Lăng Hoàng Gia tên gọi bao gồm mộ chí và nhà thờ dòng họ Phạm, là "Thích Lý" (họ ngoại của Tự Đức). Khu di tích này nằm tại Giồng Sơn Quy thuộc thị xã Gò Công. Nhân dân địa phương gọi di tích này là Lăng Hoàng Gia. Âấp có di tích này mang tên ấp Hoàng Gia, xã Sơn Quy, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Từ 1987, Lăng Hoàng Gia nằm trong ấp Hoàng Gia thuộc xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Nằm trọn trong xóm dân cư, Lăng Hoàng Gia ở địa thế thuận lợi cho đường ô tô đến di tích nên dễ quy hoạch thành nơi tham quan du lịch.
Dòng họ Phạm là dòng họ sống lâu đời ở Gò Công. Phạm Đăng Khoa là người khai cơ lập nghiệp của dòng họ ở đây. Mộ chí của ông còn tại Giồng Sơn Quy. Đến đời thứ tư của họ Phạm có Phạm Đăng Hưng, người làm quan dưới 2 triều Gia Long và Minh Mạng. Ông là người có lòng giúp đỡ dân nghèo trong lúc thất bát vì thiên tai địch họa. Nhân dân thường gọi ông là "Ba Bị" vì lúc làm "Điền tuấn quan", đi đâu ông cũng mang ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho dân nghèo.
Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại Giồng Sơn Quy, ông có tư chất thông minh, tướng mạo tuấn tú lớn lên ông cùng Ngô Tùng Châu theo học chữ Nho thầy Võ Trường Toản.
Năm 1784, Phạm Đăng Hưng đỗ Tam trường, đang chuẩn bị thi tứ trường thì bị bệnh nên ông về quê làm ruộng. Nhưng do văn tài lỗi lạc và nổi tiếng là người hiền đức nên được bổ làm quan "Lễ Sinh Nội Phủ" của triều Nguyễn.
Qua nhiều lần thăng giáng chức vì bị gièm pha ông suýt mang trọng tội. Nhờ tận tụy, nhã nhặn, Phạm Đăng Hưng đã được bổ vào các chức:
- Chưởng tưởng dã sự (trông coi đê điều)
- Quan thâm thiên giám (trông coi thiên văn)
- Quốc sử quán tổng tài (đứng đầu cơ quan viết lịch sử).
Năm 1824, Phạn Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm "Vinh lộc đại phu, trụ quốc hiệp biên, Đại học sỹ, Thụy Trung Nhã" và đưa về an táng tại Sơn Quy. Năm 1849, Tự Đức gia tặng "Đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu thái bảo Cần Chánh Điện, Đại học sỹ, tước Đức Quốc Công". Ông là cha của Hoàng thái Hậu Từ Dũ, ông ngoại vua Tự Đức, nên triều đình còn cấp cho dòng họ Phạm nhiều ruộng đất bổng lộc. Toàn bộ di tích lăng Hoàng Gia nằm trên đất Giồng Sơn Quy (là nơi có gò đất cao như mu rùa nên dân gọi là gò Rùa). Tự Đức là Sơn Quy, lấy ý nghĩa trong khoa địa lý "cao nhất xích vi sơn", mang kỳ vọng cho họ ngoại của vua được lâu bền.
Khu di tích bao gồm nhà thờ họ Phạm với diện tích 199m2, ngoài mộ Phạm Đăng Hưng và 6 ngôi mộ tổ họ Phạm còn có 8 ngôi mộ quan trọng khác chôn tại Sơn quy.
Mộ dòng họ Phạm và Phạm Đăng Hưng chôn theo một trục dài đối xứng nhau, toàn bộ đều làm bằng hồ ô đước không chạm khắc. được bao bọc xung quanh lớp tường dày 80cm, cao 90cm. Nhìn tổng thể khu mộ ta thấy mộ Phạm Đăng Hưng đứng đầu, trên một gò cao có dáng mu rùa, mộ xây theo tam cấp, tứ trụ, gồm 2 vòng biểu hiện cho tam tài, diện tích hơn 800m2. Mộ không xây theo kiểu "Ngưu phanh, mã phục" (trâu nằm, ngựa qùy) như mộ dành cho quan võ. Mộ xây theo dáng "Đỉnh trụ" (chóp đỉnh) như chiếc nón lá buông lỏng nhờ tám cánh tượng trưng như búp sen. Nhìn chung như cái đỉnh, dạng này ít thấy ở mộ cổ. Tương truyền thi thể Phạm Đăng Hưng được chôn ngồi. Mộ chôn theo nội quan ngoại quách bao bọc. Trước mộ có tấm bia đá CƯm Thạch hai bên có gắn các mảnh sứ cổ Trung Quốc (nay đã vỡ nát). Nội dung khắc trong bia nói về chức tước được phong của Phạm Đăng Hưng, (ghi bằng chữ hán đọc được nhưng chưa dịch).
Nhà thờ Phạm Đăng Hưng được xây năm 1826, trên khu vườn đất rộng 2987m2, bao gồm nhà thờ chính, nhà khách, nhà kho, cổng tam quan và các công trình phụ tự khác bao bọc chung quanh.
Năm 1849 Tự Đức gia phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc, đồng thời truy tặng ngữ đại họ mẹ Tự Đức. Do đó, nhà thờ được sửa sang theo quy mô nghi thức cung đình, được đặt nhiều biển đại tự để thờ:
- Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả thờ Phước An Hầu Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả ngoài cùng thờ MƯ Khả Tự Phạm Đăng Tiên.
- Gian hữu thờ Bình thạnh Bà Phạm Đăng Danh
- Gian cuối bên hữu thờ Thiền sư Phạm Đăng Khoa.
Nhờ tiền của bà từ Dũ Thái Hậu trợ cấp để xây thêm nhà khách, nhà trà, tàu ngựa để tổ chức đại lễ đón sắc phong của vua từ Huế vào.
Năm 1889, sau khi Thành Thái lên ngôi, đang chuƯn bị vào thăm nên có tu sửa thêm nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng, làm 5 tấm biển của Ngũ Tước, tường hồ và cổng bằng gạch theo phong cách phương Tây.
Nhìn chung nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, có lẫn lộn kiến trúc Pháp, nhưng vẫn mang đậm nét kiến trúc truyền thống dân tộc qua các mảng trạm khắc trên Mộ và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ "tứ linh, tứ quý" trong bát bửu cổ đồ mà chỉ có người Aá Đông chúng ta quan niệm. Toàn bộ nhà thờ nằm trọn trong khuôn viên cây trái, hoa lá cảnh bao bọc theo kiểu kiến trúc cổ ở Huế, rõ nét Huế mà ta đang thấy ở nội thành Huế.
Hiện vật di tích Lăng Hoàng gia ngày nay không còn nhiều, đa phần là mất hết các di vật cổ có giá trị về mặt cổ vật và nghệ thuật. Chỉ còn lại những hiện vật mà kẻ gian không thể lấy được:
- Bia đá trong phần mộ Phạm Đăng Hưng có kích thước 160 x 120 x 15cm bằng đá hoa cương.
- 7 biển đại tự sơn son thiếp vàng, trên khung có chạm tứ quý được làm vào thời Thành Thái.
- Một khám thờ Phạm Đăng Hưng sơn son thiếp vàng chung quanh chạm tứ linh, tứ quý.
- Một long án chạm tứ linh trước bàn thờ Phạm Đăng Hưng, dài 1,2m rộng 1,2m chạm khắc rất tinh xảo nhưng đã bị dột nát hư hỏng phần dưới, còn lại 4 bàn thờ bằng cây mới được tạo lập sau này rất đơn giản.
Lăng Hoàng Gia là một di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của Nam Bộ nói chung và Gò Công nói riêng. Vì Phạm Đăng Hưng và dòng họ của ông là những người vào đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ XVII, nên hiện nay còn một trong 4 đời của ông tại Sơn Quy.
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là công trình kiến trúc nghệ thuật hài hòa giữa Aá và Âu, nhưng mang đậm nét truyền thống dân tộc, được thể hiện qua các mảng chạm khắc trong nhà thờ và trên mộ.
Khu Lăng Hoàng Gia đã được tô màu đỏ trên bản đồ địa chính, được ghi là "toàn bộ khu di tích nằm trên thửa đất số 822 và 821" (trích theo biên bản quy định khu vực bảo vệ di tích ngày 18/9/1992 tại Văn phòng UBND thị xã Gò Công)
(Sưu tầm)
Nằm trọn trong xóm dân cư, Lăng Hoàng Gia ở địa thế thuận lợi cho đường ô tô đến di tích nên dễ quy hoạch thành nơi tham quan du lịch.
Dòng họ Phạm là dòng họ sống lâu đời ở Gò Công. Phạm Đăng Khoa là người khai cơ lập nghiệp của dòng họ ở đây. Mộ chí của ông còn tại Giồng Sơn Quy. Đến đời thứ tư của họ Phạm có Phạm Đăng Hưng, người làm quan dưới 2 triều Gia Long và Minh Mạng. Ông là người có lòng giúp đỡ dân nghèo trong lúc thất bát vì thiên tai địch họa. Nhân dân thường gọi ông là "Ba Bị" vì lúc làm "Điền tuấn quan", đi đâu ông cũng mang ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho dân nghèo.
Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại Giồng Sơn Quy, ông có tư chất thông minh, tướng mạo tuấn tú lớn lên ông cùng Ngô Tùng Châu theo học chữ Nho thầy Võ Trường Toản.
Năm 1784, Phạm Đăng Hưng đỗ Tam trường, đang chuẩn bị thi tứ trường thì bị bệnh nên ông về quê làm ruộng. Nhưng do văn tài lỗi lạc và nổi tiếng là người hiền đức nên được bổ làm quan "Lễ Sinh Nội Phủ" của triều Nguyễn.
Qua nhiều lần thăng giáng chức vì bị gièm pha ông suýt mang trọng tội. Nhờ tận tụy, nhã nhặn, Phạm Đăng Hưng đã được bổ vào các chức:
- Chưởng tưởng dã sự (trông coi đê điều)
- Quan thâm thiên giám (trông coi thiên văn)
- Quốc sử quán tổng tài (đứng đầu cơ quan viết lịch sử).
Năm 1824, Phạn Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm "Vinh lộc đại phu, trụ quốc hiệp biên, Đại học sỹ, Thụy Trung Nhã" và đưa về an táng tại Sơn Quy. Năm 1849, Tự Đức gia tặng "Đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu thái bảo Cần Chánh Điện, Đại học sỹ, tước Đức Quốc Công". Ông là cha của Hoàng thái Hậu Từ Dũ, ông ngoại vua Tự Đức, nên triều đình còn cấp cho dòng họ Phạm nhiều ruộng đất bổng lộc. Toàn bộ di tích lăng Hoàng Gia nằm trên đất Giồng Sơn Quy (là nơi có gò đất cao như mu rùa nên dân gọi là gò Rùa). Tự Đức là Sơn Quy, lấy ý nghĩa trong khoa địa lý "cao nhất xích vi sơn", mang kỳ vọng cho họ ngoại của vua được lâu bền.
Khu di tích bao gồm nhà thờ họ Phạm với diện tích 199m2, ngoài mộ Phạm Đăng Hưng và 6 ngôi mộ tổ họ Phạm còn có 8 ngôi mộ quan trọng khác chôn tại Sơn quy.
Mộ dòng họ Phạm và Phạm Đăng Hưng chôn theo một trục dài đối xứng nhau, toàn bộ đều làm bằng hồ ô đước không chạm khắc. được bao bọc xung quanh lớp tường dày 80cm, cao 90cm. Nhìn tổng thể khu mộ ta thấy mộ Phạm Đăng Hưng đứng đầu, trên một gò cao có dáng mu rùa, mộ xây theo tam cấp, tứ trụ, gồm 2 vòng biểu hiện cho tam tài, diện tích hơn 800m2. Mộ không xây theo kiểu "Ngưu phanh, mã phục" (trâu nằm, ngựa qùy) như mộ dành cho quan võ. Mộ xây theo dáng "Đỉnh trụ" (chóp đỉnh) như chiếc nón lá buông lỏng nhờ tám cánh tượng trưng như búp sen. Nhìn chung như cái đỉnh, dạng này ít thấy ở mộ cổ. Tương truyền thi thể Phạm Đăng Hưng được chôn ngồi. Mộ chôn theo nội quan ngoại quách bao bọc. Trước mộ có tấm bia đá CƯm Thạch hai bên có gắn các mảnh sứ cổ Trung Quốc (nay đã vỡ nát). Nội dung khắc trong bia nói về chức tước được phong của Phạm Đăng Hưng, (ghi bằng chữ hán đọc được nhưng chưa dịch).
Nhà thờ Phạm Đăng Hưng được xây năm 1826, trên khu vườn đất rộng 2987m2, bao gồm nhà thờ chính, nhà khách, nhà kho, cổng tam quan và các công trình phụ tự khác bao bọc chung quanh.
Năm 1849 Tự Đức gia phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc, đồng thời truy tặng ngữ đại họ mẹ Tự Đức. Do đó, nhà thờ được sửa sang theo quy mô nghi thức cung đình, được đặt nhiều biển đại tự để thờ:
- Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả thờ Phước An Hầu Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng.
- Gian tả ngoài cùng thờ MƯ Khả Tự Phạm Đăng Tiên.
- Gian hữu thờ Bình thạnh Bà Phạm Đăng Danh
- Gian cuối bên hữu thờ Thiền sư Phạm Đăng Khoa.
Nhờ tiền của bà từ Dũ Thái Hậu trợ cấp để xây thêm nhà khách, nhà trà, tàu ngựa để tổ chức đại lễ đón sắc phong của vua từ Huế vào.
Năm 1889, sau khi Thành Thái lên ngôi, đang chuƯn bị vào thăm nên có tu sửa thêm nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng, làm 5 tấm biển của Ngũ Tước, tường hồ và cổng bằng gạch theo phong cách phương Tây.
Nhìn chung nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, có lẫn lộn kiến trúc Pháp, nhưng vẫn mang đậm nét kiến trúc truyền thống dân tộc qua các mảng trạm khắc trên Mộ và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ "tứ linh, tứ quý" trong bát bửu cổ đồ mà chỉ có người Aá Đông chúng ta quan niệm. Toàn bộ nhà thờ nằm trọn trong khuôn viên cây trái, hoa lá cảnh bao bọc theo kiểu kiến trúc cổ ở Huế, rõ nét Huế mà ta đang thấy ở nội thành Huế.
Hiện vật di tích Lăng Hoàng gia ngày nay không còn nhiều, đa phần là mất hết các di vật cổ có giá trị về mặt cổ vật và nghệ thuật. Chỉ còn lại những hiện vật mà kẻ gian không thể lấy được:
- Bia đá trong phần mộ Phạm Đăng Hưng có kích thước 160 x 120 x 15cm bằng đá hoa cương.
- 7 biển đại tự sơn son thiếp vàng, trên khung có chạm tứ quý được làm vào thời Thành Thái.
- Một khám thờ Phạm Đăng Hưng sơn son thiếp vàng chung quanh chạm tứ linh, tứ quý.
- Một long án chạm tứ linh trước bàn thờ Phạm Đăng Hưng, dài 1,2m rộng 1,2m chạm khắc rất tinh xảo nhưng đã bị dột nát hư hỏng phần dưới, còn lại 4 bàn thờ bằng cây mới được tạo lập sau này rất đơn giản.
Lăng Hoàng Gia là một di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của Nam Bộ nói chung và Gò Công nói riêng. Vì Phạm Đăng Hưng và dòng họ của ông là những người vào đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ XVII, nên hiện nay còn một trong 4 đời của ông tại Sơn Quy.
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là công trình kiến trúc nghệ thuật hài hòa giữa Aá và Âu, nhưng mang đậm nét truyền thống dân tộc, được thể hiện qua các mảng chạm khắc trong nhà thờ và trên mộ.
Khu Lăng Hoàng Gia đã được tô màu đỏ trên bản đồ địa chính, được ghi là "toàn bộ khu di tích nằm trên thửa đất số 822 và 821" (trích theo biên bản quy định khu vực bảo vệ di tích ngày 18/9/1992 tại Văn phòng UBND thị xã Gò Công)
(Sưu tầm)