Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Đường Thi.

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #76
    75. Thiên mạt hoài Lí Bạch - Đỗ Phủ

    Thiên mạt hoài Lí Bạch

    Lương phong khởi thiên mạt,
    Quân tử ý như hà ?
    Hồng nhạn kỷ thời đáo,
    Giang hồ thu thuỷ đa.
    Văn chương tăng mệnh đạt,
    Si mị hỉ nhân qua.
    Ứng cộng oan hồn ngữ,
    Đầu thi tặng Mịch La.


    Cuối trời nhớ Lí Bạch

    Cuối trời gió lạnh bốc lên rồi,
    Ý người quân tử lúc này ra sao ?
    Chim hồng, chim nhạn bao giờ đến ?
    Sông hồ nước thu tràn đầy.
    Văn chương ghét người gặp vận,
    Ma quỷ thích (trêu) người đi qua .
    Để nói chuyện với hồn người thác oan,
    (LBạch) đã ném thơ tặng sông Mịch La !


    Dịch thơ :
    Bên trời nổi gió lạnh,
    Quân tử nghĩ sao đây ?
    Hồng nhạn bao giờ đến ?
    Sông biển nước thu đầy.
    Văn chương ghen gặp vận,
    Ma quỷ thích trêu người.
    Cùng oan hồn nói chuyện,
    Sông Mịch chuyển thơ này.
    (Hoàng Tạo dich)
    Chú thích : Để hiểu ba câu thơ cuối bài, cần nghĩ đến phong tục lễ hội đua thuyền vùng sông Mịch La ngày 5.5 âm lịch . Ngày đó vừa là Tết Đoan ngọ vừa tưởng niệm nhà thơ Khuất Nguyên trầm mình trên sông này thời Chiến quốc khi ông nghe tin kinh đô nước Sở rơi vào ta quân Tần. Người đua thuyền vừa chèo vừa ném cơm xuống sông cho cá ăn, mong chúng khỏi rỉa xác nhà thơ. Trong bài thơ, Đỗ Phủ nghĩ có lẽ Lí Bạch cũng ném thơ xuống sông Mịch La bởi Lý Bạch từng làm thơ ca ngợi thương tiếc Khuất Nguyên .
    Bản Thơ Đường 2 tập ( Nxb Văn học 1987- nhóm soạn giả) in sai như sau : “si mị “( ma quỉ núi rừng) in sai thành “ ly vị”,” đầu thi” in sai thành “ đầu thư”, “ứng cộng” thành “ưng cộng” (P.H.N)



    ST
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #77
      76 . Thu hứng - Đỗ Phủ

      Thu hứng

      Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
      Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm
      Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
      Tái thượng phong vân tiếp địa âm
      Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
      Cô chu nhất hệ cố viên tâm
      Hàn y xứ xứ thôi đao xích
      Bạch đế thành cao cấp mộ châm


      Cảm hứng mùa thu

      Sương như ngọc làm tàn cây lá rừng phong
      Núi Vu sơn, kẽm Vu giáp khí trời âm u lạnh ngắt
      Sóng trên sông mạnh trùm cả trời
      Trên cửa ải, gió mây tiếp liền với mặt đất âm u
      Hai lần đám cúc nở làm rơi nước mắt khác nữa
      Con thuyền lẻ loi buộc mãi với trái tim vườn cũ
      Áo lạnh giục giã dao thước (thợ may) nơi nơi
      Thành Bạch đế trên cao về chiều (nghe) gấp gáp tiếng chày giặt vải .


      Lác đác rừng phong hạt móc sa
      Ngàn non hiu hắt khí thu hoà.
      Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm
      Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
      Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ
      Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
      Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
      Thành Bạch chày vang bóng ác tà
      ( Nguyễn Công Trứ dịch)
      Chú thích : Trong Đường Thi tam bách thủ, ông Ngô văn Phú chép câu 3 là “ kiêm thiên địa” có lẽ không chính xác. Nếu câu 3 là “ thiên địa” thì trùng lặp “địa” câu 4, mặt khác danh từ “địa” không thể đối với tính từ “âm”. Phải là “kiêm thiên dũng” ( bản của Trần Trọng Kim) mới tả được cái chất hung hăng của sóng . Câu 3 đối với câu 4, tức là “ kiêm thiên dũng” đối lập với “tiếp địa âm” – đó mới thực là Đỗ Phủ vậy ! Soạn giả Ngô Văn Phú dịch câu 5 là : Hai lần tùng cúc nở từng rơi nước mắt. Người đọc dễ hiểu lầm là hoa tùng và hoa cúc. Thực ra “tùng” là “ đám, bụi” chứ không phải cây tùng .
      Ông Phú còn dịch “phong thụ lâm” là “rừng bàng” . Không thể ép cây phong TQ thành cây bàng Việt Nam được vì hai cây rất khác nhau, chỉ giống màu lá đỏ lúc mùa thu .


      ST
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #78
        77. Thu phố ca - Lí Bạch

        Thu phố ca

        Lô hoả chiếu thiên địa
        Hồng tinh loạn tử yên
        Noãn lang minh nguyệt dạ
        Ca khúc động hàn xuyên


        Bài ca Thu phố

        Lửa lò chiếu sáng cả trời đất
        những đốm lửa hồng nhảy lung tung
        trong làn khói tím
        Má anh ửng đỏ sáng lên dưới trăng
        Bài hát khua động cả dòng sông lạnh lẽo


        Lửa lò chiếu sáng cả đất trời,
        Khói tím rộn tia hồng lấp lánh.
        Má chàng rực đỏ loá đêm trăng
        Khúc ca khua động dòng sông lạnh.
        Lí Bạch có hai bài cùng tên “Thu phố ca”
        Nhà thơ say sưa ngắm nhìn người thợ rèn, yêu mến và nhận thấy những vẻ đẹp của người thợ rèn vất vả.



        ST
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #79
          78. Thu tứ - Lí Bạch

          Thu phong thanh
          Thu nguyệt minh
          Lạc diệp tụ hoàn tán
          Hàn nha thê phục kinh
          Tương tư tương kiến tri hà nhật
          Thử thời thử dạ nan vi tình


          Gió thu trong mát
          Trăng thu sáng tươi
          Lá rụng tụ rồi tán
          Quạ thấy lạnh kinh sợ đậu lại
          Nhớ nhau, biết ngày nào gặp lại
          (Như) lúc này đêm nay biêt bao là tình


          Tứ thơ mùa thu

          Gió thu thanh
          Trăng thu minh
          Lá rụng tụ lại tán
          Quạ đậu lạnh giật mình
          Nhớ nhau biết đến ngày nào gặp
          Giờ này đêm ấy xiết bao tình
          (Trần Trọng Kim dịch thơ)
          Lời bàn : Bài thơ theo lối cổ phong, gọi là “ tam ngũ thất ngôn ” . Lí Bạch viết ra tự nhiên như lời nói . Đó là một nét phóng khoáng của “ thi tiên ” . Câu 3 viết giản đơn, cô đúc nên khó hiểu : con quạ định bay nhưng lạnh quá khiến nó sợ mà đậu lại cành cây, không dám bay nữa . Cảm giác về cái lạnh giá phương Bắc như Lí Bạch thật tinh tường đến vậy .



          ST
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #80
            79. Tì bà hành - Bạch Cư Dị

            - Gian quan : tiếng chim kêu ríu rít
            - Thiện tài : thầy dạy âm nhạc
            - Thu Nương : người đàn bà đẹp luống tuổi .
            - Ngũ Lăng ở gần kinh thành
            - Triền đầu : khăn đỏ , ban thưởng cho ca công ca vũ
            - Điền đầu ngân tì : đồ trang sức cài tóc đàn bà , điền là thứ hoa làm bằng ngọc châu và lông chim
            thuý , tì ( bề) là cái lược để gỡ tóc. Khi say chơi đàn, đầu lắc quá mạnh khiến cho những hoa và lược
            ấy rơi vỡ
            - Phù Lương là một huyện có trà ngon, thuộc tỉnh Chiết Giang
            - Lan can : bao lơn / vành mắt
            Bài Tựa của tác giả ghi rõ làm năm Nguyên Hoà thứ 11 (816) triều vua Đường Hiến Tôn
            * Dịch thơ : Phan Huy Thực ( trước ghi lầm là Phan Huy Ích con trai ông ) họ Phan xứ Sài Sơn , Quốc Oai , Hà Tây, thời nhà Nguyễn
            * Hiệu đính bản Hán Việt, phiên âm Bắc Kinh : Phùng Hoài Ngọc


            Phiên âm Hán Việt
            Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
            Phong diệp dịch hoa thu sắt sắt.
            Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
            Cử tửu dục ẩm vô quản hưyền.
            Tuý bất thành hoan, thảm tương biệt
            Biệt thời mang mang giang tầm nguyệt,
            Hốt văn thuỷ thượng tì bà thanh,
            Chủ nhân vong quy, khách bất phát.
            Tầm thanh ám vấn đàn giả thuỳ ?
            Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.
            Di thuyền tương cận yêu tương kiến,
            Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.
            Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,
            Do bão tỳ bà bán già diện.
            Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,
            Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.
            Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,
            Tự tố bình sinh bất đắc chí.
            Đê mi tín thủ tục tục đàn,
            Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.
            Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,
            Sơ vi “ Nghê thường”, hậu “ Lục yêu”.
            Đại huyền tao tao như cấp vũ,
            Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
            Tao tao thiết thiết thác tạp đàn,
            Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.
            Gian hoan oanh ngữ hoa để hoạt,
            U yết truyền lưu thuỷ há than.
            Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
            Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết.
            Biệt hữu u tình ám hận sinh.
            Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
            Ngân bình sạ phá thuỷ tương binh,
            Thiết kị đột xuất đao thương minh.
            Khúc cung thu bát đương tâm hoạch,
            Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
            Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
            Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
            Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,
            Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
            Tự ngôn : “ Bản thị kinh thành nữ,
            Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.
            Thập tam học đắc tỳ bà thành,
            Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
            Khúc bãi tằng giao Thiện Tài phục,
            Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
            Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
            Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.
            Điền đầu ngân tì kích tiết toái,
            Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
            Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
            Thu nguyệt xuân phong đặng nhàn độ.
            Đệ tẩu tòng quân, a di tử,
            Mộ khứ, triêu lai nhan sắc cố,
            Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,
            Lão đại giá tác thương nhân phụ,
            Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
            Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ?
            Khứ kại giang khẩu thủ không thuyền,
            Nhiễu thuyền nguyệt minh, giang thuỷ hàn,
            Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
            Mộng đề trang lệ hồng lan can”.
            Ngã văn tì bà dĩ thán tức,
            Hựu văn thử ngữ trụng tức tức,
            Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
            Tương phùng hà tất tằng tương thức.
            Nã tòng khứ niên từ Đế kinh,
            Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.
            Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc,
            Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
            Trú cận Bồn Giang địa đê thấp,
            Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
            Kỳ gian đán mộ văn hà vật,
            Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.
            Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
            Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
            Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
            Âủ á trào triết nan vi thinh.
            Kim dạ văn quân tì bà ngữ,
            Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.
            Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
            Vị quân thiên tác tì bà hành”.
            Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,
            Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
            Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
            Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.
            Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa ?
            Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp !


            Dịch thơ:
            Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
            Quạng hơi thu, lau lách đìu hiu.
            Người xuống ngựa khách dừng chèo
            Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti.
            Say những luống ngại khi chia rẽ,
            Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
            Đàn ai nghe vẳng bên sông,
            Chủ khuây khỏa lại khách dùng dằng xuôi.
            Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
            Dừng dây tơ nấn ná làm thinh.
            Dời thuyền ghé lại thăm tình,
            Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
            Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,
            Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
            Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,
            Dẫu chưa nên khúc, tình đà thỏang hay.
            Nghe não nuột mấy dây buồn bực,
            Dường than niềm tấm tức bấy lâu;
            Mày chau tay gảy khúc sầu,
            Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.
            Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt,
            Trước Nghê thường sau thoắt Lục yêu:
            Dây to nhường đổ mưa rào,
            Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện rịêng.
            Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy,
            Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
            Trong hoa oanh ríu rít nhau,
            Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.
            Nước suối lạnh, dây mành ngừng dứt,
            Ngừng dứt nên phút bặt tiếng tơ
            Ôm sầu, mang hận ngẩn ngơ,
            Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.
            Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
            Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
            Cung đàn trọn khúc thanh tao,
            Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
            Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
            Một vầng trăng trong vắt lòng sông;
            Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
            Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời.
            Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ.
            Cồn Hà Mô trú ở lân la;
            Học đàn từ thuở mười ba,
            Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên
            Gã Thiện Tài sợ phen dừng khúc,
            Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô,
            Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua
            Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.
            Vành lược bạc gẫy tan dịp gõ,
            Bức quần hồng hoen ố rượu rơi:
            Năm năm lần lữa vui cười
            Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu.
            Buồn em trảy, lại lo dì thác
            Sầu hôm mai đổi khác hình dong;
            Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
            Thân già mới kết duyên cùng khách thương.
            Khách trọng lợi khinh đường li cách,
            Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi;
            Thuyền không, đậu bến mặc ai
            Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng.
            Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ
            Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen.”
            Nghe đàn ta đã chạnh buồn,
            Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời:
            “Cùng một lứa bên trời lận đận,
            Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau;
            Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
            Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.
            Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
            Tai chẳng nghe đàn địch cả năm:
            Sông Bồn gần chốn cát lầm,
            Lau vàng, trúc võ, âm thầm, quanh hiên.
            Tiếng chi đó nghe liền sớm tối:
            Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von;
            Hoa xuân nở nguyệt thu tròn,
            Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng:
            -Há chẳng có ca rừng, địch nội?
            -Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe;
            Tỳ bà nghe dạo canh khuya,
            Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
            Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa,
            Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.”
            Đứng lâu dường cảm lời ta
            Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây.
            Nghe não nuột khác tay đàn trước,
            Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi;
            Lệ ai chan chứa hơn người ?
            Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
            Lời bàn
            Tuyệt kĩ thi ca của Bạch Cư Dị .
            Thi hào Nguyễn Du đã học ông để tả những cảnh Thuý Kiều chơi đàn trong Truyện Kiều bất hủ của mình.
            Nhà thơ Xuân Diệu cũng mượn ý tứ của Bạch Cư Dị để viết nên bài “Lời kĩ nữ ”. Khác là : khách muốn ra đi, kĩ nữ năn nỉ níu chàng ở lại.



            ST
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #81
              80. Tiên tử tống Lưu Nguyễn xuất động - Tào Đường

              Ân cần tương tống xuất Thiên Thai
              Tiên cảnh na năng khước tái lai
              Vân dịch kí qui tu cưỡng ẩm
              Ngọc thư vô sự mạc tần khai
              Hoa lưu động khẩu ưng trường tại
              Thuỷ đáo nhân gian định bất hồi
              Trù trướng khê đầu tòng thử biệt
              Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài


              Ân cần tiễn nhau ra khỏi núi Thiên Thai
              Cõi tiên đâu có thể đến lần nữa được
              Rượu Vân dịch người về cố uống đi
              Lá Ngọc thư, nếu không cần thì đừng mở
              Hoa cửa động đang còn tươi mãi
              Nước về trần quyết không trở lại
              Ngơ ngẩn đầu suối, li biệt từ đây
              Ánh trăng trên núi biếc soi lớp rêu xanh


              Các nàng tiên tiễn Lưu Nguyễn ra khỏi động
              Ân cần đưa khỏi lối Thiên Thai,
              Tiên cảnh khôn mong trở lại rồi.
              Chén rượu ngày về nên gượng uống,
              Phong thư vô sự chớ thường coi.
              Hoa nương cửa động hoa thơm mãi,
              Nước xuống khơi trần, nước chảy xuôi.
              Theo tiễn bâng khuâng bên suối lạnh,
              Rêu ngàn non quạnh bóng trăng soi.
              (Ngân Giang dịch)
              Chú thích : Vân dịch là thứ rượu quí , ngọc thư là cuốn sách dạy tu luyện của Đạo gia .
              Nhà thơ Tản Đà viết bài “Tống biệt” : Lá đào rơi rắc chốn Thiên Thai
              tiên cảnh khôn mong trở lại rồi .…


              ST
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #82
                81. Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn - Tào Đường

                Bất tương thanh sắt lý Nghê thường
                Trần mộng na tri hạc mộng trường
                Động lí hữu thiên xuân tịch tịch
                Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang
                Ngọc sa dao thảo liên khê bích
                Lưu thuỷ đào hoa mãn giản hương
                Hiểu lộ phong đăng dị linh lạc
                Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang


                Không đem tiếng đàn sắt nhẹ nhàng lựa khúc Nghê thường nữa
                Người trong giấc mộng trần biết đâu giấc mộng hạc (mộng tiên) dài
                Trong động riêng một bầu trời, cảnh xuân yên lặng
                Cõi người không đường đi tới, bóng nguyệt mơ màng
                Cõi tiên trên bãi ngọc, xanh biếc ven khe suối
                Hoa đào theo nước trôi, hương thơm đầy suối
                Hạt móc sớm mai ngọn đèn trước gió dễ tiêu tan
                Kiếp này còn biết tìm hỏi chàng Lưu ở chốn nào ?!


                Trong động, tiên tử nhớ hoài Lưu Nguyễn
                Ngón đàn biếng lựa khúc Nghê thường,
                Ai biết hồn ai những vấn vương.
                Trời khoá non tiên xuân quạnh quẽ,
                Đường đi cõi tục nguỵêt mơ màng.
                Cỏ dao dát ngọc liên khe biếc,
                Nước chảy hoa đào ngát suối hương.
                Đèn gió sương mai ngao ngán nhẽ,
                Kiếp này không chốn hỏi Lưu lang
                K.D



                ST
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #83
                  82. Tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân trên lầu Tạ Thiếu xứ Tuyên Châu - Lí Bạch

                  Phiên âm Hán Việt

                  Tuyên châu Tạ Diểu Lâu tiễn biệt hiệu thư ThúcVân
                  Khí ngã khứ giả, tạc nhật chi nhật bất khả lưu,
                  Loạn ngã tâm giả, kim nhât chi nhật đa phiền ưu.
                  Trường phong vạn lí tống thu nhạn,
                  Đối thử khả dĩ hàm cao lâu.
                  Bồng lai văn chương Kiến An cốt,
                  Trong gian Tiểu Tạ hựu thanh phát.
                  Câu hoài dật hứng tráng tứ phi,
                  Dục thương thanh thiên lãm minh nguyệt.
                  Trừu đao đoạn thuỷ, thuỷ cánh lưu,
                  Cử bôi tiêu sầu, sầu sầu cánh sầu.
                  Nhân sinh tại thế bất xứng ý,
                  Minh triêu tản phát lộng biên châu.
                  Dịch nghĩa:
                  Trên lầu Tạ Thiểu ở Tuyên Châu tiễn quan hiệu thư Thúc Vân
                  Bỏ ta mà đi, ngày hôm qua đã không sao giữ lại được,
                  Làm rối loạn lòng ta, ngày hôm nay lắm chuyện ưu phiền.
                  Gío thồi dài muôn dặm, tiễn chim nhạn mùa thu,
                  Trước cảnh này, có thể chén say trên lầu cao ngất.
                  Văn chương cung Bồng Lai, phong cách đời Kiến An.
                  Trong đó Tiểu Tạ lại càng thanh cao rất mực,
                  Lòng mang theo hứng thơ phóng dật,
                  tứ thơ hùng mạnh tung bay.
                  Muôn lên trời xanh nắm vầng trăng sáng,
                  Rút kiếm chém nước, nước vẫn chảy,
                  Nghiêng chén tiêu sầu, sầu càng sầu.
                  Người sống ở đời không được như ý,
                  Sớm mai xoã tóc thả thuyền nhẹ chơi.
                  Dịch thơ:
                  Bỏ ta mà đi là ngày hôm qua cầm được đâu !
                  Rối lòng ta chừ, ngày hôm nay lắm ưu sầu !
                  Muôn dặm gió thu đưa cánh nhạn,
                  Cảnh ấy lầu cao đáng dốc bầu.
                  Văn thái Bồng Lai chất Kiến An,
                  ngang hàng Tiểu Tạ thanh tao tuyệt !
                  Tứ hùng hứng lạ vút bay lên,
                  Muốn đến trời xanh xem vầng nguyệt.
                  Cầm kiếm chặt nước, nước cứ trôi,
                  Cất chén tiêu sầu, sầu không vơi.
                  Người sinh ở đời chẳng vừa ý,
                  Mai đây xoã tóc cưỡi thuyền chơi.
                  (Khương Hữu Dụng dich)




                  ST
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #84
                    83. Tĩnh dạ tư - Lí Bạch

                    Tĩnh dạ tư

                    Sàng tiền minh nguyệt quang
                    Nghi thị điạ thượng sương
                    Cử đầu vọng minh nguyệt
                    Đê đầu tư cố hương


                    Cảm nghĩ đêm yên tĩnh

                    Đầu giường ánh trăng rọi,
                    Ngỡ mặt đất phủ sương.
                    Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
                    Cúi đầu nhớ cố hương.


                    Lời bàn :
                    Chú ý cặp đối “ Ngẩng đầu …. cúi đầu ”
                    Xác định không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật của bài thơ, từ đó có hướng phân tích .
                    ( Đêm đó ở đâu ? cụ thể hay mơ hồ, một lần hay tái diễn ?)




                    ST
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #85
                      84. Tống biệt - Vương Duy

                      Tống biệt

                      Há mã ẩm quân tửu
                      Vấn quân hà sở chi ?
                      Quân ngôn bất đắc ý
                      Qui ngoạ Nam Sơn thuỳ
                      Đãn khứ mạc phục vấn
                      Bạch vân vô tận kỳ


                      Tiễn biệt

                      Xuống ngựa mời bác uống ruợu
                      Hỏi bác đi đâu đấy
                      Bác rằng chẳng được vừa ý
                      về nằm ven Nam sơn
                      Cứ đi, không hỏi nữa
                      Mây trắng không tận cùng


                      ST
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #86
                        85. Tống Nguyên Nhị đi sứ Tây An - Vương Duy

                        Tiễn Nguyên Nhị sứ Tây An

                        Vị Thành khiêu vũ ấp khinh trần,
                        Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.
                        Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
                        Tây xuất Dương quan vô cố nhân.



                        Dịch nghĩa :

                        Tiễn bác Hai Nguyên đi sứ Tây An

                        Đất Vị Thành mưa sớm thấm làng bụi nhẹ,
                        Nơi quán khách liễu mới đổi màu xanh rờn.
                        Mời bác hãy uống cạn thêm chén nữa,
                        Đi về phía tây, ra khỏi Dương quan sẽ không có ai là cố nhân nữa.


                        Dịch thơ:

                        Mưa mai thấm bụi Vị Thành;
                        Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời.
                        Khuyên anh hãy cạn chén mời;
                        Dương quan ra khỏi ai người cố tri
                        (Tương Như dịch )



                        ST
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #87
                          86. Trúc lý quán - Vương Duy

                          Trúc lí quán

                          Độc toạ u hoàng lí
                          Đàn cầm phục tràng tiêu
                          Thâm lâm nhân bất tri
                          Minh nguyệt lai tương chiếu



                          Quán trong rặng trúc

                          Một mình ngồi trong rặng trúc rợp bóng
                          Tiếng đàn cầm rồi tiếng sáo thổi lại
                          Rừng sâu người chẳng hề biết
                          Trăng sáng đến bên ta chiếu sáng


                          Ngồi một mình dưới trúc
                          Đàn sáo ai chơi hoài
                          Rừng sâu người chẳng biết
                          Trăng sáng với ta thôi
                          (NVPhú dịch)



                          ST
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #88
                            87. Tuyệt cú - Đỗ Phủ

                            Tuyệt cú

                            Lưỡng cá hoàng li minh thuý liễu
                            Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
                            Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
                            Môn bạc Đông Ngô vạn lí thuyền



                            Câu thơ trác tuyệt

                            Hai con chim oanh kêu trong đám liễu biếc
                            Một hàng có trắng hướng lên trời xanh
                            Song cửa chứa núi Tây Lĩnh tuyết đọng ngàn năm
                            Ngoài cửa, đậu những thuyền xứ Đông Ngô xa vạn dặm



                            Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
                            Một đàn có trắng vút trời xanh.
                            Ngàn năm tuyết núi song in sắc
                            Muôn dặm thuyền Ngô cửa dập dềnh.
                            (KD)
                            Lời bàn :
                            Lúc này nhà thơ đang ở nơi xa, trong một căn lều cỏ . Đường về quê phải qua xứ Đông Ngô . Tiếp tục ra đi hay trở lại quê nhà ? Đọc kĩ bài thơ sẽ biết .
                            Bộ tranh tứ bình ( kết cấu liên hoàn) diễn tả một tâm trạng thầm kín, băn khơan lựa chọn của nhà thơ .



                            ST
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #89
                              88. Tử vi hoa - Bạch Cư Dị

                              Mịch Luân các hạ văn chương tĩnh
                              Chung cổ lâu trung khắc lậu trường
                              Độc toạ hoàng hôn thuỳ thị bạn
                              Tử vi hoa đối tử vi lang


                              Dưới gác Mịch Luân đã yên lặng chuyện văn chương
                              Chuông trống lầu canh báo đêm đã vang xa
                              Một mình ngồi từ sáng đến chiều, ai là bạn ?
                              Hoa tử vi đối mặt với người yêu hoa tử vi


                              Hoa tường vi
                              Gác Mịch Luân bặt văn từ
                              Lầu chuông lầu trống báo giờ dồn vang
                              Thâu ngày vắng bạn lứa trang
                              Hoa tường vi lại ngắm chàng tường vi
                              ( Ngô Văn Phú dịch)



                              ST
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #90
                                89. Tương giang - (Ý Nương giai thoại)

                                Quân tại Tương giang đầu
                                Thiếp tại Tương giang vĩ
                                Tương tư bất tương kiến
                                Đồng ẩm Tương giang thuỷ


                                Chàng ở đầu sông Tương,
                                Thiếp ớ cuối sông Tương.
                                Nhớ nhau chẳng thấy mặt
                                Cùng uống nước sông Tương



                                Chú thích : sông Tiêu Tương : sông Tương phát nguyên từ Hải Dương sơn gần thành Quế Lâm, Quảng Tây, chảy ngang Hồ Nam rồi đổ vào hồ Động Đình. Ngọn sông Tiêu là một nhánh đổ vào sông Tương tại thị trấn Linh Lăng tỉnh Hồ Nam. Gọi là sông Tương hoặc sông Tiêu Tương.
                                Thời cuối nhà Đường, nhà Hậu Chu (907-955) ở tỉnh Hồ Nam có nàng Ý Nương con gái của Lương Công nhà phú hộ . Ý Nương xinh đẹp lại hay chữ . Một khách trọ ở nhà nàng là Lý Sinh để ý nàng . Hai người yêu nhau . Lương Công biết chuyện, giận dữ đuổi chàng Lý đi . Ý Nương đau buồn sinh bệnh tương tư. Nàng làm bài khúc “ Trường tương tư “ để gửi cho tình lang . Bài khúc có 12 câu trong đó 4 câu có hình thức như bài tứ tuyệt nên được người đời về sau tách ra thành bài thơ riêng ( tôi xin tạm đặt tên là Tương giang). Lý Sinh nhận được bài khúc thì cảm thương vô cùng, bèn chạy nhờ mai mối đến năn nỉ Lương ông . Khi đọc bài khúc của con gái, ông xúc động mà bằng lòng cho hai người kết mối lương duyên .
                                Lời bàn:
                                Bài thơ này rất quen thuộc với người Việt Nam .
                                Thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều viết :
                                Sông Tương một giải nông sờ
                                Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
                                Nhà thơ Phạm Tiến Duật viết bài thơ Trường sơn đông Trường sơn tây thời chống Mỹ:
                                Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
                                Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
                                Ở chiến trường miền Nam, nhà thơ Hoài Vũ viết bài Vàm cỏ đông
                                Ở tận sông Hồng em có biết
                                Quê hương anh cũng có dòng sông
                                Anh mãi gọi với lòng tha thiết
                                Vàm Cỏ đông ơi Vàm Cỏ đông
                                Nhạc sĩ Thuận Yến viết:bài ca Gởi em ở cuối sông Hồng cũng mượn ý “đầu sông cuối sông”.


                                ST
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X