Nguyễn Công Trứ tự là Tôn Chất , hiệu là Ngô Trai , biệt hiệu Hy Văn . Ông la` người làng Uy Viễn , , huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh .Nguyễn Công Trứ sinh đúng vào ngày đầu năm năm Mậu Tuất ( 1778 ) .
Con đường thi cử của Nguyễn Công Trứ khá lận đận , năm 42 tuổi ông mới đỗ giải Nguyên . Con đường hoạn lộ của ông cũng lắm thăng trầm : hai lần bị giáng chức , một lần cách tuột làm lính . Tuy nhiên võ công của ông vô cùng hiển hách , khi Nam , khi Bắc , đánh dẹp Phan Bá Vành , Nông Văn Lâm , có lúc đánh giặc ở Cao Miên , nơi đâu cũng tỏ đủ tài thao lược . Ngay cả khi đã già , 80 tuổi thế mà khi nghe quân Pháp bắn phá cửa Ðà Nẵng , Ông vẫn hăm hở dâng sớ xin vua Tự Ðức ra cầm binh chống giữ . Nhưng mọi người nhớ đến Nguyễn Công Trứ nhiều nhất là ông đã có công khai hoang lập ấp ở hai hạt Tiên Hải , Kim Sơn khi làm chức Doanh Ðiền Sứ thời vua Minh Mạng . Người dân ở đây đã lập Sinh từ tôn thờ Ông .
Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ , Ông sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm , chủ yếu là thể thơ Ðường luật và Hát nói . Thơ của Ông giai đoạn đầu hết sức lạc quan của kẽ sĩ có chí hướng “ Phò vua giúp nước “ . Thửa thiếu thời nhà Nho Nguyễn Công Trứ rất nghèo.Trong cảnh túng bần ông đã chuyển sang làm đủ nghề , nào làm thầy địa lý , làm lang băm bốc thuốc , nhưng vụng về trong cách sinh nhai nên đành ẩn nhẫn đợi thời , thơ phú qua ngày .Tuy rất khó khăn nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn lạc quan , ông luôn nuôi trong lòng những hoài bão , ước mơ cao đẹp . Vì thế mỗi lần đi thi là mỗi lần niềm hy vọng lại dâng lên :
Ði không há lẽ lại về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong
Ði thi tự vịnh
Tuy nghèo nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn tự hào về cuộc sống thanh cao của mình , ông luôn giữ phẩm cách trong sạch của mình .Ông là người có khí tiết , dù hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn cương trường vượt qua tất cả để tiến đến sự thành đạt như chí hướng mình hằng đeo đuổi . Tuy sự thành công của tuổi đời hơi muộn nhưng lại chín chắn .
Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến những bài thơ về Chí nam nhi của ông . Khó thể nào quên vị Nho tướng này với những câu :
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
( Chí khí anh hùng )
Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ bắt nguồn từ tâm tính kiêu hùng , hiên ngang của kẻ sĩ đứng trong trời đất . Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách cuộc đời của ông đã minh chứng cho tâm niệm đó . Vì vậy hình ảnh kẻ làm trai của Nguyễn Công Trứ rất sống động và đầy thi vị .
Cái hay của nhà Nho Tướng này là dù trong hoàn cảnh nào ông cũng ca ngợi cái nhàn và sự hành lạc . Ngay khi còn là anh học trò thất cơ lỡ vận cho đến lúc thành đạt . Cái nhàn và sự hưởng lạc luôn theo chân Ông . Kể khi đã già ông vẩn còn dai Càng già ,càng dẽo càng dai ,bảy mươi ba tuổi cưới nàng thiếp mới hai mươi ba .
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trờì trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.
( Thú tiêu dao )
Lòng kiêu hãnh,khí chất đa tình đưa Nguyễn Công Trứ đến sự hành lạc , hưởng thú vui trong cái nhàn , tuy cái nhà của ông kém phần thanh khiết theo Ðạo gia như cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng tài tình phong lưu rất mực .
Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ của thế thái nhân tình , Ông có cái nhìn rất rõ ràng trong cuộc sống . Ghét cay ghét đắng cảnh nhân tâm lung lạc vì đồng tiền :
Ð ..m… nhân tình đã biết rồi ,
Nhạt như nước ốc bạc như vôi .
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược ,
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi .
Trong thế thái nhân tình cái tình cảm của Nguyễn Công Trứ thoạt nhìn ngỡ hời hợt nhưng thật ra lại sâu đậm . Còn trong tình cảm riêng tư của mình Ông lại rất thành thật . Tương tư sầu tình thì ai cũng từng , nhưng cái tương tư của ông hình như được diễn đạt rất dễ dàng :
Tương tư không biết cái làm sao,
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào ?
Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.
Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.
Một nước một non người một ngã,
Tương tư không biết cái làm sao ?
Tương tư
Cái chí khí ngang tàng , tính cách hào hùng và sự tài hoa , phong lưu của Nguyễn Công Trứ đã để lại cho hậu thế cả kho tàng văn thơ , hát nói phong phú . Mười năm cuối đời Nguyễn Công Trứ xin về hưu sống cuộc đời đủng đỉnh lưng bò mà đeo nhạc ngựa . Nguyễn Công Trứ mất ngày 7 tháng 12 năm 1859 .
Phận Anh Nghèo
Nói phô trương nghe cũng giói trai ,
Vì nỗi không tiền hóa dở ngài .
Khôn khéo dễ hầu bưng bít miệng ,
Khen chê thôi cũng gác ngoài tai ,
Tính quen mặt đó đà ghe kẻ ,
Song biết lòng cho dễ mấy ai .
Ðã thế thời thôi thôi mặc thế ,
Ði lâu rồi mới biết đường dài .
Vịnh Cảnh Nghèo
Chẳng phải rằng ngây chẳng phải đần ,
Bởi vì nhà khó hóa bần thần .
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo ,
Nghĩ phận thằng cùng phải biết thân .
Số khá , bĩ rồi thời lại thái ,
Cơ thường đông hết hẳn sang xuân .
Trời đâu riêng khó cho ta mãi ,
Vinh nhục dù ai cũng một lần .
Than Cảnh Nghèo
Vốn hễ anh hùng mới có nghèo ,
Sao mà ta lại trải trăm chiều ?
Trái mùa nghiệp cũ không nên bỏ ,
Ế chợ , nghề nhà cũng phải theo .
Những giữ miệng ðà không muốn nói ,
Làm sao bụng lại cứ thường trêu .
Suy ra mới biết rằng hay dở ,
Kể trước như ta dáng cũng nhiều .
Tết Nhà Nghèo
Tết nhất anh ni ai nói nghèo ,
Nghèo mà lịch sự ðố ai theo .
Bánh chưng chất chật chừng ba chiếc ,
Rượu thuốc ngâm ðầy ðộ nửa siêu .
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo ,
Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu .
Ai xuân anh cũng chơi xuân với ,
Chung ðỉnh ơn vua ngày tháng nhiều .
Vui Cảnh Nghèo
Bần tiện song le tính vốn lành
Gặp sao hay vậy dám đành hanh .
Phím đàn níp sách là nghề cũ ,
Quạt gió đèn trăng ấy của riêng .
Nhân nghĩa tước trời thì phải giữ ,
Lợi danh đường nhục cũng nên kinh .
Tin xuân đã có cành mai đó ,
Chẳng lịch song mà cũng biết giêng .
Thế Tình Ðen Bạc
Vận chuyển cơ trời nghĩ cũng mầu ,
Chắc rằng ai đói , chắc ai giàu .
Kể đâu miệng thế khi yêu ghét ,
Ðược mấy lòng người có trước sau .
Cuối tết mới hay rằng sớm muộn ,
Giữa vời sao đã biết nông sâu ?
Hãy xem trời đất thời liền rõ ,
Dầu nắng dầu mưa có mãi đâu !
Hàn Nho Phong Vị Phú
Chém cha cái khó ,Chém cha cái khó ,
Khôn khéo mấy ai ,xấu xa một nó ,
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
Bốn vách tường mo,ba gian nhà cỏ .
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,trước cửa nhện giăng màn gió .
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối giũi quanh co,
Góc tường đất, trùn lên lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu,
Đầu giàn, chuột khóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi : võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất : dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn , cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon !
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của !
Đồ chuyên trà , ấm đất sứt vòi ,
Cuộc uống rượu , be sành chắp cổ .
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng , pho sách gác đầu giàn, gián nhấm nhăm nhăm dấu , thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền , lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc , khoai vừa một giỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ !
Đến bữa , chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ , lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó .
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu “ ý dã “, thế nào cho đáng giá lương y ?
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ “ dũng như “, phép chi được nổi danh pháp chủ ?
Quẻ dã hạc , toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ bể, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chưa chỗ.
Buôn bán , rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh,mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Trương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ ?
Đến lúc niên chung nguyệt quý , lấy chi tiêu đồng nợ đồng công .
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thì to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan trở nghề “ cơ tắc “, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường , mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “ lạc đạo vong bần “,
Gặp anh em , khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “ vi nhân bất phú “.
Tất do thiên, âu phận là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó , ông Hề,
Cần nghiệp Nho , khi tạc bích tụ huynh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ , đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung , xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần , Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải , Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu , ngói đổ .
Mới biết :
Khó bởi tại trời,giàu là có số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
Khuyên Người Ðời
Cho hay thiên hạ khéo xem gương ,
Hễ khó thời thôi , mấy kẻ màng .
Miệng nói , đã đành mua chuyện ghét ,
Tay không , chưa dễ ép người thương .
Khéo khôn , ai cũng tranh phần được ,
Trong sạch , ta thời giữ mực thường .
Ði lại chẳng qua thời với mệnh
Cũng đừng thắc mắc , chớ lo lường .
Vịnh Nhân Tình Thế Thái
Thế thái nhân tình gớm chết thay !
Lạt nồng , trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền , dở cũng hay .
Khôn khéo , chẳng qua ba tấc lưỡi ,
Hẳn hoi , không hết một bàn tay
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây !
Trò Ðời
Một lưng một cốc kém chi mô ,
Cho biết chanh chua khế cũng chua .
Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối ,
Mà tham con giếc tiếc con rô .
Trăm điều đổ tội cho nhà oản ,
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa .
Khó bó cái khôn còn nói khéo ,
Dầu ai có quấy vấy nên hồ .
Thua Bạc
Ngày xuân thong thả tính thờ ơ ,
Thấy chúng chăn trâu đánh cũng ưa .
Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy ,
Bổng chốc lên quan đã sướng chưa !
Ðánh Tổ Tôm
Tổ tôm tên chử gọi “ hà sào “
Ðánh thì không thấp cũng không cao .
Ðược thì vơ cả , thua thì chạy ,
Nào !
Thú Tổ Tôm
Nhân sinh quí thích chí ,
Cuộc ăn chơi chi hơn thú tụ tam ,
Tài kinh luân xoay dọc xoay ngang ,
Cơ điều đạc quân ăn đang đánh .
Gọi một tiếng , người đều khởi kính ,
Dạy ba quân ,ai dám chẳng nhường ?
Cất nếp lên , bốn mặt khôn đương ;
Hạ bài xuống , tam khôi chiếm cả !
Nay gặp hội quốc gia nhàn hạ ,
Nghĩ ăn chơi thú nọ cũng hay ,
Gồm hai văn võ trong tay !
Trách Tình Nhân
Ðứng núi này trông núi nọ cao ,
Nhân tình ơ hỡ biết làm sao ?
Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng ,
Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều .
Non nước nước non ngao ngán nỗi ,
Cỏ hoa hoa cỏ ngẩn ngơ chiều .
Vườn hoa kia để ai rong rả ,
Ong bướm xông pha dáng cũng nhiều .
Cảnh Biệt Ly
Kẻ về người ở ,
Bồi hồi thay lúc phân kỳ !
Khéo quấy người hai chữ tình si ,
Lửa ly biệt bừng bừng không lúc nguội .
Bát ngát trăm đường bối rối ,
Biệt thì dung dị kiến thì nan .
Trót đa mang khúc hát tiếng đàn ,
Nên dan díu mối tình chưa dứt .
Sá nghĩ xa xôi ngàn dặm đất ,
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời .
Khi ra vào tiếng nói giọng cười ,
Một ngày cũng là người tri kỹ .
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ ,
Bài ca ngất ngưỡng
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưỡng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưỡng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưỡng như ông !
Chí nam nhi
Thông minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kì
Trót sinh ra thời phải có chi chi
Chẳng lẽ tiên lưng ba vạn sáu
Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với núi sông
Đi không há lẽ về không !
Vịnh mùa thu
Trời thu phảng phất gió chiều,
Mây về Ngàn Hống buồm treo ráng vàng
Sang thu tiết hơi may hiu hắt,
Cụm sen già lã chã phai hương.
Sương giày giậu trúc đóa hoa vàng,
Son nhuộm non đào cành lá đỏ.
Lãnh vũ như ti trùng chức dạ,
Tình thiên tác chỉ nhạn thư không
Phúc đâu đâu một trận hảo phong,
Trên cung Quảnh xa đưa hương quế,
Giời biếc biếc, nước xanh xanh một vẻ,
Khéo hoá công khéo vẽ nên đồ.
Một năm được mấy mùa thu.
Trống ĐạI Cổ
Bé mọn làm chi những thứ bồng !
Lớn lao thế ấy ghẹo ai rung .
Đôi bên bằng phẳng trời hai mặt ,
Chính giữa tròn xoay nguyệt một vòng .
Hiên bệ gió đưa dùi cắc cắc ,
Giang sơn sấm dậy tiếng tùng tùng .
Huống chưng đất nước đồ sang trọng ,
Đánh giá cho cao lại vẽ rồng .
Cây Cau
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao ,
Một ngày càng môt rấn lên cao ,
Lưng đeo đai bạc sương nào nhuốm ,
Đầu đội tàn xanh nắng chẳng vào .
Buồng chất cháu con khôn xiết kể ,
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào .
Kình thiên một cột giơ tay chống ,
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao .
Cảnh Xa Nhà
Nỗi lo đường kia xiết nói năng ,
Đêm nằm không ngủ biết mần răng .
Đầu cành mấy tiếng chim kêu gió ,
Trước điếm năm canh chó sủa trăng .
Phảng phất lòng quê khôn nén được ,
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng .
Đêm gà eo óc trời chưa rạng ,
Tình tự này ai có biết chăng ?
Tương Tư
Tương tư không biết cái làm sao ?
Muốn vẽ mà chơi vẽ ðược nào !
Khi ðứng , khi ngồi , khi nói chuyện ,
Lúc say , lúc tỉnh , lúc chiêm bao .
Trăng soi trước mắt ngờ chân bước ,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào .
Một nước ,một non , người một ngả ,
Tương tư không biết cái làm sao ?
Bỡn Cô Đào Già
Liếc trong giá đáng mấy mười mươi,
Đem lạng vàng mua mấy tiếng cười .
Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết ,
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi .
Chia đôi duyên nọ đà hơn một ,
Mà nét xuân kia vẹn cả mười .
Vì chút tình duyên nên đặm thắm ,
Khéo làm cho bận khách làng chơi .
LờI Tiểu Thiếp Tự Tình
Buồn sực nhớ đài trăng cảnh cũ ,
Nhờ trượng phu trong dạ bàng hoàng .
Mái tây sơn sương tỏa mấy lần ,
Thân cái nhện không vò mà cũng rối .
Chỉn tại tơ hồng trêu quấy nỗi ,
Há rằng dây đỏ ghét ghen chi .
Chốn cô phòng năn nỉ với cầm chi .
Đường viễn hoạch ngõ hầu tình chăng nhẽ ?
Trong trần thế sầu lây mấy kẻ ,
Giọng Hà Đông thêm cám cảnh cho ai !
Xin cho trời đất lâu dài ,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru ?
Thấu tình chăng , kẻ trượng phu ?
Bỏ Vợ Lẽ Cảm Tác
Mười hai bến nước một con thuyền ,
Tình tự xa xôi đố vẽ nên .
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy ,
Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền .
RồI đây nỏ biết quên hay nhớ ,
Từ đó mà mang nợ với duyên .
Tình ấy trăng kia như biết với ,
Chia làm hai nửa giọi hai bên .
Cầm Kỳ Thi Tửu
I
Trời đất cho ta một cái tài ,
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi .
Dở duyên với rượu khôn từ chén ,
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời .
Cờ sẵn bàn son , xe ngựa đó ,
Đàn còn phím trúc , tính tình đây .
Ai say , ai tỉnh , ai thua được ,
Ta mặc ta mà ai mặc ai .
Cầm Kỳ Thi Tửu
II
Cầm kỳ thi tửu ,
Đường ăn chơi mỗi vẽ mỗi hay .
Đàn năm cung giéo giắt tính tình đây ,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó .
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà .
Thú xuất trần tiên vẫn là ta ,
Sách Hoàng Thạch , Xích Tùng ở cũng đáng !
Thơ rằng : Cầm tứ tiêu nhiên , kỳ tứ sảng ,
Thi hoài lạc hỹ , tửu hoài nồng .
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung ,
Người ở thế dẫu trăm năm là mấy !
Sách có chữ “ Nhân sinh thích chí “,
Đem ngàn vàng chác lấy cuộc đời .
Chơi cho lịch mới là chơi ,
Chơi cho đài các cho người biết tay .
Tài tình dễ mấy xưa nay !
Cầm Kỳ Thi Tửu
III
Thi tửu cầm kỳ khách ,
Phong vân tuyết nguyệt thiên .
Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên ,
Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí .
Thơ một túi gieo văn Đỗ Lý ,
Rượu một bầu rót chén Lưu Linh .
Đàn Bá Nha gảy khúc tính tang tình ,
Cờ Đế Thích đi về xe pháo mã .
Lúc vị ngộ , Vị tân Sằn dã ,
Lấy bút nghiên mà hẹn với non sông .
Xe Thang Văn nhất đáng tao phùng ,
Bao nhiêu nợ tang bồng đem giả hết .
Tri mệnh thức thời duy tuấn kiệt ,
Hữu duyên hà xứ bất phong lưu .
Ngô nhân hà cự hà ưu ?
Trong Trần Mấy Mặt Làng Chơi
Lần lữa tiết xuân dương có mấy ,
Bóng quang âm chơi lấy kẻo già .
Trăm năm trong cõi người ta ,
Xóc sổ tính ngày chơi đà được mấy ?
Thôi thôi chơi cũng là chơi vậy !
Biết mùi chơi chưa dễ mấy người .
Nợ nhà , tình vay một trả mười ,
Duyên hộI ngộ , cũng lừa ba lọc bảy .
Mang tiếng với non sông thời cũng phải ,
Đem ngàn vàng mua lấy tiếng cười ,
Phong lưu cho bõ kiếp người !
Tài Tình
Ai chê rằng đểu cũng oan ,
Cuộc cờ bốn nước , cung đàn một dây .
Thế nhân mạc oán tài tình lụy ,
Không tài tình quang cảnh có ra chi .
Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề ,
Có yến yến hường hường mới thú !
Khi đắc ý mắt đi mày lại ,
Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng .
Nợ phong lưu ai nỡ chối không ,
Duyên tri ngộ nên đeo đẳng mãi .
Thiên vạn khuyến quân mạc quái ,
Nam nhi đáo thử thị hào .
Gẫm tài tình , nào lụy ai nào !
Ai rằng lụy , đây xin chịu cả .
Trong trần thế thiệt là cảnh giả ,
Dứt tài tình chẳng uổng lắm ru .
Xin xin đừng oán mà ngu !
Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Đi
Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật ,
Đã sinh người lại hạn mấy năm .
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc !
LạI mang lấy lợi danh vinh nhục ,
Cuộc đờI kia lắm lúc bi hoan .
E đến khi hoa rữa trăng tàn ,
Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác !
Tế suy vật lý tu hành lạc ,
An dụng phù danh bạn thử thân ,
Song bất nhân mà lạI chí nhân ,
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy .
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy ,
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù !
Nghề chơi cũng lắm công phu .
Duyên Gặp Gỡ
Minh quân lương tướng tao phùng dị ,
Tài tử giai nhân tế ngộ nan .
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên ,
Trong nhất kiến tiền duyên như đã .
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã,
Quân tử đa tình cánh khả lân .
Nọ mấy người tài tử giai nhân ,
Duyên chi thắm bỗng dần dần đưa lại .
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải ,
Đã tình duyên xe lại cũng nên gần .
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân ,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn .
Anh hùng hà xứ bất giang sơn !
Yêu Hoa
Ngồi thử gẫm trăm hoa ai nhuốm ,
Một hoa là riêng một sắc hương .
Khi chưa xuân khép nép bên tường ,
Còn phong nhụy đợi đông hoàng về cáng đáng .
Liễu tía đào hường mai trắng trắng ,
Lan tươi huệ tốt lý xanh xanh .
Thêm hương khi gió lá mưa cành ,
Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím .
Khách thập thúy say màu hoa diễm ,
Đối mặt hoa mà cầm mà kỳ mà tửu mà thi .
Khuyên ai đừng dở cuộc ly phi ,
Trân trọng lấy hương trời cho trọn vẹn .
Hoa với khách như đà có hẹn ,
Ưa màu nào màu ấy là xinh .
Trăm hoa cũng bẻ một cành !
Vịnh Chữ Tình
Cái tình là cái chi chi
Dầu chi chi cũng chi chi vớI tình .
Đa tình là dở ,
Đã mắc vào đố gỡ cho ra ,
Khéo quấy người một cách tinh ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy !
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy ,
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi .
Nực cườI thay lúc phân kỳ ,
Trong chẳng nói biết bao nhiêu biệt lệ .
Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ ,
Càng tài tình càng ngốc càng si .
Cái tình là cái chi chi .
Vịnh Sầu Tình
Sầu ai lấp cả vòng trời ,
Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung ?
Xuân sầu mang mang tắc thiên địa ,
Giống ở đâu vô ảnh vô hình .
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình ,
Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng .
Hỏi trăng gió , gió trăng hờ hững ,
Ngắm cỏ hoa , hoa cỏ ngậm ngùi .
Gươm đoạn sầu , thơ trục muộc đủ rồi ,
Còn lẽo đẽo vô trung sinh hữu .
Dục phá sầu thành tu dụng tửu .
Túy tự túy đảo sầu tự sầu .
Rượu với sầu như gió mã ngưu ,
Trong lai láng biết tránh đâu cho khỏI .
Càng tài tử càng nhiều tình ái ,
Cái sầu kia theo hình ấy mà ra .
Mua sầu tại kẻ hào hoa .
Thú Thanh Nhàn
Nhân trung thụy , giác tam can nhật ,
Vắt chân ngồi với bạn khách cầm ca .
Cuộc tỉnh say bàn rượu chén trà ,
Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống .
Bạch tuyết thanh cao , oanh yến lộng ,
Quân thiều hưởng triệt , cổ chung minh .
Này tiếng đàn tinh tính tinh tình tinh .
Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ .
Cõi nhân sinh thích chí ,
Lúc thái bình hà nhật bất xuân phong .
Của trần hoàn không có có không ,
Kho vô tận không không rồi lại có .
Chữ tài ấy ăn chơi , ở đủ !
Sôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung .
Một mai bẻ quế thiềm cung ,
Trăng đưa đàn nguyệt , sấm rầm trống lôi .
Trăm năm đài các lạ đời !
Vô Cầu
Người ta ở trong phù thế ,
Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên .
Đêm bẩm trời , trời cũng phải khuyên .
Khuyên khuyên chữ “ Anh hùng yên sở ngộ “.
Thơ rằng :” Tạo hoá có ghen chi mệnh số ,
Giang sơn nào oán với văn chương “
Phận tài hoa đành có lúc vẻ vang ,
Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước .
Sóng Vũ lớp sau như lớp trước ,
Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu !
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu ?
Trần ai ai biết công hầu là ai ?
Bao giờ rõ mặt mới hay !
Vịnh Mùa Đông
Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng ,
Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông .
Mây về ngàn Hống đen như mực ,
Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng .
Cảo mực hơi may ngòi bút rít ,
Phím loan cười nhuốm sợi tơ chùng .
Bốn mùa ví những xuân đi cả ,
Góc núi ai hay sức lão tùng .
Tự Thuật
I
Chưa chán ru mà quấy mãi đây ,
Nợ nần dan díu mấy lâu nay .
Mang danh tài sắc cho nên nợ,
Quen thói phong lưu hóa phải vay .
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt ,
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay .
Còn trời còn đất còn non nước ,
Có lẽ ta đâu mãi thế này ?
Tự Thuật
II
Có lẽ ta đâu mãi thế này ?
Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy .
Đã từng tắm gội ơn mưa móc ,
Cũng phải xênh xang hội gió mây .
Hãy quyết phen này xem thử đã ,
Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay !
Xưa nay xuất tử thường hai lối ,
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây .
Tự Thuật
III
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây ,
Điền viên vui thú vẫn xưa nay .
Giang hồ bạn lứa câu tan hợp ,
Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say .
Toà đá Khương công đôi khóm trúc ,
Áo xuân Nghiêm tử một vai cày .
Thái bình vũ trụ càng thong thả ,
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay .
Tự Thuật
IV
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay ,
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy .
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp ,
Trong thú yên hà mặt tỉnh say .
Liếc mắt coi chơi người lớn bé ,
Vểnh rây bàn những chuyện xưa nay .
Của trời trăng gió kho vô tận ,
Cầm hạc tiêu dao đất nước này .
Vịnh Văn Võ
Đoái xem văn võ cả hai hàng ,
Bên văn sang bên võ cũng sang .
Dù tía võng xanh , văn đủng đỉnh ,
Gươm vàng thẻ bạc , võ nghênh ngang .
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ ,
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương .
Gặp hội thái bình văn trước võ ,
Võ đâu dám sánh khách văn chương !
Nhà Thờ Thất Hỏa
Phụng thờ hương khói bấy nhiêu đông ,
Một phút làm nên rạng tổ tông .
Trống đánh vang lừng miền ấp lý ,
Tàn bay giấp giới cõi tây đông .
Làng trên xã dưới đem đầu lại ,
Kẻ ngược người xuôi ngoảnh mặt trông .
Vận hội khi may đen hóa đỏ ,
Làm trai như thế sướng hay không ?
Muộn Thành Đạt
Cảnh muộn đi về nghĩ cũng rầu ,
Trông gương mả thẹn với hàm râu .
Có từng gian hiểm mình càng trí ,
Song lắm phong trần , lụy cũng sâu .
Năm ấy đã qua thời chẳng lại ,
Giống kia có muộn mới còn lâu .
Khi vui giễu cợt mà chơi vậy ,
Tuổi tác ngần này đã chịu đâu !
Đi Thi Tự Vịnh
Đi không há lẽ trở về không ,
Cái nợ cầm thư phải trả xong .
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt ,
Dở đem thân thế hẹn tang bồng .
Đã mang tiếng ở trong trời đất ,
PhảI có danh gì với núi sông .
Trong cuộc trần ai ai dễ biết ,
Rồi ra mới biết mặt anh hùng .
Thế Tình Bạc Bẽo
Đ … mẹ nhân tình đã biết rồi !
Lạt như nước ốc bạc như vôi .
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược ,
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi .
Chân có chẹt rồi thời há miệng ,
Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi .
Dám xin các bác phen này nữa ,
Nấu xáo xin đừng nấu xáo vôi .
Con đường thi cử của Nguyễn Công Trứ khá lận đận , năm 42 tuổi ông mới đỗ giải Nguyên . Con đường hoạn lộ của ông cũng lắm thăng trầm : hai lần bị giáng chức , một lần cách tuột làm lính . Tuy nhiên võ công của ông vô cùng hiển hách , khi Nam , khi Bắc , đánh dẹp Phan Bá Vành , Nông Văn Lâm , có lúc đánh giặc ở Cao Miên , nơi đâu cũng tỏ đủ tài thao lược . Ngay cả khi đã già , 80 tuổi thế mà khi nghe quân Pháp bắn phá cửa Ðà Nẵng , Ông vẫn hăm hở dâng sớ xin vua Tự Ðức ra cầm binh chống giữ . Nhưng mọi người nhớ đến Nguyễn Công Trứ nhiều nhất là ông đã có công khai hoang lập ấp ở hai hạt Tiên Hải , Kim Sơn khi làm chức Doanh Ðiền Sứ thời vua Minh Mạng . Người dân ở đây đã lập Sinh từ tôn thờ Ông .
Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ , Ông sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm , chủ yếu là thể thơ Ðường luật và Hát nói . Thơ của Ông giai đoạn đầu hết sức lạc quan của kẽ sĩ có chí hướng “ Phò vua giúp nước “ . Thửa thiếu thời nhà Nho Nguyễn Công Trứ rất nghèo.Trong cảnh túng bần ông đã chuyển sang làm đủ nghề , nào làm thầy địa lý , làm lang băm bốc thuốc , nhưng vụng về trong cách sinh nhai nên đành ẩn nhẫn đợi thời , thơ phú qua ngày .Tuy rất khó khăn nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn lạc quan , ông luôn nuôi trong lòng những hoài bão , ước mơ cao đẹp . Vì thế mỗi lần đi thi là mỗi lần niềm hy vọng lại dâng lên :
Ði không há lẽ lại về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong
Ði thi tự vịnh
Tuy nghèo nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn tự hào về cuộc sống thanh cao của mình , ông luôn giữ phẩm cách trong sạch của mình .Ông là người có khí tiết , dù hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn cương trường vượt qua tất cả để tiến đến sự thành đạt như chí hướng mình hằng đeo đuổi . Tuy sự thành công của tuổi đời hơi muộn nhưng lại chín chắn .
Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến những bài thơ về Chí nam nhi của ông . Khó thể nào quên vị Nho tướng này với những câu :
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
( Chí khí anh hùng )
Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ bắt nguồn từ tâm tính kiêu hùng , hiên ngang của kẻ sĩ đứng trong trời đất . Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách cuộc đời của ông đã minh chứng cho tâm niệm đó . Vì vậy hình ảnh kẻ làm trai của Nguyễn Công Trứ rất sống động và đầy thi vị .
Cái hay của nhà Nho Tướng này là dù trong hoàn cảnh nào ông cũng ca ngợi cái nhàn và sự hành lạc . Ngay khi còn là anh học trò thất cơ lỡ vận cho đến lúc thành đạt . Cái nhàn và sự hưởng lạc luôn theo chân Ông . Kể khi đã già ông vẩn còn dai Càng già ,càng dẽo càng dai ,bảy mươi ba tuổi cưới nàng thiếp mới hai mươi ba .
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trờì trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.
( Thú tiêu dao )
Lòng kiêu hãnh,khí chất đa tình đưa Nguyễn Công Trứ đến sự hành lạc , hưởng thú vui trong cái nhàn , tuy cái nhà của ông kém phần thanh khiết theo Ðạo gia như cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng tài tình phong lưu rất mực .
Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ của thế thái nhân tình , Ông có cái nhìn rất rõ ràng trong cuộc sống . Ghét cay ghét đắng cảnh nhân tâm lung lạc vì đồng tiền :
Ð ..m… nhân tình đã biết rồi ,
Nhạt như nước ốc bạc như vôi .
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược ,
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi .
Trong thế thái nhân tình cái tình cảm của Nguyễn Công Trứ thoạt nhìn ngỡ hời hợt nhưng thật ra lại sâu đậm . Còn trong tình cảm riêng tư của mình Ông lại rất thành thật . Tương tư sầu tình thì ai cũng từng , nhưng cái tương tư của ông hình như được diễn đạt rất dễ dàng :
Tương tư không biết cái làm sao,
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào ?
Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.
Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.
Một nước một non người một ngã,
Tương tư không biết cái làm sao ?
Tương tư
Cái chí khí ngang tàng , tính cách hào hùng và sự tài hoa , phong lưu của Nguyễn Công Trứ đã để lại cho hậu thế cả kho tàng văn thơ , hát nói phong phú . Mười năm cuối đời Nguyễn Công Trứ xin về hưu sống cuộc đời đủng đỉnh lưng bò mà đeo nhạc ngựa . Nguyễn Công Trứ mất ngày 7 tháng 12 năm 1859 .
Phận Anh Nghèo
Nói phô trương nghe cũng giói trai ,
Vì nỗi không tiền hóa dở ngài .
Khôn khéo dễ hầu bưng bít miệng ,
Khen chê thôi cũng gác ngoài tai ,
Tính quen mặt đó đà ghe kẻ ,
Song biết lòng cho dễ mấy ai .
Ðã thế thời thôi thôi mặc thế ,
Ði lâu rồi mới biết đường dài .
Vịnh Cảnh Nghèo
Chẳng phải rằng ngây chẳng phải đần ,
Bởi vì nhà khó hóa bần thần .
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo ,
Nghĩ phận thằng cùng phải biết thân .
Số khá , bĩ rồi thời lại thái ,
Cơ thường đông hết hẳn sang xuân .
Trời đâu riêng khó cho ta mãi ,
Vinh nhục dù ai cũng một lần .
Than Cảnh Nghèo
Vốn hễ anh hùng mới có nghèo ,
Sao mà ta lại trải trăm chiều ?
Trái mùa nghiệp cũ không nên bỏ ,
Ế chợ , nghề nhà cũng phải theo .
Những giữ miệng ðà không muốn nói ,
Làm sao bụng lại cứ thường trêu .
Suy ra mới biết rằng hay dở ,
Kể trước như ta dáng cũng nhiều .
Tết Nhà Nghèo
Tết nhất anh ni ai nói nghèo ,
Nghèo mà lịch sự ðố ai theo .
Bánh chưng chất chật chừng ba chiếc ,
Rượu thuốc ngâm ðầy ðộ nửa siêu .
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo ,
Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu .
Ai xuân anh cũng chơi xuân với ,
Chung ðỉnh ơn vua ngày tháng nhiều .
Vui Cảnh Nghèo
Bần tiện song le tính vốn lành
Gặp sao hay vậy dám đành hanh .
Phím đàn níp sách là nghề cũ ,
Quạt gió đèn trăng ấy của riêng .
Nhân nghĩa tước trời thì phải giữ ,
Lợi danh đường nhục cũng nên kinh .
Tin xuân đã có cành mai đó ,
Chẳng lịch song mà cũng biết giêng .
Thế Tình Ðen Bạc
Vận chuyển cơ trời nghĩ cũng mầu ,
Chắc rằng ai đói , chắc ai giàu .
Kể đâu miệng thế khi yêu ghét ,
Ðược mấy lòng người có trước sau .
Cuối tết mới hay rằng sớm muộn ,
Giữa vời sao đã biết nông sâu ?
Hãy xem trời đất thời liền rõ ,
Dầu nắng dầu mưa có mãi đâu !
Hàn Nho Phong Vị Phú
Chém cha cái khó ,Chém cha cái khó ,
Khôn khéo mấy ai ,xấu xa một nó ,
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
Bốn vách tường mo,ba gian nhà cỏ .
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,trước cửa nhện giăng màn gió .
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối giũi quanh co,
Góc tường đất, trùn lên lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu,
Đầu giàn, chuột khóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi : võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất : dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn , cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon !
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của !
Đồ chuyên trà , ấm đất sứt vòi ,
Cuộc uống rượu , be sành chắp cổ .
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng , pho sách gác đầu giàn, gián nhấm nhăm nhăm dấu , thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền , lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc , khoai vừa một giỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ !
Đến bữa , chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ , lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó .
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu “ ý dã “, thế nào cho đáng giá lương y ?
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ “ dũng như “, phép chi được nổi danh pháp chủ ?
Quẻ dã hạc , toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ bể, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chưa chỗ.
Buôn bán , rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh,mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Trương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ ?
Đến lúc niên chung nguyệt quý , lấy chi tiêu đồng nợ đồng công .
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thì to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan trở nghề “ cơ tắc “, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường , mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “ lạc đạo vong bần “,
Gặp anh em , khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “ vi nhân bất phú “.
Tất do thiên, âu phận là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó , ông Hề,
Cần nghiệp Nho , khi tạc bích tụ huynh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ , đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung , xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần , Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải , Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu , ngói đổ .
Mới biết :
Khó bởi tại trời,giàu là có số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
Khuyên Người Ðời
Cho hay thiên hạ khéo xem gương ,
Hễ khó thời thôi , mấy kẻ màng .
Miệng nói , đã đành mua chuyện ghét ,
Tay không , chưa dễ ép người thương .
Khéo khôn , ai cũng tranh phần được ,
Trong sạch , ta thời giữ mực thường .
Ði lại chẳng qua thời với mệnh
Cũng đừng thắc mắc , chớ lo lường .
Vịnh Nhân Tình Thế Thái
Thế thái nhân tình gớm chết thay !
Lạt nồng , trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền , dở cũng hay .
Khôn khéo , chẳng qua ba tấc lưỡi ,
Hẳn hoi , không hết một bàn tay
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây !
Trò Ðời
Một lưng một cốc kém chi mô ,
Cho biết chanh chua khế cũng chua .
Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối ,
Mà tham con giếc tiếc con rô .
Trăm điều đổ tội cho nhà oản ,
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa .
Khó bó cái khôn còn nói khéo ,
Dầu ai có quấy vấy nên hồ .
Thua Bạc
Ngày xuân thong thả tính thờ ơ ,
Thấy chúng chăn trâu đánh cũng ưa .
Tưởng làm ba chữ mà chơi vậy ,
Bổng chốc lên quan đã sướng chưa !
Ðánh Tổ Tôm
Tổ tôm tên chử gọi “ hà sào “
Ðánh thì không thấp cũng không cao .
Ðược thì vơ cả , thua thì chạy ,
Nào !
Thú Tổ Tôm
Nhân sinh quí thích chí ,
Cuộc ăn chơi chi hơn thú tụ tam ,
Tài kinh luân xoay dọc xoay ngang ,
Cơ điều đạc quân ăn đang đánh .
Gọi một tiếng , người đều khởi kính ,
Dạy ba quân ,ai dám chẳng nhường ?
Cất nếp lên , bốn mặt khôn đương ;
Hạ bài xuống , tam khôi chiếm cả !
Nay gặp hội quốc gia nhàn hạ ,
Nghĩ ăn chơi thú nọ cũng hay ,
Gồm hai văn võ trong tay !
Trách Tình Nhân
Ðứng núi này trông núi nọ cao ,
Nhân tình ơ hỡ biết làm sao ?
Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng ,
Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều .
Non nước nước non ngao ngán nỗi ,
Cỏ hoa hoa cỏ ngẩn ngơ chiều .
Vườn hoa kia để ai rong rả ,
Ong bướm xông pha dáng cũng nhiều .
Cảnh Biệt Ly
Kẻ về người ở ,
Bồi hồi thay lúc phân kỳ !
Khéo quấy người hai chữ tình si ,
Lửa ly biệt bừng bừng không lúc nguội .
Bát ngát trăm đường bối rối ,
Biệt thì dung dị kiến thì nan .
Trót đa mang khúc hát tiếng đàn ,
Nên dan díu mối tình chưa dứt .
Sá nghĩ xa xôi ngàn dặm đất ,
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời .
Khi ra vào tiếng nói giọng cười ,
Một ngày cũng là người tri kỹ .
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ ,
Bài ca ngất ngưỡng
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưỡng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưỡng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưỡng như ông !
Chí nam nhi
Thông minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kì
Trót sinh ra thời phải có chi chi
Chẳng lẽ tiên lưng ba vạn sáu
Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với núi sông
Đi không há lẽ về không !
Vịnh mùa thu
Trời thu phảng phất gió chiều,
Mây về Ngàn Hống buồm treo ráng vàng
Sang thu tiết hơi may hiu hắt,
Cụm sen già lã chã phai hương.
Sương giày giậu trúc đóa hoa vàng,
Son nhuộm non đào cành lá đỏ.
Lãnh vũ như ti trùng chức dạ,
Tình thiên tác chỉ nhạn thư không
Phúc đâu đâu một trận hảo phong,
Trên cung Quảnh xa đưa hương quế,
Giời biếc biếc, nước xanh xanh một vẻ,
Khéo hoá công khéo vẽ nên đồ.
Một năm được mấy mùa thu.
Trống ĐạI Cổ
Bé mọn làm chi những thứ bồng !
Lớn lao thế ấy ghẹo ai rung .
Đôi bên bằng phẳng trời hai mặt ,
Chính giữa tròn xoay nguyệt một vòng .
Hiên bệ gió đưa dùi cắc cắc ,
Giang sơn sấm dậy tiếng tùng tùng .
Huống chưng đất nước đồ sang trọng ,
Đánh giá cho cao lại vẽ rồng .
Cây Cau
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao ,
Một ngày càng môt rấn lên cao ,
Lưng đeo đai bạc sương nào nhuốm ,
Đầu đội tàn xanh nắng chẳng vào .
Buồng chất cháu con khôn xiết kể ,
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào .
Kình thiên một cột giơ tay chống ,
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao .
Cảnh Xa Nhà
Nỗi lo đường kia xiết nói năng ,
Đêm nằm không ngủ biết mần răng .
Đầu cành mấy tiếng chim kêu gió ,
Trước điếm năm canh chó sủa trăng .
Phảng phất lòng quê khôn nén được ,
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng .
Đêm gà eo óc trời chưa rạng ,
Tình tự này ai có biết chăng ?
Tương Tư
Tương tư không biết cái làm sao ?
Muốn vẽ mà chơi vẽ ðược nào !
Khi ðứng , khi ngồi , khi nói chuyện ,
Lúc say , lúc tỉnh , lúc chiêm bao .
Trăng soi trước mắt ngờ chân bước ,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào .
Một nước ,một non , người một ngả ,
Tương tư không biết cái làm sao ?
Bỡn Cô Đào Già
Liếc trong giá đáng mấy mười mươi,
Đem lạng vàng mua mấy tiếng cười .
Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết ,
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi .
Chia đôi duyên nọ đà hơn một ,
Mà nét xuân kia vẹn cả mười .
Vì chút tình duyên nên đặm thắm ,
Khéo làm cho bận khách làng chơi .
LờI Tiểu Thiếp Tự Tình
Buồn sực nhớ đài trăng cảnh cũ ,
Nhờ trượng phu trong dạ bàng hoàng .
Mái tây sơn sương tỏa mấy lần ,
Thân cái nhện không vò mà cũng rối .
Chỉn tại tơ hồng trêu quấy nỗi ,
Há rằng dây đỏ ghét ghen chi .
Chốn cô phòng năn nỉ với cầm chi .
Đường viễn hoạch ngõ hầu tình chăng nhẽ ?
Trong trần thế sầu lây mấy kẻ ,
Giọng Hà Đông thêm cám cảnh cho ai !
Xin cho trời đất lâu dài ,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru ?
Thấu tình chăng , kẻ trượng phu ?
Bỏ Vợ Lẽ Cảm Tác
Mười hai bến nước một con thuyền ,
Tình tự xa xôi đố vẽ nên .
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy ,
Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền .
RồI đây nỏ biết quên hay nhớ ,
Từ đó mà mang nợ với duyên .
Tình ấy trăng kia như biết với ,
Chia làm hai nửa giọi hai bên .
Cầm Kỳ Thi Tửu
I
Trời đất cho ta một cái tài ,
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi .
Dở duyên với rượu khôn từ chén ,
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời .
Cờ sẵn bàn son , xe ngựa đó ,
Đàn còn phím trúc , tính tình đây .
Ai say , ai tỉnh , ai thua được ,
Ta mặc ta mà ai mặc ai .
Cầm Kỳ Thi Tửu
II
Cầm kỳ thi tửu ,
Đường ăn chơi mỗi vẽ mỗi hay .
Đàn năm cung giéo giắt tính tình đây ,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó .
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà .
Thú xuất trần tiên vẫn là ta ,
Sách Hoàng Thạch , Xích Tùng ở cũng đáng !
Thơ rằng : Cầm tứ tiêu nhiên , kỳ tứ sảng ,
Thi hoài lạc hỹ , tửu hoài nồng .
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung ,
Người ở thế dẫu trăm năm là mấy !
Sách có chữ “ Nhân sinh thích chí “,
Đem ngàn vàng chác lấy cuộc đời .
Chơi cho lịch mới là chơi ,
Chơi cho đài các cho người biết tay .
Tài tình dễ mấy xưa nay !
Cầm Kỳ Thi Tửu
III
Thi tửu cầm kỳ khách ,
Phong vân tuyết nguyệt thiên .
Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên ,
Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí .
Thơ một túi gieo văn Đỗ Lý ,
Rượu một bầu rót chén Lưu Linh .
Đàn Bá Nha gảy khúc tính tang tình ,
Cờ Đế Thích đi về xe pháo mã .
Lúc vị ngộ , Vị tân Sằn dã ,
Lấy bút nghiên mà hẹn với non sông .
Xe Thang Văn nhất đáng tao phùng ,
Bao nhiêu nợ tang bồng đem giả hết .
Tri mệnh thức thời duy tuấn kiệt ,
Hữu duyên hà xứ bất phong lưu .
Ngô nhân hà cự hà ưu ?
Trong Trần Mấy Mặt Làng Chơi
Lần lữa tiết xuân dương có mấy ,
Bóng quang âm chơi lấy kẻo già .
Trăm năm trong cõi người ta ,
Xóc sổ tính ngày chơi đà được mấy ?
Thôi thôi chơi cũng là chơi vậy !
Biết mùi chơi chưa dễ mấy người .
Nợ nhà , tình vay một trả mười ,
Duyên hộI ngộ , cũng lừa ba lọc bảy .
Mang tiếng với non sông thời cũng phải ,
Đem ngàn vàng mua lấy tiếng cười ,
Phong lưu cho bõ kiếp người !
Tài Tình
Ai chê rằng đểu cũng oan ,
Cuộc cờ bốn nước , cung đàn một dây .
Thế nhân mạc oán tài tình lụy ,
Không tài tình quang cảnh có ra chi .
Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề ,
Có yến yến hường hường mới thú !
Khi đắc ý mắt đi mày lại ,
Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng .
Nợ phong lưu ai nỡ chối không ,
Duyên tri ngộ nên đeo đẳng mãi .
Thiên vạn khuyến quân mạc quái ,
Nam nhi đáo thử thị hào .
Gẫm tài tình , nào lụy ai nào !
Ai rằng lụy , đây xin chịu cả .
Trong trần thế thiệt là cảnh giả ,
Dứt tài tình chẳng uổng lắm ru .
Xin xin đừng oán mà ngu !
Chơi Xuân Kẻo Hết Xuân Đi
Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật ,
Đã sinh người lại hạn mấy năm .
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc !
LạI mang lấy lợi danh vinh nhục ,
Cuộc đờI kia lắm lúc bi hoan .
E đến khi hoa rữa trăng tàn ,
Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác !
Tế suy vật lý tu hành lạc ,
An dụng phù danh bạn thử thân ,
Song bất nhân mà lạI chí nhân ,
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy .
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy ,
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù !
Nghề chơi cũng lắm công phu .
Duyên Gặp Gỡ
Minh quân lương tướng tao phùng dị ,
Tài tử giai nhân tế ngộ nan .
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên ,
Trong nhất kiến tiền duyên như đã .
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã,
Quân tử đa tình cánh khả lân .
Nọ mấy người tài tử giai nhân ,
Duyên chi thắm bỗng dần dần đưa lại .
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải ,
Đã tình duyên xe lại cũng nên gần .
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân ,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn .
Anh hùng hà xứ bất giang sơn !
Yêu Hoa
Ngồi thử gẫm trăm hoa ai nhuốm ,
Một hoa là riêng một sắc hương .
Khi chưa xuân khép nép bên tường ,
Còn phong nhụy đợi đông hoàng về cáng đáng .
Liễu tía đào hường mai trắng trắng ,
Lan tươi huệ tốt lý xanh xanh .
Thêm hương khi gió lá mưa cành ,
Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím .
Khách thập thúy say màu hoa diễm ,
Đối mặt hoa mà cầm mà kỳ mà tửu mà thi .
Khuyên ai đừng dở cuộc ly phi ,
Trân trọng lấy hương trời cho trọn vẹn .
Hoa với khách như đà có hẹn ,
Ưa màu nào màu ấy là xinh .
Trăm hoa cũng bẻ một cành !
Vịnh Chữ Tình
Cái tình là cái chi chi
Dầu chi chi cũng chi chi vớI tình .
Đa tình là dở ,
Đã mắc vào đố gỡ cho ra ,
Khéo quấy người một cách tinh ma
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy !
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy ,
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi .
Nực cườI thay lúc phân kỳ ,
Trong chẳng nói biết bao nhiêu biệt lệ .
Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ ,
Càng tài tình càng ngốc càng si .
Cái tình là cái chi chi .
Vịnh Sầu Tình
Sầu ai lấp cả vòng trời ,
Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung ?
Xuân sầu mang mang tắc thiên địa ,
Giống ở đâu vô ảnh vô hình .
Cứ tò mò quanh quẩn bên mình ,
Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng .
Hỏi trăng gió , gió trăng hờ hững ,
Ngắm cỏ hoa , hoa cỏ ngậm ngùi .
Gươm đoạn sầu , thơ trục muộc đủ rồi ,
Còn lẽo đẽo vô trung sinh hữu .
Dục phá sầu thành tu dụng tửu .
Túy tự túy đảo sầu tự sầu .
Rượu với sầu như gió mã ngưu ,
Trong lai láng biết tránh đâu cho khỏI .
Càng tài tử càng nhiều tình ái ,
Cái sầu kia theo hình ấy mà ra .
Mua sầu tại kẻ hào hoa .
Thú Thanh Nhàn
Nhân trung thụy , giác tam can nhật ,
Vắt chân ngồi với bạn khách cầm ca .
Cuộc tỉnh say bàn rượu chén trà ,
Cơn đắc ý thùng thùng đôi tiếng trống .
Bạch tuyết thanh cao , oanh yến lộng ,
Quân thiều hưởng triệt , cổ chung minh .
Này tiếng đàn tinh tính tinh tình tinh .
Thú vui thú ném ngang vành tráng sĩ .
Cõi nhân sinh thích chí ,
Lúc thái bình hà nhật bất xuân phong .
Của trần hoàn không có có không ,
Kho vô tận không không rồi lại có .
Chữ tài ấy ăn chơi , ở đủ !
Sôi kinh rồi đánh miếng đỉnh chung .
Một mai bẻ quế thiềm cung ,
Trăng đưa đàn nguyệt , sấm rầm trống lôi .
Trăm năm đài các lạ đời !
Vô Cầu
Người ta ở trong phù thế ,
Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên .
Đêm bẩm trời , trời cũng phải khuyên .
Khuyên khuyên chữ “ Anh hùng yên sở ngộ “.
Thơ rằng :” Tạo hoá có ghen chi mệnh số ,
Giang sơn nào oán với văn chương “
Phận tài hoa đành có lúc vẻ vang ,
Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước .
Sóng Vũ lớp sau như lớp trước ,
Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu !
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu ?
Trần ai ai biết công hầu là ai ?
Bao giờ rõ mặt mới hay !
Vịnh Mùa Đông
Nghĩ lại thì trời vốn cũng sòng ,
Chẳng vì rét mướt bỏ mùa đông .
Mây về ngàn Hống đen như mực ,
Gió lọt rèm thưa lạnh tựa đồng .
Cảo mực hơi may ngòi bút rít ,
Phím loan cười nhuốm sợi tơ chùng .
Bốn mùa ví những xuân đi cả ,
Góc núi ai hay sức lão tùng .
Tự Thuật
I
Chưa chán ru mà quấy mãi đây ,
Nợ nần dan díu mấy lâu nay .
Mang danh tài sắc cho nên nợ,
Quen thói phong lưu hóa phải vay .
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt ,
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay .
Còn trời còn đất còn non nước ,
Có lẽ ta đâu mãi thế này ?
Tự Thuật
II
Có lẽ ta đâu mãi thế này ?
Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy .
Đã từng tắm gội ơn mưa móc ,
Cũng phải xênh xang hội gió mây .
Hãy quyết phen này xem thử đã ,
Song còn tuổi trẻ chịu đâu ngay !
Xưa nay xuất tử thường hai lối ,
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây .
Tự Thuật
III
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây ,
Điền viên vui thú vẫn xưa nay .
Giang hồ bạn lứa câu tan hợp ,
Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say .
Toà đá Khương công đôi khóm trúc ,
Áo xuân Nghiêm tử một vai cày .
Thái bình vũ trụ càng thong thả ,
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay .
Tự Thuật
IV
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay ,
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy .
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp ,
Trong thú yên hà mặt tỉnh say .
Liếc mắt coi chơi người lớn bé ,
Vểnh rây bàn những chuyện xưa nay .
Của trời trăng gió kho vô tận ,
Cầm hạc tiêu dao đất nước này .
Vịnh Văn Võ
Đoái xem văn võ cả hai hàng ,
Bên văn sang bên võ cũng sang .
Dù tía võng xanh , văn đủng đỉnh ,
Gươm vàng thẻ bạc , võ nghênh ngang .
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ ,
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương .
Gặp hội thái bình văn trước võ ,
Võ đâu dám sánh khách văn chương !
Nhà Thờ Thất Hỏa
Phụng thờ hương khói bấy nhiêu đông ,
Một phút làm nên rạng tổ tông .
Trống đánh vang lừng miền ấp lý ,
Tàn bay giấp giới cõi tây đông .
Làng trên xã dưới đem đầu lại ,
Kẻ ngược người xuôi ngoảnh mặt trông .
Vận hội khi may đen hóa đỏ ,
Làm trai như thế sướng hay không ?
Muộn Thành Đạt
Cảnh muộn đi về nghĩ cũng rầu ,
Trông gương mả thẹn với hàm râu .
Có từng gian hiểm mình càng trí ,
Song lắm phong trần , lụy cũng sâu .
Năm ấy đã qua thời chẳng lại ,
Giống kia có muộn mới còn lâu .
Khi vui giễu cợt mà chơi vậy ,
Tuổi tác ngần này đã chịu đâu !
Đi Thi Tự Vịnh
Đi không há lẽ trở về không ,
Cái nợ cầm thư phải trả xong .
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt ,
Dở đem thân thế hẹn tang bồng .
Đã mang tiếng ở trong trời đất ,
PhảI có danh gì với núi sông .
Trong cuộc trần ai ai dễ biết ,
Rồi ra mới biết mặt anh hùng .
Thế Tình Bạc Bẽo
Đ … mẹ nhân tình đã biết rồi !
Lạt như nước ốc bạc như vôi .
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược ,
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi .
Chân có chẹt rồi thời há miệng ,
Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi .
Dám xin các bác phen này nữa ,
Nấu xáo xin đừng nấu xáo vôi .