Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện Kiều phần 4: Kiều và Hoạn Thư-Thu Hiền diễn đọc

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện Kiều phần 4: Kiều và Hoạn Thư-Thu Hiền diễn đọc

    Truyện Kiều

    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền



    Đoạn Chân dung Hoạn Thư


    Download


    Kể chi những nỗi dọc đường,
    Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà
    Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
    1530./ Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
    Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,
    Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
    Ở ăn thì nết cũng hay,
    Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
    1535./ Từ nghe vườn mới thêm hoa,
    Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
    Lửa tâm càng dập càng nồng,
    Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
    "Ví bằng thú thật cùng ta,
    1540./ "Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
    "Dại chi chẳng giữ lấy nền,
    "Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
    "Lại còn bưng bít giấu quanh,
    "Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
    1545./ "Tính rằng cách mặt khuất lời,
    "Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
    "Lo gì việc ấy mà lo,
    "Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
    "Làm cho nhìn chẳng được nhau,
    1550./ "Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
    "Làm cho trông thấy nhãn tiền,
    "Cho người thăm ván bán thuyền biết tay."
    Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
    Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
    1555./ Tuần sau bỗng thấy hai người,
    Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
    Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
    "Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
    "Chồng tao nào phải như ai,
    1560./ "Điều này hẳn miệng những người thị phi!"
    Vội vàng xuống lệnh ra uy,
    Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
    Trong ngoài kín mít như bưng.
    Nào ai còn dám nói năng một lời!


    Chú giải:

    1528. Buồng trong: Chỉ vào người vợ. Câu này đại ý nói: Bây giờ hãy nói đến người vợ Thúc sinh làm chủ gia đình ở quê nhà.
    1530. Lại bộ: Bộ lại, tức là quan trọng nhất trong sáu bộ của triều đình phong kiến.
    1531. Duyên đằng: Cổ thi: Thời lai phong tống Đằng vương các (Thời vận đến, gió đưa lại gác Đằng Vương). Ý nói gặp cơ hội may mắn.
    1534. Ràng buộc: Có nghĩa là thắt buộc, cho người khác vào khuôn, vào phép của mình.
    1535. Vườn mới thêm hoa: ý nói Thúc sinh có thêm vợ lẽ.
    1538. Đen bạc: Cùng nghĩa như bạc bẽo, phụ bạc.
    Trăng hoa: Do chữ hoa nguyệt mà ra, ý chỉ sự chơi bời trai gái.
    1541. Nền: Nền nếp của người trên, tư thế của mình là người bề trên.
    1551. Nhãn tiền: Trước mắt.
    1552. Tục ngữ: Chưa thăm ván đã bán thuyền. Ở đây chỉ Thúc sinh là người có mới nới cũ.
    1560. Thị phi: Có nghĩa là việc phải thì nói thành trái, việc trái thì nói thành phải, thêu dệt phải trái làm cho người nghe mắc lầm.



    Last edited by Thu Hiền; 13-07-2008, 11:05 AM.

  • #2
    Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư

    Truyện Kiều

    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền



    Đoạn Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư


    Download


    1565./ Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
    Ra vào một mực nói cười như không.
    Đêm ngày lòng những dặn lòng,
    Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
    Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
    1570./ Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
    Tẩy trần vui chén thong dong,
    Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
    Chàng về xem ý tứ nhà,
    Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
    1575./ Mấy phen cười nói tỉnh say,
    Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
    Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
    Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
    Những là e ấp dùng dằng,
    1580./ Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
    Có khi vui chuyện mua cười,
    Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
    Rằng: "Trong ngọc đá vàng thau,
    "Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
    1585./ "Khen cho những miệng dông dài,
    "Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
    "Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
    "Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!"
    Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
    1590./ Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
    Những là cười phấn cợt son,
    Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
    Thú quê thuần vược bén mùi,
    Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
    1595./ Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
    Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
    Tình riêng chưa dám rỉ răng,
    Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
    "Cách năm mây bạc xa xa,
    1600./ "Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn."
    Được lời như mở tấc son,
    Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
    Long lanh đáy nước in trời,
    Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
    1605./ Roi câu vừa gióng dặm trường,
    Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
    Thưa nhà huyên hết mọi tình,
    Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
    Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ hờn ghen,
    1610./ "Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
    "Vậy nên ngoảnh mặt làm thinh,
    "Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
    "Lâm Truy đường bộ tháng chầy,
    "Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
    1615./ "Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
    "Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
    "Làm cho cho mệt cho mê,
    "Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
    "Trước cho bõ ghét những người,
    1620./ "Sau cho để một trò cười về sau."
    Phu nhân khen chước rất mầu,
    Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
    Sửa sang buồm gió lèo mây,
    Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang.
    1625./ Dặn dò hết các mọi đường,
    Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.


    Chú giải:

    1568. Lầu hồng: Do chữ hồng lâu, nhà ở bọn quyền quý, cũng dùng để chỉ chỗ ở của hạng phụ nữ giàu sang.
    1571. Tẩy trần: Rửa bụi. Tục xưa, khi có người đi xa về thì đặt tiệc "tẩy trần", ý nói rửa sạch bụi bặm trong lúc đi đường.
    1578. Khảo: Tra khảo.
    1580. Rút dây động rừng: Tục ngữ, ý nói rút một sợi dây làm rung chuyển đến cả một khu rừng. Câu này ý nói: Thúc sinh sợ nói lộ câu chuyện lấy Kiều ra sẽ gây nên sóng gió trong gia đình.
    1583-1584: Đại ý nói ngọc hay đá, vàng hay thau đôi ta đều đã biết phân biệt rạch ròi, không thể nào lầm lẫn được.
    1594. Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cọng tri thu: (chỉ một lá ngô đồng rụng mà ai cũng biết là thu sang). Câu này đại ý nói: Thúc sinh ở quê nhà vừa bén mùi rau cá thì trời đã bắt đầu sang thu.
    1596. Quan tái: cũng như quan ải, chỉ nơi núi non bờ cõi.
    1599. Mây bạc: Do chữ bạch vân mà ra. Địch Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa, thường chỉ đám mây trên núi Thái Hàng mà nói: "Nhà cha mẹ ta ở đây". Ở đây dùng để nói Thúc sinh có cha ở xa.
    1606. Xe hương: Do chữ Hương xa, chỉ xe của phụ nữ.
    Quy ninh là về hỏi thăm sức khoẻ của cha mẹ.
    1609. Thành ngữ: Ngứa ghẻ hờn ghen ý nói hai điều khó chịu nhất.
    1614. Hải đạo: Đường biển.
    1621. Mầu: Mầu nhiệm. Mẹ Hoạn thư khen cái mưu ấy rất diệu, rất hay.
    1623. Buồm: Lá buồm. Lèo: dây treo buồm.
    1624. Khuyển: chó, Ưng: chim cắt, hai loài vật dùng để đi săn. Ở đây dùng để đặt tên cho bọn tôi tớ trung thành của họ Hoạn.
    Côn quang: Cũng như côn đồ, dùng để chỉ bọn vô lại.
    1626. Thuận phong: Thuận gió. Một lá: Một lá buồm, Kiều lúc ấy đang ở Lâm Truy, Lâm Truy nguyên là kinh đô nước Tề xưa, nên gọi là biển Tề.



    Comment


    • #3
      Kiều bị Ưng, Khuyển bắt đi

      Truyện Kiều

      Tác giả: Nguyễn Du
      Diễn đọc: Thu Hiền



      Đoạn Kiều bị Ưng, Khuyển bắt đi


      Download


      Nàng từ chiếc bóng song the,
      Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
      Bóng dâu đã xế ngang đầu,
      1630./ Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
      Tóc thề đã chấm ngang vai,
      Nào lời non nước nào lời sắt son.
      Sắn bìm chút phận cỏn con,
      Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
      1635./ Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
      Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
      Đêm thu gió lọt song đào,
      Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
      Nén hương đến trước Phật đài,
      1640./ Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
      Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
      Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
      Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
      Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
      1645./ Thuốc mê đâu đã tưới vào,
      Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
      Vực ngay lên ngựa tức thì,
      Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
      Sẵn thây vô chủ bên sông,
      1650./ Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
      Tôi đòi phách lạc hồn bay,
      Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
      Thúc ông nhà cũng gần quanh,
      Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
      1655./ Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
      Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
      Gió cao ngọn lửa càng cao,
      Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
      Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
      1660./ Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
      Chạy vào chốn cũ phòng hương,
      Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
      Ngay tình ai biết mưu gian,
      Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai!
      1665./ Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
      Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
      Di hài nhặt sắp về nhà,
      Nào là khâm liệm nào là tang trai.
      Lễ thường đã đủ một hai,
      1670./ Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
      Bước vào chốn cũ lầu thơ,
      Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
      Sang nhà cha tới trung đường,
      Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
      1675./ Hỡi ôi nói hết sự duyên,
      Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
      Gieo mình vật vã khóc than:
      "Con người thế ấy thác oan thế này.
      "Chắc rằng mai trúc lại vầy,
      1680./ "Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
      "Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
      "Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây."
      Gần miền nghe có một thầy,
      Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
      1685./ Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
      Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
      Sắm sanh lễ vật rước sang,
      Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
      Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
      1690./ Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
      Trở về minh bạch nói tường:
      "Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
      "Người này nặng nghiệp oan gia,
      "Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
      1695./ "Mệnh cung đang mắc nạn to,
      "Một năm nữa mới thăm dò được tin.
      "Hai bên giáp mặt chiền chiền,
      "Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!"
      Nghe lời nói lạ đường này,
      1700./ Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
      Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
      Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
      Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
      Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.


      Chú giải:

      1630. Ấm lạnh: Do chữ ôn sảnh (Đông ôn hạ sảnh), ngọt bùi do chữ cam chỉ, ý nói làm con phải quạt nồng ấm lạnh và phụng dưỡng những thức ngon lành cho cha mẹ.
      1632. Lời non nước: Lời chỉ non thề biển. Lời sắt son: Lời trung thành vững chắc như sắt như son.
      1633. Sắn bìm: Do chữ cát đằng mà ra. Xem chú thích 902.
      1636. Cung Quảng: Cung Quảng Hàn trong mặt trăng, ả Hằng tức ả Hằng Nga trong cung. Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ, trộm thuốc trường sinh của chồng rồi chạy lên ở một mình trên cung trăng; Câu này đại ý nói: Thôi thì liều sống một mình như Hằng Nga trong cung Quảng Hàn vậy.
      1638. Ba sao: Do chữ Kinh Thi: Tam tinh tại thiên (ba sao ở trời). Ở đây tác giả chỉ mượn câu ấy để nói đêm đó ngoài song gió thổi, giữa trời có trăng có sao v.v...
      1642. Khốc quỷ kinh thần: Quỷ thần khóc, thần phải sợ, ý nói rất ghê sợ.
      1667. Di hài: Hài cốt sót lại.
      1668. Khâm liệm: Lễ mặc quần áo mới và bọc vải lụa cho người chết trước khi bỏ vào áo quan. Tang trai: Lễ đưa ma và làm chay.
      1670. Lục trình: Đi đường bộ.
      1673. Trung đường: Nhà chính giữa.
      1674. Linh sàng: Giường thờ.
      Bài vị: Mảnh gỗ viết tên người chết để thờ.
      1680. Vĩnh quyết: Cũng như vĩnh biệt, từ biệt hẳn, không bao giờ gặp nhau nữa.
      1684. Phi phù trí quỷ: đốt bùa mà gọi được quỷ đến.
      Thông huyền: Thông cảm được với cõi huyền bí, tức cõi quỷ thần.
      1685. Tam đảo: Ba đảo tiên: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Người ta thường dùng để chỉ cõi thiêng liêng hoặc cõi tiên.
      Cửu tuyền: Chín suối, tức là âm phủ.
      1689. Đạo nhân: cũng như đạo sĩ, chỉ ông thầy pháp.
      Tĩnh đàn: Đàn thờ thần thánh của bọn thầy pháp.
      1690. Xuất thần: Linh hồn thầy pháp thoát ra ngoài thể xác để đi vào cõi thần linh.
      1695. Mệnh cung: Cung là bản mệnh, một trong 12 cung của số Tử vi. Sách số có câu: Cung mệnh mà có sao Bột chiếu vào thì người ấy mắc nạn. Câu này đại ý nói: Xem số Thúy Kiều thì đang mắc nạn to.
      1697. Chiền chiền: Tiếng cổ, có nghĩa là rành rành, hoặc liền liền.
      1701. Đồng cốt: Ông đồng, bà cốt, những người làm nghề câu đồng, câu bóng.



      Comment


      • #4
        Kiều trở thành gia nô

        Truyện Kiều

        Tác giả: Nguyễn Du
        Diễn đọc: Thu Hiền



        Đoạn Kiều trở thành gia nô


        Download


        1705./ Nước trôi hoa rụng đã yên,
        Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
        Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
        Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
        Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,
        1710./ Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
        Giã đò lên trước sảnh đường,
        Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
        Vực nàng tạm xuống môn phòng,
        Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
        1715./ Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
        Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
        Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
        Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
        Ả hoàn trên dưới giục mau,
        1720./ Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
        Ngước trông tòa rộng dãy dài,
        “Thiên quan trủng tể” có bài treo trên.
        Ban ngày sáp thắp hai bên,
        Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
        1725./ Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
        Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
        Bất tình nổi trận mây mưa,
        Mắng rằng: "Những giống bơ thờ quen thân!
        "Con này chẳng phải thiện nhân,
        1730./ "Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
        "Ra tuồng mèo mả gà đồng,
        "Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
        "Đã đem mình bán cửa tao,
        "Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
        1735./ "Nào là gia pháp nọ bay!
        "Hãy cho ba chục biết tay một lần."
        Ả hoàn trên dưới dạ rân,
        Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
        Trúc côn ra sức đập vào,
        1740./ Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
        Xót thay đào lý một cành,
        Một phen mưa gió tan tành một phen.
        Hoa nô truyền dạy đổi tên,
        Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
        1745./ Ra vào theo lũ thanh y,
        Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
        Quản gia có một mụ nào,
        Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
        Khi chè chén khi thuốc thang,
        1750./ Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
        Dạy rằng: "May rủi đã đành,
        "Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
        "Cũng là oan nghiệp chi đây,
        "Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
        1755./ "Ở đây tai vách mạch rừng,
        "Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
        "Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
        "Con ong cái kiến kêu gì được oan?"
        Nàng càng giọt ngọc như chan,
        1760./ Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
        "Phong trần kiếp chịu đã đầy,
        "Lầm than lại có thứ này bằng hai.
        "Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
        "Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
        1765./ "Đã đành túc trái tiền oan,
        "Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi."
        Những là nương náu qua thì,
        Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
        Mẹ con trò chuyện lân la,
        1770./ Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
        "Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
        "Cho về bên ấy theo đòi lầu trang."
        Lãnh lời nàng mới theo sang,
        Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu.
        1775./ Sớm khuya khăn mặt lược đầu,
        Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
        Phải đêm êm ả chiều trời,
        Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
        Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
        1780./ Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
        Tiểu thư xem cũng thương tài,
        Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
        Cửa người đày đọa chút thân,
        Sớm năn nỉ bóng đêm ân hận lòng.
        1785./ Lâm Truy chút nghĩa đèo bồng,
        Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
        Bốn phương mây trắng một màu,
        Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
        Lần lần tháng trọn ngày qua,
        1790./ Nỗi gần nào biết đường xa thế này.


        Chú giải:

        1709. Cánh suyền: Cánh buồm đi nhanh.
        1715. Hoàng Lương: Kê vàng. Xưa Lư sinh đời Đường đi thi gặp ông già họ Lã cho mượn cái gối nằm ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ, làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 năm. Lúc tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai chữ hoàng lương để chỉ giấc mơ.
        Hồn mai: Xưa có người gặp cô gái trong rừng, cùng uống rượu, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ màng.
        1719. Ả hoàn: các đầy tớ gái trẻ tuổi.
        1722. Thiên quang trủng tể: Thiên quan là loại quan đứng đầu sáu lại quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể tức là chức tể tướng.
        1724. Thất bảo: Bảy sản vật quý như vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, trân châu. Ở đây chỉ cái giường có khảm các vật quý.
        1731. Mèo mả gà đồng: Mèo hoang sống ở mồ mả; gà hoang sống ở ngoài đồng, người ta thường dùng để ví với hạng người lông bông, giang hồ.
        1735. Gia pháp: Phép tắc trong nhà để trừng phạt gia nhân và tôi tớ.
        1739. Trúc côn: Gậy tre.
        1741. Đào lý: Cây đào, cây lý, thường dùng để chỉ phụ nữ.
        1744. Phiên thị tỳ: Thị tỳ ở nhà quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là phiên thị tỳ.
        1745. Thanh y: áo xanh. Đầy tớ gái các nhà giàu sang đời xưa đều mặc áo xanh, nên gọi là thanh y.
        1747. Quản gia: Trong gia đình quan lại phong kiến đời xưa thường dùng những người đàn bà đứng tuổi trông coi việc nhà và cai quản số hầu gái, gọi là quản gia.
        1750. Phương tiện: ở đây có nghĩa là đối đãi, xử trí mọi việc.
        Hiếu sinh: Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh cho người ta con đường khổ sở chết chóc.
        1752. Liễubồ là hai giống cây mềm yếu thường được dùng để chỉ phụ nữ.
        1753. Oan nghiệp: Tiền oan, nghiệp chướng, có ý nói có oan thù và tội lỗi từ thời trước để lại.
        1755. Tai vách mạch rừng: Do câu thành ngữ: Rừng có mạch vách có tai.
        1761. Phong trần: Nghĩa đen là gió bụi, thường được dùng để chỉ sự khổ sở mà người đời phải chịu.
        1765. Túc trái tiền oan: Nợ nần, oán thù từ kiếp trước để lại.
        1774. Địa ngục, thiên đường: Theo giáo lý đạo Phật thì những người độc ác sau khi chết phải xuống địa ngục để chịu tội, còn hồn những người lương thiện thì được lên thiên đường. Ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi sung sướng.
        1778. Trúc tơ: Do chữ ty trúc: ty là tơ để làm dây đàn, trúc là tre để làm ống sáo. Hai chữ này thường được dùng để chỉ các thứ âm nhạc nói chung.
        1786. Tương phùng: Gặp nhau. Câu này ý nói: Thúy Kiều nghĩ rằng tình nghĩa giữa mình với Thúc Sinh muốn nối lại thì hoạ chăng chỉ ở kiếp khác.
        1787. Ý nói: Thuý Kiều trông ra bốn bể thì thấy đâu cũng man mác một màu mây trắng mà không thấy quê nhà.
        1788. Cố quốc: Nguyên nghĩa là nước cũ, sau cũng dùng như chữ cố hương (quê cũ).



        Comment


        • #5
          Thúc Sinh giáp mặt Kiều tại nhà Hoạn Thư

          Truyện Kiều

          Tác giả: Nguyễn Du
          Diễn đọc: Thu Hiền



          Đoạn Thúc Sinh giáp mặt Kiều tại nhà Hoạn Thư


          Download


          Lâm Truy từ thuở uyên bay,
          Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
          Mày ai trăng mới in ngần,
          Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa.
          1795./ Sen tàn cúc lại nở hoa,
          Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
          Tìm đâu cho thấy cố nhân?
          Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
          Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
          1800./ Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
          Tiểu thư đón cửa giã giề,
          Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
          Nhà hương cao cuốn bức là,
          Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
          1805./ Bước ra một bước một dừng,
          Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
          "Phải rằng nắng quáng đèn lòa,
          "Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
          "Bây giờ tình mới tỏ tình,
          1810./ "Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
          "Chước đâu có chước lạ đời?
          "Người đâu mà lại có người tinh ma?
          "Rõ ràng thật lứa đôi ta,
          "Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
          1815./ "Bề ngoài thơn thớt nói cười,
          "Mà trong nham hiểm giết người không dao.
          "Bây giờ đất thấp trời cao,
          "Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?"
          Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
          1820./ Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
          Sợ uy dám chẳng vâng lời,
          Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
          Sinh đà phách lạc hồn xiêu:
          "Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
          1825./ "Nhân làm sao đến thế này?
          "Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!"
          Sợ quen dám hở ra lời,
          Khôn ngăn giọt nước sụt sùi nhỏ sa.
          Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
          1830./ "Mới về có việc chi mà động dong?"
          Sinh rằng: "Hiếu phục vừa xong,
          "Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên."
          Khen rằng: "Hiếu tử đã nên!
          "Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu."
          1835./ Vợ chồng chén tạc chén thù,
          Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
          Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
          Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
          Sinh càng như dại như ngây,
          1840./ Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
          Ngoảnh đi chợt nói chợt cười,
          Cáo say chàng đã dạm bài lảng ra.
          Tiểu thư vội thét: "Con Hoa!
          "Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn."
          1845./ Sinh càng nát ruột tan hồn,
          Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
          Tiểu thư cười nói tỉnh say,
          Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
          Rằng: "Hoa nô đủ mọi tài,
          1850./ "Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe."
          Nàng đà tán hoán tê mê,
          Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
          Bốn dây như khóc như than,
          Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
          1855./ Cùng trong một tiếng tơ đồng,
          Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
          Giọt châu lã chã khôn cầm,
          Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
          Tiểu thư lại thét lấy nàng:
          1860./ "Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?
          "Sao chẳng biết ý tứ gì?
          "Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi."
          Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
          Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
          1865./ Giọt rồng canh đã điểm ba,
          Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.
          Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm:
          "Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay."
          Sinh thì gan héo ruột đầy,
          1870./ Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.


          Chú giải:

          1791. Uyên: do chữ uyên ương, giống chim ở với nhau từng đôi, nên người ta thường dùng để chỉ vợ chồng. Uyên bay: ý nói Thuý Kiều không còn nữa (con chim uyên đã bay mất).
          1793. Trăng mới: Trăng đầu tháng. Câu nói đại ý nói: Thúc sinh trông thấy mặt trăng lưỡi liềm đầu tháng giống như lông mày người gái đẹp mà tưởng nhớ đến Kiều.
          1794. Câu này đại ý nói: Thúy Kiều không còn nữa. Thúc Sinh trông thấy phấn hương của nàng còn sót lại mà thương tâm.
          1797. Cố nhân: Người quen biết cũ. Ở đây chỉ Thúy Kiều.
          1799. Gia hương: Nhà và làng, tức quê nhà. Ở đây chỉ quê hương của Thúc Sinh ở huyện Vô Tích.
          1803. Nhà hương: Do chữ Hương khuê.
          1816. Thành ngữ: Giết người không dao, ở đây chỉ mưu mẹo nham hiểm.
          1823. Phách lạc hồn xiêu: Do chữ hồn phi phách tán, ý nói sợ hãi một cách ghê gớm.
          1830. Động dong: Biến đổi sắc mặt, ý nói động lòng.
          1831. [i]Hiếu phục: Tang trở cha mẹ. Ở đây chỉ Thúc Sinh vừa hết tang mẹ.
          1832. [i]Trắc dĩ: Kinh thi[i] có câu Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mâu hề (lên núi Dĩ trông ngóng mẹ). Người sau bèn dùng hai chữ Trắc Dĩ để nói thương nhớ mẹ.
          Chung thiên: Suốt đời, ý nói không bao giờ quên.
          1833. Hiếu tử: Người con có hiếu với cha mẹ.
          1834. Giải phiền: Làm cho khuây khoả sự phiền não.
          1835. Thù: Chén rượu do chủ nhà rót mời khách.
          Tạc: Chén rượu do khách rót cho người chủ để đáp lại. Ở đây nói vợ chồng Thúc Sinh uống rượu và mời mọc nhau.
          1836. Trì hồ: Bưng bầu rượu. Ý nói bắt Kiều đứng hầu một bên để rót rượu cho hai vợ chồng Thúc Sinh uống.
          1846. Bồ hòn để ám chỉ người có việc buồn khổ mà không nói ra được. Ở đây ý nói: chén rượu Kiều đưa mời chàng thấy đắng như bồ hòn, nhưng vì sợ Kiều bị liên luỵ phải uống hết ngay.
          1856. Người ngoài: là người ngoài cuộc, chỉ Hoạn thư. Người trong: là người trong cuộc, chỉ Thúc sinh và Kiều.
          1865. Giọt rồng: có nghĩa là thời giờ, thời khắc.
          1866. Cam tâm: Thoả lòng, hả dạ.



          Last edited by Thu Hiền; 03-02-2009, 08:22 AM.

          Comment


          • #6
            Xem tiếp đoạn sau

            Xem tiếp đoạn sau
            Last edited by Thu Hiền; 03-02-2009, 08:28 AM.

            Comment


            • #7
              Kiều xuất gia tại nhà Hoạn Thư

              Truyện Kiều

              Tác giả: Nguyễn Du
              Diễn đọc: Thu Hiền



              Đoạn Kiều xuất gia tại nhà Hoạn Thư


              Download


              Người vào chung gối loan phòng,
              Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài
              Bây giờ mới rõ tăm hơi,
              Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
              1875./ Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
              Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.
              Bây giờ một vực một trời,
              Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
              Nhẹ như bấc nặng như chì,
              1880./ Gỡ cho ra nợ còn gì là duyên?
              Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
              Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
              Một mình âm ỉ đêm chày,
              Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
              1885./ Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
              Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
              Lựa lời nàng mới thưa qua:
              "Phải khi mình lại xót xa nỗi mình."
              Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
              1890./ "Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!"
              Sinh đà rát ruột như bào,
              Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
              Những e lại lụy đến nàng,
              Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
              1895./ Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
              Thân cung nàng mới thảo qua một tờ.
              Diện tiền trình với Tiểu thư,
              Thoát xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
              Liền tay trao lại Thúc Sinh,
              1900./ Rằng: "Tài nên trọng mà tình nên thương!
              "Ví chăng có số giàu sang,
              "Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
              "Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
              "Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!"
              1905./ Sinh rằng: "Thật có như lời,
              "Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
              "Nghìn xưa âu cũng thế này,
              "Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa."
              Tiểu thư rằng: "Ý trong tờ,
              1910./ "Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không.
              "Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
              "Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
              "Sẵn Quan âm các vườn ta,
              "Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
              1915./ "Có cổ thụ, có sơn hồ,
              "Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh."
              Tâng tâng trời mới bình minh,
              Hương hoa ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
              Đưa nàng đến trước Phật đường,
              1920./ Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
              Áo xanh đổi lấy cà sa,
              Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
              Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
              Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.
              1925./ Nàng từ lánh gót vườn hoa,
              Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
              Nhân duyên đâu lại còn mong,
              Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
              Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
              1930./ Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.
              Cho hay giọt nước cành dương,
              Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.


              Chú giải:

              1871. Loan phòng: Phòng nằm của đôi vợ chồng;
              1875. Thúy: Chim thúy. Uyên: Chim uyên ương. Ở đây chỉ việc Hoạn Thư dùng mưu chia rẽ đôi lứa Thúc sinh và Thúy Kiều.
              1885. Đài dinh: Đài các, dinh thự, chỉ chỗ ở của bọn quyền quý. Ở đây mượn để chỉ nhà ở của Thúc sinh và Hoạn thư.
              1896. Thân cung: Cung khai, khai trình.
              1897. Diện tiền: Trước mặt.
              1910. Cửa Không: Do chữ Không môn. Vì đạo Phật cho mọi vật trên thế gian đều là "không" nên người ta gọi đạo Phật là "Không môn".
              1913. Quan âm các: Cái chùa thờ Phật Quan thế âm Bồ tát. Đây là chùa riêng của nhà Hoạn Thư.
              1915. Cổ thụ: Cây lâu năm.
              Sơn hồ: Núi giả và hồ đào ra để làm cảnh.
              1918. Ngũ cúng: Năm vật cúng Phật, tức hương, hoa, đăng, trà, quả.
              1920. Tam quy: Ba lễ "qui y" tức quy y phật, quy y pháp, quy y tăng, nghĩa là đem cả tâmthân mà theo đạo Phật.
              Ngũ giới: Năm điều răn, tức là răn sát sinh, răn ăn rộm, răn tà dâm, răn nói càn, răn uống rượu.
              Xuất gia: Ra khỏi nhà tức đi tu.
              1921. Áo xanh: Thanh y, áo các hầu gái mặc.
              Cà sa: áo nhà sư mặc.
              1922. Pháp danh: Tên đặt theo tập tục tôn giáo. Trạc Tuyền là pháp danh do Hoạn thư đặt cho Kiều.
              1924. Xuân, thu: Tên hai người đầy tớ gái do Hoạn thư sai đến Quan âm các ở với Kiều để giúp việc hương đèn.
              1926. Rừng tía: Do chữ tư trúc lâm, chỗ ở của Phật Quan âm Bồ tát.
              Bụi hồng: Do chữ hồng trần, tức cõi trần tục, cõi đời.
              1927. Nhân duyên: Duyên vợ chồng. Ở đây chỉ duyên phận giữa Kiều và Thúc sinh.
              1930. Thủ tự: Chữ viết tay.
              Tâm hương: Hương lòng. Nén hương dân lên do tấm lòng thành kính.
              1931. Giọt nước cành dương: Do chữ dương chi thủy. Theo sách Phật thì Phật Quan âm có cành dương liễu và bình nước cam lộ, khi muốn cứu ai thì lấy cành dương liễu dúng nước trong bình mà rảy vào người ấy. Ở đây giọt nước cành dương dùng để chỉ phép màu nhiệm của Phật.
              1932. Lửa lòng: do chữ tâm hỏa, chỉ mọi thứ dục vòng do lòng người sinh ra.
              Trần duyên: Duyên nợ ở cõi trần.



              Comment


              • #8
                Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư

                Truyện Kiều

                Tác giả: Nguyễn Du
                Diễn đọc: Thu Hiền



                Đoạn Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư


                Download


                Nâu sồng từ trở màu thiền,
                Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,
                1935./ Quan phòng then nhặt lưới mau,
                Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người.
                Gác kinh viện sách đôi nơi,
                Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
                Những là ngậm thở nuốt than,
                1940./ Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.
                Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,
                Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
                Sụt sùi giở nỗi đoạn trường,
                Giọt châu tầm tã đượm tràng áo xanh:
                1945./ "Đã cam chịu bạc với tình,
                "Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
                "Thấp cơ thua trí đàn bà,
                "Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
                "Vì ta cho lụy đến người,
                1950./ "Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!
                "Quản chi lên thác xuống ghềnh,
                "Cũng toan sống thác với tình cho xong.
                "Tông đường chút chửa cam lòng,
                "Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
                1955./ "Thẹn mình đá nát vàng phai,
                "Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?"
                Nàng rằng: "Chiếc bách sóng đào,
                "Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
                "Chút thân quằn quại vũng lầy,
                1960./ "Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
                "Cũng liều một giọt mưa rào,
                "Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
                "Xót vì cầm đã bén dây,
                "Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
                1965./ "Liệu bài mở cửa cho ra,
                "Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!"
                Sinh rằng: "Riêng tưởng bấy lâu,
                "Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
                "Nữa khi giông tố phũ phàng,
                1970./ "Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây.
                "Liệu mà xa chạy cao bay,
                "Ái ân ta có ngần này mà thôi!
                "Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
                "Biết bao giờ lại nối lời nước non?
                1975./ "Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
                "Con tằm đến thác cũng còn vương tơ!"
                Cùng nhau kể lể sau xưa,
                Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
                Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
                1980./ Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
                Nhận ngừng, nuốt tủi, đứng ra,
                Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
                Cười cười, nói nói ngọt ngào,
                Hỏi: "Chàng mới ở chốn nào lại chơi?"
                1985./ Dối quanh Sinh mới liệu lời:
                "Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh."
                Khen rằng: "Bút pháp đã tinh,
                "So vào với thiếp Lan đình nào thua!
                "Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
                1990./ "Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!"
                Thiền trà cạn nước hồng mai,
                Thong dong nối gót thư trai cùng về.
                Nàng càng e lệ ủ ê,
                Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.
                1995./ Hoa rằng: "Bà đã đến lâu,
                "Nhón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.
                "Rành rành kẽ tóc chân tơ,
                "Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
                "Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
                2000./ "Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
                "Ngăn tôi đứng lại một bên,
                "Chán tai rồi mới bước lên trên lầu."
                Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
                "Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
                2005./ "Ấy mới gan ấy mới tài,
                "Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
                "Người đâu sâu sắc nước đời,
                "Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
                "Thực tang bắt được dường này,
                2010./ "Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
                "Thế mà im chẳng đãi đằng,
                "Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
                "Giận dầu ra dạ thế thường,
                "Cười này mới thực khôn lường hiểm sâu!
                2015./ "Thân ta ta phải lo âu,
                "Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
                "Ví chăng chắp cánh cao bay,
                "Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
                "Phận bèo bao quản nước sa,
                2020./ "Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
                "Chỉn e quê khách một mình,
                "Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!"
                Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
                Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
                2025./ Bên mình giắt để hộ thân,
                Lần nghe canh đã một phần trống ba.
                Cất mình qua ngọn tường hoa,
                Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
                Mịt mù dặm cát đồi cây,
                2030./ Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
                Canh khuya thân gái dặm trường,
                Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!


                Chú giải:

                1937. Gác kinh: Cái gác viết kinh, chỉ chỗ ở của Kiều.
                Viện sách: Tức thư viện, phòng đọc sách, chỉ chỗ ở của Thúc sinh.
                1940. Vấn an: Hỏi thăm sức khoẻ.
                1944. Áo xanh: Do chữ thanh sam, chỉ thứ áo xanh mà các nhà nho sĩ xưa thường mặc.
                1950. Cát lầm ngọc trắng: ý nói Kiều như "ngọc trắng" mà bị cát vùi dập.
                1953. Tông đường: Nhà tổ tông. Ở đây dùng với nghĩa: "nối dõi tông đường". Ý nói Thúc sinh nghĩ mình chưa có con trai để nối dõi tông đường.
                1969. Dông tố: Cơn mưa to gió lớn, ở đây chỉ sự giận giữ ghê gớm của Hoạn thư.
                1987. Bút pháp: Phép viết chữ.
                1988. Thiếp Lan - đình: Do chữ Lan-đình thiếp là bản bút tích rất tốt của nhà văn Vương Hy Chi, đời Tần.
                1991. Thiền trà: Nước trà của nhà chùa.
                Hồng mai: Gỗ cây mai già dùng để nấu làm nước uống, sắc nước đỏ hồng, nên gọi là hồng mai.
                1992. Thư trai: Nhà đọc sách, cũng như thư viện.
                2008. Bó tay: Chữ hán là thúc thủ. Đặt hai chữ "bó tay" sau chữ "Thúc" là một cách chơi chữ của tác giả.
                2011. Đãi đằng: ở đây lại có nghĩa là nói năng, làm ầm ĩ lên.
                2014. Cổ nhân có câu: Nộ giả thường tình, tiếu giả bất khả trắc, nghĩa là: Giận dữ là thói thường, cười thì không thể lường được. Câu này dùng ý ấy.
                2018. Câu này ý nói: Bị giam giữ ở đây lâu, thế nào cũng có ngày mình bị hành hạ điêu đứng hơn, hoặc bị trừ khử.
                2020. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ thân phận của mình như cánh bèo trên mặt nước, ở đâu thì cũng là lênh đênh cả, không còn quản gì.
                2024. Kim ngân: Vàng bạc, chỉ các đồ thờ như chuông, khánh đúc bằng vàng bạc.



                Comment


                • #9
                  Hết phần 4

                  Nghe tiếp Truyện Kiều:
                  Diễn đọc Truyện Kiều phần 1
                  Diễn đọc Truyện Kiều phần 2
                  Diễn đọc Truyện Kiều phần 3
                  Diễn đọc Truyện Kiều phần 5
                  Diễn đọc Truyện Kiều phần 6
                  Diễn đọc Truyện Kiều phần 7



                  Last edited by Thu Hiền; 27-07-2008, 12:33 AM.

                  Comment

                  Working...
                  X