Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu (崔顥), một nhà thơ thời nhà Đường. Tương truyền rằng, Lý Bạch khi đến Hoàng Hạc Lâu định làm thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu..
Dịch nghĩa:
Trước mắt thấy cảnh không tả được
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu
Chữ Hán
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân[1] dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ[2] châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
Chữ "khứ" (去)
Bấy lâu nay, chữ 去, ta vẫn hay đọc với thanh Trắc (dấu sắc). Có nhiều người đã cho là một bài thơ luật Đường 'phá thể', hoặc 'lạc vận'...Lại có nhiều người cố dịch ra quốc ngữ (abc) bằng cách dùng thinh trắc ở câu Phá (câu thứ nhất).
Chữ 去, thời của Thôi Hiệu, hay vùng miền của ông có khi đọc ra la "Khư", hoặc "Khu". Trong Hán Việt Từ Điển - Thiều Chửu, cũng cho biết như thế:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu/khâu
Thử địa không dư hoàng hạc lâu.
Tiếng Việt
Cho đến nay tại Việt Nam đã có nhiều người dịch Hoàng Hạc lâu ra tiếng Việt. Tản Đà là một trong những người dịch đầu tiên và tài năng của ông đã giúp cho bài thơ trở nên quen thuộc với người Việt Nam. Ngoài ra, có thể kể đến những bản dịch của Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương...
Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông nảo dạ người.
Bản dịch của Vũ Hoàng Chương
Xưa cánh hạc bay vút bóng người
Nay Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một mầu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Người đi cưỡi hạc từ xưa
Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông
Hán Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng
Ai cưỡi hạc vàng đi mất hút,
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi!
Hạc vàng một đã đi, đi biệt,
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.
Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời.
Hoàng hôn về đó, quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.[3]
Bản dịch của Nguyễn Khuê
Cưỡi hạc người xưa đi đã lâu
Còn đây Hoàng Hạc chỉ trơ lầu
Hạc vàng biền biệt từ xưa ấy
Mây trắng lững lờ đứng mãi sau
Sông tạnh Hán Dương cây lắng bóng
Bãi thơm Anh Vũ cỏ tươi màu
Chiều buồn quê cũ nơi nào nhỉ
Khói sóng trên sông giục khách sầu.
Bản dịch của Nhật Chiêu
Chở tiên đi, cánh hạc vàng
Bỏ hư không lại còn Hoàng Hạc Lâu
Hạc vàng mất hút thiên thu
Để ngàn năm trắng mây từ từ trôi
Sông tình, cây Hán Dương tươi
Bờ Anh Vũ cỏ xanh ngời ngời xa
Quê hương đâu, bóng dương tà?
Trên sông khói sóng còn ta với sầu.
Bản dịch của Thích Quảng Sự
Người xưa đã cỡi hạc đi xa
Nay chỉ lầu trơ xơ xác hoa.
Muôn thuở hạc vàng không trở lại
Nghìn năm mây trắng vẫn hằng qua.
Hán Dương sông tạnh cây rờ rỡ
Anh Vũ bãi thơm cỏ mượt mà.
Chiều xuống quê nhà đâu chẳng thấy!?
Sông tràn khói sóng chạnh lòng ta.
Bản dịch của Trần Dương Hân
Hạc vàng nay đã xa vời
Lầu cao Hoàng Hạc bên trời chơ vơ
Hạc bay bay mãi chẳng chờ
Theo vầng mây trắng muôn đời còn bay
Cỏ xanh Anh Vũ mướt dày
Hàng cây soi bóng bên này Hán Dương
Chiều về chạnh nhớ cố hương
Sông vương khói sóng người vương nỗi lòng
Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Mái lầu Hoàng Hạc còn trơ đó
Đã khuất người xưa cưỡi hạc vàng
Một thủa hạc vàng đi, đi mãi
Muôn đời mây trắng nổi mang mang...
Hán Dương sông tạnh cây san sát
Anh Vũ cồn thơm cỏ mỡ màng
Quê cũ chiều nay đâu đó nhỉ
Trên sông sóng khói gợi sầu thương
Bản dịch của Nguyễn Thủy Nam
Người xưa cỡi Hạc đi rồi,
Trống trơ lầu Hạc chơi vơi chốn nầy.
Hạc vàng biền biệt xa bay
Bâng khuâng mây trắng chở đầy thiên thu.
Cỏ thơm Anh Vũ xanh màu,
Tạnh mưa cây rủ bóng sầu Hán Dương.
Chiều tà mờ mịt quê hương,
Sóng xao, khói tỏa gợi buồn lòng ta
Bản dịch của Anh Nguyên
Hạc vàng người cỡi đi rồi,
Nơi đây, lầu Hạc bên trời bơ vơ.
Hạc đi, trở lại bao giờ,
Nghìn năm mây trắng hững hờ còn bay.
Hán-Dương sông bóng hàng cây,
Bãi Anh-Vũ vẫn xanh đầy cỏ thơm.
Quê hương đâu lúc hoàng hôn,
Trên sông khói sóng khiến buồn lòng ta!...
Bản dịch của Đông Hoài
Người xưa cưỡi hạc vàng bay đi
Hạc đã một đi không trở về
Chốn ấy còn trơ lầu hạc vắng
Nghìn năm mây bạc vờn lê thê
Hán Dương sông tạnh cây in bóng
Anh Vũ cỏ thơm bờ xanh rì
Ngày đã hoàng hôn đâu cố quận
Trên sông khói sóng lòng sầu bi
Tiếng Anh
"Home Longings" của H.A. Giles
Here a mortal once sailed up to Heaven on a crane,
And the Yellow-Crane Kiosque will for ever remain;
But the bird flew away and will come back no more.
Though the white clouds are there as the white clouds of yore.
Away to the east lie fair forests of trees,
From the flowers on the west comes a scent-laden breeze,
Yet my eyes daily turn to their far-away home,
Beyond the broad River, its waves, and its foam.[4]
bài ni của tui sưu tầm đó hè
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu..
Dịch nghĩa:
Trước mắt thấy cảnh không tả được
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu
Chữ Hán
黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân[1] dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ[2] châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
Chữ "khứ" (去)
Bấy lâu nay, chữ 去, ta vẫn hay đọc với thanh Trắc (dấu sắc). Có nhiều người đã cho là một bài thơ luật Đường 'phá thể', hoặc 'lạc vận'...Lại có nhiều người cố dịch ra quốc ngữ (abc) bằng cách dùng thinh trắc ở câu Phá (câu thứ nhất).
Chữ 去, thời của Thôi Hiệu, hay vùng miền của ông có khi đọc ra la "Khư", hoặc "Khu". Trong Hán Việt Từ Điển - Thiều Chửu, cũng cho biết như thế:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu/khâu
Thử địa không dư hoàng hạc lâu.
Tiếng Việt
Cho đến nay tại Việt Nam đã có nhiều người dịch Hoàng Hạc lâu ra tiếng Việt. Tản Đà là một trong những người dịch đầu tiên và tài năng của ông đã giúp cho bài thơ trở nên quen thuộc với người Việt Nam. Ngoài ra, có thể kể đến những bản dịch của Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương...
Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông nảo dạ người.
Bản dịch của Vũ Hoàng Chương
Xưa cánh hạc bay vút bóng người
Nay Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một mầu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Người đi cưỡi hạc từ xưa
Đất này Hoàng Hạc còn lưu một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông
Hán Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng
Ai cưỡi hạc vàng đi mất hút,
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi!
Hạc vàng một đã đi, đi biệt,
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.
Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,
Cỏ thơm Anh Vũ bãi xanh ngời.
Hoàng hôn về đó, quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.[3]
Bản dịch của Nguyễn Khuê
Cưỡi hạc người xưa đi đã lâu
Còn đây Hoàng Hạc chỉ trơ lầu
Hạc vàng biền biệt từ xưa ấy
Mây trắng lững lờ đứng mãi sau
Sông tạnh Hán Dương cây lắng bóng
Bãi thơm Anh Vũ cỏ tươi màu
Chiều buồn quê cũ nơi nào nhỉ
Khói sóng trên sông giục khách sầu.
Bản dịch của Nhật Chiêu
Chở tiên đi, cánh hạc vàng
Bỏ hư không lại còn Hoàng Hạc Lâu
Hạc vàng mất hút thiên thu
Để ngàn năm trắng mây từ từ trôi
Sông tình, cây Hán Dương tươi
Bờ Anh Vũ cỏ xanh ngời ngời xa
Quê hương đâu, bóng dương tà?
Trên sông khói sóng còn ta với sầu.
Bản dịch của Thích Quảng Sự
Người xưa đã cỡi hạc đi xa
Nay chỉ lầu trơ xơ xác hoa.
Muôn thuở hạc vàng không trở lại
Nghìn năm mây trắng vẫn hằng qua.
Hán Dương sông tạnh cây rờ rỡ
Anh Vũ bãi thơm cỏ mượt mà.
Chiều xuống quê nhà đâu chẳng thấy!?
Sông tràn khói sóng chạnh lòng ta.
Bản dịch của Trần Dương Hân
Hạc vàng nay đã xa vời
Lầu cao Hoàng Hạc bên trời chơ vơ
Hạc bay bay mãi chẳng chờ
Theo vầng mây trắng muôn đời còn bay
Cỏ xanh Anh Vũ mướt dày
Hàng cây soi bóng bên này Hán Dương
Chiều về chạnh nhớ cố hương
Sông vương khói sóng người vương nỗi lòng
Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Mái lầu Hoàng Hạc còn trơ đó
Đã khuất người xưa cưỡi hạc vàng
Một thủa hạc vàng đi, đi mãi
Muôn đời mây trắng nổi mang mang...
Hán Dương sông tạnh cây san sát
Anh Vũ cồn thơm cỏ mỡ màng
Quê cũ chiều nay đâu đó nhỉ
Trên sông sóng khói gợi sầu thương
Bản dịch của Nguyễn Thủy Nam
Người xưa cỡi Hạc đi rồi,
Trống trơ lầu Hạc chơi vơi chốn nầy.
Hạc vàng biền biệt xa bay
Bâng khuâng mây trắng chở đầy thiên thu.
Cỏ thơm Anh Vũ xanh màu,
Tạnh mưa cây rủ bóng sầu Hán Dương.
Chiều tà mờ mịt quê hương,
Sóng xao, khói tỏa gợi buồn lòng ta
Bản dịch của Anh Nguyên
Hạc vàng người cỡi đi rồi,
Nơi đây, lầu Hạc bên trời bơ vơ.
Hạc đi, trở lại bao giờ,
Nghìn năm mây trắng hững hờ còn bay.
Hán-Dương sông bóng hàng cây,
Bãi Anh-Vũ vẫn xanh đầy cỏ thơm.
Quê hương đâu lúc hoàng hôn,
Trên sông khói sóng khiến buồn lòng ta!...
Bản dịch của Đông Hoài
Người xưa cưỡi hạc vàng bay đi
Hạc đã một đi không trở về
Chốn ấy còn trơ lầu hạc vắng
Nghìn năm mây bạc vờn lê thê
Hán Dương sông tạnh cây in bóng
Anh Vũ cỏ thơm bờ xanh rì
Ngày đã hoàng hôn đâu cố quận
Trên sông khói sóng lòng sầu bi
Tiếng Anh
"Home Longings" của H.A. Giles
Here a mortal once sailed up to Heaven on a crane,
And the Yellow-Crane Kiosque will for ever remain;
But the bird flew away and will come back no more.
Though the white clouds are there as the white clouds of yore.
Away to the east lie fair forests of trees,
From the flowers on the west comes a scent-laden breeze,
Yet my eyes daily turn to their far-away home,
Beyond the broad River, its waves, and its foam.[4]
bài ni của tui sưu tầm đó hè