Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

ĐiNh HùNg - Những Bài Thơ Không Tuổi

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • ĐiNh HùNg - Những Bài Thơ Không Tuổi

    Thơ, ở cực độ truyền cảm nhất là những câu “nhập thần”. Những câu là châu báu trời cho, những tứ là những kho tàng lộ diện, những vần là điệu nhạc vô biên. Ngày xưa Nghiêm Vũ đời Tống trong Thương Lang Thi Thoại đã viết đại ý, “Ðiểm tuyệt diệu nhất của thơ chỉ có một, đó là nhập thần. Thơ mà đạt tới mức nhập thần thì tận thiện tận mỹ. Và không thể thêm được bất cứ điều gì. Duy chỉ có Lý Bạch, Ðỗ Phủ đạt được thôi còn những người khác hiếm hoi lắm...”

    Với riêng tôi, Ðinh Hùng có những câu thơ hoặc bài thơ “nhập thần” như Nghiêm Vũ diễn tả. Không biết tôi có chủ quan quá độ hay không, nhưng có nhiều bài thơ khi tôi đọc xong như bị lạc vào một thế giới của không gian thời gian nào và ngôn từ không đủ sức để giải thích những cảm giác huyền nhiệm ấy. Ðọc thơ Ðinh Hùng, cảm được những biểu tượng riêng, và nghe và thấy được những ngôn ngữ riêng của bản sắc độc đáo không bị trộn lẫn.

    Ðọc, để thấy cảnh và người, ngôn ngữ và ý tưởng hòa đồng cùng nhau. Bản sắc của cảnh và nội tâm của người như có một tương quan mật thiết, cảnh gợi nên ý, ý gợi nên lời, lời gợi nên cảm... Ðọc bài Ðường Trưa, để thấy một phác họa người qua cảnh, của nỗi buồn mênh mang, đầy cảm xúc:


    “Lá xanh che khuất đường trưa
    Bóng thêu hoa nắng, lưa thưa điểm vàng
    Trời cao lắng xuống trường giang
    Hững hờ thay! Áng mây hàng trôi qua
    Mây kia còn mải nghĩ xa
    Hồ lim dim ngủ chói lòa ánh gương
    Nhạc buồn một điệu thê lương
    Kèn ve nổi tiếng xót thương mấy hồi
    Buổi trưa ngừng giữa lòng tôi
    Ái tình đỏ sắc hoa rơi đầu cành
    Chừng nghe qua bóng lá xanh
    Có chân ai lặng bước nhanh trong sầu?”


    Thơ Ðinh Hùng đầy những khát vọng, của những giấc mơ, của tuổi hoa niên mới lớn, của những bước chân hăm hở vào đời. Thơ xôn xao giấy mực, thơ như tấm lòng trải rộng theo chiều bát ngát đất trời.

    Khi tuổi trẻ, tấm lòng thường rộng mở với những mơ mộng trăng sao. Có một chút không bằng lòng với hiện tại, trí tưởng tượng mở ra đến tận những phương trời. Lúc ấy, thi ca góp vào những cánh tay mở toang khung cửa để mây lồng lộng trời cao và gió phiêu du muôn bến.


    “Khi mới lớn tuổi mười lăm mười bảy
    Làm học trò mắt sáng với môi tươi
    Ta bước lên chân vẫn dạo bên người
    Ngoài cặp sách trần ai coi cũng nhẹ
    Ðời thấp thoáng qua học đường nhỏ bé
    Phố phường vui cuộc sống mới lên hoa
    Ta ngồi nghe những tiếng thị thành xa
    Hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp
    Nắng thuở đó khiến lòng ta hồi hộp
    Ta nhìn cao mới rõ bị giam cầm
    Ôi tiếng nào vang mấy bức tường câm?
    Không khí nặng mơ hồ thầy với bạn
    Ta nhớn lên bước đường không giới hạn
    Có lẽ đâu kìm giữ bởi tay người
    Tuổi hoa hồng - kiêu hãnh của ta ơi
    Tình đã hẹn ở trên đường nắng mới ...”


    Ðọc những câu thơ như thế làm sao mà không xôn xao trong lòng. Thế giới mở ra, ôi sao mênh mông quá! Mê nhất là nhìn theo những cánh chim để trí tưởng tượng vút lên, cao rất cao lên đến đỉnh trời. Ôi tuổi trẻ hơn hớn xanh màu mắt và bồng bềnh bờ tóc bay. Ðọc thơ, để mường tượng một chân dung thi sĩ, nhà thơ Ðinh Hùng. Và cũng để hồi tưởng lại một thời của mình, ở thành phố Sài Gòn tràn đầy kỷ niệm. Những buổi trưa trốn học, nằm lăn trên bãi cỏ xanh, nhìn theo những sợi mây bay lãng đãng trên những ngọn cây dầu cao vút để hồn lơ mơ với giấc mơ, với những tà áo bay bay trong tưởng tượng, của những mắt liếc hẹn hò, của tâm tình xôn xao muốn ngỏ. Ðọc thơ để thấy mình là một chú gà trống ngu ngơ nhưng tưởng như một anh hùng vô địch oai hùng trong cuộc đời và lãng mạn trong cuộc tình. Ðọc thơ, để vô vàn những khao khát nổ bùng, của tưởng tượng về ngày mai, của tràn đầy hoa gấm và nồng hương tình ái...

    Cuộc đời Ðinh Hùng như có một phận số riêng và thi ca cũng có một số phận khác. Cái thể chất ẻo lả cộng thêm tàn phá của nàng tiên nâu làm ông không có tuổi thọ. Thơ của ông, ngược lại, như không có tuổi và với lớp người đọc sau, luôn luôn có sinh động riêng và có đời sống văn chương dài hơn nhiều tuổi thọ.

    Ngày 24 Tháng Tám là ngày giỗ Ðinh Hùng. Ông mất năm 1967, thọ 47 tuổi. Một đời thi sĩ có lẽ khá ngắn nhưng tác phẩm đã có đời sống dài hơn gấp bội. Hai tập thơ “Mê Hồn Ca” và “Ðường Vào Tình Sử” có những bài thơ được coi như là tuyệt tác của một thời kỳ văn chương nở rộ. Chương trình ngâm thơ “Tao Ðàn “ do ông chủ trương với tiếng nói mở đầu truyền cảm đã bao nhiêu năm trở thành một biểu tượng thi ca của miền Nam tự do.

    Với những người làm thơ, Ðinh Hùng có vị trí của một vì sao Bắc Ðẩu. Khi miền Nam bị cộng sản miền Bắc xâm chiếm, nhà thơ Trần Dần đã nhắn vào cho gia đình nhà thơ Vũ Hoàng Chương, “Anh yên tâm, với chúng tôi, thơ của anh và Ðinh Hùng vẫn có giá trị để được trọng vọng như thời tiền chiến...”

    Cũng như về sau, trong cuộc mạn đàm với các văn nghệ sĩ ở Huế, Trần Dần đã xác nhận một lần nữa tấm lòng trân trọng với thơ Ðinh Hùng trong khi Hoàng Phủ Ngọc Tường thì chê rằng thơ “lòe loẹt ghê ghê mùi son phấn thế nào ấy”. Khi được hỏi trong các nhà cầm bút thời tiền chiến thích ai nhất thì Trần Dần trả lời ngay; Vũ Trọng Phụng, Vũ Hoàng Chương và Ðinh Hùng. Và ông khẳng định: Ðinh Hùng là thi sĩ tượng trưng đầu tiên của Việt Nam với tập “Mê Hồn Ca”.

    Ðinh Hùng thi sĩ và Ðinh Hùng nghệ sĩ đã có người tri kỷ là nhà văn Thạch Lam, một người cũng có tuổi thọ khá ngắn nhưng văn chương tài hoa. Ðinh Hùng đã làm bài thơ Gửi Hương Hồn Thạch Lam như muốn sẻ chia tâm sự với người chung mang nỗi niềm tâm sự:


    “Nhớ xưa cùng bóng dạ lan hương
    Anh với tôi nằm mộng canh trường
    Giường kế bên cửa, hoa kề gối
    Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương
    Tôi với anh giường chung mộng chung
    Vì duyên thơ mới có duyên lòng
    Anh buồn tự thuở trăng lên núi
    Ấy độ tôi hoài ước lại mong
    Ai biết lòng anh thương nhớ đâu
    Gần nhau không nói, nói không sầu
    Cầm tay hỏi mộng, buồn như tủi
    Thầm hiểu anh thôi, lặng cúi đầu
    Tôi cảm thương vì hai chúng ta
    Tuổi đang xuân mà bóng sang già
    Ðêm nào tôi mộng buồn riêng gối
    Anh đã nằm yên dưới mộ hoa
    Anh lánh mưa Xuân nép cửa sầu
    Ðêm nằm ghê gió lạnh canh thâu
    Gặp nhau nắm chặt tay lần cuối
    Anh khép hàng mi chẳng nguyện cầu...”


    Thời tiền chiến, giai phẩm Dạ Ðài với sự góp mặt của Trần Dần, Ðinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Ðịch... đã tỏ lộ một khuynh hướng thi ca mới của thơ tượng trưng. Và khuynh hướng này là một khuynh hướng nổi bật của thi ca Việt Nam với các tầm vóc như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Ðinh Hùng, nhóm Xuân Thu Nhã Tập, Chế Lan Viên thời trước 1945...

    Võ Văn Ái, trong tác phẩm “ Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam/1945-1985 “ đã viết về Ðinh Hùng như sau:

    “...Ám ảnh vì cái chết từ lúc bé, Ðinh Hùng hướng về nguồn thơ tượng trưng... Vì tượng trưng là âm bản của thực tại. Như chết là âm bản của sống. Thơ tượng trưng thoát mình, rời xa thực tại đang sống, đi tìm cái khuôn âm bản để xem thực tại ấy có là mặt-mày xưa-nay vốn được đúc nặn từ đầu. Hay chỉ là những tam sao thất bổn? Thơ dựng lên khuôn mặt giai nhân, hoặc dựng lên cái tiền cảm bao quanh, tượng trưng cho khuôn mặt ấy, thì vẫn là niềm thơ như thật của muôn thuở. Ðó là giải thích theo tâm cảnh thơ Việt Nam. Trong thực tế, hầu như tất cả các nhà thơ tiền chiến đều chịu ảnh hưởng của các thi sĩ Pháp, đặc biệt là Beaudelaire, Mallarmé, Rimbaud. Cũng như sau này thi ca miền Bắc chịu ảnh hưởng của các nhà thơ Nga, và miền Nam lại tiếp tục chịu ảnh hưởng các nhà thơ Pháp với những Eluard, Aragon, Jacques Prevert...

    Năm Ðinh Hùng lên 11, chị Tuyết Hồng, hoa khôi Hà Nội, đã tự tử trên hồ Trúc Bạch. Mấy tháng sau thân phụ chàng đau nặng rồi thất lộc. Chị Loan, một người chị khác lại mất ba năm sau. Qua năm 18 tuổi chớm mối tình đầu, Ðinh Hùng yêu một người có họ xa, nhưng người con gái măng tơ và liêu trai này cũng chết. Tập thơ Truyện Lòng in trong Ðường Vào Tình Sử năm 1961 chính là tập thơ đã sáng tác từ năm 1938. Tiếp đến người bạn thân yêu nhất của đời chàng là Thạch Lam cũng bỏ chàng đi năm 42 tuổi vì bệnh lao...

    Bây giờ ta hiểu nỗi chết đã ám ảnh đeo đuổi Ðinh Hùng như hình với bóng, đốt thắp tâm tư chàng. Ðinh Hùng không chạy trốn, chàng hàm dưỡng ngọn lửa ấy cho nguồn thơ tượng trưng...”

    Lúc còn sống, nhà văn Mai Thảo và nhà thơ Nguyên Sa cũng đặc biệt yêu mến thơ Ðinh Hùng. Nhiều lần, nhà văn Mai Thảo đã đọc hầu như gần hết tập thơ Mê Hồn Ca trong những buổi họp mặt văn nghệ. Chắc phải yêu mến lắm nên mới thuộc lòng như vậy. Với phong cách đặc biệt, kèm theo những nhận xét dí dỏm nhưng chính xác, ông đã làm thơ Ðinh Hùng thành một không gian thơ đặc biệt mà mọi người tham dự mãi năm tháng dài về sau không thể quên...

    Nhà thơ Nguyên Sa cũng vậy. Ông thường nói về thơ Ðinh Hùng với tất cả những lời khen tặng. Khi tôi và ông cùng thực hiện tủ sách Tác Giả Tác Phẩm của nhà xuất bản Ðời, cuốn đầu tiên là viết về Ðinh Hùng...

    Nhà văn Tạ Tỵ trong cuốn “ Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Ðã Ði Qua Ðời Tôi” cũng đã phác họa chân dung Ðinh Hùng qua từng thời kỳ, khi trai trẻ đến lúc tham gia dòng thơ tiền chiến, từ lúc kháng chiến rồi hồi cư về Hà Nội, đến khi di cư vào Nam, làm chương trình thi ca Tao Ðàn...

    “...Ðinh Hùng nhìn tôi nhếch mép cười, cái cười ngạo mạn vì lúc gặp Ðinh Hùng lần đầu, tôi là tên ‘mặt trắng’ còn Ðinh Hùng tuy chưa có tác phẩm nhưng đã được nhiều người biết tiếng. Ðây là trường hợp duy nhất của người làm thơ nổi tiếng trước khi có tác phẩm hoặc có nhiều bài đăng tải trên báo chí! Có lẽ thơ của Ðinh Hùng mới quá đi trước thời đại chăng?

    Tôi mỉm cười xã giao bắt tay Ðinh Hùng. Ôi chao bàn tay gì bé và mềm thế, như tay đàn bà! Về sau này tôi được một người bạn cho biết, khi còn học ở trường Bưởi, Hùng cũng rất đẹp trai và ham tập thể thao lắm, đã bơi ngang Hồ Tây, tuy nhỏ nhưng thân hình cân đối và thi sĩ Huyền Kiêu, người bạn cùng lớp học đã mê Hùng như mê người tình, giống như trường hợp Xuân Diệu Huy Cận vậy. Ngoài tài làm thơ, Ðinh Hùng còn chơi nhạc, đánh đàn mandoline, những khúc nhạc của Mozart, Beethoven, và Beach rất hay. Hùng cũng biết vẽ lăng nhăng và chữ viết rất bay bướm. Khi học trường Bưởi, Ðinh Hùng phụ trách báo tay cùng với thi sĩ Huyền Kiêu. Ðinh Hùng ở một căn gác nhỏ trên đê Yên Phụ gần Ngọc Hà và bài thơ ‘Xin Hãy Yêu Tôi’ có những câu... ‘Tôi mở sẵn một phòng sầu bé nhỏ. Riêng một đèn, một gối một tình yêu... ’ ’ là chính căn gác này đã tạo cho thi nhân nguồn cảm hứng đó. Từ đầu đề yên phụ, buổi tối nào ‘đi xóm’ (tức đi hát cô đầu) thì thôi, còn không Ðinh Hùng cuốc bộ từ đó đến tiệm hút sau đền Bà Kiệu, phía bên Hồ Hoàn Kiếm, để họp bạn cùng vui thú yên hà. Ðinh Hùng năm ấy (1940-1941) hãy còn trẻ lắm, mới trên dưới 20 tuổi mà đã đam mê gắn bó với Phù Dung tiên nữ, dưới ánh đèn, mặt Hùng tái xanh, riêng đôi mắt sáng long lanh biểu lộ sự thông minh tuyệt vời...”

    Riêng tôi, đọc hai tập thơ Mê Hồn Ca và Ðường Vào Tình Sử, đời sống có phảng phất của sương khói mơ hồ của kiếp khác. Thơ, là những bước chân đi trong những ảo tượng để trí tưởng tượng như những vỗ cánh khởi hành vào cõi mênh mang của kiếp nhân sinh.

    Thơ Ðinh Hùng là bước chân về nguyên thủy. Ở đó, trời đất hoang vu, kiếp người quạnh quẽ. Sống hờ hững đôi khi trải theo tâm sự từ thức về trần, đi tìm lại quá khứ trong tiềm thức xôn xao cảm giác. Ngôn ngữ, là vang vọng của tấm lòng yếm thế, của lòng rời rã tự tình, để thoảng vẽ ra, những đôi mắt nhìn sang cõi bờ khác lạ, của một chân trời mà thực và mộng chen lẫn vào nhau.

    Thi ảnh của Mê Hồn Ca, của tiếng ca bộ lạc, đầy những biểu tượng của núi non, của gió tuyết, của cỏ hoa tịch mịch, mỗi mỗi là hình dáng của mơ hồ, của sự liên tưởng nâng lên cao độ. Thi ảnh của Ðường Vào Tình Sử tương đối gần cận cuộc sống hơn, có thêm sinh khí của tình yêu thiết tha, của những tấm lòng mở ra và ngỏ với mọi người. Ngôn ngữ thơ có nhiều ảnh tượng có lẽ quen thuộc với cảm quan mà vẫn có sức lôi kéo từ những vị trí đắc địa cũng như những cánh cửa mở ra những chân trời và những phận người. Thơ, như những nét bút vờn. Thơ, là thi sĩ miệt mài đi trên con đường tìm kiếm lại chính mình, cái bản ngã có nét bàng bạc trong bức tranh nhân sinh mờ tỏ, có lúc rờn rợn màu trắng mênh mông, của trang giấy trinh bạch, của nỗi niềm mù khơi đến tận vô cùng.


    Ðọc những câu thơ như:


    “Rồi những đêm sâu bỗng hiện về
    Vượn lâm tuyền khóc rộn sương khuya
    Ðâu đây u uất hồn sơ cổ
    Từng bóng ma rừng theo bước đi...”


    Chúng ta sẽ cảm thấy gì? Cũng những ngôn ngữ có hơi quen thuộc đến có thể hơi sáo mòn. Nhưng kỳ lạ, có sức lôi kéo của những ý tưởng nảy từ bùa chú linh thiêng. Con đường đi, chập chùng thực mộng. Trí tưởng bỗng man mác, mênh mông ...


    “Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ
    Và chân bước nghe chuyển rung đồi suối
    Lá cỏ sắc vương đầy trên tóc rối
    Ta khoác vai manh áo đẫm hương rừng...”


    Có phải thơ là phần ăn cách riêng của những người quen đơn độc, của những góc tối mà con người nương náu vào đó cho hết một kiếp người. Trong nỗi buồn có niềm kiêu hãnh, trong ngày nắng có lẫn những canh khuya.

    Có người nói thơ Ðinh Hùng có những đóa hoa vô hình vô ảnh nhưng lại mường tượng được từ những phác họa tài tình. Người đẹp, có khi chỉ là nét trầm khuất xa xôi. Những mối tình, là thiên cổ không phai, là giấc miên viễn hiu hắt cùng trời và đất. Lời tình tự như ngõ vào hư không. Mây gió cuộn một thời phong vũ.


    “Khuya sớm tìm sang lối tuyết trinh
    Lầu xuân hoa dựng ngọc liên thành
    Lệ in bóng núi mờ nhân ảnh
    Mây đó về đâu có gặp mình?
    Thương nước vô danh người mộng ảo
    Ta cười một nét vẽ hư linh
    Áo xiêm đã ố màu tang hải
    Em thoát xiêm đi, hiện dáng tình...”


    Em, có phải là hình bóng của yêu tinh, của đam mê đã lan cả đến cỏ cây hoa lá? Em, có phải là giọt máu loang huyết lệ, của những mối tình thiên cổ không phai?


    “...Hỡi kỹ nữ, em có lòng tàn ác
    Ta vẫn gần, ôi, sắc đẹp yêu ma
    Lúc cuồng si, ta nguyền rủa cả đàn bà
    Ta ôm ngực nghe trái tim trào huyết
    Ta sẽ chết, sẽ vì em mà chết
    Một chiều nào tắt thở giữa môi hôn
    Ta hái trong em lấy đóa hoa hồn...”


    Em, có phải là thần tượng lên ngôi? Em, có phải ta đã biến hình thành tên nô lệ? Trong thi ca, là định mệnh trái oan, là ngôn ngữ của người lạc lõng trên con đường tháng năm của thời gian biền biệt.


    “...Ta run sợ cho yêu là mệnh số
    Mặc tay em định hộ kiếp ngàn sau
    Vì người em có bao pháp nhiệm mầu
    Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc
    Ta đặt em lên ngai thờ nữ sắc
    Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da
    Buổi em về xác thịt tẩm hương hoa
    Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết...”


    Mê Hồn Ca, là:


    “Yểu điệu phương Ðông lướt dưới đèn
    Ta nằm mộng đẹp đêm thần tiên
    Dáng xuân nghiêng mắt cười không tiếng
    Lửa hạ lên rồi- ôi Ý Liên...”


    Mê Hồn Ca, là:


    “Qua xứ ma sầu ta mất trí
    Thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền
    Trời ơi! Trời ơi! Làn tử khí
    Lạc lõng hương thầm đóa Bạch Liên...”


    Mê Hồn Ca, là khuôn trời Liêu Trai, là những đêm âm phần trộn lẫn với trưa dương thế. Thì Ðường Vào Tình Sử khác hơn, là những bài thơ tình của miên viễn chiêm bao, của những môi hôn trong mộng, của man mác hương trinh. Mộng vẫn còn, mê ảo nhưng thực đã có da có thịt trong ngôn ngữ tình yêu.


    “Khi tóc Mùa Xuân buông dài trước cửa
    Khi nắng chiêm bao khẽ chớp làn mi
    Khi những con thuyền chở mộng ra đi
    Giấc mộng phiêu lưu như bầy hải điểu
    Kỷ niệm trở về nắm tay nhau hiền dịu
    Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình
    Anh sẽ tìm em như tìm một hành tinh
    Mặc trái đất sắp tan vào mộng ảo...”


    Êm đềm hơn, bài hát Mùa Thu:


    “Hôm nay có phải là Thu
    Mây năm xưa đã phiêu du trở về
    Cảm vì em bước chân đi
    Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn
    Ai về xa mãi cô thôn
    Một mình trong khói hoàng hôn nhớ nhà
    Ngày em mới bước chân ra
    Tuy rằng cách mặt lòng ta không sầu
    Nắng trôi- vàng chảy về đâu
    Hôm nay mới thực bắt đầu vào Thu...”


    Thơ tình, đã từ mênh mang khói sương của Mê Hồn Ca đã trở về thực tại trong Ðường Vào Tình Sử. Tâm hồn, mỗi lúc mỗi khác trong lộ trình tìm cái vĩnh cửu. Thơ ấp ủ ước muốn bất tử, để sau xưa trùng hợp, và nỗi niềm mang nặng từ lúc hoang sơ chuyển hóa lại thành thời khắc bây giờ. Có lúc “xoay nhỡn tiền lại ngắm hiện thân” nhưng cũng có lúc “ta, suốt đời ngư phủ thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh.” Làm thơ cho Ý Liên, Bạch Liên, Diệu Hương, Hoài Ðiệp... có người còn kiếp dương trần nhưng có người là phảng phất hồn ma bóng quế, là huyền ảo ẩn ức thành ngôn ngữ thi ca, để lẫn lộn mộng thực. Nếu có chữ thần tượng viết hoa, thì có lẽ Ðinh Hùng là người tột cùng nâng niu cho từ ngữ ấy. Ðọc thơ ông, để tâm trí bềnh bồng, ký ức phiêu du trên những nẻo đường mơ hồ. Có khi, trăng sao là hiện thân của giọt máu hồng tinh huyết để tình yêu chuyển đổi từ vùng cảm giác của bộ xương khô đến vóc dáng của một làn da, một mái tóc...

    Thơ tượng trưng, sao từ sương khói quay ngoặt về thực tại, có phải vì trái tim đã đánh thức dậy những cảm quan từ bộ óc mơ màng không cân phân thực mộng? Nếu nói thơ là biểu hiện của niềm si đắm thì Mê Hồn Ca và Ðường Vào Tình Sử là những phiến kinh xưng tụng để đời!!



    Nguyễn Mạnh Trinh

  • #2
    có bài thơ cũng khá nổi tiếng của Đinh hùng.. chắc Bụi biết An nhớ khg biết đúng tựa khg.. tựa đề là Gửi người dưới mộ
    Trời cuối thu rồi em ở đâu?
    Nằm sâu dưới mộ.. chắc em sầu...
    Thu ơi.. đánh thức hồn ta dậy..
    Để ta vào thăm.. đáy mộ sâu.

    Đinh hùng và 1 người nữa khá nổi tiếng đó là ông nhà thơ Vũ Hoàng Chương..Vu Hoang Chương lấy chị ruột của Đinh hùng...( anh rể đó ) ông này cũng có 1 bài thơ mà rất nhiều người biết.. đó là bài.. Đời vắng em rồi..
    Gặp gở chừng như... chuyện liêu trai...
    Ra đi.. chẳng biết.. một ngày mai...
    Em ơi.. lữa tắt.. bình khô rượu....
    Đời vắng em rồi.. say (vui) với ai.

    An chỉ nhớ trong đầu vài chi tiết về Đinh hùng như vậy.. đúng hay sai.. xin các anh chị chỉ bảo lại dzùm.. cám ơn ạ

    Comment


    • #3
      Nguyên Văn Bài Viết Của Hoaian76 View Post
      có bài thơ cũng khá nổi tiếng của Đinh hùng.. chắc Bụi biết An nhớ khg biết đúng tựa khg.. tựa đề là Gửi người dưới mộ
      Trời cuối thu rồi em ở đâu?
      Nằm sâu dưới mộ.. chắc em sầu...
      Thu ơi.. đánh thức hồn ta dậy..
      Để ta vào thăm.. đáy mộ sâu.

      Đinh hùng và 1 người nữa khá nổi tiếng đó là ông nhà thơ Vũ Hoàng Chương..Vu Hoang Chương lấy chị ruột của Đinh hùng...( anh rể đó ) ông này cũng có 1 bài thơ mà rất nhiều người biết.. đó là bài.. Đời vắng em rồi..
      Gặp gở chừng như... chuyện liêu trai...
      Ra đi.. chẳng biết.. một ngày mai...
      Em ơi.. lữa tắt.. bình khô rượu....
      Đời vắng em rồi.. say (vui) với ai.

      An chỉ nhớ trong đầu vài chi tiết về Đinh hùng như vậy.. đúng hay sai.. xin các anh chị chỉ bảo lại dzùm.. cám ơn ạ
      Bài này anh nghe Bố và Chú hay ngâm từ khi anh còn bé lắm:

      Gửi Người Dưới Mộ


      Đinh Hùng


      Trời cuối thu rồi -- Em ở đâu ?
      Nằm bên đất lạnh chắc em sầu ?
      Thu ơi ! Đánh thức hồn ma dậy,
      Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu.

      Em mộng về đâu ?
      Em mất về đâu ?
      Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu,
      Đấy màu hương khói là màu mắt xưa.

      Em đã về chưa ?
      Em sắp về chưa ?
      Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ
      Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn.

      Em hãy cười lên vang cõi âm,
      Khi trăng thu lạnh bước đi thầm.
      Những hồn phiêu bạt bao năm trước,
      Nay đã vào chung một chỗ nằm.

      Cười lên em !
      Khóc lên em !
      Đâu trăng tình sử,
      Nép áo trần duyên ?
      Gót sen tố nữ
      Xôn xao đêm huyền.
      Ta đi, lạc xứ thần tiên,
      Hồn trùng dương hiện bóng thuyền U Minh.

      Ta gởi bài thơ anh linh,
      Hỏi người trong mộ có rùng mình ?
      Nắm xương khô lạnh còn ân ái ?
      Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình ?

      Hỡi hồn tuyết trinh !
      Hỡi người tuyết trinh !
      Mê em, ta thoát thân hình,
      Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm.

      Em có vui thêm ?
      Em có buồn thêm ?
      Ngồi bên cửa mộ,
      Kể cho ta biết nỗi niềm.

      Thần chết cười trong bộ ngực điên,
      Ta nghe em thở tiếng ưu phiền.
      Nỗi lòng xưa dậy tan Thanh Vắng.
      Hơi đất mê người -- Trăng hiện lên.


      Đúng là bài thơ bi thương nổi tiếng của thi sĩ Đinh Hùng khóc vợ đó Em!
      Anh.
      Last edited by Cuxatudo; 23-01-2008, 12:05 AM.
      Kẻ a dua với bạo quyền đã chối bỏ tư cách làm "NGƯỜI" của hắn ta! cxtd

      Comment


      • #4
        Còn đây là:

        Đời Vắng Em Rồi
        Vũ Hoàng Chương


        Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
        Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu
        Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
        Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau

        Trai lỡ phong vân gái lỡ tình
        Này đêm tri ngộ xót điêu linh
        Niềm quê sực thức lòng quan ải
        Giây phút dừng chân cuộc viễn trình.


        Tóc xõa tơ vàng nệm gối nhung
        Đây chiều hương ngát lả hoa dung
        Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo
        Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.


        Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
        Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
        Nắng mưa đã trải tình nhân thế
        Lưu lạc sầu chung mộng hướng say


        Gặp gỡ chừng như truyện Liễu Trai
        Ra đi chẳng hứa một ngày mai
        Em ơi lửa tắt bình khô rượu
        Đời vắng em rồi say với ai ?


        Phương Âu mờ mịt lối quê nàng
        Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
        Ghé bến nào đây người hải ngoại
        Chiều sương mặt bể có mơ màng.


        Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
        Mà đây lòng trắng một mùa đông
        Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
        Thoảng gió trà mi động mấy bông.


        Xong, thôi đu nghỉ!
        Yêu dấu,
        Anh.
        Kẻ a dua với bạo quyền đã chối bỏ tư cách làm "NGƯỜI" của hắn ta! cxtd

        Comment


        • #5
          Thanks sis HA đã cho biết thêm về nhà thơ ĐH nha ... Bụi có search thấy nhà thơ VHC cũng có nhiều thơ hay lắm đó ... rãnh chút Bụi sẽ tha về ... Bụi thích cí tên của him nhất : Vũ Hoàng Chương .... nghe so cool hén sis

          Thanks anh CXTD đã tha thêm 2 bài thơ về nha

          Comment

          Working...
          X