Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Người Làm Thơ Vì ‘Tai Nạn’ ( ?)

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Người Làm Thơ Vì ‘Tai Nạn’ ( ?)

    Người tôi viết về thơ nơi đây, khiếu thơ nở muộn. Ðến tuổi bốn mươi; mới làm thơ ; chính chàng không nghĩ mình là nhà thơ, cũng không thích được gọi như thế. Khởi đầu, có thể ‘Chàng làm thơ vì ‘tai nạn’(!).. Nhưng rồi, thơ tiếp tục được chàng ‘khai sinh’, ‘đăng ký hộ tịch’ nơi các báo hải ngoại, được khắp nơi ngưỡng mộ, mặc nhiên trở thành ‘nhà thơ’ ngoài ý nghĩ của chàng.


    Trước 1975, Phương Hà –bút hiệu của chàng- không hay chưa làm thơ hoặc chỉ làm ‘chơi’ đôi bài rồi tự nghĩ rằng ‘thơ mình không đáng gì’nên không nhớ, không lưu. Chàng rời bỏ ‘nghiệp văn’ để lặn lội vào kinh doanh.



    Sau 30/04/75, chàng được chế độ mới (Cộng sản) ‘chiếu cố’, ‘tuyên dương’ là ‘tư sản mại bản’ với năm tội danh, đặc biệt là « cột trụ Kinh tế Ngụy » và « Làm giàu trên xương máu nhân dân ». « Cột trụ kinh tế Ngụy », có thể đúng vì từ 1968, chàng được đắc cử do phổ thông đầu phiếu vào Hội Đồng quản trị Phòng Thương mãi Công Kỹ nghệ thành phố Đà Nẵng suốt hai nhiệm kỳ, đảm trách Chủ tịch Phân bộ Xuất Nhập cảng của Phòng nầy mà địa bàn hoạt động từ Bến Hải đến Phan Rí(Thuận Hải), cố vấn Bộ Kinh Tế VNCH, nghiên cứu phác họa những dự án, những chương trình Kinh tế địa phương. « Cột trụ Kinh tế Ngụy », đúng, vì chàng đã từng tiếp xúc, trao đổi với các phái đoàn Công Kỹ nghệ ngoại quốc, đặc biệt là Nhật Bản và cho rằng, Việt Nam với bờ biển trên hai ngàn cây số, riêng giới hạn từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, chỉ cần ‘thò’ tay vào biển ‘bốc, hốt’ là ‘hải hà vô lượng’ tài nguyên cho đất nước và nhân dân. Vì thế, chàng đóng góp một vai nhỏ trong việc vận động thành lập Trường Đại Học Cộng Ðồng Đà Nẵng, chuyên lo về mặt nầy, cả về dầu khí, nhằm đào tạo chuyên viên kinh doanh, làm giàu cho đất nước về mặt hải sản và nhiên liệu cùng lâm sản. « Làm giàu trên xương máu nhân dân », lời buộc tội nầy chỉ là gán ghép, vu cáo vì sau 1975, chẳng người dân nào a dua theo Cộng sản để lên án chàng, mà sau khi chàng ra tù, chàng lại được vô số người dân mừng rỡ, thăm viếng, hỏi han cùng đôi lúc giúp đỡ chàng. Trong lúc bị thẩm vấn, chàng đã hỏi quản giáo : ‘’thế nào là tư sản mại bản ? Tại sao Tư sản mại bản lại là tội ?’’. Tên Trần Thi, Công an từ Hà Nội vào, giải thích khá kỳ quặc : ‘’Như anh là Tư sản mại bản, là có tội’’.



    Với những ‘trọng tội’ ( ?) trên, chàng được chế độ mới ‘mời’ đi ‘học tập cải tạo’ không cần biết ngày về. Bấy giờ tại Quãng Nam, có nhà tù ‘Tiên Hội’ (Tiên Lãnh), là nơi hội tụ ‘quần tiên’, cả nam cả nữ, cả trẻ cả già, những loại ‘Tiên’ bị đày vì ‘phạm tội’ với Ðảng Cộng sản. Ðủ mọi loại ‘Tiên’ : quân nhân, công chức, chính trị gia, cha cố, sư sãi, trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân, thương gia, kỹ nghệ gia, kể cả bao loại ‘Tiên’ nông dân, công nhân mình trần thân trụi được Cộng sản phong tặng là ‘phản động, phản cách mạng’ vì đã cả gan không quy phục dưới lá cờ máu của họ. Thật tội nghiệp cho chàng, tội nghiệp cho tất cả, nhất là những kẻ lâu nay quen sống với cái đầu. Quả cái đầu làm hại cái xác. Cái xác thì Cộng sản ưa dùng, chứ cái đầu, chúng không ưa, lại còn chủ trương phải phá cho nát đi. Hơn nữa, chúng đã tự phong là ‘đỉnh cao trí tuệ’ của loài người rồi nên đâu còn cần đến cái đầu của ai, vả những cái đầu không thuộc loại ‘đỉnh cao trí tuệ’ của chúng thì chúng còn mạt sát, tìm cách làm tiêu hủy đi. Sau một năm tù, xác chàng gầy guộc, cái đầu cũng tong teo. Trong gian lao, khổ cực, đọa đày bất tận bỡi những kẻ cùng ‘giống loại’ như mình, cùng xuất phát từ ông Tổ Hùng Vương hàng năm nghìn năm trước, cùng máu me, xương xẩu, ruột thịt giống nòi nhưng giờ nầy không còn một chút ‘máu đồng bào’ trong tim, cái xác chàng tan nát nhưng chàng –cũng như phần lớn bao người- còn giữ được chiếc đầu nguyên vẹn, nghĩa là giữ được cái phong thái trượng phu, thà chết chứ không cúi đầu khuất nhục.

    Cán bộ họ Hồ
    (HCM) không thể cưỡng bức nổi chàng cùng bao kẻ giả từ chất xám để hoàn toàn trở thành đất sét cho chúng dùng xây dựng trại giam chung thân khổ sai cho toàn dân cả nước. Trời còn thương. Chàng đã không rỉ sét trong lao tù Cộng sản. Sau một năm, bất ngờ chàng được trở về với bầu đoàn thê tử giờ nầy cũng nheo nhóc, xác xơ. Chàng được Cộng sản thả, có lẽ vì chúng đã tước đoạt được hết tài sản, thấy không còn gì khai thác thêm hay do một dụng ý thâm độc nào khác. Cái đầu lại trở lại chỉ huy cái xác. Để tránh có thể bị bắt đi tù trở lại bất kỳ lúc nào, chàng ‘ra đi’. Đất nước bị giặc cưỡng chiếm thì chàng đành phải mất quê hương.


    Chàng vượt biển. Chàng ra đi, tìm lại Tự Do. Hai lần vượt biển, thất bại, bị tù. Lần thứ ba, may mắn thoát khỏi hải phận VN vào ngày 18/12/1978. Hải trình nguy hiểm. Gần tám ngày đêm lênh đênh biển sóng, vừa cạn giọt nước sau cùng thì bão đánh hư tàu.. Chiếc tàu tàn rụi lắc lư chồng chềnh trôi dạt vào một hải đảo heo hút thuộc Nam Dương đúng vào nửa đêm Giáng Sinh. Mấy ngày sau, tàu Hải quân Nam Dương ra tìm, đưa vào một đảo lớn hơn, Tanjung Pinang, nơi có trại tỵ nạn tạm dung đầu tiên của Liên Hiệp Quốc là trại UNGAT.



    Từ ngày đặt chân lên trại Tỵ Nạn, cuộc đời chàng qua một khúc quanh : sau lưng là quê hương ngút ngàn thương nhớ ; trước mặt là tương lai vừa ảo tưởng vừa mơ hồ ; hiện tại là tự do tràn đầy, chất ngất dù chưa biết ngày nào sẽ được định cư.

    …hành trang mây trắng trăng treo

    Thù nhà, nợ nước nặng đeo bên mình…


    (P.H.)

    Chàng bắt đầu viết lách, làm thơ. Thơ ‘chống Cộng’ của chàng ra đời, chống quyết liệt, thẳng thừng, không nhân nhượng, không bóng gió, úp mở. Ở đảo, chàng tình cờ đọc được báo « Người Việt Tự Do », lập trường chống Cộng do ông Trần Cảnh Tuấn chủ trương ở Tokyo ; bên cạnh tờ báo còn có mục thơ của ‘Hồng Diệp Thi Xã’ nên chàng gởi thơ cọng tác. Từ đó, thơ chàng được các nơi lưu ý và được đăng trên hầu khắp báo chí hải ngoại. Lúc đầu, chàng lấy bút hiệu ‘Lục Bình’, sau đó bạn bè đồng trại thích bút hiệu Phương Hà hơn nên chàng đổi lại. (Bút hiệu Phương Hà là do ghép tên hai ngôi làng quê nội « Hà Mật » và « Phương Trì »).



    Chàng và gia đình xin tỵ nạn tai Mỹ nhưng chờ đơi Lãnh Sự Quán xin chỉ thị hơi lâu (vì người con gái và hai cháu ngoại -một đứa 2 tuổi rưỡi, một đứa mới 3 tháng rưỡi- không có tiêu chuẩn, phải chờ Bộ Di Trú Mỹ đặc cách du di) nên chàng gõ cửa Tòa Đại Sứ Bỉ (vì có con gái du học ngày trước, đang mong sum họp với gia đình) và được tỵ nạn tại nước nầy vào cuối năm 1979 (trước khi phái đoàn Mỹ trao lệnh của Chính Phủ Mỹ chấp thuận cho toàn thể gia đình được sang Mỹ). Ở Bỉ, chàng làm đủ mọi nghề : rửa chén bát cho tiệm ăn, lau chùi cửa kiếng cao ốc, khuân vác tại hảng trang trí, đứng bán hàng cho tiệm tạp hóa, bán báo trong một sạp vệ đường, chăm sóc một ông già 80 tuồi,…,sau cùng làm việc tại trường Trung Học Bỉ Maris Stella cho đến ngày về hưu.

    Tại đảo và tại Bỉ, chàng làm thơ và thơ ra đều đều. Tại Bỉ, chàng làm thông tín viên với bút hiệu « Lĩnh Nam » và cung cấp thơ cho các báo Việt khắp nơi trên thế giới nơi có người Việt định cư : Úc, Nhật, Pháp, Anh, Ý, Bĩ, Mỹ, Hòa Lan, Đức, Canada, Đan Mạch,…Lúc bấy giờ, từ 75 đến 1986, 1987, người tỵ nạn chưa đông, lại còn bận lo ổn định đời sống, lo thích ứng với nếp sống xứ người, lo học tiếng ngoại quốc,… người viết lách không nhiều nên thơ chàng có ‘đất dụng võ’, được các báo đăng liên tiếp. Đến nay, thơ chàng trên trăm bài, trong đó có thơ chống Cộng, và thơ tình cảm ; tất cả hai thứ được phổ biến trên báo chí độ 80% ; một số được đăng đi đăng lại nhiều lần, một số được dịch sang Pháp và Anh ngữ. Chàng không tập trung để in thành ‘thi phẫm’ vì chàng không có ý nầy. Đến nay, do con cái yêu cầu, chàng mới giao cho chúng tự lo liệu. Tôi đã định viết về thơ chàng từ năm 1992 nhưng rồi quanh quẩn lo in một số sách cùng bận rộn việc biên khảo về mặt tư tưởng nên đã dừng lại khá lâu. Thêm nữa, chàng thấy không cần thiết, khuyên tôi dành thì giờ cho chuyện khác. Nay do các con chàng muốn in thơ chàng thành ‘thi phẫm’để lưu niệm nên tôi viết bài giới thiệu và cũng để chuộc lại cái lỗi ‘thất hứa’ với chính tôi.



    Như nói trên, Phương Hà làm thơ vì ‘tai nạn’, ghi lại tai nạn của chàng, của gia đình, con cái, của bè bạn, của đất nước, của đồng bào và của chung nhân loại suốt thời gian dài trực tiếp hay gián tiếp phải nhận ‘trầm luân’ vì chủ nghĩa và chế độ Cộng sản bạo tàn, gian manh, xảo quyệt. Chàng đã đến khá nhiều nơi trên thế giới : Pháp, Bĩ, Hòa Lan, Đức, Áo, Ý, Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Sĩ, Mỹ, Gia Nã Đại, cả vùng Đông Đức những ngày bức tường ô nhục Bá Linh sụp đổ. Nơi đâu hồn thơ cũng lai láng, luôn luôn nói lên thảm cảnh người dân dưới chế độ Cộng sản ; nơi đâu cũng thấp thoáng hình ảnh đau thương của nòi giống Việt cùng nỗi hờn căm chế độ bất nhân



    Trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1986, thơ chống Cộng của Phương Hà có thể xem là những đóng góp mở màn cho « trường thơ tỵ nạn » của người Việt nơi hải ngoại ; đến nay đã quá phong phú để cùng bao nhiêu trước tác về các thể loại khác, đã tạo nên một « Nền Văn Học Việt Nam hải ngoại », một ‘thực thể’ không thể nào phũ nhận. Lịch sử Văn Học Việt Nam sau nầy sẽ phải ghi nhận và đánh giá dòng Văn học hải ngoại nầy. Và thơ văn của lớp lớp người tỵ nạn như Phương Hà sẽ trở thành ‘sử liệu’ cần thiết cho những nhà nghiên cứu văn học và lịch sử dân tộc về một giai đoạn vô cùng bi thương cùng vô cùng bi tráng của giống nòi Hồng Lạc. Bi thương vì bao đọa đày, vì bao mất mát, điêu linh của nhà, của nước ; bi tráng vì dù lệ đổ, máu tuôn vẫn hiên ngang không khuất phục, không dung tha tội ác bán nước buôn dân của tập đoàn cầm quyền mị dân, man trá, giả hình.

    Thơ chống Cộng của Phương Hà cũng như thơ văn chống Cộng của bao người Việt tỵ nạn Cộng sản có thể xem là những ‘văn thi liệu lịch sử’ cần thiết cho các thế hệ mai sau nhận định một giai đoạn lịch sử đã qua, không để hiểu theo cách viết sử mà là để ‘thẩm định’ lịch sử qua văn chương.



    Nhà thơ không chỉ ‘nổi loạn, phản kháng’ trước mọi bất công, oan khổ đối với riêng mình mà chung cho cả mọi người, chung cho cả một tập thể lớn rộng. Thơ Phương Hà đề cập đến những ‘khổ nan’ chung của dân tộc, đất nước, của cả phần nhân loại đau thương. Dù có chỉ nói riêng về một ‘cảnh đời’ cá nhân mình hay gia đình mình, nội dung thơ Phương Hà luôn luôn khiến ta nghĩ tưởng đến đau thương chung của ‘con người’ bất kỳ nơi đâu, bất kỳ thời đại nào khi một thứ ‘giống người’ không còn bộ óc và trái tim người ngự trị thế gian.

    Thơ Phương Hà không do từ những xúc cảm dạt dào của ‘nồng độ’ yêu đương tình ái, cũng không do cảm thức về nỗi cô đơn, thảng thốt của thân phận làm người, không mang màu sắc triết lý xa xôi. Thơ của chàng khởi đi từ hiện thực của cuộc sống chính mình, những thảm nạn của gia đình và dân nước, nói lên những phẫn nộ, hờn căm đối với lớp người hung tàn, quỷ quyệt. Thơ Phương Hà mô tả những hiện thực ‘khốc liệt, tang thương’ chung đó, vừa nói lên những uất nghẹn của mình vừa lên án lớp người đã gây ra bao đoạn trường ghê khiếp cho con người, cho nhân loại.



    Phương Hà làm thơ vì ‘tai nạn’. Qua nội dung thơ chàng, người viết tạm phân chia thành 4 loại tai nạn : Tai nạn nhà, Tai nạn nước, Tai nạn người và Tai nạn tình. Sắp xếp theo từng loại ‘tai nạn’ nên xin không tuân theo thứ tự thời điểm sáng tác.

    Dùng từ ‘Tai nạn’ nơi đây, có thể không mấy ổn. Nhưng, nghĩ cho cùng, bất kỳ sự việc nào gây cho ta khó khăn, gian khổ, buồn đau, bi lụy, tức tối, giận hờn, chống đối hay chỉ u sầu, trăn trở, hối hận, ăn năn,…thì cũng là ‘tai nạn’ đến với ta tùy mức độ nhỏ, lớn, tầm tác hại ít hay nhiều,…. Vậy nên, bảo rằng ‘Phương Hà làm thơ vì tai nạn’, nghĩ ra cũng không phải ‘khó nghe’. Hơn nữa, những gì xảy đến đã khiến nhà thơ quằn quại trong khổ đau để luôn luôn trăn trở, chống đối, căm hờn lại là những sự việc có thực đã đến với Phương Hà.

    Từ ‘Tai nạn’ nơi đây xin hiểu theo hai cách. Trước tiên ‘tai nạn’ là những sự việc, những cảnh ngộ oái oăm, ngang trái đã đến với chàng, với gia đình, với mọi người thân yêu trong dòng họ, với dân tộc, đất nước, không tạo cảm hứng mà dồn nén đau thương, căm hận để bật lên lời ta thán hay phẫn uất thành thơ. Tiếp theo, ‘tai nạn’ là những cảnh đời, những tâm trạng buồn đau đã trải chịu, đã chứng kiến, những tâm tình trao gởi, làm dậy lên niềm giao cảm chân thành, dâng tràn cảm xúc cho thơ.

    Thơ Phương Hà, dù là thơ chống Cộng hay thơ tình tứ, bài nào cũng sáng giá, cũng có thể, theo người viết, được xem là ‘xuất sắc’ không chỉ về ý, về tình mà còn về lời, về chữ. Không có tính cách ‘cách tân, dung tục’ nơi đây, cũng không có vấn đề ‘binh mới rượu cũ’ hay ‘bình cũ rượu mới’ khi phẫm bình, đánh giá thơ chàng. Nơi đây ‘bình muôn đời’‘rượu muôn nơi’‘Chân, Thiện, Mỹ’ kết hợp nơi từng bài. Mà ‘Chân, Thiện, Mỹ’ thì cũ, mới, xưa, sau gì cũng là ‘Chân, Thiện, Mỹ’. Không hoa hoè hoa sói, không trang trí, điểm tô, không vẽ vời làm dáng kiêu sa, không dụng công tìm lời, tìm ý. Con nguời vốn dĩ không muốn làm thơ mà thơ tự nhiên đến nên những gì hồn nhiên nhất, chân thành nhất, thật thà nhất kết thành thơ qua những lời dung dị, mộc mạc, chân phương ; thơ như kể chuyện, như dàn trải tâm tình , bộ­c phát thái độ, như nhỏ to chuyện vãn. Cái đẹp, cái hay nằm ngay nơi tính chất chân thành, bình dị đó.

    Xin dàn trải tâm tư chàng qua từng loại thơ theo từng ‘tai nạn’ vừa kể, nhưng chỉ xin giới hạn một số bài cho từng loại vì không thể nào kể hết. ( và phần nào để khỏi trùng lặp với bài viết của Giáo sư Võ Thủ Tịnh cũng in trong tập nầy – GS Võ Thủ Tịnh có ngỏ ý với người viết là sẽ viết về thơ Phương Hà qua nhưng giai đoạn của cuộc sống chàng và chú ý phân tích phần nghệ thuật thi ca của tác giả).



    I.- Tai nạn nhà : Người Việt Nam nào, sinh ra trước 1945 cũng đã phải trải qua bao giai đoạn lịch sử trớ trêu của đất nước : Pháp thuộc, Nhật thuộc, Việt Minh, chiến tranh Việt-Pháp, rồi đất nước chia đôi, Miền Bắc do Cộng sản thống trị, Miền Nam theo chế độ Tự do ; tiếp theo là cuộc chiến Bắc-Nam rồi, tang thương ập đến : Cộng Sản nắm quyền sinh sát cả nước khiến hàng triệu người lánh nạn, tìm tự do trong lúc toàn dân càng ngày càng hiu hắt, điêu linh dưới chế độ bạo tàn. Gia đình Phương Hà cũng như chính chàng và con cháu chàng đã phải sống chuổi ngày tang thương của phận mình và của chung dân tộc.



    *Cảnh đời héo úa, tàn phai từ nhỏ đến lớn được nhà thơ miêu tả, kể lại rạch ròi, nói lên cảnh nổi trôi của gia đình cùng cảnh tan nát của làng quê, xóm chợ. ‘Cha tôi’, bài thơ khá dài, nhân ngày giỗ cha,nhắc lại quảng đời nghiệt ngã của cha, của mẹ, của mình từ thưở chàng lên bảy đến tuổi 49, nghẹn ngào chia tay người mẹ yêu quí, rời Tổ quốc thân thương trên đường vượt biển, tìm tự do.

    Suốt bảy năm ròng, từ lúc vừa sinh ra, cùng cha, cùng mẹ xuôi ngược sông hồ trên chiếc ghe chở bánh dầu, bán buôn qua các vùng Thanh Quít, Giáp Năm, Cẫm Lệ, nghe lời mẹ ru, nhìn cha long đong, vất vả ‘Cuối giải sông Thu, bến sâu đò vắng, Tìm về đây nghe nằng nặng thương cha’, ‘Lắng xa xa bùng đâu đập bước, Nhốt kín buồn nghe nằng nặng những thương cha’.

    Lên tám, gia đình bỏ cảnh thuyền buôn, định cư ở Long Phước, theo học trường làng rồi ra Hội An lên ban Trung Học, luôn tê tái, bồn chồn : ‘Sáng đưa chân ngập ngừng cửa lớp, Lào xào lá xốp…nằng nặng thương cha’.

    Rồi chiến tranh, tiêu thổ kháng chiến, ngôi nhà bị dân quân Việt Minh đập phá tan hoang, ‘nhìn trán cha đắp vồngđau khổ, Tôi nhói tim nặng trĩu xót thương cha’. Cảnh tản cư, đói nghèo xơ xác, ‘sống nhủi chui lây lất giữa gọng thù’, từng lần: ‘Giữa khuya về khều cửa nhẹ lay cha, Xót xa chưa…người tiều tụy quá ! Thắt ruột mèo sụp nặng nỗi thương cha !’.

    Cha vừa 49, bỏ cảnh tản cư, rời làng, rời xã, quang gánh tìm về phố thị. Lủi thủi theo cha, ‘cắn môi lầm lì đi trước, Một đầu quang em dại, Một đầu bọc nhỏ áo quần nâu…Ôi ! còn sầu nào sâu, Bằng sầu gia vong quốc phá, Lệ nào đầy ? Hơn lệ lòng tầm tả….’ . Cắn răng nín chịu đau thương, nhìn ‘Cha thẫn thờ hụt hẫng đắng cay, Môi rướm máu, lòng chùng thương không xiết kể’.

    Về thành, gia đình kiệt quệ, chàng mượn vốn tậu chiếc xe đò rồi tạo được hảng xe đò Thuận Xuyên rồi mở thêm hai công ty Xuất Nhập khẩu. Miền Nam thiết lập chế độ dân chủ, chàng đem sức, đem tài góp tay xây dựng kinh tế cho nước, cho dân. Nhưng rồi, 7 năm sau , Cộng sản tràn vào. Sự nghiệp tan hoang, nhân dân Miền Nam xem như ‘mất nước’. ‘Lũ sài lang một lần nữa lại dương nanh, Cũng giết-giam-cướp-phá tan tành, Cũng vơ vét, siết họng dân lành, Y như lần trước, Dồn lũ con sụp bước cùng đường’… Sau thời gian tù tội, năm 49 tuổi đời, chàng đành ly biệt mẹ già, bỏ nước, vượt biên.

    Hối hận ngập tràn, không đền đáp được công cha nghĩa mẹ. Ðiệp khúc ‘xót thương cha, nằng nặng thương cha’ quấn quít bên lòng, vương vấn không rời nơi các nẻo đường lữ thứ ‘xác xơ, uất hờn, nuối tiếc’ , nhìn lại đời cha, đời mình, quặn siết tâm tư. Pháp Thực dân, Việt Minh Cộng sản, cả hai cũng chỉ một nòi, đày đọa gia đình chàng, cả đời cha, đời con tan đàn sẩy nghé trong nghiệt ngã, điêu linh :

    -…Hai thế hệ, một kẻ thù ngu nghiệt

    Hai cha con tàn kiệt đến tận cùng !

    Ngày giỗ cha, sôi dậy mối thù chung !




    * Và Mẹ, người mẹ còm cõi nuôi con ngày ngày tháng tháng là hình ảnh thiêng liêng vừa đẹp vừa đau, đậm màu trân quí, kính yêu. Ba bài ‘Khóc Mẹ’ rất thực, rất hiền, đơn sơ, bình dị, thắm thiết nỗi niềm thương nhớ không nguôi. Trên giàn cao, lúi húi sơn tường một cao ốc ở Bruxelles, bỗng được tin Mẹ qua đời nơi quê nhà, chàng rụng rời, lật bật, nghe mình lảo đảo trong màn bụi sơn. Ðiệp khúc ‘Mẹ ôi, Mẹ…,Mẹ bỏ con thiệt rồi sao ?, Mẹ đi thiệt rồi !’ ở mỗi đoạn thơ là tiếng lòng nức nở vừa sững sờ vừa dào dạt bi ai :

    -…Mẹ ôi, mẹ…

    Mẹ bỏ con thiệt rồi sao ?

    Ai đâu vuốt mắt mẹ

    Lệ biệt ly khỏi trào…



    Mẹ tôi đi thiệt rồi

    Ðây con sầu vong quốc

    Thương mẹ nằm khóc ngất

    Nhớ mẹ, buồn bao thôi….



    Mẹ ôi, mẹ…

    Bốn lạy phù du

    Vọng về vong linh mẹ

    Con không khấn vĩnh biệt ngàn thu. (Khóc mẹ)

    Tuần 49 ngày mẹ mất, chàng ôn lại cả quảng đời mẹ lao đao ‘Nhịp tim Mẹ theo con từng bước, Ngang dọc đường trần sau trước,..Mẹ lảo đảo chiếc lưng còm’…Bao lần Mẹ hoảng hốt, điếng hồn, giận run, lẫy bẫy. ‘Năm con hai mươi mốt, Giặc Pháp bắt con, Mẹ chạy như điên,…Chết điếng, Nhớn nhác, láo liêng, Sợ giặc bắn con liệng xác bên đường…’. ‘Hai mưới chín năm sau, Giặc Cộng cũng lại bắt con, Thêm tài quơ hốt,…Mẹ chỉ khung mặt giặc : Coi kìa quân mọi rợ, Liềm búa múa may, Hút máu ban đêm và cướp giữa ban ngày’… (Mẹ tôi II)

    Ngày mãn tang Mẹ, tại Costa Brava vùng Tây Ban Nha, ‘lưng đường quán trọ, Chỉ chùm hoa nhỏ sắt son’, luôn thì thầm ‘Mẹ ơi, Mẹ hỡi’, hối hận hiếu đạo không tròn, trong tâm tư thấy ‘Mẹ vẫn còn’ để đền ơn đáp nghĩa suốt quảng đời còn lại :

    Nắng tắt ngoài kia

    Gió chiều nhè nhẹ

    Thì thầm với Mẹ :

    -Tha thứ cho con

    Con không muốn mãn tang, mãn khó



    Ðể Mẹ của con

    Mẹ của con mãi mãi vẫn còn ! (Mẹ tôi III)

    Mẹ của chàng, người mẹ cõi còm, không chỉ nuôi con bằng sữa, bằng công sức lao đao mà còn bằng tình tự ca dao, suốt bảy năm trời trên chiếc ghe nhỏ sông nước bềnh bồng để sau nầy chàng làm thơ thương cha, nhớ mẹ, yêu nước, thương dân, gây dựng đàn con lũ cháu nên người hiển đạt, hầu đáp đền nghĩa mẹ công cha. Người Mẹ đã bảo, đã nạt chàng : Nước mất sao chẳng lo ? Mãi ham chi cái phù du cát bụi, Quên cuộc đời thui thủi đứa lưu vong ? Một ngàn năm, mũi vẫn tẹt, mắt đen tròng, Một triệu năm tóc đen màu kinh rạch, Là người Việt, sao mà thử thách, Ðổi da vàng ra trắng, hỡi con ơi !(Thơ Lửa). Mẹ của Phương Hà, người Mẹ Việt Nam, người Mẹ của tất cả ai ai nặng lòng cùng đất tổ, quê cha, những người mẹ bình thường, dung dị nhưng son sắt, kiên cường, chịu đựng long đong, mong ước duy nhất một điều con nên người thơm danh dòng họ, sáng đường lịch sử nước non.



    * ‘Ðẩy con xuống biển’ , nhan đề bài thơ sao bi thảm, nghịch thường, nghe ra chút nào bất nhẫn ! Ðành vậy ! Nơi đây là ‘đất chết’, con phải đi tìm sự sống phương xa. Giao con cho chiếc thuyền mỏng manh, ọp ẹp, lênh đênh trùng dương biển sóng, con có thể ‘chết’ vì đói, vì lạnh, con có thể làm mồi cho kình ngư, cho hải tặc vô luân, nhưng ít ra, còn môt tia hy vọng. :




    -…Ðành vậy thôi….Hãy lao mình xuống biển


    Phó thân cho bão táp, phong ba

    Mạng giao cho trùng dương biển cả…




    Bài thơ viết cho đứa con trai Sơn Ðiền, vượt biên năm 14 tuổi, may tấp lên đảo P.Bidon và được Canada nhận về cho tỵ nạn. Hãy hình dung cảnh đó. Ðứa con ngơ ngác, tức tưởi, lặng câm, bịn rịn, nói không thành lời, cố ngăn trào nước mắt. Và người cha quặn thắt, nuốt lệ vào lòng, đành đoạn cố khuyên : ‘Ði, đi con !… đừng ngó lại, Cũng đừng sợ hãi, Dầu biển Ðông đang sục sôi gầm thét, Dầu tha phương thân bé bỏng có lạc loài,..’: Chỉ còn ‘Cầu ơn Trên, Xin Trời Phật độ bình an…’ cho con được sống. Và ‘May chi còn sống, Thì nợ nước thù nhà con nhớ trả, Xích xiềng, bạo ngược…, hãy đập tan’. Con của Phương Hà, con của anh, của chị, của tôi, con của những ai vượt biển tỵ nạn Cộng sản, may mắn đến được vùng tự do, mai đây nên cửa nên nhà, nên danh nên phận, có còn nhớ cảnh chia ly ruột thắt gan bầm ? Ðể không quên ơn cha, ơn mẹ, nghĩa nước tình non, để đập tan xích xiềng bạo ngược, đem tinh hoa cứu nòi dựng nước, quyết không ‘cung phụng lũ gian tà’ !


    *Hai lần sa cơ, bị bắt, bị tù ; lần ba vượt thoát, được định cư nơi xứ Bỉ. ‘Vượt biển’, bài thơ nồng nàn tình tự quê hương cùng ý chí hào hùng nói lên chí hướng cùng ý nghĩa của lần ‘đành đoạn’ phải ra đi. Bỏ lại sau lưng ‘Cần Thơ, Bãi Sào, Mỏ Ó, Ngàn cây xanh ven bờ nước đỏ, rải rác thôn làng hiền lương đây đó,..Bãi cát cồn dâu, đong đưa hoa giấy đẹp đôi màu, Tình láng giềng sớm tối có nhau’, quê hương đẹp, thanh bình, tình người chan chứa, giờ đây dưới tay quỷ đỏ, ‘thân xác bỏ, cửa nhà tan, Ðất mẹ giận run ôm đón chút thân tàn’. Việt Nam ơi ! ‘Chia tay nầy, ôi đứt ruột….quê hương !’ Nhưng, đành xin ‘Quê hương thương, buông thả chúng tôi đi’ vì đàn con của Mẹ ra đi là để :





    -Ðun uất hận sục sôi ngàn độ

    Nghiến răng lay cho đến kỳ sụp đổ

    Lũ bạo tàn đang hút máu nhân dân

    Sách Mác-Lê giẫm nát dưới gót chân

    Quăng trả lại cho côn đồ man rợ

    Từ đó giòng Bách Việt sẽ đời đời ghi nhớ

    Dại khờ nào để lỡ mất quê hương

    Mà đắng cay tê lưỡi bao năm trường….




    Ra đi là để trở về với hùng tâm tráng khí của con người nước Việt. Chuyến vượt biển không riêng của Phương Hà mà chung cho cả hàng triệu người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản. Bài thơ là một thiên ‘anh hùng ca’ nói lên ý nghĩa cao quí của một ‘Ra Ði’, không riêng để lánh nạn mà là để nuôi chí xóa bỏ cái ‘tai nạn’ ghê khiếp nầy cho nước, cho dân.



    * ‘Mùi sữa mẹ’, tiếng khóc đứa cháu ngoại Bích Trâm, chào đời năm 1978 dưới thời Cộng sản, theo mẹ vượt biên vừa tròn ba tháng rưỡi. Bé vừa sinh ra đã khóc, dĩ nhiên, nhưng tiếng khóc như đã ý thức phận mình, vận nhà, cảnh nước. Bé phải khóc ‘vì khí quyển đã thôi xanh, Và nắng đã hết vàng…’ mà đời vẫn sắn vẫn khoai…’. Bé phải khóc ‘Khi cha mẹ mái tóc rối bời, Vì gốc Ngụy, Sớm tối còng lưng mà đời vẫn…vẫn..’. Bé phải khóc vì ‘Thương quê huơng chừ rách nát tả tơi, Mảnh thân sau không tìm ra thân trước,.. Người đi nước mắt chảy thay lời…’. Bé phải khóc !:




    -…Me ! Mẹ bảo sao con đừng khóc

    Trước khi mừng công khó nhọc mẹ sinh

    Rồi chợt nhớ tới mình

    Tay xinh vồ vú mẹ

    Có gì đâu, một khoảng ngực bao la

    Ðầy ắp yêu thương nhưng không giọt sữa

    Mẹ đợi cha về, nay là hai bữa

    Chạy giấy tờ mua hộp sữa ‘quốc doanh’

    Cho con no lòng

    Dầu da mẹ úa xanh

    Vì thiếu cơm, thiếu thuốc…




    Thơ hiện thực, đúng thôi. Nhưng trong cái hiện thực đó,, có nét gi lung linh qua ‘lối viết tự động’ (écriture automatique - phỏng theo quan niệm trường phái Siêu Thực) nầy. Mượn tiếng khóc bé thơ, nói lên cả tình dân, cảnh nước bi thương, phải chăng ít nhiều cũng là một lối ‘cách tân’ trong nghệ thuật ? Tiếng khóc tự nhiên khi lọt lòng mẹ đã trở thành tiếng kêu gào ‘phải khóc’. Bao trè sơ sinh theo mẹ theo cha vượt biển, nay nơi xứ người đã lớn, đã khôn, liệu có còn nhớ những lần ‘phải khóc’ như thế chăng ? Lời thơ ngậm ngùi, cảm động nhưng là tiếng nấc của con tim nơi mình (tác giả) và nơi bé nhỏ mà cảnh tình dân nước mặc nhiên như đã hằn sâu vào tâm thức ‘đứa cháu ngoại mỏng manh, Như giọt nước đầu gành, dấn thân theo mẹ Khi tóc còn chưa xanh’. Ðất nước, nhân dân lầm than nơi quốc nội đang cần những cái ‘phải khóc’ đó của toàn thể mọi người để biết ‘phải làm gì, làm thế nào’ cho hiện tại và mai đây.



    *Cái chết bất ngờ (vì tai nạn rủi ro nơi bồn tắm) cùng một lần của hai cháu ngoại nhỏ -Bích Trâm (đã nói trên) và Tường Nhi- là cái tang chung cho cả gia đình. Riêng chàng –ông ngoại chúng- ‘bủn rủn, kinh hoàng, chết điếng’. Cảnh thực trước mắt mà chàng ‘Tôi khó tin, Tôi khó tin có điều phi lý đó’ :




    -…Hai con chim nhỏ

    Giờ bay nơi đâu ?

    Ðể thương, để nhớ, để sầu

    Ðể đau buồn khoét rộng khắc sâu

    ……..

    Ngoài kia mưa nặng đổ mau

    Về đây với mẹ

    Lại gần đây ông cháu mình thì thầm, thỏ thẻ

    Cháu thương ơi !

    Sao dại khờ bỏ cha mẹ, cháu đi đâu ?…(Hai con chim nhỏ bay rồi)

    Bốn bài thơ cho hai cháu nhỏ nầy. ‘Cháu đi đâu ?’, ‘Hai con bướm trắng cành hoa nhỏ, Ðùa giỡn bay vòng thật dễ thương’ (Hư ảo), Vâng, chúng đã dễ thương bên nầy và vẫn dễ thương bây giờ nơi thế giới bên kia và nơi tấm lòng hồi tưởng của chàng ; thực ra, mỗi lần nhớ lại là ‘vần vũ trời đen, Chiều lên xao xuyến,…Bé vẫn đi rồi, Biền biệt…Còn đây khoảng trống bao la…’ (Hư ảo). Ngày Tuần 21 của hai cháu, chàng gởi một bó hoa cho hai bé, sụt sùi nhớ lại chuyến vượt biển , hai bé vẫn bên nhau cùng cha cùng mẹ, cùng ông trong hải trình nguy hiểm, thế mà nơi đất yên bình nầy, sao lại ‘Sinh ký tử quy, Liền em liền chị, Ði…không một lời từ biệt, Ði..một nơi xa hơn. Thật xa…’(Bó hoa cho bé). Ngày giỗ Giáp Năm hai cháu, nỗi niềm thương nhớ dậy dàng :




    -..Cháu ơi !

    Cúc màu vàng năm xưa không còn nữa

    Năm tháng thở dài bạc trắng giữa mùa đông

    Mùa đông trước, thinh không giông bão dậy

    Tấp về đây trăm nỗi nhớ bềnh bồng…

    Ôi, thương làm sao !

    Thương thật nhiều

    Thật nhiều…hai cháu có biết không… ?! (Bồng bềnh)




    Dĩ nhiên, hai cháu biết. Ðịnh mệnh nhẫn tâm, tàn ác quá! ‘Sao dại khờ bỏ cha mẹ…, cháu đi đâu ?!’. Ði đâu ?, thì hẳn biết rồi. Hỏi để hỏi thôi, hỏi để phần nào nguôi buồn, nguôi khổ, hỏi để tình ông thương cháu, lệ lên mi !


    * Và đứa cháu nội Tu Mi, nay đã thành danh nơi Canada nhưng chàng không thể nào quên được cảnh sống đọa đày của cháu sau Tháng Tư đen, cha bị tù, con lê lết kiếm ăn, nhục nhằn, tơi tả. Bài thơ làm ở Bruxelles ngày 16 tháng 01 năm1985 nhưng chàng tự đặt mình vào ngày còn ở Việt Nam trong chuổi ngày bất hạnh của.nước non. Chàng thấy mình bất lực không tròn trách nhiệm với con cùng cháu. ‘Lá thư để lại’ là lời trăn trối : ‘Ví thử, Mai đây tôi có thiên thu lặn vào giấc ngủ, Thì đứa trẻ nầy, tôi gởi lại cho anh…’.




    Ðứa trẻ đó, đứa cháu nội của chàng : ‘Giờ đây, tôi biết nói gì với anh, Về một đứa trẻ, Thế hệ đầu xanh, Nổi trôi khi gia vong quốc phá, Khôn lớn hôm nay như là phép lạ, Dẫu mười mấy năm thương tích vẫn chưa lành’. Ðứa trẻ đó, ‘Tôi còn biết nói gì với anh, Về một đứa bé, Chập chững thôi nôi, Vắng cha thiếu mẹ, Níu những bàn tay nứt nẻ tuổi đời, Ðầu bạc đầu xanh, Hụp lặn nổi chìm lây lất, Từ tuổi sa cơ nước mất nhà tan’. Thảm cảnh của cháu, ai gây nên ? Chàng trút tội lên đầu Cộng sản ác ôn cùng người Mỹ lật lường. Lời thơ tố cáo thẳng thừng :




    -Thế hệ bé rủi ro

    Lớn nhằm buổi không gian nặc nồng xú uế

    Một bên

    Những đứa chăn trâu, những tên đồ tể

    Chơi trò vô sản Mác-Lê

    Một bên

    Di truyền máu buôn nô lệ

    Quen với ngày xưa xiềng xích máu xương

    Phản phúc điêu ngoa tráo trở khôn lường

    Còng tay bạn bán cho quỷ đói….




    Ðịa bàn VN, nhân dân VN, từ 1954 đến nay, có thể xem là ‘món hàng’ bán buôn, mặc cả giữa hai nhóm người ‘lang sói’ đó. Chúng ta –anh và tôi- giờ đây không làm gì được nhưng đứa trẻ đầu xanh nầy, và bao bao nữa, nếu bao nguòi còn lại tận tình nuôi dưỡng, mai đây trưởng thành ‘Nó sẽ nói với anh, Nó phải làm gì nhân danh nhân loại, Ðương đầu với những đứa chăn trâu, những tên đồ tể, Mà tội ác giờ đây hôi tanh bốn bể’‘Ông cha mình ngày xưa không buôn nô lệ, Cũng chẳng dính chi bọn hung ác Mác-Lê’. Ðứa trẻ nầy -lớp hậu duệ của chúng ta- sẽ mai nầy đem tài đem sức diệt lũ ‘cùng hung cực ác’ đó để đất trời lại xanh, quê hương lại sáng và tinh hoa truyền thống giống nòi lại nẩy nở xinh tươi, thắm đượm tình người trên khắp giải giang sơn cẫm tú.

    Ðịa bàn VN, nhân dân VN, từ 1954 đến nay, có thể xem là ‘món hàng’ bán buôn, mặc cả giữa hai nhóm người ‘lang sói’ đó. Chúng ta –anh và tôi- giờ đây không làm gì được nhưng đứa trẻ đầu xanh nầy, và bao bao nữa, nếu bao nguòi còn lại tận tình nuôi dưỡng, mai đây trưởng thành ‘Nó sẽ nói với anh, Nó phải làm gì nhân danh nhân loại, Ðương đầu với những đứa chăn trâu, những tên đồ tể, Mà tội ác giờ đây hôi tanh bốn bể’ vì ‘Ông cha mình ngày xưa không buôn nô lệ, Cũng chẳng dính chi bọn hung ác Mác-Lê’. Ðứa trẻ nầy -lớp hậu duệ của chúng ta- sẽ mai nầy đem tài đem sức diệt lũ ‘cùng hung cực ác’ đó để đất trời lại xanh, quê hương lại sáng và tinh hoa truyền thống giống nòi lại nẩy nở xinh tươi, thắm đượm tình người trên khắp giải giang sơn cẫm tú.




    *Một tai nạn khác, một nỗi buồn u ẩn ngày đêm. Ðến xứ Bỉ, hai bàn tay trắng, chàng phải làm cật lực, bất kể việc gì, dù có phải nguy nan, khốn khó để xây dựng đàn con nên người. Ngày ngày rã rời lao động, ‘Tối tối đánh vần câu ngoại ngữ, Lạnh lùa khe cửa buồn dâng lên’ (Thu buồn Bruxelles). Vợ chàng, quán làng Phú Bông-Gò Nổi, một phụ nữ giỏi dang, thưở thanh xuân nhan sắc mộc mạc, mặn mà, cùng chàng dựng nên cơ đồ sự nghiệp. Sau khi vượt biển tỵ nạn ở nước ngoài, chàng thay đổi quan niệm sống, cho rằng sự nghiệp bằng mồ hôi cả một đời của cả hai người bị cướpđoạt như chơi vào tay của một nhóm Cộng sản vũ trang. Giàu sang, phú quí, của cải, tiền nong rốt cuộc chỉ là phù vân.Và chàng cho rằng ‘chỉ cái gì bỏ vào trong bụng mới không bị giựt mất’ hoặc ‘bỏ vào được trong đầu thì không còn sợ ai kiểm kê, quản lý’. Bây giờ, theo chàng, ‘cái xác’ chỉ cần vừa đủ để nuôi ‘cái đầu’ làm việc. Do đó, tại Bỉ, chàng làm việc đủ sống, để dồn thời gian vào hoạt động chống Cộng, trong khi con cái giờ đây đã có được điều kiện của xã hội Tây Phương cung cấp để theo đuổi việc học hành.. Sau biến cố bị Cộng sản « đổi đời », vợ chồng đã không còn được cái « cùng nhìn về một phía » ; từ đó có thể « cơm không lành, canh không ngọt », có chia tay cũng lẽ thường tình..Ngày 16.01.1985, nàng dắt theo con gái út Ly Ngọc và cháu nội Tu Mi qua Canada đoàn tụ với hai con trai đã định cư tại đó (sau nầy có thêm gia đình người con trai đầu là sĩ quan quân đội VNCH bị Việt Cộng cải tạo, theo qua), để giúp đỡ chúng đứng lên, hội nhập với đời. Và nàng đã thành công đáng nể : tất cả đều tốt nghiệp Ðại học, trong đó có hai Bác sĩ Y khoa.. Chàng ở lại Bỉ, cạnh ba người con gái khác đều nên danh nên phận (còn có một cô gái ở Mỹ). Chàng không màng danh lợi, tiếp tục hoài bão của mình với bao ray rức, buồn khổ khắc đậm qua thơ : ‘…quét hư ảo, thương tình sau nghĩa trước…’ hoặc ‘Hạ thành sầu, hề, trong men rượu thi ca’ (Cây bút nhỏ).. Khó có một bài thơ nào như bài ‘Tình cũ’ nhắc lại cuộc tình đầu vừa quê mùa, mộc mạc vừa lãng mạn, thắm thiết nên thơ : ‘Buổi thương đầu e ấp, Vùng vụng ngón tay đan, Ðứa têm trầu Việt An, Ðứa bữa cau Ðông Phú, Bệt chút vôi lò, Say say niềm phu phụ, Ðám cưới qua đò rộn rã nước sông Thu’,…’Trầu cay đôi má thêm hường, Bông cau ngỏ trúc mòn đường xuống lên, Năm thôn ăn chắc mặc bền, Thôn ươm thôn dệt tằm lên bủa đầu’,…’Một thôn đi sớm về trưa, Phơi nhung rải nhớ cho vừa người thương,…Nhớ em đâu kể đường xa, Duy Xuyên, Phủ Ðiện tắt qua Vạn Bùn’… Tình đẹp quá đi thôi ! Thế nhưng bây giờ :




    -Ngó lên Trung Phước Ðại Bường

    Gió chiều đổi ngọn ngưới thương đi rồi




    rồi đêm đêm, ngày ngày :




    -Em ngàn thương xứ Quãng

    Hun hút chiều tha hương

    Xa xuôi Trung Phước Ðại Bường

    Trăng mờ thềm lạnh người thương không về…(Tình cũ)




    ‘Người thương không về !’Năm 1988, chàng gởi thư ân cần xin nàng tái hợp nhưng nàng lặng lờ không hồi đáp. Bao bài thơ khác, dù viết cho con hay cho một chuyện tình nào đó, bóng hình người yêu đầu lãng đãng, xa gần mênh mang : ‘Quê xưa chuyện cũ mơ màng, Duyên xưa tiền định đá vàng là đây ! Trăng khuya về sáng non Tây, Sương khuya thấm ướt ngàn cây, lanh lùng !…’(Thương Thương). Người vợ bao năm, giờ đây trở thành người tình, người em gái phương xa để hằng năm, chàng gói quà với lời thơ rưng rưng nhung nhớ : ‘Từ dạo đất nước ngửa nghiêng, Gánh oan khiên mỗi người đi mỗi ngã, Lời hẹn ngày xưa tưởng như vàng đá, Bỗng một chiều trở gió phôi pha..’. Bây giờ ‘Anh ở, em đi’, gói quà hằng năm ‘Kỷ niệm cuộc tình, Như còn vương mãi đâu đây’ (Người phương xa).



    Tai nạn mình, tai nạn nhà còn qua bao bài thơ khác. : ‘Lạc con trên đường tỵ nạn, Sông Meuse, Ðêm phương Tây’,... Bao bài thơ khác, không là tai nạn mà là trường hơp vui : ‘Cháu tôi lấy chồng, Tóc tơ (mừng vu quy của Mộng Cầm),Tình cô gái Út (mừng Ly Ngọc tốt nghiệp Y khoa Ðại học Montréal),... Bất kỳ bài thơ nào, tình chàng cũng trang trải yêu thương. Một ngưới con hiếu thảo, một người chồng thủy chung, một người cha luôn trải đường cho con cái đi lên, một người ông luôn thương yêu, nâng niu từng cháu nhỏ, một ngưới anh, người em quí thương dòng họ ; tình gia đình nơi Phương Hà lúc nào cũng đậm, cũng sâu ; chính trong gian truân, tai nạn mà tình chàng càng sắt son, nồng đượm, lửa thương yêu chất ngất màu đào..






    Last edited by Poupi; 30-11-2013, 03:55 AM.

  • #2
    II.- Tai nạn nước : Ðây là chủ đề chính yếu trải dài suốt tập thơ, ngay cả nơi đôi bài thơ tình tự.‘


    *Hiệp Ðịnh Paris’, cái Hiệp định quái ác nầy là trò bán buôn, đổi chác giữa hai phe cùng tàn ác như nhau. Hiệp Ðịnh Paris , văn tự ‘bàn giao’ Dân Chủ Tự do cho Ðộc tài chuyên chính, văn tự chuyển chiến tranh lửa đạn sang một thứ hòa bình nóng bỏng (paix brulante), quái đản, man trá, giả hình. Một Hiệp định thảm sát Tự do, triệt tiêu Dân chủ, đưa Miền Nam rồi cả nước VN vào điêu tàn thống khổ trong tay bọn người ác ôn không chút lương tri, nhân tính. Hiệp định, chao ôi, lại do chính các ông chính khách thượng thặng năm châu hè nhau ký kết, đồng lõa dày vò tấm thân xác VN bao năm trời máu chảy xương phơi vì lửa đạn nay lại phải quằn quại trong cái chết lăng trì bỡi bàn tay quỷ đỏ . Paris tự do, Paris ánh sáng, biết chăng đã tự làm ‘ô nhục’ mình bỡi cái Hiệp định tàn ác kia không ? Ôi Paris !

    -…Biết hay không ? Giẻ rách bọc thân gầy

    800 ngàn chiến sĩ sa cơ : tù đày lạnh lẽo

    Khắp núi đèo heo hút

    Ðứt họng lòi phèo

    Vì 12 ngòi bút ký tại Paris ?!…



    Năm 1973, Hiệp định Paris được ký thì hai năm sau (1975), thảm họa trút lên đầu Miền Nam. Ngoại trừ cái công cụ bù nhìn MTGPMN’cuả Cộng sản Bắc Việt cùng số người tay sai, nằm vùng của chúng, còn thì toàn thể nhân dân Miền Nam, rồi tiếp theo cả nước, phải ‘cong mình’ mang lấy ách nô lệ thảm thương. Bài ‘Ngày Cộng sản tới’, viết theo lời một em bé gái nạn nhân, đang cùng trên đảo tỵ nạn với chàng, mô tả cảnh nhà vào những ngày đó : ‘..Tra khảo, tra khảo măi, Cho đến còn tay không,..Mẹ cha bị giam hết, Chị khóc mắt đỏ hoe, Anh rầu đòi được chết…’. Bài thơ năm chữ, thật thà đúng giọng trẻ nhỏ, tai nạn khủng khiếp giáng lên đầu bé thơ. Cái Hiệp nghị đó lẩn quẩn nơi đầu chàng, hình ảnh của hung thần, ác quỷ. Nơi trại Tỵ nạn Ungat, lòng tràn ‘U Uất’, ‘đêm đêm ngẩng mặt lên trời, Hỏi sao Bắc Ðẩu,…Thấy hay không hỏa ngục trần gian ?’. Con chàng, ‘đứa con đầu tôi đó, Cầm súng Quốc gia lúc vừa tuổi lính, Khi tan hàng chẳng ai gọi nó đi, Liên Xô, Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Và chín nước nữa tay vung bút ký, Trói chặt con tôi giao cho ác quỷ, Ngày lẫn đêm hút máu mài xương,…Hoà giải Paris, ai trách nhiệm ?’. Còn chàng và bao nhiêu kẻ khác ‘Ðêm gục đầu tẩy não, Ngày đội đá Phú Ninh (một trại tù Cộng sản), Hôm nay sắn khoai, Mai, khoai sắn, Mốt cĩng lại sắn khoai…Cuộc đời hun hút bóng đêm, Kể từ quê hương mình giặc chiếm !’Người tù sĩ quan cũ’ , ‘thưở cuộc chiến bốc cao không chết, Mà nay hòa bình lại chết mòn ‘Cải tạo’ trong lao !’ chỉ bỡi vì nghe lời quỉ mị, ’cũng bỡi tin tưởng loanh quanh, Ðồng minh, Siêu cường, Paris hiệp nghị !’. . Vâng, chính cái Hiệp Nghị tàn khốc đó đã tạo điều kiện cho bọn ‘ngợm người’ liềm búa lên ngôi chúa tể, tàn sát nhân dân.



    *Thảm họa chung cả nước, ai người không đau ?! Những ngày ở đảo cũng như bao năm trời nơi đất tạm dung, nhìn mình đơn côi, thấy mình bất lực, trong lúc đồng bào, đất nước trăm bề, nghìn nỗi nát tan, chàng phẫn nộ, căm thù quân giặc nước. Những ai đó đang hô hào đấu tranh, những ai đó đang vùng lên diệt giặc, chàng vui mừng, xin đem thân làm bó đuốc cho hào khí lên cao, cho khí hùng bốc sáng : ‘Này đây, Xin giao lại các anh, Chiếc thân cao vừa đầy thước sáu, Với 50 cân : Óc, tim, xương máu, Ðốt lên đi !’. Chút nhục thể nầy do đâu có ? Nó được khai sinh từ đất mẹ :

    -Từ Trường Sơn

    Từ sông Hậu, sông Tiền diệu vợi

    Hùng thiêng sông núi đẻ ra tôi

    Sữa Cửu Long nuôi tôi từ thưở bé

    Cát biển Ðông lót nhẹ dưới lưng nôi

    Ðồng miền Nam mớm gạo Tám thơm, thơm nức,

    Chiều mẹ ru rưng rức mấy câu hò

    Biểu tôi rằng : -Nước mất nhớ phải lo !…

    Cứu nước ! Thề cứu nước ! Các ‘Bạn đây rồi : cùng núm vú, một quê hương’. Thân tôi đây xin hiến dâng làm bó đuốc.

    -Ðốt lên đi ! Cứ đốt lên đi !

    Tôi cháy ở đâu cũng được

    -Trước Liên Hiệp Quốc

    Ba Lê hay Nữu Ước



    Hoặc bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam

    Cùng diệt Cộng : lũ côn đồ hung ác, gian tham

    Chặt xích xiềng, tiêu hủy vạn trại giam

    Nhứt tề giải phóng Bắc, Trung, Nam…

    Lời thơ như lời hịch, kiên cường dũng mảnh, ăm ắp tình quê hương, ngun ngút chí quật cường. Bài ‘Thơ Lửa’ rực ngời ánh thép, một bản ‘anh hùng ca’ trữ tình thời thế, trữ tình nước non. Ta hiểu ra nỗi căm thù Cộng sản cùng nỗi lòng tha thiết với quê hương đậm đà, sâu sắc của Phương Hà trước ách nước, nạn dân. ‘Lời Thề máu 30.4.82’, thêm một hùng ca dũng mãnh, một lời thề sắt thép cứu quê hương. : ‘Một : Không, 30/4 nầy không còn là Quốc Hận, -Là Quốc kháng ! Hai : Không, Không ! Năm 82 không còn Quốc hận, Thét lên : Là Quốc Kháng !…Thề….

    -Thề triệt tiêu quân bán nước

    Thề đốt xác lũ buôn dân

    Giải phóng quê hương, dựng nước lần lần

    Tiếp dưỡng khí cho giang sơn đứng dậy

    Hà sinh khí cho giống nòi vùng dậy

    Vung nốt đường gươm diệt Cộng trừ tà…



    Lũ con lại về

    Run run hôn nền đất mẹ

    Mẹ Việt đời đời, Mẹ Việt của ta !

    Suốt bài thơ là lời kêu gọi đấu tranh, là trường thiên yêu nước. Lời thơ hưng phấn, lời thơ giục giã, lời thơ đem lửa vào tim, đem sống vào người, hạo khí tràn dâng theo ngọn bút.



    * Nỗi buồn xa xứ quanh quẩn không rời. Mùa Giáng Sinh yên bình nơi đất Bỉ, (bài : Giáng Sinh nầy), nghĩ đến tình thương của Chúa để hiu hắt thêm tình thương nơi mình. Nhớ quê hương : mái tranh, hương rạ, lũy tre làng, , khói cơm chiều, đồng lúa mạ xanh tươi,…Nhớ ‘mẹ già đơn chiếc tuổi non trăm’, nhớ ‘đường xanh bóng trúc, tà áo bay, Tình xưa nghĩa cũ’,…Nhớ, nhớ, và…nhớ ! ‘Từ đó’, nhớ hoài, nhớ mãi, khôn ngưôi ! Cô gái nhìn mọi người vui đêm ‘dạ vũ’, nhớ cảnh đời thơ mộng ngày nao : ‘-Uống đi em ly nầy, Cốc nữa, Cạn đi em cho nghiêng ngửa tim sầu, Cho niềm đau lịm tắt giữa đêm thâu !…Người quá vui, Sao em chỉ thấy buồn nhiều…’ (Từ đó). . ‘Nhớ bao nhiêu,…nhớ cho vừa, nhớ bao nhiêu nhớ mắt mưa lệ hồng’ ! (N.T.). Nhớ anh hùng liệt sĩ đã chết cho quê hương. ‘Ôi, Bá ôi ! Thôi còn anh đâu nữa, Nợ non sông đứt gánh giữa đường…’. Bài ‘Tiếc Thương’ vừa truy điệu chiến sĩ Trần Văn Bá, vừa xưng tụng chí anh hùng vừa bày tỏ niềm tiếc niềm thương lai láng :

    -Bá ôi, Kim thân anh dầu nay đã ngã

    Nhưng khí thiêng hừng hực

    Gương anh hùng sáng rực một phương Ðông

    Linh thiêng xin dẫn dắt anh em

    Dựng ngày trở lại

    Vong linh anh

    Xin nhận nén hương nầy

    Phục thêm một lạy…

    Nhìn người vui Giáng Sinh mà thêm thấy phận mình hiu hắt. Còn tìm vui nơi đâu ? Ðây rồi ! ‘Ngôi Làng VN tại Bỉ’ tưởng như tại đất nước quê mình. Vui sao, ‘Nghe gọi về làng’ :

    -Mười năm xa xứ

    Chiều nay khựng lại bước lang thang

    Ðê mê…ai gọi : Về làng

    Về làng…chao ôi

    Rưng rức…Xốn xang…



    Mẹ ơi ! Chiều nay lũ con về lại

    Thăm ngôi Ðình Mẹ

    Viếng mảnh Làng Cha

    Xót xa, thương cha, nhớ mẹ

    Ðám con về làng

    Rộn ràng…nước mắt ứa ra.



    *Bài thơ nào cũng ngát thơm tình dân tình nước ; bài thơ nào cũng phong nhụy nghĩa mẹ công cha ; bài thơ nào cũng xót thương thân phận mình, thân phận nước ; bài thơ nào cũng hừng hục lửa đấu tranh, cũng căm hờn bạo lực, bạo quyền đang đè đầu bóp họng nhân dân. Từ người tù ‘cải tạo’ lê lết thân mòn, từ từng người, trẻ già lớn bé, sống dở chết ương nơi thủy lợi hay vùng kinh tế mới, từ người cha lạc cháu, người mẹ mất con, người vợ lạc chồng, người thân làm mồi cho cá biển,…mọi cảnh tang thương đều được phản ảnh qua thơ Phương Hà. Thơ đau, thơ khổ, thơ buồn, thơ xót thương, sầu tủi, thơ của con tim nồng ngát yêu thương và sục sôi thù hận, căm hờn. Ðau đớn sao cảnh đồng hương bị làm mồi cho hải tặc !. ‘TIM’, nàng đi tìm lại trái tim người. Nàng đẹp ‘Nàng thật đẹp vào hàng hết sẩy, Nếu có tên nào chơi ngang thọc gậy, Không chắc chi tôi giữ được nàng…’. Thế mà, ‘Bị hải tặc đốn rồi trên đảo vắng hoang vu, Kẻ thân thương đã vùi thây đáy nước mịt mù, Nàng ở lại bầm giập kiếp tù, Tại Thái Lan qua nhiều ổ điếm’…‘Ðược cứu về nơi đất định cư,…Nàng khiếp ghê đồng loại, Từ tập đoàn Cộng sản ác ôn, Ðến bầy hải tặc, Rồi hằng hà những tên hiếu sắc, Thân ngọc tả tơi,…Hồn thành chai đá…’. Lúc gặp lại chàng, ‘chút ân tình sưởi ấm lại con tim’ mới biết

    - ‘ít ra còn có con tim trong thân xác con người’. (Tim)

    Cảnh nầy, không phải ít. Nhìn vợ, nhìn con bị hải tặc hiếp dâm mà không thể nào kháng cự. Bao kẻ chống lại, bị chém ngang người, quăng thây xuống biển. Bao cô gái nạn nhân, may không bị bắt, đành ôm ‘ô nhục’ theo chồng, theo con, đến miền đất lạ. Không rõ bao người tỵ nạn hiện nay, trên các chuyến bay từ Mỹ, Úc, Pháp, Ðức, Canada,…về VN du lịch, mua vui hay chạy chọt cùng bọn tà ma Cộng sản tìm lợi, tìm danh, có nghe chăng bao oan hồn chìm sâu đáy bể, vất vưởng về nhỏ lệ bên tai để bồi hồi sờ ngực, xem lai trái tim có còn chăng nơi thân xác người mình ?!



    *‘Trường Hận’, một trường thiên đầy uất hận, khổ đau, nồng sôi ý chí kiên cường. Hai vợ chồng trẻ, nghe lời cha ‘Thoát thân đi con, để mặc cha,…Nếu con còn bịn rịn, Bên sông nầy cha quyết định hy sinh’.Chuyến vượt biên ‘Hai ngày trời nước, …Ðụng thuyền hải tặc..’, thế là ‘Em run rẩy…áo quần xé sạch,…Thân thể xác xơ ; giập vùi, rách nát, Ngày liền đêm trên sóng nước mịt mù ! Thoi thóp,… ngất ngư, Tiếng cười…Tiếng rú…’…’Một tháng chán chê vứt bỏ lên bờ, Lê lết xin ăn, về khu tỵ nạn…’. Người chồng, may sao, một mảnh váng trôi ngang đã cứu mạng chàng. Trại Songkhla, ‘Ðịnh mệnh khiến xui bên giường bệnh xá, Gặp nhau, ngỡ ngàng..’ Nàng đau đớn bảo :’Nước mất,…thôi rồi mất cả !’ và bảo chàng : ‘Ði đi anh,…Tổ quốc đang chờ, Cha già, em dại, bến bờ còn xa !’. Vì, nàng bây giờ : ‘Hoa xưa giờ đã bèo nhèo, Còn đâu hương nhụy mà đèo bướm ong,…Quên đi anh, những tia nhìn đáy mắt, Hẹn cho nhau hương sắc một trời yêu,…Nhưng hết rồi ! Vĩnh biệt anh yêu !’. Chàng đâu nỡ :

    -Em…Em

    Nuốt ưu phiền

    Em ở lại với anh

    Hai đứa mình một chung mất nước

    Hai đứa mình một chung ô nhục,



    Nuốt đi em

    Nuốt cừu hận đang sôi sùng sục

    Trui gan, luyện thép

    Quyết mực trở về

    Hạnh phúc của mình, niềm vui kẻ khác

    Mai mốt về rồi, mất mát sá chi !

    Khổ nạn tột cùng, đau thương dằng dặc ! Không rõ bao nhiêu người tỵ nạn ‘một sống mười chết’ trên đại dương, bao nhiêu phụ nữ từng bị ‘ô nhục’ như trên, có nghĩ đến tang thương của giống nòi dân tộc, có biết phải ‘trui gang, luyện thép’ hay lại cúi đầu xin xỏ lũ tà ma để ‘xênh xang áo gấm về làng’ hưởng lạc, tìm vui, trút thêm đọa đày lên đầu cổ nhân dân !?.



    *‘Chuyện chiếc áo’ cũng đau buồn, cảm động không kém. Bài thơ năm chữ, 25 câu, đơn sơ mà xót xa lòng dạ. Một người thân thiết ở trong nước, bị bệnh, viết thư xin áo rét: ‘Thư em gởi đầu đông, …Xin anh chiếc áo bông’, ‘Nhận thư em mùa xuân, Ðông thiên không còn nữa’, ..Áo anh gởi đầu hạ, Thương nhớ từng gút đan,…Áo tìm em cuối thu, Bao bì bong rách nát’.., , nhưng rồi ‘Tin buồn nhận đầu đông, Mực loang loáng màu hồng, Em ơi ! Sao đi vội…Áo về, em biết không… !? Thư xin áo đầu đông, qua bao mùa ngóng đợi, đầu đông sau, áo về thì em chết (nơi viện Bài Lao) Chuyện bình thường nhưng ai trong cảnh đó mới thấy tất cả bi thương của con người trong một xã hội nơi đâu cũng bần cùng, khốn khổ.. Ở vào thời điểm 1975 – 1988, thư từ, quà cáp ở nước ngoài gởi về bị chận lại kiểm duyệt, lục xét, ứ đọng thường một, hai tháng, nhiều khi không đến tay người nhận. ‘Áo về, em biết không !?’, câu thơ vừa than vừa hỏi, than và hỏi với chính mình. Câu thơ quá bình thường, lời thơ quá nhẹ nhưng sao thắm thiết, đớn đau! Hãy hình dung cảnh đó để thấy thương người con gái nghèo kia , để thấy lòng mình cũng đìu hiu, tan nát, day dứt ngậm ngùi.





    *Ðau, buồn, thương, nhớ, giận, hờn chắt chiu từng nhịp thở. Mỗi một sự việc đơn sơ nhưng gơi lên nỗi nước, tình nhà cũng đủ khiến chàng vui, quên sầu buồn u ám nơi đây và rực tin vào vận hội non sông nay mai sẽ đến. ‘Ðêm Văn Nghệ Hoài Hương’ của Hội Cựu Quân nhân VNCH tại Bruxelles, ngày 05/04/86, nhìn những em bé 5 tuổi ‘cũng riu ríu nhón chân vũ như đàn chị, Tay thơ, em cũng vẽ vòng hoa bướm, Gót nhỏ, bé cũng sè sẹ chân chim,…, 5 tuổi đầu đã phục vụ quê hương’ . Hình ảnh em đem vui vào chàng : ‘Thấy mà thương ! Trông thì biết, Nẻo hồi hương đã trổ lối, trao đường’. Năm 1992, ‘Bảy người tuyệt thực’ , suốt ba ngày (10, 11, 12), 48 giờ tuyệt thực tại Bruxelles, đồng thời xin chữ ký, đấu tranh đòi Nhân quyền, Tự do, Dân chủ cho đất nước, đồng bào.’Hơn năm ngàn chữ ký tán dương, Của khách dừng chân thán phục bên đường’, bảy dũng sĩ kiên cường đã ‘làm ngạc nhiên dư luận Tây Phương…Và nhắc nhở từng những ai mất nước, tan nhà’. ‘Những Anh Chị chung đường’ với ‘Pénélope Ỷ Lan Người Ăng-Lê mắt xanh, tóc vàng, hò ù ơ láng cón ; phụ nữ người Nga, chị Irina, Với giọng Bắc điêu luyện, thiết tha Bên Canada, anh John, người Âu, chữ nghĩa thắm ra da, Dòm xem hạnh phúc tới đâu với chị Biên Hoà, Và ‘Chị Lynn người Úc, rồi chị Daléna…Kẻ tiếng miền Trung ríu rít, Người giọng Nam chơn chất thật thà, Phơi trải tâm tình bằng ngôn ngữ Việt Nam ta’. Chỉ nhìn các người ngoại quốc nầy, hát, nói tiếng Việt Nam, đủ cho chàng ‘tim ran hừng hực, nước mắt rưng rưng, Quê hương cuối trời thăm thẳm, Niềm nhớ thương trăn trở bừng bừng’.



    *Nỗi niềm đất nước, tình nhà luôn ấm ức. Lang thang, nhìn ‘Rừng Ardennes tuyết phủ’ (vùng núi gần Liège,Bỉ quốc) như thấy ‘Mây sầu mờ quê cũ’ rồi nhớ bao vần thơ quê hương. Thơ Cố đô, Thơ Nha Trang, Thơ Ðà Lạt, Thơ Sài-Gòn, những lời thơ, cảnh đẹp, tình nồng để ‘Ðêm đêm thầm nguyện ước trong mơ, Thấy lại quê hương đặng đan thơ gấm vóc’ . ‘Nhớ’, nhớ quá đi thôi ! Nhưng bây giờ ‘Ðất không còn đẹp như lời ai nói, Tim không xanh như thưở mới thương người’ (hai câu thơ của Thùy Dương Tử), thì thơ thế nào ?

    -Nhưng chợt tĩnh, Nước đâu còn cho mắt khóc

    Ứa ra thơ, thơ thắt ruột bầm gan

    Thơ hận sầu, thơ rên siết thở than(Nhớ)

    Rồi người em gái Bỉ, nơi dòng sông Meuse ‘Xanh màu mắt’ nhìn người tỵ nạn lang thang, hiểu ra ngay :’Người lưu vong, Vẫn thả hồn nhớ tiếc, Một quê hương, Giờ đây lận đận bên kia trời,…Mang cội nguồn giống dòng bất khuất, Liều mạng mình cho biển cả, ra đi ! Phân nửa, lòng đại dương đời đời an nghỉ, Kẻ sống còn ôm mãi hận sinh ly’ (Xanh màu mắt).

    Rồi nhạc ! Nhạc Trịnh Công Sơn, ‘Nhạc trói tay rồi vuốt mắt Miền Nam uổng tử, Nhạc đẩy hàng triệu người lang thang dật dờ thân cô lữ, …’. ‘Yêu Ly’, Khánh Ly, em hồ ly, em gái nhỏ yêu ly, giờ nơi đất khách, ‘Mười hai năm thanh sắc vẫn dậy thì’, em vẫn hát nhưng ‘Giờ em hát kể lễ ngày đi, Và ươm ngày trở lại, Tôi, tôi vẫn thương mãi mãi, Em ru buồn -Nhưng không nhạc Trịnh Công Sơn- Cho đến chừng mô về được, tôi mới thôi hờn’ (Yêu Ly)

    Cứ thế, cứ thế, sầu, buồn, đau, nhức, triền miên !



    *Thơ và nhạc, nhạc và thơ, thơ yêu nước, nhạc thương nòi. Thơ nhạc quê hương rủ rê nhớ tiếc, bật lên uất ức, hờn căm. Ðêm Văn nghệ của Cộng Ðồng người Viêt tại Bruxelles năm1985, nghe ca sĩ Nguyệt Ánh thánh thót những bài tình ca sông núi, Phương Hà xuất thần làm bài thơ ‘Nguyệt Ánh’ vô cùng trác tuyệt :

    -Mười năm không ánh trăng

    Ðêm nay em về đó

    Người em gái nhỏ

    Tóc mây dài bỏ ngỏ ôm lưng…

    Hiện thực là Nguyệt Ánh đang ca nhưng âm hưởng lời thơ đưa dẫn ta đến những gì xa xôi, trầm mặc, ra ngoài tầm hiện thực. ‘Mười năm không ánh trăng’, vừng trăng diễm huyền, kiều mỵ, kẻ ‘bằng gia’ (ami de la maison – M. Heidegger) của tình ái, của con người, của non nước về đêm.. Mười năm rồi, quê hương chết lịm nơi quê nhà thân ái. Mười năm rồi, quê hương là chiếc bóng nơi lòng người lữ thứ, lưu dân. Ðêm nay, trăng lại về với bóng dáng Em, với tiếng hát của Em, nhạc vàng muôn thưở ái ân thắp sáng non nước điêu tàn, làm sống lại hình ảnh nước non nơi lòng người hiu hắt. ‘Em về đó !’, đó là đâu ? Chẳng gì khó hiểu nhưng câu thơ dìu ta vào nỗi nhớ, niềm thương cùng hiển hiện trong tâm trí hình ảnh quê hương đang nghìn trùng xa cách. Quê hương về lại đó, sáng tươi, kiều diễm sau mười năm tăm tối, âm u, vì Em, Em đã về với ‘Tóc mây dài bỏ ngỏ ôm lưng, Son phấn dửng dưng, Chẳng se sua là lụa, Em yêu kiều, Em vẫn của ngày xưa’. Lời thơ giản dị, quá giản dị nhưng sao phảng phất nét màu lung linh, huyền ảo vừa như sáng rỡ huy hoàng vừa như mộng mị, liêu trai. ‘Em về đó’, ‘có phải em về đêm nay’ (thơ Nguyên Sa) hay ‘Có phải nghìn thu bờ mộng cũ, Nẻo về trăng trắng gái liêu trai, Trần gian tình lạnh lòng thi tử, Em đến bên hồn, anh ngỡ ai !’ (không nhớ tên tác giả). . Nguyệt Ánh, ai cũng biết rồi, cô ca sĩ bình dị, hiền hoà, hoà đồng cùng mọi tầng lớp đồng bào hải ngoại, đem tiếng hát lời ca truyền cảm ru ngọt tình tự nước non, tác động lòng người căm hận bạo lực, bạo quyền, nung chí chiến đấu xây dựng cảnh đời sáng sủa, tươi vui cho đồng bào quốc nội. Cô ca sĩ đó, trong đêm nầy đã khiến khán thính giả, trong đó có Phương Hà, nôn nao xúc cảm. Cô ca sĩ đã ‘Em mang về đây tất cả quê hương,…Em khơi lại đây, Những ăn năn dại khờ lầm lỡ, Những cuộc đời tan vỡ bỡi buông tay’. Và chàng sôi nổi : ‘Hát đi em, Hát cho bứt bỏ nỗi sầu, Mười năm lây lất, …Những đứa như bọn qua, Mất nước tan nhà, Băng giá sẽ bao vây trọn kiếp…, Kể chi Tầm Dương em ôi, Bến nước mất lâu rồi…’. Cô ca sĩ đã khóc, để chàng : ‘Bọn qua đây, Lắm khi cũng thức trắng đêm nằm, Nhớ thương quê mẹ, Ruộng lúa. Bờ tre. Ðường me. Lối xóm, Những ân tình đầu phường cuối khóm, Những thương yêu ruột thịt tràn trề, Bỗng giặc về, Rách nát…lê thê’. Chàng thấy ‘có phải em say, Với tiếng ca bay vút, Thả căm thù ngùn ngụt,…Nhân loại qua em thấy tay quỷ đỏ, Nhầy nhụa máu tanh, Múa mỏ, Khua nanh, Nhân danh chi để siết họng dân lành ?’. Tiếng hát và nỗi lòng cô ca sĩ đã làm dậy lên nhiệt huyết bừng bừng :

    -Ủa, sao mắt em long lanh

    Rực lửa…

    Rồi trống lặng

    Ðàn ngưng

    Âm thanh không gào nữa

    Chỉ còn máu trong tim lửa đốt dậy sôi

    Ngàn cánh tay lao vút để rồi

    Thét cao thề diệt giặc !



    …Người em gái nhỏ

    Với suối tóc dài bỏ ngỏ ôm lưng

    Với lửa Tin-Yêu bốc cháy phừng phừng

    Nguyện hiến thân cho Tổ Quốc…

    Bên ngoài mưa lất phất đã thôi rơi…

    Bài thơ tâm tình mà sục sôi lửa hận. Bài thơ đẹp cả lời lẫn ý, vừa trữ tình lãng mạn vừa thắp sáng niềm tin cùng ý chi kiêu hùng chiến đấu.



    *Tháng 10 năm 1987, cũng tại Bruxelles, trong bài ‘Gặp lại’, giọng ca Thanh Tuyền, lần nữa khiến chàng ngun ngút buồn đau, u uất cùng niềm tin tưởng vùng trời lồng lộng trăng sao của quê hương mai nầy. Thanh Tuyền, cô ca sĩ nổi tiếng trước 75 cho mãi đến naydù tuổi đời có theo năm tháng lên cao. Bao bài ca ‘Mười năm gặp lại, Nửa đêm ngoài phố, Ðưa sáo sang sông, Xa quê hương, Ðồi hoa sim tím, Tạ từ’ , giọng nàng ngọt như nước dừa tươi, lời mềm như nhung lụa, như muốn nói với mọi người : ‘Ðường chiều trăm vạn ngã, anh ơi ! Hãy nghe tình em trong tiếng hát, Hãy đến với em trong nốt nhạc, Mà âm ba quấn quít đến ngàn đời’. Và quê hương bên kia bờ đại dương, thanh bình, ấm êm thơ mộng thưở nào lại hiển hiện trong buồng tim, khối óc. Niềm tin tưởng dâng lên để :

    -Và em… , em có biết

    Ðêm nay qua ánh đèn màu

    Anh uống trên môi em từng hơi thở

    Anh chìm trong mắt em ngổn ngang sợi buồn nức nở

    Anh ôm gọn thân em trong âm hưởng ngọt ngào

    Thẩy em về nơi vũng cũ trăng sao !…

    Câu cuối bài thơ quá hay : ‘Thẩy em về nơi vũng cũ trăng sao’. ‘Thẩy’, động từ tiếng Quãng, có nghĩa ‘quăng, ném, liệng’ đi, không thương tiếc. ‘Vũng’, chiếc ao nhỏ, bẩn dơ. Câu thơ như một rẫy ruồng, vứt bỏ. Không phải thế. Mai đây, chúng anh về, đem tình thương thay cho bạo lực, đem ánh sánh thay cho tối tăm, sẽ biến mảnh đất VN bé nhỏ như chiếc ao con trên bản đồ thế giới, giờ đây đang sình lầy, nhơ nhớp trong tay lũ bạo tàn sẽ trở nên trong sáng như thuở nào lồng lộng trăng sao. Dù em có tha thiết cảnh sống văn minh, hào nhoáng xứ người thì các anh cũng kéo, cũng lôi, cũng ôm tấm thân em theo, trả em về cho mảnh đất quê hương bé nhỏ nhưng ngọt ngào tình tự nhân sinh như những bài ca em đã hát. Câu thơ là một mỹ từ pháp, thoạt nghe như một tương phản giữa ý và lời. Thực ra, hình ảnh tương phản nầy lại làm đậm sâu tình ý vì Em, Thanh Tuyền, ‘em yêu kiều, Em vẫn của ngày xưa’ (Nguyệt Ánh), vì Em, Thanh Tuyền, giờđây ‘mắt em ngổn ngang sợi buồn nức nở’, và thân emmênh mang ‘âm hưởng ngọt ngào’ của đất trời nước Mẹ. Với tâm tình đó của em, Thanh Tuyền, làm sao các anh bỏ em lại quê người, làm sao các anh không ‘thẩy’ em về nơi quê cũ khi lũ các anh về rực rỡ màu cờ vàng tươi xứ sở thân yêu ?



    *Du lịch qua bao nhiêu nước, bao nhiêu nơi, không phải để nhìn phong cảnh, để chụp đôi tấm hình mà để trang trải, trao gởi nỗi niềm ăm ắp nơi tim. Nỗi đau nhà, ‘mất nước’ theo gót lảng du qua bao miền, bao xứ.

    -Thành Athènes, Hy Lạp, dừng chân trước tượng Nữ thần Aphrodite ‘tươi tắn dung nhan kiều mị, ..Thần hớp hồn kim cổ tu mi’, không phải để ngắm nhìn giai nhân sắc nước hương trời mà để :

    -Aphrodite, Nữ Thần ôi !

    Bước xuống đi thôi

    Giúp tôi

    Cậy phụ thân, Thần Zeus

    Sấm sét ra tay xé nửa mặt trời

    Gọi Arès –anh nàng- mời cùng trợ chiến

    Thỉnh cho bằng được Poséidon quậy tung bốn biển

    Và Héphaistos - cậu thần em ngàn đời nổi tiếng

    Ðốt lửa vung chơi vũ trụ càn khôn

    Ðâu lưng nhau đánh một trận mất còn

    Diệt kỳ tận búa liềm quân rợ đỏ….. (Nữ Thần Aphrodite-Mai 1989)

    Rồi xị Bambas vừa cạn, ‘để xác thù ngổn ngang nằm đó’, chàng ‘theo Nữ Thần về tận đỉnh Tro-odhos’ , nhìn lại đồng hương mình ‘thoáng xa dần trong mắt ngọc giai nhân’, vị Nữ Thần của ‘Tình yêu bất tử’. Dưới mắt chàng, Aphrodite không còn là vị nữ thần lăng loàn, ghét ghen, đố ky, tranh giành ngôi vị đệ nhất giai nhân với Héra và Athéna, đày đọa Perséphone (nữ thần địa ngục),…mà nhan sắc đó cùng tình yêu chan chứa đó là sức sống, là sức mạnh diệt bạo trừ tà cho thế gian được cuộc sống miên viễn an lành. Ôi, Aphrodite, Thần ơi, hãy cảm ơn Phương Hà, người VN tỵ nạn Cộng sản, đã nhìn nàng vô cùng đẹp, đã hoàn phục nơi nàng tính thể, cái chân tính của nhan sắc và yêu đương. Hãy từ bỏ hết, để ‘gá nghĩa’ cùng chàng đi, hỡi Nữ Thần Aphrodite, để muôn ngàn đời, nàng luôn luôn diễm lệ, để muôn ngàn đời, nàng là ‘ân nhân’ của sự sống, để muôn ngàn đời, nàng là Tình Yêu thánh thiên, để muôn ngàn đời, nàng là cái Ðẹp của Nghệ thuật, Thi ca. Cái MỸ phải đi đôi với cái THIỆN nơi thơ Phương Hà, như vậy đó.



    -Dừng chân ở Sevilla, Tây Ban Nha, nhân Triễn Lãm Quốc Tế 1992, xem ‘Vũ Ðiệu Flamenco’, nhìn Senorita, người con gái Espana ‘Thuở xa xưa, em đã từng mất nước, Bảy trăm năm,…’ đến bây giờ ‘em vẫn còn u uất, Hận không nguôi…’. Flamenco, một trình diễn nghệ thuật vừa hát, vừa nhảy, vừa nhạc với đàn Tây Ban cầm và tiếng đập tay, kết hợp lối cổ truyền của dân Bô-hê-miên (gitan) với điệu dân ca người Andalousie có truyền thống Ả Rập. Vũ điệu Flamenco có lẽ ngầm ý nhắc lại thời Tây Ban Nha mất nước về tay Ả Rập Hồi giáo và tinh thần chiến đấu chống xâm lăng. ‘Vũ khúc Flamenco, Gọi hồn lên đuôi mắt, Tây ban cầm réo rắt,..Gót nhỏ xung thiên cuồng nộ, Vó ngựa truy thù vang dậy cố đô xưa…’. Phương Hà tìm thấy nơi vũ điệu nầy nỗi hờn mất nước xưa kia của Tây Ban Nha rồi liên tưởng đến phận mình cùng quê hương bị mất về tay quỷ đỏ, nên ngậm ngùi :

    -Senorita

    Người em gái Tây Ban Nha

    Tôi xót xa, em có biết ?

    Bỡi đang là người mất nước giống xưa em

    Ðể giờ đây lê gót chân mềm

    Trên quê hương em đó

    Làm cuộc viễn du

    Nghe đau cho số phận quê mình….

    Nhưng không, Tây Ban Nha đã vùng dậy và bây giờ là quốc gia khá phát triển so với các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Việt Nam ta rồi cũng thế, nay mai. Senorita, em, em đã có người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản chia xẻ nỗi buồn em đó và vũ điệu Flamenco có nhắc nỗi sầu nhưng chính để kích thích đấu tranh cứu nước, với Granada ‘bản hùng ca bất hủ,…Theo em, gót vũ xinh xinh, Diệt ngoại xâm cứu nước, dựng cờ’ (Vũ điệu Flamenco).



    *Mỗi gảy đổ nơi đâu của Cộng sản cũng khiến Phương Hà phấn khởi. Chàng hầu như đã đến gần khắp vùng Ðông Âu để ôn lại thảm cảnh các dân tộc nầy dưới liềm búa, lưỡi lê, xe tăng, đạn pháo cùng gót giày hung bạo của Cộng sản, và để chứng kiến niềm vui của họ thóat ách bạo tàn.



    -Hai bài thơ về bức tường Bá Linh. Năm 1987, nhìn Em, bức tường ô nhục mà dậy ‘Niềm đau ô nhục’ cho cả thế gian. Bức tường chia cắt Ðông-Tây, bức tường chia xẻ tình người, một bên quỷ dữ, thét gào giết chóc; một bên người nguời náo nức dựng đời vui. ‘Cúi mặt bước đi đầu đang suy nghĩ, Giựt mình cụng trán bức tường điên, ‘Ô nhục’ làm sao, chặt đứt đôi miền, Ðành đoạn…, còn chi thân vóc ngọc !’ . Bức tường đó, hai năm sau (1989), ngã gục : ‘Em gục xuống là điều phải lẽ, Bỡi dối gian có tồn tại bao giờ’ (Bức tường Bá Linh). Bài ‘ Bức tường Bá Linh’ đã được cô Công T. Tôn N – HD, nữ sinh viên du học, ở lại tỵ nạn tại Ðức, vùng Bá Linh, viết thư xin chàng cho nàng dành quyền phổ biến trước ai ai vì nàng là nạn nhân sống tại nơi đây. : ‘viết về Bá Linh thì người Việt tại Bá linh phải được đọc trước’. Bức tường đó ‘bức tường tù ngục, Gợi niềm đau ô nhục cho thế gian, Dưới chân em bao người ngã gục, Sau lưng em một vùng đất kinh hoàng’, ‘Bỡi có em nên tình qua dang dở, Bỏ quê hương làm một kẻ lang thang, Em đứng đó để phân ly chồng vợ, Cha xa con và cốt nhục tương tàn’. Bức tường ô nhục ngã rồi, sung sướng biết bao, vì từ nay, ánh sáng sẽ đến với chàng, với vùng trời đất Việt :

    -Em nằm xuống, đời lên hương trở lại

    Cho qua về chắp nối mụn tình xưa

    Nắng sớm đong đưa, chiều mưa hương lửa

    Mối tình đầu trót lựa chọn Việt Nam’. (Bức tường Bá Linh)

    Chính nơi bức tường nầy ngã đổ, chàng được đón bao nhiêu đồng hương đã bị Cộng sản VN bức bách phải qua lao động Ðông Âu. Và cũng chính nơi bức tường ô nhục nầy ngã đổ, chàng đón được Nàng, chui qua tường tù ngục để từ đó nỗi ‘cô đơn’ của chàng có chỗ gởi trao (xem phần dưới).



    -Rồi Ba Lan, Roumanie, Bulgarie, Hongrie, Tiệp Khắc, Ðông Ðức lần lượt từ sau 1989 vùng lên thoát ách Cộng sản bạo tàn. Chàng đã đến hết mọi nơi đó. ‘Ðêm Prague’ (26/11/89) , chàng hòa mình vào quần chúng thủ đô Tiệp Khắc hoan hô ‘Dứt điểm độc tài, dẹp Ðảng’, đả đảo ‘Mị dân hung ác, hồ đồ’, hoan hô‘Ðạp nhào quân tàn bạo’. Căm hờn nổ tung lồng ngực, phấn khởi trào lên ánh mắt, triệu cánh tay vung lên diệt ác trừ tà, niềm vui lồng lộng loang xa khắp năm châu bốn bể. Lới thơ mạnh, hùng, tưng bừng khí thế ‘Nến đốt thâu đêm đun nóng Thiên hà, Gan kiên cường gỗ đá cũng văng xa, Máu chính khí hào hùng tràn qua biên giới’. Chàng như sống cảnh nhân dân ta cũng đang vùng dây hất nhào lũ giặc ‘Ðảng cướp ngày’ theo nguyện ước từ buổi ra đi, nuôi chí kiên cường tranh đấu ‘Cho một ngày quang phục giang sơn ta, Trọn thủy chung tình sau nghĩa trước, Sinh trên quê cha, Thì chết cũng phải Về Nhà…’. (Ðêm Prague)



    -Nhìn trên Tivi, ‘Sáu ngày Budapest’ (Ðông 1989), dân Lỗ Ma Ni tưng bừng gầm thét ‘Quét ! Quét ! Quét…Ceauescu con dơi già, Mồm máu me be bét,…Quét ! Quét ! quét…Cộng sản Lỗ Ma Ni loài bọ chét, Bốn mươi năm vơ vét, Từng giọt mồ hôi, Uất hận trào sôi, máu đổ, Quét ! Quét ! Quét…Ðạp Dracula xuống lại đáy mồ…Cộng sản, một bầy rắn độc, Soán đoạt quốc gia, mượn danh Dân tộc, Hút máu lương dân..’. Vui cùng dân Lỗ, chàng cũng bừng bừng lửa hận ‘Cộng sản, Thứ chủ nghĩa chó trâu, Áp đặt quá lâu trên lưng nhân loại’ rồi hình dung mai đây ‘Ceausescu hay Khu, Ðồng, Linh, Giáp, Nào khác chi đâu, Cũng đợi nhân dân ghì xuống, Ðập đầu…’. (Sáu ngày Budapest)



    -Và ‘Liên Xô’ ! Ðêm Thứ Sáu 15/9/89 ‘thiên phóng sự truyền hình của Ðài T.F.Môt, Ðưa tôi vào Goulag, Hang ổ hổ mang, Lò sát sinh thành trì Cộng sản, Tôi bỗng bật cười, Cười hăng hắc giữa đêm sâu, Cười chết bỏ, Sự thật, đúng là như thế đó, 72 năm khép chặt, xảo trá, đậy che, Bưng bít giờ đây hết được, Ðàn anh Liên Xô giở nắp, mở hang, Nhân loại bàng hoàng dòm vô sửng sốt’. Rồi nhìn lại ‘Cộng sản Cambodia, Việt Nam, Trung Quốc, Những tên đồ tể đắc thời ngu dốt, Ðam mê giống rặt như nhau,…’. Nhìn Tivi, ‘Tên chúa ngục mặt dày nung núc như heo, Ðeo lon Ðại tá, Thân xác mỡ đầy, núng ninh núng ná, Vờn đám tù nhân tơi tả xương da, Xanh xao, răng tróc, trọc đầu, Lê bước chân gần như muốn ngã’, chàng kết luận ngay : ‘Hai đối tượng : -Ai người, ai thú ?, Có khó chi mà nhận không ra’. (Liên Xô). Liên Xô vĩ đại, thành trì quốc tế vô sản, ngự trị bao đàn em Á, Âu, Mỹ, Phi, năm 1991 cũng tan tành, cáo chung chế độ phi nhân, thay cờ, đổi hiệu, trả lại cho dân quyền sống, quyền người.



    Còn bao bài thơ nữa : ‘Chuyến đi Hungary, Budapest, Mùa thu Praha’, nói lên nỗi ngậm ngùi của nhà thơ trước thảm cảnh các quốc gia Ðông Âu dưới ách Cộng sản cùng nỗi mừng vui náo nức của chàng trưóc cảnh rụi tàn của chế độ nầy, rồi nghĩ về Việt Nam, trông chờ một cuộc Cách Mạng nhung như nhân dân Tiệp Khắc, với Valclv-Havel đã thực hiện cho dân tộc mình :

    -Năm một chín chín lăm

    Tôi nhập đoàn du khách

    Tìm về Thánh Ðịa Cách Mạng Nhung

    Mong sao Việt Cộng bước đường cùng

    Tự giải thể, rút lui vào dĩ vãng.

    (Mùa thu Praha- Prague 28.5.95)



    Thơ thuộc loại ‘Tai nạn nước’ , kể cả về ‘Tai nạn nhà’ của Phương Hà, nhìn chung là thơ chống Cộng sản. Về thơ Chống Cộng, có thể nói, Thơ Phương Hà thuộc trường phái ‘Hiện thực phê phán’ vừa lên án vừa kêu gọi tình người . Tính nhân bản nơi thơ chàng nằm ngay nơi những uất nghẹn, hận thù cái ‘ác’. Ðối tượng chống đối là chế độ Cộng sản, đối tượng phục vụ là con người. Thơ Chống Cộng thẳng thừng, thơ tố cáo, đả kích, thơ căm hờn, phẫn nộ, thơ gào thét, giục giã đấu tranh ; lời thơ mạnh hùng nhưng không thô lổ, không mang tính cách ‘khẩu hiệu’, thơ thoát ra tự đáy lòng, thật thà, dung dị, gây xúc cảm, rung động tâm tình, vần điệu trơn tru, không lắm bóng gió, văn hoa, không tượng trưng, không siêu thực mà mang chứa chất hiện thực cùng chất trữ tình lãng mạn trong trữ tình thế sự. Bi thương không bi lụy, đau buồn không rũ liệt, bi thảm trong bi hùng, hùng hồn trong uất nghẹn, kiên cường trong vật vã ; tất cả tâm tình, thái độ, nghĩ suy được diễn tả qua lời thơ thật thà, dung dị, tự nhiên, hình ảnh sinh động, lung linh, gợi cảm…Những sắc thái hầu như tương phản đó là đặc điểm nơi thơ chống Cộng của Phương Hà.

    Comment


    • #3
      III.-Tai nạn người : Phương Hà không chỉ đau cho tai nhà nạn nước mà còn đau về bao cảnh đời bi đát trầm luân của bao người xứ khác cùng bị hiu hắt đọa đày bỡi chề độ Cộng sản hay độc tài nơi bao quốc giahoặc do một tai nạn khủng khiếp không phương cứu vớt.




      *‘Em Bé Éthiopie’, công dân nhỏ của một quốc gia Phi châu nơi vùng Biển đỏ (mer rouge) đã cùng gia đình và hàng ngàn người khác, chết thảm thương trong một trận đói kinh hồn. ‘Ðói, Ðói ! Vì đói, Ôi đói lê đói lết, Ðói hết cựa quậy chân tay, Ðói mờ con mắt, Ðói quắt thân hình, Da nhăn nheo em teo bằng con mắm’. Em bé, qua màn ảnh Tivi, Bruxelles tháng 11/1984, Phương Hà trong số­ hàng triệu con người, vài chục triêu con mắt đã ‘Nhìn trân trối chiếc thân hình khẳng khiu hiu hắt, Với từng đốt xương muốn xé toạt cùi da’. Em bé tong teo ‘Mắt lờ đờ, Bám từng hơi thở, Quơ sức tàn nhúc nhích bộ xương khô’. Bao nhiêu tuổi, em thơ ? ‘Lên tám ? Lên mười, mười một, mười hai ?’ Phương Hà không rõ. Tấm hình hài teo tóp, tuổi mất đi trong trong từng khúc xương cồm cộm qua làn da đen sạm, tanh nồng, lở loang khắp chỗ. Ðứa em em, bên cạnh, đã chết. Em ‘Là sinh vật thoi thóp sau cùng của gia đình em,…chờ chết’…’. Em không còn thể khóc, lệ đông lại trên mi em. Chỉ còn đôi bàn tay quờ quạng như cố réo gọi một tình thương. Thảm cảnh em, ai người gây nên ? Số kiếp ? Không, không là số kiếp. Chỉ bỡi vì , em ôi !:

      -Em là em bé Éthiopie

      Khi em sinh nhằm ‘thiên đường Cộng sản’

      Khi đất nước em bị lũ sài lang ngự trị

      Với vũ khí tận răng

      Và âm mưu ác quỷ

      Thay cho lúa mì, áo ấm, cơm no

      Em phải chết cho tập đoàn sát nhơn chúng sống….

      Tình thương nào ‘nhỏ’ xuống cho em ? Em có gào, có thét, có khóc, có than, hơi sức đâu còn cho em bật thành tiếng nói ! Mà dù em có réo gọi đến trời xanh thì quân ác ôn, với búa, với liềm, với nanh nhe điên ác, chúng đang còn mải miết chia nhau phần cứu trợ. :’Bỡi vì, sau lưng em, Trên đồng ruộng trống mênh mông, Qua thoáng thấy lũ tự xưng ‘đỉnh cao trí tuệ’, Thân xác kềnh càng, súng gươm ngạo nghễ, Ðang giành khẩu phần từ đoàn Cứu trợ Tự do…’. ‘Nhân loại rất đổi xót xa, Nhưng đành…bất lực’, Bỡi vì, ‘Em là em bé Éthiopie’, đã phải ‘sinh ra nhằm ‘thiên đường Cộng sản’. Rồi trong oán hận lũ người lòng lang dạ thú, Phương Hà tiếc : ‘Phải chi, Em ráng sống thêm vài ba năm nữa, Trán ngang đầu súng, Máu xương kia đốt lửa diệt thù, Thay ôm hận nầy em ngủ giấc thiên thu’. Cộng sản, bất kỳ nơi đâu, cũng thế ! Hàng vạn dân oan VN bị Cộng sản cướp nhà, cướp của, cướp đất, cướp vườn, cướp ruộng đã khiếu kiện trên cả mười năm hơn, biểu tình ôn hoà xin Chính quyền giải quyết mà nào có được chú ý cho đâu ; lại còn bị Công an, đầu gấu bắt bớ, đánh đập, xua đuổi thảm thương. Cộng sản nơi đâu cũng coi dân như lợn gà để chúng xẻ thịt liên hoan, vui say dâm dật. Em bé Éthiopie cùng hàng vạn đồng bào em chết đói, thì hàng vạn em bé VN hiện nay cũng đang chết đói, đang móc moi từng đống rác tìm chút gì nuôi tấm thân xanh xao, vàng vọt, lê lết vật vờ trước những bữa tiệc truy hoan của lũ người man rợ.



      *Thảm trạng Colombia, em bé gái OMAYRA, qua bài thơ ‘Thương’, sáng tác vào muà Giáng sinh 1985.. Một tai nạn khủng khiếp. Một cơn lũ lụt bạo tàn với bùn dâng ngập tràn một thành phố khiến cả 22 ngàn thị dân ‘Chung giờ tử biệt, Dắt nhau vào hủy diệt, Chung mồ, Tập thể ARMERO !’. Ðau đớn nhất, em bé OMAYRA ‘Sáu mươi giờ hấp hối, Ðôi chân kẹp dưới bùn sâu, Chôn em tới ngực, Ðồng loại của em bất lực, Chẳng cứu được em, Trăm triệu con người tròn mắt ngồi xem, Từ từ bé chết’. Phương Hà qua TV, thấy em ngực lún bùn sâu , còn thoi thóp hỏi ‘Buổi học có còn, Trong ngôi trường gục ngã’ rồi hỏi mẹ, hỏi cha để thì thầm ‘Tình mẹ bao la, Mẹ, mẹ ôi, thương quá !…’. Toàn thế giới ngậm ngùi, ‘khắp năm châu bốn bể, Cuồn cuộn đổ về, Ðưa tiễn…’ em đi sau 60 giờ hấp hối ! OMAYRA, em bé chết rồi, ‘nhân loại lệ rơi lả chả’ . Cái chết của em là một ‘thông điệp’ nhắc nhở thế giới của tình người, của Thiên lương, đúng nghĩa con người, đến chết vẫn nói ‘THƯƠNG’.



      * Trước khi vào giúp việc tại Trường Trung Hoc Bỉ Maris Stella, Phương Hà đã phải làm đủ mọi việc khó khăn để nuôi con, trong đó có việc chăm sóc một ông già người Hung-Gia Lợi. Bài thơ ‘Chuyến đi Hungary’ (20.8.95) khá dài, khá cảm động, nói lên tình người, cùng chất nhân bản nơi thơ Phương Hà. Cụ Frankel, 70 tuổi phải trốn khỏi nước mình lúc tuổi 30, khi Cộng sản cướp được chính quyền. Nơi đất lưu vong, luôn ngùi trông cố quận, rồi người vợ già vừa tạ thế hai năm, ông Cụ buồn, cô đơn, tất tưởi . Ngày ngày, ông Cụ cùng chàng nhỏ to tâm sự : ‘Những sớm sương rơi, Những chiều tuyết đổ, Ngồi bên cửa sổ, Hai mái đầu bạc đầu xanh, Người phương Tây, người phương Ðông, Ðồng cảnh ngộ, Bên tách cà phê rỉ rả chuyện vui buồn’. Cũng như chàng, không chịu thấu cảnh mất tự do, không thể nhìn nhân dân lầm than dưới bàn tay quỷ đỏ, ‘Thứ chủ nghĩa dành cho chó, cho trâu’, Nhớ nước thương quê hằng đêm ông khóc’..Phương Hà có cảm tưởng nước mắt Cụ như đổ vào dòng Donau, tức dòng Danube xanh lơ, để xuôi về Budapest, sau ngôi nhà của Cụ ngày nào. Rồi hai năm sau, Cụ mất, gởi xương tàn nơi đất Bỉ, chưa kịp về nhìn lại nước non xưa. Tiễn ông ra nghĩa trang, Phương Hà ‘Lủi thủi theo sau quan tài đơn chiếc, Tiễn đưa ông an nghỉ nghìn thu. Tôi cảm thương ông, Và thương cho số phận mình tương tự’. Thương thay cho ông Cụ ! Chỉ mấy năm sau, bức tường Bá Linh sụp đổ, kéo theo việc Hungary sạch bóng quân thù Cộng sản thi ông Cụ không còn để trở về đoàn tụ với nước dân mình. Phương Hà thay ông, làm việc đó : ‘Tôi lặn lội qua Budapest, Tìm tận nhà ông, Như để thực hiện thay ông, một chuyến trở về’. Không tìm ra ngôi nhà ‘có chiếc cổng sau trổ ra bên dòng Duna xanh biếc’ như lời Cụ đã mô tả, chàng thả dọc theo cây cầu nối liền Buda và Pest, nhìn dòng sông , tưởng như hồn Cụ đã về, lệ lòng lấp lánh dòng sông thơ mộng,, ‘nhịp nhàng lướt êm theo nền nhạc valse bất hủ’. Và chàng thấy vui nghĩ đến Cụ Frankel, dù đã qui tiên nhưng ‘mộng ước đã thành, Hungary đang đứng dậy’. Ôi Johann II Strauss, xin Người sống lại một lần, đem chuyện cụ Frankel qua thơ Phương Hà, người VN tỵ nạn Cộng sản, phổ thêm vào bản ‘Dòng sông xanh’ (Blue Danube, Le beau Danube bleu) để bản nhạc của Người thêm chất nhân bản đậm sâu. Bài ‘Chuyến đi Hungary’ chỉ là bài thơ thuật sự, cảnh thật, việc thật, tình thật, không hư cấu, vẽ vời, tô điểm cảnh ngộ cùng tình mình ; bài thơ giản dị, thật thà nhưng thắm thiết tình người đôn hậu, mối giao cảm chân thành giữa hai người khác nhau cả màu da, quốc tịch,..nhưng cùng thương nước, yêu dân, cùng yêu tự do, căm thù cái ác..



      *’Cây Dương cầm cũ của tôi’ (trả lại ngôi nhà 31.5.96) Hai thực thể cùng một kiếp phù sinh gảy đổ. Gặp nhau nơi chợ trời, một người là tỵ nạn, một người ‘lẩm cẩm già nua, Bị đời đem bỏ chợ’. Chàng dắt người bạn về ở chung, cùng ‘chắp nối nợ nhạc thơ,…Mười bảy năm ân nghĩa, Bạn uốn nắn con tôi : Sồn-la-đô-rế-mì, Tôi chong đèn tối tối, thơ dởm thương nhạc rè, Mười bảy năm xa xứ, Ðêm buồn nghe bớt đau’. Nhưng rồi, nhà phải trả, hai người phải phân ly. Cả hai cùng ra đi,’Bạn làm hạt mưa sa, Tôi phiêu bồng vô định’. Giờ đây, cả hai đều luống tuổi, một thân mòn mỏi gối, một tàn tạ héo hon, ‘Tụi mình giờ vô dụng’. Hai người già ‘vô dụng’, giờ chia tay, ‘Tiễn bạn ra lề đường, Bịn rịn rời dĩ vãng, Nước mắt rơi không hay, Mười bảy năm tri kỷ, Giờ chia ly sao bạn chẳng nói năng gì ?!’. Còn nói năng sao ? Im lặng đủ quá rồi ! Nói lời gì thêm nữa, làm sao ngăn lệ trào ?! Bài thơ năm chữ (có hai câu chín chữ) giản dị nhưng là một khúc ‘ai ca’, buồn dâng dâng da diết .




      Tiếc rằng Phương Hà ngưng làm thơ. Nếu không, bao thảm cảnh thế gian còn được chàng phản ảnh nhiều. Hàng van dân oan khiếu nại, hàng nghìn chiến sĩ đấu tranh cho tự do bị hành hạ xác xơ, hàng trăm ngàn trẻ nít thanh niên cùng hàng trăm nghìn phụ nữ bị bán buôn tại Việt Nam ; cảnh cho xe tăng cán nát hàng trăm sinh viên nam nữ biểu tình đòi tự do, dân chủ nơi Thiên An Môn, sự việc mua bán thai nhi làm thức ăn bổ dưỡng để tăng cường dục tính man rợ, cảnh tra tấn, hiếp dâm khủng khiếp cùng mổ bụng môn đồ Pháp Luân Công sắp chết để lấy nội tạng bán buôn nơi chế độ Cộng sản Trung Hoa ; bao bao thảm cảnh người giết người cùng máu mủ tại Irak, Palestine, Liban, Somalie, Soudan,… ; vụ Darfur ; vụ người dân đói lả trong lúc bọn cầm quyền dồn tiền mua, chế súng đạn tại Bắc Triều Tiên,,…bao bao cảnh, bao bao nơi dưới bàn tay quỷ đỏ, dưới ách độc tài tàn bạo, ác ôn,… ! Thơ Phương Hà còn ít quá ! Phải làm thêm nhiều, nhiều nữa, ông Phương Hà ơi ! Và bao bạn thơ tha thiết với tình người, với Chân, Thiện, Mỹ, hãy đem ngòi bút, hãy gõ vào phiếm chữ Computer, tung lên lưới trời, để phơi bày cái ác’ của lũ người ngạ quỷ hầu cảnh giác nhân gian sớm trở về với nhân tính, với lương tri..

      Comment


      • #4
        4.- Tai nạn Tình : Tình yêu cũng là tai nạn, ít hay nhiều. Nếu không, Nguyễn Du đâu có thể viết : ‘Tình là dây oan’ ?. Ngoại trừ những trường hợp trọn vẹn đến ngày cùng xuống lổ, còn thì, dù không đến gảy đổ, dở dang thì cũng biết bao ngậm ngùi, cay đắng. Nhưng tình nơi Phương Hà, qua bao nhiêu thơ, không lắm đắng cay. Ngoài mối tình đầu với vợ và mối tình sau với Nàng (xin nói sau) sâu đậm, còn thì tình của chàng không mấy đớn đau, sầu tủi vì tình chàng đậm đà mà lơ lửng, thắm thiết mà lửng lơ như hình ảnh những chiếc cá con bơi bơi nơi dòng suối nhỏ. Nếu có đau thương thì phần lớn do từ nỗi niềm ‘tai nạn’ của nhà, của nước trong những bài thơ đó.


        Thơ tình phần lớn được làm từ ngày vào giúp việc tại Trung Học Maris Stella, công việc nhẹ nhàng, có thì giờ rỗi rảnh, nhất là lúc cô đơn vì chuyện buồn trăn trở với người xưa. Nơi đây, lời thơ óng chuốt. Lời thơ tình mượt mà, ngọt ngào như nắng sớm, sương mai, dịu êm như tình sông nắng trải, hình ảnh bóng bẩy, phảng phất hương nhụy của trái sớm vừa ươm nhưng hầu như không thiết tha chờ mong ngày chín tới. Lời thơ tình êm dịu, ngọt mát đưa tâm tình vào mộng mơ, vào hoài vọng, vào tiếc tưởng mơn man, không u sầu, tăm tối, không than vãn, chua cay, không nhìn tình như ‘trái đắng’ để phải vật vã, tang thương dù đôi khi cũng lẩn chút đìu hiu, xa vắng, tiếc nhớ mênh mang..

        Chàng là người đa tình lại có số ‘đào hoa’. Có thể nói, chàng được phú bẫm cái duyên ‘được tình, nhận tình’ hơn là phải ‘chạy theo tình’ hoặc ‘trao tình’ cho ai. Ngày ở VN, cùng vợ chí thú làm ăn, lo cho kinh tế đất nước phát triển, hầu như chàng chẳng có mối tình lang bang nào. Qua Bỉ, bao năm, chàng cũng không thấy cuộc tình nào gắn bó sắt son. Thân hình thước sáu, nặng 50 cân, trông chàng sáng sủa, thanh lịch, vào hạng đẹp trai. Phong trần cuộc sống hầu như không đủ khả năng xóa bỏ nếp ‘hào hoa phong nhã’ nơi chàng. Tuổi đời hiện nay khá cao, chải chuốt ít nhiều, nét mặt tươi trẻ, dáng người thanh nhã, nhất là lối cư xử hiền hoà, lịch sự, tế nhị (có thể do cốt cách hào hoa qua giao tế trong kinh doanh, thương mãi), chàng không hề làm mếch lòng ai (ngay cả với con cháu), thêm lối bông đùa dí dỏm, chàng dễ được phái nữ, dù già hay trẻ cảm tình, gần gũi, nhất là với phụ nữ Tây Phương không mấy lưu tâm về tuổi tác và xem sự việc trao tình, kể cả trao thân không là điều cấm kỵ.



        Người già mà thơ tình vẫn trẻ, những vần thơ như thưở thanh niên, sinh viên, mơ màng, ước vọng mông lung bên cạnh đôi bài lãng đãng ‘tình’ và ‘dục’ xen nhau, lẫn lộn vào nhau nhưng rất ‘nên thơ’ chứ không dâm tục, sỗ sàng, lộ liễu. Cũng phải kể, người tình nơi một số bài, không là người thực thụ mà là dòng sông, bãi biển, ngọn núi, mái nhà,… được xem như người yêu, người đồng hành, đồng điệu để chàng gởi gắm niềm đau, nỗi nhớ, tình nước, cảnh nhà..

        Chỉ xin trích nơi đây đôi bài vì Giáo sư Võ Thủ Tịnh sẽ nói trong bài viết của Giáo sư.



        *Trước tiên, xin nghe chàng ‘Dụ Khị’ (Mùa thu 87) một cô gái nào đó hoặc tất cả mọi cô gái, có thể chỉ là tượng tưởng thôi. Xin chép đủ bài thơ :

        - Ðến nghe em,

        Anh sẽ biểu mùa thu ra đón

        Có heo may trần thiết trang hoàng

        Bao nhiêu lá đem về treo trên ngọn

        Lót lối đi, tô thật sáng màu vàng…



        Ðến nghe em,

        Anh sẽ lùa mây chơi xa cho trời quang đãng

        Biểu nước im cho hồ lặng mơ màng

        Mở điều hoà cho không gian vừa đủ mát

        Kêu sương về may chiếc robe thiệt là sang…



        Ðến nghe em,

        Anh sẽ biểu tất cả hoa hồng nở rộ

        Ðể làm một bó trao em

        Ngày sụp sớm cho đèn đốt lên hực phố

        Gọi sao về điểm nhan sắc cho đêm…



        Còn anh ? -Hằng lâu vẫn đợi dưới thềm

        Lắng nghe bước em đi như hơi thở

        Bút sẵn trên tay giấy trải một tờ

        Em thoáng cười, anh đốn ngã bốn vần thơ… !

        Ấy đấy, Các cô cứ đến đi để chàng làm thơ khen tặng -bốn câu hay nhiều hơn nữa- ngợi ca nhan sắc mình để đêm về ‘lơi lả’ giấc mơ tiên !



        *Bài ‘Lá Rừng’, một mối tình câm với một nghệ sĩ Bỉ gốc Việt nhu mì, khả ái, dáng thon, mắt sáng, thanh lịch, dịu hiền, tươi như cánh lá : Nàng, có lẽcũng đã qua một cuộc tình không như ý. Chàng lại đang là kẻ phong sương, cuộc sống biết ra sao : ‘Bỡi cùng ngại đường xa, Liệu rồi đi có tới,, Lỡ thêm một lần ngã, Thêm đau lá tơi bời’. ‘Ðừng buồn nha, ở lại, Thương mãi…lá biết rồi’ (xin xem nơi bài của GS VTT). Thương nhiều, thương lắm nhưng không nên gởi gắm tơ yêu vi nghĩ không nên đem cái thân phận tha hương nầy gầy sầu gầy khổ cho người : ‘Tôi vẫn tôi lưu lạc, Em là lá xanh màu, Tôi sợ đời đen bạc, Em trở vàng sang thu’.



        * Trên đường đến Ðan Mạch, gặp một góa phụ cùng chung thân phận tha hương, chàng bày tỏ nỗi niềm giao cảm qua bài ‘Vân Thi’ rất lãng mạn, rất ân tình, rất đẹp nhưng cũng rất đau thương :’Bóp con tim để đừng trao tiếng gọi, Sợ vô tình giao động cụm mây thơ’ (xem bài của GS VTT sẽ viết và xem bài thơ).



        *Viết cho một cô gái đang lưu vong nơi xứ Bỉ, chàng có cảm tưởng như đang đưa nàng qua bao miền đất nước nơi đây : Zaventem, Waremme, Ardennes,.Binche, nào trẩy hội Hoa Ðăng, nào những Carnaval đêm say cuồng loạn, chàng hình dung cô gái đã phải lìa bỏ quê hương để nay nhớ lại từng ngày, từng cảnh. Bài ‘Từ Ðó’ (Bruxelles 86) rất quê hương, rất trữ tình , ngẹn ngào rưng rức nhớ : ‘Rời đảo về đây, Cố hương buồn tóc mây, Má thơm nồng muối biển…’ để từ đó : ‘Ðây rồi sao, Bruxelles…Có phải bảy cửa ô, Trăng cố đô đâu rồi, Sông nào đen thăm thẳm, Ðâu phải Hàn giang trôi’, ‘Ai dẫn em vào xa lộ, , Nhìn xuống Trung du một tối lên đèn,…’, Rồi em trẩy hội hóa trang, Theo đoàn xe vê Binche, Liên hoan, Tưng bừng suốt sáng ‘ :

        -Uống đi em ly nầy

        Cốc nữa

        Cạn đi em, cho nghiêng ngửa tim sầu

        Cho niềm đau lịm tắt giữa đêm thâu… (Từ Ðó)

        Bài tình ca nói về tâm trạng chàng hơn là nói về em gái tha phương.



        *Cũng thế, ’10 năm còn chi…’, chàng như hồi tưởng một mối tình nào xưa xa nơi đất mẹ :’Ngày em đi đôi tám, Bứt sơn khê để mất mối tình đầu, 10 năm rồi mắt biếc gởi nơi đâu…Buổi nhỏ tình yêu, Cũng giống như mưa chiều nắng sớm, Ðến rồi đi rơm rớm vết thương lòng..’. Và giờ đây, chàng Nâng niu lá thắm, Gởi lại về em…Không gian đó với thời gian nhạc đệm, Ru tuổi xanh đếm bỏ từng ngày. Buồn của em, Ai biết, ai hay ?!’. (10 năm còn chi…-Bờ Ðịa Trung Hải). Tình trong mộng tưởng. Quê hương hóa thân thành người tình. Nói với đất nước như nói với người yêu gái thân thương.



        *Gót lảng du đến Tây Ban Nha, dừng chân ở Costa Brava, trên nhửng nẻo lang thang, chàng như đi ‘Tìm Hơi ấm’ (hè 85) nơi em. : ‘…Rời Pyrénéés, Bứt đổ chân đèo, Bụi đường đuôi tóc mang theo, Thôi thúc trùng dương tái ngộ, Ðối mặt nhìn em, thử xem từ độ, Xa nhau, thương nhớ có phai màu ?’. Em là ai, nơi đây ? Ðịa Trung Hải, Tây Ban Nha hay người em gái nhỏ anh yêu ?

        -Và tôi đã gặp em

        Lưng mềm não nuột gái Ðông

        Nhưng ôi, ôi

        Chẳng môi say, mắt đắm, tình nồng

        Hết e ấp và không còn hương nhụy

        Chỉ Cát vàng rào rat thủy chung



        Em vẫn là em

        Người con gái phương Ðông

        Ðã lấy chồng phương Tây

        Dù qua đây có thương có nhớ

        Thì đường chim bay đã lỡ hướng rồi…



        Mai anh về, thôi nhé mộng song đôi ! (Tìm hơi ấm- Costa Brava, hè 85).

        Bài thơ đẹp, buồn. Ngày xưa, trên quê hương chàng ở, một nơi có tầm mắt nhìn ra biển Thái Bình Dương. Khi tỵ nạn xa quê, chàng tìm cơ hội đôn đáo chạy xuống Ðịa Trung Hải để nhìn lại biển cho đỡ nhớ. Nhưng chàng vỡ mộng. Vì cũng là biển, lòng biển liền nhau nhưng tâm tình, phong cách khác hẳn nhau. Biển xứ người đãkhông ‘môi say, mắt đắm, tình nồng’ lai thiếu đi cái chất VN nũng nịu, nên thơ cho nên ‘hết e ấp và không còn hương nhụy’, chỉ có cát vàng còn giữ thủy chung. Cuộc tình ở đây hóa ra là với biển.



        * Không rõ Phương Hà có mối tình đầu nào rồi phải chia tay thưở thiếu và thanh niên. Thời gian đi học của chàng không dài lắm. Suốt thời lận đận dưới thời Pháp thuộc rồi Việt Minh, trong cảnh sống lao đao chắc chẳng có cơ hội nào giăng trải tơ tình nơi nầy nơi nọ. Lúc tậu được chiếc xe đò rồi làm chủ hai công ty Xuất nhập khẩu thì đã có vợ, có con. Dan díu chăng cũng chỉ ‘qua đường’. Thế mà, bài thơ ‘Tóc mai’ (mùa đông 87), chàng lại thuật lại một mối tình nên thơ. Có thể đây là cuộc tình tưởng tượng hoặc nhớ lại cuộc tình xưa của ai đó thôi. ‘Nếu phải chiều mai là ngã rẽ, Sớm nay viết sẵn lời chia tay,…Nếu phải chiều mai là xa mãi, Sớm nay thôi khỏi dậy làm chi,…Nếu phải từ mai làm xa lạ, Thì đời còn chi đẹp nữa đâu ? Buổi gặp gỡ hoa duyên lùa bốn ngã, Ngày xa nhau cứ ngỡ đó tình đầu,…Vắng em rồi, còn ai đẹp nữa đâu !..’. Nếu đây chỉ là cuộc tình trong mộng thì cũng là sự việc bình thường vì thường trong cô đơn, trống vắng của lòng, xây dựng nên một thứ gì đẹp để tự an ủi mình. Chắc hẳn nhiều nhà thơ đã từng ấp ôm một ‘tình mộng’ như thế. ‘Người tình trong mộng’ xem ra thi vị, đẹp sáng, lung linh hơn người tình có thực vì trở thành ‘hình tượng nghệ thuật’ trong thi ca để nhà thơ hướng vọng, gởi trao bao tình ý đậm sâumà thực tế cuộc đời không đáp ứng. ‘Làm sao giết được người trong mộng’, lời thơ, lời nhạc của ai đó, phải chăng nói lên trường hợp nầy.



        * Cũng trong tâm trạng đó, chàng hình dung ra một cô gái -chắc là đẹp- từng ngày, từng ngày quan sát, theo dõi chàng từ việc làm đến nơi ăn chốn ngủ, đến những gì chàng viết, rồi…’Người tôi yêu’ (Mùa Xuân 1988) . ‘Người tôi yêu’ hay ‘Người yêu tôi’ ? . ‘Người tôi yêu’, đây là lời cô gái. Cô gái ‘xí xọn’ ( ?) nầy, không rõ ‘vương tơ’ với chàng từ lúc nào mà cứ tò mò theo dõi chàng mãi. ‘Có một buổi, Tôi tò mò đến xem người yêu lao động,…’, ‘Có một buổi, Tôi ghé thăm nhà người yêu trú ẩn,…’, ‘Có một buổi, Len lén vào xem nơi người yêu ngủ…’, ‘Có một buổi, Tôi trộm lật xem chồng bản thảo…’. Thấy chàng trên giàn cao ‘bụi sơn mảng tường trắng xóa’, nàng nghĩ ‘Ôi, thiên thần mắc cạn giữa trời sương ?’. Nhìn nơi chàng ở ‘Mái sụt tường đen, then cài cửa đóng’, nàng than ‘Ôi, một thời vùng vẫy đây sao ?’. Nhìn ‘gối dơ, chăn lệch, giày, giấy ngổn ngang’, nàng ‘rưng rưng cay mắt đôi hàng, Kiếp phong trần nghệ sĩ sao cưu mang ?’. Lật chồng bản thảo, tay nương giở từng trang giấy, nàng thẫn thờ ‘Chao ôi, Viết lách gì loạn xị một chữ « Thương »…Có phải khi yêu, người ta hay ‘thần tượng hóa’ người mình yêu ? Cuối cùng :

        -Rồi một buổi

        Tôi vít đầu người yêu ghì xuống

        Hỏi : Có cần em lúc canh lụn đêm tàn ?

        Tội nghiệp chàng như bị bắt quả tang

        Ðang gởi hồn về quê mộng

        Ôm tôi vào lòng, nhè nhẹ nói : -Không !

        Nói ‘Không’, nhưng rồi :

        -Nhưng, em ơi !

        Ngày mai mình sẽ nên vợ nên chồng

        Giữa mùa Xuân trên quê Mẹ

        Có quà đỏ, lọng che

        Có lễ Tơ hồng, Giao bôi, Hợp cẩn

        Ðám cưới tụi mình rộn rã đổ qua sông…

        Và nàng, nàng sung sướng reo lên :

        Ôi, người tôi yêu

        Tuyệt diệu

        Em uống anh

        Em uống anh như chung rượu cay nồng. (Người tôi yêu…)

        Tình đẹp quá, phải không ? Cô gái nầy quả đáng quí, đáng trọng. Yêu một chàng đang ‘sa cơ, thất thế’, ‘uống anh như chung rượu cay nồng’ . Thêm một tình trong mộng ; mượn người yêu mô tả cuộc sống long đong khốn khó của mình vừa mơ về một đoàn tụ với quê hương.



        *‘Only You’ (Tết Mậu Thìn 88), chi Em thôi., riêng mình Em thôi ! Tiếng Anh không có giống đực, giống cái nên không rõ ‘You’ là anh hay em. Qua bài thơ thì là em. Có thể, đây không là bài thơ nói về tình của chàng hay của cô gái mà là nói chung về Tình Yêu.. ‘Only you…,Only you , Xuyên thượng tầng vũ trụ, Tiếng thầm thì như gọi như ru’. Tiếng Yêu thương như từ trời vọng xuống, len lén đi vào giấc ngủ, đánh thức cuộc tình xưa để giờ đây ‘trả cho nhau cõi đời phù ảo, Ðể tháng năm dài lảo đảo, Mân mê may vá mụn tình xưa’. Cuộc tình xưa, cuộc tình thơ mộng buổi ban đầu, trắng trong, tươi mát, không gợn nét màu trần tục. Tình xưa thánh thiện ! Vâng, chỉ có em, only you, vì : ‘Hãy ngẩng lên đếm xem trời có bao nhiêu tinh tú, Ðên đêm đoàn tụ, Thì tình yêu em còn hơn thế nữa em yêu, Từ bao lâu đã nói thật nhiều, I love you…I love you !’. Từ ‘em’ trong bài thơ không viết hoa để vừa ám chỉ người tình vừa ám chỉ Tình Yêu, cái ‘Tính Thể’ (essence) của Tình Yêu. Bài thơ ít nhiều mênh mang đôi ‘rung động siêu hình’ (frisson métaphysique) qua những lời dung dị.



        *Như đã nói trên, người yêu trong nhiều thơ Phương Hà không là người tình thực thụ bằng xương bằng thịt mà là hình ảnh lung linh, mượn qua phong cảnh, núi đồi xứ la hay quê hương để nói lên tình cảm thiết tha, chân thành, chia xẻ niềm đau nỗi nhớ cùng luyến thương son sắt, đậm đà như những trao yêu gởi ái.

        - Cựu Kim Sơn, chàng có cảm tưởng vùng nầy là nhà của người tình,, là chiếc quán trọ đủ ấm êm cho chàng trú ngụ đôi khi tấm thân sương gió của kẻ lữ hành ngồi bên ngọn lửa mà quên một chút gian nan. ‘Nhà em’ (San Francisco 15.7.89), vâng, Nhà em ở đó. Bài thơ đẹp cả cảnh và tình : ‘Cựu Kim Sơn chập chờn sương nũng nịu, Biển lẳng lơ như màu mắt em yêu,…Lối về em tít trên đỉnh gió,…Dưới chân em mây trắng trôi bồng bềnh, Bên kia nhà em, Biển với trời không rời ra nữa, Ôm riết nhau đồng hóa một màu xanh,…’. Cảnh đẹp khiến bước lảng du ‘đêm đêm và hằng bữa, Nỗi thương quê được xoa dịu dỗ dành’. Rời ‘quán trọ’ Cựu Kim Sơn với nước, sông thơ mộng, với Golden Gate diễm kiều, lạc vào Broadway, khu phồn hoa, thế tục, nhìn thân xác mình rơi rụng, tàn xiêu, chàng thấy mình lạc lõng, bơ vơ :‘Vô duyên, vào Broadway buổi sáng, Phấn hương tàn nên chỉ thấy cô liêu’.



        *Rồi những người tình phương Tây :

        -‘CHRISTINA’ (10.1.1988), cô gái tên dễ thương, không rõ, Bĩ, Pháp, Mỹ hay Canada, không rõ do đâu chàng ‘lượm’ ( ?!) được. Cuộc tình đọng được bao lâu ? Một ngày hay một đêm, quá ngắn nhưng sao ân ái đến vô chừng ! Bài thơ đẹp, dục cảm tràn trề nhưng ân tình đậm sâu vô kể : ‘Những đôi chân tròn ngọc khuyết, Buông ra sẽ hối tiếc đến trăm năm, Ðê mê ngây ngất chỗ ăn nằm, Hớp cổ nâng cằm lên đắm đuối,…, Mi diễm tuyệt dựng rào che mắt liếc, Suối đồi đây cùng cây lá lâng lâng,…’. Còn nữa : ‘Hương da ngà phả qua tôi nóng hổi,..Bứt tháo tung nút thắt với khuy thề…’. Nàng cũng không kém : ‘Tấu ơn thần Cupidon, Xin mũi tên xuyên ngực tử đồng, Cho cả hai cùng chết, Bằng đường tình qua hết mấy hành tinh…’. (Cupidon, thần ái tình trong huyền thoại La Mã). Ðất trời điên dảo !?Ðể rồi cả hai : ‘Theo đường tình đưa nhau, bay, bay mãi, Làm đôi sao Trống Mái cuối Thiên Hà, Ðêm đêm buồn xẹt xuống ghẹo Sao Sa, Christina !…Christina…’. Một miêu tả thiết tha trong suồng sã, thi vị trong đam mê, lãng mạn trong tột cùng khoái cảm ,. nhưng lại ân tình chứa chan. Không là khoái lạc xác thân mà như là ‘tình yêu dâng hiến’. Cả hai ‘hóa thân’ thành đôi ‘Trống Mái’ nơi cõi thiên hà và ‘Christina’, tên nàng vang vọng nơi trời cao, thỉnh thoảng cùng chàng ngó nhìn trái đất, nơi bao cuộc làm tình chỉ duy khoái cảm nhục thân. Có lẽ, rất ít bài thơ miêu tả dục cảm, dục tình ‘đẹp’ như bài nầy.

        - Và ‘CAROLINA’, (Xa lô 19), gặp nơi đâu, bao giờ, cuộc tình trải bao tháng, bao năm ?. Bài thơ không nói, cuộc tình dang dở không rõ lý do nào. Chỉ biết, đêm nay : ‘Xa lộ đèn vàng, Dẫn anh ra biên giới, Trăng 16 ngọt ngào đứng đợi, Dẫn anh về lũng cũ thăm em,’. Nói với cô gái phương Tây nhưng để thủ thỉ với chính mình, như trao cho nàng thân phận tha hương, nhớ thương tha thiết xứ sở mình : Mười hai năm lưu lạc, Trăng xưa nay trải bên thềm, Tình xưa gặp lại tay mềm đan nhau,…Tay lùa tóc níu nghe rên, Mạ non hay má vờn bên ruộng đồng ?Nhà anh xưa cạnh con sông, Ra nghe nước chảy theo dòng tưởng say, Nào ngờ thế cuộc đổi thay, Chân trời góc biển đắng cay chuyện đời’. Có lẽ nàng nầy, tâm hồn nghệ sĩ, đã nghe chàng tâm sự và cảm thông nỗi lòng chàng... Có thể Carolina là một cô sinh viên hay một nàng trí thức, sống nhiều về nội tâm. Không có cuồng si nóng bỏng, lạc thú đê mê mà là tình ý hào hoa nghệ sĩ. ‘Em ạ, Thôi đừng bịn rịn, Rồi ra cũng lại chia tay, Cám ơn đuôi mắt tối nay, Theo về cuối ngỏ chân mây chiều tà, Nụ hôn rạch nát khoảnh da, Mai về xứ bạn nhú ra thơ tình, Nhà em ở cách hành tinh, Biết làm sao gởi thơ mình cho em, Trăng đâu mà trải bên thềm …, Carolina, Chút tình dang dở, Carolina…, Em ở đâu rồi !’. Tình buồn nhưng đẹp. Hương tình đọng mãi mà người tình…xa khơi ! ‘Trăng đâu mà trải bên thềm’, trăng đâu, vừng trăng Carolina ! . Cuộc tình với cô gái phương Tây nơi miền đất lạ sao vẫn đậm đà cảnh sắc, tình ý Việt Nam. Carolina, em ! Người viết nghĩ rằng Em, Carolina, trong suốt cuộc đời tình ái, em không thể tìm -hay không thể quên- cuộc tình dang dở nhưng mặn nồng, thi vị, nên thơ hoà hợp cả tình, cả cảnh Ðông Tây. Hẳn nhiên em không đọc được bài thơ nhưng dù Em ở hành tinh nào thì nơi đây, em biết chăng, chàng vẫn ‘Mực đọng dư ba, Bút mềm trăn trở’ hằng đêm thao thức gọi ‘Carolina , Em ở đâu rồi’ : (Carolina).



        *Ngày ơ đảo tỵ nạn Pulau Bidong, tôi có biết một nàng tên K.T.. Nàng biết làm thơ và thơ cũng khá hay. Nàng đọc được thơ Phương Hà nơi các báo rồi đâm ra thờ thẩn. Một hôm, cô gái cùng ngồi cạnh, nhìn thấy tên Phương Hà nơi một bài thơ, vôi la lên : ‘Ồ,..bác tôi !’. Vui mừng được biết địa chỉ, nàng gởi thơ và thư cho chàng. Thơ của nàng, qua bút hiệu M.T. nói lên hoàn cảnh, tâm sự của nàng kể từ sau tai họa Cộng sản ‘đổi đời’ trên đất nước, quê hương. Chàng đưa thơ nàng, nhờ cố ký giả Nguyễn Ang Ca giới thiệu đăng trên các báo ‘Vượt Sóng’, rồi ‘Sóng Việt’và các báo chống Cộng khác tại Âu Châu và Mỹ. Chàng hồi đáp cho nàng :

        -Thư em đến chiều nay

        Từ Mã-Lai-Á, Sungai


        Mười chín giờ bay

        Nửa vòng trái đất

        Chút tâm tình nặng trĩu trên tay….



        Em bé ơi !

        Những đắng cay

        Những ngày khổ sai nông trường thủy lợi

        Tuổi ngọc ngà bữa sắn bữa khoai

        Nước mắt trộn mồ hôi

        Qua rồi, hôm nay không còn nữa..

        Quê hương mưa rào nắng lửa

        Ði vội vàng, em bỏ lại sau lưng

        Ra đi là chẳng đặng đừng

        Khi phải sống giữa bầy lang sói

        Ðể lại lây lất mẹ già còm cõi

        Tuổi đời đau thắt từng cơn

        Ra đi nuốt nhục nuôi hờn

        Mai mốt em về phục quốc

        Dáng nhỏ tim to hồn say bão lốc

        Anh đứng xa nhìn rạng rỡ đuôi mắt em….

        (Người em gái trại Sungai-Besi- Bruxelles, hè 89)

        Thư, thơ qua lại,…tình ái nẩy nở nơi nàng. Khoảng cuối năm 89, nàng từ Mã-Lai-Á qua trại chuyển tiếp Bataan, chờ làm thủ tục lên đường định cư tại Mỹ. Thơ tiễn chân nàng :

        -Mai nầy em đi

        Lao xao biển gọi

        Lang thang mây trắng lưng trời

        Ghé nơi nào cũng hỏi : Em tôi đâu rồi

        Núi mắc sầu không nói

        Ngẩn ngơ bảy ngàn hải đảo đất Phi…

        ….

        Thân gái đường xa

        Ðịnh cư xứ lạ

        Dư vị cuộc tình

        Ðể lại Bataan (Bataan, 90)

        Qua Mỹ, cuộc sống tạm yên, (lúc nầy, nàng 28 hay 29 tuổi trong lúc chàng đã 60), nàng gởi thư đòi bảo lảnh chàng qua Mỹ ở với nàng,. Thế nhưng, chưa giáp mặt, chưa hiểu gì về nàng, chàng chỉ muốn ở nguyên vị trí ly cách tha hương.- Âu cũng là chuyện thường tình trên ‘tình trường’ nhân thế đề, theo người viết nghĩ, có thể là một ‘giai thoại văn chương’ nếu cả hai cùng đuợc tuổi tên trên thi văn đàn nước Việt sau nầy.



        *Rồi túc căn duyên số đẩy đưa. Thời gian nầy, bức tường ‘Ô nhục’ Bá Linh sụp đổ. Ðịnh mệnh -nếu quả là định mệnh- rồi ra đến lúc ‘giải thoát’ trầm luân cho chàng. Nhà thơ Pháp Raymond Queneau bảo : ‘’Lịch sử là môn học về bất hạnh của thế gian’ (L’Histoire est la science du malheur des hommes) ; không hẳn thế. Luật bù trừ của Tạo hóa không để con người cũng như dân tộc, quốc gia nào triền miên trong khổ nạn, truân chuyên, miễn là luôn biết giữ cái Tâm thiện lành và cái khí hạo nhiên. Phương Hà có được hai điều đó. Hạnh vận -nếu xem là hạnh vận- đã đến với chàng. Ngày 09.11.1989, bức tường ‘Xấu hổ’ –Le Mur de la Honte- Bá Linh sụp đổ, thành trì Cộng sản từ Ðông sang Tây lần lượt sụp theo. Ðến đây, Ðịnh mệnh bắt đầu chấm dứt mọi tai nạn cho chàng, ngoại trừ Tổ Quốc, Quê Hương còn Cộng thuộc.

        Một trường hợp ngẫu nhiên kỳ diệu, chàng liên lạc được với một người bạn gái nhỏ tuổi ngày xưa, đang ‘lao động’ Ðông Âu , cách phía sau bức tường 300 cây số. Hai người âm thầm bàn tính cách thế để nàng có thể sang vùng Tự Do. Rồi, ngày 16.06.90, nàng vượt bức tường, xin tỵ nạn chính trị bên Tây Ðức. Nàng thành công, một thân một mình trước bước ngoặt mới của đời mình. Dòng thơ tình ‘tai nạn’ của Phương Hà bắt đầu từ đây chuyển mình rời ghềnh rời thác, đổ xuống trung du đầy ắp trái ngọt hoa thơm, rạt rào hương nhụy :

        -Anh đón em ở đây

        Dưới chân bức tường Bá Linh nầy

        Bức tường chia cắt Ðông-Tây

        Vừa sụp đổ

        Em trèo qua lổ hổng


        Về với Tự Do…

        ….

        Anh xót xa

        Suối tóc em ngày xưa óng ả

        Soi bóng mình tìm thấy trăng sa

        Cũng vóc ngọc da ngà

        Ðổi đời sao rối bù lam lũ…

        ….

        Còn mắt của em

        Ngày xưa là vòm sao sáng

        Anh lang thang tìm một chiếc xẹt ngang

        Ðể cài theo đôi chút mộng vàng

        Giờ sao bâng khuâng, thờ thẫn…

        ….

        Còn bàn tay em

        Phấn trắng, bảng đen, giáo án ướp mềm

        Mười năm trên bục giảng

        Ðể rồi lao động Ðông Âu

        Nức nẻ cong queo nghe đau từng ngón..

        ….

        Mà thôi, em ạ !

        Ngẩng mặt lên đi

        Anh lau nước mắt

        Ðể ý làm chi những điều vụn vặt

        Vốn dĩ vô thường….

        (Sao trong mắt 16.06.90)

        ‘Sao trong mắt’ là ‘bản lề’ chuyển hướng cuộc tình chàng. ‘Sao lưa thưa trong mắt em hực sáng lên rồi’ (Sao trong mắt) , vâng, từ nay ‘Sao chẳng bao giờ bỏ mắt em, Núi đời đày đọa biển truân chuyên, Từng trang huyền sử về đan mộng, Chải tóc thơm dài xanh bóng đêm’ (N.T.).



        Tuổi nàng kém chàng hai giáp, quen biết nhau trong khoảng thời gian 68-75, cùng chung lý tưởng hoạt động chí nguyện trong các công tác xã hội tại Tỉnh nhà. Là giáo viên nơi một trường Tiểu Học ở ngoại ô Ðà Nẵng, nàng còn đảm nhận công việc trong Cô-Nhi-Viện Diệu Ðịnh cho đến năm 1976, Hội Phụ Nữ (thời chế độ Cộng sản) đề cử theo học ở ‘’Trường Nuôi Dạy Trẻ Trung Ương’’ tại Hà Nội, để rồi năm 1980 trở về làm việc trong hệ thống cấp Tỉnh cho tổ chức nầy. Sáu năm sau, nàng được hoán chuyển làm việc tại Sở Giáo Dục Quãng Nam-Ðà Nẵng, phòng Ðào Tạo Bồi Dưỡng. Tại đây, nàng có cơ hội giúp đỡ việc học hành cho nhiều con em gia đình ‘ngụy’. Chỉ vì bất đồng chính kiến trong việc Ðào tạo, Giáo dục và Tuyển sinh, nàng bị Chi bộ Việt Cộng bắt đi lao động ở Ðông Ðức từ tháng 6.1988. Rồi mọi sự diễn ra như đã nói trên. Quả thật, kể từ 1990 về sau, thơ chàng trên dòng ‘Sông Thơm’ quay trở về với thưở thanh xuân, lãng mạn, lững lờ, êm trôi bên cạnh những cánh đồng trù phú bao la của Tin Yêu, của Huyền Diệu, của Trữ Tình.Tình không còn là ‘tai nạn’ nữa.mà là ‘trái ngọt hoa thơm’, từ nay, đúng theo bút hiệu Phương Hà có nghiã là ‘Dòng Sông Thơm’.

        Chuyện ngày qua, dễ nói. Chuyện bây giờ…Người viết, kể cả Phương Hà, tác giả tập thơ nầy, giờ đây, thấy khó lòng diễn tả, khó lòng ‘bơi’ theo sóng nhịp tâm tình trên ‘dòng sông thơm’ ngọt ngào cuốn hút. Vậy nên, xin nhường cho lớp trẻ thẩm định cụm thơ LTH gồm những bài thơ thật đẹp, từ ‘Sao trong mắt, 10 năm mộng nhỏ, Tình mình, Vòng tay, Sương mù’ đến ‘Lá thu’ rồi ‘Mười năm’ , mười năm tình vẫn trẻ, vẫn tươi để mãi mãi xanh trời chim hót, mãi mãi trăng vàng tắm biển long lanh :

        -…Em anh cầm tay

        Dìu nhau

        Con đường tình mong sao đi trọn…



        Trên đường tình đó

        Có cao nguyên Rheinland



        Mùu thu lá vàng hừng hực

        Bao năm qua mục kích cuộc hành trình



        Cũng trên con đường đó

        Làng Bad Schonborn (ngôi làng nàng đang sống và làm việc tại CHLB Ðức)

        Mùa đông êm đềm tuyết phủ


        Ðêm đêm nằm ấp ủ nỗi thương quê

        Và hương thời gian

        Vẫn không thôi rù rín rủ em về…

        (Mười năm)

        Và, người viết xin thêm :’ Ðường xanh thơm trải lối tình thề’. Bao bài thơ viết cho NLT, viết về tình chàng và nàng là những bài thơ vô cùng ý nhị, cho thấy tất cả trẻ trung, tươi mát dù tuổi đã cao nhưng đậm đà tình ý thưở thanh xuân. Người viết nghĩ rằng, đọc qua, ai cũng thấy như ‘sống lại’ thưở ‘trăng thề’ : ‘Ai già đó, hãy cùng tôi trẻ lại, Ðêm trăng về rừng lá mộng lao xao…’ (N.T.).. Người viết xin dành cho bạn đọc và lớp trẻ sau nầy thẩm định. Người viết xin không thêm lời nào vì lẽ giản dị cả hai –chàng và nàng- đều là thân hữu chí tình với người viết , nói nhiều dễ bị hiểu là ‘tán dương’ bạn mình chăng ?



        . ‘Tai nạn nhà’ của chàng, bây giờ xem như đã qua hay đã được đền bù. Con cháu chàng đều đã nên người, đều đã có cuộc sống nên danh nên phận và đều là con thảo, dâu hiền, rể quí, cháu ngoan, luôn luôn quây quần, phụng dưỡng mẹ cha chí tình, chí hiếu. ‘Ba biết con của ba, Muốn làm chuyện khác thường, Ba yên chí, Một nụ hôn dài thăm thẳm gởi qua con’ (Tình cô gái Út (Ly Ngọc) – Bruxelles, Fête des Pères, 1990). Và những gì chàng mong muốn ‘Trả lại cha tôi một chút lửa lòng, Trả lại mẹ tôi chút niềm vui ánh mắt, Trả lại em tôi tí hồn nhiên ấu thơ lỡ mất, Và giải thoát cho tôi, Những đắng cay chồng chất…’ (Cha tôi) giờ đây, đã được thỏa nguyện phần nào. Tóm lại ‘tai nạn tình’ của chàng chấm dứt từ ngày Bức tường Bá Linh sụp đổ để đến năm 1990 gặp NLT, bền vững sắt son. ‘Tai nạn nhà’ cũng chấm dứt lúc con gái áp út Mộng Cầm về lại Bruxelles và mua nhà rước chàng về ở chung, chăm lo cuộc sống chàng và con gái Út Ly Ngọc tôt nghiệp Ðai Học Y Khoa tai Canada. Chỉ còn ‘Tai nạn nước’, ‘Tai nạn người’ còn lẩn quẩn nơi tâm tư.



        Một điều nữa, xin thêm. Từ lâu chàng nghĩ, chàng làm thơ chỉ để đọc với mình hay với đôi bạn bè cùng trương, cùng lứa , cùng cảnh ngộ như chàng. Con cháu chàng, phần truân chuyên đèn sách, phần phấn đấu lo cho cuộc sống nơi xứ người, phần phải thấm nhuần chữ nghĩa cùng cách sống phương Tây, khó lòng đọc, hiểu, cảm thông thơ chàng. Nhưng, không, con cháu chàng có đọc, đã đọc, dù không hiểu được sâu xa thi cùng biết qua nỗi niềm tâm sự người cha, người ông của chúng. Thế là ngày nào, chàng ‘Canh sớm đèn khuya, Chuyện cũ bùi ngùi, Quấn quít bên cha…’ (Cha tôi) thì giờ đây chàng lại được con và rể và dâu và cháu cũng ‘quấn quít bên chàng, , thương dòng tâm sự người cha, người ông. .



        Tấm lòng hiền lương, thiện lành cùng chí hạo nhiên nơi chàng đã được cuộc đời cùng ‘ơn Trên’ bù đắp cho chàng cuộc sống bình yên, không còn phải lao đao tai nạn nhà, tai nạn tình. Chỉ riêng ‘tai nạn nước’, ‘tai nạn người’, nói rộng ra là ‘nỗi đau chung cho nhân loại’ vẫn còn nung nấu trong tim, mong ngày ánh sáng đến với quê hương, với tất cả mọi người. Giờ đây, quỷ ma càng lồng lộn tột cùng với bao thủ đoạn gian manh cùng cực nhưng cũng là giờ đưa chúng đến cáo chung.. ‘Một thức giấc lớn lao đang báo biểu, kết quả của bao đau thương. Mọi giải pháp chính thức đưa ra còn hời hợt,mông lung, nhưng phút giờ đen tối nhất lại đúng ngay vào trước lúc rạng đông’ (Un grand réveil s’annonce, fruit de beuacoup de souffrances. Toutes les solutions officiellement proposées sont encore désiroires, mais, l’heure la plus sombre est juste avant l’aurore – Arnaud Desjardins : ‘Regards sages sur un monde fou’, nxb La Table Ronde, Paris 1997, dòng cuối sách, trang 280).



        Viết đến đây, tôi chợt nhớ đôi mẩu chuyện cũ bên lề :

        Giữa chốn bạn bè, có lần, anh Võ Ðức Trung, chủ nhiệm tạp chí song ngữ ‘Văn Hóa’ ở Lille (Bắc Pháp) mĩm cười nhìn hai người (LT và PH), rồi nói với chúng tôi : ‘Tình vào cửa trước, Thơ nhẹ bước cửa sau’. Lần khác, bạn bè nhìn dòng ‘Sông Thơm’ (bút hiệu Phương Hà) , lên tiếng tiếc cho cái Hội ‘Chồng bỏ vợ chê’ do chàng ‘sáng lập, điều hành’ rồi cũng chính chàng từ giả nó, không biết đến nay còn mất hay trôi giạt nơi mô. Kể cả những bạn bè ràng rịt chung lưng trong nhóm ‘Văn nghệ không tên’ vốn có mục đích đôi khi họp nhau sinh hoạt để cùng ‘gở rối tơ lòng’ trong mọi hoàn cảnh ngược xuôi, ấm ứ, đau buồn….trên dòng tai nạn !

        Hôm nay, khi tôi viết bài nầy, gọi là ‘giới thiệu thơ chàng’, chàng đã ra khỏi ‘Thơ tai nạn’ trên 17 năm rồi, thời gian song song nơi ‘miền Tây yên tĩnh’ của chàng và nàng. Cả hai vốn là thân hữu của tôi -của một số bạn hữu đổng hương với chàng và nàng, đặc biệt Giáo sư Võ Thủ Tịnh từng để ý đến thơ chàng từ lâu- qua niềm cảm thông thương mến tràn đầy. Tôi xin trân quí cung cách bằng hữu chi giao giữa nhau, mặc dầu giờ đây chàng đã lần hồi ‘im ắng’ (chữ của cố văn hữu Nguyễn Văn Xuân)
        với lộc thi ca.


        Phương Hà làm thơ vì tai nạn ! ‘Vốn xưa không là thi sĩ, Cuộc đời đun đẩy bắt làm thơ’, diều nầy không riêng với Phương Hà mà có thể với số đông người làm thơ. Bức bách của lịch sử, hoàn cảnh nghiệt ngã của đất nước cùng cảnh ngộ cùng khốn, thương đau của gia đình, của riêng mình đã dồn nén để bật ra thơ. Chính từ những ‘khổ nạn’ chung đó mà thơ tuy đôi khi mang u uất, buồn đau nhưng lại ngào ngọt tình người, chứa chan chất ‘nhân bản’ đậm sâu cùng niềm tin vào Chân Thiện Mỹ. Ðọc thơ Phương Hà, không phải chỉ để thương cảm riêng cuộc sống đau buồn của chàng –ai chả có bao đau thương trong cuộc sống- mà để sống cái ‘thân phận đất nước, thân phận con người Việt Nam cũng như trên thế giới qua bao lầm than thế kỷ bị đọa đày bỡi nhũng lớp người đã đánh mất lương tâm, nhân tính , bỡi những chế độ độc tài, mị dân, giả hình, tàn độc. Ðể từ đau thương, phẫn hận, tất cả cùng chung sức kiên trì đấu tranh diệt trừ cái ác, diệt trừ cái chế độ Cộng sản ngạ quỷ đang đày đọa lương dân, để ‘Dựng lại giữa cảnh đời tan tác, Bản thanh âm vang động tiếng Em cười’ (Em là Việt Nam, thế giới), trước tiên
        để tạo cho lịch sử Việt Nam luôn luôn sáng rỡ tình người.






        Nguyễn Thùy

        (Gaillard, France, tháng 04/2007)

        Comment

        Working...
        X