạng bất thường
    -Quyền phải lệch, lộ, nhọn
    -Tai phải thấp, nhọn, khuyết
    -Nhân trung lệch về bên phải
    -Môi dưới dài hơn môi trên, hoặc khoé miệng phải lệch
    Nói chung, khuôn mặt bên phải chủ về mẹ. Nếu các bộ vị bên trái bình thường mà ít nhất hai hay nhiều bộ vị bên phải có các dấu hiệu trên thì có thể tiên đoán được đứa trẻ đó khắc mẹ. Nhẹ thì mẹ con bất hoà, tính tình xung khắc, nặng thì có thể vì sinh đứa con đó mà chết trước chồng .
    6. Tướng phụ nữ
    a ) Tương quan giữa vài nét tướng mặt và cơ thể
    Đời Đường (618 - 907), Nhất Hạnh Thiền sư, một nhà tướng học khét tiếng thời đó mà nay một phần tác phẩm về tướng vẫn còn được lưu truyền, có lẽ là người đầu tiên phổ biến quan niệm cho rằng có thể căn cứ vào một số nét tướng khuôn mặt để suy đoán ra các nét tướng trên thân mình. Để phân biệt con người thưc tế với con người thu gọn trên khuôn mặt, thiền sư mệnh danh hình ảnh đó là Tiểu Hình Nhân.
    Trải qua nhiều sóng gió của thời cuộc, công trình độc đáo của Nhất Hạnh Thiền sư bị binh lửa Trung Nguyên làm thất truyền khiến cho các sách tướng cổ điển của Trung Hoa không còn tài liệu độc đáo này. Tuy vậy, một số người Nhật giao thương với Trung Hoa thời đó may mắn sưu tập được một vài di cảo của Nhất Hạnh đem về nước nghiên cứu và phát huy thêm. Thành thử, nguyên cảo Trung Hoa bị thất lạc chỉ còn lời đồn, may nhờ Nhật giữ hộ mà không bị mai một vĩnh viễn. Từ công trình khảo sát sơ khởi của Nhất Hạnh đem ra nghiên cứu tướng đàn bà bổ túc thêm cho hợp với nữ giới. Người Trung Hoa đầu tiên du nhập lại kiến thức này là Tô Lãng Trai, tác giả quyển Ngũ quan tướng tĩnh nghiên cứu. Những điều trình bày trong mục này phần lớn căn cứ vào các tác phẩm của Ngũ Vị Trai và Tô Lăng Thiên cả.
    Muốn có tiểu hình nhân ta lấy khuôn mặt làm mẫu mực, miệng là đầu, hai mi cốt (xương lông mày) là hai chân, hai pháp lệnh là hai tay, nhân trung là cổ, mũi là toàn thể thân mình.
    1 - Hai cánh mũi
    Phàm hai cánh mũi phụ nữ cân xứng thì nhũ hoa cũng cân xứng. Hai cánh mũi nẩy nở tròn trịa thì ngực nở, nhũ hoa lớn. Ngược lại, Chuẩn đầu thấp, gián đài, đình uý nhỏ hẹp thì nhũ hoa cũng nhỏ hẹp. Đàn bà mũi xẹp cánh mũi mỏng và nhỏ mà có bộ ngực núi lửa thì đó chẳng qua chỉ là phần nhân tạo chứ không phải là phần thiên bẩm.
    Hơn nữa, màu sắc của hai cánh mũi còn cho ta biết được nữ giới hiện đang ở thời kỳ kinh nguyệt hay không. Đang lúc hành kinh cánh mũi bao giờ cũng có sắc ửng hồng mà ngày thường không có.
    Những điểm trình bày trên đây đúc kết từ những nhận xét của các nhà y học nhằm mục đích giúp bạn trai những kiến thức giải hữu ích cần thiết tránh được những hành vi tổn thương đến đời sống gia đình chỉ vì ngộ nhận thiện chí của nhau.
    Nói chung sơn căn cho ta biết phần co lưng, sống mũi cho ta biết nửa phần thân trên.
    2 - Nhân trung
    Nhân trung và môi miệng giúp ta biết được một cách khái quát về cơ cấu sinh dục cũng như khả năng sinh dục của phụ nữ.
    (Còn nữa)
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment


    • #47
      (Tiếp)
      Nói một cách tổng quát muốn biết việc sinh sản dễ dàng hay khó khăn, ta cần nhớ là : Nhân trung ngay ngắn, rõ ràng cộng thêm với lộc thượng, thực thương, Tả Hữu Tiên Khố tề chỉnh, đầy đặn và cân xứng là những dấu hiệu chắc chắn của việc sinh sản bình thường, ít gặp hiểm nghèo vì thai sản.
      Hai bờ nhân trung đàn bà đều rõ tạo thành hình dạng trên hẹp dưới rộng là dấu hiệu nhiều con và sinh sản dễ. Nếu có thêm chỗ gần tiếp giáp với miệng trũng xuống như vùng trâu đằm thì con trai ít hơn con gái. Nếu hai lằn gồ cao của nhân trung gần giáp với môi trên lại nổi cao và rõ thì sinh trai nhiều hơn gái.
      Nhân trung đàn bà trung bình và không có có đặc điểm trũng xuống hay nổi cao vừa kể thì số con trai và gái gần như ngang nhau nhưng không quá nhiều.
      Dĩ nhiên, những nhận định nào không áp dụng cho các trường hợp giải phẫu thẩm mỹ.
      Nhân trung quá mờ hoặc bị vạch ngang là dấu hiệu khá chắc chắn của kẻ có khả năng sinh dục không đáng kể. Quá mờ lại có vạch ngang rõ rệt là tướng không con vì lý do thiên nhiên bất túc.
      3 - Nốt ruồi ở nhân trung
      Nốt ruồi đàn bà xuất hiện ở nhân trung cũng là nét tướng có ý nghĩa quan trọng cần được đặc biệt lưu ý :
      Bất kể hình dạng Nhân trung ra sao bỗng nhiên có nốt ruồi đen đọng lại vị trí 1, là tướng đoản mệnh, hay chết sớm vì thai sản hoặc bệnh liên quan đến tử cung.
      Nốt ruồi ở vị trí 2 là dấu hiệu tử cung không được ổn, dễ bị bệnh phụ nữ. Đồng thời về mặt mạng vận là điềm báo trước ít nhất cũng phải dang dở hay tái giá mới được an thân. Nốt ruồi ở vị trí 3 dù lệch sang phải hay trái, không liên hệ đến tử cung nhưng liên quan đến mật thiết đường tình dục. Đàn bà có nốt ruồi đen như vậy phần lớn là không chung thuỷ, ít khi thoả mãn tình dục với một người khác phái.
      Nốt ruồi ở vị trí số 4 dấu dâm đãng. Theo Ngũ vị trai, kẻ có nốt ruồi đó nếu thêm mặt có đào hoa sắc thì trước khi kết hôn đã chung chạ chăn gối, có chồng rồi vẫn còn bướm ngõ ong tường, chồng ra cửa trước rước người tình ở sau. Về đường tử tức, ít khi có con. Thỉnh thỏang hoặc có thì về già cũng cô độc kể như không có.
      4 - Mội, Miệng
      Tướng học hiện đại Á Đông dựa trên các nhận xét của khoa học thân thể. Khác với tiếng học gia thời xưa, các tướng học gia Nhật bản ngày nay cũng là chuyên viên về y khoa và tâm lý. Nhờ đó, họ đã phong phú và hiện đại hoá tướng học Á Đông rất nhiều
      Tướng học Nhạt Bản cho rằng người ta có thể căn cứ vào mặt bất cứ nam nữ mà thôi cũng tạm đủ dữ kiện để phát đoán về toàn thể con người một cách tổng quát. Đối với tượng phái hình thể này, khuôn mặt là hình thể rút gọn của con người, từ khuôn mặt suy ra con người là một điều đáng rầt phù hợp với thực tế, không có gì đáng gọi là thần bí hoang đường cả. Tiếc thay quan điểm khoa học này bị một số người coi tướng giữ kín làm bí quyết sinh nhai và cố tình bí hoá nó khiến cho đa số quần chúng ngộ nhận là họ có tà thuật và coi tướng học như một môn thần bí học.
      Môn phái Nhật Bản cho rằng Môi, Miệng và hạ thể có nhiều tương đồng với hình thể và màu sắc .
      5-Tai
      Vẫn theo tướng phái trên, rãnh tai và màu sắc của tai là dấu hiệu để xét định bộ phận sinh dục của phái nữ .
      Theo ngũ Vi Trai, tác giả cuốn Ngũ quan tướng tinh nghiên cứu vào những năm trước khi xảy ra cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Trung Hoa, ông ta đã tự mình khảo nghiệm khoảng tám mươi trường hợp thực tiễn thấy rằng tuy không đúng hẳn 100 % nhưng đại đa số những điều phát biểu về lý thuyết đều phù hợp với thực tế .
      b ) Những nét tường đặc trưng về phụ nữ của Viên Liễu Trang
      Cổ nhân Trung Hoa nặng đầu óc phong kiến, quá trọng nam quyền cho rằng chỉ đàn ông mới thanh khiết, mới đáng trọng và đáng giữ vai trò chỉ huy trong mọi lãnh vực sinh hoạt. Quan niệm chuyển thế “ trọng nam khinh nữ “ này buộc đàn bà phải lệ thuộc và phục tùng tuyệt đối ở đàn ông, ở nhà phải nghe lời cha, lấy chồng phải nghe lời chồng, hoạt động gì (đặt biệt là hoạt động ngoài đời lẫn chủ động trong đời sống tình dục). Nói khác đi, dưới nhãn quang luân lý cổ điển khắt khe này, phụ nữ hoàn toàn bị động, phải tỏ ra vô tài cán. Có như thế mới coi là có đức: vì tục ngữ Trung Hoa : Nũ tử vô tài tiên thi đức (Con gái không có tài cán tức là có đức vậy ). Người đàn bà được trời phú tính thông tuệ, tư tưởng độc lập hoặc nhan sắc tự cho là mình có khả năng, không chịu hoàn toàn công nhận quyền tuyệt đối của nam giới, muốn tham gia vào đời sống cộng đồng một cách tương đối bình đẳng ( tỷ như nghề nghiệp tình dục ), muốn sống theo lương tri và phát triển khả năng thiên phú theo ý riêng, dám bất đồng ý kiến với chồng đều coi là hình khắc tư dâm .
      7. 36 tướng hình khắc
      -Tóc vàng khè, xoắn tít lại với nhau thành từng bụi một
      -Tròng đen có màu vàng xậm ( như nước trà pha đặc ) tròng trắng đục đỏ .
      -Lưỡng quyền quá cao nhọn, lấn hết khuôn mặt và các bộ vị khác -Trán nổi từng cục u nhỏ như ốc bám
      (Còn nữa)
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • #48
        (Tiếp)
        -Trán cao, mặt hõm
        -Trán có vằn sâu hoặc thẹo
        -An đường có hằn sâu dài chạy thẳng từ sơn căn lên trán , xung phá
        -Tuổi trẻ mà tóc rụng quá nhiều
        -Xương da khô, phá
        -Mắt dài, miệng lớn quá mức
        -Mặt gầy guộc nổi gân
        -Mặt hình tam giác
        -Tai chỉ có vành trong mà không có vành ngoài
        -Mặt choắt, nhọn, eo bụng quá hẹp
        -Sắc mặt khô xạm trì trệ như đất bùn
        -Sơn căn thấp gẫy
        -Cằm nghiêng lệch
        -Cổ gầy, trơ xương nổi đốt
        -Tiếng oang oang như tiếng sấm
        -Tính nóng như lửa
        -Thần khí thô trọc
        -Trán rộng, cằm nhỏ và nhọn
        -Mắt có khí sắc lốm đốm màu trắng
        -Sống mũi nổi gân máu hoặc nổi đốt
        -Thịt lạnh như nước đá
        -Tay lớn, xương thô
        -Vai lưng nghiêng lệch
        -Mắt tròn và quá lớn
        -Lộ hầu, răng như bàn cuốc
        -Xương thô cứng, tóc rễ tre
        -Đêm ngủ hay la hoảng
        -Miệng như thổi lửa
        -Lỗ mũi có lông dài thò ra ngoài
        -Trán gồ, mang tai bạnh
        -Xương che lỗ tai quá cao và đầy
        -Mắt trắng bệch, không huyết sắc
        8. Những tướng cách phụ nữ
        Theo quan niệm “ Nam ngoại nữ nội” dưới nhãn quang tướng học Á đông, những tướng tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Chẳng hạn :
        -Đàn ông mà trán cao, rộng, sáng sủa, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên. Ở đàn bà, kẻ có tướng trán như vậy lại là kẻ long đong về đường gia thất.
        -Đàn ông có lưỡng quyền cao rộng và nảy nở là tướng có thực quyền, quả cảm ưa phấn đấu. Ở đàn bà, quyền cao và nảy nở là kẻ có khí khái trượng phu, có khuynh hướng ăn hiếp chồng và khắc chồng.
        -Đàn ông có tiếng nói cao và vang xa hoặc trầm hùng ngân lâu như tiếng chuông là tướng âm thanh thượng cách, chủ về thông minh tháo vát, hoặc công danh đầy hứa hẹn. Ngược lại, đàn bà mà có âm thanh kể trên lại là tướng âm thanh khắc phu, dâm loạn, phá bại hoặc trùng hôn.
        Trong phép xem tướng diện mạo nữ giới, ngũ quan cần phải để ý đã đành nhưng ba bộ phận mà người xem tướng đặc biệt phải chú trọng là Mắt, Mũi, Môi và Miệng. Mắt cho ta biết được trạng thái qua tinh thần của nữ giới, Mũi chủ về chồng, Môi và Miệng liên quan mật thiết đến con cái.
        Nói một cách tổng quát, đàn bà có mũi ngay ngắn, dài và đầy đặn, sắc da tươi mát và không có tỳ vết được xem là tướng vượng phu.
        Miệng không lớn, không nhỏ, hay môi dày mỏng tương xứng, lưỡng quyền bằng phẳng không quá cao, không nổi, toàn thể da mặt hồng nhuận không có nốt ruồi. Tàn nhang hay bã chè làm mất vẻ mỹ quan là tướng ích tử.
        Lục phủ (hiểu theo nghĩa rộng là toàn thể xương khuôn mặt) chủ về tiền tài, sinh kế mà người chồng có thể hưởng thụ khi lập gia đình với phụ nữ đó*. Nếu khuôn mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu, xem tướng cân phân (trong trường hợp nếu là người gầy thì dĩ nhiên mặt không thể bầu bĩnh. Lúc đó, chỉ cần xương lưỡng quyền không lộ cao, mặt mũi không hốc hác) là tướng vượng tài.
        *Nói như vậy không có nghĩa là người chồng sẽ được hưởng của hồi môn mà chỉ hàm ý rằng nhờ sống chung với người vợ đó mà công việc làm ăn của người chồng sẽ vượng thịnh về mặt tiền bạc.
        Dưới nhãn quan tướng học nam giới, người đàn bà có đủ cả tam vượng là người vợ lý tưởng trong đời sống gia đình. Nói khác đi, đó là loại cát tướng của phụ nữ.
        Ngược lại, Mũi lệch cong queo hoặc trơ xương, lỗ mũi hếch hoặc quá ngắn là tướng lấy chồng khiến phu quân tổn thương, khắc hãm hoặc ly hôn. Vì vậy, tướng thuật có câu : “Mũi đàn bà là phu tinh”. Miệng quá lớn và mỏng, môi sáng hoặc trắng bệch, lưỡng quyền cao nhọn : vừa khắc chồng lại vừa lận đận về đường tử tức. Khu vực quanh mắt thâm đen, sâu hõm là tướng không con.
        Đàn bà tối kỵ tướng cách cô thần nghĩa là mắt tròn và trắng dã, mũi hếch, môi vẩu và lộ cả chân răng, tai khuyết hãm, trán lẹm hoặc lồi, hoặc có loạn văn, đầu quá lớn, mũi sư tử, mũi sống kiếm mà lưỡng quyền cao rộng, mắt lồi, lông mày dựng đứng,thân hình quá ngắn mà mặt lại quá dài. Pháp
        (Còn nữa)
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment


        • #49
          (Còn nữa)
          lệnh quá dài và sâu lúc còn trẻ, tiếng nói như phèng la bể v.v… người có tướng cách cô thần vừa khắc chồng, vừa tổn con, về già cô đơn khốn khổ.
          Về phong thái có loại phụ nữ vừa thoáng nhìn đã khiến ta sinh lòng tà vạy là loại dâm tướng, vì mọi cử động hành vi, ngôn ngữ, đầu, mặt, đuôi mắt đều khơi động xuân tình. Lại có loại phụ nữ thoáng thấy sinh dạ nể vì do ở ánh mắt nghiêm, tinh thần nghiêm túc, đó là tướng tôn quý; lại có tướng người vừa thấy mặt đã nảy sinh lòng coi rẻ là loại tiện tướng; còn loại người thoáng qua có cảm giác kinh sợ là tướng hình khắc.
          Một số người khảo cứu về sự tương quan hợp hình tướng của đời sống nội tâm phụ nữ, sau khi quan sát và phỏng vấn một số phụ nữ thành gia thất đã phân chia phụ nữ thành 3 loại điển hình chính yếu sau đây :
          Loại hướng nội :
          Loại có tâm hồn hướng nội, phần lớn có dáng người thấp, cổ ngắn, đầu khá lớn,miệng rộng, môi dày. Cá tính trội yếu của họ là trầm mặc, không ưa gây gổ lạc quan, dễ dàng thông cảm, thích ăn uống, tham lợi ích nho nhỏ, tâm địa thẳng thắn, không thích thủ đoạn.
          Trong đời sống gia đình, họ là hiền thê, lương mẫu, thai kỳ đều đặn, chính thường, dễ sinh sản và lắm con, nấu nướng khéo, không ưa nhõng nhẽo, chung thuỷ với chồng.
          Loại hướng ngoại:
          Phần lớn có dáng người cao và thon, vai xuôi mông nhỏ, tứ chi dài, mũi cao, môi mỏng cằm hơi lộ, cổ nhỏ và dà, da dẻ hơi khô và mỏng. Cá tính của họ dễ vui, dễ buồn, thích hoạt động nhưng mau chán.
          Về mặt sinh lý, họ dễ bị bệnh phụ khoa, tính lãnh cảm. Trong đời sống gia đình, họ không ưa nấu nướng,kém tháo vát, dễ cáu kỉnh.
          Loại trung tính:
          Loại này là trung gian giữa hai loại trên nên thân hình có thể cao hơn và khá mập, có thể hơi thấp và gầy, môi miệng không quá đầy, không quá mỏng. Các bộ phận khác cũng ở mức trung dung. Họ có thể là kết tinh phần tốt hay phần xấu của hai cá tính hoặc nội hay hoặc ngoại tuỳ theo sự tốt xấu của từng bộ vị. Quan sát loại tướng trung tính này rất khó, cần phải có kinh nghiệm và nhãn quang bén nhạy mới đạt được mức độ tương đối chính xác .
          Tuy nhiên, các điểm nêu trên chỉ có tính cách khái lược. Việc xem tướng trong thực tế không quá đơn giản như vậy. Muốn có một ý niệm rõ ràng, chúng ta cần phải đào sâu vấn đề hơn nữa, xuyên qua việc khảo sát một số lãnh vực bao gồm nhiều trọng đề dưới đây :
          a ) Lãnh vực cá tính
          1 - Tướng người ham mê nhục dục
          Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt :
          -Đàn bà trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm
          -Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng
          -Phía dưới mắt ( Lệ đường ) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt ( Ngư vĩ ) là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm
          -Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thừơng hay cười tình liếc xéo
          -Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc : tiện dâm
          -Miệng lớn và khoé đi xuống lưng ong
          -Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là tướng đàn bà trong đới ít ra cũng vài ba bận thông dâm
          -Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục
          -Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm
          -Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật
          -Mặt ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy
          -Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng
          -Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm
          Những nét tướng cho thấy rằng có thể căn cứ vào nhiều bộ vị, nhiều lãnh vực sinh hoạt để biết khái quát về cá tính tiềm ẩn của một cá nhân về mặt tình dục. Hơn nữa, mọi nét tướng thể hiện dục của nữ giới, dù đứng trên bình diện sinh lý hay đạo lý, không có chung cùng một giá trị : có những nét tướng khả chấp, có những nét tướng bất khả chấp. Dục tính không phải đương nhiên là xấu xa như các nhà Nho cổ hủ vẫn thường lên án, mà xấu hoặc tốt còn tùy người, tuỳ trường hợp. Đặc điểm này cần phải được quan tâm đặc biệt để có thể nhận định đúng đắn cá tính của người phụ nữ, đồng thời có thể chế ngự hay hướng dẫn họ tuỳ theo sở nguyện của mình.
          Ngoài ra, người phụ nữ có tính trăng hoa, chưa hẳn họ đã có dịp thực hiện được cá tính đó. Muốn biết người phụ nữ đã có cơ hội thực hiện được tính trăng hoa của họ hay không, cần phải lưu ý các khu vực sau :
          a ) Nhân trung có tía đỏ :
          Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là miệng, mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giớ . Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn chìm đắm trong hoan lạc nhục
          (Còn nữa)
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • #50
            (Tiếp)

            dục đều có một đường vạch ngang màu đó hoặc hồng ( tuỳ theo truy hoan nhiều hay ít ), nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi .
            b ) Mắt tam bạch :
            Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.
            c ) Khu vực Lê đường : Bình thường không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen.
            d ) Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ : Đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.
            Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt tình mưa mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại, cần phải lưu tâm theo dõi hành tung của người nữ đó hầu tránh những hậu quả tai hại có thể xảy ra.
            2 - Tướng người trinh thục :
            Trong nền luân lý á đông cổ điển, người ta đặc biệt quý trọng cá tính trinh tiết thuần thục của phụ nữ, coi đó là một đức tính tối cần thiết của hôn nhân, là một hãnh diện của người chồng. Muốn coi tướng đàn bà con gái để xem đức tính trên của họ cao thấp tới mức độ nào, điểm tối trọng yếu là cặp mắt, vì mắt là cửa sổ tâm hồn. Cặp mắt đối xứng qua sơn căn, mục quang ôn hoà thanh tĩnh, không liếc xéo là một bảo đảm đáng kể. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa được đầy đủ. Những người đàn bà lấy chồng giữ vững được ái tình thủy chung như nhất, ngoài cặp mắt kể trên thường có tướng kết hợp một số đặc điểm sau :
            -Trán tròn nhưng không cao, không lồi
            -Lông mày đẹp và phối hợp với cặp mắt, tạo ra một phong thái khiến mọi người phải kính nể
            -Môi hồng, răng đều và trắng
            -Mũi ngay ngắn, không trơ xương, không quá cao
            -Đi đứng, ngồi chững chạc, đoan trang
            -Tính nết ôn hoà nhưng không nhu nhược, ít nói, ít cười
            3 - Tướng người hung tợn
            Đại để đàn bà tính nết hung tợn, mạnh bạo, thường phạm vào nhất vài ba dấu hiệu sau đây :
            -Miệng thô, môi lộ xỉ
            -Giọng nói khô khan, tóc cằn cỗi và ít
            -Quyền cao và lộ, hầu lộ, tiếng nói rè như tiếng phèng la bể
            -Mũi gầy và lộ khổng, mắt có hung quang
            -Mặt đen, lông mày thô, thân hình kệch cợm
            -Mắt nhỏ, miệng túm, giọng đàn ông, chân tay lông mao rậm như đàn ông
            -Thân dài, giọng đớt, tay chân thô, ngón tay mập và quá ngắn
            -Mắt lộ tứ bạch mà mục quang lại lỗ liều
            4 - Tướng người không thích ràng buộc trong gia đình
            Những phụ nữ thích tự do phóng khoáng không có năng khiếu của người nội trợ cổ điển Á đông là những kẻ có nét tướng sau :
            -Lông mày đậm và khá lớn, mọc xa nhau và không có giữa lông mày với mắt khá rộng, miệng rộng, da mỏng
            -Mắt tròn, lớn, mục quang thuộc loại cương nhi cô, tính thích cạnh tranh, đua đòi, ưa được người xu phụng, đi lanh lẹ và cao
            -Khéo ăn nói, giao thiệp rộng và thích tự quyết định thân mình, coi rẻ tiền bạc, không thích săn sóc con cái, bếp núc .
            5 - Tướng người cần kiệm
            Tóc den mướt, lông mày hình dạng vừa phả, màu xanh đen, lòng đen lòng trắng phân minh và mục quang mạnh mẽ nhưng ẩn tàng thức khuya không mệt mỏi, dậy sớm mà thần sắc thư thái, nói năng chậm rãi từ tốn, không mấy khi than thở oán hận, không cạnh tranh hơn thua với người về công việc ….là những đặc điểm của tướng người giúp việc có năng suất cao, người vợ đảm đang tháo vát.
            6 - Tướng người biếng nhác
            Những kẻ biếng nhác hoặc vô tài bất tướng trong mọi hoạt động ( đặc biệt là trong việc tề gia ) đều thuộc các tướng cách sau :
            -Tóc nhiều, thô lộ mày thô và giao nhau
            -Mắt tròn, nhỏ, đen trắng không rõ ràng, mục quang hôn ám, hoặc trắng nhiều đen ít
            -Mắt lớn hơi lồi, đen trắng phân minh nhưng mục quang lúc nào cũng ngơ ngác khiếp hãi như mắt nai, mắt hươu
            -Mắt lúc nào cũng như kẻ ngái ngủ
            -Ham ăn, ham ngủ, thích rong chơi
            b ) Lãnh vực vận mạng
            1 - Tướng người cao quý
            Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây :
            -Mục quang sáng sủa, chính đính và mạnh mẽ khiến người đối diện phải kính nể.
            -Vành tai đầy đặn và hơi hồng, trái tai trái trắng hơn da mặt.
            -Mũi thẳng và phối hợp thích nghi với lưỡng quyền tạo thành một khối có thể vững vàng, mang tai xuôi thẳng.
            -Lông mày thanh nhã có thần khí.
            -Trán tròn, không thấp không cao, tóc đen mịn thanh nhã, cổ dài.
            -Xương và thịt của mặt cân xứng, môi hồng răng trắng và đều.
            -Tiếng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang
            -Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.
            2 - Tướng người phú túc
            Đàn bà có số no đủ thường có :
            khuôn mặt đầy đặn và hồng nhuận nhưng phải không được thành đào hoa sắc hoặc có tàn nhang, mày thanh, mục quang sáng một cách hiền hoà, tai dày và cứng, mũi thẳng và dài ( dán đài, đình uý rõ và cân xứng đầy đặn ) nhân trung dài, địa các tròn đầy và vững, mang tai nảy nở nhưng không bạnh ra phía sau, môi hơi dày và có sắc hồng tự nhiên, lòng bàn tay hồng hào và dày, bụng tròn, lưng nở, tướng đi rậm rãi, thân thể có mùi thơm tự nhiên.
            3 - Tướng người khốn khổ .
            Tướng đàn bà khốn khổ nghèo đói hoặc long đong được biểu hiện qua những nét tướng sau đây :
            -Trán hẹp và thấp, tóc khô và vàng mắt sâu, mày đậm: long đong về sinh kế hiếm con
            -Bụng quá sẹp, eo quá nhỏ, lưng quá hẹp suốt đời không có lộc -Mũi nhỏ hẹp lệch ngắn, chuẩn đầu không thịt
            -Môi quá dày, miệng quá rộng mà tay ngắn, ngón tay mập ngắn và thô -Tiếng nói nhỏ và khàn, mặt lúc nào cũng có sắc thái sầu thảm
            -Mặt lúc nào cũng như ngửa lên trời dáng dấp và giọng nói có vẻ đàn ông
            -Sơn căn thấp, gãy lệ đường khô hãn tròng mắt vàng lạt có gân máu
            4 - Tướng người có nhiều con
            Những bộ vị quan trọng để quan sát về đường tử tức của phụ nữ là Lê đường (còn gọi là Ngoa tàm), nhân trung, vú, mông, kế đó là hai mắt và hai tai.
            Thông thường trừ một vài loại mắt tối kỵ như mắt tam tứ bạch, mắt dê, mắt heo, mắt đào hoa không kể còn phần đông nên có lòng đen lòng trắng rõ ràng, mí mắt dài, mục quang sáng sủa, phía dưới hai mắt đầy đặn
            (Còn nữa)
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • #51
              (Tiếp)

              không có tỳ vết thiên nhiên như nốt ruồi, tàn nhang, gân máu, Nhân trung sâu và thẳng, trên nhỏ dưới rộng, chỉ tay rõ và tươi, vú lớn và núm vú sạm, không được quá nhỏ và lệch lạc : miệng đều đặn, môi có nhiều vằn, mông tương xứng với với thân người.
              Riêng về tai, một vài tác phẩm cổ điển ghi rằng : tai giúp ta biết được đứa con dầu lòng sẽ là trai hay gái. Theo lý thuyết này, nếu tai phía trái của người mẹ mà đầy hơn tai phía phải thì con đầu lòng sẽ là trai, tai phía mặt đầy hơn thì con đầu lòng là con gái.
              5- Tướng người hiếm con hoặc không con
              Ngược lại với tướng đàn bà nhiều con và sinh đẻ dễ dàng nói trên là tướng phụ nữ hiếm hoi hoặc không con. Các dấu hiệu này thể hiện ở nhiều phía của cơ thể.
              Tại diện mạo ta thấy có : tóc thô và vàng; mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng hầu như không có hoặc thô ngắn, trán quá cao : mắt sâu hãm và khu vực Lệ đường khuyết hãm cả về phẩm lẫn lượng; mắt mông lung, hỗn tạp: có quyền mà không có mang tai thích nghi : mũi hoặc quá gãy, thấp hoặc quá cao, nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên : môi vểnh và xanh xám hoặc trắng bệch, hoặc môi trên bao phủ môi dưới : nhân trung hẹp và bằng phẳng, da mặt không có huyết sắc : mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ.
              Tai thân hình : vú gẫy, đầu vú hướng xuống, núm vú thụt sâu vào thịt : da mỏng mà xương quá ít, thịt khô hoặc thịt nhiều mà xương quá nhỏ.
              Nếu chỉ có vài ba khuyết điểm nhỏ liên quan đến mắt, môi, tai v.v… thì đó là tướng hiếm hoi nhưng khả dĩ còn cơ duyên tử tức. Nếu cả đầu mặt lẫn thân hình đều có khuyết điểm trầm trọng như lệ đường,vú, Nhân trung, trán bị phá thì rất ít hy vọng về đường con cái.
              6 - Tướng đàn bà khắc chồng :
              Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn. Ngoài ra khi luận đoán về sự hình khắc của đàn bà đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa. Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớnvà có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnh vực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ.
              Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng đàn bà khắc chồng :
              - Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám .
              - Mắt lớn lồi ( nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn ). Lông mày thưa vàng và ngắn .
              - Mày thô, mắt có sát khí - Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi
              - Phần sống mũi ( Niên thượng, thọ thượng ) nổi gân máu
              - Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên
              - Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe
              - Trán vuông, mày lớn cao và đậm
              - Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ
              - Tán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm
              - Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu
              - Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết
              - Mặt chè bè về chiều ngang ( phần Trung đình ) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh xương sống .
              - Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau
              Trán có tật bẩm sinh ( vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu ) .
              - Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng
              - Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn ( đây nói phụ nữ ở trung niên trái lại )
              - Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi
              - Tác có phù quang ( trơ trẽn không có sinh khí ), da trắng và khô mốc - Mặt dài quá, cộng với miệng lớn ( thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu)
              - Ấn đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn .
              - Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại ( nghĩa là đầu và lông chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn )
              - Cốt cách thô lỗ, tóc cứng như rễ tre
              - Xương che lỗ tai ( mạng môn cốt ) nổi cao.
              Đi xa hơn nữa, Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ngư cho rằng có một số tướng cách của phụ nữ giúp ta biết được bụng dạ của người đó đối với chồng hiền thục hay hung dữ thậm chí có thể vì lý do nào đó manh tâm hãm hại chồng. Theo tác giả trên, phàm đàn bà lông mày mọc ngược chiều tự nhiên, mắt hình tam giác hoặc lộ tam tứ bạch, hoặc phía dưới mũi có hằn giống như móc câu, sắc mặt xanh xám ( tục gọi là mặt gà mái). Lệ đường ảm đạm, sơn căn có sợi máu rất nhỏ chạy thẳng đến giữa trán, chuẩn đầu có màu đỏ, Ngư vĩ xanh xám, nốt ruồi (sống càng xấu hơn chết ) ở mang tai đối với chồng dễ nổi hung tính và là các dấu hiệu khắc phu nặng nề. Kết duyên với họ không có hạnh phúc thật sự. Nếu kẻ đó còn có thêm nhiều tia đỏ ở lòng trắng mắt. Sống mũi có khí sắc xanh chạy luôn ấn đường thì tâm tính tàn nhẫn. Những người có tướng cách như vậy chẳng những sẵn sàng đoạn nghĩa phu thê khi bất hoà mà còn có thể đi đến chỗ mưu hại hạ độc thủ với chồng khi bị cơn gian làm mất lý trí.
              7 -Tướng đàn bà vương phụ ích tử
              Đặc điểm của tướng bà vương phụ về mặt mạng vận là khi lập gia đình dú chỉ về nhiều lãnh vực đặc biệt là sự nghiệp và tiền bạc. Đại để phụ nữ như vậy thường có nhiều nét tướng thuộc các loại sau đây :
              - Nói một cách tổng quát thân hình diện mạo đôn hậu, đẹp một cách oai vệ, cử chỉ ngôn ngữ thư thái ôn hoà : khuôn mặt cân phận về cả tam đình, Ngũ nhạc và tứ đậu. Nếu đi sâu vào từng chi tiết ta thấy :
              - Ấn đường rộng rãi không xung phá, diện mạo tươi tỉnh.
              - Mũi thuộc loại Huyền đảm tỵ đúng cách : màu da khuôn mặt tươi nhuận đặc biệt là chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với mày thanh mắt đẹp.
              - Lòng bàn chân hoặc trong thân thể ( rốn hoặc khu vực trên dưới rốn một chút, phần ngực dưới hai vú, hai bên háng ) có nốt ruồi đen huyền hoặc son.
              -Bất kể gầy mập mà lòng bàn tay mập, nếu lòng bàn tay có thịt quá đầy thì đa dâm và có thể ngoại tình mặc dầu vẫn vượng phụ : màu sác hồng nhuận ấp áp, ngón tay thon dài, thẳng, khít nhau, chỉ tay rõ và đẹp.
              Thường thường tướng đàn bà vượng phụ đi đôi với tướng ích tử. Vì người đem lại thịnh vượng cho chồng đa số đem lại ích lợi cho con cái. Trong một số ý nghĩa chuyên biệt hơn, ích tử còn có ý nghĩa là sinh con trai quý hiếm, làm rạng rỡ gia môn lo tròn đạo hiếu và giữ vững dòng giống (không phân biệt vợ lớn vợ bé ).
              Về điểm này các sách tướng hầu như đều đồng ý về một số dấu hiệu sau :
              -Ngũ quan phối hợp đúng cách đặc biệt là sắc mặt trắng ngà, mắt phượng môi hồng.
              -Rốn hoặc khu vực dưới rốn đôi chút có nốt ruồi sống màu son tàu.
              (Còn nữa)
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • #52
                (Tiếp)

                - Xung quanh khu vực bụng có thịt nổi rõ như một vành đai.
                Đến thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, tại nước Tề ( nay là tỉnh Sơn Đông ) có học giả Trâu Diễn, căn cứ vào Kinh Dịch, đã phổ biến hết tinh thần và công dụng của Âm dương, ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn cả vào việc người nữa. Do đó, người đời sau coi Trâu Diễm như người khai sáng ra phái Âm Dương. Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý Số do các học giả đời Tống sau này sáng lập.
                Đến đời Hán, học giả Dương Hùng ( 53 trước Tây lịch - 20 Tây lịch ) tham bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền kinh.
                Đến đời Tống sơ ( khoảng thế kỷ thứ 10 ) một nhân vật đạo gia kiêm nho gia là Trần Đoàn tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di tiên sinh, tinh thông cả Lý Số học của các nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giả về lý Thái cực của vũ trụ, lấy tượng số mà xét sự vận chuyển của Trời Đất, suy diễn ra hành động của vạn vật rồi áp dụng các hệ quả của Lý thái cực vào Nhân tướng học đế giải đoán tâm tình, vận số của con ngườ , mở đầu cho Lý Số và Tướng số học.
                Từ đó về sau, quan niệm Âm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật.
                b ) Nội dung của Thuyết âm Dương, Ngũ hành
                Theo cổ nhân Trung Hoa, lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mạng. Trong sư Hỗn mạng đó, bàng bạc cái lẽ vô linh linh diệu gọi là Thái cực. ( Sở dĩ gọi là Thái cực vì nó huyền bí và vô tận nên không thể xác định rõ ban thế cuả nó ra sao).
                Tuy nhiên, dẫu không biết được chân tính và chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vì song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hoá của vạn vật mà suy ra được cái đông thể của Thái cực. Căn bản của sự chuyển biến hoá được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh. Động gọi là Dương, Tĩnh gọi là Âm. Dương lên đến cực độ thì lại biến ra Dương. Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất ( Thái cực ) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hoá không ngừng mà sinh ra Trời, Đất, Người cùng vạn vật. Vì Âm Dương phối hợp, đun đẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển. Sự biến chuyển chính là nền tảng của Dịch. Do đó, trong phần chú giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói “ Âm nhu Dương Cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hoá “(Nghĩa là Âm thì mềm, Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy lẫn nhau chuyển hoá thành thiên hình vạn trạng).
                Theo cổ nhân, mỗi chu trình gồm bốn giai đoạn :
                a ) Nguyên : Khởi đầu của sự biến hoá
                b ) Hạnh : Sự thông đạt , hội hợp các thành tố
                c ) Lợi : Sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng
                d ) Trinh : Sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật
                Biến hoá là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hoá của vũ trụ và vạn vật. Do đó, Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hoá (Dịch) một cách khái quát như sau :
                “ Dịch hữu Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành : Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực, Thái cực sinh ra hai Nghi ( Âm và Dương ) hai Nghi sinh ra bốn Tượng ( bốn trạng thái tượng trưng bằng bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông ) bốn tượng sinh ra tám Quẻ ( Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ) tượng trưng cho Trời, Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Nú, Nước, Đất ) tám Quẻ sinh ra năm Hành ( năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ).
                Khởi đầu của sự biến hoá rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hoá dần dần để thành ra phồn tạp. Vì Âm Dương là hai thành tố đầu tiên của vũ trụ, nên được Kinh Dịch chọn là biểu tượng căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản :
                a ) Vạch liên tục tượng trưng cho Dương
                b ) Vạch gián đoạn ( - - ) tượng trưng cho Âm
                Trong phép biến đổi hoá để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Âm Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây :
                1 - Kiền tượng trưng cho Trời
                2 - Đoài tượng trưng cho Đầm , Ao
                3 - Ly tượng trưng cho Lửa
                4 - Chấn tượng trưng cho Sấm
                5 - Tốn tượng trưng cho Gió
                6 - Cấn tượng trưng cho Núi
                7 - Khảm tượng trưng cho Nước
                8 - Khôn tượng trưng cho Đất
                Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là “ Tiên thiên Bát quái “ do vua Phục Hy ( 4477 - 4363 ) trước Tây lịch vạch ra để giải thích cái lẽ Âm Dương biến hoá của Thái cực. Về sau vua Hạ Vũ (2205 - 2163 trước Tây lịch) đặt ra Cửu trù ( chín pháp lớn ) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hoá của vũ trụ và vạn vật.
                Tới đời Tây Chu, vua Văn Vương, trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ, Bát quái mới gọi là hậu thiên Bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc ngườ . Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của kẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ, chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt tâm truyền mới có ánh mắt hiểu được. Tình trạng của Dịch lý từ thượng cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi.
                Đến đời Đông Chu, Khổng Tử ( 511 - 478 trước Tây lịch ) đem kiến giảu cảu mình bổ xung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành Kinh Dịch trong đó bao gồm cả Âm Dương, Bát quái và Ngũ hành.
                Căn cứ theo ý nghĩa thông thường, cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ hành, các ý nghĩa tượng trưng sau đây :
                Dương : Tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, sinh động, cứng cát, ban ngày, đàn ông …..
                Âm : Tượng trưng cho mặt trăng, tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão, ban đêm, đàn bà ….
                Kim : Vàng, bạc, hiểu rộng ra là tất cả các chất kim thuộc
                Mộc : Cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất
                Thủy : Nước và nói rộng ra là các chất lỏng
                Hỏa : Lửa, hơi ấm
                Thổ : Đất đá, nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại
                Về phương diện siêu hình. Âm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình hữu thể mà chỉ là biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khoẻ với yếu ….
                Về phương diện ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành, ta cũng đi đến kết quả tương tự Kim, Mộc, Thủy, Hoả, ngoài tìm cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa tượng trương có tính cách tương sinh tương khắc trong sự biến hoá của muôn vật diễn ra hàng ngày trước mắt.
                Trong tướng học, người ta rất chú trọng đến Ngũ hành và thường hiểu Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ theo cả hai ý nghĩa : vật chất lẫn siêu hình qua sự tượng hình chuyển ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.
                c ) Ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa
                Từ quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời Tống trở đi, Âm Dương thuộc Ngũ hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ. Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hoá sâu đậm của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ Hành đem giải thích và gán ghép các đặc tính của vật chất được siêu hình hoá của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vào các lãnh vực thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây :
                (Còn nữa)
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • #53
                  1 - Phương hướng, màu sắc, bốn mùa
                  1a ) Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông
                  Mùa Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu trình biến hoá mới của vạn vận bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng. Mặt đất về Mùa Xuân, đâu đâu cũng một màu xanh thắm, Thái dương bắt đầu mọc ở phương đông. Tất cả đều bàng bạc ý nghĩa của Âm Dương tương thôi với Dương lấn lướt Âm một cách tương đối trong cái trung dung của Âm Dương ( Âm Dương tỷ hoà thì vạn vật mới sinh ). Do đó, cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông.
                  1b ) Hỏa biểu thị mùa Hạ, màu Đỏ, phương Nam
                  Mùa hè nóng nực bức như lửa thiêu, Dương cương lên đến cùng cực. Hoa lá đặc trưng của mùa này như lụa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ, phương Nam gần như ấm áp quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ, màu Đỏ và phương Nam vậy.
                  1c ) Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu Trắng, phương Tây
                  Mùa Thu là giai đoạn cho Âm Dương tương thôi bình hoà khí trời nóng quá, không lạnh lắm, nhưng Dương cương bắt đầu suy, Âm nhu bắt đầu thịnh. Mặt trời lặn ở phương Tây sau khi đã mọc ở Phương Đông. Trời Mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ, nên cổ nhân mới nhân đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu trắng và phương Tây. Nói khác đi, theo Ngũ hành thì mùa Thu, sắc trắng phương Tây thuộc Kim.
                  1e ) Thổ tiêu biểu cho Đất , màu Vàng , Trung ương
                  Người Tàu phát tích ở lưu vực sông Hoàng Hà, đất đai ở đây màu vàng ( hoàng thổ ) nên dựa vào sự vật để định tên, lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng trưng cho sắc Thổ. Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát, tự coi mình là người trung Thổ, danh xưng là Trung quốc nên màu vàng, vàng là màu trung ương, Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà vạn vật ( Sông núi, muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng ).
                  2 - Năm đức tính căn bản của con người
                  Trên bình diện đạo đức, năm đức tính căn bản để phân định kẻ lương tri với kẻ bại hoại là Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tín, gọi chung là Ngũ thường. Dựa vào ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành và đặc tính bao quát của Ngũ thường người ta đã đi đến chỗ Ngũ hành hoá Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín .
                  2a ) Nhân ứng với Mộc :
                  Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh, ung dung tự tại, không cạnh tranh bao dung và đãi người đồng đẳng. Thảo mộc, vốn không di động cạnh tranh, loài tùng bách quanh năm xanh tươ , bất chấp gió sương, nóng lạnh, tượng trưng cho thái độ an tĩnh, ung dung tự tại. Cây cỏ còn để người che mưa tránh nắng, không phân biệt một ai. Hoa quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được. Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc tương tự như đức Nhân của bậc thức giả nên Mộc được coi là biểu tượng của đức Nhân ở nhân loại. Do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói “ Nhân giả nhạo sơn ( Bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có thảo mộc tượng trưng cho đức Nhân của tạo vật.
                  2b ) Nghĩa ứng với Kim :
                  Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công lý, hằng cửu, không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát của Nghĩa. Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn, khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác, lúc nào cũng vậy, phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng cho Nghĩa.
                  2c ) Lễ ứng với Hỏa :
                  Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép, tạo nên tôn trọng duy trì diềng mối, phát huy chân lý tự nhiên lưu hành, Tế tự là một hình thức cụ thể của Lễ, biểu dương sự tôn kính. Một trong những cái ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi, làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người nên cái dụng ( về phương diện ý nghĩa triết học ) của Hoả và Lễ tương đồng, nên Lễ ứng với Hoả.
                  2d ) Trí ứng với Thủy :
                  Kẻ trí không điều gì là không thấu triệt, nước không đâu là không thông qua. Cái đức của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người xưa đã nói một cách đầy biểu tượng “ Trí giả nhao Thủy “ ( Bậc trí giả thích nước ). Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí.
                  2e) Tín ứng với Thổ :
                  Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy. Thảo mộc dựa vào đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cây cối theo đúng chu trình chuyển hoá tự nhiên của tạo . Do đó, so với Tín thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tướng đồng.
                  3 - Năm cung bậc trong âm nhạc
                  a ) Cung ( âm thấp nhất ) ứng với Thổ
                  b ) Thương ứng với Kim
                  c ) Giốc ứng với Mộc
                  d ) Chủy ứng với Hỏa
                  e ) Vũ ứng với Thủy
                  ỨNG DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC
                  Âm Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn tưởng mà lại rất tương đối. Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Âm, cứng là Dương, mềm là Âm …….Nói một cách tổng quát thì Trời có Âm Dương. Đàn ông được xem là Dương, đàn bà là Âm, nhưng chỉ là điều khái lược. Trong mỗi con người lại cũng có phân biệt Âm và Dương nữa.
                  Toàn thể thân thể đàn ông là Âm, nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có tên là dương vật. Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lại là Âm nên mới có danh là âm hộ.
                  -Xương được coi là Dương, thịt được coi là Âm
                  -Phía mặt bên trái là Dương, phía mặt bên phải là Âm
                  -Phía trên của khuôn mặt ( kể từ chính giữa thần mũi ) thuộc Dương, -phía dưới thuộc Âm.
                  -Phần thân trước là Dương, phần thân sau là Âm
                  -Trong khu vực thuộc mắt, phần trên là Dương, phần dưới coi là Âm, mắt trái là Dương, mắt phải là Âm
                  -Những phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương, những phần trũng xuống coi là Âm.
                  -Dương thì lộ liễu và hướng lên. Âm thì ẩn tàng và hướng xuống. Dương cốt ở an hoà, Âm cốt ngay ngắn, Dương chủ về cứng rắn, Âm chủ về mềm mại.
                  Âm Dương trong mỗi con người cần phải Hòa, phải Thuận, Hoà có nghĩa là xương ngay ngắn, không lệch, không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân bố đều đặn khắp châu thân. Âm Dương thuận hoà chủ về phúc thọ.
                  Nếu như xương lộ mà không ngay ngắn, thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên ( chẳng hạn bộ phận này quá nhiều thịt, bộ phận kia lại quá cằn cỗi ) thì gọi là Âm Dương không thuận hoà. Hoặc Âm thịnh Dương suy ( thịt nhiều mà bệu, xương lại nhỏ và yếu, không cân xứng ) hoặc Dương cường Âm nhược ( cốt lộ, thịt ít ) đều là các tướng phản lại nguyên tắc Âm Dương thuận hoà: chủ về hung hiểm bất tường.
                  Nói một cách tổng quát, vô luận nam nữ, trong mỗi con người ( hình tướng, tính cách, khí sắc, thanh âm, phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều bị nguyên lý Âm Dương chi phối.
                  Đàn ông bản chất vốn Dương nhưng cần phải có Âm thích nghi điều hoà. Đàn bà vốn thuộc Âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu khống thế, đàn ông chỉ có thể Dương thuần mà không có Âm chất thì sẽ mất sự khống chế cần thiết, đàn bà chỉ có Âm nhung mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không tự tiến triển được.
                  Tuy nhiên dù Dương thuận phải có Âm chất để điều hoà cho thích nghi nhưng Âm không được lấn át phần Dương. Nếu Âm chất thái quá người ta gọi là Dương sai.
                  Âm nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng nếu phần Dương lấn át hẳn phần Âm ( vốn là phần căn bản ) thì trường hợp đó mệnh danh là Âm thác.
                  (Còn nữa)
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • #54
                    10. Tương quan giữa sắc và con người
                    a ) Về mặt kiện khang
                    1 - Nguyên tắc quan sát
                    Quan sát màu da để biết một cá nhân bị bệnh cần chú ý đến hai điều cấm kỵ sau đây, được gọi là ngũ kỵ và ngũ tuyệt
                    a ) NGŨ KỴ
                    -Kỵ môi xám mà lưỡi đen
                    -Kỵ yết hầu nổi màu đen hoặc đỏ mà ngày thường khoẻ mạnh hay khi mới bị bệnh chưa thấy hai màu đó xuất hiện ở yết hầu
                    -Kỵ sắc đen xạm hiện ra ở thiên thương và Địa các
                    -Kỵ khoé miệng có màu vàng nghệ
                    -Kỵ lòng bàn tay bỗng nhiên khô cằn
                    Lúc chưa bị bệnh, gặp một trong các màu trên ở các bộ vị kể trên thì chắc chắn khó tránh bị mắc bệnh. Nếu đã bị bệnh mà phạm vào một hay nhiều điều cấm kỵ trên thì đó là dấu hiệu bệnh chuyển từ nhẹ sang nặng. Nếu
                    b ) NGŨ TUYỆT
                    Trong lúc bệnh mà gặp một trong năm tuyệt chứng sau đây thì khó mong mau lành, sắc càng rõ thì hậu quả càng tai hại. Nếu đồng thời hội đủ cả Ngũ tuyệt thì chắc chắn không tránh khỏi tuyệt mạng vì cả Ngũ Ngũ tạng đều kiệt lực.
                    -Tâm tuyệt : Hai môi túm cong lại, màu môi đen và khô, chủ về tim kiệt sức, bộ máy tuần hoàn sắp ngưng hoạt động
                    -Can tuyệt : Bệnh nhân cứng miệng há ra được nhưng không ngậm lại được, vành trong mắt nốt ruồi sắc đen là dấu hiệu cho biết gan đã kiệt
                    -Tỳ tuyệt : Môi xám xanh mà thu hẹp lại , sắc mặt vàng vọt thê lương là dấu hiệu cho biết khí ở tỳ vị sắp tuyệt
                    -Phế tuyệt : Mũi xạm đen, da mặt khô xạm là dấu hiệu ở phổi đã cạn
                    -Thận tuyệt : Hai tai khô, xạm đen đột nhiên bị ù tai hoặc điếc hẳn nướu răng đổ máu và răng khô là được khí ở thận đã dứt.
                    2 - Các loại bệnh và dấu hiệu bệnh
                    Dưới đây là lược huật phương pháp quan sát màu sắc một số bộ vị có thể biết được căn nguyên phát sinh bệnh trạng cùng là dự đoán phần nào được sự chuyển biến của bệnh.
                    Bệnh ở tim và hệ thống tuần hoàn: Lông mày nhăn nheo, Sơn căn nhỏ hẹp, hai mắt cũng như khu vực quanh mắt có khí sắc đen xạm hoặc xanh pha đen.
                    Bệnh ở gan: Hai tròng mắt có gân vàng pha hồng, khí sắc khô xạm
                    Bệnh ở khu vực tỳ vị: Sắc mặt ( Bao gồm tất cả mọi bộ vị ) xanh pha vàng thuộc loại tà sắc, thần khí trì trệ, suy nhược, môi trắng bệnh ăn uống kém
                    Bệnh ở bộ máy hô hấp: Lưỡng quyền xạm đen và khô cằn, lúc nóng, lúc lạnh thất thường
                    Bệnh ở thận: Sắc mặt đen xạm, đặc biệt là hai tai và trán đen hơn lúc bình thường, mục quang hôn ám
                    Chứng khật khùng: Mắt lồi, trong mắt có sắc vàng, phía dưới mắt có sắc trắng như màu đất mốc, đó là dấu hiệu kẻ có bản chất nóng nảy, mất tự chủ như Tôn Thất Thuyết trong lịch sử Việt Nam cuối thể kỷ 19
                    Chứng thổ huyết: Sơn căn nhỏ, gầy và trơ xương, mắt có sắc xanh xạm
                    Chứng hoại huyết: Da mặt và tứ chi sắc vàng pha xanh và khô, râu ria đỏ như râu ngô ( mà bản chất không phải là loại Hoả hình ) tóc rụng nhiều
                    Chứng thận suy: Phần lệ đường bị ám đen, sắc mặt ảm đạm, mắt trũng sâu là dấu hiệu của kẻ trong tuổi thanh xuân đã hoang dâm vô độ, nên thận suy yếu và hiện ra các khí sắc kể trên tại các bộ vị dẫn thượng
                    Dấu hiệu bệnh nặng, nhưng sẽ thoát khỏi hiểm nghèo: Mặc dầu bệnh trạng ra sao mà nhãn quang thanh thản, linh hoạt, còn ngươi đen láy, có thần khí, chắc chắn không có gì nguy hiểm đến tính mạng
                    Triệu chứng sắp chết: Hai tai, miệng ( kể cả khu vực xung quanh ) đều xám đen và khô, hai mắt đờ đẫn, nhãn cầu gần như ngưng đọng là dấu hiệu sắp sửa tắt thở
                    Dấu hiệu sắp bị bệnh: Sơn căn xám đen, thiên đình có vết xám và lan rộng dần ra xung quanh, Chuẩn đầu ám đen và khô
                    b ) Về mặt mạng vận
                    1 - Các trạng thái biến thiên của thời vận
                    Trạng thái thời vận cực thịnh: Trạng thái vận khí cực thịnh khí sắc biểu hiện vận khí cực thịnh gồm có :
                    -Mạng môn (ấn đường ) chuẩn đầu đều màu hồng
                    -Ấn đường sáng sủa
                    -Chuẩn đầu hiện rõ màu tía nhạt pha lẫn màu vàng nhạt trông sáng láng
                    -Râu, lông mày tươi đẹp, có thần
                    Có một trong các biểu hiện trên là dấu hiệu của thời cực vận cực thịnh. Làm quan sẽ thăng tiến, đi buôn sẽ thu hoạch tối đa, càng hoạt động càng phát huy hảo sự
                    a ) Trạng thái thời vận đứng vững lâu dài :
                    Biểu hiện bề ngoài của loại vận khí này là :
                    -Nhãn thần sung túc sáng sủa
                    -Hai tụng lưỡng quyền Aán đường, chuẩn đầu, quanh năm tươi nhuận, không bị hôn ám, lòng bàn tay hồng hào hoặc mịn màng
                    Có những dấu hiệu trên thì diện mạo, bộ vị đôi lúc bị hôn ám bề ngoài nhưng ẩn hiện sắc sáng vẻ thanh ở trong là vận khí vững vàng thì sự hôn ám của các bộ vị khác trên mặt không đủ gây trở ngại cho tiến trình phát đạt.
                    Người có loại thời vận trên mưu sự gì cũng được toại nguyện làm điều gì cũng có lợi.
                    b ) Trạng thái thời vận bắt đầu tu:
                    Khi vận khí bắt đầu tụ sắc thì đó là dấu hiệu báo trước tài lộc
                    sắp tới, càng hoạt động càng tốt đẹp thêm. Ví dụ khi gặp các
                    trạng thái sau :
                    - Sắc mặt hôn ám, nhưng gián đài, đình úy sáng sủa, có sắc hơi vàng lạt phương lẫn màu màu tía lạt.
                    - Mặt mũi trông hôn ám, nhưng nhìn kỹ thì lại có ẩn tàng tươi mịn bề trong, lòng trắng của mắt không có tia máu, râu tóc tươi đẹp. Trong trường hợp này, bất kể là màu sắc gì mà kẻ tinh mắt thấy rõ là có khí sắc thì chắc chắn tốt sắp phát hiện, tạo thành trạng thái thời vận toàn thịnh trong tương lai.
                    c ) Trạng thái thời vận sắp biến chuyển từ xấu tới xa ra tốt:
                    Nói cho đúng, đây là loại vận khí giúp ta biến hung thành kiết, gặp dữ hoá lành, tuy gặp cảnh khó khăn nhưng rốt cuộc vẫn lướt qua được. Dấu hiệu bề ngoài của trạng thái này là:
                    - Sắc mặt hôn ám nhưng ánh mắt sáng sủa
                    - Sắc mặt xanh đen, nhưng chuẩn đầu có màu vàng lạt tươi mịn
                    - Sắc mặt đỏ nhưng có pha lẫn màu vàng lạt (hoặc hồng) tươi mịn
                    Người có trạng thái thần sắc kể trên thì tuy gặp lúc thất bại nhưng sau đây, thất bại lại trở nên thành công, thất y trở thành đắc ý.
                    d ) Trạng thái thời vận bắt đầu xấu:
                    Dấu hiệu của trạng thái vận khí bắt đầu xấu là khí sắc trên mặt không sáng sủa đều, hoặc trông sáng không ra sáng, trông hôn ám không ra hẳn hôn ám, hoặc câm có râu trắng hiện ra, hoặc chuẩn đầu hiện ra màu hồng đâm thuần tuý không có màu vàng lạt đi kèm.
                    Gặp trạng thái trên, nên cố giữ mức độ bình thường hoặc bảo trì hiện tại, tuyệt đối không nên vọng động vì càng vọng động thì càng đi đến hậu quả xấu hơn.
                    đ ) Trạng thái thời vận sắp tàn lụi:
                    Trạng thái này là giai đoạn kế tiếp của trạng thái kể trên, dấu hiệu bề ngoài có thể nhận thấy là :
                    - Thoáng trông mặt mũi rạng rỡ, nhưng nhìn kỹ thấy lác đác có vài chỗ sắc thái tạp loạn, không toàn vẹn
                    - Mặt sáng nhưng hai tai và chuẩn đầu ám đen hoặc không sáng, ánh mắt mờ yếu
                    (Còn nữa)
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • #55
                      (Tiếp)

                      -Mặt trông sáng láng nhưng trắng bệch không có vẻ chân khí ẩn tàng. Đây là trạng thái được tướng học mệnh danh là hữu sắc vô khí
                      Gặp loại khí sắc đột nhiên xuất hiện chỉ nên an phận thủ thường không nên vong động, cố cưỡng lại chỉ nghĩ đến thất bại vô ích.
                      e ) Trạng thái thời vận xấu:
                      - Sắc mặt thoáng trông có vẻ sáng sủa nhưng nhìn kỹ thì thấy khô và hai mắt hôn ám
                      - Da mặt đen xạm khô khan
                      - Khí sắc biến đổi thất thường ( hoặc một vài bữa, hoặc năm sáu ngày ) không phải vì bệnh trạng mà tự nhiên phát hiện
                      Đây là trạng thái khí sắc xấu nhất, tuyệt đối không nên mưu sự, cầu danh trong giai đoạn có loại khí sắc kể trên xuất hiện.
                      2 - Sắc và vận mạng qua thời gian
                      a ) KHÍ SẮC VÀ VẬN MẠNG THEO TỪNG MÙA
                      *Mùa xuân : Ba tháng mùa xuân thuộc Mộc, sắc xanh, muốn coi vận mạng của con người ( Đây chỉ nói về đàn ông ) thì coi xương quyền bên trái.
                      - Quyền trái mà mùa xuân có sắc xanh thì trước lo lắng sau vui vẻ
                      - Quyền trái về mùa xuân có sắc đỏ là tương sinh ( Mộc sinh Hỏa ) chủ về sự trước có tai họa khẫu thiệt sau thành sự đắc ý thỏa lòng
                      - Quyền trái về mùa xuân có sắc trắng là tương khắc ( Kim khắc Mộ ) chủ về tụng ngục, hoặc tang ma trong vòng ba tháng sẽ thấy ứng nghiệm
                      - Mùa xuân mà Quyền trái biến thành sắc vàng khè là điềm tương khắc (Mộc khắc Thổ ) tối hung, có thể bản thân bệnh nặng hoặc chết, nếu lưu niên vận hạn năm đó, mùa đó cũng là Quyền trái.
                      *Ngoài ra , trong ba tháng mùa xuân mà thấy :
                      -Mũi có màu đỏ tươi : Thân mình bị tai nạn cây gẫy hoặc người nhà bị thương tích , đổ máu vì cây gẫy
                      - Sơn căn có sắc ám đen chủ anh em gặp tai nạn, hoặc gia súc thất lạc
                      - Khí sắc ám đen mà ăn lan cả lên ấn đường chủ về văn chương trì trệ
                      - Khí sắc ám đen cả khu vực mắt chạy dài tới cả hai tai là trong nhà có tang sự hoặc chết hụt
                      - Mắt trái sắc xám xanh: Con trai bị tai ách, nếu là mắt phải chủ về tai ách của con gái
                      - Mắt trái có sắc pha hồng mà tươi mịn, chủ về con trai lại có tin vui: vợ có mang chủ sinh con trai, mắt phải có dấu hiệu tương tự chủ về con gái
                      - Nếu đàn bà có thai mà cả hai mắt và khu vực dưới mắt đều sắc ám đen mà lại không được sáng sủa thì đó là dấu hiệu thai sản khó khăn, có thể nguy hiểm đến tính mạng thai nhi lẫn sản phụ
                      - Nếu trong ba tháng mùa xuân mà bỗng nhiên môi trên từ sắc thái bình thường chuyển sang sắc trắng rõ rệt là điềm báo trước về bệnh ruột
                      - Nói chung, nếu mũi từ chuẩn đầu đến ấn đường) và trán về ba tháng mùa xuân có sắc sáng do màu vàng pha hồng tạo nên thì trong vòng từ 27 đến 47 nagỳ sẽ có tin lành đưa tới (hoặc là tiền bạc, nhà cửa, con cái
                      *Mùa hạ :
                      Ba tháng mùa hạ thuộc Hỏa, sắc chính yếu của mùa hạ là màu đỏ ( biến thái là màu tía màu hồng ). Bộ vị được dùng để đoán vận khí xấu tốt trong ba tháng hè là trán
                      - Trán về ba tháng hè mà có màu sắc đỏ rõ ràng là chính cách, chủ về sự có lôi thôi khẩu thiệt, nhưng sau đó lại trở thành tốt lành. Tướng pháp gọi đó là tỷ hòa ( Hoả gặp hoả )
                      - Trán về ba tháng hè có sắc xanh pha vàng là tương sinh ( Thổ Mộc sinh Hỏa ) thì trước xấu sau tốt
                      - Trán mà ba tháng hè có sắc đen hoặc trắng là điềm bất lợi, dễ bị bệnh hoạn
                      - Sắc tía hiện rõ rệt trên trán trong khoảng thời gian này là điềm báo trước cò nhiều sự bất trắc về quan tụng, đồ vật
                      - Hai mắt về mùa hạ cũng như lông mày, pháp lệnh hôn ám là thân thể bất an
                      - Hai cánh mũi có sắc đen pha tía là điềm tật bệnh về khí huyết
                      - Sơn căn sắc đen chủ huynh đệ có việc lôi thôi đưa đến tụng đình hoặc đồ vật thất tán
                      -Thùy châu ám đen : Vật tài hao tổn , vành tai mà đen xạm thì chính bản thân dễ chết vì tật bệnh tai nạn
                      - Nếu lưỡng quyền sắc đỏ tươi, mịn màng, từ chuẩn đầu đến tận trán có pha sắc vàng pha hồng tươi sáng là điềm báo trước mọi sự thuận lợi. Nếu tất cả các bộ vị trên bị pha xanh xám pha đen xạm là điềm trăm sự thất bại
                      - Sống mũi mà đen xám nhưng chuẩn đầu tươi nhuận hồng hào thì đau ốm nhì nhằng. Nếu tất cả đều hôn ám thì khó tránh khỏi chết vì tật bệnh
                      *Mùa thu :
                      Ba tháng mùa thu thuộc Kim, sắc trắng là chính cách. Muốn xem vận khí mùa thu thì lấy quyền bên phải làm chuẩn.
                      - Quyền phải sắc hồng hoặc đen là chính cách hoặc tương sinh , trước buồn sau vui
                      - Chuẩn đầu trong ba tháng mùa thu mà có sắc đỏ như mào gà chọi là điềm quan lộc hao tổn, tụng ngục lôi thôi
                      - Phía dưới hai mắt có màu đỏ là điềm xấu về con cái. Mắt phải con gái, ngược lại là phía con trai
                      - Ngư vĩ sắc đen là có tai nạn về sông nước. Sơn căn có sắc đen, mép miệng cũng hắc ám là điềm tật bệnh nội tạng
                      - Nếu mui ( từ đầu đến cuối ) hơi có khí sắc vàng mà rõ là công danh, tài lợi tấn phát
                      *Mùa đông :
                      Ba tháng mùa đông thuộc Thủy, tượng trưng bằng màu đen. Muốn xem vận khí trong khoảng thời gian này phải lấy Địa các làm chủ.
                      - Ba tháng mùa đông mà cằm có sắc đen thì trước xấu sau tốt. Có sắc xanh thì tương sinh ( Thủy sinh Mộc ) kết quả tương tự
                      -Cằm có sắc vàng về mùa đông chủ về tụng ngục , sắc trắng chủ chết chóc
                      - Lưỡng quyền về mùa đông có sắc đen là biểu hiện tai nạn hoặc tiền bạc hao phá
                      - Sơn căn sắc đen pha vàng : bất lợi về khẩu thiệt
                      - Ấn đường xanh vàng : Cầu công danh sẽ thất bại. Nếu có sắc đen pha tía lẫn lộn thì coi chừng xe cộ, sông nước
                      - Dưới hai mắt có màu xanh vàng : Trong vòng mười ngày có chuyện lôi thôi, có sắc đỏ là lôi thôi quan tụng, sắc vàng là tin vui
                      -Đầu lông mày có sắc đỏ chủ lôi thôi về những chuyện không đâu
                      -Trái lại, nếu phía dưới hai mắt có sắc vàng nhuận là điềm lành, làm việc gì cũng đạt sở nguyện
                      Tuy nhiên có một điều cần lưu ý là trước khi áp dụng vận khí bốn mùa cần phải xét xem người đó thuộc về hình gì trong năm hình rồi áp dụng nguyên lý tương sinh tướng khắc vào Ngũ hình để ấn định tầm ảnh hưởng tổng quát tiên khởi rồi mới áp dụng vận khí bốn mùa sau. Đi ngược lại điểm khởi nguyên này, sự đoán định mất hết giá trị, đôi khi còn đưa đến kết quả ngược lại.
                      b ) KHÍ SẮC VÀ MẠNG VẬN HÀNG THÁNG
                      *Tháng Giêng :
                      ( vị trí chủ yếu ở tại cung Dần , trên Pháp lệnh phải ) tháng giêng thì diện bộ có sắc xanh trắng hiện rõ từng, điểm sáng sủa tinh khiết là sắc tốt, chủ về vận khí đang lên.
                      (Còn nữa)
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • #56
                        (Tiếp)

                        *Tháng hai :
                        Trong tháng hai thì trên mặt cần phải hiện rõ sắc hồng tía nếu không thì sắc xanh sáng sủa hiện thành từng mảng mới là sắc tốt, vận khí hạnh thông.
                        Xem khí sắc tháng hai phải xem ở cung Mão ( từ đuôi mắt phải đến khoảng giữa tai phải ).
                        *Tháng ba :
                        Bộ vị chủ yếu tại cung Thìn, nói khác đi đó là Thiên thương ( khoảng cuối chân mày phải tới đầu tai bên phải ).
                        Màu vàng phương hồng : đắc cách, trắng hoặc đen rõ ràng là phá cách. Trong ba tháng màu sắc cần phải lạt. Thiên thương đắc cách là triệu chứng tốt bị ám đen hoặc trắng là tang chế, xanh quá rõ là dấu hiệu báo trước bản thân sẽ gặp tai ách.
                        *Tháng tư :
                        Khí vận tụ lại ở cung Tỵ ( khu vực từ Thái hà tới Nguyệt giác tức là từ phía trên mày phải tới mép tóc phải ).
                        Màu tốt nhất là màu hồng tía sáng sủa : chủ mọi việc tốt đẹp, khí sắc trì trệ là bất tường
                        Các màu khác đều khắc tỵ : màu đen chủ về chết chóc, xanh chủ về hình phạt, vàng chủ về thất tán, trắng chủ về ma chay.
                        *Tháng năm :
                        Khí vận tụ ở cung Ngọ ( khoảng từ Aán đường chạy thẳng lên mí tóc trên trán )
                        Màu đỏ hoặc hồng tía là khí vận tốt. Các màu khác đều biểu hiện sự thất ý, thất là màu xanh.
                        *Tháng sáu : Khí vận tu ở cung Mùi ( khoảng đầu chân mày trái tới phía trên Nhật giác )
                        Sắc chính trong tháng này là cung Mùi phải có màu vàng pha tía. Nếu có sắc xanh xạm hoặc chỉ hơi hồng mà lẫn trắng trộn với nhau thì công việc trì trệ hay gặp tai ách.
                        *Tháng bảy :
                        Khí vận tụ ở cung Thân ( khoảng cuối đuôi mày trái tới Thiên thương ).
                        Sắc chính là tốt là sắc vàng và trắng. Kỵ pha sắc đỏ hoặc đen xạm. Nếu sắc chính là trắng pha chút màu vàng hoặc tía chủ đại cát.
                        *Tháng tám :
                        Khí vận tháng tám coi tại cung Dậu
                        Khí sắc chính là ít vàng nhiều tía, không nên có nhiều sắc hồng hoặc đỏ rõ rệt. Trong khoảng tháng tám, chẳng kỵ sắc hồng và đó ở cung Dậu mà còn kỵ ở bất cứ bộ vị nào nữa.
                        *Tháng chín :
                        Khí vận tháng chín coi tại cung Tuất.
                        Khí sắc chính là màu và hồng, kỵ màu đỏ, xanh, đen. Màu đen trong thời gian này chỉ tai họa. Màu vàng cần hiện ở ngoài, màu hồng thì mới tốt, ngược lại là xấu.
                        *Tháng mười :
                        Khí vận tháng mười coi tại cung Hợi
                        Màu trắng: chủ về tài lộc với điều kiện sáng sủa
                        Màu đỏ: tai ách
                        Màu vàng: bệnh tật
                        Màu xanh: không may mắn về cầu công danh sự nghiệp
                        *Tháng mười một :
                        Khí vận coi tại cung Tý
                        Màu sắc tốt là màu sắc đồng dạng với tháng mười. Có màu xanh hoặc đen thuần túy sáng sủa là trung bình, tối kỵ màu hồng, màu đỏ dù là từng nảng hay từng chấm nhỏ cũng vậy
                        *Tháng chạp :
                        Khí vận tháng chạp coi tại cung Sửu (từ mép miệng phải chạy ngang má và chạy dọc xuống hạ đình)
                        Màu sắc chính yếu đắc thế của tháng chạp là hai màu xanh, màu vàng. Điều đáng chú ý nhất là cả hai màu đó phải mờ ám nhưng không được ngừng trệ bở sự xuất hiện bất chợt của các màu đen hoặc đỏ ở cung Sửu.
                        Tuy nhiên vì hạn chung Tý, Sửu ở sát gần nhau nên ta phải phân rõ mảu sắc giao liên của chúng. Tháng chạp thì cung Sửu có thể trắng nhưng cung Tý phải đen mới hợp cách.
                        Tóm lại, khi dựa vào khí sắc để đoán vận khí tốt xấu, cần phải nhớ các nguyên tắc căn bản sau đây :
                        a ) Theo đúng nguyên lý vạn vật biến chuyển không ngừng, khí sắc mỗi tháng cũng biến chuyển theo từng tiết ( mỗi tháng có 2 tiết, mỗi năm 24 tiết ) :
                        -Từ mồng 1 đến 15 mỗi tháng: Khí sắc tươi nhuận và rõ rệt
                        -Từ 15 đến cuối tháng chỉ cần tươi nhuận nhưng phải mờ dần
                        b ) Sắc diện mỗi ngày ở một người vô bệnh tật cũng biến chuyển. Buổi sáng mới thức dậy: khí sắc trong sáng, buổi trưa mạnh mẽ và buổi chiều an tĩnh.
                        c ) Chỉ có loại khí sắc tự nhiên mới cho phép dự đoán vận hạn hàng tháng, hay hàng năm mà thôi. Khí sắc hàm dưỡng, hay tà khí dùng để khám phá khí phách tinh thần.
                        (Còn nữa))
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment


                        • #57
                          (Tiếp)

                          NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG
                          I - Ý NIỆM SẮC TRONG TƯỚNG HỌC Á ĐÔNG
                          Trong tướng học Á Đông, từ ngữ sắc bao trùm nhiều lãnh vực:
                          a ) Màu da của từng cá nhân
                          Tướng học Á Đông là kết quả tích luỹ các kinh nghiệm thực tế của nhiều thế hệ, chỉ áp dụng được cho các chủng tộc Á Đông có cùng màu da căn bản là vàng, có cơ thể tầm vóc tương tự như người Trung Hoa và cùng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tập quán và văn hoá Trung Hoa như Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam mà thôi.
                          Nói chung, người Á Đông tuy là giống da vàng, nhưng trong thực tế, trong cái vàng tổng quát đó, ta vẫn phân biệt được sắc ngăm đen như Trương Phi, sắc trắng ngà, sắc hung hung đỏ như mặt Quan Công, sắc hơi mét xanh như Đơn Hùng Tín, trong truyện cổ của người Trung Hoa.
                          Về vị trí quan sát, tuy nói tổng quát là làn da, nhưng trong tướng học khi nói đến sắc da, người ta chú ý nhất đến da mặt, chỗ sắc dễ thấy nhất, còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.
                          b ) Màu sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hoặc thân thể
                          Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau :
                          -Màu hồng, màu hơi thâm đen của môi, của các chỉ tay, của vành tai
                          -Màu đen hoặc hung hung của râu tóc, lông mày
                          -Màu trắng của lòng trắng mắt, màu nâu ( ta thường gọi là đen của tròng đen )
                          -Màu đỏ của các tia màu mắt ….
                          c ) Sự đậm lạt của từng loại màu
                          Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt hay làn môi ta thấy có môi hồng lạt, hồng đậm, hồng phương trắng. Cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng, trắng xanh, trắng ngà. Tóm lại, sự đậm lạt của màu cùng là một thành tố của ý niệm sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.
                          ) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần
                          Cùng một màu hồng của môi, của cặp má, nhưng ta thấy có người môi khô, có người môi mọng, có người sắc da hồng nhuận, có người da khô trông như vỏ cây hết nhựa.
                          Ngoài màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hợp do nhiều màu đơn thuần hợp thành. Lãnh vực của chúng cũng đồng một khuôn khổ như các lãnh vực của các đơn sắc.
                          Sau hết, trên khuôn mặt của một cá nhân, dù màu đơn thuần hay mau phức hợp, chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác, hoặc về phẩm chất, về độ đệm lạt, về thành phần cấu tạo ( đối với các loại màu phức tạp ) qua thời gian. Chẳng màu da trắng của một người có thể sau một thời gian biến sang hồng hay xanh xám: tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ; cặp mắt trong xanh và là môi tươi thắm có thể vì một lý do bệnh nào đó mà biến thành cặp mắt trắng đã làn môi thâm sì.
                          Tóm lạ , khi nói đến sắc trong tướng học là ta nói đến màu của các loại da, màu của các bộ vị, độ đậm lạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của màu trên con người từ khu vực này sang khu vực khác, từ thời gian này sang thời gian khác. Nghiên cứu về sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lãnh vực nói trên, đi từ tổng quát tới chi tiết, từ chỗ đơn thuần tới chỗ phức tạp. Đôi khi quan sát bằng thị giác chưa đủ, người ta còn phải vận dụng đến cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là trong lãnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm lạt của màu sắc ở từng bộ vị trên con người.
                          II - CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC
                          Nói đến sắc tức là nói đến màu, nhưng ở đây nặng nề về phần màu của da trên khuôn mặt. Tướng học Á đông phân ra bảy loại đơn sắc: - màu đỏ - màu xanh - màu vàng - màu hồng - màu trắng - màu tía - màu đen
                          Ba màu Đỏ, Hồng, Tía được tướng học Ngũ hành hoá thành ra hỏa sắc là màu chính thức của ba tháng hè, là màu da căn bản của loại người hình Hoả trong phép phân loại Ngũ hành hình tướng.
                          Màu xanh thuộc Mộc, là màu sắc chính của ba tháng mùa xuân màu da căn bản của loại người hình Mộc.
                          Màu trắng thuộc Kim là màu sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu là màu da căn bản của người hình Kim.
                          Màu đen thuộc thuỷ là màu sắc thuộc về mùa đông là màu da chính cách của loại người hình Thủy.
                          Sau cùng, màu vàng thuộc thổ, là màu sắc tượng trưng an lan quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.
                          a ) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người
                          Theo sự kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy thông thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có một ý nghĩa riêng biệt như sau:
                          -Màu xanh chỉ về lo lắng, kính hiểm, tật ách, trở ngại, tiểu nhân, nhục nhã
                          -Màu đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng,tù ngục phá tà , tật bệnh, hung tai
                          -Màu đen chỉ thuỷ ách, hao phá, mất chức, chết chóc
                          -Màu trắng chỉ hình khắc, hiếu phục, tật bệnh
                          -Màu hồng ( và đôi khi màu Tía ) chỉ về các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi, may mắn ngoài ý liệu
                          -Màu vàng chỉ vui vẻ, tài lộc thăng tiến, bình an may mắn
                          (Còn nữa)
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment


                          • #58
                            (Tiếp)

                            Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch, trong thực tế, việc phân định và giải đoán ý nghĩa của sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại sắc có liên hệ xa gần chằng chịt với nhiều dữ kiện khác. Sách Quy giám đã từng nói “ vui buồn, may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua khí sắc".
                            Sắc phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp, tuỳ thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hoặc khô hoặc nhuận. Khởi nguyên của khí ở Ngũ tạng, sắc bắt nguồn từ khí, ban ngày hiện ra ở ngoài. Cái dụng của sắc còn tùy theo thời gian, khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông ngắn như chiều dài hạt tấm. Thế cảu sắc có thịnh có suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian, khí hậu và Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại sắc, sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác, hoặc do nội trạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hoặc do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hoặc do uất ức mà mặt đỏ, hoặc uống rượu mà mặt đỏ. Chỉ đỏ sắc tự nhiên thiên bẩm hặoc vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thực là sắc đỏ của tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện rõ rệt ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung quan sự gia vận.
                            Nói tóm lại, biết ý nghĩa đặc thù của từng loại sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng được ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó :
                            - Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện sắc
                            - Tính cách thanh trọc của sắc
                            - Hư sắc hay thực sắc
                            -Bộ vị xuất hiện
                            -Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người ( Ngũ hành hình tướng )
                            -Phối hợp hay không phối hợp với màu sắc từng mùa
                            -Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt
                            -Đơn thuần hay tạp sắc …
                            Chẳng hạn màu đen, tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thủy trong ba tháng mùa đông mà đặc biệt lại ở Địa các, với sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.
                            Màu đỏ, tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu ởn gười hình Kim trong ba tháng hè, sắc tươi tắn không hỗn tạp. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh: pha lẫn màu xanh hay vàng mà lại là thanh sắc thì tuy tai ương vẫn có nhưng mức độ nguy hại giảm thiếu tới tối đa, rốt cuộc không có gì đáng ngại. Từ đó, ta có thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.
                            b ) Quy tắc tổng quát về cách đoán sắc
                            Trong phép đoán sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung.
                            Ngoài các yếu tố kể trên, ta còn phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại sắc. Đó là :
                            1 - Hư sắc và thực sắc
                            Hư sắc là trường hợp sắc và khí không tương hợp, chỉ có sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có khí. Để hiểu ta có thể ví hư sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu sắc vô khí.
                            Trái lại, thực sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ảnh trung thực chất nhựa cây chu lưu ở dưới lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.
                            Trong tướng học chỉ có thực sắc mới đáng lưu tâm còn hư sắc không đáng kể.
                            2 - Vương sắc, trệ sắc, hoại sắc
                            Bất cứ loại thực sắc nào dù đơn thuần hay phức hợp cũng đều có thể ở vào một trong ba trạng thái trên.
                            *Vương sắc :
                            màu thuộc loại chính cách, sáng sủa, phân phối đều khắp bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vượng sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.
                            *Trệ sắc :
                            Màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc, nhưng phẩm chất xấu hặoc phân phối không đều đặn (hoặc lốm đốm, hoặc chỗ đậm chỗ nhạt).
                            Trong tướng học, nói đến vượng sắc cách và trệ sắc là người ta chú ý đến màu sắc chính yếu trên khuôn mặt hoặc các bộ vị chính yếu.
                            Như danh xưng của nó , trễ sắc chủ về các sự bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát
                            -Kim trệ : Da mặt hiện ra sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là đềim báo trước vẽ sự cùng khốn, ngưng trệ về của cải.
                            -Mộc trễ : Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về tật bệnh, tai họa .
                            -Thuỷ trệ : Toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai tai mờ ảo như khói ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ về quan trung thị phi.
                            -Hỏa trệ : Mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc.

                            -Thổ trệ : Màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.
                            *Hoại sắc :
                            Xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hoặc pha trộn nhiều màu sắc tương khắc.
                            Hết
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


                            • #59
                              Nguyên Văn Bài Viết Của beden View Post
                              cảm ơn bác 470525, bài viết của bác có hình ảnh minh hoạ thì chắc dễ hình dung hơn bác nhỉ
                              Sau đây đáp ứng lời dặn của bạn mình sẽ pos bài xem chỉ tay có hình ảnh kèm theo, nhưng hình ảnh nó lèm nhèm không biết bạn có dồng ý không?
                              nếu đồng ý cho ình biết nhé
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


                              • #60
                                Xem chỉ tay

                                LỜI MỞ ĐẦU
                                Thuật xem chỉ tay là một bộ môn thuộc lãnh vực tìm hiểu đời người. Bộ môn này được phát triển từ lâu đời. Theo Funk Wagnalls New Encyclopedia bộ mới năm 1992 thì thuật xem chỉ tay (Palmistry) còn được gọi là Chiromancy được biết vào thời cực thực của người dân Chaldeans, Assyrians, người Ai Cập Cổ Đại cũng như người Hebrews. Những nhà triết học nổi danh như Plato (428 ¬ 347 BC), Aristote ( 384 ¬ 332 BC) cũng đã lưu tâm đến vấn đề các dấu hiệu trên bàn tay liên hệ đến cá tính và bệnh lý của con người. Về sau thuật xem chỉ tay và nghiên cứu về các chỉ trên bàn tay càng phát triển mạnh nhất là vào thời Trung Cổ. Từ thế kỷ thứ 19, thuật xem chỉ tay đã chiếm địa vị ưu thế so với các khoa bói toán khác trong vấn đề giải đoán vận mệnh con người.
                                Nhiều nhà nghiên cứu khoa học nổi tiếng từ thời Aristote đến nay đã không ngừng tìm hiểu về những đường nét trên bàn tay hầu mong khám phá những điều bí ẩn của con người và nhất là đời người. Danh sách các nhà khoa học tiến sâu vào lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu chỉ tay ngày càng dài: Corman, Kurt Lewin, Haymaaus,
                                Kretchmer, Binet Simon, Le Senne, Wiersma, Henry Rem, Charlotte wolfe, J.Ranald, V.Pardo Cosstello... Từ năm 1420 đã có nhiều tư liệu nghiên cứu tìm hiểu về bàn tay của John Lydgate. Trước đó người ta cũng gặp nhiều tài liệu liên quan ngay cả trong những đền đài, lăng mộ cổ. Tại thư viện Bofleian ở Đại học Oxford các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những tài liệu hướng dẫn cùng với các tranh vẽ về dạng thể các bàn tay cùng những đường chỉ tay. Các tài liệu này được các nhà tìm hiểu về bàn tay ở thế kỷ thứ 13 thực hiện.
                                Tuy nhiên, theo thời gian thuật nghiên cứu và thực hành về những gì liên quan đến chỉ tay thường không phát triển mạnh vì một số lý do.
                                1) Số người nghiên cứu không nhiều và ít có sự tham khảo tài liệu của nhau do tình trạng muốn giữ bí mật điều nghiên cứu, không phổ biến ra ngoài.
                                2) Một số lớn người cho vấn đề nghiên cứu tìm hiểu chỉ tay chỉ là việc làm vô bổ vì đó là vấn đề có tính cách mơ hồ, hay còn gán cho là mê tín dị đoan.
                                Ngày nay không những các nhà chuyên khảo cứu về chỉ tay tiếp tục công việc tìm hiểu bộ môn này mà cả các nhà khoa học cũng dấn thân vì họ thấy rõ sự kiện trước tiên rằng đã có sự liên quan mật thiết giữa bàn tay, giữa những chỉ, những dấu hiệu trên bàn tay với cá tính, và nhất là bệnh lý của con người. Các nhà khoa học, đặc biệt là các nhà sinh lý học đã cố tâm tìm hiểu khám phá dần mong có được chìa khóa của vấn đề để mở ra một chân trời mới trong sự chẩn đoán được bệnh tật qua các dấu hiệu xuất hiện trên bàn tay. Riêng các nhà tâm lý học, xã hội học còn tìm cách tìm hiểu, khám phá từ những đường nét đặc trưng trên bàn tay để biết tâm lý, cá tính, sở trường, sở đoản của mỗi con người và tiến xa hơn nữa trong vấn đề tìm
                                hiểu suy đoán những gì mà con người gọi là Định Mệnh (Destiny) để hiểu được công danh, sự nghèo thịnh suy, sự hạnh phúc hay tàn tạ buồn đau chia ly rời rã về hôn nhân, tình cảm gia đình của mỗi thân phận con người...
                                Ngày nay, các nhà chính trị, quân sự, các nhà giao tế, thương mãi đã không ngần ngại phân vân khi quyết tâm nghiên cứu những điều bí ẩn trên bàn tay cũng như gương mặt của những người liên quan với mình hầu có thể hiểu rõ được họ một
                                cách đúng đắn và chính xác giúp họ thực hiện được hoài bão "biết mình biết người, trăm trận trăm thắng".
                                Từ lâu, tại Việt Nam nhiều sách vở tài liệu đã nói nhiều về thuật xem chỉ tay, tìm hiểu về bàn tay cùng những phương thức, luận đoán, tìm hiểu những dấu hiệu, đường nét về bàn tay. Tuy nhiên các tài liệu đôi khi đối nghịch nhau hoặc trình bày có vẻ vừa mở vừa đóng hay đôi khi khép hờ không muốn trình bày rõ ràng chính xác vấn đề do sự kiện muốn dấu nghề hoặc quan niệm rằng Thiên Cơ Bất Khả Lậu.
                                Vì thế tài liệu sách vở tuy nhiều nhưng có vẻ bàng bạc, rời rạc mỗi nơi bàn một vấn đề nổi bật. Do đó nhiều người muốn tìm tòi, học hỏi về chỉ tay không có đủ tài liệu hoặc phải tìm mua đủ loại sách và khi xem qua có khi trùng hợp nhau hay lập đi lập lại cũng như không có hệ thống rõ ràng dễ hiểu dễ thực hiện.

                                Từ ngày đến định cư tại Mỹ quốc, chúng tôi may mắn có được khá nhiều tư liệu nghiên cứu về chỉ tay và phần lớn các sách trình bày rất mạch lạc, rõ ràng. Sự kiện ấy đã khiến chúng tôi có ý nghĩ để thì giờ tìm tòi thêm các tư liệu từ trong cũng như ngoài nước về lãnh vực chỉ tay rồi soạn lại thành một cuốn sách tập đầy đủ những gì cần biết về lãnh vực này để những người thích tìm hiểu đề tài này có một cẩm nang hữu ích.
                                Để giúp độc giả được mau hiểu, mau nhớ khi sử dụng sách. Chúng tôi đã cố gắng rút gọn vấn đề, tránh rườm rà dông dài, chỉ ghi có ý nghĩa của các dấu hiệu, đường nét xuất hiện trên bàn tay liên quan đến các lãnh vực nào đó mà thôi (cá tính, công danh, địa vị, tiền bạc, tài năng, tình cảm, sức khỏe, tuổi thọ, bệnh tật...).
                                Ngoài ra điều quan trọng là để người xem có thể lĩnh hội được ngay những gì đã trình bày, chúng tôi chú trọng nhiều vào hình vẽ để minh họa về hình ảnh chỉ tay hay dấu hiệu trên chỉ tay nói lên điều gì. Có tất khoảng 700 hình vẽ về những đường nét trên chỉ tay với lời ghi chú nay đủ giúp quý vị vừa nhìn hình vẽ vừa biết được ý nghĩa của chúng rất nhanh. Qua các hình vẽ quý vị đã có được những khái niệm về các đường nét và ý nghĩa, chúng tôi còn đưa ra những hình ảnh chụp trung thực của những bàn tay và những chỉ tay đặc biệt hầu quý vị sẽ quen dần với những bàn tay thật sự ngoài đời.
                                Các tư liệu thu thập, biên soạn gồm các sách vở tài liệu trong nước và ngoài nước (xin xem phần Tài liệu Tham Khảo). Chúng tôi xin chân thành cảm ơn cũng như xin phép những tác giả của sách tìm hiểu về chỉ tay để được tham khảo và tổng hợp, nghiên cứu những gì mà quý vị đã biên soạn.
                                Chúng tôi hy vọng tập sách này sẽ đóng góp một phần trong việc nghiên cứu, tìm hiểu cũng như thực hành về khoa xem chỉ tay. Hy vọng không những quý vị có thể tự tìm học được nhanh mà còn có khả năng xem cho chính mình và cho người khác.
                                Mặc dầu vậy, cuốn sách chắc chắn sẽ không tránh được những điều sai sót. Rất mong được sự đóng góp thêm tài liệu cũng như lời chỉ giáo, để lần tái bản sau thêm rõ ràng đầy đủ và hoànchỉnh hơn.
                                Tác giả:
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X