Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Làm người yêu và vợ nhà thơ

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Làm người yêu và vợ nhà thơ

    Làm người yêu và vợ nhà thơ






    - Đoàn Dự ghi chép

    Thưa quý bạn, ngay từ thời còn đi học tôi đã rất yêu thơ Quang Dũng với những câu thơ như:


    Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
    Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
    Thoáng hiện em về trong đáy cốc
    Nói cười như chuyện một đêm mơ

    Xa quá rồi em, người mỗi ngả​
    Đêm nay đất nước nhớ thương nhau
    Em đi áo mỏng buông hờn tủi
    Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?

    (Đôi Bờ)


    Hay quá phải không thưa quý bạn? Và tôi cứ thắc mắc “em” đây là ai, “Đôi mắt người Sơn Tây” là ai? Mãi đến khi nhạc sĩ Phạm Duy, bạn học cùng lớp với nhà thơ Quang Dũng, tiết lộ, rồi mới đây, bà Akimi-Nhật (bà tên là Nhật, có biệt danh Akimi do bạn bè đặt chứ không phải là người Nhật), hiện đang sống ở Hoa Kỳ, có gửi cho người quen bài thơ của Quang Dũng làm tặng bà thời đó, người quen đưa lên internet, tôi được đọc, bấy giờ mới biết “người đẹp” Akimi – cô gái con của bà chủ quán rượu nhỏ ở Sơn Tây – chính là người đã khiến Quang Dũng viết nên những bài thơ diễm ảo, trong đó có bài “Đôi mắt người Sơn Tây” mà sau này nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc, nữ danh ca Thái Thanh hát lần đầu tiên tại phòng trà Đêm Màu Hồng đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn, sau đó ông Nguyễn Cao Kỳ – cũng người Sơn Tây – bạn của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và ban hợp ca Thăng Long, nổi hứng bèn lên hát chung với nhạc sĩ Phạm Đình Chương trên bục sân khấu Đêm Màu Hồng.
    Nay, tôi xin trình bày hầu quý bạn về nhà thơ Quang Dũng cùng mối tình thật đẹp của ông với cô Akimi con gái của bà chủ quán rượu ở Sơn Tây, sau đó nói về bà cụ Bùi Thị Bạch, 94 tuổi, vợ của nhà thơ Quang Dũng, hiện đang ở Nursing-home tư nhân Tuổi Vàng, Hà Nội. Xin mời quý bạn thưởng thức.


    Nhà thơ Quang Dũng
    Quang Dũng sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng,tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), tên thật là Bùi Đình Diệm (anh ruột của Thiếu tướng Bùi Đình Đạm, QLVNCH trước năm 75).
    Trước CM tháng 8-1945, ông học Ban Trung học trường Thăng Long. Sau khi tốt nghiệp, đi dạy học tư tạiSơn Tây.
    Ông gia nhập bộ đội Việt Minh ngay sau cách mạng tháng 8-1945 và trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu.
    Năm 1947, ông được điều động đi học Trường bổ túc quân sự trung cấp tại Sơn Tây. Sau khóa học, ôngđược cử làm đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến, tức lên vùng Tây Bắc, chỗ tam giác Việt Nam giáp với Lào và Trung Quốc (nơi có thành phố tỉnh lỵ Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Điện Biên hiện nay). Trong chiến dịch Tây Tiến, ông được cử làm phó ban tuyên truyền Lào - Việt.
    Cuối năm 1948, ông làm trưởng ban tuyên huấn Trung đoàn 52 Tây Tiến rồi làm trưởng ban Văn nghệ Liên khu III. Trong thời gian này, ông viết nhiều truyện ngắn, kịch, và triển lãm tranh sơn dầu cùng các họa sĩkhác. Ông cũng sáng tác nhạc, bản Ba Vì của ông rất nổi tiếng trong vùng Ba Vì, Bất Bạt. Bài thơ Tây Tiếncủa ông làm năm 1948 trong khi dự Đại hội Toàn quân Liên khu III tại làng Phù Lưu, thuộc tỉnh Hà Nam.
    Năm 1951, Quang Dũng được duyệt xét để kết nạp vào đảng Cộng sản nhưng do khai trong lý lịch rằng trước đây từng là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng nên thế là tương lai chấm dứt. Năm 1954, sau khi có hiệp định hòa bình Genève, Quang Dũng bị cho giải ngũ, về làm công nhân tại nhà xuất bản Văn Nghệ Hà Nội với mức lương rất thấp cộng với 13kg gạo/tháng và được mua bằng tem phiếu 5m vải/năm cho cả gia đình.
    Trong vụ Nhân Văn-Giai Phẩm (bắt đầu vào tháng Giêng năm 1956, do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, bị dập tắt vào tháng 6-1958), Quang Dũng cùng nhiều văn nghệ sĩ khác bị “đại thi hào đồ tể” Tố Hữu khép tội phản động, đưa đi cải tạo tại Việt Bắc như Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Văn Cao, Hoàng Cầm v.v..., mấy năm sau được thả về, sống trong cảnh nghèo nàn, bệnh tật. Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1988 tại Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội, sau một thời gian dài đau ốm.
    Thơ của Quang Dũng trong thời chiến tranh Việt-Pháp, kể cả sau hiệp định Genève năm 1954 cho tới khi ông qua đời, ở ngoài Bắc bị “ông vua uy quyền” Tố Hữu phê phán là tiểu tư sản, ủy mị, thiếu tinh thần giai cấp, thiếu tính chiến đấu, trong khi ở trong Nam thì lại được xuất bản, phổ biến rộng rãi và được nhiều người ưa thích. Kể ra, các nhà thơ khác như Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh v.v... cũng bị mai mộtrồi mất âm thầm như vậy chứ không riêng gì Quang Dũng (Nguyễn Bính sinh năm 1918 ở Nam Định nhưng mất ở Hà Nam vào ngày 29 Tết năm Bính Ngọ 1966, trong hoàn cảnh nghèo đói, tha phương cầu thực, lúc mất ở nhà người ta mới 48 tuổi mà thân hình gầy gò, áo quần lôi thôi lếch thếch, trên đầu tóc rụng gần hết giống như bị trọc).
    Mãi tới thời kỳ mở cửa (khoảng năm 1991-1992) dần dần các tác phẩm của Quang Dũng mới được đánh giá một cách công bằng, và năm 2001, ông được truy tặng giải thưởng cấp nhà nước về văn học nghệ thuật.
    Quang Dũng là người tài hoa, vẽ giỏi, chơi ghi-ta giỏi (ngang tầm với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý), hát hay, làmthơ hay. Bài thơ Tây Tiến của ông mang nét hào hùng, bi tráng, pha chất lãng mạn,sau này được giảng dạy trong giáo trình trung học. Một số bài thơ như Tây Tiến (Phạm Duy phổ nhạc), Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương phổ từ hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây), Kẻ ở (Cung Tiến phổ nhạc). Đặc biệt bài thơ Em mãi là 20 tuổi được 3 nhạc sĩ khác nhau phổ nhạc (Việt Dũng, Phạm Trọng Cầu, Khúc Dương), quý bạn có thể mở Google, nghe trong website nhacuatui.com.





    Thiếu tướng Bùi Đình Đạm (1926-2009), cựu Đại tá Giám đốc Nha động viên, cựu Thiếu tướng Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh QLVNCH trước năm 75, sau 75 sống ở San Jose, Hoa Kỳ, lúc còn sanh tiền cho biết trước khi gia nhập quân đội Việt Minh, anh ruột ông là một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, vì vậy bị Cộng sản để ý theo dõi và vùi dập cho đến khi chết, còn bút hiệu Quang Dũng là do anh ông rất đau khổ về việc cậu con trai đầu lòng tên Bùi Quang Dũng bị thất lạc hay đã mất trong lúc chạy tản cư nên lấy tên đứa con bé nhỏ tội nghiệp đó làm bút hiệu, trong bài thơ Đôi Mắt Người Sơn Tây của anh ông có đoạn:

    Mẹ tôi, em có gặp đâu không?
    Bao xác già nua ngập cánh đồng
    Tôi có đứa con còn bé dại
    Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông!

    Giải đáp bí ẩn “Đôi mắt người Sơn Tây”
    Quang Dũng có nhiều bài thơ trữ tình rất hay, như: Cố quận, Đêm Việt Trì, Tây Tiến, Đôi bờ, Đôi mắt người Sơn Tây, Đường trăng v.v... nhưng Đôi mắt người Sơn Tây là bài thơ nổi tiếng và được nhiều người hâm mộ nhất. Thi phẩm nói lên cuộc gặp gỡ của nhà thơ với người con gái trong thời loạn lạc, một thoáng quen biết rồi chia tay giã biệt trong cuộc tình buồn, ngắn ngủi:

    Em ở thành Sơn chạy giặc về
    Tôi từ chinh chiến mới ra đi
    Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
    Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

    Em ở thành Sơn chạy giặc về”, như vậy người con gái này quê ở Sơn Tây, nhưng nàng là ai, tên gì, họ gì, làm nghề gì, gia đình ra sao và bao nhiêu tuổi?
    Theo nhạc sĩ Phạm Duy, bạn học cùng lớp với Quang Dũng tại trường Thăng Long, Hà Nội - Quang Dũng ngồi phía sau Phạm Duy cách hai bàn. Ông to con, nước da trắng, thân hình rắn rỏi, khỏe mạnh, đẹp trai, trông như Tây nhưng rất hiền lành. Lúc Quang Dũng còn là đại đội trưởng trong Trung đoàn Tây Tiến đóng ở Hòa Bình thì Phạm Duy cũng ở trong ban Văn công hoạt động tại đấy. Quang Dũng được nghỉ phép về thăm gia đình ở làng Phùng Xá thuộc tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội khoảng 40 cây số, gần với Sơn Tây (sau này Hà Đông và Sơn Tây nhập lại thành tỉnh Hà Tây, bây giờ cả hai nhập vào Hà Nội), nơi có con sông Đáy đẹp như tranh vẽ. Từ Hòa Bình ở phía Nam đi lên phía Bắc về Hà Đông phải đi qua Sơn Tây, anh tạt qua nơi có tên là Kinh Đào ở gần chợ Đại, thăm người yêu tên Nhật. Do nàng tên “Nhật”, lại đẹp như người Nhật nên bạn bè thường gọi đùa là “Akimi”. Bà mẹ Akimi khi chạy tản cư từ thị xã Sơn Tây xuống Kinh Đào, có mở một quán cà phê nhỏ để buôn bán tạm, Quang Dũng mỗi lần về ngang qua quán thường hay ghé uống. Nàng chính là “người đẹp Sơn Tây”, nguồn cảm hứng cho Quang Dũng làm “Đôi mắt người Sơn Tây” đầy cảm xúc:

    Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
    Em có bao giờ em nhớ thương

    Và:
    Đôi mắt người Sơn Tây
    U uẩn chiều lưu lạc
    Buồn viễn xứ khôn khuây...

    Akimi sống với mẹ trong cái quán nước đơn sơ này, nhà thơ thường hay lui tới và có lần sáng tác ngay một bài thơ ca ngợi nàng dán lên vách nứa:

    Tóc như mây cuốn, mắt như thuyền
    Khuấy nước Kinh Đào sóng nổi lên
    Ý nhị mẹ cười sau nếp áo
    Non sông cùng đắm giấc mơ tiên...
    (Đây là trích đoạn bài thơ mới phát hiện sau này do chính bà Akimi Nhật - định cư ở Hoa Kỳ cung cấp).

    Qua thơ, người thưởng thức vẫn thấy một bóng hình đẹp lãng mạn của người con gái mặc dầu không biết mặt. Có lần Phạm Duy cùng Quang Dũng đi xe đạp về chợ Neo, hai người chạy song song trên đường làng. Thi sĩ kể về mối tình của mình với người đẹp Akimi và đọc lên bài thơ tặng nàng:

    Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
    Sông xa từng lớp lớp mưa dài
    Mắt kia em có sầu cô quạnh
    Khi chớm heo về một sớm mai
    (Đôi Bờ)

    Sau này, chiến tranh lan rộng, Akimi theo mẹ về thành phố, bỏ lại người xưa, tan vỡ một mối tình.
    Tới năm 1954, nàng di cư vào Nam, sống tại Sài Gòn, đã một thời là kiều nữ của Nhà hàng Tự Do, đến năm 1975 sang Mỹ định cư. Nàng đi để lại cho Quang Dũng một nỗi nhớ ơ hờ, chỉ biết:

    Em đi áo mỏng buông hờn tủi
    Dòng lệ thơ ngây có dạt dào...

    Bài thơ càng nổi tiếng ở Miền Nam hơn khi nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc rất hay, trở thành phổ biến qua giọng ca truyền cảm của nữ danh ca Thái Thanh và sau đó là danh ca Duy Trác. Có người ngạc nhiên khi thấy nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ một lượt hai bài thơ trong cùng một bản nhạc, đoạn đầu lấy bài Đôi Bờ, đoạn sau là phần chính thì lấy bài Đôi mắt người Sơn Tây, rất độc đáo, hiếm thấy trong âm nhạc.
    Như vậy, chính “người đẹp” Akimi Nhật là nguồn cảm hứng cho những bài thơ bất tử của Quang Dũng, và Phạm Đình Chương là người đã chắp cánh cho thơ Quang Dũng bay cao, bay xa mãi trong lòng người...

    Người vợ của thi sĩ hiện nay
    Phần sau này được trích từ bài viết của nhà báo Trần Hoàng Thiên Kim ở Việt Nam viết về chuyến viếng thăm bà cụ Bùi Thị Thạch, vợ nhà thơ Quang Dũng hiện đang ở “Nhà Tuổi Vàng”, một ngôi nhà nho nhỏ dùng làm viện dưỡng lão tư nhân. (ĐD)

    Trước khi đến đây tôi vẫn đinh ninh Nhà Tuổi Vàng là một trung tâm to lớn, nằm trong khuôn viên rộng có vườn cây thoáng mát để hằng ngày các cụ đi dạo hoặc ngắm cảnh như nhiều trung tâm khác tại Hà Nội tôi đã có dịp viếng thăm. Khi đến đây rồi tôi mới biết Tuổi Vàng là một căn nhà nho nhỏ nằm trong khu dân cư Linh Đàm, được chị Bình thuê để mở nhà dưỡng lão. Vì diện tích hẹp nên hiện nay nhà chỉ có 9 cụ ở. Chị cho biết chị sắp mở thêm một Nhà Tuổi Vàng thứ 2 cũng gần đây để tiện chăm sóc.

    Tôi lên tầng trên gặp cụ Bùi Thị Thạch. Năm nay cụ 94 tuổi, vợ của nhà thơ Quang Dũng. Căn phòng rộng chừng hơn 10 mét vuông nhưng khá thoáng vì có cửa sổ mở ra bên ngoài. Cô Huyền, người trông nom cụ, quê ở Phú Xuyên, Hà Nội, vừa đưa bánh bích quy cho cụ ăn vừa cho tôi biết: “Cụ Thạch ăn uống giỏi lắm, bánh quy của chị Bùi Phương Thảo là con gái cụ gửi vào đấy. Cụ ăn thoáng cái là hết”. Rồi chị ngồi xuống bên cạnh cụ, vuốt tóc, chải đầu cho cụ: “Chị coi, 94 tuổi mà da dẻ cụ hồng hào như thế này đấy. Hồi trẻ chắc cụ đẹp hết sức. Cụ ăn uống được lắm, ngày ba bát cháo hết vèo chưa kể các đồ ăn vặt. Cái gì cụ cũng ăn được, kẹo cứng thì cụ ngậm, lấy lưỡi đưa đẩy một lúc lâu cho tan rồi xin cái khác”. Chị kể tiếp: “So với cách đây 5 năm khi mới vào Nhà Tuổi Vàng thì bây giờ cụ già yếu hơn nhiều. Hầu như cụ không còn nhận ra người chung quanh kể cả chị Thảo là con gái cụ. Tuần nào cứ đến cuối tuần là chị Thảo vào thăm mẹ nhưng có lúc cụ nhận ra, có lúc không. Cụ thường lẩm bẩm khe khẽ một mình rồi vỗ vỗ hai tay vào nhau hay mân mê cái chăn, cái gối. Cụ không đi lại được vì ảnh hưởng của chân bên trái bị gãy do ngã cách đây mấy năm khi chưa vào nhà dưỡng lão”.
    Tôi hỏi cụ khá lớn: “Cụ còn nhớ nhà thơ Quang Dũng chồng cụ không ạ?” Cụ ngớ ra, mắt như nhìn đi đâu đâu và đang nghĩ tới việc gì: “Ông Dũng ấy à? Có chứ! Mãi không thấy ông ấy về, sốt cả ruột. Kỳ này ông ấy đi đâu lâu thế, chắc viết lách nhiều”. Tôi được biết ngày trước cụ là một thợ đan len rất giỏi, thậm chí nhờ hai bàn tay khéo léo ấy mà cụ đã nuôi được 5 người con ăn học nên người, ngoại trừ cậu con trai đầu lòng bị thất lạc từ nhỏ trong khi chạy tản cư: “Cụ còn đan len được không ạ?” Cụ giương mắt nhìn tôi: “Đan hả? Làm gì có len mà đan. Muốn đan phải mua len tốt ở Hà Nội. Chạy tản cư thì chả có len tốt được”. Cụ im lặng một lát rồi lại vỗ vỗ hai tay vào nhau, đầu óc để tận đâu đâu coi như không có tôi ngồi đấy.
    Cô Huyền cho biết cụ Thạch là một trong những cụ già hiền lành nhất trong Nhà Tuổi Vàng. Tối đến, uống thuốc xong là cụ ngủ một mạch cho đến 2 - 3 giờ sáng. Hầu hết các cụ ở đây đều bị lẫn. Cụ Thạch tuổi cao đã đành, có những cụ chỉ mới ngoài 60 - 70 nhưng xem ra còn nặng hơn. Đang đêm, nhiều cụ tỉnh dậy nói một mình như đang đối đáp với người khác, la hét hoặc đi lại trong nhà.

    (H.5 : cô Bùi Phương Thảo)

    Sau khi đến thăm cụ Thạch, tôi tới thăm, trò chuyện với chị Bùi Phương Thảo, con gái út của cụ. Chị hiện là hiệu phó trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Hà Nội. Không chỉ bận rộn công việc ở trường, chị còn thay mặt người cha quá cố của mình làm Trưởng ban Liên lạc Hội cựu chiến binh Trung đoàn 52 Tây Tiến và là thành viên ban chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn nghệ xứ Đoài. Tất bật với các công việc nhưng chị vẫn tranh thủ thời gian trò chuyện với tôi. Tôi kể chuyện mới gặp cụ Thạch ở Nhà Tuổi Vàng, chị nói: “Thật ra thời gian đầu cụ cũng không muốn ở nhà dưỡng lão đâu. Khóc suốt đấy. Hễ thấy con cái đến là cụ năn nỉ: “Cho mẹ về nhà đi, mẹ nhớ nhà lắm”. Nhưng rồi mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, nên tôi cố động viên mẹ ở lại để tiện việc thuốc men, chăm sóc. Bây giờ thì cụ lẫn hết cả rồi. Tuần nào tôi cũng vào thăm, ngồi chơi với cụ một lúc rồi lại phải về bù đầu với công việc. “Cụ yếu thế, có bao giờ các anh các chị có ý định đưa cụ về nhà không? Nói dại mồm dại miệng chứ chẳng may cụ trăm tuổi, không gặp được con cháu?” Chị Thảo bùi ngùi: “Mấy anh em chị em chúng tôi cũng có nghĩ đến. Vợ chồng người anh thứ hai tức anh lớn nhất của chúng tôi ở Thái Nguyên, rất xa trung tâm y tế, nếu cụ ở với anh chị ấy những lúc trái gió trở trời thì biết làm sao. Hồi trước cụ ở với người anh thứ nhì của chúng tôi cũng ở Hà Nội nhưng bây giờ anh ấy mất rồi, chị dâu đã hưu trí còn các cháu thì mắc đi học, không trông nom được. Hai chị gái tôi thì ở trong Nam, còn tôi tuy ở gần đây nhưng nhà là nhà tập thể, bé tí tẹo, chật chội, lại ở mãi trên tầng 3, tôi ở trong trường suốt ngày, đưa cụ về thì mình phải thuê ôsin trông nom cho cụ, đâu có tiền. Đành phải để cụ ở trong Nhà Tuổi Vàng vậy thôi, nếu chẳng may cụ có trăm tuổi thì trong ấy họ gọi điện thoại, mình chạy đến ngay cũng được”.

    (H.6 : anh Bùi Quang Vinh)

    Kết luận của Đoàn Dự:
    Nhà thơ kiêm họa sĩ H.H.Trang năm nay 76 tuổi, nói chuyện với tôi rằng bà Vũ Hoàng Chương (nhũ danh Đinh Thục Oanh, chị ruột của nhà thơ Đinh Hùng) lúc sắp mất tội nghiệp lắm, nằm suốt hơn 2 năm trời do tai biến mạch máu não, lưng lột cả ra mà nhà lại nghèo, có người con trai tên Vũ Hoàng Tuân nhưng cũng nghèo, mắc đi làm tối ngày nên chị (H.H.Trang) phải lui tới trông nom săn sóc giùm cho tới khi bà mất. Tôi nghiệm ra, làm nhà thơ thời nào cũng vậy, ai cũng nghèo chứ chẳng ai giàu, còn làm vợ nhà thơ thì lại càng khổ hơn, lúc nghèo đâu có đem thơ ra mà ăn được. Chỉ làm... người yêu của nhà thơ là tốt hơn cả, yêu nhau tha thiết, trở thành nguồn cảm hứng của “chàng”, sau đó trời bắt chia tay mỗi người mỗi ngả, nhớ nhau suốt đời có lẽ lại hay. Con cá vuột mất bao giờ cũng lớn hơn con cá bắt được. Bởi vậy nhà thơ Hồ Dzếnh viết: “Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở. Đời hết vui khi đã vẹn câu thề”, kể ra cũng đúng.<



    Được đăng bởi Bom R TM vào lúc 19:58
Working...
X