Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nhà thơ hoàng vũ thuật làm hàng giả thi ca như thế nào?

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhà thơ hoàng vũ thuật làm hàng giả thi ca như thế nào?

    Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình một cách đúng nhất:


    như người điên đi trong dầm dã
    hai mươi năm sau
    không biết nơi nào để dừng
    (mưa trên mười ngón tay dài)

    Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!!.


    VÔ LỐI, TẮC TỴ HOÀNG VŨ THUẬT


    Trong cuộc sống, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sống chân tình chung thủy vợ con, cưu mang bạn bè, người thân; nhưng trong sáng tác thì Hoàng Vũ Thuật rất làm hàng giả. Giả trong cách lập tứ, chọn từ, đặt câu, thi tứ, mô phỏng. Cái giả nó đeo theo nhà thơ từ khi chập chững vào nghề cho đến hôm nay đã thất thập cổ lai hy, đầu suy tứ chi!
    Nghĩ cho cùng không phải lỗi của Hoàng Vũ Thuật mà nói như từ thông dụng bây giờ là lỗi cả một hệ thống. Cả thế hệ cứng như một thỏi sắt (Lưu Quang Vũ). Nhiều lớp lớp làm nhà ca học, hót học, hát học, cười học… Trùng trùng điệp điệp cổ động viên tự giác và không tự giác.
    Đến nỗi như nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng nhất trong thơ chống Mỹ cũng làm “nhà cười học” khi viết bài thơ tình Cái chao đèn duyên tình thế mà phải thêm hai câu kết rất dở hơi mới được in và mới được phổ biến:


    CÁI CHAO ĐÈN


    Con trai đội nón bao giờ
    Vì mưa nên phải đi nhờ nón em
    Bấy lâu mũ sắt đội quen
    Buồn cười cái nón tòn ten trên đầu.
    Khoảng râm là ánh sáng màu
    Của tình yêu đội trên đầu đó em.
    Hông hồng khuôn mặt xinh quen,
    Nón bài thơ cái chao đèn của anh!


    Khi đưa in, nhà biên tập không đồng ý vì cả nước đang đánh giặc mà nhà thơ lại làm thơ tình thuần túy. Bất đắc dĩ, Phạm Tiến Duật phải viết thêm hai câu kết không ăn nhập gì để được in:
    Mũ va vào mũ lanh canh
    Đường xa nhớ nón che anh buổi nào!
    Rồi tiếp đến nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suốt thời chống Mỹ nằm hầm ở thôn Phú Vinh (Trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng) cũng phịa, tưởng tượng ra mình là bộ đội hoặc thanh niên xung phong hành quân:
    Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
    Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
    (Khoảng trời và hố bom)
    Và dùng nhiều câu đại ngôn, hô khẩu hiệu sáo mòn để cổ động:
    Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa.
    (Bài đã dẫn)
    Nhà văn Dương Thu Hương cũng vậy. Tưởng tượng mình là chiến sỹ lái xe đi trên đường gặp nhiều hoa Trâm Lê (hoa phịa, anh em gọi là hoa Đâm Lê) hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ ngoài tiền tuyến cho hậu phương yên tâm sản xuất…


    Thế hệ Hoàng Vũ Thuật là thế hệ chống Mỹ. Cả nước gồng lên đánh một đế quốc giàu mạnh nhất thế gới nên văn chương cũng gồng lên nhiều lần để phục vụ cho mục đích đánh giặc của nhà cầm quyền:
    Ta lại viết bài thơ báng súng
    Con đứng lên viết tiếp thay
    Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
    Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.
    (Hoàng Trung Thông)
    Tố Hữu nhà thơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng viết:
    Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
    Hơn nghìn trang giấy luận văn chương!
    Cho nên cả nước từ văn chương, thơ ca, nhạc, họa đều phải vót chông trước khi vót văn.
    Hồi ấy in ấn rất khó khăn từ trung ương đến địa phương. Văn thơ không nói về bom đạn, hỏa tuyến, đánh giặc, bắn máy bay, bộ đội, thanh niên xung phong, ta thắng địch thua… thì rất khó in.
    Hội văn nghệ Quảng Bình có tờ Văn nghệ Quảng Bình, anh em phải xếp hàng nhiều năm mới có bài đăng.
    Một lần Hoàng Vũ Thuật đưa bài “ Quả ổi trong vườn chín sớm” đến Ban biên tập để duyệt.
    Nội dung là tả trái ổi trong vườn bị bị viên bom bi găm vào nên nó chín sớm. Ban biên tập mới phê rằng: “Sự việc có thật nhưng người viết đã chọn không điển hình nên nó thành giả. Bom đạn Mỹ ném bom, bắn súng hàng ngày để bao nhiêu người chết, súc vật chết không viết, mà viết quả ổi bị bom bi chín sớm vừa sến, vừa nhẹ tênh, gượng gạo thế nào! Có sự việc không có thật nhưng nhà thơ điển hình hóa nó lên thì đọc như là thật.”
    Từ đó Hoàng Vũ Thuật đi tìm cái điển hình hóa không thật để làm cho nó thật. Nhưng tai hại thay, sau khi văn chương cổ động tuyên truyền qua đi thì những cái giả nó lại lai hoàn giả, không thể chấp nhận được:
    Qua ải Bắc, đèo Nam
    Qua Trường Sơn nắng mưa dằng dặc
    Anh thành người con trai suốt đời đi đánh giặc
    (Cây Nhạc ngựa)
    Hoàng Vũ Thuật thì không một ngày mặc áo lính, không biết khẩu AK lắp đạn như thế nào, một băng đạn có mấy viên và bắn liên thanh hay bắn ba phát một thì địch mới sợ nhưng Hoàng Vũ Thuật hay thay lời người ra trận làm thơ cổ động chiến đấu, hay đánh giặc trên giường(!). Điều này cũng không vấn đề gì, xưa nay mọi người vẫn làm, miễn là hay xúc động là được. Đằng này bài Cây nhạc ngựa vừa giả vừa dở, vừa không có một chút gì gọi là thi pháp nên nó rất phản cảm. Mặc dầu bài này được giải thưởng thơ báo Văn nghệ đâu năm 1986. Rồi tập Tháp nghiêng cũng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Giải thưởng dù giải địa phương, dù giải trung ương đều đáng trân trọng. Nhưng lấy giải thưởng mà đo chất lượng một đời thi ca là một việc hoàn toàn sai lầm. Vì giải thưởng chỉ phục vụ cho một giai đoạn, một hoàn cảnh nhất định, một chính thể cụ thể. Bài Cây nhạc ngựa vừa giả dối, vừa kém thi pháp, vừa gần như mô phỏng nhiều câu của Phạm Ngọc Cảnh trong bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất:
    Mai xa rồi, em nhớ anh không?
    Trăng lại tròn vầng trăng biên cương
    Ngựa tung bờm trắng thảo nguyên gió.
    ….
    Cỏ vô tận cho lòng anh rong ruổi
    (Cây nhạc ngựa – Hoàng Vũ Thuật)


    Ngựa tung bờm bay qua biển lúa
    Ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa

    Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
    (Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)


    Cha ông ta đã từng viết về người lính suốt đời đánh giặc một cách nghệ thuật tài tình:


    Ban Siêu quy thời mấn dĩ hoa
    Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
    (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
    Là biết chàng Siêu suốt đời đánh giặc rồi, cần gì mà nói:
    Anh thành người con trai suốt đời đánh giặc!
    Viết thế, vừa không thơ, vừa không thật, vừa ảnh hưởng thơ người khác:
    Cái giả của Hoàng Vũ Thuật đi vào cả đề tài tình yêu:
    …Rồi em làm quan tòa
    Đưa anh ra xử án
    Và có thể cao hơn
    Đem pháp trường xử bắn.


    Mặc tất anh chẳng cần
    Sợ gì giấy xích sắt
    Nếu đạn bắn vào anh
    Sẽ làm em chết mất!...
    (Không đề)
    Lúc đầu Hoàng Vũ Thuật viết câu kết Nếu đạn bắn vào anh/ Sẽ làm em chết ngất
    Anh em góp ý là chết ngất là chết giả. Hoàng Vũ Thuật sửa lại chết mất cũng là chết giả nốt. Mình như thế nào, là vua chăng, là thượng đế chăng mà người tình có thế chết(!). Vua và thượng đế đầy quyền lực đấy nhưng người tình chưa chắc đã thèm chết. Ngay thần Juipite bá chủ Olempơ mà đã có người tình nào chết đâu!
    Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái. Việc này vô cùng giả dối.
    Giang Nam thật tình hơn:
    Hôm nay nhận được tin em
    Dù không tin đó là sự thật
    Giặc giết em rồi quăng mất xác
    Chỉ vì em là du kích em ơi.
    Đau xé lòng anh chết nửa con ngươi!
    (Quê hương – Giang Nam)
    Chết nửa con người của Giang Nam là chủ thể, nó thực nên thuyết phục người đọc, đọc xúc động đến hôm nay.
    Hoàng Vũ Thuật viết đã giả lại quá cũ như hai nghìn năm trước:
    Giữa bãi cát vàng em là cây
    Bóng em đổ xuống hai vai gầy
    Anh ngồi trưa nắng như thiêu đốt
    Mỗi chiếc lá xanh một bàn tay…
    (Em là)
    Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
    Trân châu liêm bạc yểm lan đường
    Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
    Bán phất quỳnh diên tô hợp hương…
    (Đảo thiên y – Lý Bạch)


    Trăng sáng cao vời giờ điểm đây.
    Nhà lan châu ngọc ánh vơi đầy.
    Tấm lòng cùng kết bên màn liễu,
    Phảng phất chiếu quỳnh hương ngất ngây!...
    (Đỗ Hoàng dịch)
    Gần bảy mươi tuổi, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật tự lột xác mình, cố gắng đổi mới, phá bỏ cách viết cũ và giả của mình gần 60 năm qua. Nếu thế thì đáng quý biết bao, dù còn sống một giây cũng phải đổi mới, nhưng tiếc thay Hoàng Vũ Thuật chẳng có đổi mới gì mà chỉ sa đà vào tắc tỵ, bí hiểm, cầu kỳ rắc rối, tù mù, hủ nút, không còn một chút rung động thi ca. Chỉ có rặt những kiểu nói tắc tỵ, bí hiểm, đánh đố mình, đánh đố người đọc vì một kiến văn thiển cận, kiến thức hạn hẹp, rất nhiều chỗ hỏng trong học vấn, ít từng trải, sai cả quy luật tâm lý, quy luật tự nhiên, xã hội…
    Được các bác sỹ đỡ đẻ hải ngoại quanh năm ngồi trong phòng sản phụ đỡ con Mỹ đen, các học giả, học thật, tiến sỹ bò tung hô … nên Hoàng Vũ Thuật càng dấn sâu vào quái thai, kỳ quặc, lởm khà lởm khởm, tắc tỵ…
    Đặt tựa đề một cách tù mù, đánh đố:
    Mãi viên trà, K, Ly, Hoàng An, Lá, Đo, Cõi, Ngược, Màu, Kiến
    Cầu kỳ, rắc rối:
    Mưa trên mười ngón tay dài, Trưa lệch phai…
    Những câu vô lối như bị tâm thần, nhạt nhẽo vô vị, không ai hiểu mô tê răng rứa, viết cho bạn mà như viết cho kẻ không ăn ngũ cốc, cho kẻ ở ngoài hành tinh hoặc quỷ dạ xoa dưới Long cung:
    ngày mẹ đưa chúng mình xuống sông quẫy đạp
    tình yêu dội lên hai bờ vai
    đẫm vào da thịt
    tia chớp sáng của ngọn sao khuya
    chúng mình đứng như trời trồng khi tình yêu tới
    những câu thơ vọt máu phát cuồng quất vào bức tranh
    đớn đau khát cháy
    (Viết cho bạn)
    tù mù, vô nghĩa:


    giờ thì anh trồng thêm gốc cây
    thuộc loài bạch dương chờ đông sang phủ tuyết
    nào có gì ổn định


    rồi con sóng tiếp xô đổ anh
    lúc anh là cát
    những con sóng siêu hình lau sạch gương mặt cũ
    như chén rượu đêm ấy
    chặng cuối
    (Hoàng An)


    Viết sai cả quy luật tâm lý, quy luật xã hội, tình cảm:


    ngu­ời di gan không buồn
    chỉ biết hát
    nhiệt cuồng và mê loạn


    ngu­ời di gan không đau
    chỉ biết múa
    vũ điệu ngã nghiêng phố xá
    rạch ríu làm xiếc diễn tuồng


    ngu­ời di gan không khóc
    chỉ biết c­ười
    chào mời đổi chác
    giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời
    (người Di gan)


    Đáng khóc mà ta vẫn hát tràn
    (Hồ Chí Minh)
    Người Di gan phải như thế chứ mà thật như thế. Sao người Di gan lại không khóc, chỉ biết cười. Hoàn toàn khiên cưỡng!


    Bí hiểm không ra bí hiểm, mù mịt, tâm thần không ra tâm thần, ngớ ngẩn, rất thiểu năng trí tuệ:


    Một nghìn ba trăm năm mươi mét cao ly hồng nở
    đôi mắt bồ câu


    vô biên im lặng
    cơn mưa đồng phạm
    con chó thảo hiền không biết sủa dẫn tôi đi cùng


    bài thơ tình ăn theo mưa
    ly thơm vào trưa
    xấu hổ tôi cúi mặt
    (Ly)
    Viết về một quán Mãi viên trà chỉ có bà mẹ và cô con gái mà Hoàng Vũ Thuật chế biến ra ba người là một thiếu nữ, một cô gái, một bà mẹ. Ai cũng biết đã dùng thiếu nữ thì thôi dùng cô gái, mà dùng cô gái thì thôi dùng thiếu nữ. Không hiểu ra làm sao:


    nấp dưới cánh lá bồ đề màu phật
    một cô bé một thiếu nữ một người mẹ
    cô bé vắt tuổi thơ qua đồi sim
    thiếu nữ mười sáu lần trăng đỏ
    người mẹ đội nước lên chùa
    (Mãi viên trà)




    Viết rất điên rồ:


    xóa đi rồi vẽ lại
    ngẹt thở


    thêm một nét gầy thêm một nét
    chết lặng dưới chân cầu thang




    nàng khóc
    (Họa sỹ)


    Mượn cái gọi là hậu hiện đại, cách tân, siêu thực, xuống dòng một cách vô lối, bệnh hoạn tùy tiện:
    thỏi hình hài bẹp dí
    long lóc
    thở


    ẩn dụ giữa rừng khô
    héo


    bày bán cùng
    hoa
    (trong tập Màu)


    tìm nơi di trú
    bằng chìa khóa mẹ
    trao
    (tiếng chim)


    nhôm nhoam nhiều câu viết lớm khởm, tối nghĩa, kiểu cách lên gân giả vờ, điệu đàng, sống sượng, triết lý vặt:


    chẳng thể bắt níu những sợi tóc vào mùa
    không người tuốt chải gặt hái
    anh cắt dán cánh đồng lên thân thể em
    điều phối cơn mưa
    vá víu vết thương cuối hạ.
    (hoàng an)


    rừng mọc dưới bờ mi
    (viết dưới tượng Exenhin)


    đếm tiếng trái tim khuya
    (điều ấy có ý nghĩa gì)


    huyền ảo uốn cong hiện thực


    nhịp cầu tượng trưng gãy vụn


    ẩn dụ giữa rừng khô
    héo…
    (ý nghĩ vụt hiện)
    Kể mãi không bào giờ hết.
    Rồi Hoàng Vũ Thuật sa đà mượn hệ đếm, con số, thuật ngữ toán học nhét vào các bài vô lối phá hỏng thơ ca:


    nằm dưới kia
    một ông vua một hoàng hậu một người hầu
    một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
    một lệnh truyền một trống giục một lời van


    nằm dưới kia
    một hộp sọ một ống xương một đốt lóng tay
    một trung thực một đớn hèn một điên loạn


    một ngọn lửa một đêm tối một chiều tà
    một vận hạn một thức thời một nguyền rủa…
    (lăng tẩm)
    Hoàng Vũ Thuật đã dùng đến 21 chữ một để diễn tả một sự việc chỉ cần một con số một là đủ:
    Dưới kia có một đế vương
    Tàn tro bụi bặm lóng xương chẳng còn.
    (Đỗ Hoàng phóng dịch)


    Trong thơ cổ kim có dùng con số, nhưng dùng khéo thì làm cho bài thơ hay lên rất nhiều:


    MƯỜI THƯƠNG


    Một thương bỏ tóc đuôi gà
    Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
    Ba thương má lúm đồng tiền
    Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
    Năm thương cổ yếm đeo bùa
    Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
    Bảy thương tính nết đoan trang
    Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
    Chín thương em ở một mình
    Mười thương con mắt có tình với anh!
    (Ca dao)


    Một canh, hai canh lại ba canh
    Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
    Canh bốn, canh năm và chợp mắt
    Sao vang năm cánh mộng hồn quanh.
    (Hồ Chí Minh)


    Không chỉ nước ta mà nhiều nước, nhất là Trung Quốc nhiều nhà thơ dùng con số để diễn ý, diễn tình. Từ con số khô khan biến hóa muôn vẻ làm nên thi phẩm lung linh, bất hủ:


    LÃO SƯ KHỐN


    Nhất thân bình giả bố
    Lưỡng tụ phấn bút khôi
    Tam xan ngật bất bảo
    Tứ quý thường sô mi
    Ngũ canh tựu khởi sàng
    Lục đườngyếm nhĩ ngật
    Thất thiên nhất tinh kỳ
    Bát phương cuồng kỷ hồi
    Cửu thiên bất phát hưởng
    Thập gia giai đoạn xuy.
    (Khuyết danh)


    ĐỜI GIÁO VIÊN XƯA


    Một thân áo quần bố
    Hai tay áo phấn đầy
    Ba bữa ăn không đủ
    Bốn mùa ủ mặt mày
    Năm canh đã trở dậy
    Sáu giờ mới ăn chay
    Bảy ngày tròn tuần lễ
    Tám phương biết gì đây
    Chín ngày lương không có
    Mười nhà đói lắt lay!
    (Đỗ Hoàng dịch)


    TUYỆT CÚ


    Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liều
    Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
    Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
    Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền
    (Đỗ Phủ)


    Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
    Một hàng cò trắng vút trời xanh
    Nghìn năm tuyết núi sông in sắc
    Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
    (Dịch – Khuyết danh)
    Bài trên có các con số: Hai, một, vạn, nghìn.
    Trong những người làm Vô lối, Hoàng Vũ Thuật cũng là người dùng một cách lạm phát từ ngữ nước ngoài nhất là âm Hán Việt ít Việt hóa như: điều phối, thảo hiền, hiển lộ, mê lộ, tẩy trần, trùng phùng, mãi viên trà, di trú, vô chủ, tấu khúc, miền hiển thủy, miền thiên hư,vô cư, vũ điệu, di hài, thuần khiết, tạ từ, nguyên thủy,cuồng thảo, mãn nguyện, nguyện cầu, hoan lạc, hoang phế, biến thể… hằng hà vô số. Đọc vô cùng khó chịu!




    Tôi đã từng viết tặng nhà thơ Hoàng Vũ Thuật để nói lên cái “việc làm tốt nghĩa vụ của người công dân thì người thi sỹ rất đau khổ” của anh (ý của nhà thơ Nhê ka rê xốp – Nga)::
    Anh là nhà thơ Nhà nước
    Có việc làm ăn hẳn hoi
    Thế mà đời thật cơ cực
    Thơ anh nén khóc để cười…
    (Lang thang chiều Huế)


    Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình một cách đúng nhất:


    như người điên đi trong dầm dã
    hai mươi năm sau
    không biết nơi nào để dừng
    (mưa trên mười ngón tay dài)


    Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!!.


    Hà Nội ngày 16 – 2 - 2013
    Đỗ Hoàng
Working...
X