Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Hoàng Hạc Lâu -

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Hoàng Hạc Lâu -

    Cung Tiến & Hoàng Hạc Lâu


    Quỳnh Dao


    Sinh tiền, Vũ Hoàng Chương là thầy dạy Việt văn của Cung Tiến. Ông sinh năm 1916, trước người nhạc sĩ tên tuổi này 22 năm. Nhưng với thói quen khoáng đạt của một nhà thơ, ông không hề câu nệ, vẫn coi Cung Tiến như người bạn vong niên hơn là một đứa học trò.
    Có lần ông nói đùa. Rằng Cung Tiến phổ thơ biết bao người mà chưa từng phổ thơ Vũ Hoàng Chương! Cung Tiến không quên điều ấy nhưng biến cố 1975 đã ụp trên cả nước và người nhạc sĩ thì lưu vong ra ngoài, còn nhà thơ kẹt lại ở bên trong với những Mai Thảo, Phạm Ðình Chương, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Xuân Ninh, Phan Lạc Phúc, v.v....
    Trong nỗi bi phẫn về cảnh bạn bè tán lạc, Vũ Hoàng Chương đã cảm dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu, rồi nhờ bạn bè chuyển được ra ngoài, đến tay Cung Tiến khi ấy còn ở Canberra bên Úc... Thôi Hiệu là nhà thơ khét tiếng thời Thịnh Ðường vào đầu thế kỷ thứ tám. Bài thơ của ông khiến một người như Lý Bạch còn nghẹn lời không dám viết về lầu Hoàng Hạc nữa và được Kim Thánh Thán ngợi ca là “bút pháp tuyệt kỳ, tác phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ Luật”.
    Ðấy cũng là bài được người mình dịch sang Việt ngữ nhiều nhất. Có người đếm ra hơn bốn trăm bản dịch khác nhau, từ Tản Ðà, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Nguyễn Ðức Hiển, v.v... Với Cung Tiến và nhiều bằng hữu thì bài cảm dịch của Vũ Hoàng Chương là một sự tuyệt mỹ vì tâm cảnh mọi người vào lúc đó..
    Từ bên ngoài, nhận được bản dịch, Cung Tiến nhớ thầy, nhớ bạn và nhớ lại cung cảnh xa xưa nên đã xuất thần phổ nhạc rất nhanh và tìm cách gửi về ngay năm sau. Nhưng không kịp nữa. Vũ Hoàng Chương bị cầm tù và bị kiệt sức mới được thả ra và tạ thế sau đó năm ngày nên không bao giờ được nghe ca khúc này. Bây giờ nhớ lại thì xin ghi bài cảm dịch của ông để chúng ta khỏi quên và cùng thưởng thức:
    “Xưa hạc vàng bay vút bóng người
    Ðây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
    Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
    Trắng một màu mây vạn vạn đời
    Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
    Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
    Gần xa chiều xuống nào quê quán
    Ðừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi...”
    Khi còn sống, ông Nguyễn Ðức Hiển tại Houston Texas cho rằng bản dịch Vũ Hoàng Chương “còn hay hơn nguyên bản, mà nguyên bản vốn đã hay tót vời”. Ông Hiển có thể nói không ngoa vì bản thân đã dịch đi dịch lại mười mấy lần bài thơ của Thôi Hiệu! Ông còn dụng công so sánh hai câu thực của nguyên bản, gồm sáu thanh trắc liên tiếp:
    “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
    Bạch vân thiên tải không du du”
    Với câu “thực” do Vũ Hoàng Chương để lại mà ông cho là ảo diệu hơn:
    “Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
    Trắng một màu mây vạn vạn đời...”
    Khi đọc lại, làm sao mình không ngậm ngùi với những chữ tuyệt diệu như “vút” bóng người, hay chút “thơm” rơi...? Và câu kết, “Ðừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi!”, nghe thê thiết hơn vần lục bát của Tản Ðà:
    “Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
    Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!”
    Cung Tiến đưa Hoàng Hạc Lâu vào nhạc với phần hòa âm soạn cho dương cầm và viết trên cung Ré giáng Trưởng, nhịp 4/4 chậm rãi tha thiết - andantino - và ý nhị. Piano mở đầu bằng hai ô nhịp, hai mesures, viết lối Arpège chùm hai nốt, thánh thót, êm đềm. Rồi lời ca cất lên bồi hồi day dứt như một truyện kể, mà dùng phép tả cảnh để tả tình:
    “Xưa hạc vàng bay vút bóng người...
    Ðây lầu Hoàng Hạc chút (ứ ư ) thơm rơi...”
    Ðàn piano lại rải, nghe như tiếng chim hót, và cứ thế ca khúc dẫn người nghe vào một bức tranh cổ, với cánh hạc vàng ẩn hiện sau vầng mây bạc có nắng chiếu, có cây bến Hán Dương u buồn và cỏ bờ Anh Vũ vắng vẻ, chẳng còn ai chơi...
    Ðoạn nhạc chuyển tiếp nỉ non đan lượn những ngậm ngùi rồi chợt mở ra tâm sự kẻ tư hương, nhớ quê, nhớ bạn...
    “Gần xa chiều xuống nào quê quán
    Ðừng giục cơn sầu nữa (ư ứ), sóng (à à) ơi...”
    Rồi đàn lại buông arpège hai nốt nhẹ nhàng, lãng đãng chìm khuất, mơ hồ như cánh hạc vàng tan trong khói sóng...
    Toàn bài, Cung Tiến dùng âm giai ngũ cung đầy chất Ðông phương với nét nhạc thanh thản, nhuốm vẻ Lão Trang và phảng phất giai điệu Claude Debussy trong bài “Clair de Lune”. Cung Tiến rất chuộng Debussy khi nhạc sĩ người Pháp này khám phá nhạc Á Ðông vào đầu thế kỷ trước. Debussy cũng dùng hợp âm ngũ cung và cũng lấy “Arpège” rải tay trái và đưa ra một hợp âm lạ tai mà hài hòa êm ái.....
    Bài “Hoàng Hạc Lâu” là viên ngọc quý của thơ Ðường. Bản dịch Vũ Hoàng Chương là bài chuyển ngữ mang tâm sự của một thi hào trong hoàn cảnh bi đát của đất nước. Ca khúc Cung Tiến là sự kết hợp lạ kỳ của tình cảm và nhạc thuật để nối liền ngần ấy nét đẹp của thơ, của nhạc. Ðiều hơi tiếc là ít người biết hoặc trình bày ca khúc trác tuyệt này để đời sau còn nhớ Vũ Hoàng Chương và dòng nhạc quý phái của miền Nam chúng ta khi mình đã mất hết...
    Lần cuối mà miền Nam tự do có buổi sinh hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương là vào Tháng Ba năm 1975, tại phòng trà của Khánh Ly, do Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền tổ chức. Ðã 35 năm tròn rồi. Sau đó là cảnh chia ly tan tác. “Vàng tung cánh hạc”... như ánh chớp chợt lóe rồi vụt tắt.
    Dư âm còn lại là tiếng nhạc lãng đãng trong chiều tà. Sau đấy là cõi tối đen của thơ và nhạc...


  • #2
    Hoàng Hạc Lâu còn là tên một tuyển tập bao gồm nhiều ca khúc nổi tiếng của Cung Tiến từ trước như Thu Vàng, Hoài Cảm, Hương Xưa, Nguyệt Cầm… cho đến một số ca khúc viết sau này tại hải ngoại như Hoàng Hạc Lâu, Vết Chim Bay, Khói Hồ Bay…
    Trong tuyển tập này, đều có phần đệm piano, đa số do chính tác giả soạn rất công phu cho từng bài hát. Một vài bài do Walther Giger, một nhạc sĩ lục huyền cầm cổ điển người Thụy Sĩ.
    Nói đến Cung Tiến thì người nghe nhạc ít nhiều cũng đã từng nghe qua ca khúc nổi tiếng "Hoài Cảm", sáng tác năm 1953 khi tác giả còn rất trẻ. Ông đã từng thố lộ:
    ...Đây là ca khúc đầu tiên viết từ năm 1953 lúc đó tôi mới 14 tuổi, lúc tôi mới học đệ lục nó là công an khúc hoàn toàn trữ tình của một học sinh ảnh hưởng thơ mới lãng mạn của Huy Cận, Xuân Diệu .... Riêng với tôi nó là đứa con đầu lòng vẫn còn được thính giả yêu thích tôi vẫn thích vì nó giản dị và là một thời học trò của mình...
    …"Hoài Cảm" không phải là tác phẩm quan trọng lắm, bởi vì ở cái tuổi 14, 15 thì đâu có nghĩ sẽ viết một tác phẩm quan trọng đâu.
    …Hoài Cảm là bài hát mà tôi viết ra trong tưởng tượng. Tưởng tượng ra là mình nhớ một người nào mình yêu mến thôi, chứ không có ý nghĩ sâu xa gì đằng sau cả. Ðó chỉ hoàn toàn là trí tưởng tượng trong âm nhạc cũng như trong lời ca. Lời ca bị ảnh hưởng từ những bài thơ mình học ở trường, như thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, những nhà thơ lãng mạn của Việt Nam hồi đó...
    … bài “Thu Vàng” của tôi ngày xưa, chẳng hạn, thì nó có tính cách phổ thông, dễ nghe, nhưng không có nghệ thuật mấy…
    "Thu vàng” viết về mùa thu Hà Nội của những ngày ấu thơ nhặt lá vàng. Ca khúc trở thành một bản nhạc của những người di cư luôn nhung nhớ quê hương đất Bắc của mình rất được thính giả ưa thích qua phần trình diễn trẻ trung sống động của Tâm Vấn, Đỗ Tuấn, Kim Tước, Mai Hương,... toàn là các ca sĩ trẻ trong giới sinh viên học sinh.
    "Hương Xưa” là bài nhạc viết vào năm 1955 đề tặng Khuất Duy Trác, một người bạn thân thiết của ông. Và cũng từ chính giọng hát của Duy Trác đã đem “Hương Xưa" và tên tuổi Cung Tiến đến đài phát thanh và các tiền trường sân khấu của các trường trung học hoặc đại học và trở thành một hãnh diện của những người trí thức trẻ say mê văn nghệ.


    Ngoài những ca khúc khi mới bắt đầu sáng tác như Hoài Cảm, Hương Xưa, Thu Vàng và về sau này nữa có bài Mắt Biếc, Bản Tango Cuối… đa số tác phẩm của Cung Tiến được phổ từ thơ của những nhà thơ nổi tiếng.
    … Hồi nhỏ học trung học thì tôi chỉ biết âm nhạc tôi viết là "popular song", tức là những ca khúc phổ biến, phổ thông. Trong âm nhạc có nhiều khía cạnh, nhiều thứ, nhiều những trật tự mình phải theo, như hòa âm, đối điểm, tổ khúc, phối âm... mà hồi đó ở Việt Nam tôi chưa được học. Lúc học xong trung học, năm 1956, được học bổng sang Úc học về kinh tế. Trong thời giờ rảnh, tôi đi học thêm âm nhạc ở Nhạc Viện Sydney, từ đó tôi mới khám phá ra những khía cạnh khác của âm nhạc, không phải chỉ một melody, một làn điệu mà còn nhiều yếu tố khác tạo nên âm nhạc.
    Từ đó trở đi, tôi rất ý thức việc phổ thơ, phổ nhạc vào thơ vì thơ đứng một mình đọc cũng được, nhưng nếu có nhạc đi kèm vào, phụ họa vào thì nó có một chiều kích (dimension) khác, một kích thước khác, gọi là ca khúc nghệ thuật, "art song", tức là lấy một văn bản có giá trị như thơ viết thành nhạc và cho vào bối cảnh hòa âm hoặc là bằng piano, hoặc bằng một cái đàn ghita hoặc một ban nhạc.

    Riêng đối với tôi, những ca khúc nghệ thuật, nhất là những bài thơ mà tôi phổ nhạc của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, Xuân Diệu, Phạm Thiên Thư, Trần Dạ Từ, v.v., đó là những bài thơ tôi đọc và tôi thích. Tự nhiên, mình mường tượng ra phong cảnh âm thanh (soundscape). Một thí dụ rõ ràng nhất trong tập nhạc là bản “Khói Hồ Bay” (trong Tuyển Tập Ca Khúc “Hoàng Hạc Lâu”), thơ của ông Nguyễn Tường Giang, người bạn tôi rất thân. Bài thơ đó có tựa ban đầu là “Thu ở Vermont”. Tôi đọc bài thơ, tôi khoái ngay. Vừa mường tượng ra cái cảnh đi mùa thu ở Vermont, đi trên đường gập ghềnh, nhìn thấy lá rơi, rồi tất cả, cả một chân trời màu vàng hết. Thế rồi, sực nhớ đến một người tình hồi xưa... Trong đầu tôi tưởng tượng ra tất cả những cảnh đó. Tôi dùng bài thơ đó để tôi lồng vào một giai điệu. Thế nhưng, cái đó chỉ là một phần nhỏ. Phần lớn là phần piano dùng làm bối cảnh, để tả lại hình ảnh chập chùng đồi núi, mà nhà thơ đã đi lên Vermont, trong mùa thu, để ngắm lá thu, nhớ đến tình nhân.
    … nhịp tiết còn tùy khung cảnh, tùy lời thơ… Nhịp tiết trong bài “Khói Hồ Bay” thay đổi tùy theo tình cảm của người làm thơ, cũng như cảnh vật bên ngoài. Nếu đọc lời thơ đó và nhìn phần piano, thì quý vị sẽ thấy nó trùng hợp như thế nào. Thí dụ như đoạn cuối cùng, khi nhắc đến khói hồ bay, cần đến kỹ thuật viết nhạc như thế nào để làm cho người nghe có cảm tưởng là khói hồ đang bay thật. Đó là một kỹ thuật thôi, nhưng mà cũng phải phù hợp với lời thơ...


    Hoàng Hạc Lâu: 3 bản dịch độc đáo
    Trong " Toàn Đường Thi" (gồm42.863 bài thơ của 2520 Thi sĩ đời Đường)- Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là "Hoàng Hạc Lâu" cuả Thôi Hiệu ?
    "Hoàng Hạc Lâu" thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường.Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu ( ?-754) người Bịện Châu ( Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang,hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay ).Ông tính lãng mạn,ham đánh bạc,rượu chè "của lạ" (thay vợ đến 4 lần).Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy,đến cuối đờiphong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi,sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm ,Bão Chiếu...Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ là vậy);Bạn ông nói đùa " không phải Bác bệnh đến như vậy,bởi khổ vì ngâm thơ nên gầy thôi" !
    Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc,vốn là "tửu quán" -đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ " Giang Nam hảo "nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ...Theo sách " Cổ đại thi tứ cố sự" thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế : thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, "Tình Xuyên Các" bị che lấp trong ráng chiều ta, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày...Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả "Lầu", còn 3 câu kia đều tả "người xưa"... trong đó câu 1 là tả "người xưa", câu 3 là nghĩ "người xưa", câu 4 là ngóng "người xưa", cứ như phớt lờ không nhắc gì đến "lầu".Câu 5-8 tiền giải là tả "người xưa", hậu giải tả "người nay", tuyệt nhiên không tả đến "lầu"... Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình.Rồi "hương quan hà xứ thị" (ở nơi này) với cây thì "lịch lịch" (in rõ), bãi thì "thê thê" (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng "hương quan" là không biết "hà xứ" (nơi nào).Rồi với hai chữ "nhật mộ" (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để "đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn."Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2).Câu 3 "Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản" là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ "trắc" trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường.Để làm gì? - để nhấn mạnh cái ý "tiền bất kiến cổ nhân" - "nhất khứ" là một đi - "bất phục phản" là không trở lại... câu này nói lên cái lẽ vô thường của mọi người, mọi việc.Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữaHoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu "thôi miên" ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ "dịch" nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:1. Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục (Nam Phong tạp chí - năm 1923)Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,Ở đây chi những lầu hạc trơ.Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.Sông bạc Hán Dương cây xát xát,Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?Mây nước trên sông khách thẫn thờ.Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho) ; công phu ở chỗ : theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.2. Bản dịch của Tản Đà:
    Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
    Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
    Hạc vàng đi mất từ xưa
    Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
    Hán Dương sông tạnh, cây bày
    Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
    Quê hương khuất bóng hoàng hôn
    Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
    In ở tạp chí Ngày Nay số 80 , ngày 10-10-1937Đay là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt.Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về.Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?3. Bản dịch của Vũ Hoàng ChươngXưa Hạc Vàng bay vút bóng người,Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,Trắng một màu mây vạn vạn đời.Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!Như ta đã biết : Thôi HIệu (con người phát ốm vì làm thơ đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh "trắc" liên tiếp mới nói được:Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phảnBạch Vân thiên tải không du duĐể đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi... Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật ,nói theo Tô Thẩm Huy thì :đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:Vàng tung cánh hạc đi đi mãiTrắng một màu mây vạn vạn đờiMột màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối "đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động". Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: "Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục,đó là sóng của bể dâu, hưng phế."Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:- Yên ba giang thượng sử nhân sầu- Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:- Vàng tung cánh hạc đi đi mãiNếu đưa chữ "hạc" lên đầu câu:- Hạc vàng tung cánh đi đi mãiThì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế - và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa? (Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010, Nguyễn Khôi - Cẩn bút)

    Comment


    • #3
      Hoàng Hạc Lâu.
      Nhạc: Cung Tiến.
      Thơ: Thôi Hiệu.
      Dịch: Vũ Hoàng Chương.
      Tiếng hát: Quỳnh Giao.
      PPS: NNS & SM.









      Comment


      • #4
        Ca khúc "Hoàng Hạc Lâu"
        Thơ Đường Thi của Thôi Hiệu
        Bản dịch Nôm của Tản Đà ( Nguyễn Khắc Hiếu )
        Thanh Trang phổ nhạc
        Tố Hà đơn ca









        Comment

        Working...
        X