Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

12 ngày ở Miến Điện

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #46
    SỰ SỐNG LÀ THIÊNG LIÊNG
    Tác giả: Nguyễn Tường Bách

    Nepal chỉ là một nước nhỏ nằm giữa hai cường quốc khổng lồ và đông dân nhất thế giới, đó là Ấn Độ và Trung Quốc. Với một dân số khoảng 30 triệu người, Nepal đóng một vai trò rất phụ thuộc trong lịch sử phát triển của hai nền văn hóa tại hai nước lớn đó, vốn là hai nền văn hóa lâu đời nhất của loài người.


    Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng...

    Thực vậy, trong thời cổ đại, vì biên giới của Nepal cũng không hề được xác định rõ, miền đất này chịu ảnh hưởng rõ rệt của hai nước lớn nằm hai bên sườn Hy Mã Lạp Sơn, phía nam bên này là Ấn Độ, phía bắc bên kia là Tây Tạng.

    Nghe qua, ta có thể tưởng Nepal là một nơi không có gì đáng chú ý. Thế nhưng, những ai đã đến thăm Nepal sẽ thấy đây là một miền đất vô cùng thú vị. Thực tế, Nepal chính là chiếc cầu bắc từ bình nguyên Ấn Độ đi cao nguyên Tây Tạng. Mà Ấn Độ và Tây Tạng đều là hai vùng có truyền thống sâu sắc của Phật giáo. Do đó, đến Nepal, nếu có chút tâm yên tĩnh, ta có thể cảm nhận nhiều điều vô cùng sâu lắng.

    Nepal không phải chỉ là một mảnh đất bằng phẳng nối liền hai nước mà là một chiếc cầu thang đi ngược từ dưới lên trên, từ bình nguyên Ấn Độ lên cao nguyên chừng 4.600m của Tây Tạng. Thủ đô Kathmandu của Nepal với độ cao 1.300m vốn chỉ là một thung lũng hiền hòa trong một quốc gia chứa khoảng tám đỉnh núi trên 8.000m và 240 đỉnh trên 6.000m. Do đó con đường đi từ Kathmandu, vượt biên giới tại núi Hy Mã, lên Tây Tạng là một con đường của núi non hùng vĩ, của thác nước trắng xóa và của băng vạn niên chói lọi. Đây hẳn là một trong những con đường đẹp nhất thế gian, đúng như các sách du lịch đều nhất trí thừa nhận. Con đường len lỏi giữa những thung lũng xanh rì mà hai bên là những ngọn núi nổi tiếng, một bên là ngọn Shashi Pangma với độ cao 8.014m, bên kia là những đỉnh bảy tám ngàn mét mà cách đó chừng 120km là ngọn Everest cao nhất thế giới. Trên độ cao chưa đến 3.000m, ta còn thấy rừng cây cổ thụ xanh mướt với những dòng thác như những dải lụa bạc thả vài trăm mét từ trên núi cao. Cao hơn nữa, rừng nhiệt đới biến mất, nhường chỗ cho thảo nguyên ngút ngàn với vô số bụi cây dại, thấp sát đất, nở đầy hoa. Thiên nhiên mở rộng vô biên, xa xa chỉ còn những đỉnh núi chói lọi tuyết trắng. Trên cao nguyên, bầu trời thường có một màu xanh thẫm như nhung. Lạ thay, bầu trời lại tối trong lúc mặt đất sáng lên một màu đồng của đá và ánh chiếu từ băng vạn niên nằm cao trên đỉnh.



    Thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa
    mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.

    Đi qua những cảnh thiên nhiên kỳ diệu như thế, con người đô thị như chúng ta sẽ choáng ngợp, tâm sẽ chuyển động cực mạnh. Đến vùng đất vắng người này, con người sẽ chứng kiến sự kỳ diệu của sắc màu và cảnh quan lạ lùng của tạo hóa. Và chỉ cần một chút tâm nhạy cảm, con người sẽ đến với một nhận thức, một tri kiến khác lạ. Đó là thiên nhiên xem ra không phải chỉ có đất và đá, gió và tuyết, nước và lửa mà hình như là một sự xếp đặt có ý thức.



    Từ sự nhận biết đó, trong cảnh hùng vĩ của núi sông, của băng tuyết, của mặt trời, của sự vận hành không ngừng trong thiên nhiên, người ta sớm cảm nhận thấy rằng thế giới này do một năng lượng nhất định tạo nên, dù không mấy ai biết năng lượng đó từ đâu đến. Một năng lượng vô tận nhưng vô hình đang vận hành, đó là điều mà con người khi đứng trên cao nguyên Tây Tạng, trên "mái nhà thế giới", sẽ cảm nhận một cách vô cùng rõ nét.

    Đứng trước một cảnh quan vĩ đại như thế, con người vừa cảm thấy một lòng kính sợ trước chiều sâu thẳm và sinh động của vũ trụ, mặt khác vừa thấy chính mình cũng là một biểu hiện của sự sống, của năng lượng. Con người vừa thấy mình như là trung tâm, là tiêu điểm, là trục quy chiếu để ngắm nhìn thế giới, đồng thời lại thấy mình là một sự xuất hiện vô cùng nhỏ bé bên cạnh những dạng hình khổng lồ khác của năng lượng. Hai cảm nhận đó thường mâu thuẫn trong đời sống bình thường nhưng nơi đây lạ một điều là chúng không loại bỏ lẫn nhau nữa. Vì nơi đây dạng hình to nhỏ không còn đóng vai trò, dường như chỉ có một dòng năng lượng đang vận hành, nó "ứng" vào đâu thì nơi đó có sự hiện hữu.

    Con người bình thường như chúng ta tuy cảm nhận được năng lượng này nhưng không giải thích được, lý trí không nắm bắt được nghịch lý của nó sinh ra. Năng lượng này hầu như vừa nằm bên trong, vừa bên ngoài; vừa tại nơi đây vừa cùng khắp; vừa tạo ra thân mình, vừa tạo ra cảnh vật bên ngoài; vừa vô hình vừa mang đủ thứ dạng hình. Tuy không định nghĩa và gọi tên được nó, nhưng điều chắc chắn là người ta thấy nó kỳ diệu. Chỉ cần nhìn sự cấu tạo và hoạt động của cơ thể chính mình, ta có thể thấy sự kỳ diệu đó. Nhìn vào sự vận hành của thiên thể trong vũ trụ hay trong những cấu trúc nhỏ nhất của vật chất, ta cũng thấy sự kỳ diệu đó.

    Xưa nay rất nhiều người đã cảm thấy năng lượng đó. Họ cố tìm một danh tính cho nó. Có người gọi là "Tâm", là "Đạo", là "Tự Tính", là "Tính Không", là "Thượng Đế". Mỗi người cho nó một danh tính riêng mà nội dung và mức độ sâu xa hẳn cũng rất khác nhau. Nhiều người tìm cách "tiếp cận" hay "hòa nhập" với năng lượng đó và cũng vì sự khác biệt trên bước đường tầm cầu đó mà sinh ra rất nhiều môn phái.



    Ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất

    Lại cũng có nhiều người từ chối những danh tính nói trên. Đối với một số người, những danh tính đó có tính chất mơ hồ, xa lìa khoa học, trực tiếp dẫn vào lĩnh vực tôn giáo thần bí. Thậm chí có một số người dị ứng hẳn với vài từ, thí dụ "Thượng Đế", cho rằng dùng từ này thì chấp nhận có một thể trạng nhất định đã sáng tạo nên thế giới và con người, điều mà khoa học ngày nay cũng như cả một số tôn giáo bác bỏ.

    Hãy gác qua một bên những cuộc tranh luận vô tận xuất phát từ ngôn từ. Điều mà phần lớn chúng ta đều cảm thấy là có một năng lượng đang luân lưu vận hành. Hãy tạm gọi năng lượng đó là "Sự Sống" vì tất cả chúng ta đều thấy có "Sự Sống" trong thân mình. Trong thiên nhiên Sự Sống hẳn cũng hiện diện nên sinh vật và cây cối mới có thể tăng trưởng và sống còn. Trong vũ trụ hẳn cũng phải có một thứ năng lượng vĩ đại đang vận động. Liệu năng lượng đó cũng chính là Sự Sống trong thân chúng ta hay không thì đó là điều mà người bình thường như chúng ta không ai dám khẳng định.

    Câu hỏi vừa nêu thực ra là một vấn đề trung tâm của ngành Bản thể học. Cuối cùng có lẽ người suy tư sẽ chạm trán với câu hỏi "Có nhiều Sự Sống hay chỉ một". "Một hay nhiều" là thắc mắc muôn thuở của người tầm cầu mà đầu óc lý luận không thể trả lời thỏa đáng.

    Lục tìm lại trong quá khứ, chúng ta bắt gặp lời của một số thánh nhân về luận đề này: "Một nhưng nhiều". Muốn hiểu lời này ta có thể hình dung một thanh nam châm. Thanh nam châm có một tính chất, đó là hai cực từ tính của nó ở mỗi vết cắt. Thế nhưng khi ta cắt ở bất cứ điểm nào thì tại điểm đó đều sinh ra từ tính như vết cắt trước cả, chất lượng như nhau, không hơn không kém. Tương tự như thế, chỉ có một Sự Sống nhưng nó hiện hữu trong mỗi cá thể, kỳ diệu như nhau, "thánh không tăng, phàm không giảm". Loại tri kiến "một nhưng nhiều" là một loại nghịch lý đặc trưng mà ta sẽ gặp khi đi sâu vào lĩnh vực bí nhiệm của tâm linh. Trong lĩnh vực này con người có lẽ phải tạm quên khái niệm của không gian xa gần, to nhỏ thì mới có thể lĩnh hội được.

    Đối với nhận thức bình thường của chúng ta, Sự Sống xem ra là một cái gì riêng tư của mỗi người, nó là "của tôi và do tôi tạo ra". Nhận thức này là nguyên nhân tại sao con người thấy mình tách biệt với cái còn lại trên thế giới và nói cho cùng nó là nguồn gốc của mọi sự đau khổ của đời người. Nhận thức đó làm ta sẵn sàng làm điều ác với đồng loại và nó cũng là tác nhân sinh ra mọi nỗi đau khổ thất vọng và trầm cảm mà tại phương Đông cũng như Tây con người đều gặp phải.

    Những ai có may mắn cảm nhận Sự Sống là "một nhưng nhiều" có lẽ sẽ đến với một nhận thức mới về con người và cả muôn thú hay thiên nhiên. Người đó tự thấy mình chỉ là một dạng xuất hiện của Sự Sống, cũng bình đẳng như Sự Sống xuất hiện nơi một người khác, một sinh vật khác và thậm chí nơi cả thực vật hay loài "vô sinh". Người đó sẽ thấy liên đới với mọi dạng của Sự Sống, thấy mình nằm trong mạng lưới vĩ đại của cái mà ta gọi là thế giới hiện tượng. Người đó đồng thời cũng thấy mình chứa đầy đủ tính chất và khả năng của Sự Sống nguyên thủy và có trách nhiệm với dạng hình của mình đang được ban phát, với xã hội của mình đang nằm xung quanh.



    Chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình
    là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng.

    Chúng ta có lẽ không ai hiểu thấu tất cả những điều nêu trên vì thực ra tri kiến đó quá sâu xa và siêu việt, vượt mọi tầm mức của con người bình thường. Nhưng những ai chỉ cần cảm nhận sơ lược điều này đã thấy mừng run về một điều mà các thánh nhân thời cổ đại đã nói tới. Sự Sống sẽ không những chỉ là "một nhưng nhiều" mà nó còn vô cùng thiêng liêng.

    Đối với người đó thì gọi là Sự Sống là "Thượng Đế" hay bất cứ ngôn từ nào khác hay vắng bóng một danh tính đều được cả. Vì có lẽ người đó chỉ cần nhớ đến hơi thở hay tiếng đập của trái tim mình là đã "tiếp cận" với cái thiêng liêng. Đời sống đô thị và một xã hội đầy tranh chấp khó làm ta hiểu ngộ tính chất của Sự Sống. Cảnh quan thiên nhiên có khả năng đánh thức cảm nhận đó của chúng ta, nó đưa đường dẫn lối cho tri kiến lạ lùng và tuyệt diệu đó.

    Xuân sắp về, cỏ cây và thiên nhiên như sẵn sàng đón chào nhiều tâm hồn rộng mở. Con đường xuyên núi ở Nepal là một lựa chọn cho những ai đủ điều kiện, nhưng như đã nói, ở đâu cũng có Sự Sống, kể cả trong phố phường chật hẹp nhất.
    Last edited by viet11; 20-04-2012, 10:02 PM.
    Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
    Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
    ............



    Can't Live Without...hehe...


    Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

    Comment


    • #47
      HÀNH TRÌNH CHIÊM BÁI PHẬT TÍCH
      CỦA DOANH NHÂN
      Tác giả: Tạ Thị Ngọc Thảo

      Đầu Xuân mới cũng là khi lòng người càng thêm hướng Phật, hướng Thiện và cầu mong một năm mới an lành. Nhân dịp đầu Xuân Tân Mão, mời quý độc giả theo dấu chân nữ doanh nhân Tạ Thị Ngọc Thảo chiêm bái Phật tích Ấn Độ - Nepal.

      1
      Phần 1: Hành trình chiêm bái Phật tích của doanh nhân


      Trong kinh, Đức Phật dạy: "Này các Tỳ Kheo, sau khi ta diệt độ, tất cả Thiện nam, Tín nữ, người mà có lòng tin nơi Phật pháp nên đi đến 4 nơi linh thiêng và ghi nhớ rằng đây là Lumbini, nơi Ta Đản sanh, đây là Bodhgaya nơi Ta Thành đạo, đây là Sarnath nơi Ta Chuyển Pháp luân và đây là Kushinagar nơi Ta nhập Niết bàn.".

      Trước khi lên đường chiêm bái Phật tích, tôi tập hợp sách của nhà nghiên cứu, giới xuất gia, cư sĩ, nhà báo..., viết về những Thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ và Nepal; nhưng rồi tôi quyết định không đọc. Tôi muốn cảm thụ Phật tích với góc nhìn và cảm xúc của một hài nhi.

      Bài này tôi viết cho những người trẻ chưa quy y Tam Bảo và những doanh nhân hiểu về Phật Pháp sơ khai như tôi. Thông qua bài viết này, tôi còn có mong muốn giới thiệu với độc giả sự tương kính, tương thân, tương ái, tương trợ, của từng thành viên trong đoàn với nhau, với xứ Phật và Đức Phật.
      Cực trước, lạc sau

      Con trai bé xíu của tôi hay nói đùa với má, "Không có việc gì khó / Chỉ sợ tiền không nhiều", câu nói này có thể hợp với những chuyến đi Tây, đi Mỹ, đi Tàu, nhưng chẳng dính dáng gì đến xứ sở mà đoàn chúng tôi sẽ đi qua. Như Ni sư lớn tuổi nhất trong đoàn, người có duyên viếng xứ Phật nhiều lần, nói "Cái xứ mà có tiền cũng đành chịu đói vì không có ai bán và, nếu có bán thì cũng không hợp khẩu vị".

      Có lẽ vì thế mà hành lý của đoàn quá tải. Nào mì chay, cháo chay, miến chay, hủ tiếu chay, bột ngũ cốc, trà tây, trà ta, trà tàu, cà phê, ca cao, sô cô la và các loại thuốc phòng bệnh, trị bệnh, đóng gói. Nào tương, chao, bột nêm, sữa, phô mai, bơ, bánh, kẹo và các loại hạt ăn liền. Đó là chưa kể rong biển, muối mè, phù chúc, đậu hủ và các loại nấm đã qua chế biến.

      Do công chuyện làm ăn, tôi thường phải đi nước này nước khác. Ngại tay xách nách mang, tôi chỉ đem theo một thứ nhẹ nhất, đó là "tiền". Có lẽ vì vậy nên khi thấy số hành lý của đoàn quá "hoành tráng" tôi vừa thẹn, vừa mắc cười. Nhưng chỉ vài ngày sau tôi vỡ lẽ, nhờ chuẩn bị lương thực - thực phẩm chu đáo như vậy, đoàn mới đủ phước quay lại quê nhà một cách phổng phao. Và tôi, người èo uột nhất đoàn, nếu không được nuôi kỹ, khi về đến nhà chắc chắn sẽ được đạo diễn phim "Sao tháng tám" (phim đặc tả nạn đói 1945) mời thủ vai chánh!



      Đoàn chiêm bái Phật tích Ấn Độ - Nepal

      Xong phần thủ tục hải quan, ngồi lên được máy bay đồng hồ chỉ 21h5 phút. Đến sân bay Thái Lan đã sắp nửa đêm. Không có chuyến bay trực tiếp đến Bồ Đề Đạo Tràng, điểm đoàn muốn chiêm bái đầu tiên, chúng tôi đành phải chấp nhận quá cảnh tại Thái Lan cho mãi đến 12h trưa hôm sau mới có chuyến bay qua Gaya (Ấn Độ). 13 tiếng dật dờ trong sân bay Thái Lan có nhiều chuyện cười ra nước mắt.

      Tôi nghĩ rất đơn giản, thuê vài phòng trong sân bay cho đoàn ngủ một đêm là xong. Thế mà lại không xong. Đoàn cử hai người trẻ đi thuê phòng, khi về, hai vị báo lại "để có nơi cho bảy người nghỉ qua đêm số tiền phải chi là 1.300 USD". Chỉ mới nghe có vậy, chưa cần biết tiêu chuẩn phòng mấy sao, quý thầy, quý ni lắc đầu quây quẫy, dứt khoát ngủ bụi, không chịu cho tôi thuê. Ừ, thì ngủ bụi.

      Chưa có kinh nghiệm ngủ bụi, vì vậy khi thấy dãy ghế inox trên lầu 4 trống người, đoàn chiếm và ngã lưng liền. Mới đầu còn nghĩ, đoàn tuy chậm nhưng có phước vì tìm được chỗ nằm riêng biệt, hoan hỷ lắm; nhưng chỉ mươi phút sau thì thấm lạnh. Lạnh từ lưng lạnh ra vì nằm trên ghế inox, lạnh từ trên lạnh xuống vì nằm áp mái lầu 4, nơi gần máy lạnh nhất. Đã thế, sát dãy ghế đoàn nằm là cái TV lớn, phát hình phát tiếng suốt đêm. Vận dụng hết khả năng kỹ thuật của các thành viên trong đoàn vẫn không sao bắt cái TV này im tiếng. Thôi thì, nằm co ro nhắm mắt nghe TV vậy.

      Nằm khoảng hai tiếng đồng hồ, không ai bảo ai, tất cả đều bật dậy, người này ngó người kia, cười. Có người cất tiếng hỏi "Bộ đoàn mình không ai mang theo mũ, tất, áo lạnh hả?". Một người trả lời thay, "Ai cũng có đầy đủ nhưng gởi hết theo hành lý rồi". Huề trớt, có cũng như không!

      Lo đoàn bệnh vì cảm lạnh, một lần nữa tôi đặt vấn đề thuê phòng. Tất cả lại lắc đầu dù môi của cả bảy người đã chuyển màu tai tái. Biết mười mấy ngày tới trong cuộc hành trình chiêm bái trên xứ Phật, đoàn sẽ phải dãi dầu nhiều hơn nữa, tôi nói đùa, "Đoàn mình ráng cực trước rồi...khổ sau". Lại cười.

      Cái khó ló cái khôn, một số vị trẻ trong đoàn bỏ vị trí đi thị sát dưới lầu 3. Mừng húm khi thấy có dãy ghế nệm bỏ trống, lại ấm hơn lầu 4 nhiều. Một vị liền ở lại giữ chổ, các vị khác quay về mời đoàn xuống chổ mới.

      Trong đời tôi chưa bao giờ ngủ ở ghế nệm công cộng với tâm trạng thư thái như vậy. Thả mình xuống quất liền ba tiếng đồng hồ, không biết trời trăng. Mở mắt ra ngó quanh quất, thấy đoàn vẫn say giấc nồng, tôi chập chờn thêm mươi phút, khi bụng réo đói mới tỉnh hẳn.

      Sau giấc ngủ bụi mặt ai nấy ngời sáng, tươi tỉnh. Lúc này trong đoàn có một sư cô đưa tờ 1.000 paht ra khoe "Lạnh quá, em đem Y ra đắp. Thức dậy thấy trong tay có tờ 1.000 paht của ai đó cúng dường". Một Thầy trong đoàn buộc miệng nói vui "Tui lại cắn răng chịu lạnh, không đem Y ra đắp, chừ tiếc quá!". Mọi người cười òa.

      Không cần biết người trùm Y là ai, khách vãng lai ở sân bay Thái Lan chỉ thấy tấm Y vàng là coi như thấy Phật, phát lòng từ tâm, cúng dường. Người cúng vắng lặng, người nhận vắng lặng, của cúng dường vắng lặng; sự vắng lặng ngát hương sen.

      1.000 pahd đó đã ban cho đoàn mỗi người một ly sữa lót dạ buổi sáng trong sân bay Thái Lan. Khi uống, bảy người trong đoàn tĩnh tâm hồi hướng công đức. Ly sữa nóng thơm trong miệng.

      Nhà hàng nơi chúng tôi uống sữa không bán thức ăn chay. Tôi lo lắng các thành viên trong đoàn bị đói. Lúc này quý sư cô mới dỡ "bửu bối" ra phân phát mỗi người một ly hủ tiếu ăn liền. Để có nước sôi chế vào ly hủ tiếu là một màn ly kỳ hấp dẫn. Mặc đồ tu, nước được biếu không, mặc đồ thường phải móc 1 USD mới có nước; lại cười. Diễn xong màn nước sôi, mỗi người "ôm" một ly hủ tiếu nóng hôi hổi. Giữa chốn người qua kẻ lại, hơi bị mắc cỡ, nhiều người trong đoàn định nhịn đói. Nhưng vì "sự nghiệp" rong rủi trong mấy ngày tới, đành nín thẹn mà ăn.

      Ăn sáng xong, chúng tôi đi dạo, lúc này mới phát hiện cũng ở lầu 3, cách chổ đoàn qua đêm mươi bước, có một nơi nhờ hoa lan bao che cho nên thành khu riêng biệt, bên trong có tám ghế dựa, nếu bật ra thì nằm thoải mái như ghế vip trên máy bay. Tám ghế này dành cho khách quá cảnh sử dụng, không tốn tiền.

      Nhìn đồng hồ thấy còn 5 tiếng nữa mới bay tiếp, thế là một lần nữa đoàn đổi chổ. Để an ủi cho sự dại của mình suốt đêm qua, anh chàng trẻ nhất đoàn nhấn nhá một câu triết lý như cụ non, "Ai nên khôn mà không dại đôi lần".

      Nghe vậy tự nhiên tôi liên tưởng đến Đức Phật. Khi chưa thành chánh quả, Ngài đã trải nghiệm tận cùng sự khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, dẫn đến thân kiệt, trí quệ. Bát cháo sữa của nàng Tu Xà Đề dâng cho Ngài lúc này cũng như nước tưới cây khô, nhờ vậy thân tươi, trí rạng. Ngài ngộ ra "cứng quá thì gãy, mềm quá thì cong", trung đạo là nằm giữa sự "cứng" và sự "mềm" ấy.

      Nhưng để nhận ra lằn ranh nằm giữa "cứng" và "mềm" không hề đơn giản. Người u mê suốt đời chệch choạc; kẻ ngông cuồng thì cho rằng mình là trung tâm. Chỉ có bậc trí tuệ mới làm chủ thân khẩu ý từng sát na để tránh lệch khỏi trung đạo.

      Tôi suy nghĩ tiếp, dù không ai muốn nhưng, đôi khi, chúng ta cũng cần thấu đáo sự "cực", cả thân lẫn tâm, để cảm nhận chân giá trị của sự "lạc".

      Tiếng loa trong sân bay phát thông báo mời hành khách bay qua Gaya chuẩn bị, cả đoàn lục đục thu xếp hành lý; tôi đành chấm dứt dòng suy luận của mình.

      Ngày đầu của đoàn đầy ắp niềm an lạc. Với đoàn, hạnh phúc không chỉ là điểm đến, mà còn là từng giờ từng phút trên đường đi.



      2
      Con Voi ngái ngủ và thế trận với Sư tử và Cọp

      Sân bay Gaya giống như những sân bay cấp tỉnh của Việt Nam, nhưng dịch vụ và thủ tục thì hoàn toàn khác. Bước xuống cầu thang máy bay nhìn vào nhà ga thấy có mươi người mặc quân phục tay lăm le khẩu súng trường đi qua đi lại. Tôi thót tim, giống Sài Gòn thời Ủy ban Quân quản quá. Bụng nhủ dạ, "Mấy ổng đeo súng mà không biết đã học sử dụng chưa, lỡ xảy tay nổ cái đùng thì mệt".

      Làm thủ tục nhập cảnh chỉ có hai bàn. Tiếp du khách là hai người đàn ông trung niên, khoác trên mình cái áo trắng nhuộm nước tương, gọng kiếng luôn chực rớt xuống cánh mũi, tóc có màu muối nhiều, tiêu ít.

      Bàn bên kia làm thủ tục rất chậm, nhưng cũng còn có người lọt được qua cửa nhập cảnh; bàn của đoàn tôi xếp hàng máy tính bị trục trặc, không trôi bộ hồ sơ nào.

      Sốt ruột vì mất nhiều tiếng đồng hồ trôi dạt từ nước này qua nước khác, bảy người trong đoàn mong sớm về nơi nghỉ để được làm vệ sinh thân thể. Tôi nói với hai người trẻ trong đoàn, "Xem thử có sửa giúp họ máy tính được không?". Đúng lúc đó, người của bàn bên kia bỏ vị trí chạy qua bàn bên này "cứu bồ" (nghĩa là đoàn người xếp hàng của bàn bên kia phải đứng đợi). Cả hai loay hoay khoảng 15 phút, máy thông. Hú hồn!

      Tôi còn đang băn khoăn với kiểu cách làm việc ngồ ngộ của hai vị hải quan, chợt nghe loáng thoáng ai đó nói vu vơ, "Qua lại hoài tui biết, họ làm bộ kéo dài thời gian làm thủ tục nhập cảnh để ra vẻ lăng xăng. Làm nhanh quá hết việc lấy gì làm (?)". Nghe vậy đoàn tôi ai cũng bật cười.

      Thế nhưng hãy khoan nhận định Ấn Độ qua những gì bạn chợt thấy tại Gaya và trên đường chiêm bái Phật tích. Có thể lầm đấy!

      Ấn Độ, như tôi biết, đất nước có dân số đứng thứ hai thế giới, diện tích lớn thứ bảy thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh thứ hai thế giới, và tính theo sức mua ngang giá (PPP) kinh tế Ấn Độ xếp thứ tư thế giới. Đã có những kinh tế gia uy tín hàng đầu nhận định: "Trong vài thập niên tới, kinh tế Ấn Độ sẽ vượt kinh tế Trung Quốc, giữ vị trí thứ 3 thế giới". Tại sao?

      Để có tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Trung Quốc đã khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên; bây giờ Trung Quốc đang ngay ngáy tìm kiếm thêm nguyên nhiên vật liệu ở nước này, nước khác, để nuôi dưỡng nền kinh tế khổng lồ của mình.

      Ấn Độ thì không như vậy, nhiều tỉnh của Ấn Độ tài nguyên thiên nhiên còn nguyên sơ, nguyên vẹn, chưa đụng tới.

      Đó là chưa đề cập, kinh tế Trung Quốc phát triển dựa vào nguồn đầu tư (trực tiếp và gián tiếp) nước ngoài; kinh tế Ấn Độ đi lên chủ yếu từ nội lực. Nếu kinh tế thế giới rơi vào suy thoái sâu, kinh tế Trung Quốc dễ bị tổn thương, kinh tế Ấn Độ bền vững hơn.



      Liệu kinh tế Ấn Độ có thể tăng trưởng ấn tượng để chiếm vị trí của Trung Quốc?

      Ấn Độ không là Cọp để giữ thế dương oai với đồng loại, không là Sư tử để chiếm giữ vai trò sắp xếp trật tự trái đất. Ấn Độ là Voi, một con Voi ngái ngủ. Thiển nghĩ, Voi ngái ngủ mà đã đạt thứ hạng đáng nể trong bảng xếp hạng thế giới, nếu Voi thức tỉnh thì coi chừng mọi thứ đều có thể bẹp dúm dưới chân Voi!

      Gần đây, thực tế lại cho thấy, Sư tử và Voi đang liếc mắt đưa tình; Voi và Cọp lại luôn hục hặc nhau. Sư tử ngoài mặt "hảo hảo" với Cọp, nhưng trong dạ lại "OK" với Voi.

      Sư Tử có nền kinh tế lớn nhất thế giới, Voi có số dân đông hạng nhì thế giới, nếu hai bên "se duyên" thì cục diện thế giới sẽ thay đổi. Điều đó thể hiện, dự đoán của các kinh tế gia "Voi sẽ qua mặt Cọp" sẽ thành hiện thực!

      Nếu có điều gì khó hiểu ở Ấn Độ đối với tôi, nơi có nhiều dấu ấn sâu sắc của Đức Phật và tăng đoàn, thì đó chính là tỉ lệ dân số theo đạo Phật quá thấp, 0,76 %. Những ngày sau, trên đường đi chiêm bái, nhìn Phật tích bị hoang tàn bởi thời gian thì ít, bởi sự tàn phá của con người thì nhiều; rồi nhìn đoàn người tự xem ăn xin du khách là một cái nghề, sáng xe bus chở đến "hành nghề", chiều xe bus tới đón về, tự tôi phải tìm câu trả lời "Tại sao?".

      Và câu trả lời của tôi là, nếu nhìn vào hiện thực để lý giải thì chính sự phân hóa giữa các giai tầng xã hội kéo dài, tư duy của hệ thống hành pháp thiếu nhạy bén, và chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô thiếu linh hoạt đã làm cản sức bật của Ấn Độ. Nhưng nếu nhìn theo quan điểm Phật giáo thì, những gì Ấn Độ hiện đang hơn hoặc thua các nước trên thế giới đều do "duyên sanh, nghiệp khởi".

      ...Ra sân bay đón và hướng dẫn đoàn suốt cuộc hành trình chiêm bái là thầy Thích Pháp Tịnh và cô Thích nữ Minh Thái. Thầy Pháp Tịnh khoảng 35 tuổi, qua Ấn độ hơn 10 năm, đã có một bằng tiến sĩ "Ngôn ngữ học", bây giờ đang bảo vệ luận văn tiến sĩ thứ hai. Cô Minh Thái khoảng 30 tuổi, qua Ấn Độ năm 2003, vừa bảo vệ xong luận văn tiến sĩ "Lịch sử Phật giáo Ấn Độ", chuẩn bị về lại Việt Nam.

      Quan sát thầy Pháp Tịnh và cô Minh Thái trong suốt cuộc hành trình, tôi thấy, hai người giỏi giang, linh hoạt, khiêm cung, tiếng Anh tốt và có kiến thức; lòng tôi reo vui. Phật giáo nước mình có được những người trẻ như hai vị là rất quý.

      Cả đoàn nhận rõ, chính hai vị này đã góp phần quan trọng làm cho chuyến đi chiêm bái được hanh thông, viên mãn.

      Sẽ là vô tình nếu không kể về chiếc xe và tài xế theo đoàn suốt cuộc hành trình. Chiếc xe mang thương hiệu nước sở tại, loại xe tải nhỏ, được thiết kế rất thực dụng: nếu chở hàng thì tháo ghế ra, nếu chở khách thì gắn ghế vào; tính luôn tài xế xe chở được mười người. Về hình thức xe thuộc loại xoàng (giá dưới 10.000 USD), nhưng khi chạy đường dài thì ác liệt lắm.

      Sau đó, tôi được biết đây là một trong những chiếc xe xịn nhất Gaya.

      Người điều khiển chiếc xe chạy một cách ác liệt là Baya, tuổi độ năm mươi. Ông có dáng người và bộ râu giống một "tên cướp" trong bộ phim "Alibaba và bốn mươi tên cướp"; ngầu lắm. Tôi đặc biệt chú ý cách ăn mặc của ông, cả quần và áo một màu trắng toát, còn chân thì mang đôi giày màu đen. Tài xế mà diện nguyên bộ đồ trắng, lại diện ở xứ bụi mù trời như Gaya, ngó bộ hơi bị sang đấy. Riêng đôi giày, lại là đôi giày da đen bóng, rõ là đỉnh cao của sự khác biệt. Tại sao lại là "đỉnh cao của sự khác biệt"? quá lời chăng? Không hề!

      Đàn ông ở đây, như tôi thấy, mặc áo bỏ vào quần, xài điện thoại di động mà có ai mang giày, dép gì đâu? Đàn bà, con gái cũng vậy. Mặt thoa son phấn, vấn váy nhiều sắc, đường rẽ tóc có rắc bột màu, tay đeo nhiều vòng xuyến, cánh mũi có đeo khoen, thế nhưng đôi chân son vẫn để trần giáp đất. Vui thiệt.

      Như vậy có thể nói, giống như chiếc xe "ác liệt", ông tài xế của đoàn tôi cũng thuộc thứ hạng "bảnh tỏn tẻn" nhất Gaya!

      Những ngày sau tôi còn biết thêm, Baya là một tay lái điệu nghệ, rất chịu thương, chịu khó; sống có trách nhiệm với công việc, tận tụy với đoàn và vui tính với mọi người.



      3
      Bồ Đề Đạo Tràng và Non bộ Ngũ Hành Sơn

      Trời sáng, chúng tôi dạo quanh khu vườn bên ngoài Bồ Đề Đạo Tràng. Tại đây, có những công trình kiến trúc Phật giáo do một số nước đầu tư để mong giới thiệu với thế giới văn hóa Phật giáo nước mình. Bất ngờ đoàn gặp được một góc Việt Nam: Non bộ Ngũ Hành Sơn!

      Mới 3h30 sáng, giờ Ấn Độ, đoàn đã nghiêm chỉnh Y áo để chuẩn bị qua khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng tụng Lăng nghiêm. Khách sạn nơi đoàn nghỉ cách Tháp Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 200 mét. Thế mà hay, đoàn có đủ thời gian đi bộ tĩnh tâm trước khi chiêm bái.

      Gió chớm đông se lạnh. Hương trầm thơm trong gió. Đâu đây có mùi hoa gì thơm giống hoa Sữa bên nhà. Từ các ngõ ngách dẫn đến Bồ Đề Đạo Tràng lác đác xuất hiện những vị tăng sĩ đa sắc áo đến từ nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Những vị này bước đi chậm rãi, phong thái khoan thai, miệng lâm râm tụng kinh. Tôi lén quan sát rồi bắt chước bước cùng nhịp với quý tăng ấy. Riêng cái khoảng lâm râm tụng kinh thì tôi thua, muốn bắt chước cũng không được, vì tôi chưa kịp thuộc một bài kinh nào!

      Các em nhỏ chạy theo đoàn mời mua hoa đơm sẵn trong dĩa để dâng lên Phật (tinh thần kinh doanh của các em nhỏ Gaya làm tôi nghiêng mình kính nể, chưa 4 giờ sáng mà đã thức dậy bán hàng). Thầy Pháp Tịnh mua cho mỗi thành viên một dĩa hoa. Lúc này số người của đoàn đã tăng lên chín. Một bé gái tay cầm bó bông Súng màu tim tím mời tôi mua, tôi trả lời "không có tiền" (thật sự tôi không bao giờ có tiền trong túi), bé liền rút một cành biếu không. Văn hóa kinh doanh này quá đẹp. Tôi thay em dâng đóa hoa cúng Ngài Quán Thế Âm trong khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng.

      Liền sau đó, tôi lại được một chú tiểu mặc áo cà sa màu nâu đỏ, rón rén lại gần, dúi vào tay tôi một lá Bồ Đề, cười, rồi biến mất trong sương sớm. Chưa kịp nhìn mặt chú, nhưng tôi vẫn nhớ như in, chú có ánh mắt rất bén và tinh anh.

      Càng tới gần Tháp Bồ Đề Đạo Tràng, đôi bàn chân tôi càng luýnh quýnh. Vừa muốn bước nhanh để sớm được chiêm bái Đức Phật, vừa muốn bước chậm để chiêm ngưỡng một tuyệt tác kiến trúc. Những tưởng chỉ có mình xúc động, ngờ đâu cả đoàn cũng bổi hổi bồi hồi.

      Bồ Đề Đạo Tràng đấy ư? Nơi Đức Phật thành đạo đấy ư? Đấng giải thoát đấy ư? Cây Bồ Đề đi vào lịch sử đấy ư? Không tìm được ngôn từ nào tả cho đúng ngữ cảnh và tâm trạng lúc này. Chợt tôi nhớ lõm bõm vài câu trong bài "Sám Nguyện" của Ôn Thiện Siêu, khi còn sống Ôn trụ trì chùa Từ Đàm - Huế: "Đàn con dại từ lâu vất vưởng / Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng / Xin hướng về núp bóng từ quang / Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước...". Mắt tôi tự nhiên ướt, có giọt sương sớm nào sa vào chăng?

      Khi chiêm bái tượng Phật trong Tháp, tôi mới ngỡ ra, tượng Phật Ngọc nổi tiếng (tạc từ ngọc thạch Nephrite nguyên khối nặng 18 tấn mang tên "Polar Pride" (Niềm kiêu hãnh Bắc Cực) được tìm thấy vào năm 2000 ở miền Bắc Canada, đã được hơn 30 nghệ nhân, chuyên gia điêu khắc và nhà Phật học đến từ Thái Lan, Nepal, Australia... làm việc miệt mài trong 8 năm) tạc theo mẫu tượng tại đây. Trong mắt tôi, tượng Phật Ngọc đó đã tạc được cái "sắc", riêng cái "thần" thì chưa. Liệu ai có thể tạc được sự linh thiêng cộng hưởng nơi chốn Bồ Đề Đạo Tràng này?

      Chúng tôi lay hoay tìm chổ an tọa để tụng kinh Lăng Nghiêm. May quá, phía bên trái Tháp lớn, nơi có bức tượng nhỏ Quán Thế Ấm Bồ Tát, chổ còn trống. Đây là một trong những vị trí đẹp nhất trong khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng.

      Cô Minh Thái rất cẩn thận, đã chuẩn bị 4 cái chiếu cho đoàn ngồi. Khi tụng kinh, trật tự trong đoàn được xác lập: hai Thầy ngồi một chiếu trước, bốn Ni ngồi hai chiếu giữa, ba Phật tử ngồi một chiếu sau. Ba Phật tử ngồi một chiếu thì chật, tôi phải ngồi nửa trong nửa ngoài. Sáng sớm, ngồi như thế vừa ướt, vừa lạnh. Quý Ni thấy vậy mời tôi lên chiếu giữa. Tôi không dám nhận, quý Ni ép, tôi từ chối; nhưng rồi cuối cùng phải nghe lời. Tôi biết quý Ni lo tôi ngồi ngoài đá dễ bị cảm.

      Thầy Pháp Tịnh rất chu đáo, in sẵn kinh Lăng Nghiêm cho ba Phật tử cầm tụng theo. Đây là lần đầu tiên ba Phật tử chúng tôi tụng trọn bài Lăng Nghiêm, lại được tụng tại Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Đối với chúng tôi, buổi tụng kinh đầu tiên ấy quá linh thiêng và xúc động. Từng chữ, từng câu, thấm sâu vào tâm khảm của chúng tôi.

      Riêng tôi, tôi biết, giây phút này sẽ nuôi dưỡng tâm hồn mình tươi đẹp suốt quãng đời còn lại.

      Tụng kinh xong là mươi phút tĩnh tâm, mọi người chiêm bái trong im lặng. Sau đó cả đoàn xếp hàng dọc đi thiền hành trong khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng. Thứ tự như sau: thầy trước, ni giữa, Phật tử sau cùng. Từng bước, từng bước chân thiền khoan thai, nhẹ nhàng, thanh thoát. Chúng tôi vừa đi vừa khẩn niệm danh hiệu "Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật".

      Với tôi, lúc này, mọi sự "có" trên đời nhẹ như "không". Lòng tự nhủ "Phước đức mình đang được hưởng thật tráng lệ".

      Xong phần nghi lễ, thầy Pháp Tịnh cho mỗi người 30 phút sinh hoạt tự do. Quý cô "sinh hoạt tự do" bằng cách lạy quanh Tháp. Sư cô lớn tuổi lạy nhất bộ nhất bái, các ni trẻ tam bộ nhất bái. Nhìn quý ni đắp Y vàng thư thái lạy, tôi dõi theo, thấy sắc diện ai cũng tỏa sáng, uy nghi quá. Tự tâm cang tôi muốn đến quỳ xuống lạy từng ni để tỏ tôn kính, nhưng ngại kinh động giây phút linh thiêng, đành thôi.

      Hai Phật tử trẻ đứng nhìn theo quý ni lạy một hồi cũng tam bộ nhất bái theo. Giỏi thiệt!

      Riêng hai thầy trong đoàn thì "sinh hoạt tự do" bằng cách tìm đến bắt chuyện với những vị Tăng đủ màu da trong khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng. Các vị ấy nói chuyện với nhau như con một nhà, mà đúng vậy, nhà Phật.

      Còn tôi, từ hôm theo đoàn đến giờ, lần đầu tiên được đoàn cho phép độc lập, tự do cho nên hạnh phúc. Tôi liền lẽn vào một góc khuất quan sát quý thầy Tây Tạng lạy. Thao tác lạy của Sư Tây Tạng vừa giống thế "chào mặt trời", vừa giống thế "rắn Hổ Mang" của Yoga. Ngó quanh quất thấy không ai để ý mình, tôi bắt chước trườn người lạy theo. Lạy được hơn mười cái mới biết có vài chục vị tăng Tây Tạng đang ngó mình từ sau ngó tới, cười. Đỏ mặt, tôi biến liền!

      Phía trước Tháp Bồ Đề Đạo Tràng, tôi đặc biệt chú ý tấm bảng có ghi dòng chữ "RAJAYATANA (A kind of forest tree). After enlightenment, Lord Buddhha spent the seventh week here in meditation. At the end of meditation, two merchants - Tapussa and Bhallika offered rice cake and honey to the Lord and took refuge-Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami (Sangha was not founded then)". Tạm dịch: "Rajayatana" (một loại cây rừng)). Sau khi giác ngộ, đức Phật ngồi nhập định tại đây, trong tuần thứ bảy, khi Ngài nhập định xong, hai thương nhân - Tapussa và Bhallika - dâng bánh gạo và mật lên Ngài và xin quy y: quy y Phật và quy y Pháp (vì lúc đó chưa có Tăng đoàn).

      Như vậy rõ rồi, có Cư sĩ trước khi có Tăng đoàn. Đã thế hai Cư sĩ này lại thuộc giới kinh doanh. Với tôi, một doanh nhân, chi tiết này thật đắt giá.

      Tôi còn biết thêm, sau khi nhận cúng dường, Đức Phật có đọc một bài kệ: "Sở vị bố thí giả / Tất hoạch kỳ lợi duyên / Nhược vi lạc bố thí / Hậu tất đắc an lạc". Khả năng của tôi chỉ hiểu bài kệ ở mức này: "Những việc làm bố thí / Tất nhiên sẽ đem đến lợi ích / Nếu (ta) vui với việc bố thí (của người khác) / Sau này (ta) cũng được an lạc". Bài kệ này có tên "Phúc chúc", là bản thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật và cũng là bước đệm cho việc chuyển Pháp luân sau đó.

      Tại sao Đức Phật chúc phúc công đức bố thí (cúng dường) của hai thương nhân? Như tôi hiểu, bố thí giúp con người ta xả được lòng tham. Lòng tham tại sao phải xả bỏ? Các Mác nói về lòng tham như sau: "...nếu lợi nhuận đạt 100% thì nhà tư bản không từ thủ đoạn nào". Với thương nhân, đồng tiền liền khúc ruột, một khi đã bố thí là họ đang đi trên con đường ngắn nhất tìm đến sự giải thoát. Giải thoát gì? Giải thoát khỏi tham, khỏi sân, khỏi si, khỏi "cái ta" và "cái của ta". Mà, nơi nào vắng bóng tham, sân, si, "cái ta" và "cái của ta", nơi đó là Niết bàn. Đức Phật chúc phúc hai vị thương nhân là vì vậy.

      Nhưng Đức Phật không chỉ chúc phúc người bố thí, mà chúc cả những ai vui với việc bố thí của người khác. Tôi phục Đức Phật lắm. Ngay thời khắc của thời xa xưa đó Ngài đã biết, không ít kẻ có cuộc sống khá giả nhưng vẫn quay lưng lại với người nghèo khổ, đã đành; lại còn dè biểu, can ngăn sự làm phúc của người khác. Những kẻ này, theo thuyết Nhân - Quả, sự giàu có sẽ không bền vững.

      May sao, hiện nay có rất nhiều người, không có của bố thí thì góp công, góp trí, góp lời, với thành tâm mong việc bố thí được hanh thông viên mãn. Những người như thế xứng đáng nhận lời chúc phúc của Đức Phật.

      Phía sau Tháp Bồ Đề Đạo Tràng có "Tháp gieo duyên". Ai có tâm nguyện kiếp sau xuất gia thì bứt một sợi tóc bỏ vào trong Tháp. Tôi nhìn vào nền Tháp thấy dầy tóc gieo duyên. Anh chàng trẻ nhất đoàn nhổ một sợi tóc của mình xong bất ngờ quay qua nhổ một sợi tóc của một chị trẻ nhì trong đoàn rồi thò tay thật sâu vào Tháp thả hai sợi tóc xuống, nguyện, "Kiếp sau em với chị tu chung cho vui". Cô nàng vội vàng bứt một sợi tóc của mình thả vào Tháp nguyện lại, "Con xin tu tại gia thôi ạ". Anh chàng trẻ nói vớt vát, "Thì kiếp sau chị tu tại gia, kiếp tới nữa xuất gia tu với em...". Cả đoàn nghe hai chị em đối đáp, không cười không được.

      Trời sáng, chúng tôi dạo quanh khu vườn bên ngoài Bồ Đề Đạo Tràng. Tại đây, có những công trình kiến trúc Phật giáo do một số nước đầu tư để mong giới thiệu với thế giới văn hóa Phật giáo nước mình. Bất ngờ đoàn gặp được một góc Việt Nam: Non bộ Ngũ Hành Sơn!

      Một góc Ngũ Hành Sơn

      Được biết công trình này hoàn thành năm 2003, do thầy Thích Hải Ấn, trú trì chùa Từ Đàm - Huế và thầy Thích Pháp Chơn, trú trì Trung tâm văn hóa Liễu Quán - Hoa Kỳ, làm cố vấn dự án. Về khâu kế hoạch - thực hiện do Phật tử Vũ Lan Hương đảm trách với sự cộng tác của hai nghệ nhân Lê Văn Hòa và Lê Thiện Nhân - Huế.

      Trong công trình Non bộ Ngũ Hành Sơn có một đại hồng chung và một tượng Phật Quán Thế Ấm, góp phần tôn thêm sự chặt chẽ về kiến trúc và mỹ thuật.

      Đoàn chúng tôi ngưỡng mộ, thành kính tán thán công đức những vị làm nên Non bộ Ngũ Hành Sơn.

      Đoàn được biết thêm, năm 2004, thầy Thích Hải Ấn (trú trì chùa Từ Đàm - Huế) và thầy Thích Quang Nhuận (trú trì chùa Hiếu Quang - Huế), đã nhờ quý Tăng ni sinh đang du học tại Ấn Độ thỉnh tảng đá nặng khoảng 100 ký tại Đại học Nalanda về cúng cho Học viện Phật giáo Việt Nam (tại Hà Nội) để khắc bia lễ đặt đá.

      Việc làm này có giá trị tâm linh đối với Tăng ni sinh du học tại Ấn độ và với đoàn của chúng tôi.

      ........

      Đoàn chúng tôi ở khách sạn gần Bồ Đề ĐạoTràng ba đêm, sáng đi chiêm bái Phật tích và viếng chùa trong vòng bán kính 100km, tối về nghỉ, mai đi tiếp. Ba ngày đó, lúc nào tranh thủ được thời gian là chúng tôi qua viếng lại Tháp Bồ Đề Đạo Tràng như con về thăm nhà ba má vậy.


      4

      Con nhà chùa, nếp nhà Phật

      Từ hồi nào tới giờ tôi quen nghe khẩu hiệu "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", nghe riết thành có lý. Nay, tôi học được thêm hạnh sống của con Phật "Mình vì mọi người", chẳng bận lòng trông mong "Mọi người vì mình".

      Đoàn có chín người, ba nam, sáu nữ. Đi đến đâu thầy Pháp Tịnh cũng thuê 5 phòng: hai thầy một phòng, bốn cô hai phòng, cậu trẻ nhất đoàn, thư ký của tôi, cũng là con nuôi của tôi, được sắp xếp ở cùng phòng với tôi (để lo cho má). Riêng cô Minh Thái một mình một phòng vì là "Trung tâm ăn uống của đoàn".

      Hôm nào cũng vậy, trước khi đoàn giải tán đi ngủ, thầy Pháp Tịnh thông báo lịch chiêm bái và giờ xuất phát của ngày hôm sau. Tối nay tôi được biết, sáng mai 5h đoàn khởi hành đi chiêm bái một số di tích liên quan đến sự nghiệp tu tập của Đức Phật. Những di tích này trong vòng bán kính 100km, tính từ Bồ Đề Đạo Tràng. Xuất phát lúc 5h, nghĩa là mọi sinh hoạt cá nhân, ăn sáng, phải xong trước 4h55 phút.

      Con nhà chùa quen dậy sớm, không ai gọi ai, quý thầy, quý cô lần lượt thức giấc. Riêng phòng cô Minh Thái đỏ đèn từ 2h30 sáng. Ngại đoàn ăn bên ngoài không đảm bảo sức khỏe và vệ sinh, cô dậy sớm để lo thức ăn sáng cho cả đoàn và còn bới theo cho đoàn ăn trưa. Chẳng ai dám phân công, tự cô Minh Thái giành. Cô nấu ăn với tâm trạng an vui. Tôi phục cô lắm.

      Mỗi phòng hai người, nhưng nhà vệ sinh có một, ai dậy sớm thì sử dụng trước, người còn lại chạy qua phụ cô Minh Thái nấu ăn; tôi cũng theo hụ hợ. Trong khi làm việc, phần nào nặng nhọc, dơ tay, mất nhiều công, các cô dành làm; phần nào nhẹ nhàng, sạch sẽ, các cô mới cho Phật tử chúng tôi đụng tay. Dù không phụ giúp được gì, tôi vẫn thích xà quần bên cạnh các cô vì vừa vui, vừa đầm ấm.

      Từ hồi nào tới giờ tôi quen nghe khẩu hiệu "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", nghe riết thành có lý. Nay, tôi học được thêm hạnh sống của con Phật "Mình vì mọi người", chẳng bận lòng trông mong "Mọi người vì mình".

      Mà đúng vậy, một khi ta đã phát tâm "có đi", mắc gì trông chờ ai đó "có lại" với mình cho mệt!

      Sáng nay cô Minh Thái cho đoàn ăn hủ tiếu nước, có thêm rau tươi, cà chua, dưa leo, nấm, ớt, chanh. Hai Phật tử còn thêm rong biển vào tô hủ tiếu cho có thêm chất bổ dưỡng, riêng tôi ngại nặng mùi, không rớ tới. Khi ăn, do bàn ghế không đủ, người ngồi trên giường, kẻ đứng dưới đất, nhưng không vì thế mà nghi thức chấp tay niệm Phật trước khi ăn thiếu trang nghiêm.

      Đang ăn thì đoàn nghe vị Sư thầy hỏi vui một sư cô, "Cô có rảnh không? rảnh thì lấy dùm cọng rau dính trên mặt xuống". Ni kia vội vàng lấy tay xoa mặt lia lịa. Tôi "để bụng". Lát sau, đợi Sư thầy quên quên, tôi hỏi, "Thầy có rảnh không?". Mới hỏi tới đó Sư thầy đã nhanh tay phủi phủi từ trán xuống cằm; cả đoàn cười đến đau bụng. Thật ra mặt Sư thầy không có dính gì, tôi chỉ muốn giúp "gỡ" bàn thua của sư cô kia thôi.

      Từ buổi sáng nay, những buổi ăn sau của đoàn, ai cũng chuẩn bị tinh thần bị hỏi "Có rảnh không?".

      Những điểm Phật tích cách nhau khá xa, đi cả ngày đường, lại ít nơi có hàng quán, vì vậy đoàn phải bới cơm theo để ăn trưa. Nơi ăn, đoàn thường thay đổi cho sinh động. Có hôm ngồi trong vườn xoài mát rượi, có bữa ngồi trên bãi cỏ xanh tươi, có ngày ngồi tại điểm đoàn đến tham quan.

      Thầy Pháp Tịnh muốn đoàn có nơi ngồi ăn tốt, cảnh đẹp nhất, vì vậy chọn chỗ rất lâu. Khi thầy Pháp Tịnh "ừ", cô Minh Thái mới trải chiếu. Nếu như chúng tôi, những người chưa xuất gia, đi mệt thấy chiếu là ngồi liền, thì quý thầy, quý cô lại không như vậy. Trong đoàn tôi có sáu người xuất gia, hai thầy và bốn cô; trong đó có hai Ni sư lớn tuổi hơn hai thầy và, thời gian tu cũng lâu hơn (nói cho dễ hiểu là thâm niên và chức vụ tu cũng lớn hơn). Thế nhưng tất cả bốn cô bao giờ cũng chọn chỗ tốt nhất mời hai thầy ngồi trước, cách mời rất cung kính và xưng "con". Khi ăn, uống, quý cô thường bới chổ cơm mềm, lựa cọng rau ngon, nhường trái cây tươi cho hai thầy; còn lại mới tới mình. Con nhà chùa không áp dụng văn hóa "phụ nữ là số một!".

      Cô Phật tử trẻ của đoàn quan sát quý sư cô hầu hai thầy, nhất là hai Ni sư lớn tuổi, liền đặt câu hỏi "Tại sao?". Thầy Pháp Tịnh trả lời, "Ngày mai đoàn chiêm bái tháp Ngài A Nan, có nhân chứng, vật chứng, thầy sẽ giải đáp". Hồi hộp à nghen.



      Sương sớm Nepal

      Chiếu đã trải, mọi người đã yên vị, cô Minh Thái bắt đầu bày biện: Một nồi cơm (điện) đầy gần tới nắp, một thẩu canh (thường là canh chua ăn liền), rau luộc (rất nhiều), nấm kho tiêu, phù chúc rim giòn, nước tương, ớt, muối mè đậu phộng, trái cây nhiều loại, nước gạo lức nóng; ai thích ăn gì, xin mời. Trước khi ăn chúng tôi không bao giờ quên nghi thức niệm Phật.

      Thực đơn của tôi, trưa nào cũng vậy: 1/3 bát cơm, rắc nhiều đậu phộng với mè rang, một gắp lớn rau luộc, thêm hai trái chuối và hai trái táo cắt nhỏ, trộn đều, ăn. Với lượng thức ăn như vậy là nhiều gấp ba mỗi bữa ăn bên nhà của tôi, thế mà có bữa tôi còn thòm thèm.

      Sau những buổi ăn bụi với đoàn tôi ngộ ra, cao lương mỹ vị chưa chắc đã ngon, ăn uống đạm bạc chưa chắc đã khổ.

      Thầy Pháp Tịnh, "tổng công trình sư" của chuyến chiêm bái. Vóc dáng của thầy thuộc loại "có da có thịt". Để chuyến đi được hanh thông, nhiều buổi tối chúng tôi đã nghỉ rồi mà thầy vẫn còn thức làm việc với đối tác để chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai của đoàn. Vì vậy để đủ sức khỏe, mỗi buổi ăn thầy thường ăn nhiều bát (lớn hơn cái chén một chút). Và chuyện ăn của thầy luôn là đề tài vui nhộn của đoàn.

      Khi ăn, bát đầu tiên thầy vừa nói vừa cười, "Bát này vì sự nghiệp tu học của bản thân". Bát thứ hai, thầy khôi hài, "Bát này vì chuyến chiêm bái của đoàn". Bát thứ ba, thầy chưa nói, đã có người nói hớt rất hóm hỉnh, "Bát này thầy ăn để khỏi còi xương!". Cả đoàn cười ngặt nghẽo.

      Từ hôm nay trở đi, nếu bữa nào đoàn ăn cơm còn dư lại chút đỉnh, không dám đổ bỏ, người này ép người kia, "Ráng ăn để khỏi còi xương".

      Đường xa, có hôm đoàn phải ngồi trên xe cả ngày, cô Minh Thái thấy Sư thầy mệt mỏi, nhắc, "Thầy chợp mắt một chút cho khỏe, tới nơi con thưa". Sư thầy (chắc là giữ kẻ) trả lời, "Thầy không quen ngủ ngày". Lát nữa, chịu hết xiết, thầy ngủ thiếp. Chỉ chờ có thế là đoàn chụp ảnh để làm "vật chứng". Nhưng, không phải một mình thầy ngủ ngày, cho nên, trong đoàn ai cũng có một tấm ảnh chụp lúc đang ngủ trên xe.

      Gần ngày về, để tổng kết chuyến đi, tôi đề nghị với đoàn, tổ chức một cuộc thi "ảnh ngủ ngày đẹp nhất". Mọi người đồng tình hưởng ứng. Thế là ảnh ngủ ngày của từng thành viên được đoàn đem ra ngắm nghía. Lại thêm những trận cười giòn giã.

      Chung sống với Tăng ni có nhiều điều làm tôi ngạc nhiên: Thức ăn đem theo thì nhiều, nhưng chủ yếu dành cho ba Phật tử (nhất là tôi), và để cúng dường Tăng ni sinh đang theo học tại Ấn Độ (tôi được biết đời sống của những du học sinh thuộc giới tu hành rất cơ cực), còn thì quý thầy, quý ni ăn uống rất tiết chế. Hành lý đoàn đem theo thì quá tải, nhưng hành lý cá nhân của quý thầy, quý cô chỉ vừa một tay nải khoác bên vai. Ngủ cũng vậy, tưởng ở chùa mới phải dậy sớm để tụng kinh, nhưng chỉ mới 3h sáng là cả đoàn đã lục đục.

      Tôi liền thắc mắc, một sư cô trả lời, "Tăng ni làm theo lời Phật dạy "tam thường bất túc". Cô giải thích thật kỹ (theo ngôn ngữ nhà chùa), nhưng khả năng lĩnh hội của tôi chỉ ở mức này: Tam thường bất túc nghĩa là, ăn vừa đủ, mặc vừa đủ, ngủ vừa đủ. Tóm lại, Phật không muốn con mình trở thành nô lệ cho sự hưởng thụ của bản thân.

      Nhiều ngày có điều kiện sinh hoạt chung với Tăng ni, tôi để ý, trong làm việc cũng như nói năng, gần như ai cũng giữ sự từ tốn, bao dung, hòa hợp, nhẫn nhịn, uy nghi,... Thấy vậy tôi buộc miệng khen "Con ai mà cốt cách quý phái dữ vậy ta?". Một cô vừa nheo mắt vừa nhoẽn miệng tươi cười, "Con Phật chớ con ai".

      Nghe vậy tôi đáp, "Ngó bộ hơi bị chảnh à nghen", nhưng sau khi suy nghĩ kỹ tôi thấy "không chảnh chút nào". Trước khi đi tu, Phật là con Vua, Ngài đã được giáo dục bởi một nếp nhà uy nghi, cốt cách. Và vì đã từng là con Vua, Ngài đủ điều kiện đi đến tận cùng của sự hưởng thụ để rồi nhận ra sự rỗng không của nó.

      Là con Vua, Ngài dạy cho Tăng ni uy nghi cốt cách của nề nếp Hoàng gia. Là Phật, Ngài dạy cho con mình không tham đắm vào vọng tưởng, hão huyền.


      Một chuyến xuất ngoại
      Lam Khê

      Cơn bão số 5 vừa đổ bộ vào các tỉnh ven biển miền Trung. Trời mưa rỉ rả suốt mấy ngày chúng tôi ghé tham quan thành phố Đông Hà và thị xã Quảng Trị. Ấy vậy mà... vừa bước chân sang đất nước Triệu Voi thì trời lại nắng chang chang. Không khí càng oi bức ngột ngạt khi công an cửa khẩu Lao Bảo từ chối cấp visa cho hai vị trong đoàn vì passport gần hết hạn. Nhưng rồi mọi việc sau đó cũng kịp thời giải quyết ổn thỏa.


      Qua khỏi biên giới Việt - Lào, chuyến xe khách vượt hơn 200 cây số đường trường mới đưa chúng tôi đến tỉnh Savanakhet. Đường xá có chỗ gập ghềnh, có đoạn tương đối tốt, song cảm giác an toàn và sự tĩnh lặng của cảnh vật khiến người mới đến lần đầu đã thấy cõi lòng thanh thản vô ưu. Đất nước của hoa Chăm-pa, của những ngày lễ hội tưng bừng trong năm được bao bọc bởi núi rừng mênh mông hùng vĩ. Suốt chặng đường, tôi mải miết dõi theo những khu rừng thưa vụt nhanh qua tầm mắt; những cánh đồng lúa nước tốt xanh mượt mà; Những căn nhà sàn nhỏ bé bình dị như tâm hồn chủ nhân bao đời của nó. Người ta bảo: Đến Lào để tận hưởng không gian ngút ngàn cây xanh cỏ dại, để cùng sống chậm theo dòng thời gian trôi qua muôn sắc màu thanh bình yên ả. Quả thật như vậy.

      Năm giờ chiều chúng tôi mới đến thị xã Savan, thủ phủ của tỉnh Savanakhet. Tỉnh Savanakhet là trung tâm kinh tế lớn thứ hai của Lào, còn được mệnh danh là thành phố thiên đường, nơi mua sắm du lịch hấp dẫn vì có vị trí nằm bên dòng Mê Kông, tiếp giáp tỉnh Mukdahan của Thái Lan. Chiếc cầu hữu nghị khánh thành năm 2006 tạo thêm mối thâm tình thông thương giao hữu giữa hai quốc gia lân cận.


      Chú Lệ, anh họ của Sư cô Minh Lạc trong đoàn - sang Lào định cư đã hơn hai mươi năm. Chú thường giúp đỡ đưa đón chư Tăng Ni mỗi khi quý vị từ Việt Nam sang Lào tham quan du lịch. Ra đón chúng tôi từ ngã ba rẽ qua thị xã, người Phật tử nhiệt thành tỏ rõ sự vui mừng khi gặp quý thầy cô từ quê nhà sang. Chú đưa chúng tôi về nhà mình giới thiệu, sau đó mới chở chư Ni về chùa Diệu Giác nghỉ ngơi, còn quý thầy thì qua chùa Bảo Quang. Thật thú vị khi được ở trong ngôi chùa mang đậm phong cách truyền thống Việt trên đất nước Lào. Sư cô Đàm Luân, trụ trì chùa Diệu Giác tánh tình hiền hậu lại nhiệt tình mau mắn. Chỉ mấy ngày lưu lại chùa mà chị em chúng tôi thân tình tự nhiên như đã từng quen biết. Cha mẹ Sư cô gốc là người Thanh Hóa, họ di cư sang Lào từ đầu thập niên năm mươi của thế kỷ trước. Sanh ra và lớn lên tại đất nước Triệu Voi, Sư cô không những thông thạo tiếng mẹ đẻ mà cũng am hiểu nhiều phương ngôn thổ ngữ quê nhà. Tu sĩ người Việt sống trên đất Lào, sự tu học giữ gìn theo thanh quy Đại thừa Bắc tông, ăn chay và tụng kinh tiếng Việt nhưng vẫn tuân thủ giới luật của Giáo hội Lào. Quá ngọ không dùng bữa, không chạy xe máy và cả ô tô trên đường.

      Chúng tôi không phải là khách Ni duy nhất của chùa Diệu Giác. Mấy ngày trước có quý thầy và chư Ni từ Huế sang làm lễ quy y cho Phật tử người Việt trong vùng. Buổi lễ quy y tổ chức tại chùa Bảo Quang tối hôm đó. Theo lời Sư cô Đàm Luân, tỉnh Savanakhet có hai ngôi chùa Việt. Chùa Diệu Giác Ni và chùa Bảo Quang Tăng đều do cộng đồng người Việt góp sức xây dựng từ thập niên ba mươi của thế kỷ hai mươi. Tăng Ni từ Việt Nam qua Lào thường tìm đến hai chùa này lưu trú để tiện tham quan chiêm bái Phật tích các nơi. Sự ân cần chu đáo của sư trụ trì chùa Diệu Giác khiến chúng tôi luôn cảm thấy thoải mái an lạc như đang ở tại chùa mình.

      ... Một buổi sáng, tôi dậy sớm tản bộ quanh con đường trước cổng chùa. Đi bộ vừa để hít thở khí trời trong lành mát dịu, vừa muốn mục kích các vị sư Lào đi khất thực. Chùa nằm ngay ngã tư nhưng suốt ngày yên vắng, ít tiếng xe cộ. Lúc này, có nhiều phụ nữ đem chiếu và ghế nhỏ ra để bên vệ đường. Trên ghế đặt một cái thố to bằng nhôm hoặc bằng mây có nắp đậy. Thoạt nhìn, tôi ngạc nhiên vì không biết họ buôn bán thứ gì vào sáng sớm tinh mơ mà đường phố vắng tanh thế này. Nhưng khi nhận ra bên trong thố là những vắt cơm và thức ăn, thì tôi chợt hiểu. Họ trải chiếu quỳ xuống, yên lặng đợi các vị sư khất thực đi ngang qua để dâng thức ăn cúng dường. Phẩm vật đơn sơ, ánh mắt chân thành kính cẩn... bức tranh cuộc sống toát lên một vẻ đẹp thánh thiện tạo nguồn cảm xúc sâu xa cho du khách phương xa một lần tìm đến.

      Trời sáng dần... từ góc đường, nơi có ngôi chùa Lào tọa lạc cạnh dòng Mê Kông hiền hòa thơ mộng bỗng xuất hiện một đoàn sư áo vàng cam đang đi tới. Tôi đưa máy ảnh vừa tầm ngắm nhưng rồi thất vọng khi thấy họ rẽ sang con đường khác. Không lâu sau, lại có một đoàn sư khác. Lần này các vị đi ngang qua chùa Diệu Giác. Dẫn đầu là vị sư lớn tuổi, theo sau là các chú đạo nhỏ. Mấy chú mỉm cười khi thấy tôi chụp hình. Đoàn khất sĩ chậm rãi dừng lại nhận phẩm vật của chư thiện tín cúng dường rồi tiếp tục thẳng bước trên đường. Cảnh sắc ban mai tỏa sáng trong màu y đỏ rực. Không gian tĩnh lặng mà thanh thoát diệu kỳ biết bao.

      Sau mấy ngày lưu lại chùa Diệu Giác và chiêm bái nhiều ngôi chùa Lào trong thanh phố, chúng tôi lại lên đường sang tỉnh Mukdahan của đất nước Thái Lan. Xe ra khỏi thị xã Savan không bao lâu đã đến cửa khẩu Lào, qua cầu là tới cửa khẩu Thái. Thủ tục nhập khẩu của hai nước thật đơn giản mau lẹ. Ngồi trong xe, tôi quay người ra sau, cố chụp cho được chiếc cầu Hữu Nghị bắt qua dòng Mê Kông nối liền hai tỉnh vùng ven biên giới. Nhịp sống bên đất Thái trù phú nhộn nhịp hơn hẳn. Những chiếc xe buyt, xe tuk- tuk màu sắc cũng tươi tắn rực rỡ hơn.

      Đoàn ghé thăm ngôi chùa Việt trong thành phố cũng mang tên Diệu Giác. Chùa Diệu Giác do Sư cô Huệ Mỹ người miền Tây Nam bộ mới sang trông coi mấy năm nay. Trong chùa có một phòng thư viện, giúp mọi người lui tới tìm hiểu trau giồi học tập ngôn ngữ tiếng Việt. Người Việt cũng có mặt ở Thái từ thời chống Pháp. Những khu người Việt được hình thành và hội người Việt lập ra đã góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa quê hương và trợ giúp nhau khi hữu sự ở nơi đất khách quê người.

      Phật giáo Thái Lan và một số nước như Lào, Myanma, Campuchia... đều theo truyền thống Theravada (Tiểu thừa Nam tông). Tu sĩ Nam tông đi khất thực mỗi buổi sáng, thọ dụng ngũ tịnh nhục, quá ngọ không ăn. Một năm hàng thiện tín của họ có mười ngày chay vào đầu tháng Chín (Tháng ra hạ của tu sĩ Nam tông, cũng như tháng Bảy bên mình). Lúc chúng tôi đến đúng vào mười ngày chay nên có nhiều hàng quán chay. Tham quan lễ Phật xong, chú Lệ đưa chúng tôi đến dùng trưa trong một quán cơm chay người Hoa. Quán chay của người Hoa nằm lọt thỏm trong khu người Việt. Tu sĩ và Phật tử Việt ăn chay nhiều nên quán buôn bán đông khách quanh năm.

      Đến bất cứ đâu, từ chùa cho đến khu dân cư, quán ăn và các đường phố lớn, chúng tôi đều nhìn thấy người ta trưng bày di ảnh của đức vua và hoàng hậu. Người dân Thái tôn sùng vua của họ ngang bằng với kính Phật. Cũng phải thôi. Phật giáo mang lại cho họ nguồn sống tâm linh an lành tự tại. Đức vua là người có công lớn đưa nền nông nghiệp Thái Lan phát triển giàu mạnh cho đến ngày nay. Hình ảnh đức vua chính là biểu tượng thiêng liêng của dân tộc Thái. Đất nước của những nụ cười tràn ngập sắc màu an lạc và niềm tin tôn giáo.

      Ngôi chùa Hoàng gia tọa lạc trên một ngọn núi, cách tỉnh Mukdahan hơn trăm cây số. Vì ở Thái chạy xe bên trái nên chú Lệ nhờ người bạn, cũng là người Việt định cư ở Lào quen đường chở giúp. Từ chân núi, chúng tôi đã nhìn thấy đỉnh tháp nhô cao chót vót. Xe chạy lên chùa theo con đường tráng nhựa vào tới tận cổng sau. Chùa do một vị công chúa, chị của đức vua đương thời phát tâm bảo trợ cúng dường. Chùa xây chưa xong thì bà tạ thế. Nhiều công trình vẫn còn đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện.

      Chùa Hoàng gia nên lối kiến trúc cũng thật là nguy nga tráng lệ. Có bốn cổng tam quan trông ra bốn hướng Đông Tây Nam Bắc, có cả ngàn tượng Phật đặt ở hành lang chạy quanh vòng tường có mái che lợp ngói. Tượng Phật ngồi trên chiếc bệ cao sơn vàng đính hạt cườm xanh nổi bật. Trong khuôn viên rộng thênh thang có rất nhiều cây xanh thảm cỏ, có hồ phun nước, có trụ đá dùng để tôn trí các vị Bồ tát và thần linh. Tất cả đều tỏa sáng một màu vàng thật ấn tượng. Mấy ngôi bảo tháp lớn thì màu trắng với những đường viền hoa văn vàng ánh. Tháp có lớn nhỏ nhưng kiểu dáng thì giống nhau. Vì không đủ thời gian nên chúng tôi chỉ vào lễ Phật ở ngôi tháp lớn. Tháp có nhiều cửa, mỗi cửa có tam cấp đi lên và có sáu tầng, mỗi tầng thờ một tượng Phật chính ở trên cùng nhiều pho tượng nhỏ hơn bên dưới. Tôi lên tới tầng hai chụp hình rồi ngồi lại chiêm nghiệm tượng Phật, nên không theo đoàn lên các tầng trên. Tầng thứ sáu là nơi thờ xá lợi Phật và các vị đại đệ tử.

      Chiêm bái những ngôi chùa mang tầm vóc quy mô vĩ đại cứ khiến người ta phải luôn miệng trầm trồ thán phục. Suốt chuyến tham quan, đầu óc tôi lại miên man với ý nghĩ: Ở đâu những giá trị tâm linh được tôn tạo giữ gìn... thì ở đó niềm tin về lẽ sống chơn thường sẽ không ngừng tỏa sáng.

      Vũ trụ vô thường. Sắc thân huyễn mộng. Tâm nguyện rộng lớn của người tạo lập rồi cũng sẽ theo dòng thời gian trôi xa vào cõi miên trường vĩnh cửu.

      Một chuyến đi... đọng lại biết bao điều. Thế giới này hữu hạn nhưng niềm tin về những điều chân thiện mỹ sẽ mãi lan xa và... lan xa mãi.


      TÂY TẠNG NGÀY NAY
      Đoàn Xuân Hải

      Vùng đất này được người đời gọi là “nóc nhà của thế giới” vì nó nằm quá cao so với mực nước biển. Người khác thì cho nó hai chữ “huyền bí” vì không hiểu hết được sự thâm sâu trong hành vi và suy nghĩ của người dân bản địa.

      Hồi cuối thế kỷ 19, các nhà thám hiểm phương Tây đã thực hiện những chuyến khám phá vùng đất huyền bí Tây Tạng bằng đường bộ khá gian nan. Ngày nay, du khách đến Tây Tạng - một khu tự trị thuộc Trung Quốc - dễ hơn nhiều vì hệ thống giao thông thuận lợi với xa lộ, tàu cao tốc và đường hàng không. Tuy nhiên, sau khi đã có visa vào Trung Quốc, muốn lên Tây Tạng, bạn buộc phải có giấy phép đặc biệt do chính quyền sở tại cấp. Không có giấy phép đặc biệt, bạn sẽ bị từ chối bước vào vùng tự trị này.


      Lhasa - Ảnh: Đ.X.H

      Theo lời mời của Công ty điện tử Samsung Vina, đoàn nhà báo chúng tôi đã làm một chuyến lữ hành đến Tây Tạng bằng đường hàng không. Tưởng di chuyển bằng máy bay (từ sân bay Tân Sơn Nhất) thì nhanh nhưng vất vả không kém vì phải transit ở Bắc Kinh, Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên) rồi mới đến được Lhasa (thủ phủ của Tây Tạng). Khởi hành lúc 1 giờ sáng, ăn ngủ vật vờ trên máy bay mãi đến chiều tối mới đến được Lhasa. Từ Việt Nam đi qua Mỹ xem ra còn dễ chịu hơn.

      Lúc hạ cánh xuống phi trường quốc tế Lhasa, qua ô cửa sổ máy bay, tôi thấy khoảng chục chiếc chiến đấu cơ phản lực “trùm mền” nằm dọc theo phi đạo. Có vẻ như đây là phi trường bán quân sự thì phải. Mang tiếng là phi trường quốc tế nhưng thực ra chỉ có duy nhất đường bay từ thủ đô Kathmandu của nước Nepal láng giềng đến Lhasa mà thôi. Ngày trước, từ phi trường vào đến trung tâm thủ phủ Lhasa mất cả tiếng đồng hồ vì phải đi vòng qua núi. Nay thì sự di chuyển bằng ô tô nhanh hơn nửa tiếng vì người ta đã xây đường hầm băng qua núi. Kể từ khi thực hiện chính sách “hướng về phía tây” của chính quyền trung ương, hệ thống hạ tầng cơ sở của Tây Tạng được cải thiện đáng kể.
      Lhasa là một thung lũng nằm ở độ cao 3.650m, tứ bề được các dãy núi cao hơn 5.000m bao bọc. Không chỉ Lhasa, hầu hết Tây Tạng đều có địa hình núi non trùng điệp, tuyết phủ trắng xóa. Ngay cả đỉnh Fansipan của Việt Nam với độ cao 3.143m, được mệnh danh là “nóc nhà của Đông Dương”, vẫn thấp hơn mặt bằng của Tây Tạng. Với độ cao bình quân hơn 4.000m, có lẽ cả Tây Tạng nằm lọt thỏm giữa những tầng mây.


      Từ tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau là khoảng thời gian người ta khuyến cáo bạn không nên đến Tây Tạng vì sự khắc nghiệt của thời tiết. Trong thời gian này, một số hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí ở Lhasa cũng ngừng hoạt động vì lượng du khách vắng vẻ, và cũng vì trời lạnh tê tái. Tốt nhất hãy đến đây vào mùa hè, thời tiết ấm áp hơn.


      Nơi đất - trời giao thoa - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

      Lhasa rộng khoảng 550 km2, lớn hơn thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk) một chút, dân số khoảng nửa triệu người chiếm đa số là người Tạng, còn lại là người Hán và Hồi.

      Tây Tạng nói chung và Lhasa nói riêng đều có thời tiết khắc nghiệt vì không khí loãng. Đầu tháng 11, ngay đêm đầu tiên lưu trú, chúng tôi đã chứng kiến bông tuyết rơi là đà trên phố. Thế nhưng đoàn nhà báo chẳng có ai dám tản bộ dưới bầu trời lãng mạn ấy vì lạnh thấu xương. Tôi đã từng trải qua cái lạnh 0 độ ở châu Âu và Mỹ, thậm chí -5 độ ở Bắc Kinh, nhưng cái lạnh 0 độ ở Tây Tạng hoàn toàn khác, nó có thể quật ngã bạn bất cứ lúc nào. Trong 3 ngày ở đây, mặc dù được trang bị bình oxy để thở, đoàn chúng tôi đã có người ói mửa, chảy máu mũi, môi khô nứt, mặt mày tái mét, ăn không được, ngủ chập chờn nửa tỉnh nửa mê, thậm chí có người chỉ muốn vào bệnh viện vì nghĩ mình… sắp chết đến nơi!

      Ở Lhasa có một công trình kiến trúc nổi tiếng khắp thế giới: cung điện Potala. Người ta nói rằng nếu chưa viếng Potala thì coi như bạn chưa đến Tây Tạng, tựa như “bất đáo Trường Thành phi hảo hán” nói về chuyện du khách đến Bắc Kinh mà chưa leo lên Vạn Lý Trường Thành thì chưa biết gì về Trung Quốc vậy.

      Kỳ 2: Potala linh thiêng

      Di sản thế giới


      Người Tạng hành hương đến Potala vì nơi đây thờ Phật, đồng thời là nơi ngự trị và an nghỉ của các Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) đã viên tịch.

      Cung điện Potala bắt đầu được xây dựng vào năm 1645 dưới thời Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, phải mất 50 năm mới hình thành quy mô như hiện nay gồm Hồng cung và Bạch cung, với tổng cộng 1.000 phòng. Công trình uy nghi này được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1994.



      Hành hương lên cung điện Potala - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

      Chúng tôi đến viếng Potala vào một buổi sáng trời đẹp, nắng dịu dàng điểm xuyết bởi những hạt bông tuyết rơi nhẹ nhàng. Lhasa là một thung lũng được núi bao quanh. Giữa thung lũng có một ngọn đồi và người Tây Tạng đã xây dựng Potala trên ngọn đồi ấy, ở độ cao 3.600m so với mực nước biển, là cung điện cao nhất thế giới hiện nay. Muốn lên đến tầng trên cùng của cung điện - nơi linh thiêng nhất, bạn phải trải qua hơn 300 bậc thang.

      Ước tính có hàng ngàn người đến viếng Potala mỗi ngày, đa số là người Tạng cùng một thiểu số du khách thập phương. Trong dòng người ấy, bạn dễ dàng nhận biết đâu là người Tạng, đâu là du khách do trang phục và nét mặt. Phần lớn người Tạng hành hương đến Lhasa đều cầm trên tay tràng hạt hoặc “Kinh luân cầu nguyện” (Prayer Wheel - một vật dụng tâm linh đặc trưng của người Tây Tạng), vừa đi vừa xoay (theo chiều kim đồng hồ) và thầm đọc kinh bằng tiếng Phạn. Chúng tôi hăm hở hòa theo dòng người hành hương chậm rãi bước bộ lên Potala. Sở dĩ phải bước chậm rãi vì ở vùng không khí loãng như Tây Tạng, leo hàng trăm bậc thang rất dễ bị hụt hơi. Quan sát thấy cứ lên hết một tầng, nhiều người phải dừng lại để… thở, kể cả du khách phương Tây, đoàn nhà báo chúng tôi cũng không phải ngoại lệ. Chỉ có người Tạng hình như không biết mệt khi di chuyển trên những bậc thang ấy. Cuộc sống gắn liền với núi đồi đã giúp cho họ có đôi chân dẻo dai nên đi lên Potala chỉ là “chuyện nhỏ”, chuyện lớn chính là đức tin.

      Nơi an nghỉ của các Đạt Lai Lạt Ma


      Lên cung điện Potala, người Tạng nào cũng tâm niệm phải đặt chân đến các tầng trên cùng vì nơi đó thờ Phật, nơi đặt kim tháp (mộ táng của các Đạt Lai Lạt Ma) và cũng là nơi ngự trị quyền lực chính trị và tôn giáo cao nhất của Tây Tạng trong quá khứ. Lúc ghé thăm phòng tiếp khách của Đạt Lai Lạt Ma, khoảng sân phía trước ghế ngồi của ngài có rất nhiều tấm vải lụa trắng của người hành hương gửi lại. Khi vừa đặt chân đến Lhasa, tôi cũng được anh chàng hướng dẫn viên du lịch người Tạng tặng cho một chiếc khăn như vậy, ý nghĩa của nó là để chúc phúc.



      Người Tạng hành hương đến Lhasa cầm trên tay “Kinh luân cầu nguyện” -
      Ảnh: Đoàn Xuân Hải

      Sự uy nghi và linh thiêng của cung điện Potala khiến người hành hương phải cúi đầu bái lạy, những vị khách lạ cũng không dám làm điều càn quấy. Potala sở hữu vô số hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa lẫn kinh tế, trong đó phải kể đến mộ táng của Đạt Lai Lạt Ma đời trước được làm bằng vàng. Khi đế quốc Anh xâm chiếm Ai Cập, họ đã rinh về mẫu quốc khá nhiều hiện vật thời cổ đại. Trong bảo tàng Anh quốc ở London hiện nay có hẳn một khu vực riêng để trưng bày về nền văn minh Ai Cập, trong đó có cả một ngôi mộ bằng đá hoa cương khá to của Pharaon. Vậy mà lúc xâm chiếm Tây Tạng qua ngả Ấn Độ, người Anh đã không đụng đến mộ táng bằng vàng của Đạt Lai Lạt Ma. Trải qua bao cuộc thiên tai địch họa, kể cả trong cơn bão táp “Cách mạng Văn hóa” (1966-1969) dưới thời Mao Trạch Đông, cung điện Potala vẫn bảo tồn gần như nguyên vẹn những gì hiện hữu bên trong lẫn cấu trúc bên ngoài. Các công trình kiến trúc đặt trên nền đá như Potala có độ bền vững khá cao. Khu Mahattan ở thành phố New York của Mỹ cũng được xây trên một vỉa đá cứng như vậy.

      Người ta đã xây dựng một khu hành chính khác để các quan chức và nhân viên làm công việc điều hành Lhasa, Potala vì thế đã không còn là trung tâm quyền lực về chính trị của Tây Tạng nữa. Cung điện ấy giờ đây biến thành viện bảo tàng. Thế nhưng đối với người Tây Tạng, hình như cung điện Potala (hay bảo tàng Potala) vẫn hiện hữu với tất cả sự linh thiêng, sùng bái trong tâm tưởng của họ. Bất kể thời tiết ra sao, những đoàn lữ khách hành hương từ khắp mọi miền vẫn đổ về Potala mỗi ngày, họ đến để minh chứng lòng thành với Phật và có lẽ với một ai đó vì nguyên nhân này khác đã không còn hiện hữu nơi đây.

      Kỳ 3: Lạt ma và Hoa hồng

      Ở ngoại ô thủ phủ Lhasa có một tu viện mang tên Sera Monastery mà nếu đến thăm, bạn sẽ chứng kiến một trong những phương pháp tiếp thu kiến thức độc đáo của người Tây Tạng.

      Sera Monastery nằm dưới chân núi đá khô cằn, ngoại ô Lhasa.

      Tu viện này thuộc phái Mũ Vàng (Gelugpa - Hoàng Mạo), là 1 trong 3 tu viện quan trọng bậc nhất của Tây Tạng, được xây dựng vào đầu thế kỷ 15. Sera Monastery còn được biết đến với tên gọi Tu viện Hoa hồng, bởi chữ Sera trong tiếng Tạng có nghĩa là hoa hồng, vì khi khởi công xây dựng tu viện vào năm 1419, nơi đây tràn ngập hoa hồng dại. Một khu đồi núi cằn cỗi mà lại có hoa hồng mọc lên, tô điểm thêm cho sự kỳ bí của tu viện này. Thêm nữa, trên một đất nước rộng mênh mông như thế mà các bậc đại sư thời xưa lại chọn khu đất có hoa hồng để xây tu viện, chắc không phải ngẫu nhiên.



      Vườn tranh luận - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

      Tu viện Sera được biết đến như là Trường đại học Phật giáo của Tây Tạng. Khu vực này khá rộng, gồm 3 trường: Sera Mey Dratsang (giáo dục kiến thức cơ bản), Sera Jey Dratsang và Ngagpa Dratsang (đào tạo Lạt ma phái Mũ Vàng có trình độ tương đương cử nhân và tiến sĩ Phật học), tu sinh phải học và thi khoảng 300 loại kinh kệ, chưa kể các môn khoa học khác. Giống như các trường đại học trên giới, tu viện Sera cũng có ký túc xá dành riêng cho tu sinh. Đào tạo Lạt ma chỉ dành cho nam giới từ 16 tuổi trở lên, do đó không hề có nữ tu sinh trong các tu viện ở Tây Tạng. Hiện tại muốn vào bên trong tu viện, bạn phải trình giấy thông hành đặc biệt cho đồn cảnh sát đặt ở đầu đường vào.

      Vào những buổi chiều, trong vòng từ 1 - 2 tiếng đồng hồ, dưới bóng râm của những tán cây có tuổi thọ hàng trăm năm tuổi, các tu sinh của tu viện Sera tụ tập lại (giống như giờ ra chơi) để trau dồi kiến thức trong không gian gọi là Vườn tranh luận với mặt sân toàn đá cuội. Người đứng đập hai bàn tay vào nhau nghe “chát” một cái, uốn hai cánh tay nhẹ nhàng như một vũ công, rồi hỏi người ngồi một câu gì đó. Người ngồi trả lời, người đứng hỏi tiếp với cùng điệu bộ ấy.

      Có thể xếp Vườn tranh luận của tu viện Sera vào loại sôi động nhất trong hệ đại học trên toàn thế giới. Qua lời giải thích của anh hướng dẫn viên du lịch người Tạng, sự tranh luận ấy được thể hiện bằng kiến thức phổ thông hoặc thâm sâu tùy theo nội dung câu hỏi và câu trả lời của các tu sinh, ví dụ: Người hỏi: Lá cây có màu gì? Người trả lời: Màu xanh. Hỏi tiếp: Tại sao lá cây có màu xanh? Trả lời: Do diệp lục tố tạo nên. Hỏi tiếp: Tại sao lá cây chuyển sang màu vàng? Trả lời: Đó là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hỏi tiếp: Tại sao lá rụng? Trả lời: Là do lá chết. Hỏi tiếp: Tại sao lá chết mà cây không chết? Trả lời... Cứ như thế, “giờ ra chơi” giúp các tu sinh “truy bài” nhau đi đến tận cùng của tri thức, một cách giúp họ lĩnh hội những tinh tú của nhân loại trong vũ trụ bao la trước khi tốt nghiệp thành Lạt ma.

      Cuối buổi tranh luận, tất cả tu sinh đội mũ vàng lên tập trung lại để các bậc đại sư giải thích những câu hỏi có phần bí hiểm hoặc câu trả lời chưa thỏa đáng, rồi đưa ra lời giải cuối cùng cho một câu hỏi chưa có lời giải hoặc trả lời chưa trọn vẹn, coi đó như chân lý để các tu sinh nạp thêm vào kho tàng kiến thức của mỗi người.



      Du khách tham quan tu viện Sera - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

      Trước cuộc chính biến xảy ra vào năm 1959, tu viện này có hơn 5.000 tu sinh, ngày nay con số ấy chỉ còn khoảng 800 người. Cả Lạt ma và tu sinh theo học ở tu viện Sera được đài thọ kinh phí dạy và học (giống như tiền lương cho giảng viên và học bổng cho sinh viên) cho nên không phải muốn vào học là được, phải trải qua một quá trình “xét tuyển” hạn chế và khắt khe. Không phải tất cả tu sinh đều trở thành Lạt ma, những ai không hội đủ điều kiện trong quá trình theo học tại tu viện đều có thể hồi gia hoặc ra khỏi trường, nhập thế để trở thành một con người khác.

      Sau khi tốt nghiệp và hành đạo, Lạt ma sẽ chọn thời điểm để di hành lên chốn thâm sơn cùng cốc, chọn cho mình một cái hang để khổ luyện trong 3 năm, 3 tháng, 3 tuần, 3 ngày. Tại sao không chọn số 2 hoặc số 4, mà phải là số 3 âu cũng là điều bí hiểm. Nếu tính đủ 1 năm 365 ngày và tháng đủ 30 ngày thì quá trình “hành xác khổ luyện” ấy diễn ra đúng 1.209 ngày. Trong quá trình ngồi thiền nơi hang núi, các Lạt ma rèn luyện và đạt được một số khả năng siêu phàm. Một trong những điều siêu phàm như vậy, theo nghiên cứu của một số nhà Tây Tạng học, là khả năng giao tiếp giữa vị Lạt ma này với vị Lạt ma nọ ngồi cách nhau vài quả núi, tựa như thần giao cách cảm. Với thời tiết khắc nghiệt như Tây Tạng, ăn uống kham khổ và điều kiện sinh hoạt ở mức tối thiểu, chừng ấy ngày ngồi thiền một mình ở chốn hoang vu giá lạnh để đắc đạo xuống núi đủ thấy cơ thể ấy, tinh thần ấy, lý trí ấy bền vững thế nào. Người phàm như tôi, không cần đến 3 tuần, chỉ sống 3 ngày như vậy thôi chắc còn lại cái xác không hồn, nói cách khác sẽ trở thành “linh hồn tượng đá”…

      Kỳ 4: Hai cảnh đời chốn tâm linh

      Ở Lhasa có một ngôi chùa nằm lọt thỏm trong khu phố cổ, rất linh thiêng, đó là chùa Đại Chiêu (Jokhang Temple) - cũng là nơi hành hương không thể thiếu giống như cung điện Potala đối với người Tây Tạng theo đạo Phật.

      Phía trước mặt tiền của chùa là một quảng trường mang tên Bakhor với nhiều cửa hiệu buôn bán náo nhiệt. Ở Lhasa người ta dùng song ngữ Tạng - Hoa trên các biển hiệu quảng cáo, một số ít cơ quan có thêm tiếng Anh, ra xa lộ thì chỉ có bảng hướng dẫn lưu thông bằng tiếng Hoa mà thôi. Bakhor là một trong hai quảng trường trung tâm của Lhasa, quảng trường kia nằm đối diện cung điện Potala, có một đại lộ mang tên Bắc Kinh chạy ngang.



      Tượng vua Gampo và hoàng hậu Văn Thành

      Chùa Đại Chiêu được vua Songtsan Gampo (Tùng Tán Cán Bố) xây dựng vào thế kỷ 7 (năm 647). Gampo là người sáng lập đế quốc Tây Tạng (cùng thời với nhà Đường của Trung Hoa cổ đại), đồng thời là vị vua có công chấn hưng Phật giáo Mật Tông trên cao nguyên này. Chùa Đại Chiêu linh thiêng nhất đối với người dân Tây Tạng, được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới. Vua Gampo có 3 bà vợ: Đệ nhất hoàng hậu là công chúa Bhrikuti Devi của Vương quốc Nepal; Đệ nhị hoàng hậu là công chúa Văn Thành (tiếng Tạng là Munchang Kongcho), cháu gái của vua Đường Thái Tông; Đệ tam hoàng hậu là Trimoyen Dongsten (người Mông Cổ). Giống như những cuộc “hôn nhân chính trị” của các vương triều xưa, sự kết hôn của vua Songtsan Gampo thời bấy giờ với người của các nước láng giềng nhằm thắt chặt “tình thông gia hữu hảo”, tránh lâm vào cảnh chiến tranh. Ở tỉnh Tứ Xuyên giáp với Tây Tạng, có một bức tượng (không biết dựng lên vào năm nào) chân dung vua Gampo và hoàng hậu Văn Thành sánh đôi cao to, đứng trước một cổng thành cổ, như minh chứng cho mối tình bất diệt Tạng - Hán thời xa xưa.

      Cùng với vua Gampo, hai hoàng hậu Devi và Văn Thành được tôn sùng là Tam Thánh Mật Tông Giáo ở Tây Tạng. Khi “về nhà chồng”, cả đệ nhất và đệ nhị hoàng hậu đều mang theo tượng Phật bằng vàng ròng (như của hồi môn) đặt vào chùa Đại Chiêu. Trong cuộc “Cách mạng Văn hóa” ở Trung Quốc, tượng Phật của hoàng hậu Devi đã bị phá nát. Trước tình cảnh ngặt nghèo ấy, Thủ tướng Chu Ân Lai đã thành công khi can thiệp với chính quyền trung ương Trung Quốc bảo tồn tượng Phật Thích ca Mâu ni của công chúa Văn Thành tránh bị phá hủy. Tượng Phật của hoàng hậu Devi hiện nay nằm chính diện trong chùa Đại Chiêu là do được phục chế vào thập niên 1980, đúng như nguyên bản.



      Khu chợ bán hàng lưu niệm bên ngoài chùa Đại Chiêu - Ảnh: Đoàn Xuân Hải

      Số lượng khách hành hương đến cung điện Potala và chùa Đại Chiêu ước tính bằng nhau. Người Tây Tạng đến chùa Đại Chiêu cũng là dịp để một lần trong đời biết được điều huyền bí về bản thân mình. Điều huyền bí ấy là, sau khi lễ Phật, khách hành hương sẽ được các nhà sư hướng dẫn nhìn vào một ô cửa nhỏ để biết được vận mạng của mình ở kiếp sau. Du khách nước ngoài thường bỏ qua công đoạn này vì hai lẽ: Thứ nhất, bạn phải là tín đồ Phật giáo mộ đạo, có niềm tin mãnh liệt vào sự linh thiêng của chùa; Thứ hai, bạn phải kiên nhẫn xếp hàng chờ đến lượt vì số lượng người muốn trải qua công đoạn này… quá đông. Tuy đông người nhưng mọi nghi lễ trong chùa Đại Chiêu đều diễn ra trật tự, nền nếp. Chỉ có điều, giống như nội quy ở cung điện Potala, du khách không được phép chụp hình, quay phim bên trong chùa Đại Chiêu. Đến một vài điểm tham quan ở Tây Tạng, bạn chỉ được tự do ghi hình khi đang ở không gian bên ngoài, thấy ánh nắng mặt trời, mây lượn cùng gió và chim chóc tung bay.

      Bên ngoài chùa Đại Chiêu là cả một không gian náo nhiệt. Phía trước chùa có khá đông tín đồ Phật giáo hướng về mặt chính của chùa bái lạy không ngơi nghỉ theo tư thế nằm úp mặt xuống đất. Nghe nói họ phải thực hiện đủ 100.000 lạy như thế trong đời mình, quả là đáng nể. Sự náo nhiệt ấy còn do khu chợ bán hàng lưu niệm tạo ra. Chủ quầy hàng có cả người Tạng và Hán, rất ít người nói được tiếng Anh. Bản chất người Tây Tạng xưa nay vốn hiền lành, thật thà chất phác, ấy vậy mà khi mua hàng tại đây, hướng dẫn viên du lịch nhắc chúng tôi rằng hãy tích cực… trả giá. Ví dụ: người bán nói món hàng ấy 100 đồng, bạn hãy mạnh dạn trả còn 20 đồng thôi, nếu vì “lịch sự” trả giá xuống 50% coi như “dính chấu”.

      Quảng trường Bakhor có lẽ là nơi nhộn nhịp nhất thành phố Lhasa với khá đông người hành hương lẫn du khách. Tại đây, cơ quan chức năng chuẩn bị nhiều bình xịt màu đỏ mà thoạt nhìn có người nghĩ là bình ô xy, nhằm giúp cho những du khách khó thở vì không khí loãng. Nhưng rốt cuộc mọi người mới phát hiện đó không phải bình ô xy mà là bình... cứu hỏa. Những chiếc bình này sẽ được dùng để dập tắt đám cháy do ai đó vô tình hay cố ý gây ra ở quảng trường. Rất may là không có đám cháy nào xảy ra trong suốt thời gian chúng tôi hiện diện nơi đây.

      Khi máy bay cất cánh rời thủ phủ Lhasa, có nhà báo nói vui đó là “cuộc đào thoát khỏi Tây Tạng” vì thời tiết ngày càng lạnh hơn, lưu trú thêm vài ngày nữa chắc… bỏ mạng. Hài hước vậy thôi chứ Tây Tạng xưa nay vẫn là vùng cao nguyên rất đáng để bạn đến tham quan một lần trong đời, và sẽ không uổng công.
      Last edited by viet11; 05-05-2012, 09:35 PM.
      Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
      Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
      ............



      Can't Live Without...hehe...


      Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

      Comment


      • #48

        Em bé nầy thiệt là dễ thương



        Comment


        • #49
          XỨ PHẬT SRILANKA
          ĐÃ MỘT LẦN NHƯ THẾ
          Thích Như Điển

          Nước Tích Lan (Sri Lanka) có nghĩa là xứ Sư Tử Hống. Phật giáo đã có mặt tại đây từ thế kỷ thứ ba trước Thiên Chúa giáng sinh, nghĩa là từ khi công chúa Sanghamita và hoàng tử Mahinda, con vua A Dục mang cây Bồ đề được chiết ra từ cành cây chính ở Bồ Đề Đạo Tràng qua xứ Anuradhapura để trồng tại đó. Mãi cho đến ngày hôm nay, nơi đây vẫn là Thánh địa có nhiều người Phật tử đến đây để chiêm bái, nguyện cầu và cây Bồ đề ấy ngày nay hơn 2300 năm lịch sử, cành lá vẫn còn tốt tươi và đang đâm chồi nảy lộc, vươn cao lên cả mấy tầng mây.

          Ở trong đời này có nhiều chuyện thật bất ngờ, bởi vì người ta chẳng tính trước được. Đa phần cuộc sống của chúng ta đều do mình làm chủ. Chúng ta vạch định kế hoạch cho việc tu, việc học, việc đi du lịch, giao tế với bạn bè v..v. Đó là bản lề của cuộc sống và là chương trình làm việc của mỗi người; nhưng trong cuộc sống này nó có muôn mặt, thay đổi muôn hình vạn trạng, đôi khi ta nghĩ vậy mà nó không là vậy. Cho nên, trong giáo lý của đức Phật gọi những sự thay đổi ấy là “Nhơn duyên”.
          “Nhân duyên” là một sự tương tức. Có cái này nên mới có cái kia. Có những cái ẩn tàng đâu đó trong nhiều đời nhiều kiếp bây giờ mới hiện về. Có những cái mình không thích, không muốn mà nó cứ hiện ra. Hoặc giả có những loại mình ưa thích mà nó chẳng bao giờ đến. Thôi thì tóm gọn lại trong hai chữ “Nhơn duyên” là dễ hiểu và dễ cảm thông hơn.



          Người phụ nữ nầy mang hoa sen lên chùa dâng cúng Phật


          Thầy Seelawansa, người Tích Lan, đến với tôi và chùa Viên Giác tại Hannover cũng là một sự tình cờ trong bao nhiêu sự tình cờ khác, cách đây chừng 20 năm về trước. Vào đầu năm 1991, thầy đến Hannover và chúng tôi đã quen biết nhau từ đó. Thầy đến Áo từ năm 1982 và đã tốt nghiệp tiến sĩ triết học tại Áo; hiện là giáo sư Tôn giáo học tại đại học Wien, thủ đô nước Áo.
          Trong 20 năm đó, tôi đã thăm quê hương Thầy ấy ba lần. Cứ mỗi lần như thế, tôi đều viết những bài tường thuật để đăng trên báo Viên Giác, hoặc giả viết thành sách như cuốn: “Giữa chốn cung vàng” để giới thiệu về quê hương Thầy cũng như Kandy – nơi chiếc răng của đức Phật được tôn thờ tại đó. Lần thứ ba này là lần đặc biệt nhất, vì tôi đã chẳng đợi chờ.



          Bảo tháp xưa tại Polonnaruwa

          Cách đây hai năm, Thầy có nhờ tôi viết một bài báo bằng tiếng Anh để giới thiệu về Thầy trong khi Thầy ấy hướng dẫn tu học cho những người Đức và người Áo tại Âu châu. Tôi sẵn sàng và đã thực hiện điều đó. Đó cũng là hình thức giới thiệu về Thầy để được Hội đồng Tăng già Tích Lan trao giải thưởng danh dự cao quý cho Thầy, người có công mang ánh sáng Phật pháp vào Âu châu. Sau đó, Thầy điện thoại cho tôi biết kết quả và giải thưởng này Thầy ấy đã nhận lãnh từ năm 2010. Tiếp theo Thầy đề nghị Hòa thượng Thích Minh Tâm và cá nhân chúng tôi cũng sẽ đón nhận giải thưởng danh dự này. Hòa thượng Thích Minh Tâm thì chẳng mừng và cũng chẳng quan tâm và Hòa thượng bảo rằng: “Để đến lúc ấy hãy tính”. Có vẻ việc đến bất ngờ chăng? Nên Hòa thượng Minh Tâm cũng đã chẳng chuẩn bị gì cả ngoại trừ một lý lịch trích ngang và công lao hoằng pháp của Hòa thượng tại Âu châu mà chính thầy Seelawansa đã nhiều lần tai nghe mắt thấy. Còn tôi, thầy Hạnh Giới đã bổ túc lý lịch đầy đủ cho Thầy ấy cả tiếng Anh và tiếng Đức.
          Bẵng đi một thời gian khá lâu, một hôm thầy Seelawansa điện thoại cho tôi và báo tin rằng: Hội đồng Tăng già Tích Lan đã đồng ý cấp giải thưởng cao quý về việc hoằng pháp trên thế giới của chúng tôi và tiếp theo Thầy ấy có gởi mấy tờ báo địa phương đã loan tải tin này bằng tiếng Tích Lan cũng như bằng tiếng Anh. Sau đó, tôi có liên lạc với Hòa thượng Minh Tâm để định ngày sang Tích Lan tham dự lễ trao giải thưởng. Cuối cùng, Thủ tướng Tích Lan đã chọn ngày 8 tháng 7 năm 2011 là ngày lễ trao giải thưởng này. Vì là một tổ chức lớn, cả Hội đồng Tăng già và chính phủ nên phải lấy thời gian trước đó một năm. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng không rãnh rỗi gì, vì là trong mùa an cư kiết hạ và triển lãm Phật Ngọc tại chùa Viên Giác – Hannover mới vừa xong. Trong khi đó, phái đoàn của Hòa thượng Thích Minh Tâm gồm tám vị cũng chưa rõ là có thể đi được hay không, chỉ chờ đợi vào giờ chót.



          Cung kính đảnh lễ Chư Tăng
          Một truyền thống tốt đẹp của Phật tử Tích Lan

          Riêng báo Viên Giác cũng như trang nhà Viên Giác đã đưa tin này cả một năm qua nên phái đoàn Viên Giác đến Colombo từ ngày 3 đến ngày 14 tháng 7 năm 2011, tổng cộng 24 vị. Từ Âu châu có 16 người, Ấn Độ có 4 thầy, và Việt Nam có bốn vị. Đặc biệt phái đoàn Âu châu lần này gồm các văn sĩ, nhà thơ như: chị Trần Thị Nhật Hưng, Hoa Lan, Đan Hà, và anh chủ bút báo Viên Giác Phù Vân cũng đã tháp tùng cùng phái đoàn. Do vậy, những vị này sẽ có những bài tường thuật khác nhau bằng cái nhìn nhân chứng và nhãn quan của các anh chị em này. Vì thế, độc giả báo Viên Giác nay mai sẽ đọc được nhiều bài thơ, tùy bút hay những bài tường trình về chuyến đi này đầy đủ hơn.
          Ở xứ lạnh như xứ Đức, cả ba bốn chục năm nay, nay có cơ hội về xứ ấm Á châu và sẽ được thưởng thức thời tiết và khí hậu ấm ấp khác xa nước Đức cũng như đồ ăn Á châu… ai mà không thích; nhưng tất cả cũng đều do nhân duyên sắp đặt mà thôi. Vì có những người cũng đã ghi tên giữ chỗ rồi, nhưng cuối cùng đổi ý ở nhà. Như vậy là mất đi một chuyến hành hương lý tưởng. Nhưng cũng có nhiều vị đã không chuẩn bị đi, mà cuối cùng là đã được đi. Cho nên hai chữ “Nhân duyên” nó có năng lực mạnh mẽ như vậy.



          Người dân thành tâm Lễ tháp

          Phái đoàn chúng tôi đến Colombo vào chiều 3 tháng 7 năm 2011. Sau khi đã được nhân viên Bộ Ngoại Giao chào đón theo cung cách lễ tân, chúng tôi thâu nhận hành lý và bước ra ngoài hành lang của phi trường để đón nhận những giọt mồ hôi đầu tiên tại xứ nhiệt đới này. Sau khi lên xe bus, phái đoàn được đưa về khách sạn nằm gần bờ biển cách thủ đô Colombo chừng 30 km về hướng Tây – Bắc.
          Nước Tích Lan (Sri Lanka) có nghĩa là xứ Sư Tử Hống. Phật giáo đã có mặt tại đây từ thế kỷ thứ ba trước Thiên Chúa giáng sinh, nghĩa là từ khi công chúa Sanghamita và hoàng tử Mahinda, con vua A Dục mang cây Bồ đề được chiết ra từ cành cây chính ở Bồ Đề Đạo Tràng qua xứ Anuradhapura để trồng tại đó. Mãi cho đến ngày hôm nay, nơi đây vẫn là Thánh địa có nhiều người Phật tử đến đây để chiêm bái, nguyện cầu và cây Bồ đề ấy ngày nay hơn 2300 năm lịch sử, cành lá vẫn còn tốt tươi và đang đâm chồi nảy lộc, vươn cao lên cả mấy tầng mây.
          Vào thế kỷ thứ 16, người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đã đến đây và họ đã mang theo một đạo mới. Đó là Thiên Chúa giáo. Rồi người Anh đến cai trị xứ này từ thế kỷ 18, đến đầu thế kỷ thứ 20 người Anh đã trao trả độc lập lại cho người Tích Lan. Cho nên, sau khi người Anh đi rồi, những văn hóa và tôn giáo cũ vẫn còn có mặt đó đây trong xứ quốc giáo là đạo Phật này, vốn đã ngự trị tại đây trong hơn 23 thế kỷ qua.



          Khắp nơi trong xứ Tích Lan đều có những tượng Đại Phật như thế này

          Ông Henry Olcott là một đại tá quân nhân người Mỹ, vào đầu thế kỷ thứ 20 đã đến Tích Lan, và ông chủ trương khôi phục lại nền văn hóa và tôn giáo của xứ này, nên đã được nhiều nhà học giả trí thức cũng như những chính trị gia trên thế giới ủng hộ. Trong đó có lá cờ Phật giáo thế giới ngày nay. Nguyên là khi nghiên cứu, ông thấy vầng hào quang của đức Phật có 5 màu gồm: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam. Do vậy, ông nghĩ ra ý tưởng dùng màu sắc giác ngộ ấy để tạo thành biểu tượng của Phật giáo thế giới và kết quả là vào năm 1951 Đại hội Phật giáo Thế giới tại Tích Lan đã công nhận lá cờ này là biểu tượng của những quốc gia theo Phật giáo, trong đó có Phật giáo Việt Nam. Đó là do công lao của ông bà đại tá Henry Olcott vậy. Ngày nay, người Phật tử đến Tích Lan thấy ngã ba đường nào cũng có một tượng Phật lớn ngự trị tại đó, cũng như nhà nhà đều treo cờ Phật giáo. Đây cũng là bằng chứng về sự khôi phục lại nền Phật giáo tại xứ này.


          Hòa thượng Minh Tâm đại diện phái đoàn tặng quà cho TT.Seelawansa


          Phái đoàn lưu ảnh tại chùa TT.Seelawansa

          Chư Tăng Tích Lan đa phần là những vị học giả nổi tiếng như Ngài Narada có thời gian dài hoằng pháp tại chùa Kỳ Viên ở Sài Gòn. Ngài là tác giả của nhiều đầu sách, trong đó có quyển “The Buddha and His teachings” (Đức Phật và Phật pháp) do đạo hữu Phạm Kim Khánh dịch, là một tác phẩm rất quen thuộc với Phật tử Việt Nam chúng ta. Cố Hòa thượng Wipulasara, phó Chủ tịch Hội Phật giáo Tăng già Thế giới, cũng là người Tích Lan. Ngài đã đóng góp phần mình không nhỏ cho việc giao lưu giữa Đại thừa và Tiểu thừa, giữa Nam tông và Bắc tông trong thế giới đương đại này. Ngoài ra những vị hòa thượng, thượng tọa đang hành đạo tại ngoại quốc, đa phần là những học giả Phật giáo đã được Tăng già và chính phủ Tích Lan hỗ trợ, trong đó có Thượng tọa tiến sĩ Seelawansa, như chúng ta đã đề cập bên trên. Họ không những chỉ lo vấn đề tinh thần cho người Phật tử Tích Lan ở hải ngoại mà những vị ấy còn lo cho người Tây phương trong đó kể cả Phật tử Việt Nam chúng ta nữa. Đây là tấm gương sáng của việc truyền đi ánh sáng chân lý của đức Phật đến với mọi người trên hoàn vũ này, không phân biệt màu da và tiếng nói.


          Một đoàn cung nghinh trang trọng dành cho những khách quý của quốc gia


          Thầy Seelawansa đã có công rất lớn trong việc lo lắng tổ chức cho lễ phát giải thưởng danh dự này vào ngày 8 tháng 7 qua. Ví dụ như sắp xếp các cuộc tiếp kiến với Tổng thống, Thủ tướng, các vị Bộ trưởng đối lập và Hội đồng Tăng già v..v. Nhưng vấn đề giao thông của Tích Lan ngày nay là một vấn nạn lớn. Xe cộ quá nhiều mà đường xá lại quá chật, người ta đã không thể bay lên không trung để đến nơi đúng giờ như đã được hẹn trước, cho nên đoàn của chúng tôi đến phủ Tổng thống trễ hơn 30 phút, khiến cho Tổng thống phải chờ đợi, đúng như tục ngữ Việt Nam có câu là: “Quan cần dân trễ”. Người đại diện cho phủ Tổng thống lo về vấn đề tôn giáo là ông A. M. Ratnayake hôm đó đã lên xe bus của chúng tôi để chào hỏi và nói lên lời đáng tiếc ấy. Trong khi quý bà, quý cô trong phái đoàn, vận áo dài truyền thống nổi bậc trong màu áo quốc phục này đang đợi chờ để tiếp kiến Tổng thống mà vẫn không được toại nguyện, lại hẹn lần sau và chẳng biết rằng lần sau ấy khi nào sẽ đến. Thôi thì đành lỗi hẹn với “Nhân duyên” vậy.
          Kế tiếp chúng tôi qua phòng hội nghị của chính phủ, nơi đây là một hội trường khánh tiết, có trang trí một tượng Phật, bốn cây đèn dầu và một chân đèn cao gồm nhiều tim đèn để cho những vị khách quý đến châm đèn cúng Phật, gồm bốn vị lãnh giải thưởng hôm ấy, Thủ tướng, Phó thủ tướng, ông Hội trưởng Hội Phật giáo Tích Lan.



          Các vũ công say mê theo vũ điệu truyền thống để cung đón nhị vị Hòa thượng


          Trước khi Thủ tướng đến, lính tráng hai tay khí giới sẳn sàng để bảo vệ, đang đứng bên ngoài hội trường trong oai vệ và khẩn cấp làm sao. Sau khi Thủ tướng vào hội trường rồi, chúng tôi bốn người lên xe đặc biệt và được chở quanh sang phía sau đoàn cung nghinh đại lễ. Sau đó xuống xe đứng vào vị trí cờ lọng đã có sẳn. Đầu tiên là cờ của Tăng già do 40 em thiếu nữ cầm, và sau đó là một đoàn vũ công truyền thống, ăn mặc theo lối chư thiên, mang trống, nhạc đến ca múa hiến dâng cho đại lễ. Kế tiếp là một rừng cờ Phật giáo và lại một đoàn vũ công nữa, họ đã tấu lên những bản nhạc thật oai hùng. Sau đoàn vũ công là lộng che nhị vị Hòa thượng được lãnh giải; hai vị trưởng, phó Hội Phật giáo Áo tháp tùng theo sau. Cuối cùng là đội hợp ca của các em Phật tử áo xiêm là bạch y cư sĩ. Đoàn cung nghinh vào hội trường trong tiếng nhạc lễ cao vút và trang trọng nhất. Sau khi chư Tăng, Ni, Thủ tướng, các vị Bộ trưởng và Phật tử an vị rồi, vị tổng thư ký của Hội đồng Tăng già thông qua chương trình và cung thỉnh Hòa thượng trưởng lão 94 tuổi, đại diện cho Tăng đoàn ngồi vào ghế chứng minh phía trên. Sau đó là phần tuyên dương sự hoằng pháp của nhị vị Hòa thượng và hai vị cư sĩ bằng tiếng Tích Lan. Kế tiếp, Hòa thượng Thích Minh Tâm được mời lên nhận bằng do Hòa thượng Tăng trưởng trao. Sau đó Hòa thượng ngồi vào vị trí chiếc ghế bên cạnh để Thủ tướng D.M. Jayaratne đến trao chiếc quạt truyền thống cũng như đảnh lễ. Kế tiếp, Hòa thượng Thích Như Điển cũng được trao như vậy. Bằng khen tặng do một vị Trưởng lão Tăng già khác trao và chiếc quạt hoằng pháp do Phó thủ tướng đảng đối lập trao tặng và đảnh lễ. Các Phật tử Việt Nam đại diện trong đoàn đã dâng hoa chúc mừng nhị vị Hòa thượng.
          Hai vị chánh phó Hội Phật giáo Áo đã được chư Tăng trao bằng danh dự và quà kỷ niệm, chứ không có chiếc quạt của quốc gia trao tặng. Kế tiếp thượng tọa tiến sĩ Seelawansa đã đọc một bài cảm từ bằng tiếng Tích Lan và tiếng Anh (sẽ được dịch ra bằng tiếng Việt nay mai) để vinh danh về việc hoằng pháp này. Nội dung của dòng chữ ghi trên tấm bằng danh dự là: Hội đồng Tăng già Tích Lan phát giải thưởng này cho….với tước hiệu danh dự là: “Người có công mang ánh sáng Phật pháp đến thế giới”. Còn trên chiếc quạt có ghi dòng chữ Tích Lan và tiếng Anh như là tước hiệu cao cả mà nhiều người trong đoàn gọi cái quạt này giống như: “Trẫm thăng lâm” trong “Thoát vòng tục lụy” hay quạt “Quốc sư” khi đi đâu mang để trước ngực thì sẽ được nhiều người cung kính và tránh đường ra để cho người có công đi thẳng tới. Đây cũng là một “Nhân duyên” mà chính tôi chưa bao giờ nghĩ tới.



          Chư Tăng Tích Lan và Việt Nam trong lễ trao giải thưởng Danh dự


          Toàn cảnh hội trường trong lễ trao giải thưởng Danh dự

          Kế đó là Thủ tướng phát biểu, Phó thủ tướng, rồi ông Hội trưởng lên nói cảm từ. Hòa thượng Thích Minh Tâm tặng quà lưu niệm đến Hội đồng Trưởng lão Tăng già, Thủ tướng, Phó thủ tướng và vị Hội trưởng cũng như những nhân viên lễ tân. Đồng thời thượng tọa tiến sĩ Seelawansa đã trao tặng tịnh tài đến chư vị Trưởng lão. Sau đó là chụp hình lưu niệm và tôi đã nói đôi lời bằng tiếng Anh để cảm ơn Hội đồng Tăng già cũng như chính phủ và nhất là thầy Seelawansa để nói lên tấm chân tình của chúng tôi khi đến đảo quốc này để lãnh giải thưởng cao quý.
          Bên chư Tăng có rất nhiều vị trưởng lão ví như Ngài A. J. Ariyaratne, tiến sĩ Phật học và là người sáng lập cũng như là Hội trưởng Hội Sarvodaya Shramadana, vốn là người trực tính, ít liên hệ với chính phủ hiện tại, nhưng vẫn hiện diện trong lễ trao giải thưởng này. Được biết, đây cũng là lễ phát giải đầu tiên cho người ngoại quốc có công truyền bá Phật pháp trên thế giới tại Tích Lan.
          Buổi tối ngày 8 tháng 7 năm 2011, tại một nhà hàng Pizza Ý ở thành phố Negombo, thượng tọa Thích Nguyên Lộc, ni sư Diệu Trạm và các đệ tử của Sư ông Khánh Anh đã tổ chức một buổi tiệc nho nhỏ để tạ ơn Sư trưởng, buổi tiệc gồm có ca nhạc, ngâm thơ, nói cảm tưởng cũng như cúng dường tịnh tài, phẩm vật v..v. thật là cảm động, thể hiện tình thầy trò, tử đệ. Đây là một kỷ niệm nho nhỏ, để kết thúc một nghi lễ, vốn đã được dự bị trước cả gần một năm nay. Sáng sớm ngày 9 tháng 7 năm 2011, những người lãnh giải thưởng đã được phủ Phó thủ tướng đối lập tiếp kiến tại tư gia và điểm tâm với gia đình thật là thân mật.
          Trước đó mấy ngày, phái đoàn chúng tôi đã ghé thăm đảnh lễ những Đại Bảo Tháp, Đại Phật tượng, chùa cổ hàng ngàn năm và những chùa cổ xưa trong hang động vùng Kalutara thật là tuyệt vời; không có bút mực nào để tả hết. Dọc đường đi, chúng tôi đã xuống xe để mua chuối, mít, măng cụt, xoài, cóc, ổi, chôm chôm, sầu riêng… ai nấy cũng đều trố mắt lên khi nhìn thấy những hình ảnh quê hương mình hiện về, đặc biệt là với những người xa quê trên dưới 40 năm chưa một lần trở về như hòa thượng Thích Minh Tâm và chúng tôi. Đây là những hình ảnh và những kỷ niệm tuyệt vời vẫn còn lưu giữ mãi trong tâm khảm của chúng tôi.



          Chư Tăng Tích Lan làm lễ chúc phúc cho các Phật tử trong phái đoàn

          Trưa ngày 7 tháng 7 năm 2011 phái đoàn gồm 32 người đã đến vùng Wadduwa để đi thăm một làng cô nhi gọi là “S.O.S Kinderdorf”. Làng cô nhi này được thành lập sau trận Tsunami cách đây 5 năm, do thầy Seelawansa sáng lập để nuôi những trẻ em mồ côi, không cha không mẹ sau nạn sóng thần năm ấy. Tiền bạc xây dựng nên cơ sở này là do Hội Phật giáo Áo tài trợ, trong đó có tiền của GHPGVNTN Âu châu, qua chúng tôi, đã gởi tặng vào đây thuở ấy độ 17 nghìn euro. Ngày hôm ấy, đạo hữu Nguyên Trí đại diện cho sư bà Thích Nữ Diệu Tâm, trưởng ban Từ thiện xã hội của giáo hội và qua hòa thượng Thích Minh Tâm đã trao tặng 1000 euro cho hơn 20 em đang tạm trú nơi đây để đi học. Vào lúc 14 giờ chiều cùng ngày, sau khi cơm nước và nhận quà bánh của phái đoàn, các em đã được người hướng dẫn bảo các em ca múa để tặng cho phái đoàn. Nhìn sự hồn nhiên của tuổi thơ, ai cũng phải chạnh lòng. Vì mỗi người trong chúng ta sinh ra đời đã có một hoàn cảnh khác nhau, không ai giống ai cả. Ai đó vì thương trẻ thơ như một vị Phật tử ở Thụy Sĩ đã tặng vào đây 200 frs Thụy Sĩ và nhiều tấm lòng tương ái khác cũng đã thể hiện tại đây để giúp đỡ cho các em, qua sự đóng góp tận tình của mọi người hiện diện.


          Các em nhỏ tụng kinh cho phái đoàn nghe


          Phái đoàn lưu ảnh tại Muditha Children Home

          Chiều ấy, chúng tôi đi vào làng, nơi thầy Seelawansa đã tu học nhiều năm tháng tại đây. Nơi đây vị thầy cũ của thầy Seelawansa, vốn là một học giả tiếng Sankrit cũng đã trú ngụ và Ngài giờ đã ra đi vĩnh viễn, sau bao nhiêu năm tôi chưa trở lại xứ này. Người xưa bây giờ không còn nữa, cho nên những cây mít trong vườn không còn sai quả như ngày xưa khi còn vị Bổn sư của thầy Seelawasa, và đàn cò trắng đã ít bay đậu trên những đọt dừa cao nữa, vì vị Tôn sư đã đi về thế giới tịch diệt rồi. Tuy nhiên, những trái mít ướt, những trái dừa, trái ô mai, trái xoài đã được đoàn hành hương chiếu cố tại chỗ, trong thật là quê hương và dân dã; nhưng chất Phật đã ngự trị tại đây nuôi lớn một con người từ ruộng đồng ra đi, để sau ba bốn mươi năm trở lại vườn xưa, là một trạng nguyên nhưng không có dù lọng che thân để vinh quy bái Tổ. Nhưng là một thực thể của tính Phật. Vì lẽ, trong mỗi con người đều có tính Phật, và chính Phật tính này sẽ dưỡng nuôi chúng ta thành Phật, dầu cho là người trí thức hay những kẻ hạ tiện bình dân. Cho nên sau khi đức Phật thành đạo, Ngài đã nói lên câu nói bất hủ tại Bồ Đề Đạo Tràng rằng: “Kỳ lạ thay! Trong mỗi chúng sanh đều có tính Phật”.


          Cung điện thờ Răng Phật tại Kandy về đêm

          Ngày 9 tháng 7 cũng là một ngày đáng ghi nhớ, phái đoàn chúng tôi gồm 32 người gộp chung lại với 8 người Áo và thầy trò thầy Seelawasa, tổng cộng là 42 người. Tất cả ngồi trên hai chiếc xe bus cũ của Nhật Bản do hai tài xế trẻ Tích Lan lái. Từ Negombo đến Kandy, cố cung của Tích Lan độ gần 200km, nhưng đi từ sáng đến tối vẫn chưa thấy bến bờ, vì xe bị thủng lốp và nghỉ giữa đường tại Kegalla để đi xem sở thú voi. Khi đến khách sạn Queen tại Kandy cũng đã đến giờ hành lễ Xá lợi Răng Phật lúc 18 giờ cùng ngày. Vì có liên hệ trước và có quen biết lớn do thầy Seelawansa hướng dẫn, nên phái đoàn chúng tôi được hướng dẫn lên tận lầu ba, vào tận nơi tháp thờ Răng Phật để đảnh lễ. Đây là một phước đức lớn, một nhân duyên không phải ai cũng được hân hạnh này. Bởi vì có cả hàng ngàn, hàng vạn người, mỗi ngày 3 lần chỉ được hành lễ bên ngoài Bảo tháp thờ Xá lợi Răng Phật mà thôi.
          Trong 32 tướng tốt của đức Phật, có tướng về Răng. Răng Ngài có 40 chiếc đều nhau, trắng mịn… Ngày nay, trên thế gian này chỉ còn hai chiếc Răng Phật Xá lợi, một được thờ ở chùa Linh Quang Trung Quốc, và một đang thờ tại cố cung ở Kandy Tích Lan này. Người ta cung kính chiếc Răng của đức Phật như lúc Phật còn tại thế. Tại Tích Lan này có hai Quốc bảo, đó là Xá lợi Răng của Phật ở Kandy, và cây Bồ đề do công chúa Sanghamita con vua A Dục trồng tại Anuradhapura. Không người Tích Lan nào mà không biết hai biểu tượng Quốc bảo này.



          Phái đoàn tụng thời kinh cầu nguyện tại Thiền đường nơi Cung điện thờ Răng Phật tại Kandy

          Hòa thượng Thích Minh Tâm và phái đoàn rời Kandy vào sáng ngày 10 tháng 7 năm 2011 để trở lại Paris, Pháp quốc; trong khi đó, phái đoàn của chúng tôi lên xe bus để hướng về phía bắc của đảo quốc này để đảnh lễ cây Bồ đề. Trên đường đi, phái đoàn đã ghé vùng Naula để thăm trường học Phật giáo dạy vào cuối tuần và cảnh quan xung quanh chùa. Nơi ấy có những cây sake và những cây mít sai trái, ai cũng trầm trồ, vì đã nặng lòng với cố quốc lâu nay, trong đó có văn hóa ẩm thực. Khi xe dừng bánh tại Dambulla, cũng là lúc trưa nắng, chúng tôi phải leo núi cũng như ghé thăm viện bảo tàng Phật giáo nằm ngay trong tượng đại Phật. Đồng thời để chuẩn bị cho buổi cơm chưa hôm đó, chúng tôi phải dùng thời gian lâu dài hơn để đi thăm những thạch động tại đây, cốt là để đủ thời gian cho việc chuẩn bị gần 40 phần cơm cho đoàn hôm đó.


          Phái đoàn tụng kinh cầu nguyện trong một hang động tại Dambulla

          Trong động có tượng của 27 vị Phật quá khứ và hầu như động nào cũng có tượng Phật nhập niết bàn. Những hang động và những bích họa kỳ vĩ tại Dambulla đã có mặt tại đây hơn 2000 năm lịch sử. Người xưa không có phương tiện bằng ngày nay, nhưng họ đã có một ý chí thật phi thường, nên mới làm nên được đại sự như vậy. Còn người đời nay, phương tiện thật là nhiều, nhưng ý chí lại kém cỏi. Do vậy, làm việc gì cũng ích thành công, vì tất cả đều quay về “Egoismus” (tự kỷ cá nhân) thay vì Bồ tát hạnh, vì người vì đời như các bậc tiền bối đã dầy công gây dựng nên. Do vậy ở trong hang động này, tôi đã nói cho cả đoàn nghe về lời dạy của Ngài Quy Sơn Linh Hựu thiền sư trong Quy Sơn Cảnh Sách rằng: “Người xưa như cây tùng, cây bách. Dầu cho tuyết gió của Đông sang, hay khí hậu mùa hè oai bức, tùng và bách vẫn hiên ngang vươn thẳng lên trời xanh. Đời ngày nay, nếu con người không làm nên cây tùng, cây bách được, thì ít ra cũng làm được dây leo, khi tùng cao đến đâu thì dây leo leo cao đến đó”. Nếu được như vậy, quả là hạnh phúc biết bao.


          Các pho tượng Phật trong các hang động tại Dambulla


          Đại Phật tại hang động Dambulla

          Sáng ngày 11 tháng 7, đoàn chúng tôi đã vào được tận gốc Bồ đề để đảnh lễ và cúng dường và sau đó xuống tầng hai của tháp để tụng một thời kinh Lăng Nghiêm. Trong tiếng chuông mầu nhiệm, như đâu đây công chúa và hoàng tử vẫn còn đứng đó để nhìn ngắm đoàn người và nghe những âm thanh trầm bỗng kỳ lạ đến từ một xứ xa xôi hơn nữa vòng trái đất nhưng vẫn còn nhớ về quê mẹ, họ không quên nguồn gốc tổ tiên và đạo Phật của mình.


          Từ sáng sớm tinh sương, người dân đã hành hương về cội Bồ đề


          Người dân thành kính dâng hoa tại Cội Bồ đề


          Cây Bồ đề do công chúa Sanghamita, con vua A Dục
          mang từ Ấn Độ sang trồng tại Tích Lan trên 2000 năm vẫn xanh tươi tỏa bóng


          Đoàn tụng kinh Lăng Nghiêm tại Cội Bồ đề


          Phái đoàn lưu ảnh dưới cội Bồ đề.

          Sau khi đảnh lễ cây Bồ đề và tụng kinh, phái đoàn chúng tôi ghé sang Đại tháp cạnh đó để đi nhiễu tháp một vòng trong 30 phút và đảnh lễ chư Phật, chư đại Bồ tát, chư Thánh Hiền Tăng, những người đã có công làm cho Phật giáo thịnh hành ở một thế giới xa xôi trong quá trình hành đạo tại đây. Nhìn những tảng đá cũ kỹ được chạm trổ, hay những viên gạch rêu phong cùng năm tháng, chúng tôi đã rõ biết được kỳ công của những nghệ nhân đời xưa mà đời nay quả thật không phải ai cũng có thể thực hiện được. Được biết cách đây chừng hai ngày, tại đây có lễ hội dâng hoa, có gần một triệu Phật tử khắp nơi tại Tích Lan về đây dâng hoa cầu nguyện. Nhìn những người hành hương, với dáng người khẳng khiu, nhưng ý chí và tâm nguyện của họ thật là hùng vĩ, cứng cỏi. Đó chính là tâm nguyện hộ đạo của những người Phật tử này. Để cung kính trước chùa, tháp, và cây Bồ đề, họ bỏ giầy, dép, mũ, nón, dù… từ xa ngoài vườn chùa để đi vào bên trong đảnh lễ, mặc dầu nền là đất cát, chứ không phải nền đúc bằng xi măng như những nơi khác. Khi họ đảnh lễ chư Tăng, họ ngồi xuống chân cao, chân thấp và cúi gộp mình xuống chạm vào bàn chân như lúc Phật còn tại thế. Ở đây từ tổng thống, thủ tướng cho đến quốc dân trăm họ đối với chư Tăng đều như thế, và phong tục này đã có mặt tại quốc gia Sư Tử Hống này cả mấy ngàn năm nay, họ vẫn còn gìn giữ thật là đều đáng trân quý.

          Rời Anuradhapura, phái đoàn chúng tôi hướng đến địa phương Polonnaruwa; nơi đây được công nhận là Di sản văn hóa Thế giới gồm một quần thể kiến trúc đã được các nhà khảo cổ học phát hiện vào thế kỷ 18, 19, trong đó có những Bảo tháp cả hàng ngàn năm. Có chùa Đại thừa Phật giáo 900 năm và đặc biệt có tượng đá lộ thiên với hình ảnh đức Phật nhập niết bàn bên cạnh là hình ảnh hiền hòa buồn bã lộ trên nét mặt của Ngài A Nan đang đứng hầu cạnh đó. Những nghệ nhân khi tạc những tượng này ít nhất cũng tốn cả mấy chục năm mới xong, một tác phẩm vĩ đại và tuyệt diệu như vậy; khiến cho ai đó khi đảnh lễ, chiêm ngưỡng những bức tượng này, đã thể hiện được cái tâm của người tạc tượng của một thời xa xưa ấy.



          Tượng Phật nằm tại Di sản Polonnaruwa

          Sau đó chúng tôi trở về làng xưa, nơi thầy Seelawasa trưởng thành, trước khi thầy trở thành Tăng sĩ của Phật giáo Tích Lan. Với bữa cơm trưa tại gia đình em gái của thầy, đã nói lên tất cả những đạo tình, đạo vị ấy. Nào chuối, nào mít, nào dưa hấu, nào khoai mì…tất cả đều gói trọn những nghĩa tình được gói gém để gửi tặng cho những người con xa xứ. Sau khi ăn xong, lại còn được hái mít, hái xoài để đem về khách sạn nữa. Quả là một tình cảm quê hương chất phát, dịu hiền ít ai tìm được nơi chốn thị thành vốn giàu có về vật chất, mà tình người đã chạy trốn nơi đâu.


          Từ Polonnaruwa đến phi trường quốc tế Colombo chỉ có 215km mà đoàn người đã phải tốn đến 6 tiếng đồng hồ di chuyển. Hai bên đường đi ai nấy cũng đều công nhận là quê hương này sản xuất những trái cây vẫn còn nguyên chất, chẳng pha giống mà cũng chẳng có thuốc làm hại sức khỏe của con người. Nào mít, dưa, chuối, ổi, dừa, cóc, bấp…là những cảm tình gợi nhớ khi đoàn người giã từ nơi đây vào sáng ngày 14 tháng 7 năm 2011 để trở về lại trụ xứ của mình.
          Tôi viết vội lại cuộc hành trình này với tiêu đề: “Đã một lần như thế” tại khách sạn Oasis beach resort ở vùng Negombo vào sáng ngày 12 tháng 7 năm 2011 trong bốn tiếng đồng hồ để ghi lại một chuyện quan trọng đã thoáng qua trong đời mình và trong cuộc hành trình vốn dài vô tận này, chẳng biết “Nhân duyên” gì ta lại đến, lại đi, lại còn, lại mất… tất cả cũng chỉ là con số không to tướng để ta quy về một mối. Đó là “Không” và chơn như bản thể mới là tánh chơn thường.



          Bình yên nơi xứ Tích Lan
          Last edited by viet11; 11-05-2012, 10:18 PM.
          Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
          Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
          ............



          Can't Live Without...hehe...


          Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

          Comment


          • #50
            Ké thêm mấy tấm Bac Mừ 1 ưi, Thx
            [CENTER]

            [/CENTE R]



            Comment


            • #51
              BỐN ĐỘNG TÂM
              Tâm Diệu

              Lời Ban Biên Tập: Một cư sĩ học giả viết trong một quyển sách đã xuất bản, trong đó có lập lại một lời nói của đức Phật không được đúng như trong kinh đã ghi, điều này có thể tạo cho Phật tử hiểu lệch lạc về đạo Phật dẫn tới một đạo Phật mê tín. Họ nói Đức Phật nói rằng: “… Nếu vị thiện tâm nào đến bốn nơi Thánh địa này thành tâm chiêm bái và đảnh lễ sẽ được nhiều phước báu và duyên lành và nếu có vị thiện tâm nào có duyên được trút hơi thở cuối cùng tại một trong những Thánh địa này, chắc chắn người ấy sẽ được tái sanh vào cảnh giới thanh nhàn..” Bài viết dưới đây làm sáng tỏ vấn đề:

              Sau khi nhận bữa cơm cúng dường cuối cùng của cư sĩ Thuần Ðà, đức Phật bị nhiễm bệnh nặng và nói với tôn giả A Nan đi đến thành Câu Thi Na (Kushinagar). Trên đường đi, mặc dầu sức khỏe Ngài yếu, nhưng đức Phật vẫn tiếp tục nói Pháp khi có người đến hỏi.

              Ðến rừng Sa La, Ngài nằm nghỉ trên chiếc võng giữa hai cây sa la song thọ và như một một điềm báo đặc biệt, cây sa la song thọ trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường, rồi chư Thiên thần khắp mười phương thế giới tụ hội về để chiêm ngưỡng Như Lai lần cuối. Ngài nói với A Nan tối hôm nay vào canh cuối cùng, Như Lai sẽ nhập diệt nơi rừng Sa La này.

              Lo ngại sau khi Phật nhập diệt sẽ không còn cơ hội gặp gỡ và học hỏi nơi các vị trưởng lão Tỳ kheo, khi các vị ấy đến bái yết Phật, nên A Nan thỉnh cầu đức Thế Tôn giải tỏa nỗi niềm này.

              Phật dạy:

              "- Này A Nan, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Bốn Thánh tích đó là: Nơi Như Lai đản sanh, Nơi Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nơi Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng, và nơi Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết Bàn."

              Phật nói tiếp:

              "- Này A Nan, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này A Nan, các thiện tín Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Ðây là chỗ Như Lai đản sanh", "Ðây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác", "Ðây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Ðây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết Bàn."

              "- Này A Nan, và những ai, trong khi đi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên."[1]

              Ðó là lời dạy trong những giây phút cuối cùng của đức Phật, Ngài khuyên chúng ta nên đến chiêm ngưỡng bốn Thánh tích với lòng tôn kính và với "tâm thâm tín hoan hỷ". Nếu được như vậy, khi mệnh chung sẽ sanh cõi người hay cõi trời.

              Muốn được như thế, người hành hương, không chỉ đến đó tham quan cảnh trí di tích mà còn phải mang theo hai yếu tố tâm quan trọng là: tâm thâm tín, và tâm hoan hỷ.

              Chắc chắn khi đến bốn nơi này ai ai cũng có tâm vui sướng, hoan hỷ. Còn việc tâm thâm tín, chắc không phải chỉ là tâm thâm tín, khi đứng trước bốn Thánh tích đó, mà phải luôn luôn canh cánh mang theo bên mình, cho đến khi thân hoại mạng chung.

              Thâm tín cái gì? Ðó là tin sâu, tin bền và tin chắc về ba ngôi quý báu Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, vì ba ngôi quý báu này có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi tà kiến, phiền não, khổ đau và ra khỏi sinh tử luân hồi.

              Phật là Giác, là thức tỉnh ra khỏi giấc ngủ mê. Ðức Phật là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi.

              Pháp là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những lời bàn luận của các vị Bồ tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ thêm những lời Phật dạy, những lời dạy mà, nếu chúng ta thực hành sẽ có công năng đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bến bờ giải thoát.

              Tăng là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh, là những người thay Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo.

              Khi đứng trước các Thánh tích, chúng ta có niềm tin chắc chắn về Phật, Pháp, Tăng và giữ vững niềm tin này không đổi cho đến khi mệnh chung, thì chắc chắn chúng ta sẽ được sanh trong cảnh giới Trời người.

              Ðược biết bốn Thánh tích đó là Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Phật đản sanh, hiện nay thuộc Vương quốc Nepal, nằm gần ranh giới với phía Bắc Ấn Ðộ. Thánh tích thứ nhì là Bồ Ðề Ðạo Tràng (Bodh-Gaya), nơi Phật thành đạo, nằm ở phía Bắc Aán Ðộ. Thánh tích thứ ba là Vườn Lộc Uyển (Sarnath), nơi Phật chuyển pháp luân đầu tiên, cách thành phố Ba La Nại (Varanasi) khoảng 7 dặm thuộc miền Trung Bắc Aán Ðộ. Thánh tích thứ tư là Câu Thi Na (Kushinagar), nơi Phật nhập Niết Bàn, cách thành phố Gorakhpur 52 km thuộc miền Ðông Bắc Aán Ðộ.

              Bốn Thánh tích đó còn được gọi là bốn động tâm, bởi vì nếu như chúng ta đến được bốn nơi Thánh tích này thì do tận mắt thấy được các di tích lịch sử đức Phật, thấy được di tích nơi Ngài hiện thân, nơi Ngài thành đạo, nơi Ngài chuyển pháp luân, nơi Ngài Niết Bàn và nơi những dấu chân Ngài đã đi qua, nên lòng tin phát khởi và tăng trưởng, tức rung động tâm thức. Nhờ lòng tin tăng trưởng nên có thái độ quyết chí tu hành, hạ thủ công phu, quyết không làm điều ác, làm tất cả việc lành và nhiếp tâm thanh tịnh và do tiến trình nhân quả, quả báo tươi tốt đơm hoa kết trái, chắc chắn khi mệnh chung sẽ sanh cõi người hay cõi Trời, hưởng phước báu lâu dài.

              Ðiều quan trọng là phải động tâm, tức lòng tin phát khởi nếu chưa có lòng tin, và tăng trưởng lòng tin nếu đã có lòng tin, còn nếu đến mà tâm thức không mảy may rung động, và không nỗ lực tu hành sau đó, thì cũng giống như những người dân Ấn Ðộ hay Nepal thấy bốn Thánh tích này hàng ngày, thử hỏi họ có hưởng phước báu không, có sanh cõi trời khi lâm chung không hay những người có nhiều tiền của, có phước báu đi Ấn Ðộ nhiều lần, đến nơi có thể có động tâm nhưng rồi khi trở về theo thời gian lòng tin nguội dần, không nỗ lực tu tập, không quyết chí tu hành, thì theo tiến trình nhân quả sẽ ra sao? kiếp sau có được hưởng nhiều hay bị bớt phước báu không?

              Còn như những ai đã đã tin sâu xa, tin chắc chắn và tin bền bỉ vào Tam Bảo, vào chân tâm Phật tánh, và vào nhân quả luân hồi, thì nếu có điều kiện đi chiêm ngưỡng bốn Thánh tích này thì càng tốt, hãy nên đi, tuy nhiên đi để biết, để thấy, để tưởng nhớ Phật, để tri ân Ngài hơn là mang ý nghĩa cầu phước báu. Còn nếu nói rằng nếu đến tứ động tâm để nhờ Phật ban phước thì không đúng với nhân quả. Vấn đề là tăng tín tâm rồi đắc lực tu hành. Trong những lời dạy của Ngài, không có lời nào Ngài nói là đến đó để cầu phước báu.

              Tâm Diệu

              Cước Chú:

              Trong ba bản dịch, chúng tôi chọn bản dịch Kinh Ðại Bát Niết Bàn trong Kinh Trường Bộ Tập 1, hệ Pali do Hòa Thượng Minh Châu dịch làm tài liệu chủ yếu, vì chỉ có bản này mới có nhóm từ "tâm thâm tín hoan hỉ" nơi đoạn cuối của đoạn thứ 8 mục thứ V (trang 644). Hai bản dịch kia từ Hán tạng, không có nhóm từ này mà thay thế bằng nhóm từ "kính lễ, xây dựng chùa tháp" (Kinh Trường A Hàm, Viện Cao Ðẳng Phật Học Huệ Nghiêm dịch, trang 204 ), "kinh hành kính lễ, dựng chùa tháp cúng dường" (Kinh Trường A Hàm, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch, trang 110).

              Tham Chiếu:
              [1]-Kinh Trường Bộ, Tập 1, Kinh Ðại Bát Niết Bàn, (Hệ Pali), Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 643-644.
              [2]-Kinh Trường A Hàm, Tập 1, Kinh Du Hành, (Hệ Sanscrit), Việt dịch:Viện Cao Ðẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 203-204.
              [3]-Kinh Trường A Hàm, Quyển 4, kinh Du Hành, Việt dịch: HT. Thích Thiện Siêu, Phật Học Viện quốc Tế xuất bản 1986, trang 110-111.
              [4] Ấn bản Anh ngữ tại http://world.std.com/~metta/canon/digha/dn16.html (Part Five, "Four Places of Pilgrimage")



              Bồ đề Đạo tràng, nơi Đức Phật giác ngộ. (Bodhgaya)


              Lâm Tì Ni, nơi Đức Phật đản sinh. (Lumbini)


              Vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật giảng pháp lần đầu. (Sarnath - TP. Varanasi) (Ảnh: Bình Anson)


              Bên trong đền là tượng Phật nhập diệt, nằm nghiêng bên phải, đầu về hướng bắc.
              Tượng được đặt trên một bệ đá, mặt trước có khắc chữ đánh dấu vào thế kỉ thứ năm sau công nguyên.
              Tượng vốn bằng đồng, nhưng người hành hương lần lượt thếp vàng lên trên


              Câu Thi Na, nơi Đức Phật niết bàn. (Kushinagar) (Ành: Bình Anson)

              Các thánh tích:
              · Lumbini (Lâm-tì-ni) - Nơi đản sinh
              · Bodh Gaya (Bồ-đề Đạo tràng) - Nơi thành đạo
              · Sarnath (Lộc uyển) - Nơi chuyển pháp luân
              · Kusinara (Câu-thi-na) - Nơi bát-niết-bàn

              · Kapilavatthu (Ca-tì-la-vệ) - Quê hương của Ngài
              · Sankassa - Nơi Ngài từ cung trời Đa-lợi trở về dạy A-tỳ-đàm cho ngài Xá-lợi-phất
              · Rajgir/Rajagaha (Vương xá) - Kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha)
              · Gijjakuta (Linh thứu) - Nơi Ngài thường giảng đạo trong những năm đầu tiên.
              · Veluvana (Trúc lâm) - Tinh xá do vua Bình-sa (Bimbisara) dâng cúng.
              · Kosambi (Câu-diệm-bi) - Nơi Ngài giảng pháp lục hòa kính.
              · Savathi (Xá-vệ) - Tinh xá Kỳ Viên, nơi Ngài ngự trong 20 năm cuối.
              · Vesali (Vệ-xá-ly) - Kinh đô của bộ tộc Licchavi. Nơi thành lập Ni đoàn, do bà Kiều-đàm-di lãnh đạo.
              · Varanasi (Ba-na-lại) - Kinh đô của bộ tộc Kasị Thành phố lớn bên bờ sông Hặng
              · Mathura - Trung tâm văn hóa điêu khắc.
              · Indapatta - Kinh đô của bộ tộc Kuru, nơi Ngài giảng kinh Niệm xứ.
              Last edited by viet11; 17-05-2012, 02:19 PM.
              Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
              Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
              ............



              Can't Live Without...hehe...


              Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

              Comment


              • #52
                Núi Linh Thứu



                (Đỉnh Linh Thứu—Ngay trước khi tới hương thất của Đức Phật)

                Núi Linh Thứu là một trong những ngọn núi cao bao bọc chung quanh thành Vương Xá. Linh Thứu là nơi Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bộ kinh quan trọng trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong truyền thuyết Phật giáo, như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã... Trước khi tới đỉnh Linh Thứu, sư Minh Thành hướng dẫn đoàn tới thăm hang đá làm hương thất của ngài A Nan và Xá Lợi Phất. Ngay sau khi qua cầu Linh Sơn, bên phải có một động đá nhỏ. Chính nơi này ngài A Nan đã thường ngồi tu tập thiền định, và phía sau động hãy còn một đường nứt lớn chạy dài từ hương thất của Đức Phật, theo truyền thuyết thì đó chính là chỗ Đức Phật đã dùng thần lực đưa tay từ phòng mình xuống đặt trên đầu ngài A Nan để trấn an ngài. Đi theo một đỗi nữa là động của ngài Xá Lợi Phất. Hang này có một mỏm đá nhô ra như hình của đầu một con rắn, chính nơi đây ngài Xá Lợi Phất thường trú ngụ để thiền định và quản chúng. Từ động của ngài Xá Lợi Phất đi theo con đường ngoằn ngoèo với những nấc thang, tới một mỏm đá hình con chim mỏ nhọn, mặt ngước lên. Có lẽ vì hình dạng này mà núi có tên là “Linh Thứu.”


                (Phế tích nền hương thất của Đức Phật trên đỉnh núi Linh Thứu)


                (Hòa Thượng Thích Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn tụng kinh
                cầu an tại hương thất của Đức Phật trên đỉnh Linh Thứu)

                Đi lên tới đỉnh là hương thất của Đức Phật. Hiện tại hương thất của Đức Phật chỉ còn trơ lại một nền gạch, chứ không còn tôn tượng hay bệ thờ gì cả. Gọi là hương thất vì chính nơi đây hương thơm trí tuệ của Đức Thế Tôn đã tỏa ra ngào ngạt bay đi cùng nơi khắp chốn. Hương thất này được xây trên một tảng đá lớn trên đỉnh núi. Về phía Đông Bắc của hương thất là một dòng suối, ngày nay không còn nước nữa, nhưng theo truyền thuyết Phật giáo thì đây là một con suối có nước trong và mát, thời đó vào mùa hạ Đức Phật thường hay tắm giặt tại con suối này. Từ trên đỉnh này chúng ta có thể nhìn thấy bên dưới thành Vương Xá cũng như những ruộng lúa đại mạch quanh vùng. Hòa Thượng Pháp Chủ đã nhắn nhủ Phật tử trong nỗi xúc động mãnh liệt: “Trên 25 thế kỷ về trước, Đức Phật đã từng đến đỉnh núi này để thuyết những bài pháp quan trọng như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm và Niết Bàn đã làm thay đổi cả vũ trụ nhân sinh.” Sau đó Hòa Thượng hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh cầu an. Tại đây ngài Pháp Hiển cũng ghi lại trong Tây Vực Ký rằng khi ngài lên đến đỉnh Linh Thứu, ngài cảm thấy vô cùng đau xót vì tủi cho thân phận mình không gặp mặt Đức Thế Tôn, nhớ đến ân đức của Đức Phật nên ngài đã tụng một thời kinh Lăng Nghiêm, trong khi ngài Huyền Trang đến đây đã tụng hết một bộ kinh Pháp Hoa. Còn đoàn chúng tôi chỉ tụng được có một thời kinh cầu an và hòa bình thế giới. Đúng là sanh ra vào thời mạt pháp, phước mỏng, nghiệp nặng nên không có đủ duyên đủ phước như những bậc thầy đi trước.

                Theo truyền thống Phật giáo thì cũng chính tại nơi đây trong một pháp hội, ngài Ca Diếp đã nhận sự truyền thừa từ Đức Phật. Theo truyền thuyết Phật giáo thì trong chúng hội này, Đức Phật đã không thuyết một lời nào mà chỉ đưa lên một cành hoa. Cả chúng hội đều ngơ ngác nhìn nhau, duy chỉ có Ngài Ca Diếp nhìn Phật mỉm cười. Cái cười của một người đại đệ tử giác ngộ. Từ đó ngài Đại Ca Diếp được Phật trao truyền nối tiếp dòng truyền thừa Chánh Pháp. Chúng ta sanh ra vào thời không có Phật, nên chỉ biết đến đây thành kính đảnh lễ các thánh tích một thời đã ghi lại dấu vết của Ngài.”Bên này đỉnh Linh Thứu chúng ta có thể nhìn thấy tháp Hòa Bình bên kia, cũng như toàn cảnh của thành Vương Xá bên dưới. Sau đó vào buổi trưa, đoàn xuống núi để tiếp tục thăm viếng Trúc Lâm Tịnh Xá. Gần tới chân núi Linh Thứu, sư Minh Thành chỉ cho đoàn tảng đá Mardukushi, mà theo truyền thuyết Phật giáo, thì chính Đề Bà Đạt Đa đã lăn nó từ trên núi cao xuống để hãm hại Đức Phật.

                Trên đường đi đến núi Linh Thứu, phía bên trái hãy còn lại phế tích của những bức tường. Theo truyền thuyết thì đây là khu vườn xoài của một danh y thời Đức Phật, tên Kỳ Bà, đã từng là ngự y của vua Tần Bà Sa La và A Xà Thế. Ông đã theo gương vua Tần Bà Sa La, cúng khu vườn xoài của mình cho Đức Phật, và Đức Phật cũng đã nhiều lần ghé lại nơi này.

                Tưởng cũng nên nhắc lại một chút về vua Tần Bà Sa La. Tần Ba Sa La là một vị quân vương Phật tử rất ngoan đạo, ngài đã thường xuyên viếng thăm, đảnh lễ và cúng dường phẩm vật lên Đức Phật và Tăng đoàn. Ngoài ra, nhà vua cũng trì giữ bát quan trai giới rất nghiêm nhặt. Việc vua Tần Bà Sa La quy-y Phật đã khiến cho rất nhiều người trong hoàng tộc thời đó quyết định quy-y theo. Người gần gũi ông nhất là hoàng hậu Vi Đề Hy, em ruột vua Ba Tư Nặc, cũng quy-y với Phật. Mặc dù ở ngai vị hoàng đế của một nước lớn, lúc nào vua Tần Bà Sa La cũng kính ngưỡng Đức Phật không sai khác. Mỗi lần lên núi Linh Thứu thăm Phật, khi lên gần đến hương thất của Đức Phật, nhà vua ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng lại, chỉ một mình mình đích thân lên đảnh lễ Phật. Để tiện việc đi lại cho Đức Phật trên núi Linh Thứu, nhà vua đã cho làm một con đường từ dưới chân lên đến đỉnh Linh Thứu. Con đường này ngày nay hãy còn và đã được người Nhật tu sữa lại rất thuận tiện. Con đường nguyên thủy rộng chứng 1.5 mét, toàn bộ chiều dài khoảng 1.5 cây số. Bên dưới chân núi có một tảng đá mà theo truyền thuyết chính là nơi Đề Bà Đạt Đa đã lăn đá hại Phật. Lưng chừng triền núi có một tấm bảng ghi lại sự kiện vua Tần Bà Sa La xuống kiệu, đi bộ lên đỉnh đảnh lễ Đức Phật. Tấm bảng thứ hai đánh dấu chỗ vua Tần Bà Sa La bỏ lại đoàn tùy tùng, một mình vào đảnh lễ Đức Phật. Tuy nhiên, vì nghiệp báo tiền khiên mà về sau này nhà vua bị chính đông cung thái tử A Xà Thế hạ ngục cho đến chết. Về sau này, khi Đức Phật đã nhập diệt, thì chính A Xà Thế cũng quay về với đạo Phật và trở thành một quân vương Phật tử tích cực yểm trợ cho 500 vị A La Hán trong lần kết tập kinh điển lần đầu tiên trong động Thất Diệp, tại thành Vương Xá.


                Những Hình Ảnh Khác Tại Núi Kỳ Xà Quật-Linh Thứu Sơn



                (Đường lên Tháp Hòa Bình trên núi Kỳ Xà Quật)


                (Cable lên núi Kỳ Xà Quật-Linh Thứu)


                (Từ trên cable nhìn xuống dưới khu thung lũng Kỳ Xà Quật)


                (HT hướng dẫn đoàn đi nhiễu tháp Hòa Bình)


                (Đoàn chuẩn bị tụng kinh cầu an-tháp Hòa Bình-Kỳ Xà Quật)


                (Từ bên đỉnh Kỳ Xà Quật ngó qua núi Linh Thứu)


                (HT Thích Giác Nhiên và Thiện Tâm đang đi qua Linh Thứu)


                (Thiền thất của ngài Xá Lợi Phất-Linh Thứu)


                (Thiền thất của ngài A Nan-Linh Thứu Sơn)


                (Nền nhà tưởng niệm Ngài Huyền Trang trên núi Linh Thứu)


                (Bảng ghi chỗ Đề Bà Đạt Đa lăn đá hại Phật-Linh Thứu)

                Trúc Lâm Tịnh Xá


                (Cổng Tịnh Xá Trúc Lâm-Thành Vương Xá)

                Sau đó đoàn đến Trúc Lâm Tịnh Xá (Venuvana or Bamboo Grove) vào giữa trưa, nên Hòa Thượng cho phép đoàn dùng cơm trưa trước khi thăm viếng Tịnh Xá để hồi tưởng lại không khí sinh hoạt của Tăng đoàn thời xa xưa. Ngày đó, khi Đức Phật du hành từ Bồ Đề Đạo Tràng đến thành Vương Xá (Rajagaha), được vua Bình Sa Vương (Bimbisara) và thần dân nghênh tiếp một cách hoan hỷ.


                (Quang cảnh bên trong khu phế tích của Trúc Lâm Tịnh Xá năm 2005)

                Sau khi quy-y Tam Bảo và nghe lời tuyên thuyết của Đức Phật, vua Bình Sa Vương chứng Thánh quả và cảm thấy an lạc tuyệt đối. Sau khi cúng dường Trai Tăng tại hoàng cung, vua thỉnh ý của Đức Phật muốn biết nơi nào yên tịnh thích hợp cho Đức Phật và Tăng đoàn. Đức Phật trả lời rằng “Nơi thích hợp cho Như Lai và Tăng đoàn là một nơi vắng vẻ, không xa mà cũng không gần thành thị, để cho ai muốn, có thể đến một cách dễ dàng. Một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảo ồn ào, ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp.” Nghe xong, vua liền nghĩ ngay đến khu “Trúc Lâm”, tức là khu rừng trúc dùng làm vườn thượng uyển của ngài. Chỉ có khu này mới hội đủ điều kiện và thích hợp cho Đức Phật mà thôi. Vua bèn bạch với Đức Phật để xin dâng cúng ngôi Vườn Thượng Uyển đến Đức Phật và chư Tăng. Đây là một khu vườn rộng với thật nhiều khóm trúc xanh um, tuy không xa đô thị nhưng lại mang vẻ thanh u và tịch liêu của một vùng thôn dã với bóng mát thường xuyên của những khóm trúc. Đây cũng là khu an toàn của loài sóc. Đức Phật và Tăng đoàn đã trải qua ba mùa an cư kiết hạ tại khu vườn này (từ hạ thứ nhì đến hạ thứ tư). Khi Phật giáo bị mai một tại Ấn Độ thì khu Trúc Lâm trở thành một khu rừng hoang dại. Về sau này, khi các nhà khảo cổ đã xác định được rõ ràng vị trí của khu Trúc Lâm thì chánh phủ Ấn Độ một mặt phân khu tiếp tục khai quật, mặt khác cho phục hoạt khu Tịnh Xá Trúc Lâm cũng như những Thánh tích khác trong thành Vương Xá. Dù bóng thời gian đã trôi qua trên 25 thế kỷ, ngày nay những bụi trúc ở đây vẫn còn xanh um, hồ nước vẫn trong trẻo như ngày nào, nhưng bóng dáng Đấng Cha Lành chỉ còn lại trong tâm tưởng của những người con Phật mà thôi. Đây là khu tịnh xá đầu tiên được dựng lên cho Đức Phật và Tăng đoàn. Giữa khu tịnh xá là một cái hồ hình chữ nhật thật to, bốn phía đều được xây bằng gạch, theo truyền thuyết thì hồ này do ông Karanda dâng cúng trong việc xây dựng để cho Phật và chư Tăng tắm giặt. Ngày nay nước trong hồ vẫn còn khá nhiều. Bên cạnh hồ nước có một pho tượng Phật đứng trong một ngôi tháp do chánh phủ Ấn mới xây lên sau này để tưởng niệm nơi Đức Phật thường đi kinh hành quanh hồ. Hiện trong khuôn viên của Tịnh xá hãy còn lưu lại những nền gạch và ngôi tháp thờ xá lợi Phật do vua A Xà Thế xây dựng. Cạnh hồ nước hãy còn một cây Bồ Đề thật to mà theo truyền thuyết do chính ngài A Nan trồng, để mỗi khi nhìn cội cây là nhớ đến Đức Phật.


                (Phế tích trường Đại Học Na-Lan-Đà -Ruins of Nalanda University )

                Khoảng 2:00 giờ chiều, đoàn rời Tịnh Xá Trúc Lâm để lên đường đi thăm di tích Tu Viện Na Lan Đà (Nalanda Buddhist University) cũng như trường đại học Na Lan Đà hiện tại. Na Lan Đà nằm trong vùng ngoại ô của thành Vương Xá ngày xưa. Na Lan Đà là một di tích quan trọng trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Ấn Độ nói riêng và trên toàn thế giới nói chung vì đây là trường Đại Học Phật giáo đầu tiên trên thế giới. Vùng Na Lan Đà khi xưa là nguyên quán của hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên (hai trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật).


                (Chánh Điện trong Tu Viện Nalanda—Main Temple)

                Na Lan Đà rộng trên 14 mẫu đất, là một trong những trường đại học lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ, mặc dù không có tài liệu nào minh xác được niên đại thành lập, nhưng theo lịch sử Phật giáo thì chính ngài Long Thọ đã từng tòng học rồi sau đó làm Viện trưởng tại đây, như vậy có lẽ Na Lan Đà được khởi xây từ trước thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch, sau đó được phát triển rộng lớn vào thế kỷ thứ 5 dưới triều đại Gupta, và đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ thứ 9. Mặc dù khu Na Lan Đà không có giá trị lịch sử thời Đức Phật còn tại thế hay không liên quan gì đến cuộc đời của Đức Phật, dù thời đó Na Lan Đà đã hiện hữu, nhưng nó chính là nơi đã sản sanh ra rất nhiều danh Tăng Phật giáo như các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... Rồi về sau này, nó trở thành một viện đại học nổi tiếng đầu tiên của Phật giáo, chính nơi đây đã đào tạo ra rất nhiều nhà tư tưởng Phật giáo nổi tiếng khác như các ngài Long Thọ, Mã Minh, Vô Trước, Thế Thân, Sằn Đề Đề Bà, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... Thời ngài Huyền Trang theo học tại đây thì ngài Giới Hiền (Silabhadra) đang làm Viện Trưởng. Khu tu viện Na Lan Đà, nằm ở ngoại vi của thành Vương Xá. Từ khi thành lập vào thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch, đến khi đi vào quên lãng vào thế kỷ thứ 12, có rất nhiều vua quan tại xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) và Kiều Tất La (Kosala), đã đến đây chiêm bái và dựng tháp kỷ niệm. Vì toàn khu Na Lan Đà rất lớn nên từ ngoài cổng đi vào những khu phế tích cũng rất xa. Ngày nay chánh phủ Ấn Độ đã cho sửa sang lại con đường từ ngoài đi vào hẳn hòi nên dù xa nhưng việc đi lại không mấy vất vả. Bên trong khu phế tích Na Lan Đà hiện còn một nền tháp rất lớn, chung quanh có rất nhiều ngôi tháp nhỏ, tất cả đều bị thời gian và con người tàn phá, nên nay chỉ còn trơ lại những nền đá, những đống gạch vỡ vụn, hay những bờ tường màu nâu cũ kỹ. Theo lịch sử Phật giáo và theo ký sự Tây Du của ngài Huyền Trang, thì đây chính là nền của ngôi tháp bảy tầng, bên trên có một tôn tượng Phật rất lớn. Trong khi bốn ngôi tháp nhỏ ở bốn góc hãy còn tương đối tốt. Những bức tượng Phật và các vị Bồ Tát chạm quanh các tháp vẫn còn rõ nét. Phía Đông của chánh tháp, nghĩa là phía bên trái của con đường vào tháp là hai kiến trúc nhỏ, có lan can chạy chung quanh, đây là những kiến trúc được xây trên các nền phế tháp cũ. Bên trong là phòng kín, chứa các quý vật của tu viện, mái được chống đỡ bởi những trụ đá. Bên phía Tăng xá chính, theo ngài Huyền Trang trong Tây Vực Ký thì có chín tầng, trong khi các Tăng xá phụ chỉ có vài ba tầng mà thôi. Mỗi Tăng xá đều có hành lang chia cách. Trường đại học Na Lan Đà thời này rất nổi tiếng về cả học tập lẫn tu hành, Tăng sĩ muốn vào đây tòng học phải trải qua những cuộc thi vô cùng gay go, vì thế mà các tăng sĩ suốt từ Bắc chí Nam Ấn Độ đều ao ước được đến tòng học tại đây, như ngài Long Thọ (Nagarjuna) ở tận miền Nam Ấn xa xôi, cũng tìm lên đây học và đã trở thành một danh Tăng, một Bồ tát, một nhà triết học Phật giáo nổi tiếng thế giới. Theo chân ngài Long Thọ là các ngài Đề Bà (Arya Deva), Nguyệt Xứng (Chandrakirti), Sằn Đề Đề Bà (Shantideva), Vô trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu), Trần Na (Dignaga), Pháp Hộ (Dharmapala), Giới Hiền (Shilabhadra), Pháp Xứng (Dharmakirti). Ngay cả những Tăng sĩ Trung Quốc cũng mong mỏi được đến đây tu học. Khu di tích Na Lan Đà hiện chỉ còn lại một khu đất rộng với những nền gạch, những phế tích của một thời hoàng kim của Phật giáo. Trong khu phế tích, rõ nét nhất là khu tháp thờ Ngài Xá Lợi Phất. Tại đây, Hòa Thượng đã hướng dẫn đoàn tụng kinh cầu an cũng như cầu nguyện để tưởng nhớ đến các vị Thánh đệ tử đã một thời lưu trú tại đây như các ngài Thế Thân, Vô Trước, Huyền Trang...


                (Bia tưởng niệm trong khu phế tích Na Lan Đà)

                Chính tại nơi này ngài Huyền Trang đã thu thập kiến thức tam tạng kinh điển cũng như học thuyết của các trường phái thời bấy giờ và lưu lại cho chúng ta ngày hôm nay. Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang là một chứng tích xác thực về tu viện Na Lan Đà trước khi nó bị quân Hồi giáo tàn phá vào thế kỷ thứ 12. Tuy nhiên, bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 trở đi Na Lan Đà bắt đầu đi vào quên lãng, có lẽ vì hoàn cảnh chính trị xáo trộn tại Ấn Độ thời đó, phần khác vì sự trỗi dậy một cách mạnh mẽ của Ấn Độ giáo, rồi đến sự tàn phá của đạo quân Hồi giáo. Thế kỷ thứ 12 là một trang sử bi thảm nhất của Phật giáo khi máu của trên mười ngàn chư Tăng đã loang đổ khắp tu viện, và cũng kể từ đó Na Lan Đà đã đi vào quên lãng. Theo truyền thuyết thì cái chết của những vị tăng sĩ trong tu viện này rất bi thảm. Quân Hồi đã đưa ra hai điều kiện: một là chết, hai là chấp nhận cuốn kinh Koran. Nhưng hàng chục ngàn Tăng sĩ đã ngồi yên bất động, chấp nhận cho mình một cái chết rất bi tráng “tử vì đạo.” Không biết màu huyết dụ của những nền gạch có phải là màu gạch nguyên thủy hay là màu máu nhuộm trên gạch của các Thánh Tăng tử vì đạo pháp? Theo truyền thuyết Phật giáo, và cũng theo truyền thuyết của dân chúng tại địa phương phụ cận Na Lan Đà, khi quân đội Hồi giáo vào đánh phá nơi đây, họ đã chiếm toàn bộ kho lương thực, giết toàn bộ Tăng sĩ, rồi sau đó họ đốt toàn bộ “tàng kinh các” của trường đại học này, máu chảy thành suối, và tàng kinh các đã cháy trên ba tháng trời. Lửa đã soi sáng cả một vùng trời, cả ngày lẫn đêm. Nhìn những phế tích hoang tàn với những nền gạch đổ nát, lòng tôi bỗng chùng xuống khi chạnh lòng nghĩ đến một thời vàng son của Phật giáo trên xứ sở này.

                Ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Từ thành Vương Xá đi về phía Bắc độ 30 lý là Tăng già lam Na Lan Đà. Theo truyền thuyết thì về phía Nam của tu viện này là một cái hồ nước. Nơi đó có một con rồng tên Na Lan Đà. Người ta đã xây một ngôi chùa bên bờ hồ và lấy tên con rồng đặt cho tên của tự viện. Nhưng thật ra thời Đức Như Lai còn là một vị Bồ Tát, Ngài đã từng làm vua trong một quốc gia lớn, thủ đô của quốc gia ấy là Na Lan Đà. Chỗ này ngày xưa là một vườn xoài, mà 500 vị thương gia đã mua đến mười triệu tiền vàng để cúng lên Bồ Tát. Sau khi Bồ Tát nhập diệt, một vị vua thời xa xưa của nơi này tên là Sakraditya đã cho xây dựng một ngôi già lam. Tuy nhiên, sau khi khởi công, ông đã vô tình làm bị thương một con rắn chúa. Lúc đó một nhà tiên tri Ni Kiền tử đã tiên đoán rằng 1.000 năm sau đó, nơi này sẽ là một địa điểm phát triển cùng cực. Những hàng Tăng sinh tại đây sẽ thành đạt vẻ vang, tuy nhiên, vì lời thề của con rắn chúa mà máu của nhiều người sẽ đổ ra tại đây.” Theo ký sự của Ngài Huyền Trang thì Na Lan Đà đã có tầm quan trọng ngay từ trước và ngay sau thời Đức Phật. Tuy nhiên, sau khi Vương Xá không còn là thủ đô của xứ Ma Kiệt Đà nữa thì Na Lan Đà đã từ từ đi vào quên lãng. Rồi đến thế kỷ thứ 12 thì lời tiên tri ấy đã xảy ra y như những gì đã xảy ra cho tu viện Na Lan Đà về sau này. Theo truyền thuyết Phật giáo thì vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, khi chưa có ngôi trường đại học Na Lan Đà, vua A Dục đã về đây và cho xây dựng một ngôi chùa và ngôi đền thờ ngài Xá Lợi Phất. Nhưng cho đến ngày nay, chưa có chứng tích nào xác nhận tu viện Na Lan Đà có trước thời đại Gupta, tức là vào thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Nhưng trở về lịch sử Phật giáo thì ngài Long Thọ có liên hệ tới tu viện Na Lan Đà lại sanh ra vào thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, như vậy có lẽ vào thời của ngài Long Thọ, Na Lan Đà đã có nhưng chưa được xây dựng và phát triển một cách quy mô như về sau thế kỷ thứ 5. Lúc ngài Huyền Trang đến Na Lan Đà thì ngài Giới Hiền đang làm viện trưởng. Khi đó thì Na Lan Đà đã là một viện đại học lớn vào bậc nhất Ấn Độ thời đó. Vào thời Gupta, khoảng thế kỷ thứ 5 thì trọng tâm của Na Lan Đà là giáo lý Trung Quán của ngài Long Thọ, nhưng đến thế kỷ thứ 8 thì Na Lan Đà lại chú trọng về Mật giáo nhiều hơn vì vị viện trường thời đó là ngài Abhayakaragupta, cũng là viện trưởng của chùa Vikramashila. Đến thế kỷ thứ 11, Naropa, sơ tổ của trường phái Karmapa bên Tây Tạng cũng là viện trưởng tu viện Na Lan Đà. Nói tóm lại, trước thế kỷ thứ 12, Na Lan Đà gắn liền với sự hưng thịnh của Phật giáo, nên đến thế kỷ thứ 13, sự triệt tiêu Na Lan Đà của đạo quân Hồi giáo đã đồng thời đưa đến sự biến mất của Phật giáo trên xứ sở này, mà người cầm đầu cuộc tàn sát này chính là vị vua Hồi giáo ở vùng Trung Đông tên Mohammed Bakhtiyar Khilzi. Ngày nay, tuy đã hoang tàn đổ nát, nhưng phế tích Na Lan Đà trông thật bi tráng và hùng vĩ, vì nơi đây còn lưu lại nhiều nhất những nền tháp hay những nền gạch vụn trong một khu đất trên 14 mẫu tây này. Ôi! Còn đâu nữa thời hoàng kim của Phật giáo ngay trên cái nôi đã sản sanh ra nó! Hiện nay người ta xây dựng một vòng rào chắc chắn để bảo vệ cho khu phế tích quan trọng này. Bước vào bên trong, ngay giữa đường là một tấm bảng lớn, ghi rõ khu khảo cổ Na Lan Đà. Một con đường rải đá rất tươm tất, hai bên trồng những hàng cây xanh mát. Bên trong là những nền phế tháp, dù nay chỉ còn là một đống gạch vụn, nhưng vẫn còn phảng phất nét uy nghi đồ xộ một thời. Nền gạch của ngôi phế tháp cao nhất còn lại tại đây cao khoảng 20 mét.

                Sau khi thăm viếng phế tích Na Lan Đà, một số anh em trong đoàn chúng tôi vội vã đi ra cổng và ghé tạt qua thăm trường Đại Học Na Lan Đà mới, được xây dựng vào năm 1948, cách khu phế tích Na Lan Đà không xa lắm. Trường Đại Học Na Lan Đà phân cách với khu phế tích Na Lan Đà bởi hồ sen Indra. Kỳ thật đây chỉ là một viện nghiên cứu ngữ học Pali và Phật học cho các sinh viên từ khắp nơi trên thế giới. Tuy trường không có quy mô lớn như tu viện Na Lan Đà cũ, ngược lại nó chỉ được dựng lên cho có hình thức và mang tên cũ của tu viện Na Lan Đà mà thôi, nhưng chính nơi đây đã đào tạo ra một số danh Tăng Việt Nam thời cận đại như các ngài Minh Châu, Huyền Vi, Thiện Châu, vân vân.


                Những Hình Ảnh Khác Tại Khu Tu Viện Na Lan Đà


                (Đường vào khu phế tích Na Lan Đà)


                (Bên trong khuôn viên phế tích Na Lan Đà)


                (Ngôi tháp lớn trong phế tích Na Lan Đà)


                (Khu tháp bị tàn phá trong Na Lan Đà)


                (Những nền tháp trong khu Na Lan Đà)


                (Khu Tịnh Xá Na Lan Đà)


                (Phế tháp lớn còn lại trong khu Na Lan Đà)

                Nhà Tưởng Niệm Ngài Huyền Trang


                Trên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng, đoàn ghé lại thăm Nhà tưởng niệm Ngài Huyền Trang (Hsuan-Tsang’s Memorial House). Cách khu Na Lan Đà cũ khoảng một cây số, người Trung Hoa đã cho xây lên một ngôi đền để tưởng niệm ngài Huyền Trang, với một đại sảnh có kiến trúc theo kiểu Trung Hoa. Tuy nhiên, vì không ai chăm sóc, nên nơi đây cũng trở nên điêu tàn hoang vắng.

                Nhà Ngục Giam Vua Bình Sa Vương


                (Phế tích ngục giam vua Bình Sa Vương)

                Sau đó chúng tôi ghé lại thăm phế tích Nhà Ngục nơi A Xà Thế giam vua Bình Sa Vương (Bimbisara’s Jail in Rajgir). Hiện nơi này chỉ còn lại một nền cỏ và một vòng tường thấp bằng gạch mà thôi. Trong lịch sử Phật giáo, ai cũng biết Bình Sa Vương, sau khi quy-y với Đức Phật đã trở thành vị quân vương Phật tử gương mẫu. Dầu vậy, ông cũng không tránh khỏi nghiệp lực tiền khiên vã vay tạo trong quá khứ, nên về sau này ông đã bị chính con mình là A Xà Thế hạ ngục cho đến chết. A Xà Thế bị Đề Bà Đạt Đa xúi giục âm mưu sát hại vua cha để chiếm ngôi, nhưng âm mưu bại lộ, A Xà Thế bị bắt quả tang. Thế nhưng vì lòng độ lượng, thương con mà vua Bình Sa Vương đã không nỡ xử phạt con mình theo quân pháp. Chẳng những vậy, nhà vua còn nhường ngôi lại cho con, vì thấy con mình đang thèm khát ngai vị. Trớ trêu thay, chẳng những A Xà Thế không chút ăn năn hối cải, mà ngược lại, vì sợ vua cha có thể lấy lại ngôi báu nên A Xà Thế quyết định hạ ngục cha mình. Không ai được quyến lui tới thăm viếng, ngoại trừ hoàng thái hậu. Sau nhiều lần bắt gặp chính hoàng thái hậu là người đã tiếp tế lương thực cho vua cha, nên A Xà Thế cấm luôn, không cho mẹ mình vào thăm cha. Thế nhưng vua Bình Sa Vương vẫn an nhiên tự tại.


                (Nền ngục nơi A Xà Thế giam vua cha Bình Sa Vương trong
                thành Vương Xá—Bimbisara’s Jail in Rajgir)

                Vì lo cho chiếc ngai vàng nên A Xà Thế không muốn thấy cha mình tồn tại, sau đó ông sai người đến ngục hạ sát chính cha ruột của mình. Ngày vua cha bị hạ sát cũng là ngày đứa con đầu lòng của A Xà Thế chào đời, và cũng chính ngày đó A Xà Thế được nghe hoàng mẫu kể cho nghe về lòng thương con của vua cha. A Xà Thế hối hận đích thân cấp tốc chạy đến nhà giam, mong người mà mình sai đi chưa kịp đến để giết cha, vừa đi miệng ông vừa kêu la thật lớn: “Hãy lập tức thả ra người cha yêu quý của trẫm!” Nhưng khi đến nơi, thì cha ông đã chết một cách thảm thiết. Từ đó về sau này, A Xà Thế hối hận cực độ và tìm đến quy-y với Đức Phật và Tăng đoàn. Ông cũng trở thành một quân vương Phật tử và hết lòng hộ trì Tam Bảo như cha mình thuở trước không sai khác. Tương truyền khi bị A Xà Thế giam giữ tại đây, vua Tần Bà Sa La thường đi qua lại bên cửa sổ nhà ngục, nhìn lên núi Linh Thứu, chiêm ngưỡng Đức Phật lúc Ngài đi kinh hành. Hiện tại nhà ngục nơi vua A Xà Thế giam vua cha Bình Sa Vương đã đổ nát hết, chỉ còn lại một vòng tường trên nền cỏ, xung quanh câ cối um tùm.


                (Từ ngục giam vua Bimbisara ngó qua núi Linh Thứu)

                Ngoài ra, theo dân chúng trong vùng thì cách núi Linh Thứu chừng 2 cây số, trên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng, bên trái có một suối nước nóng, nước vẫn còn nóng, nhiệt độ khoảng 105 độ F. Tương truyền từ thời Đức Phật, suối này đã chữa bệnh được cho rất nhiều người, và chính Đức Phật cũng thường đến tắm tại đây.

                Bên trên suối nước nóng là động Thất Diệp (Pippala), nằm về phía Tây Nam của Trúc Lâm Tịnh Xá, trên đỉnh Baibhara có một động đá, đó là động Thất Diệp. Có một hành lang nhân tạo và một bức tường được xây bằng những tảng đá chồng lên nhau, nhưng không có chất dính ô dước hay hồ. Theo lịch sử Phật giáo của cả hai trường phái Đại Thừa và Nguyên Thủy, thì động Thất Diệp chính là nơi ngài Ca Diếp triệu tập 500 vị A La Hán tới trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Về sau vua A Dục cho xây tháp và trụ đá để đánh dấu nơi này.

                Gần bên động Thất Diệp là nền nhà cũ của ngài Đại Ca Diếp, nơi Đức Phật thường ghé lại thăm ngài. Tuy nhiên, vì thời gian quá eo hẹp nên đoàn chúng tôi không thể ghé lại thăm suối nước này và những nơi khác được.


                Ao Rắn Tại Bồ Đề Đạo Tràng

                Tờ mờ sáng ngày 3 tháng 12 năm 2005, Hòa Thượng hướng dẫn đoàn đi thăm Ao Rắn. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khi Đức Phật ngồi thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng đến cuối tuần lễ thứ năm, bỗng trời nổi cơn mưa thật lớn và thật lâu, ngay lúc ấy có một con rắn lớn từ trong rừng đến nơi, phùng mang ra che mưa cho Ngài. Hiện nay dưới Ao Rắn người ta nuôi thật nhiều cá và nước trong ao có mùi thật khó chịu. Quanh Bồ Đề Đạo Tràng hãy còn nhiều di tích khác, tuy nhiên, trung tâm điểm tại đây vẫn là ngôi Đại Bảo Tháp với hàng ngàn Phật tử từ khắp nơi đến chiêm bái và tu tập mỗi ngày. Đa phần người ta lễ bái theo kiểu “ngũ thể đầu địa,” nghĩa là năm phần của thân thể là đầu, hai cùi chỏ và hai đầu gối đều chạm đất khi lễ lạy. Riêng những người Tây Tạng thì họ lạy theo kiểu nằm dài sát đất. Ngày nay những hình tượng Phật và Bồ Tát quanh Đại Tháp đều có những đường nét theo kiểu Tây Tạng vì chúng được trùng tu sau này bởi những người Tây Tạng đến tỵ nạn sau khi Trung Quốc xâm chiếm đất nước này vào năm 1959. Trong các tượng thì tượng Quan Âm Như Ý, nằm bên phải Đại Tháp, là được nhiều người chiêm bái và lễ lạy nhất.

                Ngôi Làng Phật Giáo còn Sót Lại Tại Bồ Đề Đạo Tràng

                Sau đó, Hòa Thượng và chư Tăng Ni sinh hướng dẫn đoàn chúng tôi đi thăm viếng và ủy lạo cho một ngôi làng Phật giáo gần khu chùa Việt Nam. Thật là hy hữu, trong một xứ toàn là Ấn giáo lại còn sót lại một ngôi làng Phật giáo. Tại đây chúng tôi được dân làng tiếp đón rất trọng thể. Được biết đã có nhiều đoàn hành hương trước đây ghé lại viếng thăm và ủy lạo cho ngôi làng Phật giáo này.



                (HT thăm viếng ngôi làng PG-Bodhgaya)


                (Quang cảnh đoàn đang viếng thăm một ngôi làng
                Phật giáo gần Bồ Đề Đạo Tràng)


                (3/12/05 HT chứng minh lễ quy-y-Bodhgaya)


                (Phật tử mới quy-y tại Bodhgaya 3/12/05)


                (Làng Phật giáo nghèo nàn gần Bodhgaya)


                (Những nhà tương đối khá giả trong làng PG gần Bodhgaya)


                (Đường vào làng chỉ là đồng khô cỏ cháy mà thôi)


                (Đời sống dưới rặng Tuyết Sơn của những người thuộc giai cấp
                Thủ đà la tại Ấn Độ)


                (Sự khác biệt giữa bốn giai cấp tại Ấn Độ là như thế ấy
                Thủ đà la sống trong những khu nhà đất tồi tàn bên cạnh
                những khu nhà sang trọng của giai cấp Kshatriya)


                (Miền quê Ấn Độ hãy còn rất nhiều khu phế tích
                đang khai quật bên cạnh nhà dân )


                (Thăm làng Phật giáo gần Bồ Đề Đạo Tràng)


                (Khu vực phụ cận Bodhgaya)

                Viện Bảo Tàng Bodhgaya-Bodhgaya Museum


                Trưa ngày 3 tháng 12 năm 2005, chúng tôi tự do thăm viếng khu lân cận của Bồ Đề Đạo Tràng. Một số anh em trong đoàn như anh chị Thiện Tài và Thiện Minh ở Canada thì viếng thăm 7 nơi mà Đức Phật đã trải qua trong bảy tuần lễ sau khi Ngài giác ngộ, còn tôi và một số anh em khác quyết định viếng thăm Viện Bảo Tàng Bồ Đề Đạo Tràng. Từ ngoài đường đi vào Đại Tháp, Viện Bảo Tàng nằm bên tay phải cùng một bên với ngôi chùa Thái Lan và ở về phía Tây Đại Tháp khoảng non 1 cây số. Tại đây có rất nhiều tượng Phật cổ đại cũng như rất nhiều loại pháp khí khác do các nhà khảo cổ khai quật từ những thế kỷ 17, 18, 19, và 20 quanh khu vực Bồ Đề Đạo Tràng. Nhìn những tượng mất đầu hay mất tay, mất chưn làm tôi liên tưởng đến chuyến viếng thăm đảo Pulau Bidong thuộc Mã Lai Á vào tháng 3 năm 2005, tại chùa Từ Bi trên đảo này, tượng Phật lớn nhỏ, trong ngoài đều bị chặt đứt đầu. Người hướng dẫn trong viện Bảo Tàng tại đây cho biết đa số những tượng Phật và Bồ Tát khai quật được trong vùng đều bị mất đầu hay mất tay chân, vì đó là vết tích của những cuộc chiến xâm lược và tàn phá của đạo quân Hồi Giáo vào những thế kỷ thứ 11, 12, và 13. Đa số niên đại nghệ thuật chạm trổ và điêu khắc trên các tượng này đều vào khoảng đầu Tây Lịch.

                Viếng Bồ Đề Đạo Tràng Lần Sau Cùng


                Sau khi viếng Làng Phật Giáo trở về, đoàn được tự do tu tập hoặc đi mua sắm quà lưu niệm tùy ý. Ngày hôm đó, chúng tôi rảo quanh khắp các sạp lớn nhỏ quanh vùng Bodhgaya, người mua chuỗi, kẻ mua tượng Phật hay các Phật cụ khác làm quà kỷ niệm cho người thân. Đêm hôm đó là đêm cuối cùng chúng tôi lưu lại Bodhgaya mà không thể ở lại trong Tháp vì sáng sớm ngày mai lúc 4:30 giờ sáng chúng tôi phải rời Bodhgaya để đi Tỳ Xá Ly. Một cảm giác lưu luyến lạ lùng khó tả lâng lâng trong mỗi chúng tôi. Chúng tôi qua tháp, rồi trở về khách sạn, rồi lại trở qua tháp... Chúng tôi cứ đi đi về về như vậy cho đến khi Đại Tháp đóng cửa mà một số anh em chúng tôi vẫn còn lưu luyến đứng bên ngoài nhìn vào những ánh đèn lung linh bên trong tháp với những lời kinh tiếng kệ trầm bổng làm cho lòng chúng tôi như se thắt một nỗi niềm khó tả.
                Last edited by viet11; 22-05-2012, 11:18 PM.
                Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                ............



                Can't Live Without...hehe...


                Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                Comment


                • #53
                  Phần 1
                  HÀNH HƯƠNG XỨ PHẬT



                  (Bản đồ Ấn Độ)

                  Vào cuối tháng 10 năm 2005, chúng tôi có duyên may được tháp tùng Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới, đi một vòng Úc Châu hoằng pháp nhằm vận động giúp chư Tăng Ni sinh đang du học ở Ấn Độ trước khi chánh thức hành hương về xứ Phật vào cuối tháng 11 năm 2005. Hòa Thượng tâm sự với chúng tôi là riêng phần Hòa Thượng mang theo chỉ có vài chục ngàn đô la Mỹ, e rằng không đủ để tài trợ cho số Tăng Ni sinh ở Ấn Độ hiện lên đến gần 200 vị, vì thế dù tuổi cao (năm nay Hòa Thượng 84 tuổi) nhưng Hòa Thượng vẫn cố gắng đi một chuyến vòng quanh Úc Châu, vừa hoằng pháp vừa vận động chư Tôn Đức và Phật tử phát tâm trợ giúp thêm. Trong suốt một tháng trời bên Úc, Hòa Thượng đã thuyết trên 50 thời pháp. Quả là tấm lòng từ ái vô bờ vô bến của một vị Đại Lão Hòa Thượng, luôn luôn hết lòng lo lắng cho những mầm non đạo pháp. Đoàn chúng tôi gồm 7 người: Hòa Thượng Pháp Chủ, 3 Tăng Ni là sư Minh Đạo, Ni sư Hân Liên và Ni cô Liên Hương, và 3 Phật tử anh Thiện Trí, Thiện Phúc và Viên Giác. Chúng tôi khởi hành từ phi trường Los Angeles vào lúc 12:15 rạng sáng ngày 31 tháng 10 năm 2005, sau gần 25 giờ bay, chúng tôi đến Sydney vào lúc 9:00 đêm ngày mồng 1 tháng 11 năm 2005. Chúng tôi lưu lại Thiền Viện Minh Quang 3 ngày và sau đó đáp phi cơ đi Melbourne vào ngày 3 tháng 11, lưu lại Melbourne 5 hôm trước khi đi Adelaide vào ngày 8 tháng 11, lưu lại Adelaide một tuần lễ. Sau đó đoàn khởi hành đi Perth vào hôm 15 tháng 11, đi Brisbane ngày 21 tháng 11, và cuối cùng trở về lại Sydney vào ngày 25 tháng 11 để kịp dự lễ khánh thành Thiền Viện Minh Quang hôm 27 tháng 11, 2005. Ngày 26 tháng 11, một đoàn thứ hai gồm 12 người từ Mỹ sang, nhập với đoàn I của Hòa Thượng tham dự lễ Khánh Thành Thiền Viện Minh Quang. Sau đóù đoàn lại rời Sydney đi New Delhi vào lúc 8:45 sáng ngày 28 tháng 11, 2005.

                  Chúng tôi không có duyên may như chư Tăng Ni, được xuất dương du học nơi xứ Phật, nhưng một lần trong đời được chiêm bái và đảnh lễ các Thánh tích thiêng liêng ấy, thiết tưởng cũng đủ mãn nguyện cho một đời người. Một lần đến tận nơi, thấy tận mắt những di sản tinh thần vô giá ấy, dù bây giờ nơi chốn ấy chỉ còn trơ lại một nền đá hay một đống gạch vụn, cũng đủ làm trào dâng niềm cảm xúc không thể diễn tả được bằng lời. Một lần được mục kích sông Hằng, con sông thiêng liêng không riêng gì cho dân Ấn, mà cho cả một vùng trời của thế giới phương Đông, cũng đủ làm cho tâm hồn mình thanh thản, dù có ai đó cho rằng như vậy là quá thần thoại và hoang tưởng cũng không sao. Một lần tận mắt mục kích những địa danh, chẳng những liên hệ với người dân Ấn, mà chúng còn thân thương và quan trọng đối với rất nhiều dân tộc trên thế giới. Có người con Phật nào mà không cảm thấy thân thương với những địa danh Lâm Tỳ Ni, Ca Tỳ La Vệ, Vương Xá Thành, Bồ Đề Đạo Tràng, sông Ni Liên Thiền, núi Linh Thứu, tu viện Na Lan Đà, Trúc Lâm Tịnh Xá, thành Tỳ Xá Ly, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, tháp Vô Não, thành Câu Thi Na, thành Ba La Nại, vườn Lộc Uyển, sông Hằng Hà, vân vân. Trong nhiều thế kỷ nay, bức tranh toàn cảnh tại vùng Đông Bắc Ấn Độ không còn là di sản văn hóa của riêng dân tộc Ấn Độ nữa, mà từ bấy lâu nay nó đã trở thành di sản chung cho toàn thế giới, Phật giáo cũng như không Phật giáo, Ấn giáo cũng như không Ấn giáo. Ngày nay, lịch sử Phật giáo tại xứ Ấn đã sang trang. Ngay chính nơi sản sanh ra nó mà không có tới một phần trăm dân số theo đạo Phật, quả là một vấn đề đáng suy gẫm. Nhìn lại quá trình phát triển của Phật giáo trên đất nước Ấn kể từ ngày Đức Thế Tôn thành đạo cho tới ngày nay, đạo Phật đã trải qua trên 15 thế kỷ hưng thịnh khắp từ Bắc Ấn tới Nam Ấn, nhưng chính Đức Thế Tôn đã dạy về luật vô thường thì có cái gì mà trường tồn mãi đâu? Đúng như Thế Tôn tiên đoán, tại xứ Ấn độ sau 500 năm chánh pháp, đến 500 năm tượng pháp, rồi 500 mạt pháp phải đến. Như vậy sau 15 thế kỷ, đến thế kỷ thứ 13, Phật giáo ở Ấn Độ đang trong thời mạt pháp của xứ này lại vướng nạn xâm lăng từ đạo quân Hồi giáo dã man. Chính đạo quân ấy đã khai tử Phật giáo ngay trên cái nôi sanh ra nó. Ôi cũng là luật “sanh-trụ-dị-diệt”! Ôi luật thạnh suy của trời đất! Phật giáo đã chính thức tàn lụi trên đất Ấn ngay từ thế kỷ thứ 13. Và thời kỳ đen tối này kéo dài trong nhiều thế kỷ. Trong suốt thời kỳ đen tối đó, từng đoàn ngoại nhân xâm lăng đã đến thay phiên nhau tàn phá tất cả những gì có dính líu đến Phật giáo, vì họ không thể nào chịu đựng nổi chân lý không thể nghĩ bàn của Phật giáo. Chân lý đó trong sáng và sẵn sàng lật đổ mọi huyền hoặc u mê. Chính vì vậy mà trải qua nhiều triều đại của các vị vua theo Hồi giáo, tất cả các đền đài và chùa tháp Phật giáo đều bị đập phá, các kinh sách quí báu của Phật giáo đều bị đốt sạch, chư Tăng Phật giáo đều bị bắt và giết sạch. Suốt thời kỳ điêu tàn của Phật giáo trên đất nước Ấn Độ, tất cả những chùa tháp uy nghiêm, tất cả những kinh điển thánh ngôn... đều bị vùi sâu trong lòng đất trong nhiều thế kỷ. Một thời hoàng kim về văn hóa Phật giáo của những dân tộc vùng Bắc Ấn bị chính con cháu họ quên lãng và quay lưng ngoảnh mặt. Cả một vùng không gian bao la trở thành hoang địa, không còn thấy một dấu tích gì cho thấy thời hoàng kim xưa cũ nữa. Lịch sử Phật giáo của vùng Bắc Ấn nói riêng, và của cả Ấn Độ nói chung bị phủ một màu tang thương đen tối không có cơ may quang phục. Cũng giống như hoàn cảnh Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, để tự tồn, chư Tăng Ni phải giả dại qua ải, tất cả đều biến thành những thầy tụng, có vợ có con để tránh sự theo dõi cú vọ của những tên Tây khát máu, luôn chực chờ tiêu diệt toàn bộ Phật giáo trên đất nước Việt Nam. Cũng như vậy, để sinh tồn, chư Tăng bên Ấn Độ, từ thế kỷ thứ 13 mãi đến thế kỷ thứ 18, đã phải đào tỵ sang Miến Điện, Népal, Sri Lanka, Tây Tạng, vân vân, để lại cả nước Ấn Độ bao la trong nhiều thế kỷ vắng bóng Phật giáo. May mà vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch, một vị Á Phật đã ra đời (A Dục) và đã kịp thời đưa Phật giáo sang các xứ Nam Ấn (Sri Lanka) và Đông Độ (Trung Quốc). May mà chính vị Á Phật ấy lại dựng những trụ đá với những bia ký khắc trên đó, ghi rõ những chỉ dụ liên quan đến Phật giáo. Và may mà chúng ta còn có những nhà chiêm bái nổi tiếng Trung Hoa vào thế kỷ thứ 5 và thứ 7 như các ngài Pháp Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh... Họ đã không màng an nguy, trải qua hàng chục năm du hành đến xứ Phật để thỉnh kinh, để học hỏi giáo lý Phật đà, và để ghi lại những diễn tiến Phật giáo tại xứ này từ thời nó được Đức Thế Tôn khai sáng. Bây giờ lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ đã sang trang, nhưng lịch sử tại đó cũng đã an bài một cách khắc nghiệt cho số phận của đạo Phật trên đất nước này với chưa đầy một phần trăm dân số của xứ này theo đạo Phật. Ôi nghiệt ngã làm sao cho số phận của một tôn giáo mà giáo lý của nó sáng ngời như ánh bình minh trên sông Hằng!

                  Nói gì thì nói, những người con Phật không thể ngồi đó bi quan trước định luật vô thường. Chúng ta hành hương về xứ Phật, không phải tiêu cực đến những vùng đất thiêng này để góp nhặt cát đá của những vùng đất này về làm quà kỷ niệm suông, hay chúng ta không chỉ đến đó để ngậm ngùi thương tiếc cho một thời vàng son đã qua. Mà những người con Phật phải có thái độ tích cực hơn để phục hoạt Phật giáo ngay chính trên chiếc nôi của nó. Tất cả những bia ký của hoàng đế A Dục, tất cả những ký sự của các ngài Pháp Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh... sẽ góp phần tích cực trong việc khai quật những Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo. Rồi đây Phật giáo tại Ấn Độ sẽ được phục hoạt cũng như các Thánh tích Lâm Tỳ Ni, Ca Tỳ La Vệ, Vườn Nai, Câu Thi Na sẽ được phục hoạt và sẽ được chính hàng hậu duệ của Đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng trên đất nước của Ngài nâng niu gìn giữ.



                  NEW DELHI

                  Sau gần 16 giờ bay chúng tôi đến Delhi vào lúc 3:00 giờ sáng ngày 29 tháng 11, 2005. New Delhi là thủ đô của Ấn Độ, mộ nước rộng lớn từ thời xa xưa vì nó bao gồm cả Pakistan về phía Tây Bắc và Bangladesh về phía Đông Bắc. Hiện tại, hai nước này đã được tách rời khỏi Ấn Độ từ khi người Anh trao trả độc lập. Diện tích Ấn Độ khoảng 3.288.000 cây số vuông, với 26 tiểu bang. Cực Bắc Ấn Độ giáp với vùng Hy Mã Lạp Sơn, và cực Nam chạy gần tới vùng xích đạo trong vùng Ấn Độ Dương. Mặc dù Ấn Độ là cái nôi của Phật giáo, nhưng hiện nay hình ảnh của đạo Phật hình như không còn hiện hữu ở bất cứ nơi nào trên đất Ấn nữa. Theo thống kê mới nhất (2005) của chánh phủ Tân Đề Li thì có trên 85% dân Ấn theo Ấn giáo, 10% theo Hồi giáo, trên 2% theo đạo Thiên Chúa, trên 2% theo đạo Sikh, chỉ có khoảng 0.78% theo đạo Phật mà thôi (nghĩa là chưa được một phần trăm). Nhưng không sao, đối với Phật tử chúng tôi, hành hương về xứ Phật cũng giống như cuộc trở về thăm lại quê cha đất tổ, trở về tìm lại cội nguồn thiêng liêng, hoặc trở về tìm lại di sản tinh thần cao quí mà mình đang thọ hưởng. Thật tình mà nói, đây không phải là một chuyến du lịch bình thường, đây cũng không phải là một chuyến ngao du sơn thủy, mà đây là một chuyến trở về, dù rằng đây là những nơi mà chúng tôi chưa đến bao giờ. Quả thật, đến tận nơi, thấy tận mắt những nơi thiêng liêng, dù rằng những nơi ấy ngày nay đã hoang tàn đổ nát, chỉ còn trơ lại những nền đá hay những đống gạch vụn được khai quật từ trong lòng đất, nhưng đối với chúng tôi, đó là những di sản vô cùng quí giá vì đó là chứng tích của cội nguồn thiêng liêng nhất của những người con Phật. Chứng tích đậm nét về con người rất thật của Đức Phật, chứ không huyền hoặc mơ hồ.



                  Sau khi đến Delhi, ba đoàn khác, hai từ Canada và một từ Pháp nhập vào đoàn chúng tôi để bắt đầu chuyến hành hương Về Xứ Phật. Lần này tôi lại có dịp tái ngộ với các anh Thiện Minh và anh chị Thiện Tài từ Toronto, Canada. Chúng tôi lưu lại khách sạn Raunak trong vùng Karol Bagh, thuộc Tân Đề Li. Có đến tận nơi mới thấy sự nghèo nàn thê thảm của trên 80% dân Ấn thuộc giai cấp cùng đinh (Untouchable). Sáng sớm khi chúng tôi vừa mới bước ra khỏi khách sạn, thì từ tứ hướng một đám người, già có, trẻ có, bé có, lớn có, nguyên vẹn có, mà cùi hung sức mẻ cũng có... bám sát lấy chúng tôi, lớp rao hàng, lớp xin ăn. Họ cứ bám sát lấy mình, mặc dù mình đã nói không mua, họ cũng cứ bám theo và tiếp tục năn nỉ chúng tôi mua hàng. Ban đầu chúng tôi đã đổi ra một số tiền lẻ dự tính cho từng người một, nhưng thấy không ổn, chúng tôi đành quăng đại mớ tiền bay lả tả ra ngoài cửa rồi quầy quả quay ngay vào khách sạn. Ngồi trong phòng khách của khách sạn, suy ngẫm lại cách mình mới cho vừa rồi, quả là không lịch sự chút nào, nhưng chúng tôi không có lựa chọn nào khác, nên đành chịu. Trưa ngày 29 tháng 11, đoàn chia làm hai toán để khởi hành đi Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), toán thứ nhất khởi hành lúc 11:30 trưa và đến Bodhgaya lúc 7:00 giờ sáng ngày 30 tháng 11, 2005. Toán thứ hai rời khách sạn lúc 8:00 đêm ngày 29 tháng 11 và khởi hành từ ga Delhi lúc 10:30 tối và đến Bodhgaya lúc 2:00 giờ chiều ngày 30 tháng 11. Trước khi ra xe buýt để đi đến sân ga Delhi, chúng tôi được Thầy Minh Thành hướng dẫn. Theo những gì thầy nói thì chưa đi mà đã thấy bạt vía kinh hồn rồi. Trời mùa Đông ở Ấn Độ, sáng thì lạnh cóng cả tay chân, nhưng trưa đến thì nắng chói chan. Đây là cuộc hành trình giáo đầu của chúng tôi trên đất Ấn Độ. Ai cũng biết đất nước Ấn Độ có gần một tỉ ba trăm triệu con người, tuy nhiên, những ai chưa từng đến ga Delhi và chưa từng đáp xe lửa từ sân ga này sẽ không bao giờ có được cái cảm nhận đầy đủ về sự đông dân của xứ Ấn Độ. Tôi cứ tưởng, đoạn đường ngắn từ ngoài lộ vào sân ga rồi tới chỗ đậu xe, đi một cái vèo cũng tới, chứ nào ngờ những gì thầy Minh Thành đã lưu ý chúng tôi là không sai một mảy may nào cả. Sân ga Delhi có nhiều tầng cấp, tấp nập người qua lại, lên xuống. Bên cạnh quá nhiều khách lữ hành là vô số những phu khuân vác, cái gì họ cũng đội lên đầu, có người đội cả hai hay ba cái va li lớn, thêm vào đó, những người xin ăn lang thang, làm cho sân ga đã chật nít người thêm phần chật hơn. Ngoài ra, ngày cũng như đêm, bò ở đâu mà nhiều quá sá, chúng đi tới, đi lui, đi xuôi, đi ngược, choán rất nhiều lối đi, nhưng hình như người Ấn Độ ai cũng đặt cho “bò” vị trí ưu tiên số một nên không ai tranh giành lối đi với chúng cả. Cả một vùng sân ga rộng lớn vào buổi xế trưa toát ra một thứ mùi hôi khó tả, thứ mùi hợp chất pha lẫn của mùi quần áo dơ, mùi con người lâu ngày không tắm, mùi phóng uế của con người, và đặc biệt là mùi phân và nước tiểu của những chú bò rải rác khắp đường phố. Hình như ở đây không ai dám dẹp những đống phân bò trên đường và hình như người ta cảm thấy thích thú khi giẫm phải những đống phân bò. Dù đoạn đường từ ngoài đường đi vào sân ga rồi tới chỗ xe lửa đậu không xa mấy, nhưng chúng tôi phải trải qua một cuộc chen lấn chưa từng có trong đời để đi được đến đúng trạm xe lửa của mình (Purshottam Express 2802). Đi vào đám đông ai trong chúng tôi cũng đều như lọt vào mê hồn trận, không còn biết đường đâu lối đâu nữa, chỉ còn biết tiếp tục lủi đi bằng cách nhìn theo những chiếc nón màu cam đang di động loăng quăng như con “huỳnh xà”. Tôi nghĩ hôm đó nếu có một đoàn nào khác cũng có nón cam như chúng tôi, chắc chắn là sẽ có chuyện một số anh em chúng tôi đi theo họ rồi. Nhưng rồi việc gì cũng qua, chúng tôi cũng đến trạm trước giờ xe lửa ghé qua. Trong khu vực chờ đợi, chúng tôi quây quần quanh Hòa Thượng Pháp Chủ để nghe Ngài nói chuyện, cả đạo lẫn đời. Hòa Thượng nhắc nhở Phật tử trong đoàn về kinh nghiệm chen lấn để đến được trạm xe lửa vừa rồi cũng là một pháp tu tuyệt vời, và những gì mắt thấy tai nghe tại ga Delhi quả là một bài pháp vô cùng hữu ích. Ngoài Hòa Thượng ra còn có có những vị hướng dẫn khác như sư Minh Thành, sư Giác Hành, sư Minh Huệ, sư Minh Hoa, sư Minh Thường, sư cô Liên Phụng, Liên Hiệp, Liên Mẫn, Liên Quí... những vị đang du học tại Delhi cũng hết lòng giúp đỡ và hướng dẫn chúng tôi. Chúng tôi nhìn những người Ấn gầy guộc, áo quần xốc xếch một cách tò mò. Họ cũng nhìn lại chúng tôi một cách tò mò thể như chưa từng thấy những con người này bao giờ vậy. Rồi tàu cũng đến và chúng tôi cũng an vị ngay sau khi con tàu vừa dừng hẳn lại. Đối với những khách hành hương từ Mỹ, Pháp và Canada như chúng tôi thì việc chen lấn để được lên tàu quả là vất vả vô cùng, nhưng đối với những người Ấn tại đây, đó là việc hết sức bình thường. Họ chen lấn, lấn chen để lên tàu như thể không có chuyện gì xảy ra.

                  Hình Ảnh New Delhi


                  (Cảnh xe cộ ồn ào náo nhiệt tại New Delhi)


                  (Ở đây cũng có rất nhiều xe lôi như ở Việt Nam)


                  (New Delhi xe cộ đông đến nỗi không còn đường nào để qua mặt)


                  (Chỉ có khu phố này tương đối vắng xe)


                  (Ở New Delhi người ta họp chợ trái cây ngay ngoài đường phố)


                  (Hai bên đường cũng những bảng hiệu lụp xụp như ở Việt Nam)


                  (Xe hơi, xe gắn máy, xe đạp và người cũng như bò đều được phép qua lại lang thang trong chợ)


                  (Táo nhập cảng thì mắc nhưng ai cũng thích mua vì trái to hơn táo của Ấn Độ)


                  (Chợ trái cây ở New Delhi )


                  (Khu phố gần khách sạn Tourist-New Delhi)


                  (Đường vô chợ Baya Bazaar-New Delhi)


                  (Chợ Baya Bazaar-New Delhi)

                  Bồ Đề Đạo Tràng


                  Trên đường đi từ Delhi đến Bodhgaya, nhà cửa hai bên đường lụp xụp nghèo nàn, có lẽ còn nghèo nàn hơn cả xứ Việt Nam của mình nữa, và hình như trước sân nhà nào cũng có một vài chú bò thảnh thơi đi tới đi lui, nhìn thiên hạ qua lại, có chú lười hơn, không muốn đi nên nằm yên một chỗ, hàm cứ nhai đi nhai lại mớ cỏ khô bên cạnh. Ở đây hình như cả người lẫn thú đều gầy ốm như nhau, mặt mày hốc hát, đờ đẫn. Đêm hôm đó, dù mệt mỏi sau cuộc hành trình nhiều ngày bên Úc Châu, nhưng tôi vẫn không chợp mắt được, vì đây là đêm đầu tiên tôi chứng kiến tận mắt sự nghèo nàn đói khổ của người dân xứ Phật. Bihar ngày trước đã từng là một vương quốc giàu có thịnh vượng dưới thời vua A Dục, có kinh đô là Pataliputra (ngày nay là Patna), nơi đã diễn ra cuộc kết tập kinh điển lần thứ ba dưới triều vua A Dục. Tưởng cũng nên nhắc lại, A Dục Vương là vị vua thứ ba dưới triều đại Mauryan. Sau trận chiến Kalinga, vương quốc của Ngài trải rộng hầu hết xứ Ấn Độ hiện nay. Tuy nhiên, chính trận chiến này (150.000 tù binh và trên số người chết lên đến gần nửa triệu) đã biến Ngài trở thành một cư sĩ Phật giáo quan trọng trong lịch sử Phật giáo. Tại nhiều nơi trong xứ Ngài cho dựng nhiều trụ đá, trên đầu có hình sư tử chạm trổ rất đẹp (ngày nay hình ảnh này vẫn còn là biểu tượng trên quốc kỳ Ấn Độ). Vua A Dục chính là vị vua đầu tiên đưa Phật giáo đi khắp các nơi từ Tích Lan ở phía Nam, đến Miến Điện ở phía Đông và Trung Hoa ở phía Bắc. Nhà vua đã bảo trợ nhiều công trình truyền bá giáo huấn của Đức Phật khắp nơi. Hai người con của Ngài sau này trở thành hai vị A La Hán nổi tiếng là Mahinda và Sanghamitta.


                  (Đại Tháp trong Bồ Đề Đạo Tràng—
                  Main Temple in Bodhgaya in Bihar State, North India)

                  Có lẽ vì bang này có nhiều chùa tháp nên nó có tên là Bihar, vì Bihar theo tiếng Phạn có nghĩa là chùa tháp. Bihar là một trong những tiểu bang nghèo nhất và có thời tiết khắc nghiệt nhất của xứ Ấn Độ. Tuy nhiên, nói về các Thánh tích Phật giáo thì Bihar là một tiểu bang quan trọng nhất. Lúc sắp tới Gaya thì cả hai anh chị Thiện Tài và bạn Thiện Minh đều thúc tôi tìm hỏi coi trạm sắp tới có phải là Gaya hay không, vì nếu để lỡ chuyến một cái là cả đoàn phải đón xe khác trở về quả là vất vả lắm. Tôi chạy tới chạy lui, hỏi hết người này đến người khác, nhưng có người nào biết tiếng Anh đâu mà hỏi? Tôi cứ tưởng chỉ mới có hơn nửa thế kỷ sau khi Anh trao trả độc lập thì Ấn Độ phải còn nhiều người biết tiếng Anh lắm chứ! Vả lại những người Ấn tôi quen bên Mỹ đều nói tiếng Anh rất giỏi kia mà! Thế mà mấy bạn Thiện Tài, Thiện Minh, Thiện Hiếu và Thiện Trí cứ đốc tôi tiếp tục đi hỏi, vì lần nào thấy tôi hỏi chuyện thì những người Ấn cũng đều trả lời, nhưng mấy bạn có ngờ đâu tôi thì hỏi họ bằng tiếng Anh, mà họ thì cứ trả lời tôi bằng tiếng Ấn, cứ thế mà tôi cứ tiếp tục đi hỏi hết người này lại kiếm người kia hỏi tiếp. Tôi chỉ cần họ nghe được chữ “Gaya” của tôi mà gật đầu là đủ. Và tôi ráng hỏi càng nhiều người chừng nào càng tốt chừng ấy, vì như vậy dầu sao cũng an tâm hơn. Nhưng rồi trưa hôm sau chúng tôi cũng đến ga Gaya vào lúc 2:00 giờ chiều. Tại đây, đoàn thứ hai của chúng tôi được các sư trong đoàn thứ nhất tiếp đón và đưa về khách sạn bằng xe buýt. Tuy khoảng đường từ ga Gaya về khách sạn không xa lắm, khoảng trên dưới 16 cây số, nhưng vì đường đá gồ ghề lỡm chởm nên phải mất gần một tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới đến khách sạn. Chúng tôi lưu lại khách sạn Prince trên đường Birla, gần Bồ Đề Đạo Tràng, thuộc bang Bihar. Bihar là một trong những bang nghèo nhất của xứ Ấn Độ. Nhìn những mái tranh nghèo lụp xụp bên đường, lòng tôi bỗng chùng xuống. Vùng đất một thời sản sinh ra một vĩ nhân của thế giới bây giờ chỉ còn trơ lại những mái tranh nghèo, với những con người xanh xao gầy guộc, quần áo xốc xếch. Quả đúng như lời của một bài kinh Phật: “Đời người như một giấc mơ, trăm năm nào khác cuộc cờ đổi thay...”Trăm năm đã như cuộc cờ đổi thay rồi, huống là 26 thế kỷ tang điền thương hải! Bồ Đề Đạo Tràng nằm bên bờ sông Ni Liên Thiền, nơi Đức Phật thành đạo, cách Tân Đề Li khoảng trên dưới 1.000 cây số, cách ga Gaya khoảng 16 cây số, và cách thành Hoa Thị (Pataliputra) ngày nay là Patna thủ phủ của bang Bihar khoảng 115 cây số đường chim bay, nhưng trên thực tế con đường ngoằn ngoèo ấy dài đến gần 200 cây số. Trên bản đồ thế giới thì Bồ Đề Đạo Tràng nằm trên khoảng vĩ độ Bắc từ 24 đến 25.9, kinh độ Đông từ 84 đến 86. Cao độ 112 mét cao hơn mực nước biển. Nhiệt độ từ 24 đến 46 độ C vào mùa hè, và từ 5 đến 24 độ C vào mùa Đông. Mực nước mưa trung bình tại đây khoảng 118 cm3.


                  Đại Tháp Giác Ngộ-Mahabodhi Stupa

                  Buổi chiều và tối ngày 30 tháng 11, Hòa Thượng hướng dẫn đoàn đi thăm và đảnh lễ Đại Tháp. Giữa những mái tranh nghèo lụp sụp, một Đại Tháp uy nghi sừng sững như thách thức với thời gian. Vừa thoáng thấy hình ảnh của ngôi đại tháp là tim tôi như bàng hoàng rung động một cách lạ thường. Ôi! Đây chính là nơi Thái Tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật. Ôi! Đây chính là ngôi Thánh địa thiêng liêng vào bậc nhất của những người con Phật! Ngọn tháp đứng sừng sững giữa một hàng cây xanh biếc. Khác với rất nhiều kiến trúc khác trên thế giới, ngọn tháp chỉ có bốn mặt thẳng tắp từ dưới rộng, đi dần lên đỉnh thì nhọn dần để chỉ còn là một điểm trên đỉnh mà thôi, chứ không như những ngôi chùa ngôi tháp nổi tiếng khác trên thế giới. Bảo Tháp có một chiều dài lịch sử kể từ thời vua A Dục, người đã xây dựng Tháp vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch để tưởng niệm nơi Thành Đạo của Đấng Giác Ngộ trong dòng họ Thích Ca. Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về lịch sử của ngôi Bảo Tháp này. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khoảng 300 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, vua A Dục đã đến đây chiêm bái và đảnh lễ. Sau đó Ngài đã cho xây tháp thờ để tưởng niệm nơi Đức Thế Tôn thành đạo. Tháp này được vương quốc Bengal cho trùng tu vào thế kỷ thứ 7, nhưng đến thế kỷ thứ 12 lại bị quân Hồi giáo phá hủy. Mãi đến thế kỷ thứ 14, các vương triều của xứ Miến Điện cho trùng tu lại, nhưng sau đó thì thiên tai lũ lụt đã nhận chìm và biến khu tháp này thành những phế tích bị lãng quên. Dù sao đi nữa thì đây cũng chính là nơi Đức Phật đã thành đạo, là một trong những điểm quan trọng trong các Thánh tích Phật giáo. Hầu như hiện nay các nhà khảo cổ đều đồng ý về niên đại của nền gạch đầu tiên, gần như chắc chắn rằng ngôi Đại Tháp này được vua A Dục xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch (khoảng năm 259 trước TL), sau khi ngài chiêm bái và đảnh lễ khu Thánh tích này. Tuy nhiên, theo niên đại của những đồng tiền vàng trong số những di vật được chôn trước Kim Cang Tòa, nên có sách cho rằng ngôi đại tháp ngày nay được xây vào thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch và nó được xây lên ngay trên nền tháp cũ của ngôi tháp cũ do vua A Dục xây, nhưng vị trí của ngôi tháp, Kim Cang Tòa và cây Bồ Đề vẫn giữ nguyên không thay đổi. Tuy nhiên, bảng ghi khắc về sự cúng dường của một người Tích Lan tên Buddharaksta được khắc ghi trên tường rào ở Bồ Đề Đạo Tràng thì có niên đại khoảng thế kỷ thứ nhất và thứ hai trước Tây Lịch (nghĩa là có niên đại đồng thời với vua A Dục). Ngôi tháp vĩ đại như một Kim Tự Tháp bốn cạnh, mỗi cạnh dài 15 mét, cao 52 mét. Bốn góc có bốn tháp nhỏ tô điểm cho phần Đại Tháp thêm phần mỹ thuật. Ngôi tháp được xây bằng gạch nung và được tô lên bằng một lớp thạch cao. Phía trước lối đi chính có một cổng vào được chạm khắc rất tinh xảo. Ngay trước cổng vào có một ngôi tháp nhỏ bằng đá xây rất cân xứng với tỷ lệ của ngôi tháp lớn. Cửa ra vào được làm bằng đá. Ngay từ bậc thang từ cổng ngoài đi xuống Tháp Đại Giác có một trụ đá to và cao hơn hai thước, tương truyền đây cũng chính là một trụ đá do vua A Dục dựng lên. Tầng trên của Tháp có sân trước và sân sau với một hành lang kinh hành chung quanh, ra phía sau ngó xuống là cây Bồ Đề và Kim Cang Tòa. Bên trong tháp chỉ là một bệ thờ nhỏ, thờ tôn tượng Đức Bổn Sư đang ngồi kiết già. Pho tượng này đã có trên 1.750 năm nay và được Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 cho phết vàng cũng như kẻ lại nét mặt, nên pho tượng phảng phất nhiều đường nét Tây Tạng. Tuy nhiên, nét nguyên thủy của pho tượng vẫn còn nguyên. Theo truyền thuyết Phật giáo thì tượng này do Bồ Tát Di Lặc hóa thân tạc nên. Chánh điện trước một bệ thờ rất nhỏ, chỉ chứa được khoảng trên dưới 20 người mà thôi, nên chỉ một số trong đoàn phải vất vả lắm mới vào được bên trong với Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, số còn lại phải ở ngoài chánh điện. Phía sau Đại Tháp là cội Bồ Đề cành lá xum xuê và Kim Cang Tòa, làm bằng những tảng sa thạch màu đỏ. Đây chính là nơi Đức Phật tọa thiền cho đến khi thành đạo. Chính nơi đây, gần 26 thế kỷ về trước, Đức Phật đã ngồi thiền định liên tục 49 ngày đêm cho đến khi đạt thành đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác.


                  Cây Bồ Đề-BodhiTree


                  Cây Bồ Đề có tên khoa học là “Ficus religiosa,” nghĩa là biểu tượng cho tuệ giác của Đức Phật, sự chứng ngộ Phật quả của Ngài hay là chính hiện thân của Ngài, nên người ta còn gọi nó là cây giác ngộ hay cây Bồ Đề. Chính vì vậy mà Đức Phật đã nói với Đại Đức A Nan trong Kinh Niết Bàn rằng: “Bồ Đề Đạo Tràng, nơi có cây Bồ Đề là một trong bốn Thánh địa mà người con Phật với lòng kính tin nên đến để chiêm bái lễ lạy. Người nào thác sanh với lòng tin tưởng khi đi chiêm bái này sẽ được tái sanh vào cõi an vui.” Thật vậy, trong Kinh Bổn Sanh, Ca Lăng Già Bồ Đề (Kalinga Bodhi) và Cô Si Da (Kosiya) đã kể rằng trong suốt thời Đức Phật còn tại thế, cây Bồ Đề rất được kính trọng và người ta thờ phượng nó như chính Đức Phật vậy. Theo truyền thống Phật giáo thì cây Bồ đề là một trong ba đối tượng thờ phượng thiêng liêng của người Phật tử. Hai biểu tượng kia là xá lợi Phật và tháp thờ Phật. Cây Bồ Đề hiện nay là cháu chắt của cây Bồ Đề nguyên thủy đã nhiều lần bị bách hại. Tuy nhiên, theo các nhà khảo cổ thì đây chính là địa điểm chính xác của cây Bồ Đề nguyên thủy. Theo tạp chí “Maha Bodhi” ấn bản tháng 7 năm 1903: “Cây Bồ Đề mà Đức Phật ngồi thiền và đạt đạo quả trước kia bây giờ không còn nữa, nó đã bị tiêu diệt năm 1874. Vì một nhánh của cây Bồ Đề này đã được con vua A Dục là Tỳ Kheo Ni Sanghamita mang sang trồng tại thủ đô Anuradhapura, Tích Lan. Khi cây gốc bị hủy diệt năm 1874, một nhánh cây con mới mọc lên và đó là cây Bồ Đề xum xuê tại Bồ Đề Đạo Tràng hiện nay.” Lịch sử cội cây Bồ Đề nguyên thủy, nơi Đức Phật thành đạo đã được nhiều nhà chiêm bái Trung Hoa ghi lại. Pháp Hiển, một nhà chiêm bái Phật tích năm 409 đã ghi lại trong ký sự hành hương của mình như sau: “Sa môn Cồ Đàm đi tới phía trước, đến dưới gốc cây Bồ Đề, trải cỏ cát tường, mặt hướng về phía Đông. Ngài bắt đầu chứng nghiệm quả vị an lạc giải thoát trong suốt bảy ngày...” Ngài Huyền Trang đã đến đây vào năm 629 và đã trải qua 16 năm chiêm bái cũng như tu học tại đây. Trong Tây Du Ký Sự, ngài đã kể về Bồ Đề Đạo Tràng như sau: “Đi về phía Tây Nam từ đỉnh núi Pragbudhi khoảng 14 hay 15 dặm, chúng ta sẽ đến cây Bồ Đề. Cây này được bao quanh bởi một bức tường gạch cao lớn và vững chắc. Bức tường này hình chữ nhật cạnh dài chạy từ Đông sang Tây, cạnh ngắn chạy theo hướng Bắc Nam. Chu vi của bức tường này khoảng 500 bước. Những loại cây hiếm với những đóa hoa xinh đẹp kết tàng lại với nhau. Những cây biển bá với những cây khác mọc đầy cả nền tạo thành một tấm thảm trên đất. Cánh cổng chính mở ở phía Đông, đối diện với sông Ni Liên Thiền rộng lớn. Bên trong bức tường bao quanh nơi Thánh địa này có nhiều lối đi ngang chéo lẫn nhau ở các hướng.”

                  Cây Bồ Đề chính là nơi Thái Tử Tất Đạt Đa đã ngồi và đã chứng đắc chân lý, nằm phía Tây Nam sau Tháp Đại Giác, tàng lá xum xuê. Hơn 25 thế kỷ trôi qua với bao lần vật đổi sao dời thì cũng là bao lần ‘tang điền thương hải’ xảy đến với cội Bồ Đề này, nó đã chịu chung số phận thăng trầm của lịch sử Phật giáo. Đã bao lần nó bị bách hại, chặt đốn hoặc thiêu hủy do thiên tai, do ngọn gió vô thường soi mòn hay do lòng người ganh ghét tàn ác đã bao lần muốn xóa tan vết tích của nó. Nhưng kỳ diệu thay! Cây Bồ Đề cháu chít vẫn tiếp tục đâm chồi nẩy lộc và trường tồn. Theo nhà khảo cổ Buchanan, viếng Bồ Đề Đạo Tràng năm 1811 cho rằng “Cây Bồ Đề hiện tại chỉ trên 100 tuổi, là cháu chít trên 20 đời của cây Bồ Đề nguyên thủy, nhưng vị trí cây Bồ Đề nguyên thủy cũng chính tại ngay chỗ này.” Vào năm 1862, nhà khảo cổ Alexander Cunningham, người có công lớn trong việc khai quật các di tích Phật giáo chẳng những tại Bồ Đề Đạo Tràng, mà còn ở nhiều nơi khác, đã nhận xét như sau: “Cây Bồ Đề đã bị tàn úa rất nhiều, thân cây hơi ngả về phía Tây với ba nhánh lớn vẫn còn màu xanh, nhưng những nhánh khác thì đã vàng vọt mục nát.” Lần thứ hai vào năm 1871, và lần thứ ba vào năm 1875, Cunningham lại viết: “Lúc này cây Bồ Đề đã hoàn toàn bị héo hon mục nát và sau đó vào năm 1876, sau một cơn giông, cây Bồ Đề cũ đã bị cuốn phăng đi, chỉ còn lại thân cây nằm ngả về hướng Tây của bức tường. Nhưng may thay, có nhiều hạt giống đã rơi rớt lại để rồi những mầm chồi non của cây cha mẹ chúng đã nhú mầm sinh sống lại tại chính nơi đó.” Cũng theo Cunningham, Bồ Đề là một loại cây phát triển nhanh và có đời sống ngắn, chỉ trên dưới 100 năm, nên không thể nào cây nguyên thủy còn được đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng có sức sống nối tiếp từ các hạt giống của chính cây mẹ của nó, và cây Bồ Đề hiện nay chắc hẳn phải là cây cháu đời thứ 20 nếu kể từ cây Bồ Đề thời Đức Phật. Lại cũng có nhiều nghiên cứu khác cho rằng cây Bồ Đề hiện tại là cháu đời thứ năm của cây nguyên thủy? Phía bên trái cội Bồ Đề, người ta tạc “Hai Dấu Chân Phật” để tưởng nhớ đến dấu chân của Đức Thế Tôn từng đã lưu lại đây, trước cũng như sau khi Ngài thành đạo. Bên dưới gốc Bồ Đề là Kim Cang Tòa, tưởng niệm nơi Đức Phật tọa thiền. Tòa Kim Cang là một thành xi măng vuông để giữ gốc cây Bồ Đề. Một tấm vải vàng thật lớn được quấn bên dưới gốc cây để làm tăng thêm vẻ trang nghiêm cho cây. Bên ngoài Tòa Kim Cang khoảng hai thước là một vòng rào vuông khác bao bọc quanh cây Bồ Đề và Tòa Kim Cang. Khách hành hương có thể vào bên trong chiêm ngưỡng, nhưng không được vào nội vi vòng rào của Kim Cang Tòa. Cây Bồ Đề và Kim Cang Tòa được chăm sóc rất kỹ lưỡng, lúc nào cũng có một vị sư người Ấn Độ thuộc chùa Phật giáo Ấn Độ (Maha Bodhi Mahavihara), nằm trong Ban Quản Trị Đại Tháp, chăm sóc, và túc trực để hướng dẫn khách hành hương.

                  Kim Cang Tòa-Diamond Throne

                  Tòa Kim Cang nằm khoảng giữa Đại Tháp và cội Bồ Đề. Theo lịch sử Phật giáo thì tòa này được vua A Dục xây vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Tương truyền thời xa xưa, tòa Kim Cang được trang hoàng bằng những loại đá quí như san hô, mã não, hồng ngọc, bích ngọc, hổ phách, lưu ly, trân châu, ngà, vàng, bạc, vân vân. Nhưng theo thời gian những bảo vật đã bị mất dần. Ngày nay tòa Kim Cang được bảo vệ trong một hàng rào xi măng có lối kiến trúc cổ và một hàng rào có trụ bằng kim loại mạ vàng do nước Tích Lan xây dựng. Ngay trên tòa là một mái cong được xây lên để che mưa tránh nắng. Đây là nơi Đức Phật đã ngồi thiền định trong suốt 49 ngày đêm. Năm 1881, các nhà khảo cổ đã đào được tại đây một tòa bằng đồng mạ vàng, dài 2.28 mét, ngang 1.29 mét, cao 0.914 mét. Trên mặt và chung quanh tòa có khắc rất nhiều hoa văn rất mỹ thuật. Đối với Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng thì Kim Cang Tòa là một di vật thiêng liêng nhất vì nó chính là trung tâm của vũ trụ, nơi tọa thiền và thành đạo của một bậc Đại Giác, bậc thầy của trời người. Nơi mà các đệ tử Phật tin là cái nôi của Phật giáo. Trong ký sự, Ngài Huyền Trang đã kể về Bồ Đề Đạo Tràng như sau: “Đi về phía Tây Nam từ đỉnh núi Pragbudhi khoảng 14 hay 15 dặm, chúng ta sẽ đến cây Bồ Đề. Cây này được bao quanh bởi một bức tường gạch cao lớn và vững chắc. Bức tường này hình chữ nhật cạnh dài chạy từ Đông sang Tây, cạnh ngắn chạy theo hướng Bắc Nam. Chu vi của bức tường này khoảng 500 bước. Chính giữa khu tường là tòa Kim Cang, nơi Đức Phật ngồi thiền. Trong thời xa xưa đời hiền kiếp khi quả đất được tạo ra thì tòa Kim Cang này cũng đã xuất hiện. Tòa nằm ngay giữa trung tâm của vũ trụ và đi sâu vào kim luân rồi ăn sâu xuống lòng đất. Tòa được làm bằng Kim Cương. Chu vi khoảng chừng 100 bước, trên tòa này có 1.000 vị Phật đời hiền kiếp đã ngồi và nhập kim cang định vì vậy mà tòa được gọi là Kim cang. Đây cũng chính là nơi Đức Phật đã đạt được Thánh đạo, vì vậy nó cũng được gọi là Bồ Đề Đạo Tràng.”

                  Hiện tại ngôi Đại Tháp được bao bọc bởi hàng rào gạch. Bên trái Đại Tháp có lối kinh hành trên nền cao hình chữ nhật với những đóa sen để kỷ niệm hoa sen xuất hiện nâng những bước chân của Đức Phật khi Ngài vừa mới xuất định đi hành thiền. Bên ngoài ngôi Đại Tháp có rất nhiều chùa, tháp, khách sạn, nhà ăn, và những sạp bán đồ Phật cụ cũng như những vật kỷ niệm liên quan đến Phật giáo khác.



                  (Đường kinh hành bên cạnh Đại Tháp Bodhgaya -Inner Walking Meditation Route)

                  Chung quanh Đại Tháp có tất cả ba đường “Kinh Hành.” Đường trong cùng gần Đại Tháp, đường giữa nằm tương đối cao hơn và đường ngoài cùng nằm gần vòng rào, khoảng lưng chứng Đại Tháp. Chung quanh Đại Tháp còn có nhiều tháp nhỏ, do các vị vua và các nhà doanh thương giàu có xây dựng về sau này. Dù niên đại xây dựng có khác nhau, nhưng các tháp đều có lối kiến trúc giống nhau. Kể từ khi vua A Dục chiêm bái khu Bồ Đề Đạo Tràng, khu này đã trở nên khu Thánh tích thu hút chẳng những các hàng vua chúa, mà ngay cả hàng dân dã các nơi cũng tề tựu về đây chiêm bái và đảnh lễ. Không riêng gì các vương triều tại Ấn Độ mà các vương triều lân bang như Miến Điện, Népal, Bhutan, Thái Lan, Tích Lan... đã thi nhau làm cho Bồ Đề Đạo Tràng ngày càng phát triển và đẹp đẽ hơn. Bất cứ nơi nào có in dấu chân Phật, nơi ngày lưu trú, tắm giặt, hay thọ thực...mỗi nền tháp, mỗi ao nước, gốc cây, vân vân đều được tạc vào trụ hay bia đá và không có thứ gì có thể làm mờ nhạt đi những nét đậm lịch sử một thời của Phật giáo này. Khoảng năm 450 AD vương triều Miến Điện đã cho trùng tu Đại Tháp. Và theo bia ký (588- 89), một người trong hoàng gia Tích Lan tên Mahanama đã cho xây tại đây một ngôi già lam có sức chứa hơn 1.000 chư Tăng mà theo ký sự của Ngài Huyền Trang có ghi: “Năm 635 khoảng 1.000 Tỳ Kheo thuộc Thượng Tọa Bộ đã trú ngụ trong ngôi già lam này.” Vào khoảng năm 600, một vị vua Bà La Môn của xứ Bengal, vì thù nghịch với Phật giáo nên đã cho chặt và đốt phá cội Bồ Đề. Đến năm 620 thì vua Purna Varma cho phục hồi lại cội Bồ Đề và cho dựng một hàng rào cao khoảng 7 mét để bảo vệ. Từ đó đến nay, cây Bồ Đề tại đây không còn bị ai hại nữa.


                  (Tượng thờ Quán Thế Âm Như Ý, bên trong về phía trái của Bồ Đề Đạo Tràng)

                  Trong khuôn viên Đại Tháp có hai ngôi tháp, một bên trái và một bên phải, sát bên cửa Đại Tháp, không phải là tháp của Phật giáo, mà là của Ấn giáo. Những vị giáo sĩ Bà La Môn đã khéo léo đặt thêm trong tháp một vài tượng Phật cho Phật tử hành hương lầm tưởng là Tháp Phật giáo. Bên trong mỗi ngôi tháp này đều có năm pho tượng thần Shiva.

                  Sau khi tụng một thời kinh và cúng đèn Đại Tháp, sư Minh Thành thuyết minh về lược sử Đức Phật và việc thành đạo của Ngài. Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, vào một đêm Đông lạnh giá, trong khi chúng sanh còn đang nửa tỉnh nửa mê trong cơn trường mộng, thì một ánh sáng kỳ diệu đã xuất hiện nơi Vườn Lâm Tỳ Ni, trong vùng Đông Bắc Ấn Độ. Thái Tử Tất Đạt Đa đản sanh. Theo tục lệ Ấn Độ thời bấy giờ, Thái Tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) rất sớm, ở tuổi 16. Là một Đông cung Thái Tử trong một vương quốc phồn thịnh, Ngài muốn gì được nấy trong xa hoa lộng lẫy. Thế nhưng Ngài đã sớm thức tỉnh được cơn trường mộng ‘sanh-già-bệnh-chết’ của chúng sanh vạn loài nên năm 29 tuổi, Ngài quyết định từ bỏ cung vàng điện ngọc, xuất gia tầm đạo giải thoát cho nhân loại. Sau khi rời bỏ cung vàng điện ngọc, Ngài trở thành một vị ‘khất sĩ’ cô thân vạn lý du. Ngài đã đi bộ gần 650 cây số đến thành Vương Xá để bắt đầu cuộc tu khổ hạnh. Tại đó Ngài đã tòng tu với Đạo sĩ A Ra La Ca La Ma (Alara Kalama), rồi sau đó Ngài đến tu thiền định với đạo sư Uất Đà Ca La Ma Tử (Uddaka-Ramaputta), nhưng sau đó Ngài nhận chân ra rằng những thứ này đều không phải là con đường giải thoát mà Ngài đang đi tìm. Ngài bèn từ giả vị đạo sư và tiếp tục đi đến khu rừng Khổ Hạnh (Uruvela) cách đó khoảng 65 cây số. Tại đây Ngài cùng năm anh em Kiều Trần Như tu tập khổ hạnh. Không có phép khổ hạnh nào mà Ngài không tập qua. Ngài cùng các huynh đệ đã thực hành những phương pháp tự hành xác khắc nghiệt nhất trong sáu năm liền. Nào nín thở, nào nhịn ăn hay chỉ ăn ngày một giọt súp hoặc một hột mè, nào đè lưỡi, nào cắt đứt hơi thở, nhưng tất cả đều là sự hủy hoại thân thể một cách oan uổng chứ không đem lại kết quả như Ngài mong đợi. Dáng dấp tươi trẻ ngày nào của một vị Thái Tử phương phi tuấn tú đã biến đâu mất tự lúc nào, nhường chỗ cho một tấm thân gầy còm khô đét, chỉ còn lại da bọc xương mà thôi. Thần chết như vẫy gọi đâu đó mà con đường tầm đạo giải thoát hãy còn mờ mịt. Sau đó Ngài quyết định từ bỏ con đường khổ hạnh thái quá này. Ngài tự nhủ, muốn tu hành để đạt đến đạo quả giải thoát, phải duy trì tấm thân này chứ không thể để cho nó chết dần mòn một cách vô bổ. Do đó một sáng nọ Ngài nhận bát cháo sữa trộn với mật ong do nàng Sujata cúng dường. Chính việc làm này khiến cho năm anh em Kiều Trần Như xa lành Ngài mà đi đến vườn Lộc Uyển để tiếp tục tu hành khổ hạnh. Sau khi nhận bát cháo sữa, sức khỏe Ngài hồi phục, Ngài qua bên kia sông Ni Liên Thiền (Neranjara), nằm về phía Nam thành phố Gaya chừng 10 cây số, thả chiếc bình bát xuống dòng sông và nguyện rằng: “Nếu dòng sông này xác chứng được sự quyết chí tu hành của ta để thành đạo cả, thì xin chiếc bát này hãy trôi ngược dòng Ni Liên.” Thật vậy, sau khi Ngài thả chiếc bát xuống sông, nó đã trôi ngược dòng như lời nguyện của Ngài. Khi bước lên bờ, Ngài nhận bó cỏ kiết tường do một người nông dân cúng dường. Sau đó Ngài đi đến Gaya, ngồi dưới gốc cây Tất Bát La và lại phát nguyện: “Nếu ta ngồi tòa này mà không chứng được đạo vô thượng bồ đề, thì thân này dù tan xương nát thịt, ta quyết không đứng dậy.” Phát nguyện xong Ngài đã ngồi thiền định trong suốt 49 ngày đêm. Và chính dưới gốc cây Bồ Đề thiêng liêng này vào năm 528 trước Tây Lịch, Ngài đã giác ngộ nguyên lý giải thoát. Ngài đã lần lượt chứng đắc các tầng thiền từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, cũng như tứ thiền vô sắc là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau đó với tâm định tĩnh, Ngài tuần tự chứng đắc túc mạng minh (nhớ hết các đời quá khứ), thiên nhãn minh (thấy hết sự sống chết của chúng sanh muôn loài), và lậu tận minh (thấy tất cả các lậu hoặc, nguyên nhân đưa đến các lậu hoặc, và phương cách diệt trừ các lậu hoặc). Từ đó một tri kiến khởi lên trong Ngài “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.” Sau khi thành Phật, Đức Phật đã lưu lại Bồ Đề Đạo Tràng thêm một tuần nữa để tiếp tục an trú trong thiền định. Tuần thứ hai Ngài đến tháp Animesalochana, tại đây Ngài nhìn về hướng cội Bồ Đề không chớp mắt trong suốt một tuần lễ để tạ ơn sự trợ giúp che chở của nó trong suốt 49 ngày đêm thiền định của Ngài. Từ đó trở về sau này, cây Bồ Đề trở thành một biểu trưng đặc biệt cho sự giác ngộ tối thượng của Đức Phật. Và cũng vì thế mà nó được lễ bái và thờ kính như chính bản thân Đức Phật vậy. Tuần thứ ba Ngài đi kinh hành từ ngôi tháp Animesalochana này trở về cội Bồ Đề mà theo truyền thuyết Phật giáo thì từng bước chân Ngài đi là từng đóa sen nở nâng bước chân Ngài. Hiện tại khối đá Chankramenar, nơi đánh dấu quãng đường nơi Đức Phật qua lại gần cội Bồ Đề vẫn còn đây. Chiều dài khối đá khoảng 16 mét, chiều ngang khoảng 1.1 mét và chiều cao khoảng 0.914 mét. Tuần lễ thứ tư Đức Phật an trú trong điện Ratanaghara. Tại đây Ngài quán chiếu sâu hơn về định luật Nhơn Quả cũng như những vấn đề thuộc về siêu hình học của Vi Diệu Pháp (Abhidharma), mà theo truyền thuyết thì chính tại đây kim thân của Đức Phật tỏa ra ánh sáng năm màu “Xanh, vàng, đỏ, trắng và cam.” Đây cũng chính là năm màu mà Đại Hội Phật giáo tại Tích Lan năm 1958 đã công nhận làm màu cờ cho Phật giáo quốc tế. Tuần thứ năm Đức Phật an trú dưới gốc đa (Ajapala) gần cổng Đại Tháp để chứng nghiệm sự an lạc và khinh an của giải thoát, có sách viết là cây Ni câu đà (Nigrodha). Vị trí của cây này hiện nay người ta không xác định được, tuy nhiên các nhà khảo cổ cho rằng nó nằm gần cổng Đại Tháp. Chính tại nơi đây các vị Bà La Môn đã đến vấn nạn Ngài và Ngài đã nói cho họ nghe về sự cao quí của một con người không phải từ dòng họ, mà do nhân cách và cách hành sử hiện đời của con người ấy. Ngài nói: “Một người không phải khi sanh ra là Bà La Môn mà chính là khi chết đi việc ấy mới quyết định tùy theo nghiệp anh ta đã làm trong đời này. Bà La Môn có nghĩa là phạm chí và chỉ những người nào tạo nghiệp lành mới có thể sanh thiên thì mới gọi được như vậy.” Tuần lễ thứ sáu Đức Phật an trú tại hồ Muchalinda, phía Nam đại tháp. Trong một đêm mưa to gió lớn, sấm chớp nổi lên ầm ầm, rắn thần Mucalinda đã hiện đến bảo vệ Ngài. Về phía Nam của hồ hãy còn có một tượng Phật được che chở bên trên bởi một tượng rắn rất lớn. Trong hồ người ta trồng rất nhiều sen, súng và nuôi rất nhiều cá. Dọc hai bên bờ hồ có hàng rào chắn, sát bên là khu vườn đầy hoa muôn sắc. Nước trong hồ ngày nay đã bị ô nhiễm khá nặng nề, tuy nhiên, vào buổi sáng sớm thường có những vị theo Ấn giáo đến đây tắm rửa và dâng nước lên thần mặt trời. Mới sáng sớm là đoàn người bán cá cho người hành hương phóng sanh đã tụ tập đầy nơi cổng đi vào hồ, quang cảnh nơi đây thật vô cùng náo nhiệt. Hiện nay có một ngôi làng nằm về phía Nam Đại Tháp chừng 1.6 cây số có tên là Muchilinda, có lẽ bắt nguồn từ sự cố này. Tuần lễ thứ bảy Đức Phật an trú nơi cây Rajayatana ở phía Đông Nam của Đại Tháp để chứng nghiệm sự an lạc của quả vị giải thoát hoàn toàn. Tại đây Ngài đã tuyên thuyết giáo pháp cho hai vị thương buôn, một tên là Đế Lê Phú Bà (Tapussa) và người kia tên là Bạt Lê Ca (Balluka). Đây là hai vị Phật tử tại gia đầu tiên của Đức Phật.”Sau đó Đức Phật du hành về thành Ba La Nại, đến Vườn Lộc Uyển để tìm năm người bạn đồng tu trước kia, hầu truyền đạt cho họ những gì Ngài đã chứng ngộ.

                  Sự thành đạo của Đức Phật chẳng những là một chiến thắng vẻ vang cho riêng Ngài, mà còn là một cuộc cách mạng tâm linh vô tiền khoáng hậu. Chính Đức Phật đã mở ra cho nhân loại một con đường giải thoát, giải thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não, hầu mang lại cho con người một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, một cuộc tu đến chân thiện mỹ cũng như giải thoát rốt ráo.

                  Sau đó, Hòa Thượng hướng dẫn cả đoàn đi nhiễu vòng quanh Đại Tháp và chiêm ngưỡng Kim Cang tòa. Tôi cảm thấy niềm xúc động thật mạnh trên toàn thân toàn tâm, một nỗi xúc động không thể diễn tả được bằng lời. Cả thân tâm tôi bị thu hút không phải bởi sự hùng vĩ của đại tháp, mà bởi kính ngưỡng sự vĩ đại và cao cả của Đức Phật. Tôi nghĩ chắc mọi người, ai cũng có một nỗi cảm xúc như tôi. Lúc quỳ đảnh lễ Kim Cang Tòa và cội Bồ Đề uy nghi sừng sững, tôi thấy mình nhỏ bé quá trước sự vĩ đại của Đức Thế Tôn, lòng tôi như cảm thấy mình đang quỳ trước mặt Đức Thế Tôn mà nghe lòng lâng lâng niềm kính ngưỡng. Có nhiều người cho rằng mình bất hạnh vì sanh ra vào thời không có Phật. Riêng tôi, tôi không nghĩ như vậy. Tôi không có cái may mắn như các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, hay A Nan, Ca Diếp... là được sanh ra ngay vào thời có Phật, nhưng tôi vẫn còn cái may mắn là có giáo pháp và Tăng đoàn, tôi vẫn còn có Hòa Thượng là vị hướng dẫn tinh thần, là ân sư đã dìu dắt tôi từng bước hướng thượng.


                  Hình Ảnh Bồ Đề Đạo Tràng


                  (HT dẫn đoàn đi nhiễu quanh Đại Tháp)

                  (Tụng kinh & dâng hoa-Bồ Đề Đạo Tràng)



                  (Lễ xuất gia gieo duyên-Bồ Đề Đạo Tràng)




                  (Bồ Đề Đạo Tràng by night)
                  Last edited by viet11; 27-05-2012, 11:08 PM.
                  Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                  Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                  ............



                  Can't Live Without...hehe...


                  Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                  Comment


                  • #54
                    Phần 2

                    KHỔ HẠNH LÂM


                    Sáng sớm ngày 1 tháng 12, chương trình có phần thay đổi, thay vì đi thăm Thành Vương Xá và núi Linh Thứu như đã dự tính, đoàn đi thăm Khổ Hạnh Lâm (Uruvela), làng Sujata và sông Ni Liên Thiền (Naranjana). Khổ Hạnh Lâm cách Gaya không xa lắm, nhưng đường sá gồ ghề xấu xí nên đoàn phải mất gần 2 giờ mới tới làng Bakraur. Xe buýt cố gắng chạy len lỏi vào những con đường rất hẹp và rất xấu cho đoàn hành hương đỡ phải đi bộ. Tuy nhiên, gần đến đồi Pragbodhi, xe không còn vào được nữa, nên chúng tôi phải đi bộ khoảng 10 phút sau mới đến đỉnh Uruvela. Chính nơi đây Đức Phật đã rời bỏ năm người bạn đồng tu để chuyển sang con đường “Trung Đạo.” Ngài đã từng trú ngụ trong hang đá Dungeswari trong một thời gian dài. Ngày đó, sau khi rời bỏ kinh thành Ca Tỳ La Vệ, thái tử Tất Đạt Đa đã phi ngựa qua vùng quê hương của dòng họ Thích Ca, rồi vượt qua xóm làng của bộ tộc Malla. Ngài đã cùng Sa Nặc (Sarnath) đến bên bờ sông A Nô Ma, tại đây Ngài đã cắt mớ tóc nhờ Sa Nặc Mang về trao lại cho phụ vương, cởi bỏ áo hoàng bào để đổi lấy chiếc áo rách cũ kỹ của người thợ săn, rồi chia tay trong tiếng khóc nức nở của Sa Nặc. Kể từ đó Thái tử Tất Đạt Đa đã trở thành vị sa môn khổ hạnh, cô thân vạn lý du tìm chân lý giải thoát cho nhân loại. Mỗi sáng Ngài ôm bình bát ra đi, Ngài đi một cách lặng lẽ, đến trưa thì dừng chân lại trước nhà của những dân làng để chờ sự cúng dường của họ, sau khi thọ trai, Ngài dừng lại một bóng cây nào đó để tu tập khổ hạnh. Ngài tìm hết thầy này đến thầy khác, từ thầy Bạt Già Bà (Bhagava), rồi đến thầy A Ra La Ca Lan (Aralakalama), rồi lại đến thầy Uất Đầu Ka La Ma Tử (Udraka-Ramaputta)... để thọ giáo, nhưng không có vị nào vượt qua được sự thông thái của Ngài, nên Ngài tiếp tục đi về xứ Ma Kiệt Đà, vào kinh thành Vương Xá.


                    (Hòa Thượng Giác Nhiên và
                    đoàn hành hương vừa mới tới khu Khổ Hạnh Lâm)

                    Tại đây Ngài hạnh ngộ với vua Tần Bà Sa La, và cũng tại đây Ngài gặp năm anh em A Nhã Kiều Trần Như trong khu rừng Khổ Hạnh Lâm, nơi mà Ngài đã cùng họ tu tập ròng rã trong 6 năm liền. Ngày nay ngọn đồi này có tên là Dhongra, cách làng Bakraur chừng 1.6 cây số về phía Đông Bắc, dọc theo bờ sông Ni Liên Thiền. Trên ngọn đồi này ngày nay có một ngôi chùa Tây Tạng. Khách hành hương leo lên tới đỉnh thường được các vị sư Tây Tạng đãi trà. Hòa Thượng cùng đoàn leo lên hang Khổ Hạnh nằm trong khu khổ hạnh lâm. Sau đó đoàn bố thí tài vật cho những người nghèo trong khu quanh rừng Khổ Hạnh trước khi đến làng Sujata.

                    Hình Ảnh Tại Khổ Hạnh Lâm


                    1 (Xe buýt lòn lách qua những con đường gồ ghề đưa đoàn hành hương đến Khổ Hạnh Lâm)


                    2 (HT Thích Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn hành hương lên Hang Khổ Hạnh )


                    3 (Không biết thời Đức Phật còn tại thế như thế nào chứ hiện giờ thì người dân ở khu Khổ Hạnh Lâm cũng không khá gì hơn cái tên của nó)


                    4 (Đoàn đang được Hòa Thượng Thích Giác Nhiên hướng dẫn đi lên Hang núi nơi Đức Phật đã từng trú ngụ lúc Ngài tu Khổ Hạnh)


                    5 (Đoàn hành hương đang thăm viếng Khổ Hạnh Lâm)


                    6 (Hang Khổ Hạnh Dungeswari trong rừng Khổ Hạnh Lâm)


                    7 (Những người dân nghèo khổ tại Khổ Hạnh Lâm đang chờ được ủy lạo)


                    8 (Trên đường từ Hang Khổ Hạnh đi xuống, một số vị trong đoàn đang bố thí tiền bạc cho những người nghèo trong khu Khổ Hạnh Lâm)


                    9 (Những người dân nghèo khổ tại Khổ Hạnh Lâm vẫn còn luyến tiếc với khách hành hương)


                    10 (Khổ Hạnh Lâm ngày nay chỉ còn lác đác những dân nghèo)


                    11 (Đoàn hành hương chụp hình lưu niệm tại Khổ Hạnh Lâm)

                    Sông Ni Liên Thiền (Naranjana)

                    Sông cách Đại Tháp khoảng 200 mét về phía Đông. Ngày nay sông này có tên là Lilajan. Sông rộng trên 1 cây số. Vào mùa nắng, sông khô cạn gần như không còn một giọt nước. Đến mùa mưa thì nước chảy rất mạnh. Hiện nay chánh phủ Ấn Độ đã bắt ngang qua sông này một cây cầu thật dài, rất thuận tiện cho việc giao thông qua lại với làng Bakraur. Theo truyền thống Phật giáo thì chính tại nơi này Đức Phật đã tắm gội sạch sẽ, sau đó Ngài nhận bát cháo sữa do nàng Sujata cúng dường, rồi Ngài nhận thêm bó cỏ kiết tường làm gối ngồi thiền từ một nông dân trong vùng, trước khi Ngài đi về cội Bồ Đề bắt đầu thiền định.

                    Hình Ảnh Sông Ni Liên Thiền


                    14 (Chụp hình lưu niệm tại bờ sông Ni Liên Thiền)


                    15 (Cây Bồ Đề bên bờ sông Ni Liên Thiền)


                    16 (Sông Ni Liên Thiền khô cạn)


                    Làng Sujata


                    (Chính tại gốc cây này bên bờ sông Ni Liên Thiền, nàng Sujata
                    đã dâng cúng bát sữa cháo lên Đức Phật)

                    [IMG]Làng Sujata-Kuti, nơi nàng Tu Xà Đa (Sujata) đã dâng bát cháo sữa lên Đức Phật. Vị trí của làng nằm khoảng 2 cây số về phía Nam bờ sông Ni Liên Thiền, thuộc địa phận làng Bakraur bây giờ. Tại đầu làng có một ngôi miếu nhỏ thờ hình Đức Phật ngồi thiền và cô gái chăn cừu Tu Xà Đa dâng sữa để ghi nhớ chính nơi đóThái Tử Tất Đạt Đa đã nhận bát cháo sữa do nàng Tu Xà Đa cúng dường. Không biết ngày xưa làng Sujata thế nào, nhưng chắc là sung túc hơn bây giờ nhiều vì thuở ấy nhà của nàng Sujata hãy còn có sửa để cúng dường Đức Phật, chứ ngày nay ngôi làng ấy xơ xác điều hiu, dân làng nghèo nàn thê thảm, nên họ chỉ biết có xin chứ không hề biết đến chuyện “cho” ai thứ gì. Còn sông Ni Liên Thiền, một chứng tích lịch sử trong việc Đức Phật chuyển sang “Trung Đạo,”con sông ấy hãy còn đây trên bản đồ, nhưng trên thực tế nó chỉ còn là một bãi cát bao la, không còn lấy một chút nước nào nữa. Chính nơi đây, sau khi vượt sông Ni Liên Thiền, Thái Tử Tất Đạt Đa đã nhận bát cháo sữa của nàng Sujata, nhờ đó mà sức khỏe của Ngài hồi phục dần dần. Rồi tiếp đó Ngài nhận bó cỏ cúng dường của một người nông dân để làm gối tọa thiền. Sau đó Ngài tìm đến gốc cây Bồ Đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng, và quyết chí thiền định cho đến khi đạt thành đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì hôm đó nàng Sujata đang vừa đi vừa dệt mộng cho một buổi cơm trưa ngon lành với túi mật ngọt mà cha cô đã mua khi bán hết củi khi sớm. Khi ấy nàng thấy thấp thoáng một sa môn đang ngồi dưới một gốc cây. Dù sau sáu năm tu khổ hành, thân thể của Thái tử Tất Đạt Đa đã gầy tóp, má hóp sâu, nhưng nơi Ngài toát ra một cái gì vô cùng cao quý, mà theo cô nghĩ phải là dáng vẻ của một vị trời. Cô nghĩ mình phải cúng dường cho vị trời này mới được. Thế là nàng lấy túi cháo sữa trên vai xuống đổ vào bình bát, sau đó cô trút hết túi mật mà cô đang mong thèm cho buổi cơm trưa hôm đó. Rồi với tất lòng thành kính cô quỳ xuống và cúng dường cho Thái tử và thầm vái là đang cúng dường cho một vị trời. Lúc đó Thái tử bèn ra định và bảo nàng là Ngài chỉ là một vị sa môn chứ không phải là một vị trời. Nàng Sujata với lòng kính ngưỡng vô biên đã bẩm với Ngài rằng: “Dù Ngài là một vị trời hay chỉ là một đạo sĩ, cũng xin Ngài nhận nơi con sự cúng dường này. Con nguyện cầu cho Ngài được giải thoát giác ngộ như mục tiêu hành đạo của Ngài.” Sau khi Thái tử chấp nhận sự cúng dường này thì nàng Sujata hết sức sung sướng, đứng dậy ra về. Trong khi đó, năm anh em Kiều Trần Như thấy hết cớ sự, tưởng rằng Thái tử đã phá bỏ lời nguyện tu hành năm xưa, và đầu hàng trước sự hành xác, nên họ quày quả quay lưng bỏ Ngài mà đi. Lúc đó Thái tử mới nhận chân rằng “không thể nào thái quá, mà cũng không thể nào bất cập được.” Vì vậy sau khi thọ nhận xong bát cháo sữa, Ngài liền đặt cái bát xuống dòng Ni Liên mà thệ nguyện: “Ta nguyện đạt được giác ngộ rốt ráo, nếu lời nguyện của ta thành sự thật thì chiếc bát này sẽ trôi ngược dòng.” Mà thật vậy, lúc ấy một luồng nước xoáy đã làm cho chiếc bát trôi ngược dòng. Sau đó Thái tử đã băng qua bên kia dòng Ni Liên Thiền, được một anh nông dân cúng dường bó cỏ Kusa (một loại cỏ thơm), Ngài bèn dùng bó cỏ làm gối lót tọa thiền, rồi đến ngồi tại một gốc cây mà phát nguyện: “Nếu không đạt thành đạo quả, ta quyết không đứng dậy và không rời khỏi chỗ này.” Sau 49 ngày đêm liên tuc tọa thiền Ngài đã đạt thành đạo quả Cháng Đẳng Chánh Giác. Tại khu làng Sujata, Hòa Thượng Thích Giác Nhiên cũng hướng dẫn đoàn thăm viếng khu trường học và ủy lạo một số học sinh và thầy cô nghèo tại đây. Khoảng giữa trưa, chúng tôi từ giã dân làng Sujata và lên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng. Sau khi rời khu làng Sujata, chúng tôi trở về lại Bồ Đề Đạo Tràng. Khoảng 1:00 giờ trưa ngày 1 tháng 12, 2005, đoàn dự lễ Hòa Thượng làm lễ xuất gia cho hai vị cư sĩ tại Bồ Đề Đạo Tràng, rồi thăm viếng một vài ngôi chùa lớn tại đây. Tối đêm đó Phật tử chúng tôi được tự do thăm viếng Đạo Tràng.[/IMG]




                    (Lễ quy-y tại Bodhgaya trưa 3/12/05)

                    (Sau lễ quy-y Hòa Thượng hướng dẫn tụng kinh cầu an)


                    Những Ngôi Chùa Tại Bồ Đề Đạo Tràng

                    Có thể nói Bồ Đề Đạo Tràng là một trong những Thánh tích hãy còn khá nguyên vẹn. Chung quanh khu vực Đạo Tràng, các quốc gia trên thế giới đến đây xây những ngôi chùa thật uy nghiêm và to lớn. Buồi chiều ngày 1 tháng 12 năm 2005, đoàn chúng tôi được Hòa Thượng Thích Giác Nhiên và các Tăng Ni sinh hướng dẫn đi thăm các chùa quanh vùng như chùa Việt Nam Phật Bảo Tự, chùa Nhật Bản, Tích Lan, vân vân. Tất cả đều uy nghi đồ sộ. Vì không đủ thì giờ nên chúng tôi chỉ ghé lại một số chùa do Tăng Ni sinh giới thiệu, chứ chúng tôi không đến được từng nơi để thăm viếng. Tuy nhiên, trên đường đi, Sư Cô Liên Phụng và Thầy Minh Thành thay phiên nhau thuyết minh về tất cả những ngôi chùa trong vùng này.

                    Hội Đại Bồ Đề-Mahabodhi Society

                    Sau đó chúng tôi ghé qua thăm Hội Mahabodhi Society nằm kế bên chùa Tây Tạng, không xa Đại Tháp bao nhiêu. Hội được ngài Anagarika Dharmapala người Tích Lan sáng lập vào năm 1891, là một Hội có tầm vóc lớn có trụ sở khắp nơi trên thế giới, như tại Hoa Kỳ, Anh, Tích Lan, Nhật Bản, Népal... và hoạt động rất mạnh ở Ấn Độ. Trụ sở Hội tại Bồ Đề Đạo Tràng được chính phủ Sri Lanka tài trợ xây cất và do các vị sư người Tích Lan quản trị. Đây còn là trung tâm thiền quán, cơ sở giáo dục, trạm y tế từ thiện xã hội cho dân làng. Ngoài ra, phía sau Hội còn xây nhiều phòng khách xá cho khách hành hương nhằm tạo ngân quỹ cho các lớp cấp I cho học sinh nghèo tại địa phương.

                    Chùa Ấn Độ MahaBodhi Mahavihara at Bodhgaya

                    Ngôi chùa Maha Bodhi Mahavihara, nằm đối diện với Đại Tháp, được chính phủ Ấn Độ tài trợ xây cất và đặt dưới sự quản trị của Ban Quản Trị Đại Tháp Bồ Đề (Buddha Gaya Temple Management Committee). Được biết ủy ban này do quận trưởng Gaya làm chủ tịch, cùng với tám thành viên, bốn thuộc Ấn giáo và bốn vị sư Phật giáo. Chùa Maha Bodhi Mahavihara được đặt làm trụ sở ủy ban. Chùa còn là trụ sở thông tin chính thức cho toàn khu Bồ Đề Đạo Tràng. Bên trong chùa có phòng nghỉ ngơi cho khách hành hương. Các vị sư Ấn Độ tại ngôi chùa này luôn túc trực tại Bồ Đề Đạo Tràng để hướng dẫn khách hành hương.

                    Chùa Thái Lan-Thai Temple at Bodhgaya

                    Kế bên Hội Mahabodhi Society là ngôi chùa Thái Lan, với dáng vẻ uy nghi sừng sững, tạo cho khu vực quanh Bồ Đề Đạo Tràng một vẻ đặc thù riêng của nó. Bên trong chánh điện là tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni bằng vàng, tạc đúc theo kiểu Thái Lan. Theo tài liệ lịch sử ngôi chùa thì pho tượng này được Thái Tử Thái Lan tên Hanon Kittikheaenhern dâng cúng 60.000 mỹ kim để đúc vào năm 1956. Năm 1957, hoàng gia Thái Lan tài trợ cho việc xây cất ngôi chùa này. Toàn bộ chùa được xây cất theo kiến trúc và vật liệu đặc biệt của người Thái Lan. Chùa có một khuôn viên rộng rải, nằm về hướng Tây của khu Đại Tháp. Mái chùa có những đường nét cong đặc biệt, mái lợp ngói vàng rất công phu. Phía sau chánh điện là hai dãy phòng nghỉ, xây theo hình chữ U, có thể chứa trên 300 khách hành hương.

                    Chùa Nhật Bổn-Japanese Temple at Bodhgaya

                    Cách chùa Thái Lan một quãng không xa mấy là chùa Nhật Bản. Cũng như dân Tây Tạng, Nhật Bản có rất nhiều chùa tại Bồ Đề Đạo Tràng vì hầu như mỗi tông phái đều muốn có một ngôi chùa riêng cho mình tại đây. Ngôi chùa này do Tông Nhật Liên xây dựng vào năm 1973, nằm sát bên chùa Tây Tạng, tọa lạc trên một khu đất cao. Muốn lên chánh điện phải bước lên hàng chục bậc cấp. Chùa được lót bằng một loại gạch rất đặc biệt, được lau chùi bóng loáng, có thể thấy bóng mình in trên đó. Tuy nhiên, chánh điện chùa rất nhỏ, thờ Đức Bổn Sư và hình ngài Nhật Liên. Cũng như các chùa khác tại đây, phía sau chùa là phòng nghỉ cho khách hành hương. Sau đó chúng tôi đến thăm một ngôi chùa khác của Nhật Bản, tên là chùa Đại Phật, với một pho tượng Phật vĩ đại. Tuy nhiên, chúng tôi không vào được vì chùa đang còn trong thời kỳ xây cất. Ngoài ra, Nhật Bản còn ngôi chùa Kim Cang Thừa nằm gần chùa Nhật Bổn Sơn, do Hội Daijokoyo xây dựng vào năm 1983, nhưng chúng tôi không có thì giờ thăm viếng ngôi chùa này. Nghe nói tại chùa Kim Cang Thừa, tiếng chuông “Hòa Bình” ngày hai thời sáng chiều vang dậy cả một góc trời.


                    (Chùa Đại Phật do chánh phủ Nhật tài trợ đang xây cất,
                    dự trù hoàn thành vào năm 2007 )

                    Việt Nam Phật Quốc Tự-
                    Vietnam Phat Quốc Tu at Bodhgaya

                    Riêng chùa Việt Nam Phật Bảo Tự, nằm trong một ngôi làng cách Bảo Tháp chừng 7 cây số, là một quần thể lớn, gồm ngôi Chánh Điện, ngôi khách xá thật lớn và một khu vườn rậm mát. Đây là ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên đất nước Ấn Độ do thầy Thích Huyền Diệu xây dựng vào tháng 5 năm 1987. Chùa được xây trên một khu đất rất rộng, khoảng hai mẫu tây, giữa khu đất bao la. Khi bước chân vào sân chùa là chúng ta biết ngay đó ngôi chùa Việt Nam vì tất cả đều mang dáng dấp Việt Nam. Trên đường trải sỏi đi vào chánh điện là hai hàng bông dừa, đủ các màu trắng, chen lẫn đỏ, hồng và màu tím thẳm. Trong sân chùa là những đám rau muống, rau đay pha lẫn với rất nhiều loại bông hoa khác, hòa lẫn với nhiều tiếng chim hót líu lo, tạo cho sân chùa một sắc thái thật đặc biệt của một vùng thôn dã Việt Nam. Chính khu đất rộng rãi này đã làm cho cảnh chùa càng thanh u tĩnh mịch hơn. Khu chánh điện vuông cạnh 16 mét, cao 24 mét gồm 3 tầng. Tầng dưới đất gồm trên 30 phòng khách xá, mỗi phòng đều có bia khắc tên một vị Thánh Tăng. Tầng nhì dùng để trưng bày những di tích và kinh sách. Tầng ba thờ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

                    Chùa Viên Giác-Viên Giác Temple

                    Chùa Viên Giác là ngôi chùa Việt Nam thứ hai tạo Bồ Đề Đạo Tràng. Chùa do Thượng Tọa Thích Như Điển tại Đức thành lập. Chùa hoàn thành vào năm 2002 trên một khu đất khang trang rộng rải, với nhiều phòng nghỉ cho khách hành hương. Hiện tại trong chùa có một nhà hàng chuyên làm các món ăn chay Tàu và Việt Nam để phục vụ khách hành hương.

                    Ngoài ra, tại Bồ Đề Đạo Tràng còn có nhiều ngôi chùa khác của các xứ Trung Quốc, Đài Loan, Tây Tạng thuộc nhiều tông phái khác nhau như phái Gelukpa, phái Karmapa, chùa Shechen Tennyi Dargyeling, trung tâm Root, một trung tâm thiền thất của ngài Zopa Rinpoche, chùa Bhutan, chùa Népal, chùa Đại Hàn, chùa Miến Điện, vân vân. Tuy nhiên, đoàn chúng tôi rất tiếc không có thì giờ thăm viếng từng chùa một.

                    Tối ngày 1 tháng 12, Hòa Thượng lại hướng dẫn cả đoàn ra đảnh lễ Đại Tháp. Đêm đó có nhiều vị hữu duyên hữu phúc lưu lại Bồ Đề Đạo Tràng để thiền định như các anh Thiện Tài, Thiện Phước... Cảnh Bồ Đề Đạo Tràng về đêm vừa kỳ vĩ, vừa huyền bí làm sao ấy. Những ánh đèn, những khuôn mặt thành kính dâng tấc lòng thành cúng dường lên Đức Bổn Sư. Những đoàn người đi kinh hành với những ánh đèn cúng Phật... tạo cho cảnh trí của Đạo Tràng một sắc thái thật đặc biệt, vừa uy nghi, vừa cảm động.



                    Thành Vương Xá Đỉnh Kỳ Xà Quật



                    (đường lên núi Linh Thứu trong Thành Vương Xá)

                    Sáu giờ sáng ngày 2 tháng 12, đoàn khởi hành đi thăm thành Vương Xá (Rajgir), thăm đỉnh Kỳ Xà Quật, và thăm núi Linh Thứu (Hill of Vultures). Từ Bodhgaya đi về phía đông bắc khoảng 50 cây số là đến thành Vương Xá. Thành này nằm về hướng Đông Nam thành Hoa Thị (Pataliputra nay là thủ phủ Patna của bang Bihar). Ngày trước Vương Xá là một kinh thành trù phú vào bậc nhất trong vùng Bắc Ấn, nhưng nay chỉ còn trơ lại một bức tường thành nằm trơ trọi giữa những túp lều tranh lụp sụp. Vương Xá là một trong những thành phố lâu đời nhất ở Ấn Độ. Thành Vương Xá là nơi gắn liền với cuộc đời hoằng pháp của Đức Thế Tôn trong nhiều năm. Chính nơi đây đã diễn ra nhiều pháp hội quan trọng và Đức Phật cũng đã về đây an cư kiết hạ nhiều lần. Thời Bình Sa Vương thì thành Vương Xá chính là kinh đô của vương quốc Ma Kiệt Đà. Ma Kiệt Đà thời đó là một vương quốc hùng mạnh với một địa thế hết sức đặc biệt. Vương quốc này đã tuần tự được cai trị bởi những quân vương Phật tử như Tần Bà Sa La, A Xà Thế, trong thời Đức Phật, rồi về sau này đến vua A Dục dưới triều đại Khổng Tước... Ngày đó Vương Xá thật sầm uất, dân cư đông đúc, sinh hoạt nhộn nhịp, kinh tế trù phú. Theo truyền thuyết Phật giáo thì sau khi Thái Tử xuất gia, Ngài đã gặp vua Bình Sa Vương, và vị sa môn trẻ tuổi Cồ Đàm đã hứa với nhà vua là trở về đây độ vua khi đắc đạo. Bảy năm sau đó, kinh thành Vương Xá tưng bừng nhộn nhịp mở hội đón một bậc Đại Giác đến đây. Đây là một trong những biến cố quan trọng trong lịch sử của thành này. Vương Xá còn có những tên khác như Girivraja, Vasumati, Barhadrathapura, Kusagrapura, và Rajagriha. Có lẽ vì Vương Xá được bao quanh bởi núi đồi nên nó có tên là Girivraja, có nghĩa là đồi núi chung quanh. Còn tên Vasumati có lẽ được đặt để tưởng nhớ đến vua Vasu khi ông lấy thành này làm kinh đô. Barhadrathapura đặt theo Brihadratha, tên của một vị vua sáng lập ra một triều đại tại kinh thành này. Trong Đại Đường Tây Vực Ký ngài Huyền Trang đã gọi thành này là Kusagrapura, có lẽ vì lúc này tại kinh thành này có nhiều loại cỏ thơm, nhưng theo truyền thuyết Ấn Độ thì tên này được đặt theo tên vua Kusagra, người kế vị vua Brihadratha. Còn tên Rajagriha, âm theo Hán tự là Vương Xá, có nghĩa là nơi vua chúa ngự trị, có lẽ vì nơi đây đã trở thành kinh đô trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, theo Ngài Huyền Trang trong Đại Đường Tây Vực Ký thì tên Rajagriha dùng để gọi thành Vương Xá mới nằm về phía Bắc của khu Vương Xá thời Đức Phật còn tại thế: “Đi về phía Đông của dòng sông Mahi là một khu rừng lớn, sâu trong rừng là ngọn núi Cam Túc (Kukkutapadagiri), còn gọi là núi Chân Gà. Triền núi cao và dốc, với những vực thẳm rất nguy hiểm, không thể nào vào được. Những tảng đá lở thường lăn từ trên xuống, trong những vực thẳm này có nhiều cây cao. Trên cao có ba đỉnh, mây mù thường che khuất các đỉnh ấy. Từ trên những hang động này, ngài Ma Ha Ca Diếp đã triệu tập cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Nơi này có động đá A Tu La, từ động này đi về phía Đông khoảng 60 lý sẽ đến thành phố Kussagara, có nghĩa là thành phố vua chúa của loại cỏ thơm. Đây chính là thủ đô của nước Ma Kiệt Đà. Những vị vua trước đã thành lập kinh đô tại đây. Xứ này sản xuất loại cỏ thơm rất tốt, và cỏ này là biểu tượng của sự may mắn. Những ngọn núi cao bao bọc thành phố như một tường thành kiên cố.Về phía Tây có một con đường nhỏ đi xuyên giữa núi. Về phía Bắc là con đường vượt trên triền núi. Thành rộng từ Đông sang Tây, nhưng lại hẹp về hước Bắc Nam. Chu vi thành khoảng 150 lý. Những tàn tích của thành nội có chu vi khoảng 30 lý. Những cây nguyệt tác dọc hai bên đường có bông hoa vàng óng ả, tỏa ra một mùi thơm đặc biệt. Về phía Bắc thành phố là một tháp. Chính nơi này Đề Bà Đạt Đa và A Xà Thế đã toa rập nhau để hãm hại Đức Phật. Phía Đông Bắc nơi này cũng có một ngôi tháp. Đây chính là nơi ngài Xá Lợi Phất lần đầu tiên được nghe ngài A Thuyết Thị (Asvajita) nói pháp nên sau đó tìm tới quy-y với Đức Thế Tôn. Về phía Bắc ngôi tháp này có một cái hồ rất sâu, bên bờ hồ có một cái tháp. Nơi đây Thắng Mật (Srigupta), một đệ tử của Ni Kiền Đà, đã thiết bị một hầm lửa âm mưu hại Phật. Thế nhưng Thắng Mật đã được Đức Thế Tôn độ và về sau cũng chứng được quả A La Hán. Phía Đông Bắc của kinh thành khoảng 14 hay 15 lý là Linh Thứu Sơn. Linh Thứu Sơn có hình như con chim và trên đó loài kênh kênh đã dùng làm nơi trú ngụ. Trong gần 45 năm hoằng hóa, Đức Phật thường về núi này thuyết giảng những giáo lý cao siêu. Vua Tần Bà Sa La đã cho lấp những hố sâu để làm con đường lên núi. Đỉnh núi chạy dài từ hướng Đông sang Tây và rộng từ Nam lên Bắc. Trên đỉnh có một tịnh xá bằng gạch, cửa thất quay về hướng Đông. Chính nơi đây Đức Phật đã giảng những bài kinh quan trọng của Phật giáo. Về phía Đông của tịnh xá là một tảng đá dài nơi Đức Phật dùng làm đường đi kinh hành. Kế bên tảng đá này là một tảng đá khác, cao khoảng 5 mét và rộng khoảng 10 mét. Đây chính là nơi Đề Bà Đạt Đa đã đứng để lăn đá xuống hãm hại Phật. Phía Nam nơi này có một ngôi tháp nằm bên dưới mỏm đá. Chính nơi này Đức Thế Tôn đã giảng kinh Pháp Hoa. Phía Nam của tịnh xá là một mỏm đá, có một ngôi nhà đá mà theo truyền thuyết, Đức Phật đã ngồi nhập định lúc Ngài còn là Bồ Tát trong một kiếp xa xưa. Phía Tây Bắc của ngôi nhà đá về phía trước là một tảng đá. Nơi đây A Nan đã bị ma vương làm sợ hãi. Theo truyền thuyết khi ngài A Nan nhập định tại đây, ma vương đã hiện hình làm chim kênh kênh vào giữa đêm tối trời, đậu trên tảng đá và cất tiếng kêu thảm thiết. Sau đó nhờ Đức Phật dùng thần lực đưa tay chẻ đôi mỏm đá và trấn an ngài A Nan và nói: ‘Con không cần phải sợ cái phép thuật của ma vương.’ Nhờ đó mà A Nan trụ tâm vào định trở lại dễ dàng. Hiện mỏm đá hình con chim và vết nứt của đá vẫn còn đó. Gần bên tịnh xá còn có một số các nhà đá, nơi ngài Xá Lợi Phất và những đại A La Hán khác nhập định. Phía trước hang động của ngài Xá Lợi Phất là một cái giếng đã cạn nước. Phía Đông Bắc của tịnh xá nơi giữa các mỏm đá là một tảng đá dài và phẳng. Đây là nơi Đức Phật dùng để phơi y áo. Bên hông tảng đá phơi y là một mỏm đá hãy còn in lại dấu chân Phật. Mặc dù bìa của dấu chân không còn rõ, nhưng chúng ta vẫn còn có thể nhận ra được. Trên đỉnh của ngọn núi về phía Bắc có một cái tháp. Từ đây Đức Phật đã nhìn xuống toàn xứ Ma Kiệt Đà và đã thuyết pháp xuyên suốt bảy ngày đêm. Phía Nam của cửa thành Bắc là ngọn núi Vipula. Theo truyền thuyết thì tại đây có 500 nguồn nước nóng, nhưng hiện giờ chỉ còn lại khoảng 10 suối mà thôi, một số ấm, một số lạnh, chứ không có suối nào nóng cả. Từ cửa thành Bắc đi khoảng một lý sẽ đến Trúc Lâm Tịnh Xá, nơi đây hiện còn những nền và tường của ngôi tịnh xá cũ với cửa hướng về phía Đông. Trong thời Như Lai còn tại thế, Ngài thường về trụ tại đây. Hiện vẫn còn một pho tượng Phật lớn bằng cỡ Ngài. Về phía Đông của Trúc Lâm Tịnh Xá là ngôi tháp do vua A Xà Thế dựng lên sau khi Thế Tôn nhập diệt. Sau khi vua A Dục của triều đại Khổng Tước (Maurya) lên ngôi, ngài cũng đã đến đây, mở tháp ra để lấy xá lợi và xây nhiều tháp khác để thờ. Hiện tháp vẫn tỏa ra một thứ ánh sáng kỳ diệu. Kế bên tháp xá lợi do vua A Xà Thế xây, còn một tháp khác chứa xá lợi của ngài A Nan. Theo truyền thuyết, khi ngài A Nan sắp sửa thị tịch, ngài đã rời khỏi xứ Ma Kiệt Đà để đi về Tỳ Xá Ly. Khi nghe tin hai nước đã tranh nhau cất quân đi giành xá lợi, ngài A Nan đã phân đôi thân mình, phần trên ở Tỳ Xá Ly, còn phần mình được vua của xứ Ma Kiệt Đà đem về xây tháp thờ. Không xa ngôi tháp này là nơi mà hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã dừng lại an cư. Phía Tây Nam của Trúc Lâm tịnh xá khoảng 5 lý, có một khu rừng trúc, giữa rừng là một ngôi nhà đá to do ngài Ca Diếp và 999 vị A La Hán đã kết tập kinh điển (không hiểu sao ngài Huyền Trang lại có 999, khác với con số 500 trong các kinh điển) sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Trước kia nơi này có những nền tường cũ, dấu tích nơi vua A Xà Thế đã xây đại sảnh cúng dường cho kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất.” Tại vùng này có năm ngọn núi, trong đó có núi Linh Thứu (Gijjakutta), nơi Đức Phật thường tới giảng kinh. Tuy khoảng cách không xa, nhưng đường sá gồ ghề xấu xí nên đoàn chúng tôi phải mất trên hai giờ đồng hồ mới đến được Vương Xá. Từ Vương Xá, đi thêm 12 cây số nữa là đến núi Linh Thứu. Bây giờ phương tiện lên núi đã được cải tiến bằng dây cáp điện do người Nhật thiết bị, đi nhanh và khỏe hơn thời Đức Phật nhiều, thế mà chúng tôi vẫn cảm thấy mệt. Càng nghĩ càng thấy cảm kích Đức Phật, thời đó phương tiện duy nhất chỉ là đôi chân, thế mà Ngài đã đặt bước đi khắp các vùng Bắc Ấn. Nhờ dây cáp điện mà mọi người đều lên đến đỉnh Kỳ Xà Quật một cách nhanh chóng. Lên đến đỉnh Kỳ Xà Quật, phải đi bộ một đoạn nữa mới đến Tháp Hòa Bình.

                    Tháp Hòa Bình Trên Đỉnh Kỳ Xà Quật


                    (Cổng vào Tháp Hòa Bình trên đỉnh Kỳ Xà Quật)


                    (Tháp Hòa Bình Shanti trên đỉnh Kỳ Xà Quật)


                    (Quang cảnh trên đỉnh Kỳ Xà Quật)

                    Vào năm 1978 phái Nhật Liên Tông của Nhật đã cho xây dựng ngôi tháp Hòa Bình to lớn sừng sững trên đỉnh núi Kỳ Xà Quật, để cầu nguyện cho nhân loại luôn sống trong hòa bình an lạc và hạnh phúc. Ngọn tháp hình bán cầu thật đẹp, chóp tháp cao 38 mét, đường kính 144 mét, mái vòm 72 mét, toàn tháp cao 125 mét. Tháp có năm tầng, bên trong có thờ xá lợi của Đức Phật. Bên ngoài vòng tường Tháp có các tôn tượng bằng vàng lay lát vàng, các tượng Phật Đản Sanh, Phật Thành Đạo, Phật Chuyển Pháp Luân, và Phật Nhập Niết Bàn...Xung quanh tháp có đường kinh hành hình trôn ốc, lót đá cẩm thạch trắng sạch sẽ và tươi mát, nên dù trời nắng gắt, chúng tôi lại đi chân không mà vẫn cảm thấy mát chân. Phía sau tháp là một chánh điện, lúc nào cũng có người túc trực, vừa đánh trống vừa niệm câu “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.”Người Nhật đã chọn đỉnh Kỳ Xà Quật để xây tháp Hòa Bình thật là đúng ý nghĩa của nó, vì từ đàng xa người ta có thể thấy được mô tháp khổng lồ này.

                    Mẫu tháp “Hòa Bình” này được người Nhật cho xây tại nhiều Thánh tích khác trong vùng Bắc Ấn Độ. Đây là nét độc đáo của người Nhật, vì bất cứ nơi đâu họ cũng đều xây tháp theo kiểu kiến trúc này.

                    Gần tháp Hòa Bình là một ngôi chùa Nhật Bản, được người Nhật xây ngay trên nền tháp cũ của vua A Xà Thế. Chùa được Đại Đức Nichi Dastu Fujai xây dựng vào năm 1978. Bến trong chùa tôn trí các tượng Phật rất mỹ thuật. Đặc biệt tiếng trống tại chùa này được đánh lên liên tục để cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
                    Sau khi tụng một thời kinh cầu an, Hòa Thượng hướng dẫn đoàn đi nhiễu quanh tháp, rồi cả đoàn cùng đi bộ lên núi Linh Thứu. Từ đỉnh Kỳ Xà Quật qua núi Linh Thứu không xa lắm, chỉ mất khoảng 30 phút đi bộ. Chính nơi đây, khi Đức Phật còn tại thế, vua Bình Sa Vương đã cho xây dựng một con đường ngoằn ngoèo từ chân lên đến đỉnh núi. Ngày nay con đường ấy được xây lại với các bậc cấp bằng xi măng và hai bên đều có cây to tỏa bóng mát, nên việc đi lại cũng dễ dàng, tuy nhiên, đối với các cụ già thì thật là vất vả. Người Nhật đã xây chiếc cầu Linh Sơn nối liền núi Kỳ Xà Quật và Linh Thứu. Đây cũng chính là nơi đánh dấu chỗ vua Tần Bà Sa La bước xuống ngựa, đích thân đi bộ lên hương thất thăm viếng Đức Phật. Thời Đức Phật còn tại thế, vua Bình Sa Vương đang cai trị vương quốc Ma Kiệt Đà đã cho xây hai lớp tường rào bao bọc thành Vương Xá. Lớp bên trong bao bọc nội điện, nơi vua và hoàng gia trú ngụ. Lớp bên ngoài bao bọc toàn thành nơi trú ngụ của đình thần. Thời ngài Phật Âm (Buddhaghosa) thì dân chúng thành Vương Xá đã lên đến 18 triệu. Tuy nhiên, đến đời vua Udyin, vị vua nối ngôi vua A Xà Thế, đã cho dời kinh đô về Pataliputra (ngày nay là Patna, thủ phủ của bang Bihar), bên cạnh một dòng sông với đất đai phì nhiêu màu mỡ, nên kể từ đó vị thế của thành Vương Xá không còn nữa. Vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, vua A Dục cho dựng tháp và trụ đá tại đây để tưởng niệm Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài.
                    Last edited by viet11; 01-06-2012, 10:56 AM.
                    Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                    Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                    ............



                    Can't Live Without...hehe...


                    Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                    Comment


                    • #55
                      Phần 3
                      Núi Linh Thứu




                      (Đỉnh Linh Thứu—Ngay trước khi tới hương thất của Đức Phật)

                      Núi Linh Thứu là một trong những ngọn núi cao bao bọc chung quanh thành Vương Xá. Linh Thứu là nơi Đức Phật đã thuyết giảng nhiều bộ kinh quan trọng trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong truyền thuyết Phật giáo, như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kinh Đại Bát Nhã... Trước khi tới đỉnh Linh Thứu, sư Minh Thành hướng dẫn đoàn tới thăm hang đá làm hương thất của ngài A Nan và Xá Lợi Phất. Ngay sau khi qua cầu Linh Sơn, bên phải có một động đá nhỏ. Chính nơi này ngài A Nan đã thường ngồi tu tập thiền định, và phía sau động hãy còn một đường nứt lớn chạy dài từ hương thất của Đức Phật, theo truyền thuyết thì đó chính là chỗ Đức Phật đã dùng thần lực đưa tay từ phòng mình xuống đặt trên đầu ngài A Nan để trấn an ngài. Đi theo một đỗi nữa là động của ngài Xá Lợi Phất. Hang này có một mỏm đá nhô ra như hình của đầu một con rắn, chính nơi đây ngài Xá Lợi Phất thường trú ngụ để thiền định và quản chúng. Từ động của ngài Xá Lợi Phất đi theo con đường ngoằn ngoèo với những nấc thang, tới một mỏm đá hình con chim mỏ nhọn, mặt ngước lên. Có lẽ vì hình dạng này mà núi có tên là “Linh Thứu.”


                      (Phế tích nền hương thất của Đức Phật trên đỉnh núi Linh Thứu)


                      (Hòa Thượng Thích Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn tụng kinh
                      cầu an tại hương thất của Đức Phật trên đỉnh Linh Thứu)

                      Đi lên tới đỉnh là hương thất của Đức Phật. Hiện tại hương thất của Đức Phật chỉ còn trơ lại một nền gạch, chứ không còn tôn tượng hay bệ thờ gì cả. Gọi là hương thất vì chính nơi đây hương thơm trí tuệ của Đức Thế Tôn đã tỏa ra ngào ngạt bay đi cùng nơi khắp chốn. Hương thất này được xây trên một tảng đá lớn trên đỉnh núi. Về phía Đông Bắc của hương thất là một dòng suối, ngày nay không còn nước nữa, nhưng theo truyền thuyết Phật giáo thì đây là một con suối có nước trong và mát, thời đó vào mùa hạ Đức Phật thường hay tắm giặt tại con suối này. Từ trên đỉnh này chúng ta có thể nhìn thấy bên dưới thành Vương Xá cũng như những ruộng lúa đại mạch quanh vùng. Hòa Thượng Pháp Chủ đã nhắn nhủ Phật tử trong nỗi xúc động mãnh liệt: “Trên 25 thế kỷ về trước, Đức Phật đã từng đến đỉnh núi này để thuyết những bài pháp quan trọng như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm và Niết Bàn đã làm thay đổi cả vũ trụ nhân sinh.” Sau đó Hòa Thượng hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh cầu an. Tại đây ngài Pháp Hiển cũng ghi lại trong Tây Vực Ký rằng khi ngài lên đến đỉnh Linh Thứu, ngài cảm thấy vô cùng đau xót vì tủi cho thân phận mình không gặp mặt Đức Thế Tôn, nhớ đến ân đức của Đức Phật nên ngài đã tụng một thời kinh Lăng Nghiêm, trong khi ngài Huyền Trang đến đây đã tụng hết một bộ kinh Pháp Hoa. Còn đoàn chúng tôi chỉ tụng được có một thời kinh cầu an và hòa bình thế giới. Đúng là sanh ra vào thời mạt pháp, phước mỏng, nghiệp nặng nên không có đủ duyên đủ phước như những bậc thầy đi trước.

                      Theo truyền thống Phật giáo thì cũng chính tại nơi đây trong một pháp hội, ngài Ca Diếp đã nhận sự truyền thừa từ Đức Phật. Theo truyền thuyết Phật giáo thì trong chúng hội này, Đức Phật đã không thuyết một lời nào mà chỉ đưa lên một cành hoa. Cả chúng hội đều ngơ ngác nhìn nhau, duy chỉ có Ngài Ca Diếp nhìn Phật mỉm cười. Cái cười của một người đại đệ tử giác ngộ. Từ đó ngài Đại Ca Diếp được Phật trao truyền nối tiếp dòng truyền thừa Chánh Pháp. Chúng ta sanh ra vào thời không có Phật, nên chỉ biết đến đây thành kính đảnh lễ các thánh tích một thời đã ghi lại dấu vết của Ngài.”Bên này đỉnh Linh Thứu chúng ta có thể nhìn thấy tháp Hòa Bình bên kia, cũng như toàn cảnh của thành Vương Xá bên dưới. Sau đó vào buổi trưa, đoàn xuống núi để tiếp tục thăm viếng Trúc Lâm Tịnh Xá. Gần tới chân núi Linh Thứu, sư Minh Thành chỉ cho đoàn tảng đá Mardukushi, mà theo truyền thuyết Phật giáo, thì chính Đề Bà Đạt Đa đã lăn nó từ trên núi cao xuống để hãm hại Đức Phật.

                      Trên đường đi đến núi Linh Thứu, phía bên trái hãy còn lại phế tích của những bức tường. Theo truyền thuyết thì đây là khu vườn xoài của một danh y thời Đức Phật, tên Kỳ Bà, đã từng là ngự y của vua Tần Bà Sa La và A Xà Thế. Ông đã theo gương vua Tần Bà Sa La, cúng khu vườn xoài của mình cho Đức Phật, và Đức Phật cũng đã nhiều lần ghé lại nơi này.

                      Tưởng cũng nên nhắc lại một chút về vua Tần Bà Sa La. Tần Ba Sa La là một vị quân vương Phật tử rất ngoan đạo, ngài đã thường xuyên viếng thăm, đảnh lễ và cúng dường phẩm vật lên Đức Phật và Tăng đoàn. Ngoài ra, nhà vua cũng trì giữ bát quan trai giới rất nghiêm nhặt. Việc vua Tần Bà Sa La quy-y Phật đã khiến cho rất nhiều người trong hoàng tộc thời đó quyết định quy-y theo. Người gần gũi ông nhất là hoàng hậu Vi Đề Hy, em ruột vua Ba Tư Nặc, cũng quy-y với Phật. Mặc dù ở ngai vị hoàng đế của một nước lớn, lúc nào vua Tần Bà Sa La cũng kính ngưỡng Đức Phật không sai khác. Mỗi lần lên núi Linh Thứu thăm Phật, khi lên gần đến hương thất của Đức Phật, nhà vua ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng lại, chỉ một mình mình đích thân lên đảnh lễ Phật. Để tiện việc đi lại cho Đức Phật trên núi Linh Thứu, nhà vua đã cho làm một con đường từ dưới chân lên đến đỉnh Linh Thứu. Con đường này ngày nay hãy còn và đã được người Nhật tu sữa lại rất thuận tiện. Con đường nguyên thủy rộng chứng 1.5 mét, toàn bộ chiều dài khoảng 1.5 cây số. Bên dưới chân núi có một tảng đá mà theo truyền thuyết chính là nơi Đề Bà Đạt Đa đã lăn đá hại Phật. Lưng chừng triền núi có một tấm bảng ghi lại sự kiện vua Tần Bà Sa La xuống kiệu, đi bộ lên đỉnh đảnh lễ Đức Phật. Tấm bảng thứ hai đánh dấu chỗ vua Tần Bà Sa La bỏ lại đoàn tùy tùng, một mình vào đảnh lễ Đức Phật. Tuy nhiên, vì nghiệp báo tiền khiên mà về sau này nhà vua bị chính đông cung thái tử A Xà Thế hạ ngục cho đến chết. Về sau này, khi Đức Phật đã nhập diệt, thì chính A Xà Thế cũng quay về với đạo Phật và trở thành một quân vương Phật tử tích cực yểm trợ cho 500 vị A La Hán trong lần kết tập kinh điển lần đầu tiên trong động Thất Diệp, tại thành Vương Xá.


                      Những Hình Ảnh Khác Tại Núi Kỳ Xà Quật-Linh Thứu Sơn


                      (Đường lên Tháp Hòa Bình trên núi Kỳ Xà Quật)


                      (Cable lên núi Kỳ Xà Quật-Linh Thứu)


                      (Từ trên cable nhìn xuống dưới khu thung lũng Kỳ Xà Quật)


                      (HT hướng dẫn đoàn đi nhiễu tháp Hòa Bình)


                      (Đoàn chuẩn bị tụng kinh cầu an-tháp Hòa Bình-Kỳ Xà Quật)


                      (Từ bên đỉnh Kỳ Xà Quật ngó qua núi Linh Thứu)


                      (HT Thích Giác Nhiên và Thiện Tâm đang đi qua Linh Thứu)


                      (Thiền thất của ngài Xá Lợi Phất-Linh Thứu)


                      (Thiền thất của ngài A Nan-Linh Thứu Sơn)


                      (Nền nhà tưởng niệm Ngài Huyền Trang trên núi Linh Thứu)


                      (Bảng ghi chỗ Đề Bà Đạt Đa lăn đá hại Phật-Linh Thứu)


                      (Cổng Tịnh Xá Trúc Lâm-Thành Vương Xá)

                      Sau đó đoàn đến Trúc Lâm Tịnh Xá (Venuvana or Bamboo Grove) vào giữa trưa, nên Hòa Thượng cho phép đoàn dùng cơm trưa trước khi thăm viếng Tịnh Xá để hồi tưởng lại không khí sinh hoạt của Tăng đoàn thời xa xưa. Ngày đó, khi Đức Phật du hành từ Bồ Đề Đạo Tràng đến thành Vương Xá (Rajagaha), được vua Bình Sa Vương (Bimbisara) và thần dân nghênh tiếp một cách hoan hỷ.

                      Sau khi quy-y Tam Bảo và nghe lời tuyên thuyết của Đức Phật, vua Bình Sa Vương chứng Thánh quả và cảm thấy an lạc tuyệt đối. Sau khi cúng dường Trai Tăng tại hoàng cung, vua thỉnh ý của Đức Phật muốn biết nơi nào yên tịnh thích hợp cho Đức Phật và Tăng đoàn. Đức Phật trả lời rằng “Nơi thích hợp cho Như Lai và Tăng đoàn là một nơi vắng vẻ, không xa mà cũng không gần thành thị, để cho ai muốn, có thể đến một cách dễ dàng. Một nơi mát mẻ, ban ngày không đông đảo ồn ào, ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp.” Nghe xong, vua liền nghĩ ngay đến khu “Trúc Lâm”, tức là khu rừng trúc dùng làm vườn thượng uyển của ngài. Chỉ có khu này mới hội đủ điều kiện và thích hợp cho Đức Phật mà thôi. Vua bèn bạch với Đức Phật để xin dâng cúng ngôi Vườn Thượng Uyển đến Đức Phật và chư Tăng. Đây là một khu vườn rộng với thật nhiều khóm trúc xanh um, tuy không xa đô thị nhưng lại mang vẻ thanh u và tịch liêu của một vùng thôn dã với bóng mát thường xuyên của những khóm trúc. Đây cũng là khu an toàn của loài sóc. Đức Phật và Tăng đoàn đã trải qua ba mùa an cư kiết hạ tại khu vườn này (từ hạ thứ nhì đến hạ thứ tư). Khi Phật giáo bị mai một tại Ấn Độ thì khu Trúc Lâm trở thành một khu rừng hoang dại. Về sau này, khi các nhà khảo cổ đã xác định được rõ ràng vị trí của khu Trúc Lâm thì chánh phủ Ấn Độ một mặt phân khu tiếp tục khai quật, mặt khác cho phục hoạt khu Tịnh Xá Trúc Lâm cũng như những Thánh tích khác trong thành Vương Xá. Dù bóng thời gian đã trôi qua trên 25 thế kỷ, ngày nay những bụi trúc ở đây vẫn còn xanh um, hồ nước vẫn trong trẻo như ngày nào, nhưng bóng dáng Đấng Cha Lành chỉ còn lại trong tâm tưởng của những người con Phật mà thôi. Đây là khu tịnh xá đầu tiên được dựng lên cho Đức Phật và Tăng đoàn. Giữa khu tịnh xá là một cái hồ hình chữ nhật thật to, bốn phía đều được xây bằng gạch, theo truyền thuyết thì hồ này do ông Karanda dâng cúng trong việc xây dựng để cho Phật và chư Tăng tắm giặt. Ngày nay nước trong hồ vẫn còn khá nhiều. Bên cạnh hồ nước có một pho tượng Phật đứng trong một ngôi tháp do chánh phủ Ấn mới xây lên sau này để tưởng niệm nơi Đức Phật thường đi kinh hành quanh hồ. Hiện trong khuôn viên của Tịnh xá hãy còn lưu lại những nền gạch và ngôi tháp thờ xá lợi Phật do vua A Xà Thế xây dựng. Cạnh hồ nước hãy còn một cây Bồ Đề thật to mà theo truyền thuyết do chính ngài A Nan trồng, để mỗi khi nhìn cội cây là nhớ đến Đức Phật.

                      Phế Tích Na Lan Đà


                      (Phế tích trường Đại Học Na-Lan-Đà -Ruins of Nalanda University )

                      Khoảng 2:00 giờ chiều, đoàn rời Tịnh Xá Trúc Lâm để lên đường đi thăm di tích Tu Viện Na Lan Đà (Nalanda Buddhist University) cũng như trường đại học Na Lan Đà hiện tại. Na Lan Đà nằm trong vùng ngoại ô của thành Vương Xá ngày xưa. Na Lan Đà là một di tích quan trọng trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Ấn Độ nói riêng và trên toàn thế giới nói chung vì đây là trường Đại Học Phật giáo đầu tiên trên thế giới. Vùng Na Lan Đà khi xưa là nguyên quán của hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên (hai trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật).


                      (Chánh Điện trong Tu Viện Nalanda—Main Temple)

                      Na Lan Đà rộng trên 14 mẫu đất, là một trong những trường đại học lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ, mặc dù không có tài liệu nào minh xác được niên đại thành lập, nhưng theo lịch sử Phật giáo thì chính ngài Long Thọ đã từng tòng học rồi sau đó làm Viện trưởng tại đây, như vậy có lẽ Na Lan Đà được khởi xây từ trước thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch, sau đó được phát triển rộng lớn vào thế kỷ thứ 5 dưới triều đại Gupta, và đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ thứ 9. Mặc dù khu Na Lan Đà không có giá trị lịch sử thời Đức Phật còn tại thế hay không liên quan gì đến cuộc đời của Đức Phật, dù thời đó Na Lan Đà đã hiện hữu, nhưng nó chính là nơi đã sản sanh ra rất nhiều danh Tăng Phật giáo như các ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... Rồi về sau này, nó trở thành một viện đại học nổi tiếng đầu tiên của Phật giáo, chính nơi đây đã đào tạo ra rất nhiều nhà tư tưởng Phật giáo nổi tiếng khác như các ngài Long Thọ, Mã Minh, Vô Trước, Thế Thân, Sằn Đề Đề Bà, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... Thời ngài Huyền Trang theo học tại đây thì ngài Giới Hiền (Silabhadra) đang làm Viện Trưởng. Khu tu viện Na Lan Đà, nằm ở ngoại vi của thành Vương Xá. Từ khi thành lập vào thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch, đến khi đi vào quên lãng vào thế kỷ thứ 12, có rất nhiều vua quan tại xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) và Kiều Tất La (Kosala), đã đến đây chiêm bái và dựng tháp kỷ niệm. Vì toàn khu Na Lan Đà rất lớn nên từ ngoài cổng đi vào những khu phế tích cũng rất xa. Ngày nay chánh phủ Ấn Độ đã cho sửa sang lại con đường từ ngoài đi vào hẳn hòi nên dù xa nhưng việc đi lại không mấy vất vả. Bên trong khu phế tích Na Lan Đà hiện còn một nền tháp rất lớn, chung quanh có rất nhiều ngôi tháp nhỏ, tất cả đều bị thời gian và con người tàn phá, nên nay chỉ còn trơ lại những nền đá, những đống gạch vỡ vụn, hay những bờ tường màu nâu cũ kỹ. Theo lịch sử Phật giáo và theo ký sự Tây Du của ngài Huyền Trang, thì đây chính là nền của ngôi tháp bảy tầng, bên trên có một tôn tượng Phật rất lớn. Trong khi bốn ngôi tháp nhỏ ở bốn góc hãy còn tương đối tốt. Những bức tượng Phật và các vị Bồ Tát chạm quanh các tháp vẫn còn rõ nét. Phía Đông của chánh tháp, nghĩa là phía bên trái của con đường vào tháp là hai kiến trúc nhỏ, có lan can chạy chung quanh, đây là những kiến trúc được xây trên các nền phế tháp cũ. Bên trong là phòng kín, chứa các quý vật của tu viện, mái được chống đỡ bởi những trụ đá. Bên phía Tăng xá chính, theo ngài Huyền Trang trong Tây Vực Ký thì có chín tầng, trong khi các Tăng xá phụ chỉ có vài ba tầng mà thôi. Mỗi Tăng xá đều có hành lang chia cách. Trường đại học Na Lan Đà thời này rất nổi tiếng về cả học tập lẫn tu hành, Tăng sĩ muốn vào đây tòng học phải trải qua những cuộc thi vô cùng gay go, vì thế mà các tăng sĩ suốt từ Bắc chí Nam Ấn Độ đều ao ước được đến tòng học tại đây, như ngài Long Thọ (Nagarjuna) ở tận miền Nam Ấn xa xôi, cũng tìm lên đây học và đã trở thành một danh Tăng, một Bồ tát, một nhà triết học Phật giáo nổi tiếng thế giới. Theo chân ngài Long Thọ là các ngài Đề Bà (Arya Deva), Nguyệt Xứng (Chandrakirti), Sằn Đề Đề Bà (Shantideva), Vô trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu), Trần Na (Dignaga), Pháp Hộ (Dharmapala), Giới Hiền (Shilabhadra), Pháp Xứng (Dharmakirti). Ngay cả những Tăng sĩ Trung Quốc cũng mong mỏi được đến đây tu học. Khu di tích Na Lan Đà hiện chỉ còn lại một khu đất rộng với những nền gạch, những phế tích của một thời hoàng kim của Phật giáo. Trong khu phế tích, rõ nét nhất là khu tháp thờ Ngài Xá Lợi Phất. Tại đây, Hòa Thượng đã hướng dẫn đoàn tụng kinh cầu an cũng như cầu nguyện để tưởng nhớ đến các vị Thánh đệ tử đã một thời lưu trú tại đây như các ngài Thế Thân, Vô Trước, Huyền Trang...


                      (Bia tưởng niệm trong khu phế tích Na Lan Đà)

                      Chính tại nơi này ngài Huyền Trang đã thu thập kiến thức tam tạng kinh điển cũng như học thuyết của các trường phái thời bấy giờ và lưu lại cho chúng ta ngày hôm nay. Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang là một chứng tích xác thực về tu viện Na Lan Đà trước khi nó bị quân Hồi giáo tàn phá vào thế kỷ thứ 12. Tuy nhiên, bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 trở đi Na Lan Đà bắt đầu đi vào quên lãng, có lẽ vì hoàn cảnh chính trị xáo trộn tại Ấn Độ thời đó, phần khác vì sự trỗi dậy một cách mạnh mẽ của Ấn Độ giáo, rồi đến sự tàn phá của đạo quân Hồi giáo. Thế kỷ thứ 12 là một trang sử bi thảm nhất của Phật giáo khi máu của trên mười ngàn chư Tăng đã loang đổ khắp tu viện, và cũng kể từ đó Na Lan Đà đã đi vào quên lãng. Theo truyền thuyết thì cái chết của những vị tăng sĩ trong tu viện này rất bi thảm. Quân Hồi đã đưa ra hai điều kiện: một là chết, hai là chấp nhận cuốn kinh Koran. Nhưng hàng chục ngàn Tăng sĩ đã ngồi yên bất động, chấp nhận cho mình một cái chết rất bi tráng “tử vì đạo.” Không biết màu huyết dụ của những nền gạch có phải là màu gạch nguyên thủy hay là màu máu nhuộm trên gạch của các Thánh Tăng tử vì đạo pháp? Theo truyền thuyết Phật giáo, và cũng theo truyền thuyết của dân chúng tại địa phương phụ cận Na Lan Đà, khi quân đội Hồi giáo vào đánh phá nơi đây, họ đã chiếm toàn bộ kho lương thực, giết toàn bộ Tăng sĩ, rồi sau đó họ đốt toàn bộ “tàng kinh các” của trường đại học này, máu chảy thành suối, và tàng kinh các đã cháy trên ba tháng trời. Lửa đã soi sáng cả một vùng trời, cả ngày lẫn đêm. Nhìn những phế tích hoang tàn với những nền gạch đổ nát, lòng tôi bỗng chùng xuống khi chạnh lòng nghĩ đến một thời vàng son của Phật giáo trên xứ sở này.

                      Ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Từ thành Vương Xá đi về phía Bắc độ 30 lý là Tăng già lam Na Lan Đà. Theo truyền thuyết thì về phía Nam của tu viện này là một cái hồ nước. Nơi đó có một con rồng tên Na Lan Đà. Người ta đã xây một ngôi chùa bên bờ hồ và lấy tên con rồng đặt cho tên của tự viện. Nhưng thật ra thời Đức Như Lai còn là một vị Bồ Tát, Ngài đã từng làm vua trong một quốc gia lớn, thủ đô của quốc gia ấy là Na Lan Đà. Chỗ này ngày xưa là một vườn xoài, mà 500 vị thương gia đã mua đến mười triệu tiền vàng để cúng lên Bồ Tát. Sau khi Bồ Tát nhập diệt, một vị vua thời xa xưa của nơi này tên là Sakraditya đã cho xây dựng một ngôi già lam. Tuy nhiên, sau khi khởi công, ông đã vô tình làm bị thương một con rắn chúa. Lúc đó một nhà tiên tri Ni Kiền tử đã tiên đoán rằng 1.000 năm sau đó, nơi này sẽ là một địa điểm phát triển cùng cực. Những hàng Tăng sinh tại đây sẽ thành đạt vẻ vang, tuy nhiên, vì lời thề của con rắn chúa mà máu của nhiều người sẽ đổ ra tại đây.” Theo ký sự của Ngài Huyền Trang thì Na Lan Đà đã có tầm quan trọng ngay từ trước và ngay sau thời Đức Phật. Tuy nhiên, sau khi Vương Xá không còn là thủ đô của xứ Ma Kiệt Đà nữa thì Na Lan Đà đã từ từ đi vào quên lãng. Rồi đến thế kỷ thứ 12 thì lời tiên tri ấy đã xảy ra y như những gì đã xảy ra cho tu viện Na Lan Đà về sau này. Theo truyền thuyết Phật giáo thì vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, khi chưa có ngôi trường đại học Na Lan Đà, vua A Dục đã về đây và cho xây dựng một ngôi chùa và ngôi đền thờ ngài Xá Lợi Phất. Nhưng cho đến ngày nay, chưa có chứng tích nào xác nhận tu viện Na Lan Đà có trước thời đại Gupta, tức là vào thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Nhưng trở về lịch sử Phật giáo thì ngài Long Thọ có liên hệ tới tu viện Na Lan Đà lại sanh ra vào thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch, như vậy có lẽ vào thời của ngài Long Thọ, Na Lan Đà đã có nhưng chưa được xây dựng và phát triển một cách quy mô như về sau thế kỷ thứ 5. Lúc ngài Huyền Trang đến Na Lan Đà thì ngài Giới Hiền đang làm viện trưởng. Khi đó thì Na Lan Đà đã là một viện đại học lớn vào bậc nhất Ấn Độ thời đó. Vào thời Gupta, khoảng thế kỷ thứ 5 thì trọng tâm của Na Lan Đà là giáo lý Trung Quán của ngài Long Thọ, nhưng đến thế kỷ thứ 8 thì Na Lan Đà lại chú trọng về Mật giáo nhiều hơn vì vị viện trường thời đó là ngài Abhayakaragupta, cũng là viện trưởng của chùa Vikramashila. Đến thế kỷ thứ 11, Naropa, sơ tổ của trường phái Karmapa bên Tây Tạng cũng là viện trưởng tu viện Na Lan Đà. Nói tóm lại, trước thế kỷ thứ 12, Na Lan Đà gắn liền với sự hưng thịnh của Phật giáo, nên đến thế kỷ thứ 13, sự triệt tiêu Na Lan Đà của đạo quân Hồi giáo đã đồng thời đưa đến sự biến mất của Phật giáo trên xứ sở này, mà người cầm đầu cuộc tàn sát này chính là vị vua Hồi giáo ở vùng Trung Đông tên Mohammed Bakhtiyar Khilzi. Ngày nay, tuy đã hoang tàn đổ nát, nhưng phế tích Na Lan Đà trông thật bi tráng và hùng vĩ, vì nơi đây còn lưu lại nhiều nhất những nền tháp hay những nền gạch vụn trong một khu đất trên 14 mẫu tây này. Ôi! Còn đâu nữa thời hoàng kim của Phật giáo ngay trên cái nôi đã sản sanh ra nó! Hiện nay người ta xây dựng một vòng rào chắc chắn để bảo vệ cho khu phế tích quan trọng này. Bước vào bên trong, ngay giữa đường là một tấm bảng lớn, ghi rõ khu khảo cổ Na Lan Đà. Một con đường rải đá rất tươm tất, hai bên trồng những hàng cây xanh mát. Bên trong là những nền phế tháp, dù nay chỉ còn là một đống gạch vụn, nhưng vẫn còn phảng phất nét uy nghi đồ xộ một thời. Nền gạch của ngôi phế tháp cao nhất còn lại tại đây cao khoảng 20 mét.

                      Sau khi thăm viếng phế tích Na Lan Đà, một số anh em trong đoàn chúng tôi vội vã đi ra cổng và ghé tạt qua thăm trường Đại Học Na Lan Đà mới, được xây dựng vào năm 1948, cách khu phế tích Na Lan Đà không xa lắm. Trường Đại Học Na Lan Đà phân cách với khu phế tích Na Lan Đà bởi hồ sen Indra. Kỳ thật đây chỉ là một viện nghiên cứu ngữ học Pali và Phật học cho các sinh viên từ khắp nơi trên thế giới. Tuy trường không có quy mô lớn như tu viện Na Lan Đà cũ, ngược lại nó chỉ được dựng lên cho có hình thức và mang tên cũ của tu viện Na Lan Đà mà thôi, nhưng chính nơi đây đã đào tạo ra một số danh Tăng Việt Nam thời cận đại như các ngài Minh Châu, Huyền Vi, Thiện Châu, vân vân.



                      (Đường vào khu phế tích Na Lan Đà)


                      (Bên trong khuôn viên phế tích Na Lan Đà)


                      (Ngôi tháp lớn trong phế tích Na Lan Đà)


                      (Khu tháp bị tàn phá trong Na Lan Đà)


                      (Những nền tháp trong khu Na Lan Đà)


                      (Khu Tịnh Xá Na Lan Đà)


                      (Phế tháp lớn còn lại trong khu Na Lan Đà)

                      Nhà Tưởng Niệm Ngài Huyền Trang

                      Trên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng, đoàn ghé lại thăm Nhà tưởng niệm Ngài Huyền Trang (Hsuan-Tsang’s Memorial House). Cách khu Na Lan Đà cũ khoảng một cây số, người Trung Hoa đã cho xây lên một ngôi đền để tưởng niệm ngài Huyền Trang, với một đại sảnh có kiến trúc theo kiểu Trung Hoa. Tuy nhiên, vì không ai chăm sóc, nên nơi đây cũng trở nên điêu tàn hoang vắng.

                      Nhà Ngục Giam Vua Bình Sa Vương


                      (Phế tích ngục giam vua Bình Sa Vương)

                      Sau đó chúng tôi ghé lại thăm phế tích Nhà Ngục nơi A Xà Thế giam vua Bình Sa Vương (Bimbisara’s Jail in Rajgir). Hiện nơi này chỉ còn lại một nền cỏ và một vòng tường thấp bằng gạch mà thôi. Trong lịch sử Phật giáo, ai cũng biết Bình Sa Vương, sau khi quy-y với Đức Phật đã trở thành vị quân vương Phật tử gương mẫu. Dầu vậy, ông cũng không tránh khỏi nghiệp lực tiền khiên vã vay tạo trong quá khứ, nên về sau này ông đã bị chính con mình là A Xà Thế hạ ngục cho đến chết. A Xà Thế bị Đề Bà Đạt Đa xúi giục âm mưu sát hại vua cha để chiếm ngôi, nhưng âm mưu bại lộ, A Xà Thế bị bắt quả tang. Thế nhưng vì lòng độ lượng, thương con mà vua Bình Sa Vương đã không nỡ xử phạt con mình theo quân pháp. Chẳng những vậy, nhà vua còn nhường ngôi lại cho con, vì thấy con mình đang thèm khát ngai vị. Trớ trêu thay, chẳng những A Xà Thế không chút ăn năn hối cải, mà ngược lại, vì sợ vua cha có thể lấy lại ngôi báu nên A Xà Thế quyết định hạ ngục cha mình. Không ai được quyến lui tới thăm viếng, ngoại trừ hoàng thái hậu. Sau nhiều lần bắt gặp chính hoàng thái hậu là người đã tiếp tế lương thực cho vua cha, nên A Xà Thế cấm luôn, không cho mẹ mình vào thăm cha. Thế nhưng vua Bình Sa Vương vẫn an nhiên tự tại.


                      (Nền ngục nơi A Xà Thế giam vua cha Bình Sa Vương trong
                      thành Vương Xá—Bimbisara’s Jail in Rajgir)

                      Vì lo cho chiếc ngai vàng nên A Xà Thế không muốn thấy cha mình tồn tại, sau đó ông sai người đến ngục hạ sát chính cha ruột của mình. Ngày vua cha bị hạ sát cũng là ngày đứa con đầu lòng của A Xà Thế chào đời, và cũng chính ngày đó A Xà Thế được nghe hoàng mẫu kể cho nghe về lòng thương con của vua cha. A Xà Thế hối hận đích thân cấp tốc chạy đến nhà giam, mong người mà mình sai đi chưa kịp đến để giết cha, vừa đi miệng ông vừa kêu la thật lớn: “Hãy lập tức thả ra người cha yêu quý của trẫm!” Nhưng khi đến nơi, thì cha ông đã chết một cách thảm thiết. Từ đó về sau này, A Xà Thế hối hận cực độ và tìm đến quy-y với Đức Phật và Tăng đoàn. Ông cũng trở thành một quân vương Phật tử và hết lòng hộ trì Tam Bảo như cha mình thuở trước không sai khác. Tương truyền khi bị A Xà Thế giam giữ tại đây, vua Tần Bà Sa La thường đi qua lại bên cửa sổ nhà ngục, nhìn lên núi Linh Thứu, chiêm ngưỡng Đức Phật lúc Ngài đi kinh hành. Hiện tại nhà ngục nơi vua A Xà Thế giam vua cha Bình Sa Vương đã đổ nát hết, chỉ còn lại một vòng tường trên nền cỏ, xung quanh câ cối um tùm.


                      (Từ ngục giam vua Bimbisara ngó qua núi Linh Thứu)

                      Ngoài ra, theo dân chúng trong vùng thì cách núi Linh Thứu chừng 2 cây số, trên đường trở về Bồ Đề Đạo Tràng, bên trái có một suối nước nóng, nước vẫn còn nóng, nhiệt độ khoảng 105 độ F. Tương truyền từ thời Đức Phật, suối này đã chữa bệnh được cho rất nhiều người, và chính Đức Phật cũng thường đến tắm tại đây.

                      Bên trên suối nước nóng là động Thất Diệp (Pippala), nằm về phía Tây Nam của Trúc Lâm Tịnh Xá, trên đỉnh Baibhara có một động đá, đó là động Thất Diệp. Có một hành lang nhân tạo và một bức tường được xây bằng những tảng đá chồng lên nhau, nhưng không có chất dính ô dước hay hồ. Theo lịch sử Phật giáo của cả hai trường phái Đại Thừa và Nguyên Thủy, thì động Thất Diệp chính là nơi ngài Ca Diếp triệu tập 500 vị A La Hán tới trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Về sau vua A Dục cho xây tháp và trụ đá để đánh dấu nơi này.

                      Gần bên động Thất Diệp là nền nhà cũ của ngài Đại Ca Diếp, nơi Đức Phật thường ghé lại thăm ngài. Tuy nhiên, vì thời gian quá eo hẹp nên đoàn chúng tôi không thể ghé lại thăm suối nước này và những nơi khác được.


                      Ao Rắn Tại Bồ Đề Đạo Tràng

                      Tờ mờ sáng ngày 3 tháng 12 năm 2005, Hòa Thượng hướng dẫn đoàn đi thăm Ao Rắn. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khi Đức Phật ngồi thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng đến cuối tuần lễ thứ năm, bỗng trời nổi cơn mưa thật lớn và thật lâu, ngay lúc ấy có một con rắn lớn từ trong rừng đến nơi, phùng mang ra che mưa cho Ngài. Hiện nay dưới Ao Rắn người ta nuôi thật nhiều cá và nước trong ao có mùi thật khó chịu. Quanh Bồ Đề Đạo Tràng hãy còn nhiều di tích khác, tuy nhiên, trung tâm điểm tại đây vẫn là ngôi Đại Bảo Tháp với hàng ngàn Phật tử từ khắp nơi đến chiêm bái và tu tập mỗi ngày. Đa phần người ta lễ bái theo kiểu “ngũ thể đầu địa,” nghĩa là năm phần của thân thể là đầu, hai cùi chỏ và hai đầu gối đều chạm đất khi lễ lạy. Riêng những người Tây Tạng thì họ lạy theo kiểu nằm dài sát đất. Ngày nay những hình tượng Phật và Bồ Tát quanh Đại Tháp đều có những đường nét theo kiểu Tây Tạng vì chúng được trùng tu sau này bởi những người Tây Tạng đến tỵ nạn sau khi Trung Quốc xâm chiếm đất nước này vào năm 1959. Trong các tượng thì tượng Quan Âm Như Ý, nằm bên phải Đại Tháp, là được nhiều người chiêm bái và lễ lạy nhất.

                      Ngôi Làng Phật Giáo còn Sót Lại Tại Bồ Đề Đạo Tràng

                      Sau đó, Hòa Thượng và chư Tăng Ni sinh hướng dẫn đoàn chúng tôi đi thăm viếng và ủy lạo cho một ngôi làng Phật giáo gần khu chùa Việt Nam. Thật là hy hữu, trong một xứ toàn là Ấn giáo lại còn sót lại một ngôi làng Phật giáo. Tại đây chúng tôi được dân làng tiếp đón rất trọng thể. Được biết đã có nhiều đoàn hành hương trước đây ghé lại viếng thăm và ủy lạo cho ngôi làng Phật giáo này.



                      (HT thăm viếng ngôi làng PG-Bodhgaya)


                      (Quang cảnh đoàn đang viếng thăm một ngôi làng
                      Phật giáo gần Bồ Đề Đạo Tràng)


                      (3/12/05 HT chứng minh lễ quy-y-Bodhgaya)


                      (Phật tử mới quy-y tại Bodhgaya )


                      (Làng Phật giáo nghèo nàn gần Bodhgaya)


                      (Những nhà tương đối khá giả trong làng PG gần Bodhgaya)


                      (Đường vào làng chỉ là đồng khô cỏ cháy mà thôi)


                      (Đời sống dưới rặng Tuyết Sơn của những người thuộc giai cấp
                      Thủ đà la tại Ấn Độ)


                      (Sự khác biệt giữa bốn giai cấp tại Ấn Độ là như thế ấy
                      Thủ đà la sống trong những khu nhà đất tồi tàn bên cạnh
                      những khu nhà sang trọng của giai cấp Kshatriya)


                      (Miền quê Ấn Độ hãy còn rất nhiều khu phế tích
                      đang khai quật bên cạnh nhà dân )


                      (Thăm làng Phật giáo gần Bồ Đề Đạo Tràng)


                      (Khu vực phụ cận Bodhgaya)

                      Viện Bảo Tàng Bodhgaya-Bodhgaya Museum

                      Trưa ngày 3 tháng 12 năm 2005, chúng tôi tự do thăm viếng khu lân cận của Bồ Đề Đạo Tràng. Một số anh em trong đoàn như anh chị Thiện Tài và Thiện Minh ở Canada thì viếng thăm 7 nơi mà Đức Phật đã trải qua trong bảy tuần lễ sau khi Ngài giác ngộ, còn tôi và một số anh em khác quyết định viếng thăm Viện Bảo Tàng Bồ Đề Đạo Tràng. Từ ngoài đường đi vào Đại Tháp, Viện Bảo Tàng nằm bên tay phải cùng một bên với ngôi chùa Thái Lan và ở về phía Tây Đại Tháp khoảng non 1 cây số. Tại đây có rất nhiều tượng Phật cổ đại cũng như rất nhiều loại pháp khí khác do các nhà khảo cổ khai quật từ những thế kỷ 17, 18, 19, và 20 quanh khu vực Bồ Đề Đạo Tràng. Nhìn những tượng mất đầu hay mất tay, mất chưn làm tôi liên tưởng đến chuyến viếng thăm đảo Pulau Bidong thuộc Mã Lai Á vào tháng 3 năm 2005, tại chùa Từ Bi trên đảo này, tượng Phật lớn nhỏ, trong ngoài đều bị chặt đứt đầu. Người hướng dẫn trong viện Bảo Tàng tại đây cho biết đa số những tượng Phật và Bồ Tát khai quật được trong vùng đều bị mất đầu hay mất tay chân, vì đó là vết tích của những cuộc chiến xâm lược và tàn phá của đạo quân Hồi Giáo vào những thế kỷ thứ 11, 12, và 13. Đa số niên đại nghệ thuật chạm trổ và điêu khắc trên các tượng này đều vào khoảng đầu Tây Lịch.

                      Viếng Bồ Đề Đạo Tràng Lần Sau Cùng

                      Sau khi viếng Làng Phật Giáo trở về, đoàn được tự do tu tập hoặc đi mua sắm quà lưu niệm tùy ý. Ngày hôm đó, chúng tôi rảo quanh khắp các sạp lớn nhỏ quanh vùng Bodhgaya, người mua chuỗi, kẻ mua tượng Phật hay các Phật cụ khác làm quà kỷ niệm cho người thân. Đêm hôm đó là đêm cuối cùng chúng tôi lưu lại Bodhgaya mà không thể ở lại trong Tháp vì sáng sớm ngày mai lúc 4:30 giờ sáng chúng tôi phải rời Bodhgaya để đi Tỳ Xá Ly. Một cảm giác lưu luyến lạ lùng khó tả lâng lâng trong mỗi chúng tôi. Chúng tôi qua tháp, rồi trở về khách sạn, rồi lại trở qua tháp... Chúng tôi cứ đi đi về về như vậy cho đến khi Đại Tháp đóng cửa mà một số anh em chúng tôi vẫn còn lưu luyến đứng bên ngoài nhìn vào những ánh đèn lung linh bên trong tháp với những lời kinh tiếng kệ trầm bổng làm cho lòng chúng tôi như se thắt một nỗi niềm khó tả.

                      Last edited by viet11; 09-06-2012, 03:32 PM.
                      Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                      Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                      ............



                      Can't Live Without...hehe...


                      Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                      Comment


                      • #56
                        Phần 4

                        Thành Tỳ Xá Ly






                        (Bia tưởng niệm Thánh tích Tỳ Xá Ly)

                        4:30 giờ sáng ngày 4 tháng 12, đoàn chúng tôi rời Bồ Đề Đạo Tràng đi Tỳ Xá Ly (Vaishali), cách Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 253 cây xố về hướng Bắc. Sau khi qua khỏi thủ phủ Patna (ngày trước là thành Pataliputra, tức là Hoa Thị Thành) chừng 60 cây số, những mái tranh nghèo của Tỳ Xá Ly hiện ra trước mắt chúng tôi. Lòng tôi bỗng chùng xuống, mới ngày nào đây kinh thành này còn trù phú thịnh vượng. Thế mà ngày nay chỉ còn trơ lại những mài tranh nghèo, có lẽ còn nghèo nàn hơn miền quê nước Việt nữa là khác. Tuy nhiên, có đến đây mới thấy được hết những nét đạo đức của người dân miền quê Ấn Độ. Họ sống trong cảnh nghèo nàn cơ cực và thiếu thốn đủ mọi bề, nhưng họ hiền hậu và dễ thương. Lúc nào trên mặt họ cũng điểm sẵn một nụ cười thân thiện với mọi người. Họ nghèo khổ về mặt vật chất, nhưng tinh thần đạo đức của họ thật thâm thúy. Dù đồng ruộng bao la, nhưng sông ngòi hiếm hoi, cả xứ Ấn Độ chỉ có hai con sông lớn là Hằng Hà và Ấn Hà, nên đất đai cằn cỗi và con người cũng khô cằn như mảnh đất nơi họ sinh ra và lớn lên. Tỳ Xá Ly ngày trước đã từng là một kinh thành trù phú, một trong những nước Cộng Hòa thịnh vượng nhất trong vùng Bắc Ấn thời đó, dân cư đông đúc, sinh hoạt sung túc, dân chúng vừa hiền lành vừa đạo đức, nhưng hiện nay nó chỉ là một thị trấn nhỏ bé nghèo nàn. Tuy khoảng cách không xa lắm, nhưng đường sá vừa hẹp vừa xấu với rất nhiều ổ gà lởm chởm trong suốt đoạn đường đi làm cho khoảng cách tưởng như bất tận. Chính vì vậy mà trong khoảng giữa thế kỷ 20, rất nhiều người muốn đi Tỳ Xá Ly mà không đi được. Tỳ Xá Ly còn là nơi có nhiều sự kiện lịch sử liên quan đến Đức Phật và công cuộc hoằng pháp của Ngài. Theo lịch sử Phật giáo, 5 năm sau ngày thành đạo, Đức Phật đã du hóa đến vùng này. Đây là thủ đô của một trong những nước Cộng Hòa đầu tiên trên thế giới. Phía Nam Tỳ Xá Ly là dòng sông Hằng thiêng liêng, phía Bắc về phía Népal thấp thoáng chân núi Hy Mã Lạp Sơn, phía Tây là dòng sông Dangdak. Khi rời Tỳ Xá Ly, Đức Phật đã ngoái đầu nhìn lại và tán thán: “Ôi xinh đẹp thay thành phố Tỳ Xá Ly! Ôi xinh đẹp thay những điện thờ và những khu lâm viên của Tỳ Xá Ly.” Thành phố Tỳ Xá Ly còn là quê hương của Ngài Duy Ma Cật, một vị cư sĩ nổi tiếng mà Đức Phật đã đề cập như một nhân vật giác ngộ chính trong Kinh Duy Ma Cật. Thành phố này còn là nơi nhận một phần tám xá lợi của Đức Phật ngay sau lễ Trà Tỳ của Ngài. Những năm trước khi nhập diệt, Đức Phật thường hay trú ngụ tại thành Tỳ Xá Ly này. Và đây cũng chính là nơi ngài A Nan nhập diệt. Tại Tỳ Xá Ly, đoàn thăm viếng nơi cất giữ xá lợi của Đức Phật, Giảng Đường, hương thất của Kiều Đàm Di Mẫu và các thánh tích gần đó. Sau khi khai quật Tỳ Xá Ly, người ta tìm thấy trụ đá do vua A Dục dựng lên vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch vẫn còn nguyên vẹn với tượng sư tử trên đầu trụ.


                        (Ngọn tháp và trụ đá do vua A Dục dựng lên
                        vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch tại Tỳ Xá Ly)

                        Cách trụ đá A Dục chừng 2 cây số là ngọn tháp kỷ niệm nơi Đức Phật an trụ hằng ngày và được voi dâng mật và trái cây. Tháp đã bị hư hại gần hết, chỉ còn trơ lại nền tháp nên người ta cho xây dựng mái che bên trên để bảo vệ phần còn lại của ngôi phế tháp này. Chính nơi này Đức Phật đã dạy Tăng đoàn về pháp Lục Hòa (6 điều sống chung tu học) và Thất Diệt Tránh Pháp (bảy pháp không tranh cãi). Đây cũng chính là nơi đánh dấu Đức Phật lần đầu tiên cho phép người nữ xuất gia.

                        Còn một sự kiện lịch sử quan trọng khác xảy ra tại thành Tỳ Xá Ly vào thời Đức Phật còn tại thế. Chính tại nơi đây một bà hoàng trong thành Ca Tỳ La Vệ là bà di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã được Đức Phật cho phép xuất gia và thành lập Ni đoàn đầu tiên. Và cũng chính tại đây, Đức Phật đã cho phép Ni đoàn thu nhận nàng Amrapali, một ca nữ bị xã hội khinh khi nhất vào thời đó. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khi Đức Phật đang ở tại thành Tỳ Xá Ly (Vaishali) thì di mẫu của Ngài là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajapati) và 500 cung nữ thuộc dòng họ Sakya đã kiên nhẫn đi bộ từ thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) đến thành Tỳ Xá Ly, thỉnh cầu Ngài cho phép nữ giới xuất gia. Dù trước đó đã bao lần Đức Phật từ chối. Khi đến Tỳ Xá Ly, bà di mẫu nhờ A Nan bẩm Phật với lời thỉnh cầu chấp nhận bất cứ điều kiện gì mà Phật sẽ đặt ra. Khi ra mắt Đức Phật, Đại Đức A Nan thưa: “Bẩm Đức Thế Tôn, đệ tử vừa gặp lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề và khoảng 500 cung nữ đến từ thành Ca Tỳ La Vệ, họ đang đứng phía ngoài cách tịnh xá của Thế Tôn không xa lắm. Ai nấy đều đã xuống tóc và khoát y vàng, mặt mày đầy bụi và chân cẳng sưng vù, trông rất thảm não. Xin Đức Thế Tôn hứa khả cho họ!” Đức Phật im lặng không nói, vì Ngài đã biết rất rõ câu chuyện xảy ra như thế nào, và chính Ngài đang tìm phương cách giải quyết cho vấn đề. Khi đó Đại Đức A Nan thắc mắc hỏi Ngài: “Bẩm Đức Thế Tôn, người nữ xuất gia tu hành có thể nào đắc được những Thánh quả hay không?” Đức Phật trả lời ngay là ‘được’. Vì không hiểu ý của Đức Thế Tôn nên Đại Đức A Nan hỏi tiếp: “Như vậy thì tại sao Đức Thế Tôn không bằng lòng cho người nữ xuất gia?” Thấy Đức Phật vẫn im lặng không nói gì, nên A Nan thưa tiếp: “Bẩm Thế Tôn, lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là người đã nuôi nấng Đức Thế Tôn ngay từ khi Ngài mới sanh ra có 7 ngày và thương yêu Ngài không khác chi Mẫu Hậu Maya. Hôm nay vua cha không còn nữa nên lệnh bà chán cảnh đời tan hợp hợp tan và quyết chí xuất gia tu hành. Lệnh bà đã cởi bỏ tất cả những trang sức, tất cả quần là áo lụa và đi chân đất từ kinh thành Ca Tỳ La Vệ đến đây chỉ để cầu xin Thế Tôn hứa khả cho lệnh bà và các cung nữ xuất gia. Xin Thế Tôn từ bi hứa khả cho lệnh bà được xuất gia tu hành theo giáo pháp của Ngài.” Đại Đức A Nan cứ tiếp tục khẩn khoản, trong khi Đức Phật vẫn lặng yên suy nghĩ. Sau đó Ngài cho thị giả sang mời các vị đại đệ tử khác như Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nậu Lâu Đà, Phú Lâu Na... đến hội ý với Ngài. Thời Đức Phật, chuyện Ngài san bằng giai cấp đã làm cho ngoại đạo vô cùng bất mãn rồi, huống là chuyện giải phóng phụ nữ và cho phép họ xuất gia là khất sĩ như nam giới! Ngoài những khó khăn đó thì lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề còn từng là một hoàng hậu tiền hô hậu ủng, cả đời chỉ biết ra lệnh chứ chưa từng nhận sự chỉ giáo từ bất cứ một ai. Còn nữa, cả đời bà đã sống trong cung vàng điện ngọc, bây giờ nếu gia nhập giáo đoàn, liệu lệnh bà có thể vượt qua những khó khăn cực kỳ đang chờ trước mắt bà hay không? Vân vân và vân vân. Còn nữa! phụ nữ từ ngàn xưa chưa bao giờ được phép sống chung với nam giới nơi công cộng, bây giờ nếu được cho phép, chắc chắn sẽ có những xáo trộn không tránh khỏi cho cả hai bên. Sau khi tôn giả Xá Lợi Phất đề nghị một số giới luật đặt thêm cho người nữ nếu Thế Tôn muốn hứa khả cho người nữ xuất gia. Đức Phật cũng gật đầu đồng ý với Ngài Xá Lợi Phất Như vậy sau khi hội ý với các đại đệ tử, Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ngài A Nan, bằng lòng cho nữ giới xuất gia, tuy nhiên, Ngài đặt ra Bát Kính Giới và dạy rằng mãi mãi nữ giới xuất gia phải tuân theo luật này. Như vậy thành Tỳ Xá Ly là nơi chứng kiến cảnh xuất gia đầu tiên của nữ giới để gia nhập vào giáo đoàn. Đại Đức Xá Lợi Phất được Đức Phật ủy thác cho việc hướng dẫn và giảng dạy cho các vị tân nữ tu này. Và kể từ đó, giáo đoàn của Đức Phật bao gồm tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ. Sau khi cho phép người nữ xuất gia, Đức Phật lại bị một làn sóng chống đối mạnh mẽ khác từ khắp nơi trong xứ, ngay cả việc vu khống bậy bạ cho Ngài. Từ đó người ta mới thấy được lòng từ bi bao la của Đức Phật khi Ngài cân nhắc trong việc cho phép người nữ xuất gia. Khu hương thất của Kiều Đàm Di Mẫu đã được làm bằng gạch, nhưng đã bị thời gian tàn phá nên chỉ còn trơ lại một nền gạch vụn. Theo truyền thuyết Phật giáo thì về sau này bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề cũng chứng quả A La Hán. Đó là những sự kiện lịch sử cực kỳ quan trọng, chẳng những cho Phật giáo, mà còn cho lịch sử tiến bộ của nhân loại, vì nó đánh dấu sự kiện san bằng sự kỳ thị giữa nam và nữ, một sự kiện chứng tỏ cho thế giới thấy rõ tư tưởng Phật giáo chẳng những san bằng giai cấp trong thời cổ Ấn Độ, mà nó còn san bằng mọi cách biệt nghèo giàu, nam nữ, gốc gác... Phải nói Phật giáo đã làm một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu ngay trên cái nôi sanh ra nó, vì trong xã hội Ấn Độ theo Ấn giáo từ ngàn xưa, người phụ nữ chỉ bị xem như là nô lệ, họ không được phép làm bất cứ chuyện gì ngay cả chuyện giao dịch thương mại hằng ngày. Chính Phật giáo đã mở ra cho họ một quang lộ thênh thang. Tuy nhiên, lịch sử không may đã tạo ra đạo quân Hồi giáo oan nghiệt, triệt tiêu Phật giáo ngay trên quê hương của chính nó.

                        Ngoài ra, truyền thuyết dân gian tại đây còn ghi lại, vào thời Đức Phật còn tại thế, thành Tỳ Xá Ly đã có lần bị hạn hán và bệnh dịch lan tràn khắp nơi, giết hại vô số sanh linh. Đức Phật đã đáp lời vua xứ này làm lễ cầu nguyện và dân trong thành thoát nạn. Lần sau cùng Đức Phật về Tỳ Xá Ly năm đó Ngài đã 80 tuổi. Ngài đã ghé lại khu vườn xoài của nàng Amrapali. Tại đây Ngài đã ôn lại với tôn giả A Nan về cuộc đời của Ngài: “Cuộc đời của một kiếp qua đi thật nhanh, mới ngày nào đây chàng thiếu niên Tất Đạt Đa còn trai trẻ, tham dự các cuộc tranh tài, rồi xuất gia, rồi 6 năm khổ hạnh... Tất cả như mới xảy ra hôm qua. Sau bốn mươi lăm năm hoằng hóa, đã đến hồi ta phải bỏ lại xác thân vô thường. Đời người trôi qua như một giấc mơ. Với ta nhân duyên nay đã đủ, người đáng được độ ta đã độ xong. Thật chẳng còn gì để luyến tiếc. Ta cảm thấy hài lòng mãn nguyện.” Sau khi rời khỏi Tỳ Xá Ly và khu vườn xoài của nàng Amrapali, Đức Phật đã tuyên bố với chúng Tăng: “Ở nơi đây ta đã thực hiện xong hành động tôn giáo sau cùng và chẳng bao lâu sau ta sẽ nhập Niết Bàn.” Sau đó Ngài cùng A Nan và Tăng chúng đi về hướng thành Câu Thi Na.

                        Một sự kiện lịch sử quan trọng nổi bậc tại đây là 100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai đã diễn ra, do trưởng lão Da Xá (Yassa) triệu tập 700 chư Tăng từ khắp nơi về đây. Từ đó mới bắt đầu phân ra Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ chủ trương bảo thủ, giữ lấy những nguyên tắc giới luật thời Đức Phật còn tại thế. Trong khi Đại Chúng Bộ có phần phóng khoáng và du di hơn. Họ chủ trương tùy duyên hóa độ, những nguyên tắc của Giáo đoàn có thể thay đổi nhằm thích ứng với hoàn cảnh sống của thời đại đó, miễn không đi ngược lại những lời Phật dạy là được.



                        (Đại Tháp tại thành Tỳ Xá Ly,
                        nơi xảy ra cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai,
                        100 năm sau ngày Phật nhập Niết Bàn)

                        Trong các cuộc đào xới vào những thế kỷ 18, 19 và 20, các nhà khảo cổ đã tìm thấy ngôi tháp do vua A Dục xây dựng vào thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch, có đường kính trên mười chín thước và chiều cao bốn thước, được xây kế bên trụ đá có tượng sư tử trên đầu. Người ta tin rằng đây là ngôi tháp được xây trên nền tháp nguyên thủy, nơi những người Lichavi đã thờ xá lợi của Đức Phật. Cách ngôi tháp thờ xá lợi không xa có ngọn tháp được dựng lên nhằm đánh dấu ngôi nhà của nàng kỷ nữ Amrapali ngày trước. Đặc biệt trụ đá vua A Dục xây dựng tại đây có hình con sư tử trên đỉnh, và đến nay trụ vẫn còn nguyên vẹn. Trụ cao khoảng bảy thước, đứng sừng sững giữa trời mây bao la, quanh đó là một hàng cổ thụ già nua với những nền phế tháp như thách thức với thời gian. Theo truyền thuyết Phật giáo, 300 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, vua A Dục đã đến chiêm bái Tỳ Xá Ly. Để tưởng nhớ đến ân đức của Đức Thế Tôn, nhà vua đã cho dựng lên một trụ đá trắng, trên đỉnh có hình sư tử và một tháp thờ xá lợi của Đức Phật.

                        Vào thế kỷ thứ 5, khi đến Tỳ Xá Ly chiêm bái, ngài Pháp Hiển có ghi lại rằng: “Về phía Bắc thành phố Tỳ Xá Ly có ngôi tháp hai tầng. Đức Phật khi đến Tỳ Xá Ly đã từng lưu lại nơi này. Tại đây cũng có một ngôi tháp tưởng niệm ngài A Nan. Bên trong thành phố, nàng Amrapali cũng có xây một tháp cúng dường Đức Phật, và ngày nay nền tháp ấy vẫn còn đó. Khoảng 3 lý về phía Nam thành phố, mặt Tây của con đường là một khu vườn nơi nàng Amrapali cúng dường cho Đức Phật. Khi Đức Phật sắp sửa nhập diệt, Ngài và Tăng chúng đã rời Tỳ Xá Ly nơi cổng thành phía Tây.” Đến thế kỷ thứ bảy (629), Ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Vương quốc Tỳ Xá Ly có chu vi rộng khoảng 5.000 lý. Đất đai ở đây phì nhiêu màu mỡ; hoa trái đủ loại rất phong phú. Xoài và chuối đầy dẫy ở khắp mọi nơi và giá cả rất rẻ. Người dân ở đây rất trong sạch và thành thật. Họ thích triết lý tôn giáo và hiếu học. Ngoại đạo và Phật giáo sống chung rất hài hòa. Có hàng trăm ngôi chùa nằm rải rác khắp nơi, nhưng đa số đã bị hư hoại. Chỉ có ba hoặc năm ngôi tịnh xá là còn nguyên vẹn, nhưng có rất ít Tăng sĩ tu tập tại những nơi đó. Tại đây cũng có rất nhiều đền đài ngoại đạo, phần nhiều thuộc phái Ni Kiền Tử. Kinh thành Tỳ Xá Ly đã bị hư hại nhiều. Những nền móng xưa có chu vi từ 60 đến 70 lý. Khu nội cung dành cho hoàng gia rộng khoảng 4 hoặc 5 lý. Có rất ít người sống tại đây. Về hướng Tây Bắc, cách hoàng thành chừng 5 hay 6 lý, có một ngôi chùa với một số Tăng sĩ tại đây. Họ theo truyền thống nguyên thủy, thuộc Chánh Lượng Bộ. Cạnh đó là một ngôi tháp. Chính ở nơi đây Đức Phật đã thuyết kinh Duy Ma Cật, và có một vị trưởng giả tên Ranakara cùng bạn hữu của ông đã cúng dường lên Đức Phật những chiếc lọng báu để che nắng mưa cho Ngài. Về hướng Đông là ngôi tháp, nơi ngài Xá Lợi Phất đã chứng quả A La Hán. Về hướng Đông Nam, có một ngôi tháp do tổng thống của xứ Cộng Hòa Tỳ Xá Ly xây dựng vì sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, vua nước này đã nhận một phần xá lợi của Ngài.”

                        Ngày nay phế tích của cả hai nơi này đã được ghi dấu và được cơ quan UNESCO công nhận. Trụ đá thì còn gần như nguyên vẹn. Tuy nhiên, ngôi tháp thờ xá lợi chỉ còn trơ lại nền và hầm tháp, vì thế người ta phải cất lên một mái tôle để bảo vệ cho Thánh tích thiêng liêng này. Theo bảng ghi chú bên ngoài tháp, thì ban đầu ngôi tháp này chứa đựng một số xá lợi rất lớn (một phần tám tổng số xá lợi của Đức Phật), đến thời vua A Dục, ngài cho lấy chín mươi phần trăm số xá lợi tại đây để chia cho tám mươi bốn ngàn tháp nhỏ khác trong khắp xứ Ấn Độ. Về sau có một vị vua khác cũng muốn mở lại ngôi tháp, nhưng khi vừa bắt đầu đào đất lên, thì khắp nơi chấn động khiến nhà vua ngưng ngay công việc chứ không dám tiến hành đào thêm nữa.



                        (Phế tích ngôi tháp thờ xá lợi của Đức Phật đã đổ nát.
                        Ngày nay người ta phải cất lên một mái tôle để bảo vệ
                        phần phế tích còn lại bên dưới)


                        (Phần còn lại phía bên dưới của phế tích ngôi tháp thờ
                        xá lợi của Đức Phật tại Tỳ Xá Ly)

                        Về hướng Nam trụ đá A Dục có một hồ nước khá lớn. Tương truyền đây là cái hồ do 500 con khỉ đào cúng dường cho Đức Phật để Ngài tắm giặt hằng ngày trong thời gian Ngài lưu lại thành Tỳ Xá Ly, và cũng chính tại đây ngày ngày đàn khỉ đều mang mật ngọt đến cúng dường cho Đức Phật. Theo tài liệu đích xác của các nhà khảo cổ thời cận đại thì tất cả những phế tích tại làng Pesa ngày nay, cách thủ phủ Patna (Pataliputra) khoảng 60 cây số là phế tích của thành Tỳ Xá Ly, và những ngôi phế tháp rải rác được bộ tộc Lichavi xây dựng để thờ xá lợi của Đức Phật mà họ nhận được từ bộ tộc Mallas.

                        Gần khu phế tích Phật giáo ở Tỳ Xá Ly có một ngôi chùa và một tháp Hòa Bình (Darjeeling Peace) cũng giống như Tháp Hòa Bình trên núi Linh Thứu, cũng do phái Nhật Liên của người Nhật Bản xây dựng. Đoàn chúng tôi cũng ghé thăm chùa Tích Lan bên cạnh ngôi chùa Nhật Bản.

                        Riêng tại Viện Bảo Tàng Tỳ Xá Ly vẫn còn lưu giữ rất nhiều cổ vật đào được qua các cuộc khảo cổ tại thành Tỳ Xá Ly. Tại đó dưới nhiều tầng đất sâu hơn, người ta tìm thấy một pho tượng Phật đang tu khổ hạnh có kích thước như hình người thật. Đây là những chứng tích xác thực về cuộc đời tu hành của Đức Phật.



                        (Trụ đá do vua A Dục dựng trong thành Tỳ Xá Ly
                        -Trên đầu trụ hãy còn nguyên hình tượng sư tử—
                        Vaishali-Asoka’s stone pillar)
                        (HT Thích Giác Nhiên chụp hình kỷ niệm tại trụ đá A Dục-Tỳ Xá Ly)

                        Câu Thi Na


                        (Đường vào Câu Thi Na buổi bình minh)

                        3:00 giờ chiều cùng ngày, đoàn rời Tỳ Xá Ly đi Câu Thi Na (Kushinagar), đi trên con đường mà Đức Phật đã cùng tôn giả A Nan đã đi trên đường về chỗ Ngài đã nhập Niết Bàn tại khu rừng Ta La song thọ. Do một tình cờ của thiên nhiên hay do chính sự lựa chọn của Đức Phật mà Câu Thi Na gần như nằm ngay giữa những Thánh địa khác như Lâm Tỳ Ni, thành Xá Vệ, Tỳ Xá Ly, và vườn Lộc Uyển... Hiện nay thành Câu Thi Na tên là Kasia, thuộc bang Uttar Pradesh, cách Vườn Lâm Tỳ Ni khoảng 180 cây số, và cách thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Ấn Độ khoảng 150 cây số. Đây là một thị trấn yên tĩnh nằm cách Bồ Đề Đạo Tràng trên 300 cây số đường chim bay về hướng Tây Bắc, nhưng vì đường sá gồ ghề xấu xí nên từ Tỳ Xá Ly chúng tôi phải mất trên 6 giờ mới đến được Câu Thi Na. Dù khoa học kỹ thuật hôm nay có những tiến bộ đáng kể, dù khắp nơi trên xứ Ấn bụi bay đầy trời, Câu Thi Na vẫn còn giữ được vẻ thanh u tịch tĩnh, nơi mà gần 26 thế kỷ về trước Đức Phật đã chọn làm nơi nhập Niết Bàn. Tôi đã đến Đề Li để thấy không khí choáng ngộp tại đó, rồi về Bồ Đề Đạo Tràng cũng với không khí không hơn gì Đề Li. Tôi không dám chê khen gì Ấn Độ vì ngày xưa nơi quê tôi ở có giàu chi hơn Ấn Độ đâu! Nhưng tôi phải thật tình thương cảm cho người dân ở đây, trong thế kỷ 21 này mà họ vẫn sống trong thiếu thốn đủ mọi bề. Có người cho rằng văn minh vật chất Tây phương làm hư con người. Riêng tôi, tôi không nghĩ như vậy. Tôi là người con Phật nên quyết chí đi theo con đường “Trung Đạo” của Ngài, không thái quá mà cũng không bất cập. Tôi không làm nô lệ cho phương tiện vật chất, nhưng tôi thọ hưởng những phương tiện ấy để giữ cho thân này được khang kiện, từ đó có thể làm được những điều lợi lạc cho người khác. Con người hư hay không là do nơi mình, chứ đừng đổ thừa cho cuộc sống vật chất làm mình hư. Thử hỏi những người dân Ấn nghèo khổ cùng cực ở các nơi mà tôi đã đến tận nơi, thấy tận mắt, nếu không muốn mánh mung để tìm phương sống hằng ngày cũng không được. Theo tôi, không nói không rằng gì cả, không ai chối cãi là Ấn Độ là một xứ sở của tâm linh sâu thẳm, nhưng cũng không ai chối cãi được thảm trạng xã hội hiện tại tại Ấn Độ là hệ quả tất yếu của một xã hội mà trong đó đầu óc người ta còn phân định giai cấp quá nặng nề. Cái không may cho Ấn Độ là những đạo quân ngoại xâm đã tiêu diệt một chơn lý “xóa bỏ giai cấp” đáng lý phải được trân trọng và phát triển tại đất nước này.

                        Sau khi đến Câu Thi Na, đoàn chúng tôi nghỉ đêm tại Japan-Srilanka Buddhist Center, ở Kushinagar, thuộc bang Uttar Pradesh. Đây là một trung tâm Phật giáo Tích Lan do chính phủ Nhật Bản tài trợ. Cảnh trí tại đây thật yên tĩnh và trầm mặc. Không khí thanh u ở đây làm cho tôi liên tưởng đến cũng không khí này trên 25 thế kỷ về trước, Đấng Cha Lành đã về đây trong cuộc hành trình cuối cùng để khởi đầu cho một cuộc yên nghỉ. Trí óc tôi hồi này lan man hình ảnh Đấng Từ Phụ trong xác thân tứ đại già nua nhưng lúc nào cũng bước đi những bước rắn chắc và quyết định bên cạnh ngài A Nan với nét ủ rũ như con sắp xa mẹ. Lại nữa, hồi này thì hai vị đại đệ tử của Đức Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều đã nhập diệt trước đây ba tháng, và các vị đại đệ tử khác thì đang hoằng hóa phương xa. Nên dù A Nan là một bậc tu hành, lại được theo Thầy trong suốt gần 25 năm thì làm gì ngài không biết được tình thương nào rồi cũng đến hồi mai một chia ly, cuộc hợp nào rồi cũng tan theo định luật vô thường tất yếu, nhưng trong cảnh đó, lại không có các sư huynh sư đệ bên cạnh, ai có thể cầm lòng cho được? Liên tưởng đến phút đó, cảnh đó, lòng tôi bỗng lâng lâng một nỗi buồn man mác, chưa đi đến Đại Tháp Niết Bàn mà lòng mình đã xót xa, một nỗi xót xa khó tả.



                        (Vùng biên giới Bắc Ấn và Népal-Nơi có Vườn Lâm Tỳ Ni,
                        thành Ca Tỳ La Vệ, thành Xá Vệ, và thành Câu Thi Na)

                        6:00 giờ sáng ngày 5 tháng 12, 2005, đoàn thăm viếng khu thánh tích Câu Thi Na, tháp Đức Phật nhập Niết Bàn, tháp trà tỳ, các phế tháp chung quanh khu Đại Tháp Niết Bàn và các chùa Phật giáo tại đây. Câu Thi Na, một trong những Thánh địa quan trọng của Phật giáo, một trong tứ động tâm mà trước khi nhập diệt, Đức Phật đã nhắc nhở ngài A Nan: “Sau khi ta nhập diệt, nếu các thiện nam tín nữ có đạo tâm nghĩ tưởng đến Như Lai, cách hay nhất là đến chiêm bái bốn động tâm quan trọng nhất, những nơi có liên quan trực tiếp đến cuộc đời và sự nghiệp hoằng hóa của Như Lai. Đó là vườn Lâm Tỳ Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, vườn Lộc Uyển và thành Câu Thi Na. Nếu vị thiện tâm nào đến bốn nơi này thành tâm chiêm bái và đảnh lễ sẽ được nhiều phước báu và duyên lành như được gặp lại chính Như Lai vậy! Lại nữa, nếu có vị thiện tâm nào có duyên được trút hơi thở cuối cùng tại một trong những Thánh địa này, chắc chắn người ấy sẽ được tái sanh vào cảnh giới thanh nhàn để tiếp tục tu tập giải thoát.” Hôm nay chúng tôi về đến tận nơi để chính mắt thấy được những di tích ngàn xưa vẫn còn hiện hữu, dù trong hoang tàn đổ nát, hay dù đã được người đời sau phục hoạt, trùng tu... chúng tôi vẫn cảm thấy lòng mình lâng lâng một niềm hạnh phúc khó tả. Đây chính là nơi mà hơn 25 thế kỷ về trước, một bậc đạo sư của người và trời sau khi mang giáo lý giác ngộ tối thượng mà mình đã chứng ngộ ra ban rải hết cho chúng sanh, đã về đây an nhiên thị tịch. Hôm nay chúng ta đến đây, tính ra đã gần 26 thế kỷ, thế mà nhìn cảnh, rồi nhìn những phế tích còn sót lại lòng chúng ta cũng cảm thấy lâng lâng nỗi niềm cảm xúc như chính mình đang được gần gũi với Đức Thế Tôn, nhưng bên cạnh đó niềm xúc cảm xót xa cũng trào dâng khi nghĩ đến phận mình phước kém duyên mỏng, không được sanh ra vào thời có Phật.

                        Đại Tháp Niết Bàn


                        (Đại Tháp Niết Bàn và chùa Niết Bàn tại thành Câu Thi Na)


                        (Tượng Phật Nhập Niết Bàn bên trong Đại Tháp Niết Bàn tại thành Câu Thi Na)

                        (Tượng Phật Nhập Niết Bàn bên trong Đại Tháp Niết Bàn tại thành Câu Thi Na)

                        Đường vào Đại Tháp Niết Bàn không còn thanh u tĩnh mịch như được diễn tả trong các kinh điển thời Đức Phật nhập diệt nữa, không còn là khu rừng Sa La ngày ấy với toàn rừng là rừng. Tuy nhiên, hai bên đường cây cối vẫn còn xanh tươi mát mẻ. Ngày nay người ta đã trải đá đỏ trên con đường đi vào Đại Tháp Niết Bàn. Đây là ngôi Đại Tháp Niết Bàn (Mahaparinirvana), là một ngôi tháp lớn, trên nóc có hình vòm cũng giống như nhiều tháp khác tại Ấn Độ. Tuy nhiên, quanh tháp kín mích, không có cửa, cũng không có cửa sổ. Ngôi tháp cao hơn chùa Niết Bàn nhiều, có lẽ cao đến gấp đôi. Đây mới chính là nơi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, đây mới chính là một trong những nơi thiêng liêng nhất của Phật giáo. Theo lịch sử các Thánh tích Phật giáo, thì ngôi Đại Tháp này đã được những người ngưỡng mộ Phật giáo thuộc sắc dân Mallas xây lên để thờ xá lợi của Đức Phật, có lẽ họ xây kín vì sợ quân Hồi giáo đến đánh phá để cướp xá lợi của Đức Phật, nhưng rồi sau đó tháp cũng bị những thế lực tàn bạo muốn tiêu diệt Phật giáo tàn phá, cứ như vậy không biết đến bao nhiêu lần.



                        (Bảng đặt trước khu phế tích Câu Thi Na)

                        Trước khi vào đến Đại Tháp, về phía bên trái có hai tấm bảng, một bằng tiếng Anh, và một bằng chữ Ấn Độ (có lẽ là chữ Bhrami ngày nay), nội dung nói về phế tích thành Câu Thi Na đã được đào lên: “Câu Thi Na đã từng là kinh đô của người Mallas. Theo văn học Phật giáo, thì Câu Thi Na là một trong tứ động tâm, được chính Đức Phật tuyên thuyết như vậy. Chính tại nơi đây Đức Phật đã thở hơi cuối cùng và nhập Niết Bàn vào ngày trăng tròn tháng Vaishakha, khoảng tháng tư hay tháng năm dương lịch. Người ta tin rằng kim thân của Ngài đã được hỏa táng với đủ nghi cách vinh dự của một Đấng Thế Tôn. Thành Câu Thi Na gần Makutabandhana Chaitya sau gần hai thế kỷ bị lãng quên đã được các vị vua dưới triều Maurya xây dựng lại và đạt đến tuyệt đỉnh huy hoàng của nghệ thuật dưới thời Gupta. Nhiều chùa tháp và tự viện đã được xây dựng trong thời kỳ này. Các nhà hành hương người Trung Hoa như Pháp Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh đã chiêm bái nơi này vào những thế kỷ thứ 5, 7 và 8. Các vị đã ghi lại trong các bút ký rất nhiều về dấu tích của những ngôi phế tháp. Những phế tích đào lên được tại đây là do thành quả của những cuộc khai quật rộng lớn bởi nhà khảo cổ Carlleyle vào năm 1876, và về sau này do các nhà khảo cổ Ấn Độ từ năm 1904 đến năm 1912. Quần thể này bao gồm một ngôi tháp chính, ngôi chùa Niết Bàn trên một cấu trúc cao, được bao bọc bởi một nhóm phế tích các tự viện về phía Tây, một nhóm các nền tháp nhỏ với những viên gạch có chạm trỗ và những cột trụ được trang trí về phía Nam. Nền Đại Tháp nằm về phía Đông với những nền tháp nhỏ nằm về phía Bắc. Tất cả đều có niên đại từ thời Khổng Tước (Mauryan) đến thế kỷ thứ 10 sau Tây Lịch. Có rất nhiều những bảng khắc chữ trên đất sét nung được tìm thấy trong các cuộc đào xới này.”


                        (Nhà tưởng niệm ngài Huyền Trang-Câu Thi Na)

                        Chùa thờ tượng Phật nhập Niết Bàn được xây trên một nền gạch cũ cao khoảng trên 2 thước. Chùa có lối kiến trúc hết sức đặc biệt, không giống bất cứ ngôi chùa nào cả. Từ xa nhìn trên nóc, nó giống như là hai khối lăng trụ màu vàng lợt giao nhau, phía trước hành lang là bốn cây cột lớn, sơn màu đỏ. Càng nhìn chúng ta càng thấy nét là lạ của ngôi chùa. Trước mặt và phía sau chùa là những rừng cây cao bóng mát cùng với nhiều hồ sen bao bọc chung quanh. Tuy nhiên, có lẽ lúc này là mùa đông, trời quá lạnh nên không thấy có sen nở. Ngay bên trong chùa Niết Bàn là một pho tượng Phật nằm nghiêng, mặt hướng ra cửa chánh phía Nam, đầu quay về hướng Bắc, tay phải của Ngài lót gò má phải, còn cánh tay trái được đặt xuôi trên hông, còn hai chân của Ngài chồng lên nhau rất ngay thẳng. Tượng có chiều dài khoảng trên 6 mét, được đặt trên một cái bệ chữ nhật cao trên nửa mét. Theo truyền thuyết Phật giáo thì tượng Phật Niết Bàn được Hòa Thượng Haribhadra tạc từ một tảng đá nguyên thủy có tên là Chunar dưới triều Kumargupta (413-455). Dù đã bị đập nát và chỉ được ráp nối lại về sau này, nhưng pho tượng Phật Niết Bàn quả là một tuyệt tác nghệ thuật từ thời đó và cho mãi đến bây giờ. Tượng chẳng những là một tuyệt tác mỹ thuật, mà nó còn có vẻ uy nghiêm mà từ bi của một Đấng Từ Phụ, và đầy đủ hảo tướng của Đức Phật. Khi đến tận đây chiêm ngưỡng tôn tượng Phật Niết Bàn, hình như ai trong chúng ta cũng đều có cảm giác như là chúng ta đang đứng trước Đức Thế Tôn trong những giây phút sắp nhập diệt của Ngài. Phía sau chùa Niết Bàn là ngôi Đại Tháp Niết Bàn là nơi Đức Phật nhập diệt 25 thế kỷ về trước. Chùa Niết Bàn được nhà khảo cổ Carlleyle phát hiện lần đầu tiên vào năm 1876. Theo các nhà khảo cổ thì nền móng của ngôi chùa Niết Bàn không phải là nền móng chùa nguyên thủy mà ngài Huyền Trang đã mô tả trong Đại Đường Tây Vực Ký. Đây có thể là nền móng thứ hai được được xây trên nền cũ vào khoảng thế kỷ thứ 11 hay 12. Còn ngôi tháp được xây ngay trên gò đất chính nơi Đức Phật nhập Niết Bàn, giữa hai cây Sa La song thọ. Giống như các phế tích khác, khu Đại Tháp Niết Bàn gồm nhiều ngôi tháp khác nhau, cái này xây chồng lên cái kia. Ngôi tháp bên trong cùng hãy còn nguyên vẹn. Có những hàng gạch bị cháy đen, chứng tỏ nơi đây đã từng là nơi được dùng để hỏa táng. Khi nhà khảo cổ Carlleylé khai quật được ngôi tháp này lên thì nó đang trong tình trạng sắp sụp đổ. Ngôi tháp cao khoảng 45,72 mét. Tháp có cùng chung nền với chùa Niết Bàn, cao khoảng 2,74 mét. Trên đỉnh tròn của tháp là một hình trụ cao khoảng 5,50 mét, có một hàng hoa văn và một tấm bia bằng đồng khắc kinh Nhân Duyên (Nidana) bằng tiếng Phạn (Sanskrit) và có những dòng chữ ghi lại lịch sử pho tượng Niết Bàn của Đức Phật: “Hòa Thượng Haribadhra đã đúc tuợng Đức Phật Nhập Niết Bàn nổi tiếng ở Câu Thi Na. Đại Tháp Niết Bàn cũng được Hòa Thượng Haribadhra xây ra lớn hơn trên gò nền nguyên thủy của nó. Sau khi tạc xong bức tượng, Hòa Thượng Haribhadra đã cho an vị vào trong ngôi đại tháp. Trong thời Đức Phật thì Câu Thi Na là một thị trấn nhỏ nằm trong xứ Cộng Hòa Malla, một trong những xứ Cộng Hòa trong vùng Bắc Ấn thời đó. Dân cư đông đúc, phồn thịnh, và đa số dân chúng trong vùng này thời Đức Phật còn tại thế đều rất mộ đạo, dù họ tín ngưỡng Bà La Môn hay Phật giáo. Sau khi Đức Phật nhập diệt thì Cộng Hòa Malla bị sáp nhập vào vương quốc Ma Kiệt Đà, và đến thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch, nó thuộc vương triều Khổng Tước (Maurya) của hoàng đế A Dục. Chính vì vậy mà sau khi trở thành một quân vương Phật tử, vua A Dục đã thân hành đi chiêm bái hầu hết các Thánh tích Phật giáo để tưởng niệm Đức Thế Tôn. Ngài đến Câu Thi Na, cho xây tháp và trụ đá để đánh dấu và tưởng niệm Thánh địa nơi Đức Phật nhập Niết Bàn.

                        Năm 409, ngài Pháp Hiển đến chiêm bái Câu Thi Na và đã ghi lại trong Tây Vực Ký của ngài như sau: “Câu Thi Na có nhiều tháp và tự viện. Bấy giờ Câu Thi Na là một trung tâm tu học rất phồn thịnh.” Trong các triều vua dưới triều đại Gupta, Câu Thi Na phát triển mạnh, nhất là về mặt mỹ thuật Phật giáo. Thời Kumargupta (413-455), một nhà sư tên Haribhadra đã tạc tượng Phật Niết Bàn. Khi ngài Huyền Trang đến chiêm bái Câu Thi Na vào thế kỷ thứ 7 thì nơi đây đã hoang phế điêu tàn. Ngài đã ghi lại về câu Thi Na trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Thủ đô nước này đã bị tàn phá và xóm làng đều hoang tàn đổ nát. Những nền gạch của dãy tường thành xưa có chu vi khoảng 10 lý. Đường phố ở đây hư nát và có rất ít dân cư. Về phía Bắc, có một trụ đá do vua A Dục dựng lên ngay trên nền nhà cũ của ông Thuần Đà (Chunda). Giữa khu vực có một giếng nước được đào lên vào thời gian ông cúng dường đến Đức Phật. Mặc dù đã trải qua bao thế kỷ, nước trong giếng vẫn còn trong và còn rất ngọt. Về phía Bắc kinh thành khoảng ba bốn dặm, ngang qua dòng sông Ajivati, không xa phía tây ngạn dòng sông này, chúng tôi đến khu rừng Sala. Nơi đây còn bốn cây có chiều cao lạ thường, đánh dấu nơi Đức Phật nhập diệt. Nơi đây có một ngôi tịnh xá lớn, được xây bằng gạch, bên trong có một tượng Phật trong tư thế nhập Niết Bàn. Ngài nằm trong tư thế đầu hướng về phương Bắc. Cạnh bên tịnh xá có một trụ đá do vua A Dục dựng lên, mặc dù đang trong tình trạng nghiêng đổ, nó vẫn còn có chiều cao trên 50 mét. Trước đó là một trụ đá ghi khắc những dữ kiện nhập diệt của Đức Phật, nhưng không đề cập đến ngày tháng năm. Đây đó quanh Câu Thi Na có nhiều đền tháp đánh dấu những sự tích xa xưa thời Đức Phật cũng như đánh dấu tiền thân của Ngài khi còn là một vị Bồ Tát. Đây là tháp đánh dấu lúc Bồ Tát còn mang thân chim, còn kia là tháp đánh dấu thời Bồ Tát còn mang thân nai. Rồi những ngôi tháp khác đánh dấu nơi nhập diệt của Tu Bạt Đà La, người đệ tử già nhất (120 tuổi), xuất gia với Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết Bàn.” Tuy nhiên, sau thời kỳ chiêm bái của ngài Huyền Trang thì Phật giáo tại thành Câu Thi Na ngày càng mất dần ảnh hưởng. Vua chúa không còn ủng hộ và nơi này trở lại tiêu điều vắng vẻ. Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 12, sử liệu Ấn Độ không hề đề cập gì đến nơi này nữa. Rồi đến thế kỷ thứ 13, sau cuộc xâm lăng của đạo quân Hồi giáo, loạn lạc khắp nơi, Câu Thi Na hoàn toàn đi vào quên lãng. Bên cạnh đó quân Hồi sẵn sàng đập phá bất cứ hình tượng phật nào mà họ khám phá được trên bước đường viễn chinh của họ. Như vậy, số phận Thánh tích Câu Thi Na cũng như các Thánh tích khác, bị tàn phá tan tành trong khoảng thế kỷ 12 và 13. Mãi đến thế kỷ thứ 19, nhà khảo cổ người Anh tên Wilson (1854) tình cờ khám phá được dấu tích thành Câu Thi Na. Sau đó các nhà khảo cổ Cunningham và Carlleyle dựa vào tài liệu trong ký sự của Ngài Huyền Trang, tiến hành những cuộc khai quật chính thức và sau đó người ta mới khai quật được chùa và tháp Niết Bàn trên cùng một nền gạch. Ngoài ra, có rất nhiều xương người và đồ vật cả bên trong lẫn bên ngoài khu Đại Tháp. Năm 1856 người ta hoàn thành việc tái thiết chùa Niết Bàn. Năm 1956 Phật giáo Nhật Bản lại hợp cùng các hội Phật giáo khác tài trợ trùng tu toàn bộ ngôi chùa Niết Bàn, và kiến trúc ấy vẫn được giữ cho đến ngày nay. Ngày trước đường kinh hành quanh chùa chỉ rộng khoảng trên 0.5 mét, nhưng ngày nay nó được mở rộng hơn nhiều. Đến những năm đầu thế kỷ 20 (1904, 1907, 1910 và 1912), nhà khảo cổ Vogell đã tìm thêm được một số di tích khác tại làng Câu Thi Na. Hiện nay, Thánh tích Câu Thi Na được Liên Hiệp Quốc công nhận và được Phật tử cũng như các nhà nghiên cứu đổ xô về đây chiêm bái và nghiên cứu. Gần đây nhất, trong các cuộc khai quật vào năm 1976 người ta đã tìm ra nhiều mảnh xương vụn, mẫu than củi và những miếng sọ người, cho thấy nơi này đã từng bị người Hồi giáo đốt phá và bách hại nhiều lần trước khi toàn vùng rơi vào quên lãng trong suốt 6 thế kỷ sau đó.

                        Ngày nay Kushinagar là một thị trấn nhỏ, cách khu vực Kasia chừng 3 cây số về hướng Tây Nam, và cách thành phố Gorakhpur chừng 50 cây số, trong bang Uttar Pradesh, thuộc vùng Bắc Ấn Độ. Dân cư ở đây rất thưa thớt, nên cảnh trí vẫn còn thanh u, yên tĩnh như ngày nào.

                        Dù chúng tôi đến nơi rất sớm, nhưng khi chúng tôi đến nơi thì đã có các đoàn Đại Hàn và Tây Tạng tại đây. Tuy nhiên, vì đoàn Việt Nam quá đông nên hai đoàn kia nhường cho chúng tôi làm lễ trước. Sau khi chúng tôi khoác chiếc áo cà sa mới lên kim thân tôn tượng Phật Niết Bàn thì Hòa Thượng bắt đầu hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh, sau đó chúng tôi theo chân Hòa Thượng Thích Giác Nhiên cũng như những tu sĩ khác của hai phái đoàn Đại Hàn và Tây Tạng, đi nhiễu một vòng quanh tượng Phật. Không khí lúc chúng tôi đi nhiễu quanh tôn tượng Phật Niết Bàn thật là cảm động. Ở đây mọi ý tưởng về chánh tín, thờ phượng và mê tín đều không có ngằn mé. Người ta vừa đi vừa niệm hồng danh Đức Bổn Sư theo ngôn ngữ của mình, khi đi ngang qua chân Phật, thấy ai cũng ráng quỳ xuống phủ phục đầu mình dưới chân Ngài, rồi anh Thiện Minh và Thiện Tài cũng quỳ, rồi tôi cũng quỳ phủ phục dưới chân Ngài, chỉ với một ước nguyện duy nhất là cho chúng con được theo gót chân giải thoát của Ngài. Vì số người đi vào chùa ngày càng đông nên chúng tôi phải đi ra bên ngoài đi nhiễu quanh tháp. Trong khi đi nhiễu quanh tháp thì sư Minh Thành thuyết minh về sự kiện lịch sử trong ngày Đức Phật nhập Niết Bàn. Năm ấy Đức Phật đã 80 tuổi. Dù là một bậc đại giác, một bậc chí Thánh, nhưng thân tứ đại của Ngài cũng đã mòn mỏi với thời gian. Ngài từng ví thân mình như một cỗ xe cũ kỷ. Tại thành Tỳ Xá Ly Đức Phật tuyên bố trong một thời pháp là Ngài sẽ nhập Niết Bàn và nơi Ngài thị tịch sẽ là thành Câu Thi Na yên tĩnh. Ngài bắt đầu cuộc hành trình cuối cùng từ núi Linh Thứu trong thành Vương Xá, kinh đô của xứ Ma Kiệt Đà, đi đến Na Lan Đà, rồi vượt qua sông Hằng để đi đến thành Tỳ Xá Ly. Tại đây Đức Phật nhập mùa an cư kiết hạ sau cùng cùng chư Thánh Tăng. Sau gần ba tháng du hành, hôm ấy Đức Phật cùng tôn giả A Nan đang trên đường tiến về thành Câu Thi Na, đến làng Pava Đức Phật được ông Thuần Đà thỉnh về nhà để cúng dường. Sau khi ăn bát cháo nấm, Đức Phật biết mình không còn hiện hữu bao lâu nữa nên Ngài bảo A Nan cùng Ngài gấp rút đi bộ từ Pava về Kushinagar. Theo truyền thuyết Phật giáo, sau khi thọ dụng bát cháo nấm của ông Thuần Đà thì bệnh tình của Đức Thế Tôn ngày càng nặng, nên trên đoạn đường ngắn tới Câu Thi Na mà Ngài phải nghỉ lại tới hai mươi lăm nơi. Tại một nơi nọ, Đức Phật đến ngồi dưới một gốc cây to và bảo A Nan đi xuống dòng nước trước mặt lấy nước uống cho Ngài. A Nan bẩm Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, đây là một dòng nước nhỏ, lại có khoảng 500 cỗ xe vừa đi qua, làm nước nổi cặn không thể uống được. Bạch Đức Thế Tôn, sông Kakuttha cách đây không xa, nước trong trẻo và mát mẻ. Ngài có thể uống nước ở đó được.” A Nan cứ bẩm Phật như vậy đến lần thứ ba, mà Đức Phật vẫn bảo A Nan xuống dòng sông này lấy nước cho Ngài uống. A Nan đành phải vâng lời, lấy bát đi xuống lấy nước. Nước trong dòng sông hiện giờ đang bị quấy lên đục ngầu, nhưng ngay khi Đại Đức A Nan vừa đến, nước liền trở nên trong vắt. A Nan tự nghĩ: Thật là kỳ diệu, hy hữu quá! Thần túc và oai lực của Đức Thế Tôn! Dòng sông mới vừa bị khuấy đục đó mà tức thì trở nên trong trẻo.”

                        Đêm đó có một người tên Pushkasa, thuộc dòng Mallas, một trong những đệ tử của Ngài Alara Kalama, đang đi từ Câu Thi Na đến Pava, biết Phật đang ở đây ông bèn đến xin quy-y Tam Bảo và cúng dường Đức Phật một tấm y vàng. Khi A Nan khoác tấm y lên kim thân Đức Phật thì màu da của Ngài sáng chói thanh tịnh lạ thường. A Nan liền thưa hỏi nguyên do. Đức Phật bảo A Nan có hai trường hợp làm cho màu da của Như Lai sáng chói, đó là đêm Như Lai chứng quả vô thượng và đêm Ngài nhập diệt. Nhân đó Đức Phật cũng nhắc nhở A Nan và Thánh chúng rằng vào lúc canh ba Ngài sẽ nhập diệt trong khu rừng Ta La của sắc dân Mallas. Đức Phật cùng đại chúng tỳ kheo đi đến sông Kakuttha, tắm lần sau cuối tại con sông này, sau đó qua sông, lên ngự tại khu vườn xoài và khi nghỉ ngơi, Đức Phật đã dạy đại đức A Nan như sau: “Chuyện sau đây có thể xảy ra, này A Nan. Có người sẽ làm cho ông Thuần Đà bứt rứt khó chịu vì họ cho rằng chính vì Thế Tôn thọ thực lần cuối cùng với các món của ông dâng cúng. Này A Nan, mỗi lần Thuần Đà bứt rứt khó chịu hay hối hậnnhư thế, con phải giải thíhc như vầy: ‘Này Thuần Đà, ông có rất nhiều phước báu. Ông sẽ hưởng nhiều lợi lộc vì Đức Phật đã thọ thực lần cuối cùng với các vật thực do ông dâng cúng. Này Thuần Đà, bần Tăng có nghe chính Đức Phật dạy rằng có hai vật thực cúng dường đem lại phước báu như nhau, tạo quả bằng nhau, và vô cùng quý báu hơn tất cả. Hai vật ấy là gì? Đó là vật thực cúng dường mà vị Bồ Tát thọ dụng lần cuối cùng trước khi chứng ngộ Đạo Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và vật thực cúng dường mà Đức Phật thọ dụng lần cuối cùng trước khi Ngài nhập diệt..’Này A Nan, con hãy an ủi khuyên lơn Thuần Đà như thế ấy!” Sau đó Ngài dạy A Nan chọn một nơi giữa hai cây Ta La để Ngài nằm yên nghỉ. Và đó cũng chính là nơi Ngài nhập Niết Bàn. Ngay trước lúc Đức Phật sắp nhập Niết Bàn thì có một ông già tên Tu Bạt Đà La (Subhdda), đã 120 tuổi, đệ tử của phái Ni Kiền Tử, đến thỉnh cầu Đức Phật giảng giải cho một nghi nan mà ngoại trừ đấng Đại Giác ra không ai khác có thể giải thích nổi. Tuy nhiên, cả ba lần thỉnh cầu đều bị ngài A Nan từ chối vì sợ làm quấy động Thế Tôn. Nhưng Thế Tôn biết được cơ duyên chuyển hóa nên Ngài bảo A Nan cho phép Tu Bạt Đà La vào. Sau khi nghe vi diệu pháp Bát Chánh Đạo, Tu Bạt Đà La đắc được pháp nhãn và xin quy-y Phật ngay trước khi Phật nhập Niết Bàn. Sau đó bộ tộc Mallas đem nhục thân của Như Lai đến làm lễ trà tỳ tại một nơi gần đó (bây giờ là phế tháp trà tỳ). Ngay khi nghe tin Đức Thế Tôn nhập diệt, vua A Xà Thế của xứ Ma Kiệt Đà, vì tôn kính Thế Tôn nên cử người đến Câu Thi Na để thỉnh một phần xá lợi về thờ. Rồi sau đó sứ giả của các bộ tộc Licchavi ở thành Tỳ Xá Ly, bộ tộc Sakya ở thành Ca Tỳ La Vệ, người Buli ở Allakappa, người Koli ở Ramagama, người Vethadipaka, và người Malla ở Pava. Tất cả bảy bộ tộc đều tranh giành phần xá lợi. Trong khi đó thì bộ tộc Mallas ở Câu Thi Na nhất quyết không chịu chia xá lợi cho ai cả. Họ nói Đức Phật nhập diệt trong phần đất của họ, xá lợi thuộc về họ, chứ không ai có quyền dành cả. Trong lúc đang tranh cãi ấy, có một vị Bà La Môn tên Dona đưa ra đề nghiï: “Đức Phật vừa mới nhập diệt, chúng ta nên học lấy hạnh nhẫn nhục hy sinh của Ngài, chứ tranh giành như thế này quả là không tốt. Chúng ta hãy hoan hỷ chia xá lợi ra làm tàm phần rồi cùng nhau đem về dựng tháp thờ xá lợi của Ngài khắp mọi nơi.” Mọi người đều hoan hỷ đồng ý với đề nghị ấy, và xá lợi của Ngài được chia ra làm tám phần đồng đều. Có đến tận nơi, có thấy tận mắt mới cảm nhận được cái không khí hết sức tĩnh mịch của thành Câu Thi Na. Riêng tôi, tìm đến quỳ trong một góc trong tháp để lắng nghe sự xúc động thật mạnh của lòng mình, môi tôi thấm mặn tự lúc nào với những dòng cảm xúc và phảng phất đâu đây những lời di huấn cuối cùng của Ngài: “Các pháp hữu vi là vô thường, các con hãy mau tinh tấn, chớ nên phóng dật. Các con nên nhớ rằng giới luật còn thì đạo pháp còn.” Đại Tháp Niết Bàn, nơi thờ tượng Phật nhập Niết Bàn. Tượng Phật đã được một vị Tăng tên Hari Badhra tạc vào khoảng giữa thế kỷ thứ 5 (khoảng từ năm 415 đến năm 456) theo nghệ thuật dưới triều đại Gupta. Trong cuộc đào xới năm 1876 chính nhà khảo cổ Carlleyle đã tìm thấy những mảnh vụn của một pho tượng Phật, ông phát tâm cho người ráp lại mới biết đây là pho tượng Phật Nhập Niết Bàn. Sau khi phục hoạt xong pho tượng Phật Niết Bàn, ông Carlleyle đã cho an vị trở về vị trí cũ. Theo các nhà khảo cổ thì sự tàn phá các Thánh tích tại Câu Thi Na cũng như tại các nơi khác có lẽ do vào cuối thế kỷ thứ 11, khi Hồi giáo bách hại Phật giáo thì tượng này cũng bị đập nát ra từng mảnh vụn. Sau đó năm 1927, tháp được trùng tu toàn bộ với sự đóng góp của hai vị Phật tử người Miến tên Upokya và Upihliang. Đến năm 1972, Phật tử Miến Điện lại đóng góp tài vật trùng tu ngôi tháp này lần nữa. Ngày nay khách hành hương đến đây lúc nào cũng thấy pho tượng được choàng lên những tấm y màu vàng rực rỡ do các Phật tử từ khắp nơi cúng dường.

                        Trước khi rời khu Đại Tháp và chùa Niết Bàn để tiếp tục đi chiêm bái những nơi khác, chúng tôi quay lại nhìn những cây Sa La đang vi vu trong tiếng gió, có lẽ mới được trồng về sau này nên toàn là cây non. Nhìn con đường dẫn vào Đại Tháp Niết Bàn, và nhìn những phế tháp quanh vùng. Dù đây chỉ là những cây lá, gạch ngói và sỏi đá vô tình, nhưng đối với chúng tôi kể từ giờ phút này chúng đã trở thành những người bạn hữu cảm. Tôi cứ nhìn, nhìn mãi những cây sa la cũng như hết thảy cây cối và những phế tháp trong vùng Đại Tháp Câu Thi Na như muốn nhắn gởi với chúng “Kể từ giờ phút này chúng tôi xin kết Bồ Đề quyến thuộc với quý vị, xin quý vị hãy ngàn đời che chở cho đại tháp. Dù ở nơi xa xôi, chúng tôi luôn nghĩ đến quý vị với tất cả lòng thành.”


                        Nền Tháp Matha-kuar
                        Nơi Đức Phật Ban Lời Di Huấn Cuối Cùng


                        Chúng tôi ghé lại nền Matha-Kuar mà theo truyền thuyết Phật giáo thì chính tại nơi này Đức Thế Tôn đã ban lời di huấn cuối cùng trước khi nhập diệt. Nền Matha-Kuar cách Đại Tháp Niết Bàn chừng 200 mét về phía Tây Nam. Đây là một khu vực hiện đang được các nhà khảo cổ tiếp tục khai quật. Từ Đại Tháp Niết Bàn đi về phía Nam, xuống con lộ chính là nền tháp Matha-kuar, nơi thờ tượng Phật ngồi kiết già bằng đá đen, cao khoảng 3 mét, có niên đại vào thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Dân địa phương gọi tượng Phật này là Matha-kuar, có nghĩa là ‘Hoàng tử mất.’ Theo truyền thuyết Phật giáo, có lẽ người trong dòng họ Thích Ca vẫn xem Đức Phật là một vị hoàng tử của dòng họ, nên họ đã lập tháp kỷ niệm với tên ‘Hoàng Tử Mất.’ Tượng trong tư thế địa xúc ấn (Bhumisparsha mudra) diễn tả giây phút Thái tử kêu vị thần đất lên chứng kiến sự thể hiện thần thông của Ngài sau khi Ngài giác ngộ. Lúc nhà khảo cổ Carlleyle khai quật được thì pho tượng đã bị gãy đôi, nhưng sau đó người ta cho ráp tượng lại và đem về thờ tại tháp Matha-kuar do Phật tử hành hương Miến Điện xây vào năm 1927.


                        (Nền tháp Matha-kuar tại Câu Thi Na)

                        Tháp Trà Tỳ Angrachaya
                        Nơi Hỏa Táng Kim Thân Của Đức Phật

                        Sau khi rời Đại Tháp Niết Bàn, Hòa Thượng hướng dẫn đoàn qua thăm tháp Trà Tỳ Angrachaya, nơi hỏa táng kim thân của Đức Phật. Tháp Trà Tỳ nằm về hướng Đông của Đại Tháp Niết Bàn khoảng 1,6 cây số, nằm trên con đường đi từ Kasia đến Deoria.


                        (Tháp Trà Tỳ Angrachaya tại thành Câu Thi Na)

                        Sau lễ trà tỳ, để tránh sự xung đột trong việc tranh giành xá lợi của Đức Phật, bộ tộc Malla đã thu nhặt hết xá lợi và đem chia đều cho tám vương quốc ấy đem về xây tháp thờ. Dân địa phương còn gọi đó là tháp Ramabhar vì nó tọa lạc kế bên hồ Ramabhar. Theo truyền thuyết Phật giáo tháp trà tỳ là một ngôi tháp thật to, nhưng trải qua một khoảng thời gian dài, ngày nay tháp chỉ còn là một ụ đá thật lớn, nhìn như một cái trống thật lớn, có đường kính khoảng 34,24 mét. Ụ đá cao khoảng 15,40 mét. Tuy tháp tọa lạc trong một khuôn viên đầy hoa xinh đẹp, nhưng ai đến đây cũng phải ngậm ngùi nhớ lại hình ảnh của gần 26 thế kỷ về trước. Nhìn ngôi Đại Tháp mà lòng chúng tôi bỗng chùng xuống. Hòa Thượng Pháp Chủ thật sự xúc động, ngài tự bẩm: “Kính bạch Đức Thế Tôn, gần 26 thế kỷ về trước, Ngài đã vì thương xót chúng sanh mà từ bỏ cung vàng điện ngọc, xuất gia tầm đạo giải thoát. Ngài đã thành đạo và trao truyền hết cho chúng sanh những gì Ngài liễu ngộ. Và cuối cùng Ngài đã từ bỏ thân tứ đại tại chính nơi này. Tuy xác thân tứ đại của Ngài đã không còn, nhưng pháp thân Ngài vẫn hằng hữu với chúng con. Những lời kim ngôn ngọc ngữ của Ngài vẫn còn đây. Hôm nay chúng con có duyên may đến tận đây chiêm bái và ôn lại những lời dạy vàng ngọc của Ngài. Nhưng vì nghiệp chướng sâu dày nên mãi chìm đắm trong bể khổ. Xin Ngài gia hộ cho chúng con dứt bỏ ràng buộc để sớm được giải thoát.” Chung quanh Tháp và chùa Niết Bàn cũng như tháp Trà Tỳ hãy còn rất nhiều nền móng của tu viện và chùa tháp cổ đang được khai quật. Đa số nền móng của những phế tháp này đều có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây Lịch. Trong khi có một số nền tháp tương đối mới là do sự trùng tu kiến tạo của khách hành hương về sau này.


                        (Những ông Đạo Sĩ Rắn vẫn còn nhan nhản
                        bên trong Thành Câu Thi Na)

                        Viện Bảo Tàng Câu Thi Na

                        Nửa đường từ Nền Matha-kuar và Tháp Trà Tỳ, nằm về phía Bắc con đường chính là Viện Bảo Tàng Câu Thi Na. Bên kia phía Nam con đường là ngôi chùa Nhật Bản-Tích Lan (Japan-Srilanka Monastery). Viện Bảo Tàng Câu Thi Na là một trong những viện bảo tàng lớn, nằm giữa những hàng cây kiểng xanh mát. Bên trong viện Bảo Tàng trưng bày rất nhiều cổ vật quý giá do các nhà khảo cổ khai quật được trong khu vực Câu Thi Na. Tuy nhiên, vì thì giờ eo hẹp nên chúng tôi không thể ghé lại thăm được.

                        Chùa Linh Sơn Tại Câu Thi Na


                        (Các học sinh nghèo trong thành Câu Thi Na đang ngồi sắp hàng
                        chờ nhận tặng phẩm của đoàn hành hương)

                        Sau khi rời Tháp Trà Tỳ, đoàn đến thăm chùa Linh Sơn và thăm viếng ủy lạo các học sinh nghèo trong vùng Kushinagar. Chùa Linh Sơn nằm trên con đường đi đến Thánh địa Câu Thi Na. Chùa này được xây vào khoảng những năm 1948-1950, trước kia tên là Song Lâm Tự do một Ni sư người Hoa trụ trì. Sau khi Ni sư viên tịch, chùa được giao lại cho Hòa Thượng Huyền Vi, Viện chủ chùa Linh Sơn ở Pháp. Hòa Thượng đã phái Sư Cô Trí Thuận về đây trụ trì. Từ ngày Sư Cô Trí Thuận về đây, chùa được liên tục trùng tu. Hiện trước sân chùa có một tôn tượng của Đức Quán Thế Âm, cao khoảng 2 mét. Chung quanh chùa là những mô hình được xây dựng phỏng theo “Tứ Động Tâm” đầy mỹ thuật. Chùa cũng xây nhiều khách xá dành cho khách hành hương. Bên cạnh đó chùa cũng tham gia hoạt động từ thiện trong vùng rất tích cực. Đoàn hành hương chúng tôi đến đây vào lúc giữa trưa nên chúng tôi có rất nhiều thì giờ phối hợp với chùa Linh Sơn ủy lạo và phát quà cho học sinh và dân nghèo trong vùng.


                        (Anh chị em trong đoàn hành hương đang phân phối tặng vật đến
                        các học sinh nghèo tại chùa Linh Sơn tại Câu Thi Na.
                        Phía sau là những mô hình phỏng theo tứ động tâm)

                        Chúng tôi đã từng sống trong cảnh nghèo, nghèo lắm ở Việt Nam, nhưng không bao giờ chúng tôi có thể tưởng tượng được sự nghèo khó của người dân vùng Bắc Ấn nếu không đến tận nơi, thấy tận mắt sự nghèo nàn cơ cực quá sức tưởng tượng này. Có một điều mà chúng tôi muốn chia sẻ cùng quí vị là dù nghèo nàn cơ cực thế mấy, người dân xứ Phật thà đi xin chứ không tham lam giựt dọc hay cướp bóc bất cứ thứ gì của ai. Ngay cả khi họ thấy tiền trên túi áo của mình sắp sữa rớt ra, họ chỉ cho chúng ta nhét vào chứ họ không bao giờ có ý lấy bất cứ thứ gì không phải là của người ta cho mình. Chúng tôi phát quà và tiền mặt cho gần 200 học sinh và 8 thầy cô. Các em học sinh nhỏ nhận những quyển vở và những cây bút với lòng lâng lâng mừng rỡ của tuổi thơ. Chúng tôi rời chùa Linh Sơn mà lòng ngậm ngùi thương cảm cho những người dân trong vùng đất đã một thời là cái nôi của Phật Giáo.

                        Các Chùa Khác Tại Câu Thi Na

                        Tại Câu Thi Na, nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đến đây xây chùa như Miến Điện, Tây Tạng, Tích Lan, Nhật Bản, vân vân. Trong khu vực Đại Tháp Niết Bàn đi tới một chút là chùa Tây Tạng. Đây là một ngôi chùa nhỏ, nằm trong một khuôn viên khiêm tốn. Chánh điện chia làm hai tầng, tầng dưới là giảng đường, còn tầng trên làm nơi thờ Phật. Cũng như các chùa khác, chùa Tây Tạng cũng có nhiều khách xá dành cho khách hành hương. Sân chùa trông vắng vẻ, đượm nét tiêu điều vì cỏ dại mọc lên đầy sân trước và sân sau chùa. Sát chùa Linh Sơn là một ngôi chùa do người Miến Điện xây cất vào năm 1945, với những mái cong vút theo kiểu các chùa Thái Lan. Chùa có một hồ sen hình chữ nhật rất lớn, chính giữa là tháp một cột, trên tháp có thờ Phật. Dọ theo bức tường rào bằng gạch có các bức bích họa sắc màu rực rỡ mô tả những biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Phật. Kế bên chùa Miến Điện là một ngôi chùa Thái Lan đang xây cất. Đối diện với Viện Bảo Tàng Câu Thi Na là chùa Nhật-Sri-Lanka do chánh phủ Nhật Bản tài trợ và chư Tăng Tích Lan quản lý. Chùa có lối kiến trúc hình vòm tròn, lấy từ kiểu Đại Tháp Niết Bàn trông rất lạ mắt. Bên trong chánh điện có một tượng Phật tạc theo nghệ thuật Nhật Bản. Quanh tường là những bức họa hình Đức Phật và chư Bồ Tát, chư Tổ, cũng được họa theo lối Nhật Bản. Trong chùa còn có một trung tâm thiền quán, một trạm y tế và một guest house cho khách hành hương. Đoàn hành hương chúng tôi đã lưu lại Guest House của chùa Nhật-Sri Lanka này trong những ngày chiêm bái Thánh tích Câu Thi Na. Từ chùa Nhật-Sri-Lanka đi về hướng Tây (về hướng Tháp Niết Bàn) là ngôi chùa Thái, do chánh phủ Thái tài trợ xây cất. Chu vi chùa rất lớn. Đây là một trong những khu khang trang nhất tại Câu Thi Na. Chánh điện trên lầu hai, rộng lớn và thoáng mát. Mái chùa cong vút với những đường nét kiến trúc Thái Lan thật đặc sắc. Trong khuôn viên chùa người ta trồng thật nhiều hoa với muôn màu muôn sắc trông thật đẹp. Bên hông chùa được xây nhiều khách xá và phòng học cho chư Tăng và Phật tử.
                        Last edited by viet11; 20-06-2012, 08:45 PM.
                        Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                        Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                        ............



                        Can't Live Without...hehe...


                        Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                        Comment


                        • #57
                          Phần 5
                          Lâm Tỳ Ni



                          (Bản đồ hướng dẫn du lịch tại khu Lâm Tỳ Ni,
                          được treo trước cổng vào khu Thánh tích Lâm Tỳ Ni)

                          1:00 giờ chiều cùng ngày, đoàn khởi hành đi Nepal. Từ trên xe buýt nhìn qua khung cửa, càng đến gần Nepal những cánh đồng càng xanh mát hơn, có lẽ nhờ khí hậu mát mẻ của vùng chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Tuy nhiên, dân chúng trong vùng này cũng nghèo không kém gì dân Ấn Độ. Đoạn đường từ thành Câu Thi Na đến Vườn Lâm Tỳ Ni khoảng 100 cây số đường chim bay, nhưng chúng tôi phải vượt qua biên giới Ấn Độ-Népal và đường sá quá xấu nên đến chiều tối chúng tôi mới đến vùng biên giới. Thủ tục làm chiếu khán (visa) từ Ấn Độ qua Népal quả là không đơn giản như chúng tôi tưởng, nhưng không có gì hơn được “thủ tục đầu tiên” nên rồi việc gì cũng qua và chúng tôi cũng đến khách sạn mà chúng tôi muốn đến. Chúng tôi dự định nghỉ đêm tại khách sạn Mansarover, nhưng vì khách sạn không đủ tiện nghi nên sau đó chúng tôi dọn qua một khách sạn khác cũng thuộc địa phận Sonali, Belahiya, Siddhartha Nagar, Lumbini, Nepal.


                          (Bản đồ vùng Lâm Tỳ Ni về phía Népal,
                          gần biên giới Ấn Độ Ngày nay)


                          (Cây Bồ Đề trong Vườn Lâm Tỳ Ni)

                          5:00 giờ sáng ngày 6 tháng 12, đoàn thăm viếng vườn Lâm Tỳ Ni và thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) bên phía Nepal. Khoảng đường từ biên giới đi Lumbini chỉ khoảng độ 30 cây số, nhưng đường quá xấu nên phải mất trên một giờ đồng hồ chúng tôi mới đến được Lâm Tỳ Ni (Lumbini). Lâm Tỳ Ni nằm trên một ngọn đồi thấp ngay dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ngày nay Lâm Tỳ Ni thuộc vương quốc Népal. Vừa đến nơi là Hòa Thượng đã hướng dẫn phái đoàn tụng kinh cầu an cũng như tưởng niệm công đức của Đức Phật, và cầu mong cho khu Lâm Tỳ Ni sớm được trùng tu lại theo đúng quy cách của nó. Chúng tôi thăm viếng Lâm Tỳ Ni, một thánh tích quan trọng trong lịch sử Phật Giáo. Tuy nhiên, dòng thời gian trên 25 thế kỷ với bao nhiêu vật đổi sao dời, bao nhiêu là tang điền thương hải, bao nhiêu cuộc chiến tranh tôn giáo... đã biến khu Thánh tích thiêng liêng này trở thành rừng rậm hoang dã.


                          (Quang cảnh buổi sáng sớm bên ngoài Vườn Lâm Tỳ Ni)


                          (Lâm Tỳ Ni)

                          Chúng tôi đến Lâm Tỳ Ni vào buổi ban mai của một ngày đầu Đông, thế mà cảnh vật ở đây trong rất thảm hại. Tôi bật thành tiếng tự hỏi lòng tôi: “Lâm Tỳ Ni đây sao? Không lý nào đâu? Không lẽ nơi này lại là Lâm Tỳ Ni? Không đâu, Lâm Tỳ Ni từng là khu vườn thượng uyển của những bậc đế vương kia mà?” Lúc này đủ thứ tự hỏi khởi lên trong lòng tôi chỉ vì ba chữ ‘Lâm Tỳ Ni.’ Theo truyền thuyết Phật giáo thì dưới thời vua Tịnh Phạn, Lâm Tỳ Ni là một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn đầy những cây xanh bóng mát. Chính vẻ đẹp ấy mà bà hoàng Ma Da đã ra lệnh cho đoàn tùy tùng hạ trại nghỉ ngơi và thưởng cảnh trước khi trở về quê mẹ.

                          Trong các thánh tích, có lẽ vườn Lâm Tỳ Ni và Thành Ca Tỳ La Vệ là hai nơi tiêu điều nhất. Khu vườn tuyệt mỹ, nơi Đấng Giác Ngộ đản sanh, hôm nay chỉ còn trơ lại một khu vườn hoang với một vài nền tháp đổ nát. Trong khi Dấu vết của bốn cửa thành của kinh thành Ca Tỳ La Vệ chỉ còn trơ lại một dãy gạch vụn mà thôi. Cửa thành phía Đông có một tấm bảng ghi lại: “Đây chính là nơi Thái Tử từ bỏ kinh thành, từ bỏ ngôi vị đế vương, vợ đẹp, con ngoan... vượt thành xuất gia để tìm con đường cứu khổ nhân sanh.” Bên trong thành người ta tìm được một trụ đá mà vua A Dục đã cho xây dựng lên vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch. Tuy trụ đá không còn nguyên vẹn, nhưng những dòng chữ cũng như niên đại của đá cho thấy đây chính là nơi Đức Phật đản sanh. Khi vua A Dục đến chiêm bái Vườn Lâm Tỳ Ni, Thánh tích đản sanh của Đức Phật, thì lúc đó nơi này vẫn còn là một làng quê sung túc, có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên. Nhà vua đã cho xây dựng bốn ngọn tháp và một trụ đá bằng sa thạch, trên đầu trụ có hình con sư tử. Mặc dù ngày nay trụ đá đã gãy mất một phần nhưng vẫn còn lưu lại dòng chữ như một chứng tích lịch sử sau đây: “Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Piyadasi, người được chư Thiên yêu mến đã thân hành viếng thăm, cúng dường và lễ bái nơi đây. Bởi vì Đức Phật, Thánh nhân của dòng họ Thích đã được sanh ra nơi đây và dân làng này đã được miễn một phần tám số thuế lợi tức làm chứng tích lịch sử.”

                          Năm 409 sau Tây Lịch, ngài Pháp Hiển, một nhà hành hương Trung quốc đã ghi lại trong Tây Vực Ký như sau: “Cách năm mươi lý về phía Đông của cung thành là một vườn thượng uyển tên Lâm Tỳ Ni. Chính nơi đây Hoàng Hậu đã tắm rửa và sau đó đi về phía Bắc khoảng hai mươi trượng, vịn vào một nhánh cây, khi bà đưa mắt nhìn về phương Đông thì Thái Tử đản sanh.” Trong khi đó vào năm 629, ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Từ cái giếng (nơi mũi lao của Thái Tử Tất Đạt Đa ghim vào và tạo thành giếng) đi về phía Bắc 80 hay 90 lý chúng ta sẽ gặp vườn Lâm Tỳ Ni. Nơi đây có một hồ tắm của dòng họ Thích Ca, nước trong hồ chói sáng và trong suốt như một tấm gương, trên mặt hồ có nhiều loại hoa nở xinh tươi. Cách hồ khoảng 24 hay 25 trượng về phía Bắc là một cây hoa Vô Ưu, mà bây giờ đã tàn lụi; đây chính là nơi Thái Tử đản sanh vào ngày 8 tháng 3 âm lịch. Phía Bắc của cây hoa Vô Ưu là một cái tháp do vua A Dục dựng lên, chính là nơi mà hai con rồng đã tắm cho Thái Tử. Khi Thái Tử hạ sanh, ngài đã đi không cần ai dìu dắt về bốn hướng, mỗi hướng bảy bước và thốt rằng ‘Trên trời dưới trời chỉ có Ta là bậc tối tôn.’ Đối với Ta, đây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa. Nơi nào mà bước chân Ngài chạm đến nơi đó nảy sanh một hoa sen lớn. Hơn tất cả, hai con rồng bay bổng lên và lượn trên không, từ đó phun ra một dòng nước lạnh và một dòng nước ấm để tắm Thái Tử. Phía Đông của tháp là hai vòi nước tinh khiết, bên cạnh đó có hai ngôi tháp được xây lên ngay tại chỗ hai con rồng từ đất vọt lên. Phái Nam cũng có một cái tháp đánh dấu nơi vua trời Đế Thích đón chào Thái Tử lúc đản sanh. Bên hông tháp này không xa lắm là trụ đá do vua A Dục dựng lên, bên trên trụ là tượng một con sư tử. Bên hông trụ đá là một dòng sông nhỏ chảy theo hướng đông nam, dân ở đây gọi đó là sông Dầu. Theo truyền thuyết thì đây là dòng nước sạch mà chư thiên đã hóa ra cho hoàng hậu tắm sau khi sanh Thái Tử.cChúng tôi đến Lâm Tỳ Ni vào buổi ban mai của một ngày đầu Đông, thế mà cảnh vật ở đây trong rất thảm hại. Tôi bật thành tiếng tự hỏi lòng tôi: “Lâm Tỳ Ni đây sao? Không lý nào đâu? Không lẽ nơi này lại là Lâm Tỳ Ni? Không đâu, Lâm Tỳ Ni từng là khu vườn thượng uyển của những bậc đế vương kia mà?” Lúc này đủ thứ tự hỏi khởi lên trong lòng tôi chỉ vì ba chữ ‘Lâm Tỳ Ni.’ Theo truyền thuyết Phật giáo thì dưới thời vua Tịnh Phạn, Lâm Tỳ Ni là một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn đầy những cây xanh bóng mát. Chính vẻ đẹp ấy mà bà hoàng Ma Da đã ra lệnh cho đoàn tùy tùng hạ trại nghỉ ngơi và thưởng cảnh trước khi trở về quê mẹ.

                          Trong các thánh tích, có lẽ vườn Lâm Tỳ Ni và Thành Ca Tỳ La Vệ là hai nơi tiêu điều nhất. Khu vườn tuyệt mỹ, nơi Đấng Giác Ngộ đản sanh, hôm nay chỉ còn trơ lại một khu vườn hoang với một vài nền tháp đổ nát. Trong khi Dấu vết của bốn cửa thành của kinh thành Ca Tỳ La Vệ chỉ còn trơ lại một dãy gạch vụn mà thôi. Cửa thành phía Đông có một tấm bảng ghi lại: “Đây chính là nơi Thái Tử từ bỏ kinh thành, từ bỏ ngôi vị đế vương, vợ đẹp, con ngoan... vượt thành xuất gia để tìm con đường cứu khổ nhân sanh.” Bên trong thành người ta tìm được một trụ đá mà vua A Dục đã cho xây dựng lên vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch. Tuy trụ đá không còn nguyên vẹn, nhưng những dòng chữ cũng như niên đại của đá cho thấy đây chính là nơi Đức Phật đản sanh. Khi vua A Dục đến chiêm bái Vườn Lâm Tỳ Ni, Thánh tích đản sanh của Đức Phật, thì lúc đó nơi này vẫn còn là một làng quê sung túc, có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên. Nhà vua đã cho xây dựng bốn ngọn tháp và một trụ đá bằng sa thạch, trên đầu trụ có hình con sư tử. Mặc dù ngày nay trụ đá đã gãy mất một phần nhưng vẫn còn lưu lại dòng chữ như một chứng tích lịch sử sau đây: “Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Piyadasi, người được chư Thiên yêu mến đã thân hành viếng thăm, cúng dường và lễ bái nơi đây. Bởi vì Đức Phật, Thánh nhân của dòng họ Thích đã được sanh ra nơi đây và dân làng này đã được miễn một phần tám số thuế lợi tức làm chứng tích lịch sử.”

                          Năm 409 sau Tây Lịch, ngài Pháp Hiển, một nhà hành hương Trung quốc đã ghi lại trong Tây Vực Ký như sau: “Cách năm mươi lý về phía Đông của cung thành là một vườn thượng uyển tên Lâm Tỳ Ni. Chính nơi đây Hoàng Hậu đã tắm rửa và sau đó đi về phía Bắc khoảng hai mươi trượng, vịn vào một nhánh cây, khi bà đưa mắt nhìn về phương Đông thì Thái Tử đản sanh.” Trong khi đó vào năm 629, ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Từ cái giếng (nơi mũi lao của Thái Tử Tất Đạt Đa ghim vào và tạo thành giếng) đi về phía Bắc 80 hay 90 lý chúng ta sẽ gặp vườn Lâm Tỳ Ni. Nơi đây có một hồ tắm của dòng họ Thích Ca, nước trong hồ chói sáng và trong suốt như một tấm gương, trên mặt hồ có nhiều loại hoa nở xinh tươi. Cách hồ khoảng 24 hay 25 trượng về phía Bắc là một cây hoa Vô Ưu, mà bây giờ đã tàn lụi; đây chính là nơi Thái Tử đản sanh vào ngày 8 tháng 3 âm lịch. Phía Bắc của cây hoa Vô Ưu là một cái tháp do vua A Dục dựng lên, chính là nơi mà hai con rồng đã tắm cho Thái Tử. Khi Thái Tử hạ sanh, ngài đã đi không cần ai dìu dắt về bốn hướng, mỗi hướng bảy bước và thốt rằng ‘Trên trời dưới trời chỉ có Ta là bậc tối tôn.’ Đối với Ta, đây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa. Nơi nào mà bước chân Ngài chạm đến nơi đó nảy sanh một hoa sen lớn. Hơn tất cả, hai con rồng bay bổng lên và lượn trên không, từ đó phun ra một dòng nước lạnh và một dòng nước ấm để tắm Thái Tử. Phía Đông của tháp là hai vòi nước tinh khiết, bên cạnh đó có hai ngôi tháp được xây lên ngay tại chỗ hai con rồng từ đất vọt lên. Phái Nam cũng có một cái tháp đánh dấu nơi vua trời Đế Thích đón chào Thái Tử lúc đản sanh. Bên hông tháp này không xa lắm là trụ đá do vua A Dục dựng lên, bên trên trụ là tượng một con sư tử. Bên hông trụ đá là một dòng sông nhỏ chảy theo hướng đông nam, dân ở đây gọi đó là sông Dầu. Theo truyền thuyết thì đây là dòng nước sạch mà chư thiên đã hóa ra cho hoàng hậu tắm sau khi sanh Thái Tử.”

                          Trụ Đá A Dục Tại Vườn Lâm Tỳ Ni Chúng tôi đến Lâm Tỳ Ni vào buổi ban mai của một ngày đầu Đông, thế mà cảnh vật ở đây trong rất thảm hại. Tôi bật thành tiếng tự hỏi lòng tôi: “Lâm Tỳ Ni đây sao? Không lý nào đâu? Không lẽ nơi này lại là Lâm Tỳ Ni? Không đâu, Lâm Tỳ Ni từng là khu vườn thượng uyển của những bậc đế vương kia mà?” Lúc này đủ thứ tự hỏi khởi lên trong lòng tôi chỉ vì ba chữ ‘Lâm Tỳ Ni.’ Theo truyền thuyết Phật giáo thì dưới thời vua Tịnh Phạn, Lâm Tỳ Ni là một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn đầy những cây xanh bóng mát. Chính vẻ đẹp ấy mà bà hoàng Ma Da đã ra lệnh cho đoàn tùy tùng hạ trại nghỉ ngơi và thưởng cảnh trước khi trở về quê mẹ.

                          Trong các thánh tích, có lẽ vườn Lâm Tỳ Ni và Thành Ca Tỳ La Vệ là hai nơi tiêu điều nhất. Khu vườn tuyệt mỹ, nơi Đấng Giác Ngộ đản sanh, hôm nay chỉ còn trơ lại một khu vườn hoang với một vài nền tháp đổ nát. Trong khi Dấu vết của bốn cửa thành của kinh thành Ca Tỳ La Vệ chỉ còn trơ lại một dãy gạch vụn mà thôi. Cửa thành phía Đông có một tấm bảng ghi lại: “Đây chính là nơi Thái Tử từ bỏ kinh thành, từ bỏ ngôi vị đế vương, vợ đẹp, con ngoan... vượt thành xuất gia để tìm con đường cứu khổ nhân sanh.” Bên trong thành người ta tìm được một trụ đá mà vua A Dục đã cho xây dựng lên vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch. Tuy trụ đá không còn nguyên vẹn, nhưng những dòng chữ cũng như niên đại của đá cho thấy đây chính là nơi Đức Phật đản sanh. Khi vua A Dục đến chiêm bái Vườn Lâm Tỳ Ni, Thánh tích đản sanh của Đức Phật, thì lúc đó nơi này vẫn còn là một làng quê sung túc, có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên. Nhà vua đã cho xây dựng bốn ngọn tháp và một trụ đá bằng sa thạch, trên đầu trụ có hình con sư tử. Mặc dù ngày nay trụ đá đã gãy mất một phần nhưng vẫn còn lưu lại dòng chữ như một chứng tích lịch sử sau đây: “Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Piyadasi, người được chư Thiên yêu mến đã thân hành viếng thăm, cúng dường và lễ bái nơi đây. Bởi vì Đức Phật, Thánh nhân của dòng họ Thích đã được sanh ra nơi đây và dân làng này đã được miễn một phần tám số thuế lợi tức làm chứng tích lịch sử.”

                          Năm 409 sau Tây Lịch, ngài Pháp Hiển, một nhà hành hương Trung quốc đã ghi lại trong Tây Vực Ký như sau: “Cách năm mươi lý về phía Đông của cung thành là một vườn thượng uyển tên Lâm Tỳ Ni. Chính nơi đây Hoàng Hậu đã tắm rửa và sau đó đi về phía Bắc khoảng hai mươi trượng, vịn vào một nhánh cây, khi bà đưa mắt nhìn về phương Đông thì Thái Tử đản sanh.” Trong khi đó vào năm 629, ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Từ cái giếng (nơi mũi lao của Thái Tử Tất Đạt Đa ghim vào và tạo thành giếng) đi về phía Bắc 80 hay 90 lý chúng ta sẽ gặp vườn Lâm Tỳ Ni. Nơi đây có một hồ tắm của dòng họ Thích Ca, nước trong hồ chói sáng và trong suốt như một tấm gương, trên mặt hồ có nhiều loại hoa nở xinh tươi. Cách hồ khoảng 24 hay 25 trượng về phía Bắc là một cây hoa Vô Ưu, mà bây giờ đã tàn lụi; đây chính là nơi Thái Tử đản sanh vào ngày 8 tháng 3 âm lịch. Phía Bắc của cây hoa Vô Ưu là một cái tháp do vua A Dục dựng lên, chính là nơi mà hai con rồng đã tắm cho Thái Tử. Khi Thái Tử hạ sanh, ngài đã đi không cần ai dìu dắt về bốn hướng, mỗi hướng bảy bước và thốt rằng ‘Trên trời dưới trời chỉ có Ta là bậc tối tôn.’ Đối với Ta, đây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa. Nơi nào mà bước chân Ngài chạm đến nơi đó nảy sanh một hoa sen lớn. Hơn tất cả, hai con rồng bay bổng lên và lượn trên không, từ đó phun ra một dòng nước lạnh và một dòng nước ấm để tắm Thái Tử. Phía Đông của tháp là hai vòi nước tinh khiết, bên cạnh đó có hai ngôi tháp được xây lên ngay tại chỗ hai con rồng từ đất vọt lên. Phái Nam cũng có một cái tháp đánh dấu nơi vua trời Đế Thích đón chào Thái Tử lúc đản sanh. Bên hông tháp này không xa lắm là trụ đá do vua A Dục dựng lên, bên trên trụ là tượng một con sư tử. Bên hông trụ đá là một dòng sông nhỏ chảy theo hướng đông nam, dân ở đây gọi đó là sông Dầu. Theo truyền thuyết thì đây là dòng nước sạch mà chư thiên đã hóa ra cho hoàng hậu tắm sau khi sanh Thái Tử.”



                          Trụ Đá A Dục Tại Vườn Lâm Tỳ Ni


                          (Trụ đá do vua A Dục dựng lên tại Vườn Lâm Tỳ Ni
                          khi Ngài chiêm bái khu vườn này vào thề kỷ thứ
                          hai trước Tây Lịch)

                          Sau đó sư cô Liên Phụng đã thuyết minh về lịch sử của Vườn Lumbini như sau: “Lâm Tỳ Ni, tức là vùng Rummindei thuộc xứ Népal ngày nay, nằm trên một ngọn đồi nhỏ dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Lâm Tỳ Ni nằm cách thị trấn biên giới Sonali ngày nay khoảng 30 cây số về phía Tây Bắc, cách thành Ba La Nại trên 150 cây số về phía Bắc. Chính nơi này, hơn 2.500 về trước, vào khoảng năm 624, Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Maya đã đản sanh. Sau đó Ngài đã thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khoảng 300 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, vua A Dục của triều đại Mauryan sau khi trở thành Phật tử, ngài đã từ bỏ những cuộc xâm lăng các lân bang. Ngược lại, ngài thiết lập sự chinh phục bằng ‘chánh kiến.’ Từ đó ngài thực hiện nhiều cuộc chiêm bái các Thánh địa Phật giáo. Ngài đã đến đây chiêm bái và đảnh lễ Thánh tích thiêng liêng này. Lâm Tỳ Ni trong thời kỳ đại đế A Dục đến chiêm bái hãy còn là một thôn làng thịnh vượng, có nhiều cảnh trí rất nên thơ. Nhà vua đã cho dựng một trụ đá tại đây để ghi dấu nơi đấng Chí Tôn đản sanh. Khu vườn Lâm Tỳ Ni đã bị bỏ hoang trong nhiều thế kỷ, mãi đến năm 1895, một nhà khảo cổ người Đức tên Fuhrer mới phát hiện được trụ đá của vua A Dục tại đây làm chứng tích cho khu vườn lịch sử này. Không ai biết đích xác nguyên thủy trụ cao bao nhiêu, nhưng phế tích còn lại của trụ cao khoảng 5 mét, đường kính khoảng 0.5 mét, làm bằng sa thạch trắng. Sau đó người ta cho rào quanh trụ để bảo vệ địa điểm nơi Thái Tử Tất Đạt Đa đản sanh. Bên trái trụ đá có một cây phượng vĩ già nhưng cành lá xum xuê, trổ bông đỏ cả một góc vườn. Hiện vòng rào sắt cũng bị thời gian làm rỉ sét gần hết. Vào thập niên 1960s, Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc là U Than tháp tùng vua Mahendra của xứ Népal đã đến viếng Thánh địa Lâm Tỳ Ni. Vua Mahendra đã hiến tặng một trăm ngàn rúp cho việc trùng tu Lâm Tỳ Ni và cơ quan Unesco của Liên Hiệp Quốc đã chính thức công nhận và tài trợ chi phí trùng tu và bảo trì khu di tích quan trọng này. Và trong Đại Hội Phật Giáo Thế Giới tại Nhật Bản vào năm 1979 người ta đã chính thức công nhận Lumbini là di tích chung của Phật Giáo thế giới, cần phải được bảo vệ.”

                          Sau đó Hòa Thượng nhắc lại về sự thị hiện của Đức Phật: “Đức Phật cũng là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng Ngài là một con người phi thường. Ngài thị hiện nơi cõi Ta Bà vì lợi ích và vì hạnh phúc của hết thảy chúng sanh. Ngài thị hiện với mục đích khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật hay biết được những gì mà Ngài đã biết. Ngài đi vào cõi Ta Bà nhiễm trược mà Ngài không nhiễm trược. Ngài luôn thanh khiết như đóa sen mọc từ bùn mà vẫn thơm ngát tinh khiết. Sự đản sanh của Thái Tử Tất Đạt Đa là một sự kiện đầy ý nghĩa trong lịch sử nhân loại. Cuộc đời Đức Phật là một tấm gương sáng ngời cho chúng ta noi theo.”

                          Sau đó đoàn chúng tôi ghé lại chùa Việt Nam của Thầy Huyền Diệu để ăn trưa. Chùa đang xây dựng với nhiều công trình thật qui mô. Tuy nhiên, nghe nói ngày 14 tháng 12 là ngày khánh thành với sự tham dự của nhiều quan khách cũng như chư Tăng Ni và Phật tử khắp nơi trên thế giới. Tại Vườn Lâm Tỳ Ni, ngoài Việt Nam Phật Quốc Tự còn có chùa Linh Sơn, trong hệ thống giáo hội của cố Hòa Thượng Huyền Vi tại Pháp. Ngoài ra, vùng Lâm Tỳ Ni hiện nay còn có nhiều chùa viện của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Bắc tông, Nam tông, Thiền tông và Tịnh Độ tông như Đại Hàn, Miến Điện, Nhật Bản, Thái Lan, Tích Lan, Trung Hoa vàViệt Nam...đã góp phần tạo cho Lâm Tỳ Ni có một khuôn mặt hứa hẹn mới.


                          Giếng Thiêng Tại Vườn Lâm Tỳ Ni

                          Bên phải trụ đá là “Giếng Thiêng” nơi Hoàng Hậu Maya trước khi Đức Phật đản sanh trong vườn Lâm Tỳ Ni. Đây là một cái hồ hình chữ nhật dài khoảng 10 mét, ngang 6,7 mét. Trong hồ vẫn còn đầy nước. Bốn phía đều có bậc tam cấp bước xuống hồ. Cạnh hồ có một cây Bồ Đề tàng lá xum xuê, tỏa bóng mát cả một bờ hồ. Theo truyền thuyết thì thuở đó bất cứ vị vua trong dòng họ Thích Ca nào trong thành Ca Tỳ La Vệ lên ngôi đều phải đến làm lễ tắm tại giếng thiêng này. Vào thế kỷ thứ 14, vua Ripu Malla cai trị xứ Népal có đến đây chiêm bái và khắc tên ông lên trụ đá. Nhưng từ đó Lâm Tỳ Ni đi vào quên lãng cho mãi đến thế kỷ thứ 19, những nhà khảo cổ Anh quốc đã tìm được một tảng đá xác quyết nơi đản sanh của Đức Phật. Những nền đá của ngôi tự viện xưa cũng được khai quật. Khoảng giữa Vườn Lâm Tỳ Ni là một hồ nước lớn, gió núi Hy Mã Lạp Sơn thổi nhẹ làm mặt hồ lăn tăn trong ánh nắng ban mai, làm cho cảnh trí nơi đây thêm phần sinh động. Chính tại hồ nước thiêng này, Hoàng Hậu Maya tắm trước khi đi vào vườn Vô Ưu để hạ sanh Thái Tử. Sau khi Thái Tử đản sanh Ngài đã được các thị nữ tắm gội tại chính giếng nước thiêng này. Ngày nay người ta xây gạch quanh hồ để bảo trì di tích lịch sử của Phật giáo này. Cạnh bờ hồ là một cây Bồ Đề rậm mát, soi bóng xuống mặt hồ.


                          (Giếng thiêng nơi Hoàng Hậu Maya tắm sau khi
                          Đức Phật đản sanh trong vườn Lâm Tỳ Ni bên Nepal)


                          Tháp Thờ Hoàng Hậu Ma Da tại Vườn Lâm Tỳ Ni

                          Trung tâm sinh hoạt và chiêm bái tại khu Lâm Tỳ Ni là Tháp thờ Hoàng Hậu Ma Da vì ai ai về đây chiêm bái đều đến lễ bái bà hoàng hậu kính mến, thân mẫu của Thái Tử Tất Đạt Đa. Tuy nhiên, đền thờ nguyên thủy của Hoàng Hậu Maya đang được các nhà khảo cổ khai quật nên hiện bàn thờ được trang trí tạm tại cửa vào khuôn viên Vườn Lâm Tỳ Ni, nằm về phía Đông của ngôi tháp nguyên thủy. Bức phù điêu trên tường tạc hình Hoàng Hậu và Thái Tử lúc Ngài đản sanh vẫn còn sống động như việc mới vừa xãy ra ngày nào đây. Đây là bức hình chạm nổi hoàng hậu Ma Da lớn bằng người thật đang vịn vào cành Vô Ưu, Thái Tử sơ sinh đang đứng bên hông phải một tòa sen, có vòng hào quang trên đỉnh đầu. Hai góc trái và phải có hai thiên nữ rưới nước và rải hoa cúng dường. Bức phù điêu này do vua Malla của triều đại Naga xứ Népal dâng cúng (triều đại này kéo dài từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 15 tại Népal). Theo các nhà khảo cổ thì tháp thờ này được dựng ngay trên nền tháp mà vua A Dục đã xây vào thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch. Những chứng tích thực nhắc nhở cho chúng ta hình ảnh của Đức Phật đản sanh gần 26 thế kỷ về trước.

                          Theo tục lệ của người Ấn Độ thì người đàn bà phải trở về quê mình để sanh con, rồi sau đó mới trở về lại quê chồng. Trên đường về quê, Hoàng Hậu Maya đã hạ sanh Thái Tử Tất Đạt Đa tại ngôi Vườn Lâm Tỳ Ni này. Theo truyền thuyết Phật giáo thì vừa khi chào đời, Thái Tử đã bước đi bảy bước và từ mặt đất bảy đóa sen đã nở hoa để đỡ bước chân Ngài. Khi bước đến bước thứ bảy thì Ngài đã tuyên bố: “Thiên thượng Thiên hạ, duy ngã độc tôn. Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỉ.” Thuở ấy Ca Tỳ La Vệ tuy không phải là một vương quốc lớn, nhưng rất trù phú, dân chúng an cư lạc nghiệp nên sau khi Đức Phật đản sanh, vua cha Tịnh Phạn cho triệu vời tất cả những nhà tiên tri nổi tiếng đến hoàng cung để tiên đoán vận mạng cho Thái Tử. Chính nhà tiên tri nổi tiếng thời đó là A Tư Đà đã phải ngậm ngùi rơi lệ cho chính mình khi nhìn thấy Thái Tử, vì ông biết rằng về sau này Thái Tử sẽ trở thành một bậc Chuyển Luân Thánh Vương mà mình không có cơ may sống sót đến đó để nghe được giáo pháp của Ngài.

                          Lâm Tỳ Ni là một trong những nơi quan trọng nhất trong lịch sử của nhân loại chứ không riêng gì cho Phật giáo. Riêng đối với những người Phật tử thì Lâm Tỳ Ni cũng giống như Thánh địa Jerusalem của người Do Thái, hay Mecca-Madina của người Hồi giáo, Bethlehem của người Thiên Chúa giáo, và Kashi (Varanasi) của Ấn Độ giáo... Lâm Tỳ Ni là trung tâm hành hương thiêng liêng cho mọi người Phật tử khắp nơi trên thế giới. Thế nhưng mãi đến thập niên 1960s các nhà khảo cổ bắt đầu những cuộc khai quật và bảo toàn Thánh tích thiêng liêng này. Và hiện nay vùng đất Lâm Tỳ Ni vẫn là vùng đất bị lãng quên gần như hoang địa. Trong khi các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực phục hoạt Lâm Tỳ Ni thì tình hình chính trị tại Népal ngày càng trở nên xấu hơn với những rối ren liên tục. Trong khi ngân quỹ của Hội Trách Nhiệm Lâm Tỳ Ni do hoàng gia Népal phụ trách phải chi số tiền trả lương cho nhân viên nhiều hơn là những hoạt động phục hoạt và trùng tu Thánh tích này. Hiện tại ngôi tháp thờ hoàng hậu Ma Da đã bị giật sập để giành ưu tiên cho việc khai quật, nhưng lại không có một kế hoạch xây cất một ngôi tháp mới để thay thế, nên cảnh trí của Lâm Tỳ Ni vốn dĩ đã hoang tàn, nay trở nên hoang tàn hơn. Nói gì thì nói, chắc chắn một ngày không xa nào đó, Lâm Tỳ Ni cũng sẽ được phục hoạt tương xứng với vị trí thiêng liêng hàng đầu trong các Thánh tích khác trên thế giới. Chính từ những kinh điển Phật giáo, những dấu tích văn hóa từ các thời Maurya, Sunga, Kushuwa, Gupta, Pala, những trụ đá của hoàng đế A Dục, cũng như những tập ký sự của các nhà hành hương nổi tiếng như Pháp Hiển, Nghĩa Tịnh, Huyền Trang đã hỗ trợ đắc lực cho các nhà khai quật từ các thời đại Khadga Samesher Rana và Fuhrer lần lượt đưa ra ánh sáng một Thánh tích đã bị lãng quên trong nhiều thế kỷ. Và mới đây, những nhà khảo cổ Nhật Bản và Népal cũng đã khai quật được những di vật liên hệ trực tiếp đến nơi đản sanh của Đức Phật. Hiện tại Lâm Tỳ Ni đã phát triển thành một khu thị tứ tương đối có đầy đủ tiện nghi cho khách hành hương cũng như các nhà nghiên cứu và khảo cổ như khách sạn, phòng trọ, nhà hàng, những sạp bán đồ pháp khí... Lâm Tỳ Ni hiện có Viện Bảo Tàng, và Thư Viện với đầy đủ tài liệu cho việc khai quật. Bên cạnh đó, Lâm Tỳ Ni hiện có rất nhiều ngôi chùa lớn của nhiều quốc gia trên thế giới như Ấn Độ, Đài Loan, Đại Hàn, Miến Điện, Nhật Bản, Thái Lan, Tích Lan, Trung Quốc, Việt Nam...Đây là một khích lệ lớn lao cho công cuộc khai quật hiện tại. Bên cạnh đó, cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc cũng đã chính thức công nhận địa điểm lịch sử này, và hiện cơ quan này đang giúp đỡ chẳng những tài chánh mà còn nối kết sự hợp tác giữa các quốc gia giàu mạnh trong việc phục hoạt Thánh tích này. Dẫu biết rằng không có thứ gì trên đời này có thể chạy ra ngoài định luật vô thường. Dẫu biết rằng giờ này có làm gì đi nữa thì cả Lâm Tỳ Ni lẫn Ca Tỳ La Vệ cũng chỉ là những đống gạch vụn, nhưng những đống gạch vun vỡ ấy chính là nơi dung chứa di sản văn hóa cao thượng đã thấm nhuần trong lòng của những người con Phật khắp nơi trên địa cầu này.


                          Những Hình Ảnh Khác Tại Khu Lâm Tỳ Ni


                          (Tilaurakot-Lâm Tỳ Ni)


                          (Bên trong vòng rào Lâm Tỳ Ni)


                          (Nhà kỷ niệm nơi Phật đản sanh-Lâm Tỳ Ni)


                          (Nơi Đức Phật đản sanh-Lâm Tỳ Ni)

                          Các Chùa Quanh Vùng Lâm Tỳ Ni

                          Hiện tại tại làng Lâm Tỳ Ni có một khu vực tọa lạc các chùa của các quốc gia trên thế giới như chùa Ấn Độ, Đại Hàn, Népal, Nhật Bản, Tây Tạng, Tích Lan, Trung Hoa và Việt Nam. Riêng chùa Việt Nam Phật Quốc Tự là một quần thể khá lớn với ngôi chánh điện uy nghi đồ xộ, một dãy khách xá cả trăm phòng. Ngoài cổng bước vào là bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thật to, được đặt trên một hồ sen rộng. Một tuần sau khi chúng tôi rời khỏi Népal cũng là lúc thầy Huyền Diệu khánh thành ngôi già lam này (khoảng 14 hay 15 tháng 12 năm 2005).

                          Dù nhiều quốc gia trên thế giới, Phật giáo cũng như không Phật giáo, đã cố gắng nỗ lực trùng tu và phục hoạt lại khu Thánh tích thiêng liêng này. Chính phủ Népal cũng đang có chương trình xây dựng phi trường quốc tế nối liền Kathmandu với Lâm Tỳ Ni. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, Lâm Tỳ Ni vẫn còn là một phế tích chưa được chăm sóc đúng mức nên cảnh trí hãy còn quá điêu tàn.



                          (Chùa VN Phật Quốc Tự tại Lâm Tỳ Ni—Népal)


                          (Quang cảnh bên trong chùa VN Phật Quốc Tự tại Lâm Tỳ Ni)


                          Ca Tỳ La Vệ Phía Bên Népal

                          Sau khi viếng thăm vườn Lumbini, đoàn đi thêm gần 30 cây số về phía Tây trong đất Nepal để tới thành Ca Tỳ La Vệ. Phía Népal cho rằng đây mới đích thị là quê hương của Đức Phật, vì theo truyền thuyết Phật giáo thì quê hương của Ngài nằm về phía Bắc của Châu Diêm Phù Đề (Jambudvipa), tức là xứ Thiên Trúc thời các ngài Pháp Hiển và Huyền Trang, hay là xứ Ấn Độ ngày nay.


                          (Quang cảnh thành Ca Tỳ La Vệ vào buổi bình minh)

                          Hai bên đường là cảnh đồng quê với những mái tranh nghèo đơn sơ mộc mạc, nằm chơ vơ giữa những cánh đồng khô cháy, không thấy một giọt nước. Tuy đoạn đường không xa lắm nhưng vì đường sá gồ ghề lởm chởm nên xe buýt đưa chúng tôi đi phải mất gần một tiếng đồng hồ mới tới nơi. Quanh khu thành Ca Tỳ La Vệ là một làng quê thật nghèo, giống như những làng quê ở Việt Nam, nhưng có lẽ nghèo hơn Việt Nam nhiều. Hai bên đường là những bụi tre đong đưa trong gió. Những chú trâu chú bò tranh nhau đi với dân làng trên những con đường nhỏ hẹp. Mà hình như mấy chú trâu bò lúc nào cũng thắng thế, vì đa số người dân ở đây đều nhường bước cho trâu bò đi trước. Dọc theo hai bên con đường chúng tôi đi qua, đầy những đống phân trâu, phân bò, làm cho đường sá ở Ấn Độ, từ thành thị đến thôn quê, có một sắc thái đặc biệt mà có lẽ chúng ta sẽ không tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Đây chính là quang cảnh của thành Ca Tỳ La Vệ về phía Nepal (vì bên phía Ấn Độ cũng cho rằng thành Ca Tỳ La Vệ nằm bên Ấn Độ). Phế tích kinh thành Ca Tỳ La Vệ về phía Népal cũng giống như những phế tích khác, cũng hoang tàn điều hiu. Đó là những phế tích của những nền móng có hình chữ nhật lớn. Theo truyền thuyết Phật giáo, Ca Tỳ La Vệ thuở ban sơ là một khu rừng hoang vu, lúc ấy trong vùng núi Hy Mã Lạp Sơn có một vương quốc do vua Okkaka Raja trị vì, nhà vua và hoàng hậu có cả thảy bốn vị thái tử và năm công chúa. Sau khi bà chánh hậu qua đời, vua lập một thứ phi lên làm hoàng hậu. Bà này sanh cho vua một vị hoàng tử, sau đó bà thứ phi này âm mưu chiếm đọat ngôi báu cho đứa con của chính mình nên bàn mưu lập kế đày các vị thái tử và công chúa con của bà hoàng hậu trước ra vùng hoang địa. Khi đó có một vị Thánh giả tên Kapila Gautama khuyên một trong các vị thái tử tên Ikshwaku đến đây lập quốc. Vị thái tử đó chính là vị đã khai sáng ra vương quốc Ca Tỳ La Vệ cho dòng họ Thích Ca (Shakya). Đến thời vua Tịnh Phạn thì Ca Tỳ La Vệ là một kinh thành nguy nga tráng lệ, dân cư trong thành ai nấy đều có cuộc sống sung túc thạnh vượng. Ôi! Bài hát về kinh thành Ca Tỳ La Vệ mà một tác giả nào đó đã sáng tác lúc tôi còn rất nhỏ, quả tình không phải là những bức tường loang lổ, những nền tháp, những đống gạch vụn hay những miếng gạch bể nằm rải rác ngay trước mặt tôi bây giờ!

                          Cửa Thành Đông


                          (Tấm bảng treo trước cửa thành phía Đông, nơi Đức Phật
                          và Sa Nặc đã cỡi ngựa Kiền Trắc rời bỏ cung điện)

                          Tại cửa thành Đông có một tấm bảng ghi như sau: “Đây là cửa thành Đông, nơi Thái tử vượt thành xuất gia.” Đây chính là nơi lịch sử trọng đại vào bậc nhất của Phật giáo, vì chính từ nơi này Thái tử Tất Đạt Đa đã rời bỏ cung vàng điện ngọc ra đi tìm phương cứu độ chúng sanh, và cũng chính nơi đây đã xoay chuyển một Thái tử thành một vị Phật, mang giáo lý giải thoát tuyệt vời đến cho nhân loại. Theo truyền thuyết Phật giáo thì sau khi rời bỏ kinh thành Ca Tỳ La Vệ trong một đêm tối trời, Thái tử cùng Sa Nặc phi ngựa Kiền Trắc vượt qua sông Anoma, đến gần sáng thì Ngài dừng ngựa lại bên bờ sông, rồi tự tay cắt tóc cạo râu, rồi trao xiêm y và mớ tóc lại nhờ Sa Nặc đem về cho phụ hoàng, còn tự mình khoác áo một nhà tu khổ hạnh tiếp tục rảo bước. Ngài không có chỗ ở thường trực, mà chỗ ở của Ngài có thể là một tàng cây, một hang đá chỉ để che mưa tránh gió mà thôi. Chân không giày, đầu không nón, một mình cô thân vạn lý du dưới ánh nắng chói chan hay trong sương đêm lạnh lẻo. Mường tượng đến những gian lao khổ nhọc mà một Thái tử cành vàng lá ngọc phải chịu đựng, rồi nhìn cảnh hoang phế của thành Ca Tỳ La Vệ hôm nay mà lòng chúng tôi buồn rười rượi. Thời gian vô tình xóa mờ đi tất cả, xóa mờ cả một dĩ vãng vàng son của cung thành Ca Tỳ La Vệ. Đây là kinh thành của dòng họ Thích Ca (Sakya), nơi Đức Phật đã sống trong suốt 29 năm dài. Tôi tự trầm ngâm, hay là họ đã lầm khi áp đặt cho chỗ này là kinh thành Ca Tỳ La Vệ, chứ thành Ca Tỳ La Vệ ngày nào của Đức Phật mà như thế này ư? Nhưng không, chỉ một giây sau là tôi lấy lại thăng bằng trong tâm tưởng khi nhớ tới những lời dạy của Đức Thế Tôn về luật “sanh trụ dị diệt” của vạn hữu. Đứng trước cảnh điêu tàn đổ nát, lòng tôi bỗng chạnh nhớ đến hai câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương:

                          “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
                          Lầu cũ lâu đài bóng tịch dương.”


                          (Phế tích trong thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Nepal)

                          Ca Tỳ La Vệ, mới ngày nào là một vương quốc phồn thịnh trù phú, thành quách kiên cố, dân chúng an cư lạc nghiệp, mà bây giờ chỉ còn trơ lại một đống gạch vụn hoang tàn đổ nát với những túp lều xiêu vẹo. Ôi thành quách kiên cố mà còn bị chiếc búa thời gian nghiền nát, huống là con người! Chính nơi những phế tích của các cung điện này, cả ba vị là Đức Phật, Đông Cung Thái Tử Nan Đà (con ruột của bà di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề), và La Hầu La đã chứng kiến cảnh vua Tịnh Phạn trong giờ phút lâm chung, thiết tha muốn một trong ba người thân thương của ông ta đứng ra chấp chánh, nhưng cả ba đều kiên quyết giữ vững sự tu hành và thành đạo của mình. Cuối cùng nhà vua phải nhường ngôi lại cho hoàng thân Mahanama, con của hoàng đệ Sukkodana của vua Tịnh Phạn. Sau khi vua Tịnh Phạn băng hà, nhìn cảnh đời tan hợp hợp tan, nên nhiều lần di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề đã khẩn cầu Đức Phật cho phép mình được xuất gia tu hành, nhưng cả ba lần Đức Phật đều từ chối, không phải Ngài không muốn cho người nữ xuất gia, vì Ngài biết nếu tu hành tinh chuyên người nữ cũng có thể đắc quả A La Hán như mọi người, thế nhưng người nữ nặng nghiệp khi được cho vào giáo đoàn chính họ sẽ làm cho giáo pháp mai một đi sớm hơn. Chính vì thế mà Ngài rất do dự không quyết định việc cho người nữ xuất gia.

                          Thật tình mà nói, nếu ngày ấy Thái Tử Tất Đạt Đa không quyết chí từ bỏ cung vàng điện ngọc, ra đi tầm đạo thì có lẽ giờ này tiếng tăm của Ngài cũng đã bị chiếc búa thời gian nghiền nát từ lâu như những lầu cũ lâu đài trong cung điện Ca Tỳ La Vệ của Ngài vậy. Nơi đây bây giờ nào khác chi hoang địa? Nhìn những mái tranh tàn tạ, những thân hình gầy guộc xanh xao của cư dân ở đây lòng chúng tôi bỗng chùng xuống. Theo sự thuyết minh của sư cô Liên Phụng thì theo truyền thuyết Phật giáo, kinh thành này bị tàn phá và sụp đổ từ sau khi vua Tỳ Lưu Ly, con vua Ba Tư Nặc, bấy giờ là vua của xứ Kosala, vì lời thề mà tàn sát cả dòng họ Thích Ca. Mặc dù Đức Phật đã hai lần can ngăn, nhưng chính Ngài cũng biết nghiệp lực của dòng họ mình chẳng những khiến cho dòng họ bị tiêu diệt, mà kinh thành nguy nga tráng lệ cũng sẽ biến thành nhà tranh vách đất, đất nước trù phú thịnh vượng sẽ trở nên nghèo nàn suy sụp và khổ sở, tang điền sẽ biến thành thương hải. Đây là một tấn bi kịch nói lên những cực đoan trong một xã hội Ấn Độ giai cấp thời cổ đại. Theo chánh sử Phật giáo thì vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), cũng thuộc dòng dõi Ikshvaku, vì muốn bang giao với dòng họ Thích Ca nên cho người đến để cầu hôn. Ngược lại, thời đó dòng họ Thích Ca lại cho rằng vua Ba Tư Nặc không thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi nên không muốn gã công chúa dòng Thích Ca, nhưng vì thời đó Kosala là một cường quốc nên đã cho một thị nữ tên Vasbhaktiya cải trang làm công chúa về với vua Ba Tư Nặc. Vua Ba Tư Nặc đã phong nàng làm hoàng hậu và ít lâu sau đó thì nàng Vasbhaktiya hạ sanh thái tử Tỳ Lưu Ly. Khi trưởng thành, thái tử Tỳ Lưu Ly muốn về thăm quê ngoại, bà Vasbhaktiya hết sức cản ngăn nhưng không được. Thái tử Tỳ Lưu Ly cũng được dòng họ Thích Ca tiếp đón như một quốc khách và cho ngụ tại sứ quán. Tuy nhiên, khi thái tử ra về thì người ta cho rữa sứ quán bằng sữa tươi. Một người hầu của Thái tử vì bỏ quên đồ trở lại lấy, thấy được cảnh này, trở về báo cho thái tử Tỳ Lưu Ly cớ sự. Vì thế mà thái tử tức giận thề rằng: “Ta sẽ không những rữa sứ quán, mà sẽ rữa cả kinh thành Ca Tỳ La Vệ bằng máu.” Sau đó thái tử âm mưu đoạt ngôi vua cha khi vua Ba Tư Nặc đang đi nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi hay tin thoán nghịch này nhà vua phải chạy sang xứ Ma Kiệt Đà để lánh nạn, nhưng đến giữa đường thì băng hà vì tức tối. Sau đó Tỳ Lưu Ly đã ba lần cất quân sang đánh Ca Tỳ La Vệ, nhưng hai lần đầu nhờ có Đức Phật cản ngăn, đến lần thứ ba thì Tỳ Lưu Ly đã tắm máu cả dòng họ Thích Ca, chỉ một số ít người chạy thoát về Kathmandu. Theo Huyền Trang trong Đại Đường Tây Vực Ký, số tử vong lên 9999. Tỳ Lưu Ly tàn sát đến đứa trẻ sơ sinh cũng không tha. Kể từ đó, kinh thành Ca Tỳ La Vệ trở nên hoang vu dù có một số người nhớ ân đức của Đức Phật, có trở về đây xây dựng lại một số đền đài, nhưng ngày nay kinh thành Ca Tỳ La Vệ không còn gì ngoài những nền tháp, những đống gạch vụn, những hàng cây mọc không trật tự và vô số cỏ dại vì thiếu người chăm sóc. Năm 1898, nhà khảo cổ người Đức tên Fuhrer đã khai quật được một cái hồ hình chữ nhật, mà người ta tin rằng đây chính là nơi vua Tỳ Lưu Ly đã tắm máu dòng họ Thích Ca. Tại đây có 17 ngọn tháp, người ta cũng tìm thấy những tảng đá có hình hoa sen và những loại vũ khí thời xa xưa. Nhà khảo cổ Smith và nhiều người khác cho rằng nơi đây có thể là những ngôi tháp được những người kính ngưỡng dòng họ Thích Ca dựng lên để tưởng niệm những người đã bỏ mình trong cuộc chiến với vua Tỳ Lưu Ly.

                          Ngài Pháp Hiển, hành hương Ấn Độ năm 409 đã ghi lại như sau: “Từ những ngọn núi đầy tuyết trắng xóa của dãy Hy Mã Lạp Sơn nhìn xuống thành Ca Tỳ La Vệ, một thành phố nằm dọc theo bờ sông. Những bức tường đổ nát bằng gạch được bao bọc bởi một hào sâu. Những bức tường của cung thành thì lớn hơn và biểu hiện một trung tâm văn hóa cao.”Khi Ngài Pháp Hiển đến kinh thành Ca Tỳ La Vệ, thì nơi đó là một nơi không có vua và không có cả thần dân, chỉ có một vài Tăng sĩ đang trụ xứ tại đó. Ranh giới của kinh thành được nhận biết qua những bờ thành mục nát. Đây nơi Thái Tử mục kích cảnh sanh, lão, bệnh, tử. Kia là cửa thành Đông, nơi Thái Tử Tất Đạt Đa rời bỏ kinh thành ra đi tìm đạo giải thoát. Còn đằng kia là chỗ ngài A Tư Đà thiền định. Đó là chỗ Đề Bà Đạt Đa đã giết chết con voi. Xa xa đàng kia là chỗ mũi tên của Thái Tử ghim xuống sau đoạn đường bay đi hơn 30 lý (tức là 4.8 dặm Anh). Còn đây chính là nơi đã phun lên một vòi nước, cũng là nơi mà 500 người trong dòng họ Thích Ca quy-y theo Phật. Những nơi đất chấn động sáu lần, nơi Đức Phật gặp vua Tịnh Phạn sau khi Ngài giác ngộ, nơi Đức Phật giảng pháp cho chư Thiên, nơi Trời Đế Thích đứng hầu Phật, nơi Thái tử Tỳ Lưu Ly sát hại dòng họ Thích Ca, tất cả những nơi ấy đều được Phật tử xây tháp kỷ niệm.



                          (Phế tích những nền đá tại thành Ca Tỳ La Vệ phía bên Népal)

                          Trong Đại Đường Tây Vực Ký, Ngài Huyền Trang ghi chép tường tận hơn: “Thành Ca Tỳ La Vệ có một chu vi khoảng 4.000 lý. Trong đó có trên 10 thành phố, tất cả đều hoang phế và điêu tàn tột độ. Thủ đô cũng bị đất lấp và đổ nát. Cấm cung nằm trong thủ đô và có chu vi khoảng 14 hay 15 lý. Hoàng cung được xây dựng bằng gạch đỏ. Những nền tường vẫn còn vững chắc và cao. Nơi này có lẽ đã bị bỏ phế từ lâu. Nhưng làng mạc có dân cư rất là ít và tiêu điều. Nơi đây hiện giờ không có ai trị vì cả. Mỗi một phố có một trưởng phố riêng. Đất đai rất là màu mỡ và được khai thác theo từng mùa. Người dân ở đây rất hiền lành và cần mẫn. Có lẽ có trên 1.000 Tăng xá bị bỏ hoang. Gần nơi cung thành vẫn còn một Tăng xá có khoảng 3.000 Phật tử đang tu học theo truyền thống Tiểu Thừa. Ở đây cũng có một số đền Đế Thích được cúng tế thịt sống. Bên trong hoàng thành còn những tường nhà đổ nát. Có lẽ đây là cấm cung của vua Tịnh Phạn vì một ngôi tháp với hình ảnh nhà vua đã được dựng lên nơi đây. Không xa mấy là tàn tích của nơi mà hoàng hậu Ma Da cư ngụ. Trên nền đá cũ người ta đã xây một ngôi tháp có hình hoàng hậu. Phía Đông Bắc của hoàng cung là một ngôi tháp, kỷ niệm nơi nhà tiên tri A Tư Đà đã tiên tri cho Thái Tử... Nơi cổng Nam của hoàng cung có một ngôi tháp , nơi đánh dấu Thái Tử ném con voi đi xa sau khi thắng cuộc thi đấu với các hoàng thân khác. Bên hông nơi này là một ngôi tháp có hình Thái Tử. Kế bên ngôi tháp này là một ngôi tháp nơi hoàng phi và thái tôn nghỉ ngơi. Trong đó có hình của hoàng phi Da Du Đà La và thái tôn La Hầu La. Bên hông ngôi tháp này lại là ngôi tháp có hình chú bé đang học tập. Phía Đông Nam của kinh thành là một ngôi tháp thờ tượng Thái tử đang cỡi một con tuấn mã trắng. Đây là nơi Thái tử đã rời kinh thành. Bên ngoài mỗi cổng thành đều có một ngôi tháp, mỗi ngôi tháp đều có tượng một cụ già, một người bệnh, một người chết và một sa môn. Đó chính là những nơi mà Thái tử trên đường ngoạn cảnh đã nhìn thấy các cảnh sanh, lão, bệnh, tử và chiêm ngưỡng bậc sa môn. Phía Đông Bắc cách kinh thành khoảng 40 lý có một ngôi tháp đánh dấu sự kiện Thái tử trong một ngày lễ hạ điền đã ngồi dưới gốc cây và đạt được sơ thiền. Phía Đông Nam cửa thành có trăm ngàn ngọn tháp, đánh dấu nơi dòng họ Thích Ca bị sát hại. Vua Tỳ Lưu Ly đã đánh chiếm và bắt tất cả dòng họ Thích 9999 người, sau đó ra lệnh xử chém tất cả. Thây họ chất thành đống như rơm và máu của họ chảy thành hồ. Các vị Đế Thích đã kích động lòng người để họ đến thu thập xương tàn mà đem chôn. Phía Tây Nam của nơi dòng họ Thích Ca bị vua Tỳ Lưu Ly sát hại có bốn ngôi tháp nhỏ. Phía Nam của thủ đô khoảng 3 hay 4 lý là một vườn cây Ni Câu Đà (Nyagrodha) nơi Đức Phật sau khi thành đạo đã hội ngộ với vua cha và giảng dạy giáo pháp. Cách bên hông Tăng xá không xa là một ngôi tháp kỷ niệm nơi Đức Phật khi ngồi dưới gốc cây lớn hướng mặt về phương Đông đã nhận một tấm y bằng chỉ kim tuyến của bà di mẫu Ba Ha Ba Xà Ba Đề dâng cúng. Không xa nơi đó là một tháp đánh dấu nơi Đức Phật cảm hóa tám vị vương tử cùng 500 người trong dòng họ Thích. Bên trong cổng thành Đông phía bên trái cũng có một ngôi tháp, nơi Thái tử thường chơi thể thao lúc nhỏ. Bên ngoài thành là một ngôi đền Đế Thích (Isvara). Trong đền có một bức tượng Đế Thích trong tư thế đang quỳ và đứng dậy. Đây là ngôi đền mà khi Thái tử còn sơ sanh đã được đưa vào theo tập tục xưa của người Ấn. Bên ngoài cửa thành Nam, phía bên trái là một ngôi tháp đánh dấu nơi Thái tử đã cùng các hoàng tử khác tranh tài và mũi tên của Ngài đã chẻ đôi cái đích bằng sắt. Từ nơi tháp này đi về phía Đông Nam 30 lý có một ngôi tháp khác. Nơi đây có một vòi nước và nước trong vắt như mặt gương. Đây chính là mũi tên nơi Thái tử sau khi chẻ đôi cái đích đã ghim sâu xuống, từ đó một vòi nước đã chảy ra, người địa phương gọi là ‘Tiễn Tỉnh.’”

                          Ngày nay về hướng Tây Nam của Taulihawa khoảng 6,5 cây số có ngôi làng tên Baradhawa, nơi người ta khai quật được một số di tích xưa, trong đó có một ngôi tháp chứa xá lợi của Đức Phật, không xa nơi này là một cái giếng nhỏ mà người ta tin là nơi mũi tên của Thái Tử Tất Đạt Đa đã ghim xuống trong cuộc tranh tài ngày xưa. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng cụ thể nào về những khám phá mới này cả. Hiện tại các nhà khảo cổ dự tính tiếp tục cho khai quật những vùng phụ cận kinh thành Ca Tỳ La Vệ, nơi người ta tin rằng sẽ đào lên được những di tích lịch sử liên quan đến kinh thành Ca Tỳ La Vệ cũng như dòng họ Thích Ca như làng Hardewa cách Taulihawa khoảng 5 cây số về phía Nam, làng Bikuli cách Taulihawa khoảng 13 cây số về phía Đông Bắc, làng Chatradei cách Taulihawa khoảng 5 cây số về phía Tây Bắc, và làng Araurakot các Ca Tỳ La Vệ bên Népal khoảng 9 cây số về phìa Đông Bắc...



                          (Dòng sông chảy quanh hướng Đông Thành Ca Tỳ La Vệ)


                          (Dòng sông nằm bên cửa thành Đông tại Ca Tỳ La Vệ)


                          Thành Ca Tỳ La Vệ Nào?
                          Bên Phía Népal hay bên phía Ấn Độ?

                          Năm 1896 nhà khảo cổ Alexander Cunningham đã dựa vào những tài liệu của các ngài Pháp Hiển, Huyền Trang, cũng như dựa theo các kinh điển khác của Phật giáo, đã tìm ra được gần như chính xác địa điểm của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Theo ông Cunningham thì kinh thành Ca Tỳ La Vệ nằm bên bờ sông Bhagirathi, cách Rishi Kapila không xa. Theo những phế tích của thành Ca Tỳ La Vệ hiện đang nằm bên bờ sông và phía Đông là Vườn Lâm Tỳ Ni. Tuy nhiên, cho đến ngày nay chưa ai trong giới khảo cổ học có thể xác định vị trí chính xác của kinh thành Ca Tỳ La Vệ, vì vậy mà cả hai phía Ấn Độ và Népal đều cho rằng kinh thành này nằm trong địa phận của quốc gia mình. Bên phía Népal thì cho rằng thành Ca Tỳ La Vệ nằm cách Vườn Lâm Tỳ Ni khoảng 27 cây số về hướng Tây. Trong khi bên phía Ấn Độ lại cho rằng thành Ca Tỳ La Vệ nằm trong địa phận Pipprahwa, thuộc vùng Basti của bang Uttar Pradesh, cách nhà ga Naugarh trên tuyến đường xe lửa Gorakpur Gonda 25 cây số, và cũng cách thành Ca Tỳ La Vệ bên Népal khoảng 25 cây số. Hiện tại các nhà khảo cổ đang nỗ lực nghiên cứu xem vị trí nào chính xác. Tuy nhiên, cho đến ngày nay thì đa số đều tin rằng thành Ca Tỳ La Vệ bên Népal có phần chính xác hơn nên hầu như đa số khách hành hương đều đổ xô về đây chiêm bái.

                          Nói gì thì nói, bốn chữ Ca Tỳ La Vệ luôn có một chỗ đứng rất trang trọng trong lòng người Phật tử. Thành Ca Tỳ La Vệ, dù nằm bên phía nào, dù bên Ấn Độ hay bên Népal, vẫn là một di tích, một Thánh tích rất quan trọng trong lịch sử Phật giáo. Nhưng đối với Phật tử chúng ta, làm sao khỏi chạnh lòng đau xót khi nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát của thành Ca Tỳ La Vệ (cả hai bên Népal và Ấn Độ). Hiện tại Phật tử khắp nơi đang ráo riết vận động trùng tu lại khu Thánh tích này. Hy vọng trong những thập niên sắp tới, con cháu chúng ta sẽ nhìn thấy Thánh tích một Ca Tỳ La Vệ quang đản hơn những gì mà chúng ta đang thấy ngày hôm nay.


                          Thành Xá Vệ

                          2:00 giờ chiều cùng ngày, đoàn vượt biên giới Nepal-India đi Xá Vệ (Sravasti). Trong thời Đức Phật còn tại thế, bên thành Vương Xá thuộc xứ Ma Kiệt Đà do vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) cai trị, thì bên Xá Vệ Quốc thuộc vương quốc Câu Sa La do vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) trị vì. Theo truyền thuyết Phật giáo thì vua Ba Tư Nặc cũng là một trong những vị vua đầu tiên hộ trì Phật giáo rất chí tình. Ông là một vị đại thí chủ của Đức Phật và Tăng đoàn trong những ngày đầu khai sanh của Phật giáo. Và ông cũng là một trong những vị quân vương Phật tử đầu tiên trong lịch sử Phật giáo. Cũng theo truyền thuyết Phật giáo thì phần lớn sự tôn kính và tín ngưỡng Phật giáo của nhà vua là do bà chánh hậu Mallika. Bà rất sùng đạo, lại thiên phú cho tánh tình thông minh hiền diệu. Bà rất thông thạo giáo lý, nên trong nhiều trường hợp bà đã hướng dẫn và giúp đỡ chồng trên đường đạo đức. Ngày trước, thành Xá Vệ là một kinh thành thịnh vượng trù phú, với những cánh đồng bao la bát ngát. Chính vì vậy mà Đức Phật đã ghi lại trong một bài kinh về Xá Vệ như sau: “Dòng sông Achiravati (bây giờ là sông Rati) chảy ngang qua những cánh đồng lúa mạch phì nhiêu. Chúng vây bọc thành phố vĩ đại này, hòn ngọc của vương quốc Câu Sa La cổ kính, và trong thành phố này có 57.000 dân cư trú ngụ, người dân sống trong sự thịnh vượng trù phú.” Nhưng ngày nay thì hoàn toàn ngược lại, dân chúng trong thành Xá Vệ ngày nay nghèo nàn xơ xác với những mái nhà tranh vách đất dọc hai bên đường. Trong khi tại thị trấn, chỉ có những xây cất tạp nhạp, dường như không có kế hoạch gì cả.

                          Thành Ca Tỳ La Vệ Bên Phía Ấn Độ

                          Trên đường đi từ Népal về phía Ấn Độ, đoàn chúng tôi dự tính ghé lại thăm thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Ấn Độ, nhưng khi qua khỏi biên giới thì màn sương chiều đã bắt đầu lãng đãng khắp nơi, nên chúng tôi phải ngồi trên xe quan sát. Theo người Ấn thì thành Ca Tỳ La Vệ nằm trong địa phận Pipprahwa, thuộc vùng Basti của bang Uttar Pradesh, cách nhà ga Naugarh trên tuyến đường xe lửa Gorakpur Gonda 25 cây số, và cũng cách thành Ca Tỳ La Vệ bên Népal khoảng 25 cây số. Sau khi chúng tôi vừa qua khỏi biên giới Népal thì mặt trời cũng bắt đầu ngã bóng. Thấp thoáng phía trước mặt chúng tôi là thị trấn Pipprahwa, cũng nghèo nàn như hầu hết các thị trấn khác trong vùng biên giới Ấn Độ-Népal. Nếu xuôi về hướng Đông Nam thì chúng tôi sẽ gặp thành phố Gorakhpur, nhưng không, xe chúng tôi tiếp tục chạy về hướng Tây Bắc để đi đến thành Xá Vệ. Thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Ấn Độ cũng hoang tàn đổ nát không khác chi thành Ca Tỳ La Vệ bên phía Népal. Nhìn cảnh hoang sơ hai bên đường, không biết hai hàng nước mắt của tôi thấm mặn trên môi tự lúc nào. Tôi tự nghĩ: “Sao mà ướt át quá vậy, Đức Từ Phụ đã không từng nhấn mạnh về vô thường trong các kinh điển của Ngài hay sao?” Dù nói gì đi nữa, thì tôi vẫn là một con người hết sức phàm phu tục tử, nên không thể nào ngăn được những cảm súc bình thường của một con người. Khi đi ngang qua vùng phế tích Ca Tỳ La Vệ bên phía Ấn Độ thì trời đã bắt đầu tối nên chúng tôi tiếp tục đi đến Xá Vệ. Dù sương đêm đã phủ đầy hai bên đường, khi xe buýt vượt qua thị trấn, chúng tôi vẫn thấy rõ hai bên đường trong thành Xá Vệ ngày nay chỉ còn lại những mái tranh nghèo nàn lụp sụp, những con người ốm o gầy mòn. Dù đoạn đường từ biên giới Ấn Độ-Népal về thành Xá Vệ chưa đầy 300 cây số đường chim bay, mãi đến gần 10 giờ đêm chúng tôi mới tới Xá Vệ. Sau đó đoàn nghỉ đêm tại thành Xá Vệ, Sri Lanka Guest House, thuộc Distt Sravasti, bang Uttar Pradesh.


                          Thành Xá Vệ--Đức Phật Tranh Luận
                          Với Lục Sư Ngoại Đạo


                          Trong thời Đức Phật còn tại thế thì tại Xá Vệ Quốc đã xảy ra một cuộc tranh luận vô tiền khoáng hậu. Lý do là thời đó tại thành Xá Vệ có rất nhiều ngoại đạo sư. Khi họ thấy đạo Phật càng ngày càng mạnh và có uy thế ở đây, họ đâm ra bực bội, tâu lên vua Ba Tư Nặc. Nhà vua cho tiến hành một cuộc tranh luận. Đây là cuộc tranh luận giữa Đức Phật và lục sư ngoại đạo. Sáu nhà sư ngoại đạo thuộc sáu trường phái triết học nổi tiếng nhất tại Ấn Độ thời bấy giờ đã gởi lời thách thức tranh luận đến Đức Phật. Lúc ấy Đức Phật đang trụ tại thành Vương Xá bên xứ Ma Kiệt Đà, khi nhận được thơ thỉnh cầu, Đức Phật bằng lòng và tuyên bố rằng cuộc tranh luận sẽ được tiến hành dưới một tàng cây xoài. Trong khi nhà vua muốn cuộc tranh luận ấy diễn ra trong những đại sảnh lớn. Để làm cho lời tuyên bố của Đức Phật phải bị sai nên lục sư ngoại đạo cho người đi đốn hết những cây xoài trong thành Xá Vệ. Nhưng theo truyền thuyết Phật giáo, khi đến nơi Đức Phật đã cho ném một hột xoài xuống đất và dùng thần thông làm cho cây xoài ấy lớn và đơm bông kết trái nhanh như thổi, tàng của nó che mát cả một khoảng đất rộng như sảnh đường. Cuối cùng Đức Phật đã thắng tất cả lục sư ngoại đạo trong cuộc tranh luận này. Vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch, vua A Dục đã thân hành đến chiêm bái Xá Vệ Quốc. Tại đây ngài đã cho dựng 2 trụ đá bên cổng phía Đông để đánh dấu nơi Đức Phật và chư Tăng thường trú tại đây trong 24 mùa an cư kiết hạ. Ngoài ra, nhà vua còn cho xây một ngôi chùa để thờ xá lợi của Đức Phật. Đến thế kỷ thứ nhất sau tây Lịch, vua Kushana đã cho chạm khắc một số hình tượng Phật vào các tháp để thờ tại Xá Vệ. Đến thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch khi Ấn Độ giáo bắt đầu phục hoạt thì Phật giáo vẫn còn hưng thịnh, nhưng đến thế kỷ thứ 5 khi ngài Pháp Hiển du hành chiêm bái Phật tích vào năm 409, thì Phật giáo ở Ấn Độ bắt đầu đi vào thời kỳ suy tàn, và các di tích chùa tháp Phật giáo tại Xá Vệ Quốc chỉ còn là những bóng mờ. Trong Phật Quốc Ký, ngài Pháp Hiển đã ghi: “Xá Vệ Quốc xưa kia, nơi Đức Thế Tôn và Tăng đoàn đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ, lúc bấy giờ chỉ còn một số tu viện với vài trăm Tăng sĩ tu tập. Khi thấy ngài đến họ lấy làm lạ thăm hỏi và biết rằng ngài từ Trung Hoa sang, họ tán thán lên rằng: ‘lạ thay! Vị này từ một nơi xa xôi tận cùng trái đất mà cũng đến đây tu học. Chúng ta và các vị trưởng lão tại đây chưa từng được trông thấy như vậy.’ Hồi này Xá Vệ Quốc dân cư rất thưa thớt, tổng cộng chỉ có khoảng chừng 200 gia đình sống nơi xưa kia vua Ba Tư Nặc trị vì. Đi về cổng phía Nam của thành khoảng 1.200 trượng, phía bên trái của con đường là nơi mà xưa kia trưởng già Tu Đạt xây cất tịnh xá cúng dường cho Đức Phật. Cửa chính đi vào nằm bên hông của hai dãy phòng lớn, trước mặt là hai trụ đá, trên đỉnh trụ bên trái là tượng bánh xe, và trên đỉnh trụ bên phải là tượng một con trâu. Những hồ nước trong xanh chung quanh những khu rừng cây hoa lệ và vô số các loài hoa trong Kỳ Viên Tịnh Xá.”



                          Còn Tiếp
                          Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                          Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                          ............



                          Can't Live Without...hehe...


                          Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                          Comment


                          • #58
                            Thành Ca Tỳ La Vệ Nào?
                            Bên Phía Népal hay bên phía Ấn Độ?

                            Chắc mấy ông Ấn độ muốn giành du khách về phía mình

                            Comment


                            • #59
                              Nguyên Văn Bài Viết Của Akuna View Post
                              Thành Ca Tỳ La Vệ Nào?
                              Bên Phía Népal hay bên phía Ấn Độ?

                              Chắc mấy ông Ấn độ muốn giành du khách về phía mình

                              Hehe....bên nào kệ...mình chỉ đi viếng Phật thôi.....
                              Cũng giống như Jerusalem thôi cũng bi tranh dành..........
                              Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                              Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                              ............



                              Can't Live Without...hehe...


                              Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                              Comment


                              • #60
                                Sau khi từ Hoa Sơn trở về vào xế chiều, tôi tranh thủ thời gian đạp xe vô các ngôi làng gần Nyaung U cho đến tối mịt. Hôm nay là ngày 14 âm lịch, trăng sáng vằng vặc trên bầu trời xanh lơ. Mấy ngày qua ăn uống linh tinh, toàn những chỗ dở hơi nên hôm nay quyết tâm kiếm một chỗ đàng hoàng tử tế. Tôi phải tự thưởng cho mình vì còn tiền trong khi chỉ còn hai ngày nữa, tôi sẽ bay về Yangon, ở lại một đêm ở đó để sáng hôm sau bay qua Bangkok chờ đổi chuyến về Sài Gòn.



                                Từ Khanh


                                ĐỔI TÊN

                                Tôi tìm được một nhà hàng (thứ thiệt) bên ngoài khu Bagan Cổ để ăn tối, có tên A Little Bit of Bagan. Nhà hàng nằm trên con đường nhỏ, gần ngã ba cắt ngang đường cái Bagan-Nyaung U và xịch hướng phía khu Nyaung U, ngay góc đường có tấm bảng chỉ hướng nên dễ tìm. Sau khi bước qua sân trước sẽ thấy một phòng Internet máy lạnh, nếu bạn muốn lướt tin hay gửi điện thư thì các cô phục vụ sẽ giúp bạn vượt tường lửa để vào Yahoo hay Google. Các bạn phượt không nên bỏ qua nhà hàng này vì giá cả không đến nỗi nào (tất nhiên nếu so với các quán ven đường thì nó mắc gấp ba lần). Một lon bia Myanmar giá một đô rưỡi, cơm gà hay mì Ý giá từ hai đô đến ba đô. Đặc biệt cà phê thứ thiệt, uống rất đã. Đặc biệt hơn nữa họ có nước mắm ớt ăn với cơm nóng rất xịn. Sau khi ăn sẽ được tặng đồ tráng miệng là mấy chục viên kẹo me đựng trong một hộp gỗ nhỏ hình cái tháp. Ngồi dưới các tàn cây lớn trong vườn, ngắm những chiếc đèn lồng vàng nhạt, ngó nghiêng qua lá là trăng trắng soi trời xanh, lai rai với bia quốc doanh, hồi tưởng những tháp cổ, mở điện thoại cầm tay nghe Diễm Xưa “mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ” và đừng nhớ ai cả, chỉ nhìn có bóng mình trên nền đất, tôi thấy rằng quả cái tuổi trai già của mình vẫn không đến nỗi nào.



                                Nhà hàng “A Little Bit of Bagan


                                Sau khi về tới nhà khách đã gần nửa đêm. Có tiếng gõ cửa: anh bồi phòng trẻ khệ nệ bưng một mâm có đầy đủ bình thủy nước nóng, ấm trà và cái tách nhỏ. Tôi chưa kịp hỏi thì cậu ta mỉm cười: “Bà chủ dặn đem cho anh.” Từ ngày đem thân vào chốn giang hồ tôi ít khi gặp người tử tế cho nên rất cảm động, nhắn cậu ta cám ơn bà chủ. Không chừng bà ta phục kỹ năng “động khẩu” với ông Tây già của tôi chăng. Nếu quả vậy thì không uổng công phu tu luyện đấu võ mồm. Tôi cao hứng nói:

                                - Mầy uống vài lon với tao không?

                                Anh ta mỉm cười gật đầu. Tôi nói anh ta đem vài lon bia Mandalay ra ngồi ở bậc thềm, anh ta cẩn thận đốt thêm cái nhang muỗi. Tụi tôi vừa uống vừa tán phét. Anh bạn làm bồi phòng đã tốt nghiệp đại học Mandalay ngành nhân văn. Tôi không ngạc nhiên khi biết cậu cử nhân đi làm bồi phòng. Ngay trước nhà khách này, phía bên kia đường có một quán ăn bình dân. Trên vách quán có treo ba tấm ảnh chụp ba người con trai lãnh bằng tốt nghiệp, trong đó có tấm hình của anh bồi bàn ở trần, quấn xà rông. Anh này hãnh diện nói anh cũng tốt nghiệp đại học Mandalay, hai người kia là anh trai cũng đã xong đại học, một người làm gì đó cho nhà nước, còn một người chạy taxi.

                                Dù đã có nhang muỗi nhưng chúng tôi vừa uống vừa đập. Đêm yên tĩnh, lâu lâu nghe tiếng lóc cóc của xe ngựa ngoài đường vọng vào. Tôi hỏi anh ta một chi tiết về tên họ của người Miến Điện. Hôm ở Yangon, tôi hỏi tên một thanh niên làm việc trong nhà khách và nhờ anh ta viết ra giấy để khi sắp về lại thì gọi điện thoại để báo trước. Khi tôi hỏi chữ nào là tên gọi, chữ nào là họ thì anh ta cười nói: “Tụi tui đâu có họ”.

                                Nhờ cậu cử nhân bồi phòng giải thích tường tận, và đọc thêm một vài tài liệu, nhất là của tác giả Shway Yoe (đã nói ở chương trước), tôi mới biết rõ hơn người Miến Điện đặt tên họ rất tự do.

                                Thông thường sau khi ra đời khoảng hai tuần, đứa trẻ sẽ được đặt tên. Gia đình sẽ tìm một ông thầy bói, lựa ngày lành và giờ hoàng đạo, mời bà con và bạn bè đến dự lễ đặt tên. Hôm ấy đứa bé mới được gội đầu kể từ khi chào đời. Họ hàng quyến thuộc đem đồ ăn hay tiền bạc đến tặng. Người mẹ bồng con, xung quanh bà con hút thuốc lá vặt hay nhai trầu để suy nghĩ một cái tên cho đứa bé, ai nghĩ ra tên thì nói ra để người khác bình luận. Thường đó chỉ là hình thức vì cha mẹ đã chọn tên trước, bà con cũng chỉ nói vài cái tên do cha mẹ đã thông báo.

                                Tên của đứa bé tùy thuộc nó được sinh vào ngày nào trong tuần. Người Miến Điện rất coi trọng tám ngày trong tuần, thứ Tư được chia ra làm hai ngày. Họ vào chùa cũng tùy theo sinh vào ngày nào trong tuần để lựa hướng thích hợp mà cầu nguyện, vì mỗi ngày trong tuần tương ứng với một hướng. Khi đặt tên con, họ dựa vào ngày sinh trong tuần để chọn vì mỗi ngày tương ứng với một nhóm phụ âm đầu, chỉ có Chủ Nhật mới bắt đầu bằng nguyên âm. Thí dụ đứa con sinh nhằm thứ Hai, tên nó sẽ bắt đầu bằng một trong các mẫu tự đầu là K, Kh, G, Gh, Ng, như Ngwe Khaing, Gauk, Khin.



                                rẻ vào chùa, tùy theo sinh vào ngày nào trong tuần, sẽ được lựa hướng thích hợp để cầu nguyện


                                Sinh ngày thứ Ba thì sẽ có tên bắt đầu bằng các phụ âm S, H, Z, Zh, Nya, như San Nyun. Sinh nhằm thứ Bảy thì tên sẽ bắt đầu bằng các mẫu tự T, Ht, D, Dh, N, như Ne Htun, Du Wun.

                                Sinh ngày thứ Năm thì tên bắt đầu với P, Hp, B, Bh, M, như Po Mya, Bo Gale, Mi Meit.

                                Vào ngày thứ Tư thì tùy sinh giờ nào. Nếu sinh buổi sáng trước 12 giờ thì bắt đầu bằng mẫu tự L, W, như Waing Hla. Từ giữa trưa đến nửa đêm bé sẽ có tên bắt đầu bằng Y như Yôn, Yauk, Yo.

                                Sinh vào thứ Sáu thì tên bắt đầu bằng Th hay H: Than, Thet She, Thin. Theo cách đặt tên này thì Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1961 đến 1971, ông U Thant người Miến Điện, chắc sinh vào ngày thứ Sáu (“U” đặt trước tên dành cho đàn ông lớn tuổi hay có chức tước trong xã hội).



                                Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc (1961- 1971) ông U Thant người Miến Điện, có lẽ sinh vào ngày thứ Sáu


                                Trong thực tế, người Miến Điện ít khi kêu tên trống không mà kèm trước tên gọi một chữ chỉ tuổi tác hay giới tính. Thí dụ “Maung” để chỉ phái nam và “Ma” là nữ giới, như Maung Gauk là cậu Gauk (cậu sinh ngày thứ Hai), Ma Khin là cô hay bà Khin. Riêng “U” dành cho đàn ông lớn tuổi và được kính trọng (do người khác gọi hay do chính đương sự tự đặt trước tên gọi của mình), còn “Daw” để bày tỏ sự kính trọng với phụ nữ có tuổi, vì thế đôi khi đọc báo ta thấy tên của nữ lãnh tụ đối lập có thêm chữ “Daw” đằng trước: Daw Aung San Suu Kyi.


                                Bà Aung San Suu Kyi được mọi người kính trọng, thêm chữ “Daw” đằng trước, trở thành “Daw Aung San Suu Kyi”.


                                Do đặt tên theo thứ, và việc đổi tên tùy tiện nên người Miến Điện không có họ. Một người cha có năm đứa con trai thì cả năm người có thể có tên gọi khác hẳn người cha. Cậu con có thể thêm chữ Maung (ông), hay Shwe (vàng) trước tên mình, thí dụ cậu được đặt tên là Lugale Ngè, khi đến tuổi biết dê gái (thường rất sớm) cậu sẽ tự gọi mình là Maung Lugale thêm chữ “Maung”đằng trước cho bảnh. Khi qua tuổi ba mươi cậu sẽ tự tiện gọi mình là “U Ngè” hay “Lugale”. Trong trường hợp cậu ghét tên cha mẹ đặt, hoặc muốn chính thức hóa tên mới thì cậu sẽ gửi thư đến người quen và bạn bè, báo tin: “Tên tôi nguyên là Maung Shwe Pyin, từ nay tôi không dùng tên này nữa, hãy gọi tôi là Maung Hkyaw.” Thế là xong thủ tục.

                                Tôi có hỏi anh bạn đang lai rai bia bọt khi muốn đổi tên thì giấy tờ cá nhân làm sao. Anh ta nói thì chỉ cần báo chính quyền và có cách làm thủ tục hành chính đơn giản. Thật là lạ. Đặc biệt phụ nữ ít khi đổi tên. Nhưng nam nữ gì, do tính ngày sinh theo thứ, nên tuần nào cũng có sinh nhật. Các trưởng giả hay bợm nhậu Việt Nam nên bắt chước phong tục này để có chính nghĩa ăn nhậu.
                                Tập quán đổi tên của người Miến Điện có thể dùng giải thích hiện tượng chính quyền hiện tại đổi tên nhiều địa danh. Từ năm 1989, tên tiếng Anh “Burma” được đổi thành “Myanmar”. Trừ Mỹ và Anh, các nước khác công nhận tên mới. Các địa danh nổi tiếng khác cũng được đổi, như Pagan thành Bagan, Rangoon thành Yangon, sông Irrawaddy thành Ayeyarwaddy (sông Voi), cao nguyên May Myo thành Pin Oo Lwin (Phố Mây). Đài BBC hồi cuối tháng Chín năm 2007 từng có một bài viết bình luận về việc đổi tên nước “Burma” thành “Myanmar”, cả trích dẫn phát biểu của nhà ngữ học Richard Coates thuộc đại học Western English. Ông này cho rằng chính quyền đổi tên vì muốn cắt đứt với quá khứ bị thuộc địa. Có lẽ đúng nhưng chưa chắc người Miến Điện đã quan trọng hóa việc đổi tên nước hay địa danh. Có một số người vẫn dùng tên cũ vì lý do chính trị, chứ không phải họ quan trọng hóa quan niệm “người quân tử đi chẳng đổi tên ngồi không đổi họ”. Thích tên gì thì dùng tên ấy. Đó là tinh thần của ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là phương tiện qui ước miễn sao được số đông đồng ý, chứ không cần câu nệ “quân tử” hay “chính danh” gì đó.
                                Hehe ...Bổng nhiên ta thấy thèm tô phở ...
                                Xực tạm hủ tiếu..mì... cũng được mà
                                ............



                                Can't Live Without...hehe...


                                Đời tôi cô đơn nên hai tay ẵm hai Em......:gigg:....

                                Comment

                                Working...
                                X