Tiểu Sử Nhất Linh
Thụy Khuê biên soạn
Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam (1), sinh ngày 25 tháng 7 năm 1906, tại huyện Cẩm Giành tỉnh Hải Dương, trong một gia đình sáu trai, một gái . Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy, là công chức không dính líu đến văn nghệ và chính trị, từ ngườ anh thứ hai Nguyễn Tường Cẩm, mất tích ở gần Hà Nội, đến Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Tứ Ly Hoàng Đạo - Nguyễn Tường Long, Nguyễn thị Thế, Thạch Lam Nguyễn Tường Long và bác sĩ Nguyễn Tường Bách đều là những người tham dự vào văn chương . Nguyễn thị Thế và Nguyễn Tường Bách viết hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, và năm anh em Nhất Linh có đóng góp tích cực trong việc quản trị báo chí và nhà in của Tự Lực Văn Đoàn.
Thích văn chương từ nhỏ, năm 16 tuổi Nhất Linh làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi, có bài Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều trong Nam Phong Tạp Chí .
Cuối năm 1923 đậu bằng Cao Tiểu . Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên làm thư ký sở tài chính Hà Nội, kết duyên văn nghệ với Tú Mỡ Trọng Hiếu, viết Nho Phong. Lấy vợ và theo cao đẳng. Lúc đầu, năm 1924 học thuốc được một năm thì bỏ, chuyển sang Mỹ Thuật được một năm cũng bỏ.
1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu, Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh, hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ, và tìm đường đi du học.
1927 du học Pháp. Đậu cử nhân khoa học. Ở Pháp ông nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản.
1930 trở về nước. Nhất Linh cùng hai em là Hoàng Đạo và Thạch Lam xin ra tờ báo trào phúng Tiếng Cười, nhưng thiếu tiền chưa ra được báo thì giấp phép quá hạn, bị rút.
Từ 30 đến 32, Nguyễn Tường Tam dạy tư ở các trường Thăng Long và Gia Long. Ở đây ông quen với Trần Khánh Giư Khái Hưng. Sẵn có tờ Phong Hóa của giáo sư Phạm Hữu Ninh vừa đình bản, Nhất Linh mua lại và tục bản tờ Phong Hóa.
Kể từ ngày 22 tháng 9 năm 1932, báo Phong Hóa ra tám trang lớn, chú trọng về văn chương và trào phúng, tạo ra ba nhân vật điển hình: Xã Xệ, Lý Toét và Bang Bạnh.
Tự Lực Văn Đoàn được thành lập năm 1933 với bảy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Tú Mỡ, Nguyễn Gia Trí và Thế Lữ. Về vai trò lãnh đạo của Nhất Linh, Tú Mỡ kể lại:
"Anh Tam thuê một cái nhà ở ấp Thái Hà để mấy anh em làm việc. Tôi đi làm thì chớ, về đến bàn bạc về cái tôn chỉ của nhà báo và soạn bài vở dự bị cho đủ in trong sáu tháng. Anh Tam vừa viết, vừa vẽ. Anh đặt mục này, mục nọ, giao cho mọi người. Anh có lối làm việc rất khoa học. Anh đã gioa cho ai viẹc gì thì chỉ có chuyên việc ấy. Nhiều lúc tôi muốn viết bài thuộc về loại khác, anh khuyên chỉ nên chuyên về một lối. Tôi có thể nói, anh Tam là người đã tạo ra Tú Mỡ vậy" (2)
Năm 1936 Phong Hóa bị đóng cửa vì Hoàng Đạo viết bài châm biếm Hoàng Trọng Phu.
Tờ Ngày Nay - trước ra kèm vớ Phong Hóa - tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nhất Linh phát động phong trào Ánh Sáng cùng nhóm Tự Lực Văn Đoàn, chống lại các nhà ổ chuột ở các khu lao động.
Năm 1939 Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.
Năm 1940, Hoàng Đại, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt, bị đầy lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay.
Cuối năm 1941, Ngày Nay bị đóng cửa.
1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao.
Tại Quảng Châu, Liễu Châu gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ mới ở tù ra, Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng. Trong thời gian từ 42 đến 44, ông học Anh Văn và Hán văn, hoạt động trong Cách Mạng Đồng Minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sự tranh chấp, bắt bớ và thủ tiêu giữa hai đảng Việt Minh và Việt Quốc càng ngày càng gia tăng. Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang với quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong Giòng Sông Thanh Thủy.
Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của VNQDD, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách.
Biến cố 19 tháng 8 năm 1945 bùng nổ. Việt Minh lên nắm chính quyền. Ngày Nay bị đóng cửa và phân tán.
Sau chiến tranh Việt Pháp ngày 19 tháng 12 năm 1946, Khái Hưng về Hà Nội, tản cư về quê vợ ở Nam Định. Tại đây, bị công an Việt Minh bắt, ông bị thủ tiêu năm 1947.
Hoàng Đạo và Nguyễn Tường Bách sang Trung Quốc. Hoàng Đạo mất ở Quảng Châu tháng 8 năm 1948.
Thời điểm năm 1946, Việt Minh và Quốc gia chủ trương hòa hoãn và hợp tác. Đầu tháng 6, năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội. Hợp tác với chính phủ liên hiệp kháng chiến, giữ ghế bộ trưởng ngoại giao, cầm phái đoàn đi dự hội nghị trù bị Đà Lạt. Được cử làm trưởng phái đoàn đi dự hội nghị Fontainebleau, nhưng ông từ chối và bỏ sang Tầu, gặp cựu hoàng Bảo Đại và ở lại Trung Hoa bốn năm.
Năm 1951, ông trở về Hà Nội, tuyên bố không thuộc đảng phái nào và không hoạt động chính trị.
Vài tháng sau vào Nam, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản những sách Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1953 lên Đà Lạt ở ẩn, sống với hoa lan ven suối Đa Mê.
1958 rời Đà Lạt về Sài Gòn, chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản.
Dính líu đến vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960, ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Nhất Linh uống thuốc độc tự tử ngày mùng 7 tháng 7 năm 1963.
Trong 40 năm hoạt động văn học và chính trị, Nhất Linh đã hoàn thành trên 20 tác phẩm, và những sách sau đây đã được xuất bản:
Nho Phong, viết năm 1924
Người quay tơ, 1926
Anh phải sống, viết chung với Khái Hưng. 1932-1933
Gánh Hàng Hoa, viết chung với Khái Hưng, 1934
Đời Mưa Gió, viết chung với Khái Hưng, 1934
Nắng Thu, 1934
Đoạn Tuyệt, 1934-1935
Đi Tây, 1935
Lạnh Lùng, 1935-1936
Hai buổi chiều vàng, 1934-1937
Thế Rồi một buổi chiều, 1934-1937
Đôi Bạn, 1936-1937
Bướm Trắng, 1938-1939
Xóm Cầu Mới, 1949-1957
Viết và Đọc tiểu thuyết, 1952-1961
Giòng Sông Thanh Thủy, 1960-1961
Thụy Khuê biên soạn
Paris 1996
---------------------------------------------
(1) Bài viết này một phần dựa theo tiểu sử Nhất Linh, do Nguyễn Ngu Í soạn trong cuốn Sống Và Viết Với.. Sài Gòn 1966, Xuân Thu in lại, không đề rõ xuất xứ và năm tái bản. Trong phần chú thích, Nguyễn Ngu Í chú thích: "Tiểu sử này do chính Nhất Linh đọc cho tôi viết và đã xem lại trước khi in, tôi xin giữ trọn vẹn và không thêm đoạn đời từ thu 1954 đến thu 1963, để giữ chút kỷ niệm về anh". Và Nguyễn Ngu Í mất tháng 8 năm 1977 tại Sài Gòn. Hình như sách chưa tái bản khi còn sinh thời Nguyễn Ngu Í, cho nên chúng ta không có được phần tiểu sử Nhất Linh từ 54 đến 63, do chính Nhất Linh biên soạn.
(2) Trích chân dung Nhất Linh, của Nhật Thịnh, trang 128-129, Đại Nam tái bản. Tú Mỡ trả lời Lê Thanh trong bài "Phỏng Vấn Các Nhà Văn".
Thụy Khuê biên soạn
Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam (1), sinh ngày 25 tháng 7 năm 1906, tại huyện Cẩm Giành tỉnh Hải Dương, trong một gia đình sáu trai, một gái . Trừ người anh cả Nguyễn Tường Thụy, là công chức không dính líu đến văn nghệ và chính trị, từ ngườ anh thứ hai Nguyễn Tường Cẩm, mất tích ở gần Hà Nội, đến Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Tứ Ly Hoàng Đạo - Nguyễn Tường Long, Nguyễn thị Thế, Thạch Lam Nguyễn Tường Long và bác sĩ Nguyễn Tường Bách đều là những người tham dự vào văn chương . Nguyễn thị Thế và Nguyễn Tường Bách viết hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, và năm anh em Nhất Linh có đóng góp tích cực trong việc quản trị báo chí và nhà in của Tự Lực Văn Đoàn.
Thích văn chương từ nhỏ, năm 16 tuổi Nhất Linh làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi, có bài Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều trong Nam Phong Tạp Chí .
Cuối năm 1923 đậu bằng Cao Tiểu . Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên làm thư ký sở tài chính Hà Nội, kết duyên văn nghệ với Tú Mỡ Trọng Hiếu, viết Nho Phong. Lấy vợ và theo cao đẳng. Lúc đầu, năm 1924 học thuốc được một năm thì bỏ, chuyển sang Mỹ Thuật được một năm cũng bỏ.
1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu, Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám tang Phan Chu Trinh, hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ, và tìm đường đi du học.
1927 du học Pháp. Đậu cử nhân khoa học. Ở Pháp ông nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản.
1930 trở về nước. Nhất Linh cùng hai em là Hoàng Đạo và Thạch Lam xin ra tờ báo trào phúng Tiếng Cười, nhưng thiếu tiền chưa ra được báo thì giấp phép quá hạn, bị rút.
Từ 30 đến 32, Nguyễn Tường Tam dạy tư ở các trường Thăng Long và Gia Long. Ở đây ông quen với Trần Khánh Giư Khái Hưng. Sẵn có tờ Phong Hóa của giáo sư Phạm Hữu Ninh vừa đình bản, Nhất Linh mua lại và tục bản tờ Phong Hóa.
Kể từ ngày 22 tháng 9 năm 1932, báo Phong Hóa ra tám trang lớn, chú trọng về văn chương và trào phúng, tạo ra ba nhân vật điển hình: Xã Xệ, Lý Toét và Bang Bạnh.
Tự Lực Văn Đoàn được thành lập năm 1933 với bảy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Tú Mỡ, Nguyễn Gia Trí và Thế Lữ. Về vai trò lãnh đạo của Nhất Linh, Tú Mỡ kể lại:
"Anh Tam thuê một cái nhà ở ấp Thái Hà để mấy anh em làm việc. Tôi đi làm thì chớ, về đến bàn bạc về cái tôn chỉ của nhà báo và soạn bài vở dự bị cho đủ in trong sáu tháng. Anh Tam vừa viết, vừa vẽ. Anh đặt mục này, mục nọ, giao cho mọi người. Anh có lối làm việc rất khoa học. Anh đã gioa cho ai viẹc gì thì chỉ có chuyên việc ấy. Nhiều lúc tôi muốn viết bài thuộc về loại khác, anh khuyên chỉ nên chuyên về một lối. Tôi có thể nói, anh Tam là người đã tạo ra Tú Mỡ vậy" (2)
Năm 1936 Phong Hóa bị đóng cửa vì Hoàng Đạo viết bài châm biếm Hoàng Trọng Phu.
Tờ Ngày Nay - trước ra kèm vớ Phong Hóa - tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nhất Linh phát động phong trào Ánh Sáng cùng nhóm Tự Lực Văn Đoàn, chống lại các nhà ổ chuột ở các khu lao động.
Năm 1939 Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành Đại Việt Dân Chính. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.
Năm 1940, Hoàng Đại, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt, bị đầy lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay.
Cuối năm 1941, Ngày Nay bị đóng cửa.
1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao.
Tại Quảng Châu, Liễu Châu gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ mới ở tù ra, Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng. Trong thời gian từ 42 đến 44, ông học Anh Văn và Hán văn, hoạt động trong Cách Mạng Đồng Minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sự tranh chấp, bắt bớ và thủ tiêu giữa hai đảng Việt Minh và Việt Quốc càng ngày càng gia tăng. Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang với quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong Giòng Sông Thanh Thủy.
Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của VNQDD, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách.
Biến cố 19 tháng 8 năm 1945 bùng nổ. Việt Minh lên nắm chính quyền. Ngày Nay bị đóng cửa và phân tán.
Sau chiến tranh Việt Pháp ngày 19 tháng 12 năm 1946, Khái Hưng về Hà Nội, tản cư về quê vợ ở Nam Định. Tại đây, bị công an Việt Minh bắt, ông bị thủ tiêu năm 1947.
Hoàng Đạo và Nguyễn Tường Bách sang Trung Quốc. Hoàng Đạo mất ở Quảng Châu tháng 8 năm 1948.
Thời điểm năm 1946, Việt Minh và Quốc gia chủ trương hòa hoãn và hợp tác. Đầu tháng 6, năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội. Hợp tác với chính phủ liên hiệp kháng chiến, giữ ghế bộ trưởng ngoại giao, cầm phái đoàn đi dự hội nghị trù bị Đà Lạt. Được cử làm trưởng phái đoàn đi dự hội nghị Fontainebleau, nhưng ông từ chối và bỏ sang Tầu, gặp cựu hoàng Bảo Đại và ở lại Trung Hoa bốn năm.
Năm 1951, ông trở về Hà Nội, tuyên bố không thuộc đảng phái nào và không hoạt động chính trị.
Vài tháng sau vào Nam, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản những sách Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1953 lên Đà Lạt ở ẩn, sống với hoa lan ven suối Đa Mê.
1958 rời Đà Lạt về Sài Gòn, chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản.
Dính líu đến vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960, ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Nhất Linh uống thuốc độc tự tử ngày mùng 7 tháng 7 năm 1963.
Trong 40 năm hoạt động văn học và chính trị, Nhất Linh đã hoàn thành trên 20 tác phẩm, và những sách sau đây đã được xuất bản:
Nho Phong, viết năm 1924
Người quay tơ, 1926
Anh phải sống, viết chung với Khái Hưng. 1932-1933
Gánh Hàng Hoa, viết chung với Khái Hưng, 1934
Đời Mưa Gió, viết chung với Khái Hưng, 1934
Nắng Thu, 1934
Đoạn Tuyệt, 1934-1935
Đi Tây, 1935
Lạnh Lùng, 1935-1936
Hai buổi chiều vàng, 1934-1937
Thế Rồi một buổi chiều, 1934-1937
Đôi Bạn, 1936-1937
Bướm Trắng, 1938-1939
Xóm Cầu Mới, 1949-1957
Viết và Đọc tiểu thuyết, 1952-1961
Giòng Sông Thanh Thủy, 1960-1961
Thụy Khuê biên soạn
Paris 1996
---------------------------------------------
(1) Bài viết này một phần dựa theo tiểu sử Nhất Linh, do Nguyễn Ngu Í soạn trong cuốn Sống Và Viết Với.. Sài Gòn 1966, Xuân Thu in lại, không đề rõ xuất xứ và năm tái bản. Trong phần chú thích, Nguyễn Ngu Í chú thích: "Tiểu sử này do chính Nhất Linh đọc cho tôi viết và đã xem lại trước khi in, tôi xin giữ trọn vẹn và không thêm đoạn đời từ thu 1954 đến thu 1963, để giữ chút kỷ niệm về anh". Và Nguyễn Ngu Í mất tháng 8 năm 1977 tại Sài Gòn. Hình như sách chưa tái bản khi còn sinh thời Nguyễn Ngu Í, cho nên chúng ta không có được phần tiểu sử Nhất Linh từ 54 đến 63, do chính Nhất Linh biên soạn.
(2) Trích chân dung Nhất Linh, của Nhật Thịnh, trang 128-129, Đại Nam tái bản. Tú Mỡ trả lời Lê Thanh trong bài "Phỏng Vấn Các Nhà Văn".