NHỮNG KHOẢNG TRỜI RIÊNG
Đỗ Bình
Bước vào cõi thơ là lắng nghe tiếng đời thỏ thẻ, tiếng lòng thi nhân khát vọng. Tùy theo tâm cảnh, sắc màu trong mỗi tâm hồn nghệ sĩ sẽ khác với màu sắc ngoài thiên nhiên khi diễn tả cảm xúc, tư duy về đối tượng. Thi hào Nguyễn Du đã giải bày qua câu thơ Kiều:“ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! “
Thơ giãi bày nỗi niềm của người thiếu phụ sống vào thời ly loạn đã phải gánh chịu bao đau thương ngậm ngùi. Người thiếu phụ tiễn chồng ra sa trường rồi trở về với nỗi cô đơn phòng vắng! Trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn và ĐoànThị Điểm là những áng thơ đẹp đã diễn tả về tâm cảnh ấy. Thi nhân đã dùng gôn ngữ hình tượng họa lên một bức tranh tuyệt tác:
“..Ngoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.”
Không phải lúc nào thi nhân cũng làm thơ trữ tình êm ả, thổn thức lời dịu ngọt chuyện lứa đôi hạnh phúc hay đau khổ, nhưng đời mà thiếu tình như trái tim thiếu máu ,tách thơ trữ tình ra khỏi thi nhân thì nhà thơ chỉ còn là cành khô, lá úa,! Bài thơ tình được đời khen là tuyệt vời rất khó, bài thơ phải đạt cả nội dung lẫn hình thức. Đối với thi nhân thì chỉ cần bài thơ mình đầy cảm xúc và đặc sắc.
“Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không ? ”
(Bùi Giáng)
Trong khi đó thơ tâm linh là một loại thơ ẩn chứa ý tưởng huyền bí cao siêu, ngôn ngữ thơ chân phương nhưng sâu sắc. Về lãnh vực tâm linh, ngay cả những vị chức sắc, cao tuổi trong tôn giáo mà vẫn còn đang nghiên cứu học đạo ; thì người làm thơ làm sao diễn đạt được sự huyền bí cao siêu về tâm linh ? Một khi chưa hiểu hay không hiểu được những kỳ bí trong con người và vũ trụ thì không thể cảm được lẽ đạo để biến thành nghệ thuật thi ca ? Trừ phi nhà thơ đó là người chịu khó nghiên cứu đạo, uyên thâm tư tưởng, hoặc được thượng đế ban cho một cảm nhận đặc biệt như «Mở Huệ Nhãn» bên Phật Giáo, và «Mặc Khải Hồng Ân» bên Thiên Chúa Giáo..vv…
Thời nào cũng thế người đi học thì nhiều nhưng kẻ sĩ thì hiếm ?! Nhất là khi đất nước có chiến tranh hay bị giặc ngoại xâm, chỉ có kẻ sĩ mới dám dấn thân và lên tiếng. Thơ quê hương đất nước luôn bàng bạc trong mỗi con người, tùy theo thời thế hoàn cảnh đã tác động sự rung cảm của thi nhân. Thi sĩ Tản Đà đã trải tấm lòng qua bài thơ đầy tình tự quê hương:
“Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non...”
(Thề Non Nước)
Thơ nhập vào hồn thiêng sông núi, chuyển biến theo vòng thế sự, hòa với sự thăng trầm của dòng lịch sử dân tộc. Hồn thơ hừng hực như hỏa diệm sơn, cuồn cuộn thác lũ, ý thơ sắc bén như ngàn gươm đao, mạnh hơn vạn quân. Bài thơ là ngọn lửa kích động tinh thần yêu nước, là ý chí đấu tranh chống ngoại xâm. Xưa danh tướng Lý Thường Kiệt đã viết bài Nam Quốc Sơn hà như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc:
« Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. »
Dòng lịch sử thế giới ghi lại, có một thời dấu vó ngựa cửa đoàn quân Mông Cổ đã tung bụi mờ khắp muôn dặm, làm bạt vía trời Âu Á . Thế giặc thuở đó như sóng vỡ tiến vào nước ta, vua tôi nhà Trần một lòng giữ nước quyết chống ngoại xâm. Hưng Đạo Vương đã soạn ra một quyển binh thưYếu Lược. Bài Hịch Tướng Sĩ, vua tôi nhà Trần đã cùng nhau một lòng đẩy lui được đoàn quân ngoại xâm.
Bài Bình Ngô Đại Cáo của thiên tài Nguyễn Trãi không những là khúc ca hùng tráng của dân tộc mà còn làm rạng rỡ nền văn học cổ điển nước nhà:
“Tốt năng dĩ đại nghĩa, nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân, nhi địch cường bạo.”
(Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.)
Ngày xưa tráng sĩ Đặng Dung đã giải bày tấm lòng trung liệt qua câu thơ đầy khí tiết:
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.”
( Thù chưa trả xong đầu đã bạc,
Dưới trăng bao độ tuốt gươm mài.)
Thi sĩ Nguyễn Bá Trác mang nỗi sầu đất nước đã gởi tâm sự mình qua bài Hồ Trường:
“ …Vỗ gươom mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Thiên hạ mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.…
Nào ai tỉnh nào ai say ?
Chí ta ta biết, lòng ta, ta hay…. »
Nhiều khi thi nhân bị người đời gán cho là những kẻ thương vay khóc mướn, điều ấy có quá khắt khe chăng; vì nhà thơ nào phải là tượng đá? Hồn thơ sẽ xanh rêu chết yểu nếu chẳng còn rung cảm trước những biến đổi buồn vui của ngoại cảnh để hòa với nhịp sống thiên nhiên, chia sẻ nỗi đau của tha nhân, hay tự xoa dịn niềm đau của chính bản thân mình? Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã tả về đất nước và thân phận những con người trước sóng nước hãi hùng của biển cả vào giai đoạn giữa thế kỷ 20 qua bài Phương Xa :
«.. Lũ chúng ta, đầu thai nhầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền ! xin ghé bến hoang sơ…»
Có nhiều khi thơ là tiếng uất nghẹn, lời than từ đáy ngục tù, nơi giam hãm những tâm hồn yêu tự do. Thơ là nơi trú ngụ của những tâm hồn đau khổ, là tiếng vọng vào đời ngân lên tiếng nói chân chính của con tim để giải oan cho những tâm hồn thanh cao bị bạo lực truy bức đến chỗ khốn cùng! Nhờ có thơ thi nhân trong thân phận người tù đã nương vào con chữ tìm chỗ dựa để hồn chấp cánh bay cao thoát vực sâu đầy tối tăm! Dù trong mọi hoàn cảnh, kể cả lúc nghiệt ngã nhất thơ và thi nhân vẫn là bạn đồng hành chia xẻ những buồn vui. Thơ như dòng suối mát giúp tâm hồn thi nhân vượt thoát những sầu muộn. Nhà thơ chân chính luôn có tâm hồn thanh cao độ lượng nên đã biết yêu thiên nhiên và đồng loại. Nhà thơ Hà Thượng Nhân dù ở trong cảnh ngộ tù đày khốn cùng, vẫn hát tiếng hát tình nguời :
« Chúng ta đói khổ cách nào
Nắm tay chấp cái gian lao vẫn cười
Mùa xuân cây cỏ xanh tươi
Xác tù, lòng vẫn lòng người tự do.
Chia nhau từng hạt bo bo
Thương mình nghĩ lại thương cho kẻ thù
Mình tù hay họ là tù ?...”
(Xuân Trong Tù)
Ngục tối có thể giam hãm xác thân người tù nhưng ngục tối không thể giam hãm được tâm hồn, ý chí những người bất khuất. Từ những đau thương thi nhân đã diễn tả những xúc cảm đó thành những ngọn lửa hừng hực cháy trong lòng người tự do. Ngày nay thơ là bạn đồng hành với những người xa xứ. Thơ chia xẻ niềm đau, nổi nhớ và sự cô đơn diễn tả tâm trạng kẻ xa quê, nhưng chốn phồn hoa đầy vật chật đã dần làm khô héo đi tính lãng mạn, phải nặng nợ với tình thơ lắm thi nhân mới ôm cái nghiệp dĩ vào thân lắng hồn mình vào ngoại cảnh để thấy hoa cười trong nắng mai, sợi buồn giăng cỏ úa, và nghe cả tiếng thở dài của thời gian. Nhà thơ Phương Triều mang kiếp ly hương, thấm nỗi sầu viễn xứ ngẫm chuyện thế nhân và ngậm ngùi nhìn xuân trôi:
“… Ngưyời qua từng vết hằn binh lửa
Đời cháy bừng theo vạt chiến bào
Nửa đêm ngựa hí buồn trong gió
Xuân rụng đìu hiu giọt nắng đào !“
Tâm trạng người tha hương não nề. Hồn quê đã gắn chặt vào kẻ xa xứ nên không hình ảnh nào của quê người có thể thay thế được. Từ ngàn xưa cho đến nay dòng sông thi ca nhân loại vẫn trôi theo tháng ngày dù có lúc thăng trầm, khi vinh quang thơ được mùa ngự trên đỉnh cao chót vót, nhà thơ được yêu qúy ca ngợi, nhưng đến lúc suy thơ và thi nhân rơi xuống tận đáy vực sâu; người đời bỏ quên, ruồng rẫy! Ở Trung Hoa vào thời đại Tần Thủy Hoàng xa xưa, bạo chúa đã đốt sách, chôn sống văn nhân, ở Việt nam dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, nhà nước vì muốn kiểm soát chặt chẽ tư tưởng quần chúng nên cấm đoán những tác phẩm viết từ những trái tim chân chính, nhiều văn nghệ sĩ đã bị cấm viết, và tù đày! Bách hại thế mà nhà thơ muônđời vẫn nặng gánh tình thơ chẳng ai muốn quăng bút cho nhẹ gánh. Phải chăng trên đời nếu không có nghệ sĩ thì ai cảm được sự màu nhiệm tuyệt vời của thiên nhiên mà phổ biến? Ai chia xẻ nỗi buồn của tha nhân?...vv.. Ở cõi nhân gian đầy hệ lụy này thi nhân đóng một vai trò tích cực trong cuộc sống; ngay cả khi đã qua đời những áng thơ văn tuyệt tác đó vẫn có thể giải buồn hoặc làm điểm tựa tinh thần nâng cao ý chí với những người đồng điệu hằng thế kỷ sau, và sự đồng cảm là sợi giây nối giữa ngươì ngàn xưa với ngàn sau. Tâm hồn thi nhân rất phong phú, cảm xúc nhạy bén nên hòa nhịp niềm đau của tha nhân bằng nghệ thuật, vì thơ còn là nơi trú ngụ của những tâm hồn thanh cao. Nhà thơ đã cảm nghiệm bằng chất liệu sống để diễn tả cảnh đời với chút thực, chút hư thành những mảng màu sắc riêng biệt qua ngôn ngữ hình tượng của thơ. Nhà thơ đã từ cái thực của cuộc đời đi vào cái mộng của đam mê để cuộc đời thăng hoa. Chỉ có cảm xúc chân thật mới có thể diễn tả bằng nghệ thuật, ngược lại nghệ thuật khơi mở cảm xúc chân thật. Nhà thơ Phùng Quán đã dùng ngôn ngữ chân phương, không văn hoa chau chuốt để diễn tả cái tâm qua từng câu chữ, dựa trên thanh âm để tạo nhịp. Bài thơ chứa nhạc tính mang chất hùng ca, ý tưởng bài thơ sâu sắc, như một thông điệp cho đời về tính trung thực của con người với tha nhân không chịu khuất phục trước bạo lực. Bài thơ Lời Mẹ Dặn đăng trong Nhân Văn Giai Phẩm, xin trích vài đoạn:
«yêu ai cứ bảo là,yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
cũng không nói ghét thành yêu..
…
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã.
Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
Tôi sẽ viết văn trên đá. »
(Lời Mẹ Dặn)
bài thơ này đã vượt thời gian thành một bài học, phương châm sống cho đời, hay ít ra cũng làm thước đo cho những kẻ cầm bút chân chính. Sau này, nhiều nhà văn trên thế giới dù bị bạo quyền áp bức vẫn dũng khí dõng dạc chống trả đòi tự do và quyền làm người mà không hề run sợ. Ngày nay thế giới đã lưu tâm hơn đối với người cầm bút, và quốc tế đã dành cho nhà văn những giải thưởng văn chương Nobel vinh dự. Ở những thế kỷ trước Nguyễn Du đã nói : «Chữ TÂM kia mới bằng ba, chữ TÀI.».
Trong vườn Thi Ca Việt Nam của đầu thế kỷ trước, khuynh hướng Đường thi dần suy tàn, nhường chỗ cho phong trào lãng mạn của thơ mới 1932- 1945 nở rộ, ảnh hưởng của dòng thơ lãng mạn Pháp khởi từ đầu thế kỷ 19. Thơ mới phá bỏ đi những luật lệ cấu trúc gò bó của thơ cũ, mà hướng về cái nhìn thẩm mỹ theo tư duy nghệ thuật, điều đó đã dẫn đến sự thông thoáng hơn, mở đường cho các thể thơ tự do, hiện đại sau này. Những nhà thơ của thời kỳ ấy đều là những tài năng xuất chúng, sáng tạo bằng con tim, trong số đó có Tố Hữu và một ít người khác, bắt đầu bằng sự nghiệp cầm bút đã nổi danh thi sĩ có tài, và có những bài thơ hay. Từ những vần thơ trữ tình cách mạng thời kỳ chống Pháp trước năm 1945, dòng thơ Tố Hữu vẫn mang tình người, đậm tình quê hương đất nước. Nhưng kể từ sau năm 1945 nhà thơ Tố Hữu đã đã đánh mất tính Chân Thật của con tim thi sĩ để trở thành «máy hót», chỉ biết ca tụng, làm một thứ công cụ tuyên truyền của Đảng CS, tâm hồn ông mang tính đảng nên yêu đảng hơn tất cả ! Ông và bộ máy đảng sản xuất ra hàng loạt câu nói vần, biến những câu vè thành khẩu hiệu mang tính đại chúng để thi đua lập công, hò hét sắt máu !
Từ một nhà thơ, sống trong một cõi riêng, một vũ trụ nhỏ để phụng sự cái chân, thiện ,mỹ cho đời bằng tình yêu quê hương, nhân loại, nhưng ông đã khước từ cái thế giới của thi ca, dành hết tâm hồn phục vụ đảng và quyền lực ; để trở thành «cán bộ» thi đua! Tiếc thay, trong vườn hoa văn học nghệ thuật chỉ có những tâm hồn chân chính cảm xúc mới chân thật tạo hồn cho Nghệ Thuật. Những kẻ thích nổi tiếng bằng cách luồn lách, dẵm trên bằng hữu mà vươn, thì dù có được nổi tiếng thì cũng chỉ là tiếng đời mai mỉa! còn người có tài mà uốn cong ngòi bút ;cũng chỉ là những vì sao loé lên, sáng chói rồi tắt lịm trong vòm trời thi ca Việt Nam khi dòng thơ vẫn chảy muôn đời.
Đỗ Bình