Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Ả n h H ư ở n g P h ậ t G i á o T r o n g T h i C a V i ệ t N a m

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Ả n h H ư ở n g P h ậ t G i á o T r o n g T h i C a V i ệ t N a m


    Ả n h H ư ở n g P h ậ t G i á o T r o n g T h i C a V i ệ t N a m




    Cho đến nay tư tưởng Phật Giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn Dân Tộc Việt Nam thành một khối keo sơn khó phai mờ và lay chuyển. Đạo Phật đã gắn liền với giòng Văn Học và cùng với sinh mệnh thăng trầm của Dân Tộc đã gần hai mươi thế kỷ. Tư tưởng sâu xa vi diệu của Phật Giáo đã hiện hữu trong mạch sống dân tộc ngay từ những khởi nguyên Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu (thuộc Bắc Ninh ngày nay) do Ngài Mâu Tử, một vị chân tu Phật Giáo đến từ Ấn Độ khởi dựng, phát huy song song với hai trung tâm Phật Giáo của Trung Hoa là Lạc Dương và Bành Thành, khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch. Liên tục nhiều năm sau đó, những vị Thiền Sư được tôn kính như vị Bồ Tát sống, Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi từ Trung Hoa đến cư trú tại chùa Chúng Thiện truyền dạy về tinh hoa cao quý của Đạo Phật. Qua nhiều thế kỷ kế tiếp Phật Giáo càng ngày càng phát huy rộng lớn do các Ngài Vô Ngôn Thông, Ngài Khương Tăng Hội, Ngài Khuôn Việt Thái Sư. Đến thế kỷ thứ ba Ngài Khương Tăng Hội, người Giao Chỉ đã viết luận giải về Đại Thừa và Thiền Tông nên được nhiều người cho rằng chính Ngài Khương Tăng Hội là vị Thiền Sư lập nên Thiền Việt Nam chứ không phải truyền nhập từ Trung Hoa của Ngài Bồ Đề Đạt Ma. Và trải dài trong nhiều thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn...cho đến thời đại hôm nay, với thể tính triết học, khoa học, tâm lý nhân sinh...tư tưởng Phật Giáo đã hiển nhiên thẩm thấu vào tâm hồn, hiện hữu thường trực trong đời sống của đại chúng dân Việt, từ những câu kinh tiếng kệ, hồi chuông ngân, tiếng trống Bát Nhã, trầm hương nghi ngút, mái chùa uy nghi ẩn khuất sau những tàng cây xanh, tĩnh mịch trầm lắng. Tư tưởng Đạo Phật quá cao siêu mênh mông và vời vợi như những ngọn đỉnh trời Hy Mã, suốt cả một đời tu học chưa hẳn đã bước tới ven khu rừng giáo lý uyên thâm vi diệu đó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin mạo muội đề cập tới vài nét ảnh hưởng Phật Giáo trong thi ca Việt Nam như giòng suối nhỏ từ một vách đá núi thăm thẳm.

    Cho đến nay, chúng ta chỉ cần đọc qua bất cứ tuyển tập thi ca Phật Giáo Việt Nam cổ điển nào, là y như chúng ta đều cảm nhận ngay hồn tính dân tộc ẩn dụ qua từng giòng chữ nồng thắm quê hương sâu thẳm tình người. Các Thiền Sư Việt Nam bao giờ cũng là những đại biểu độc đáo của giòng thi ca chính thống của dân tộc trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử dân tộc. Trong cuộc hành trình đầy khởi sắc và phong phú của nguồn văn học ảnh hưởng Phật Giáo, chúng ta bắt gặp những dấu vết tuyệt vời của Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Huệ Sinh, Ngộ Ấn, Mãn Giác, Đạo Hạnh, Không Lộ, Diệu Nhân, Huyền Quang, Trúc Lâm, Thượng Hải, Chân Nguyên...Chưa kể đến kho tàng văn chương bình dân, ca dao, tục ngữ.

    Chúng tôi xin đan cử một vài thi phẩm của các vị Thiền Sư danh tiếng, như bài Trăng và Nước của Đạo Hạnh:

    Tác hữu trầm sa hữu
    Vi không nhất thiết không
    Hữu không như thủy nguyệt
    Vật trước hữu không không
    (Thủy Nguyệt)

    Có thì có tự mảy may
    Không thì cả vũ trụ này cũng không
    Có, không: bóng nguyệt lòng sông
    Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào
    (Võ Đình)

    Nói đến cái không của tâm để hòa nhập vào cái tâm ảo hóa của vũ trụ, Thiền sư Hương Hải đã thể hiện rõ nét trong bài Nhạn Ảnh:

    Nhạn quá trường không
    Ảnh trầm hàn thủy
    Nhạn vô di tích chi ý
    Thủy vô lưu ảnh chi tâm

    Nhạn vút qua không
    Bóng chìm nước lạnh
    Để dấu: nhạn không có ý
    Giữ bóng: nước cũng vô tâm
    (Nhạn Và Bóng)

    Sự cấu tạo nên thể xác con người do sự kết hợp tứ đại (đất, nước, gió, lửa), cho nên qua thời gian con người phải chấp nhận sự hủy hoại một cách tự nhiên, cũng như loài hoa sớm nở tối tàn, vô thường, biến chuyển theo cái nghiệp nhân quả luân hồi, cứ thế tiếp tục từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thấu triệt nguyên lý tử sinh đó, Thiền Sư Viên Chiếu đã viết nên thơ dạy đệ tử:

    Thân như tường bích dĩ đồi thì
    Cử thế thông thông thục bất bi
    Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
    Sắc không ẩn hiện nhiệm suy di
    (Vô Tật Thị Chúng)

    Thân như tường nát đợi ngày
    Trăm năm vất vả tới rày xót thương
    Tâm không nếu đạt nẻo đường
    Mặc cho không sắc vô thường đến đi
    (Răn Chúng Khi Thầy Còn Mạnh - Võ Đình dịch)

    Thiền Sư Mãn Giác cũng cảm nhận kiếp sống vô thường như huyễn của nhân thế. Tất cả lợi danh chỉ như giọt nước trên cành, như bóng mây qua cửa, có đó rồi mất đó, sắc sắc không không. Nhưng đời sống không phải là chuỗi ngày đầy bi lụy tối tăm, đầy đau thương khổ ải với nghiệp chướng oan khiên tràn đầy lệ thảm...Người đã thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, tự lý giải căn nguyên của khổ đau, luôn tỉnh thức, biến đau thương thành hy vọng hạnh phúc của cuộc sống. Hiên ngang chấp nhận mọi thử thách gian nguy của cuộc đời, bước tới đem đến nguồn sống đầy an vui hỷ lạc cho mọi người. Qua bài Dặn Dò Tăng Chúng của Thiền Sư Mãn Giác đã cho thấy một cách sâu sắc tinh tế bằng đức tin mãnh liệt vào sự tuần hoàn tự nhiên của tạo hóa, của kiếp nhân sinh để thắp lên niềm lạc quan, hy vọng ở ngày mai bằng những bông hoa trí tuệ nhân ái:

    Xuân khứ bách hoa lạc
    Xuân đáo bách hoa khai
    Sự trục nhãn tiền khứ
    Lão tòng đầu thượng lai
    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

    Xuân đi trăm hoa rãi
    Xuân đến trăm hoa khai
    Xem chuyện đời trước mắt
    Tóc trên đầu đã phai
    Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
    Tối qua vườn trước một cành mai
    (Có Bệnh, Dặn Dò Tăng Chúng)

    Lịch sử đã từng chứng minh một cách cụ thể nhất ở vào thế kỷ thứ mười, khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt thống nhất và độc lập. Trong thời đại này, Mật Giáo và Thiền là hai hệ thống Phật Giáo hưng thịnh nhất. Qua triều đại vua Lý Thái Tổ, các Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Pháp Thuận đã bước ra cổng Thiền Môn trực tiếp giúp minh quân đem lại cảnh sống thái bình an lạc cho dân chúng kéo dài đến hơn cả trăm năm từ 1010 đến 1225. Trong thời gian này, văn học dân tộc ảnh hưởng sâu đậm đạo Phật, tỏa sáng từ những áng văn chương tuyệt tác của các Thiền Sư Khuông Việt, Vạn Giác, Bảo Giác, Pháp Thuận, Thường Chiếu, Hải Chiếu, Huệ Hưng...

    Như những giòng lưu lượng thác đổ từ những ghềnh núi Trường Sơn cuồn cuộn ra biển lớn. Ở mỗi nhánh sông tạo thành những bãi phù sa trùng điệp phì nhiêu màu mỡ, cho cây trái vươn lên xanh thắm ngàn đời liên tục hình thành. Đến hậu bán thế kỷ mười tám, mười chín và hai mươi, những trang văn học Việt Nam ươm đầy những tinh hoa tuyệt kỷ của tư tưởng Phật Giáo. Từ những sáng tác đại chúng điển hình thơ truyện Sự Tích Quan Âm Thị Kính dưới nhiều hình thức và thể loại vừa để ngâm ca, vừa để trình diễn trên sân khấu, đại để như:

    ...Chân như đạo Phật nhiệm mầu
    Tận trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân
    Hiếu là độ được đấng thân
    Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài
    Tinh thông nghìn mắt nghìn tai
    Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
    Xem trong biển nước Nam ta
    Phổ môn có đức Phật Bà Quan Âm...

    Danh từ Quan Thế Âm có nghĩa là Người lắng nghe tiếng kêu trầm thống của cuộc đời. Lắng nghe để tìm tới cứu độ. Những tác phẩm đáng kể khác như Thánh Đăng Lục, Thiền Tông Bản Hạnh, Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, Kề Đăng Lục, Khóa Hư Lục, Tam Tổ Thực Lục, Đại Nam Thiền Uyển Tuyền Đăng Tập Lục...Thực sự chúng ta không thể kể hết những kho tàng văn học Việt Nam mang ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng siêu việt và uyên bác của Phật Giáo từ nghìn xưa. Trong văn chương bác học, chúng ta nhận thấy có các nhà Vua thể hiện tâm đạo qua thơ văn như Lý Thái Tổ, Lý Nhân Tông, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Tự Đức...các thi hào lỗi lạc như Nguyễn Du, Ôn Như Hầu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trãi...đã chứng minh điều đó. Trong tác phẩm “Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Hầu đưa lên hình ảnh thâm thúy khơi sáng ngọn đuốc tuệ vượt qua khỏi kiếp luân hồi. Cuộc nhân sinh đầy khổ lụy vô thường, hãy nương vào cửa Phật để dứt sạch thất tình lục dục:

    Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật
    Mối thất tình quyết dứt cho xong
    Đa mang chi nữa đèo bòng
    Vui gì thế sự mà mong nhân tình
    Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
    Mượn “hoa đàm” “đuốc tuệ” làm duyên
    Thoát trần một gót thiên nhiên
    Cái thân ngoại vật là tiên trong đời...

    Đến đại thi hào Tiên Điền Nguyễn Du đã viện dẫn lý nghiệp báo luân hồi một cách triệt để của Phật Giáo. Cái nghiệp như hình với bóng đeo đuổi con người đến suốt một đời. Và cái tâm, căn nguyên của mọi vọng tưởng u minh mê lầm. Ở trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, Sư Tam Hợp đã giải bày:

    ...Sư rằng: “Phúc họa đạo trời
    Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra
    Có trời mà cũng tại ta
    Tu là cõi phúc, tình là dây oan...

    ...Đã mang lấy nghiệp vào thân
    Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
    Thiện căn vốn tại lòng ta
    Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài...

    Hoặc ở những đoạn đầy thiền duyệt, thiền vị bàng bạc nhưng sâu sắc khác:

    ...Đã đem mình gởi am mây
    Thân này sánh với cỏ cây cũng vừa
    Mùi thiền đã bén muối dưa
    Mầu thiền ăn bận đã ưa nâu sồng
    Sự đời đã tắt lửa lòng
    Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi...

    Thi hào Nguyễn Du còn thể hiện diệu tâm của đa số Phật Tử Việt Nam qua tác phẩm Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh, chẳng khác nào như một bài thuyết pháp thi vị và chân xác về lý giải vô thường và nhân quả luân hồi.

    Thi sĩ Chu Mạnh Trinh, trong cõi thơ của ông, chúng ta có thể tìm thấy những giao động mạnh mẽ khi ông diễn tả những cảnh trí lung linh huyền ảo của núi rừng tĩnh mịch nhuốm vẻ an nhiên tự tại của tinh thần Phật Giáo:

    ...Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
    Lững lờ khe yến cá nghe kinh
    Thoảng bên tai một tiếng chày kình
    Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng

    Đề cập đến Nguyễn Công Trứ là nói tới một văn hào nổi danh lúc vinh quang tột đỉnh, khi thảm thê tận cùng vực thẳm đắng cay, từng trải trăm đường tân khổ. Nhân sinh quan của Nguyễn Công Trứ là hưởng lạc, hưởng nhàn. Thơ văn Nguyễn Công Trứ chịu ảnh hưởng khá sâu đậm Phật Giáo:

    ...Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe
    Trần có vui sao chẳng cười khì?
    Khi hỉ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi
    Chứa chi lắm một bầu nhân dục...

    Hay ở trong bài “Vịnh Nhân Sinh Quan” Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ tư tưởng triết học Phật Giáo ở một trình độ cao hơn:

    ...Ôi nhân sinh là thế ấy
    Như bóng đèn, như mây nổi, như gió bấc,
    như chiêm bao
    Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
    Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín...

    Đến cuối thế kỷ thứ 19 và 20, văn học sử Việt nam chuyển mình tiếp thu những giòng văn học của thế giới. Thời điểm này đánh dấu biến cố lịch sử làm phong phú rực rỡ và mới mẻ mọi khuynh hướng tư tưởng để hình thành hướng đi và ý thức mới về văn học nghệ thuật dân tộc. Tuy nhiên, sự hiện diện của những trào lưu văn học mới, không phải những nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã quên lãng từ bỏ cốt tủy đã ảnh hưởng sâu đậm trong hồn tính dân tộc từ ngàn xưa, những chất liệu tinh hoa của Phật Giáo. Chúng ta ghi nhận trong những tác phẩm của các nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Trong thơ của Nguyễn Nhược Pháp, Tự Đức, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Tế Hanh, Thanh Tịnh, Lưu Trọng Lư...Nhưng rõ nét nhất trong thi phẩm Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp:

    Hôm nay đi chùa Hương
    Hoa cỏ mờ hơi sương,
    Cùng thầy me em dậy
    Em vấn đầu soi gương.
    Khăn nhỏ đuôi gà cao;
    Em đeo dải yếm đào;
    Quần lĩnh, áo the mới;
    Tay cầm nón quai thao.
    Me cười: “Thầy nó trông!”
    Chân đi đôi dép cong,
    Con tôi xinh xinh quá!
    Bao giờ cô lấy chồng?”
    Em tuy mới mười lăm
    Mà đã lắm người thăm
    Nhờ mối mai đưa tiếng,
    Khen tươi như trăng rằm.
    Nhưng em chưa lấy ai,
    Vì thầy bảo người mai
    Rằng em còn bé lắm
    Ý đợi người tài trai.
    Em đi cùng với me,
    Me em ngồi cáng tre.
    Thầy theo sau cưỡi ngựa
    Thắt lưng dài đỏ hoe.
    Thầy me ra đi đò.
    Thuyền mấp mênh bên bờ,
    Em nhìn sông nước chảy,
    Đưa cánh buồm lô nhô.
    Mơ xa lại nghĩ gần,
    Đời mấy kẻ tri âm?
    Thuyền nan vừa nhẹ lướt
    Em thấy một văn nhân.
    Người đâu thanh lạ nhường!
    Tướng mạo trông phi thường.
    Lưng cao dài, trán rộng.
    Hỏi ai nhìn không thương?
    Chàng ngồi bên me em.
    EM hỏi, chuyện làm quen:
    “Thưa Thầy đi chùa ạ?
    Thuyền đông giời ôi chen!”
    Chàng thưa vâng thuyền đông,
    Rồi ngắm giời mênh mông,
    Xa xa mờ núi biếc,
    Phơn phớt áng mây hồng.
    Dòng sông nước đục lờ.
    Ngâm nga chàng đọc thơ:
    Thày khen hay hay quá!
    Em nghe rồi ngẩn ngơ.
    Thuyền đi, bến Đục qua,
    Mỗi lúc gặp người ra,
    Thẹn thùng em không nói:
    “Nam Mô A Di Đà!”

    Réo rắc suối đưa quanh,
    Ven bờ ngọn núi xanh,
    Nhịp cầu xa nho nhỏ,
    Cảnh đẹp gần như tranh.
    Sau núi Oản, Gà, Xôi,
    Bao nhiêu là khỉ ngồi
    Tới núi con voi phục,
    Có đủ cả đầu đuôi.
    Chùa lấp sau lùm cây.
    (Thuyền ta đi một ngày)

    Lên cửa chùa em thấy,
    Hơn một trăm ăn mày.
    Em đi, chàng theo sau.
    Em không dám đi mau,
    Ngại chàng chê hấp tấp
    Số gian nan không giàu.
    Thầy me đến điện thờ.
    Trầm hương khói tỏa mờ.
    Hương như là sao lạc.
    Lớp sóng người lô nhô.
    Chen vào thật lắm công.
    Thầy me em lễ xong
    Quay về nhà ngang bảo:
    “Mai mới vào chùa trong”.
    Chàng hai má đỏ hồng
    Kêu với thằng tiểu đồng
    Mang túi thơ bầu rượu;
    “Mai ta vào chùa trong”.
    Đêm hôm ấy em mừng!
    Mùi trầm hương bay lừng,
    Em nằm nghe tiếng mõ,
    Rồi chim kêu trong rừng.
    Em mơ, em yêu đời,
    Mơ nhiều... Việc thế thôi,
    Kẻo ai mà xem thấy,
    Nhìn em đến nực cười.
    Em chưa tỉnh giấc nồng,
    Mây núi đã phai hồng,
    Thầy me em sắp sửa
    Dâng hương vào chùa trong.
    Đường mây đá cheo veo,
    Hoa đỏ, tím, vàng leo.
    Vì thương me quá mệt,
    Săn sóc chàng đi theo.
    Me bảo: “Đường còn lâu.
    Cứ vừa đi ta cầu
    “Quan Thế Âm Bồ Tát
    Là tha hồ đi mau”.
    Em ư? Em không cầu,
    Đường vẫn thấy đi mau,
    Chàng cũng cho như thế
    (Ra ta hợp tâm đầu)

    Khi qua chùa giải oan,
    Trông thấy bức tường ngang,
    Chàng đưa tay, lẹ bút,
    Thảo bài thơ liên hoàn.
    Tấm tắc thầy khen hay,
    Chữ đẹp như rồng bay.
    Bài thơ này em nhớ
    Nên chả chép vào đây
    Ô! Chùa trong đây rồi!
    Động thẳm bóng xanh ngời.
    Gấm thêu trần thạch nhũ,
    Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
    Me vui mừng hả hê;
    “Tặc! Con đường mệt ghê!”
    Thầy kêu mau lên nhé,
    Chiều hôm nay ta về.
    Em nghe tiếng rụng rời!
    Nhìn ai luống nghẹn lời!
    Giờ vui, đời còn vậy.
    Thoáng ngày vui qua rồi!
    Làn gió thổi hây hây.
    Em nghe tà áo bay,
    Em tìm hơi chàng thở!
    Chàng ôi! Chàng có hay?
    Đường đây kia lên giời.
    Ta bước tựa vai cười,
    Yêu nhau, yêu mãi mãi!
    Đi, ta đi, chàng ôi!
    Ngun ngút khói hương vàng,
    Say trong giấc mộng màng
    Em cầu xin Giời Phật
    Sao cho em lấy chàng.

    (Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện).

    Quan niệm một số bậc chân tu Phật Giáo trong những kỷ nguyên trước là tìm nơi non cao tĩnh lặng để diện bích soi tâm, hay ít ra cũng lánh xa cõi trần đầy ô trọc có thể ảnh hưởng đến tâm thức tu học. Phải chăng, đấy là cái tâm “ứng vô sở trụ” đã dẫn dắt Huệ Năng đến Tào Khê? Một số tăng lữ khác quan niệm hãy đem đạo vào đời như kim chỉ nam làm sáng tỏ cái tâm của Thái Tông thoát nhiên đốn ngộ nhận lãnh vai trò lãnh đạo nhân dân “dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục” cứu nhân độ thế.

    Trong thời đại cận kề với những tư duy hiện sinh, những nhà thơ Việt Nam khoác áo nâu sồng cũng đã xuống núi, hiện đại hóa phương thức truyền bá đạo giáo hay hòa nhập tư tưởng tôn giáo vi diệu này vào cuộc đời một cách thực tiễn hơn. Phạm Thiên Thư xuất thân từ một tu sĩ, thi sĩ muốn bùng vỡ tâm thức sâu kín của ông đến phương tuệ giác nào chăng? Tình cảm tha nhân rộng lớn ư? Cái điều ỡm ờ lãng mạn nửa đời, nửa đạo thật khác thường của Phạm Thiên Thư đã làm cho nhân thế ngẩn ngơ hoài nghi cái chân lý đạo giáo mà Thi sĩ đang theo đuổi. Một nhà sư biểu lộ tình cảm một cách hồn nhiên bộc trực, quá quắt khác thường, còn hơn những nhà thơ trữ tình ngoài đời, quả là một ngạc nhiên thích thú:

    Em tan trường về
    Đường mưa nho nhỏ
    Chim non giấu mỏ
    Dưới cội hoa vàng
    Bước em thênh thang
    Áo là nguyệt bạch
    Ôm nghiêng cặp sách
    Vai nhỏ tóc dài
    Anh đi theo hoài
    Gót giầy thầm lặng
    Đường chiều úa nắng
    Mưa nhẹ bâng khuâng
    Em tan trường về
    Cuối đường mây đỏ
    Anh tìm theo Ngọ
    Dáng lau lách buồn
    Tay nụ hoa thuôn
    Vương bờ tóc suối
    Tìm lời mở nói
    Lòng sao ngập ngừng
    Lòng sao rưng rưng
    Như trời mây ngợp
    Hôm sau vào lớp
    Nhìn em ngại ngần
    Em tan trường về
    Đường mưa nho nhỏ
    Trao vội chùm hoa
    Ép vào cuối vở
    Thương ơi vạn thuở
    Biết nói chi nguôi
    Em mỉm môi cười
    Anh mang nỗi nhớ
    Hè sang phượng nở
    Rồi chẳng gặp nhau
    Ôi mối tình đầu
    Như đi trên cát
    Bước nhẹ mà sâu
    Mà cũng nhòa mau
    Tưởng đã phai màu
    Đường chiều hoa cỏ
    Mười năm rồi Ngọ
    Tình cờ qua đây
    Cây xưa vẫn gầy
    Phơi nghiêng ráng đỏ
    Áo em ngày nọ
    Phai nhạt mấy màu?
    Chân theo tìm nhau
    Còn là vang vọng
    Đời như biển động
    Xóa dấu ngày qua
    Tay ngắt chùm hoa
    Mà thương mà nhớ
    Phố ơi muôn thuở
    Giữ vết chân tình
    Tìm xưa quẩn quanh
    Ai mang bụi đỏ
    Dáng em nho nhỏ
    Trong cõi xa vời
    Tình ơi tình ơi!
    (Ngày Xưa Hoàng Thị)

    ...Em làm trang tôn kinh
    Anh làm nhà sư buồn
    Đêm đêm buồn tụng đọc
    Lòng chợt nhớ vương vương
    Đợi nhau từ mấy thuở
    Tìm nhau cõi vô thường
    Anh hóa thân làm mực
    Cho vừa giấy yêu đương.
    (Pháp Thân)

    Tuy nhiên công trình thi hóa Kinh Ngọc - Qua Suối Mây Hồng - Kinh Hiền - Kinh Thơ và Đoạn Trường Vô Thanh thực sự Phạm Thiên Thư đã tỏa sáng giá trị tuyệt đỉnh của ảnh hưởng cao xa Phật Giáo trong nền tảng văn học Việt Nam hiện đại. Vũ Hoàng Chương được đánh gía cao như một Bắc Đẩu của giòng thi ca dân tộc, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm thi ca lỗi lạc với nội dung chứa chan tình yêu quê hương, tình yêu giữa con người với con người, qua thể tính triết lý nhân bản khai phóng và từ ái của đạo gíao Á Đông, nhất là tính chất bất bạo động, cho dù phải thầm lặng chấp nhận sự hủy thể để cúng dường đạo pháp như trường hợp Lửa Từ Bi hay trong thơ Pháp Nạn như một thảm họa chung của Dân Tộc:

    Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen!
    Tám chín phương nhục thể trần tâm
    Hiện thành thơ, quỳ cả xuống.
    Hai Vầng Sáng rưng rưng
    Đông Tây nhòa lệ ngọc
    Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
    Ánh Đạo Vàng phơi phới
    Đang bừng lên, dâng lên...
    Ôi đích thực hôm nay Trời có Mặt
    Giờ là giờ Hoàng Đạo nguy nga
    Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
    Nhìn nhau: tình huynh đệ bao la.
    Nam Mô Đức Phật Di Đà
    Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?
    Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
    Người rẽ phăng đêm tối đất dày
    Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây
    Gọi hết Lửa vào xương da bỏ ngỏ,
    Phật pháp chẳng rời tay...
    Sáu ngã luân hồi đâu đó
    Mang mang cùng nín thở
    Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay.
    Không khí vặn mình theo
    Khóc òa lên nổi gió,
    Người siêu thăng...
    Dông bão lắng từ đây.
    Bóng Người vượt chín từng mây
    Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Đề
    Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!
    Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!
    Chỗ người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
    Trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.
    Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
    Ngọc đá cũng thành tro
    Lụa tre dần mục nát
    Với Thời Gian lê vết máu qua đi.
    Còn mãi chứ! Còn Trái Tim Bồ Tát
    Gội hào quang xuống tận ngục A-Tỳ.
    Ôi ngọn Lửa huyền vi!
    Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
    Từ cõi Vô Minh
    Hướng về Cực Lạc
    Vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác
    Và chỉ nguyện được là rơm rác,
    Thơ cháy lên theo với lời Kinh;
    Tụng cho nhân loại hòa bình
    Trước sau bền vững tình huynh đệ này.
    Thổn thức nghe lòng Trái Đất
    Mong thành Quả Phúc về Cây
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
    Đồng loại chúng con
    Nắm tay nhau tràn nước mắt
    Tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây.
    (Lửa Từ Bi)

    ...Bầy chim kêu thương
    Nặng trĩu một trời oan khuất
    Ngóng về Nam,về Bắc
    Cả hai phương sừng sững dựng mây thành

    Sân chùa cây bật gốc
    Triền miên tử khí vây quanh
    Giờ cúng trái hãi hùng mưa gió
    Từng tiếng kêu bé nhỏ
    Rào kẽm gai xé nát hồi thanh

    Cá dưới khe vọng về đông khắc khoải
    Sao lắng nghe từ màu xanh
    Của sông phiêu lưu của biển tung hoành
    Chỉ thấy nước hồ ao nằm trong tù độc thoại

    Muôn trùng cửa khóa
    Hơi bốc lên mùi máu còn tanh
    biển cuốn về bao nhiêu góc
    Sông chia làm mấy mươi ngành
    Bọc trong gai, nghẹn lời kinh
    Giạt về đâu lúc tâm tình nửa khuya
    Nhưng đá núi đây
    Và lá rừng kia
    Căm thù gan héo nát
    Mồ hôi nước mắt tháng năm đầy
    Thoắt đã cùng chim cá
    Vùng lên tất cả
    Niệm mười phương Phật hướng về Tây

    Cờ phất năm màu rợp sử xanh
    Một phương chim Việt ngóng mây lành
    Cản tay bạo ngược liều bom đạn
    Nổi từ bi giải sắt đanh

    Phật hiện bóng lên người vững bước
    Trời quay mặt lại quỷ rơi nanh
    Rằng xe diệu pháp ba ngàn cõi
    Một cõi này thơm vết đấu tranh...

    Những ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Phật Giáo giòng thi ca hiện đại, chúng ta còn tìm thấy trong những tác phẩm của Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Phạm Công Thiện, Tuệ Mai, Bùi Giáng, Nhất Hạnh, Cao Mỵ Nhân, Nhã Ca...Trong mỗi Sát na của đời sống, con người cuốn hút vào cơn lốc đảo điên của vọng tưởng. Qua bao nhiêu sinh diệt của kiếp người, tâm động triền miên như sóng vỗ vào ghềnh đá. Thời gian trôi qua, lịch sử đã biến thiên theo từng giai đoạn thăng trầm. Con người đã tự chia phân từng biên giới ý thức hệ khác nhau. Tự trói buộc vào sự ích kỷ đầy trầm thống khổ đau, u minh mê muội, đã phá sản bản chất từ thiện uyên nguyên. Như những đứa con của Mẹ qua cơn bão lửa khủng khiếp trên quê hương đã xuôi ngược bạt ngàn trên khắp cùng thế giới. Cuộc hành trình vào miền đất tự do nghiệt ngã xót xa, ở nơi chốn lưu đày đất khách, lúc nào tâm tưởng cũng hướng về nơi nguồn cội sinh thành. Ở đó hình ảnh mái chùa cong ẩn sau vòm lá xanh biếc, hồi chuông công phu sớm chiều tỏa rộng trên giòng sông êm ả, tỏa ngát trên những cánh đồi đầy sương mai, dìu dặt trong thinh không buổi hoàng hôn hiu hắt vàng trên đỉnh núi:

    Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
    Có con đường đỏ chạy lang thang
    Có hàng tre gợi hồn sông núi
    Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng

    Có những cây mai sống trọn đời
    Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
    Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
    Đức Phật từ bi miệng mỉm cười

    Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
    Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
    Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
    Cầu nguyện dân làng sống mến yêu
    (Huyền Không)

    Đi đâu rồi cũng cảm thấy mình cô đơn buồn nhớ quê nhà. Nỗi niềm thương cảm vẫn ray rứt như vết chàm khó phai trong tâm khảm người đi. Thi sĩ Huyền Không đã thể hiện trung thực nỗi cảm hoài đó trong bài thơ Nhớ Chùa:

    ...Biết đến bao giờ trở lại quê
    Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
    Tang thương dù có bao nhiêu nữa
    Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

    Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
    Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
    Mái chùa che chở hồn dân tộc
    Nếp sống muôn đời của tổ tông
    (Huyền Không)

    Đời sống chưa hẳn chỉ có nhu cầu vật chất cơm ăn áo mặc, tiện nghi đầy đủ, sẵn sàng phục vụ thể xác tối đa, nếu cứ buông thả tự biến mình như con ốc vô tri buồn thảm trong guồng máy thực dụng. Con người vốn dĩ là “cây sậy có tư tưởng” (Pascal), nên chúng ta cưu mang trăm ngàn mối tư duy, xem cuộc sống như mây trôi, như nước lũ qua cầu, trở về cõi an nhiên tự tại để chiêm nghiệm nỗi niềm xót xa của kẻ lưu đày nơi đất khách. Thi sĩ Viên Lý đã diễn tả tâm sự của người lữ khách mơ về quê cũ:

    Giọt sương khuya đọng ba ngàn cõi
    Tịch mịch trầm tư ngọn cỏ bồng
    Vết trăng loang lổ trên thềm vắng
    Ai bảo dùm ta lẽ có không
    Vẫn một cành mai xa xưa cũ
    Mang đầy bản vị thuở ban sơ
    Có chi trường cửu trong trần thế
    Bên thềm trăng vẫn sáng lung linh
    Cỏ bồng, đêm vắng sương khuya giọt
    Vô tận thời gian câm lặng qua
    Ngày đi đêm lại sương đong trọn
    Vô lượng hà sa thế giới trung
    Điệp trùng chuỗi xích Hoa Nghiêm kết
    Quê cũ đường xưa mây lửng lơ.
    (Viên Lý)

    Cho dù không gian, thời gian nào, những nhà thơ nhà văn Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước những phá sản tâm hồn, tiếp tục bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Chúng ta ghi nhận những đội ngũ văn hóa như Võ Phiến, Mai Thảo, Du Tử Lê, Minh Đức Hoài Trinh, Duy Lam, Nguyên Sa, Nghiêu Minh, Nguyễn Mạnh Trinh, Luân Hoán, Vi Khuê...Ngoài những thi phẩm chất chứa tình quê, nỗi nhớ nhung quá khứ êm đềm, còn ẩn dụ những tư duy sâu thẳm, lối đi về thiên cổ vượt tới bến bờ Bát Nhã Chân Như trong những trang thơ đẫm nguồn thiền như huyễn của Thi sĩ Nghiêm Xuân Hồng:

    ...Học người Đồng Tử miền Hoa Tạng
    Túy lúy càn khôn một lỗ lông
    Thấy Sái - Cam Lồ bừng chiếu sáng
    Hào quang muôn trượng - dạ thong dong

    Đáy nước mò trăng trăng nào thấy
    Chỉ thấy muôn vàn đốm lửa yêu
    Hãy mò Tâm để quang lồng lộng
    Một điểm không hư vạn kiếp đầy...

    Từ ngày ở quê nhà, nữ thi sĩ Tuệ Nga đã tạo hướng thơ độc đáo tỏa ngát hương Đạo Từ Bi, bàng bạc nét vẽ Thiền Môn Tịnh Lạc. Ở hải ngoại, hơn hai mươi năm qua, cõi thơ Tuệ Nga vẫn tiếp tục lên đường với hành trang đầy đạo hạnh và chứa chan tình tự quê hương:

    ...Chiều về mây trắng đan tơ
    Mây nghiêng thung lũng nghe bơ vơ sầu
    Thoảng xa chợt tiếng kinh cầu
    Gió chiều thanh thản nhiệm mầu Nam Mô

    Đêm về kệ biến thành thơ
    Dòng xanh xanh ngát tờ hoa Chiên Đàn
    Nam Mô Vô Lượng Thọ Quan
    Lại nghe thanh thoát ngân vang chuông thiền

    Như dòng suối mát triền miên
    Búp Lan Vừa Nở cánh trên giấy hồng
    Đất trời một thoáng Hư Không
    Lời Thơ Tiếng Kệ bềnh bồng hoa mây
    (Búp Lan Vừa Nở)

    Tập thơ đầu tiên cũng là tập thơ duy nhất của nhà văn Mai Thảo “Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền” ấn hành ở hải ngoại có nhiều bài ảnh hưởng sâu xa tư tưởng Lão và Phật Giáo. Cái thân chẳng khác căn nhà trú tạm ở thế gian. Cuộc rong chơi đầy men say và văn chương lý thú, khắp cùng với bằng hữu cho đến ngày mỏi mệt và nằm dưới bóng mát Phật Đài vĩnh hằng cực lạc:

    Nằm đây dưới bóng cây xanh
    Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
    Mát thơm đất trải bên người
    Nghe trong ẩm lạnh da người cũng thơm

    Đất lên hương, thấm qua hồn
    Nghe Vui thoáng đến với Buồn thoảng đi
    Giữa giờ trưa nắng uy nghi
    Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu

    Người nằm nghe đất bao lâu
    Tai nương ngợ tiếng đời sau thở dài
    Lung linh sóng nắng đan cài
    Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang

    Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
    Rơi ngưng nửa dáng nắng vàng trôi qua
    Linh hồn thiếp giữa triều hoa
    Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân
    (Nghe Đất)

    Vốn dĩ đã có Phật tính trong tâm hồn, nên cho dù ở cõi thơ nào của sáng tạo, những nhà thơ Việt Nam đều chuyên chở những ý niệm Phật giáo, như trường hợp Du Tử Lê đã biểu lộ trong bài Sơn Tự Thi khi tỏ tình với người yêu bằng triết lý hiện sinh đầy oan nghiệp trói buộc. Ông không thánh hóa tình yêu vào những trang kinh mầu nhiệm, nhưng thi sỹ cảm nhận sự hiện hữu “cành hoa tay Phật: lòng Ca Diếp” tuyệt vời ở chung quanh đời sống:

    ...Người trốn vô kinh vẫn thấy đời
    Khắp cùng sơn tự ảnh hình tôi
    Đừng quên sẽ chẳng bao giờ nhớ
    Ai khảo ra mà ngươi cung khai

    Nếu hiểu rồi ra là cát bụi
    Kinh nào uyên áo hơn vô ngôn
    Sơn tự là tôi em hãy trú
    Có cũng xong. Mà không cũng xong

    Hãy khép trang kinh trả lại đời
    Cứ gì sơn tự mới an vui
    Ủ hương cuối kiếp cho nhân loại
    Ngã mạn đời sau, em của ta

    Diện bích ngàn năm vẫn bất an
    Nhờ em thưa lại với Quan Âm
    Cõi tâm tôi trụ nơi nào nhỉ
    Phải chính tình em? Chính mắt em...

    Thế giới thi hóa tình yêu là ngôn ngữ vượt thoát tới đỉnh cao tuyệt vời của nghệ thuật, của sự thăng hoa đích thực chân thiện mỹ, vì thơ là sứ giả của Tình Thương và Hòa Bình đã đưa nhân loại gần gũi nhau hơn.

    Những ý thức sâu xa bén rễ từ máu huyết tư tưởng Phật giáo hơn hai mươi thế kỷ, Dân Tộc Việt Nam đã từng biểu hiện bản chất hiền hòa, nhân hậu, không thù hận lâu dài. Lấy tình thương xóa bỏ hận thù. Không có chiến công nào oanh liệt bằng chiến thắng tự tâm mình. Trong kinh Pháp Cú đã dạy: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịnh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự hỷ lạc sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình”.

    Chúng ta hãy tưởng tượng một cách hạnh phúc, một ngày nào đó trên quê hương Việt Nam, đích thực có mùa Xuân thanh bình Tự Do Dân Chủ thực sự, sớm chiều tiếng chuông ngân vang, tiếng trống trường khua giữa tiếng cười trẻ em rộn rã vào lớp học. Chuyện đầu sông hay cuối sông không còn là nỗi ly cách triền miên. Người đã gặp lại người như câu chuyện trùng phùng lịch sử của đàn con yêu dấu Mẹ Âu Cơ. Những bão tố đau thương sẽ tan đi, tâm sẽ lắng đọng như mặt hồ tĩnh lặng. Tất cả rồi sẽ tan chìm trong mỗi phút giây đời sống phù trầm oan nghiệt. Cuộc đời sẽ tươi đẹp hơn, rực rỡ hơn, tương lai êm đềm như suối nghe kinh, chim cúng trái, hoa Vô Ưu tỏa ngát hương trần gian. Mùa xuân đạo hạnh chứa chan trong lòng nhân thế, mọi giấc mơ an lành hôm nay chúng ta hãy cầu nguyện sớm trở thành sự thật.


    (THÁI TÚ HẠP)
Working...
X