Có một chuyện cung đình thời nhà Nguyễn do nhà thơ Tản Ðà kể lại, xưa nay người viết bài này chưa từng đọc thấy ở đâu, cho mãi tới tháng này, nhân ngày giỗ thứ 73 của thi sĩ (7 tháng 6, 1939 -7 tháng 6, 2012). Lạ là ở chỗ Tản Ðà được biết đến như một thi sĩ bình dân, xuôi Nam ngược Bắc vì nghề báo, khi túng thiếu còn phải mở cửa hàng Quỷ Cốc bói toán Hà Lạc tại nhà ở Phố Bạch Mai Hà Nội để mưu sinh, làm sao lại biết đến những chuyện ở chốn cung đình chưa từng ghi trong sử sách? Ðó là chuyện con hạc của Vua Tự Ðức, khác với những con hạc của dân dã, vì vua có đeo cho nó một tấm kim bài, xác định rằng nó là con hạc của ổng.
Tranh vẽ Vua Dực Tông nhà Nguyễn, hiệu Tự Ðức (1829-1883).
Người đời ít biết rằng Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu là con một ông ngự sử triều Tự Ðức. Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, hồi thập niên '50 tưởng chết vì tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, vốn là một kiện tướng của Nhóm Hàn Thuyên cùng những nhà văn nổi tiếng thời tiền chiến như Nguyễn Ðình Lạp, tác giả Ngoại Ô, như Nguyễn Ðức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, một hôm được tác giả Khối Tình Con mời tới nhà dự tiệc rượu, đã là người viết ra giấy chuyện này vào tháng “Janvier 1939.”* Theo ông thì “Cụ (Tản Ðà) vốn dòng dõi quyền quý, hấp thụ Nho giáo từ bé. Như lời cụ thuật lại, tổ tiên xưa kia vẫn làm quan dưới Triều Lê. Cập đến lúc Nhà Nguyễn thế chân Triều Lê, các ngài thề với nhau quyết không bao giờ chịu ra làm quan nữa. Ðến đời thân sinh của thi sĩ, lời thề ấy bị phụ. Vì gia đình bần bách, thân sinh cụ - Nguyễn Danh Kế tiên sinh - phải đi đánh quay đất* để nuôi mẹ già. [* đánh quay đất? - không rõ là gì.] Nghĩ cực quá, tiên sinh đành lỗi ước với tổ tiên, ra thi và chịu ấn phong của Nguyễn triều. Tiên sinh làm đến chức ngự sử trong Kinh, giữ việc Án-lý. Tục truyền văn án tiên sinh hay lắm. Những lý lẽ tiên sinh dùng để gỡ tội cho bị-cáo-nhân bao giờ cũng đanh thép, nhiều lần vua Tự Ðức đã phải khen.”
Ðể chứng minh những điều viết ở trên (trong cuốn Uống Rượu với Tản Ðà, Ðại Ðồng thư xã, Hà Nội, 2.1939), Trương Tửu viết: “Vua Tự Ðức có nuôi một con hạc rất đẹp. Vua yêu nó lắm, đã phong tước vương cho nó. Ở cổ hạc có đeo lủng lẳng một cái bài ngà. Một buổi chiều kia hạc ta ngất nghểu ngao du ra ngoài cửa thành và bị cắn chết bởi một con chó của người chủ quán bán hàng cơm gần đấy. Tức thời chủ quán bị bắt giam và truy tố. Tiên sinh (Nguyễn Danh Kế, thân phụ Tản Ðà), ở địa vị ngự sử, làm trạng sư cãi cho bị-cáo-nhân.”
Bản cãi là một “bài thơ” như sau:
Hạc hữu kim bài
Khuyển bất thức tự
Xúc [Súc] vật tương thương
Hà phương nhân sự.
(Con hạc có đeo kim bài. Nhưng con chó không biết chữ. Súc vật hại lẫn nhau. Việc gì con người lại có tội?)
Vua Tự Ðức đọc xong, tha bổng người chủ quán.
Nhân chuyện này, người viết lục tìm tiểu sử Nguyễn Danh Kế ở Khê Thượng, Bất Bạt, Sơn Tây, chỉ biết thêm ông đỗ cử nhân Hán học, có ít ra là ba vợ. Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu là con bà thứ ba, tên là Nhã Thị Nghiêm, bà là một cô đào giỏi thi thư, nổi tiếng giai nhân tuyệt sắc, sáng tác thơ ca rất nhiều. Tản Ðà còn có người anh khác mẹ là Nguyễn Tài Tích, thi đỗ Phó Bảng. Ông được người anh này dạy dỗ từ nhỏ, nên giỏi thơ văn, năm 14 tuổi đã thành thạo văn chương khi học ở Hà Nội. Ông từng viết tham luận bằng chữ Hán gửi ra ngoại quốc, và một bài nhan đề “Âu Á nhị châu hiện thế luận” đã được đăng trên một tờ báo Hoa ngữ ở Hương Cảng. Người yêu của ông họ Ðỗ, là cô hàng sách ở phố Hàng Bồ, ông từng thú nhận mỗi ngày kể cả trời mưa mà không vòng qua Phố Hàng Bồ, đi qua tiệm sách ngó cô, thì không chịu được. Nhưng ông thi Hương hoài vẫn trượt tú tài, ít ra là hai khóa 1909 và 1912, nên có dịp đứng xa xa ngó đám cưới của cô hàng sách về nhà chồng. Cảnh sống bó buộc và chuyện đời nổi trôi của nhà thơ Núi Tản Sông Ðà đã để lại cho hậu thế những bài thơ tuyệt tác, kể cả thơ dịch: Tống Biệt, Hoàng Hạc Lâu, Thề Non Nước,... không kể các tác phẩm Giấc mộng con, 1 và 2, Giấc mộng lớn, Ðài gương truyện, Liêu trai chí dị, không kể hàng trăm bài vở đăng trên các tờ báo lớn: Ðông Dương Tạp chí, Ðông Pháp thời báo, và tờ An Nam tạp chí của ông, gây dựng mãi vẫn không trụ nổi với đời.
Cũng dịp này chúng ta biết thêm một khía cạnh của vua Tự Ðức (1829-1883), người ở ngôi vua đến 36 năm, có 14 thứ bệnh khác nhau trong người, kể cả “bệnh vô sinh” (không có con), ngày nào cũng phải uống thuốc.** Ông nuôi chim hạc, và là tác giả hai câu thơ tình yêu thật ý vị, nồng nàn: “Ðập cổ kính ra tìm lấy bóng/Xếp tàn y lại để dành hơi.”
Ới Thị Bằng ơi! Ðã mất rồi!
Ới tình ới nghĩa, ới duyên ôi!
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói
Sớm ngõ trưa sân liễu đứng ngồi.
Ðập cổ kính ra tìm lấy bóng***
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối tình muốn dứt càng thêm bận
Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi.
(Dực Tông (Tự Ðức), Khóc Bằng phi)
Tự Ðức sống giữa thời đại đầy giặc giã bên trong, bên ngoài thì Pháp xâm nhập đánh phá rồi lập nền đô hộ, mà không phải là anh hùng; nhưng được cái có công với văn học, say mê Truyện Kiều, ngâm vịnh bổ sung rồi còn ra lệnh khắc in Kiều, do đó bản Tự Ðức cho in có tên là “bản Kinh,” để phân biệt với các bản của dân dã. Vua mê Kiều thì nước phải đầy Kiều, một tên chung gọi gái mại dâm, và sau Tự Ðức là Phạm Quỳnh, Tể tướng đăng đàn cổ võ Kiều, tới nay thì cái nạn ấy cả trong lẫn ngoài nước đều biết. Kiều xúm xít xếp hàng cho đàn ông ngoại quốc định giá rồi nhập cảng qua Ðài Loan, Hán Thành, Thái Lan... Sự việc có nguồn gốc từ “triều đình” mà ra. (Tháng 6, 2012)
Chú thích:
* Trương Tửu, Uống rượu với Tản Ðà, Ðại Ðồng thư xã, Hà Nội, 1939.
** Bùi Minh Ðức, Lịch sử nhìn lại dưới góc độ Y khoa, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, 2012.
***Câu này Tự Ðức ảnh hưởng câu của Trần Danh Án (1754-1794): Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh. (Theo Nguyễn Tường Phượng-Bùi Hữu Sủng, Văn-học-sử Việt Nam hậu bán Thế kỷ XIX, nxb Nguyễn Khuyến, Sài gòn, 1956).
Viên Linh / NV
Tranh vẽ Vua Dực Tông nhà Nguyễn, hiệu Tự Ðức (1829-1883).
Người đời ít biết rằng Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu là con một ông ngự sử triều Tự Ðức. Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, hồi thập niên '50 tưởng chết vì tham gia Nhân Văn Giai Phẩm, vốn là một kiện tướng của Nhóm Hàn Thuyên cùng những nhà văn nổi tiếng thời tiền chiến như Nguyễn Ðình Lạp, tác giả Ngoại Ô, như Nguyễn Ðức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, một hôm được tác giả Khối Tình Con mời tới nhà dự tiệc rượu, đã là người viết ra giấy chuyện này vào tháng “Janvier 1939.”* Theo ông thì “Cụ (Tản Ðà) vốn dòng dõi quyền quý, hấp thụ Nho giáo từ bé. Như lời cụ thuật lại, tổ tiên xưa kia vẫn làm quan dưới Triều Lê. Cập đến lúc Nhà Nguyễn thế chân Triều Lê, các ngài thề với nhau quyết không bao giờ chịu ra làm quan nữa. Ðến đời thân sinh của thi sĩ, lời thề ấy bị phụ. Vì gia đình bần bách, thân sinh cụ - Nguyễn Danh Kế tiên sinh - phải đi đánh quay đất* để nuôi mẹ già. [* đánh quay đất? - không rõ là gì.] Nghĩ cực quá, tiên sinh đành lỗi ước với tổ tiên, ra thi và chịu ấn phong của Nguyễn triều. Tiên sinh làm đến chức ngự sử trong Kinh, giữ việc Án-lý. Tục truyền văn án tiên sinh hay lắm. Những lý lẽ tiên sinh dùng để gỡ tội cho bị-cáo-nhân bao giờ cũng đanh thép, nhiều lần vua Tự Ðức đã phải khen.”
Ðể chứng minh những điều viết ở trên (trong cuốn Uống Rượu với Tản Ðà, Ðại Ðồng thư xã, Hà Nội, 2.1939), Trương Tửu viết: “Vua Tự Ðức có nuôi một con hạc rất đẹp. Vua yêu nó lắm, đã phong tước vương cho nó. Ở cổ hạc có đeo lủng lẳng một cái bài ngà. Một buổi chiều kia hạc ta ngất nghểu ngao du ra ngoài cửa thành và bị cắn chết bởi một con chó của người chủ quán bán hàng cơm gần đấy. Tức thời chủ quán bị bắt giam và truy tố. Tiên sinh (Nguyễn Danh Kế, thân phụ Tản Ðà), ở địa vị ngự sử, làm trạng sư cãi cho bị-cáo-nhân.”
Bản cãi là một “bài thơ” như sau:
Hạc hữu kim bài
Khuyển bất thức tự
Xúc [Súc] vật tương thương
Hà phương nhân sự.
(Con hạc có đeo kim bài. Nhưng con chó không biết chữ. Súc vật hại lẫn nhau. Việc gì con người lại có tội?)
Vua Tự Ðức đọc xong, tha bổng người chủ quán.
Nhân chuyện này, người viết lục tìm tiểu sử Nguyễn Danh Kế ở Khê Thượng, Bất Bạt, Sơn Tây, chỉ biết thêm ông đỗ cử nhân Hán học, có ít ra là ba vợ. Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu là con bà thứ ba, tên là Nhã Thị Nghiêm, bà là một cô đào giỏi thi thư, nổi tiếng giai nhân tuyệt sắc, sáng tác thơ ca rất nhiều. Tản Ðà còn có người anh khác mẹ là Nguyễn Tài Tích, thi đỗ Phó Bảng. Ông được người anh này dạy dỗ từ nhỏ, nên giỏi thơ văn, năm 14 tuổi đã thành thạo văn chương khi học ở Hà Nội. Ông từng viết tham luận bằng chữ Hán gửi ra ngoại quốc, và một bài nhan đề “Âu Á nhị châu hiện thế luận” đã được đăng trên một tờ báo Hoa ngữ ở Hương Cảng. Người yêu của ông họ Ðỗ, là cô hàng sách ở phố Hàng Bồ, ông từng thú nhận mỗi ngày kể cả trời mưa mà không vòng qua Phố Hàng Bồ, đi qua tiệm sách ngó cô, thì không chịu được. Nhưng ông thi Hương hoài vẫn trượt tú tài, ít ra là hai khóa 1909 và 1912, nên có dịp đứng xa xa ngó đám cưới của cô hàng sách về nhà chồng. Cảnh sống bó buộc và chuyện đời nổi trôi của nhà thơ Núi Tản Sông Ðà đã để lại cho hậu thế những bài thơ tuyệt tác, kể cả thơ dịch: Tống Biệt, Hoàng Hạc Lâu, Thề Non Nước,... không kể các tác phẩm Giấc mộng con, 1 và 2, Giấc mộng lớn, Ðài gương truyện, Liêu trai chí dị, không kể hàng trăm bài vở đăng trên các tờ báo lớn: Ðông Dương Tạp chí, Ðông Pháp thời báo, và tờ An Nam tạp chí của ông, gây dựng mãi vẫn không trụ nổi với đời.
Cũng dịp này chúng ta biết thêm một khía cạnh của vua Tự Ðức (1829-1883), người ở ngôi vua đến 36 năm, có 14 thứ bệnh khác nhau trong người, kể cả “bệnh vô sinh” (không có con), ngày nào cũng phải uống thuốc.** Ông nuôi chim hạc, và là tác giả hai câu thơ tình yêu thật ý vị, nồng nàn: “Ðập cổ kính ra tìm lấy bóng/Xếp tàn y lại để dành hơi.”
Ới Thị Bằng ơi! Ðã mất rồi!
Ới tình ới nghĩa, ới duyên ôi!
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói
Sớm ngõ trưa sân liễu đứng ngồi.
Ðập cổ kính ra tìm lấy bóng***
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối tình muốn dứt càng thêm bận
Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi.
(Dực Tông (Tự Ðức), Khóc Bằng phi)
Tự Ðức sống giữa thời đại đầy giặc giã bên trong, bên ngoài thì Pháp xâm nhập đánh phá rồi lập nền đô hộ, mà không phải là anh hùng; nhưng được cái có công với văn học, say mê Truyện Kiều, ngâm vịnh bổ sung rồi còn ra lệnh khắc in Kiều, do đó bản Tự Ðức cho in có tên là “bản Kinh,” để phân biệt với các bản của dân dã. Vua mê Kiều thì nước phải đầy Kiều, một tên chung gọi gái mại dâm, và sau Tự Ðức là Phạm Quỳnh, Tể tướng đăng đàn cổ võ Kiều, tới nay thì cái nạn ấy cả trong lẫn ngoài nước đều biết. Kiều xúm xít xếp hàng cho đàn ông ngoại quốc định giá rồi nhập cảng qua Ðài Loan, Hán Thành, Thái Lan... Sự việc có nguồn gốc từ “triều đình” mà ra. (Tháng 6, 2012)
Chú thích:
* Trương Tửu, Uống rượu với Tản Ðà, Ðại Ðồng thư xã, Hà Nội, 1939.
** Bùi Minh Ðức, Lịch sử nhìn lại dưới góc độ Y khoa, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, 2012.
***Câu này Tự Ðức ảnh hưởng câu của Trần Danh Án (1754-1794): Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh. (Theo Nguyễn Tường Phượng-Bùi Hữu Sủng, Văn-học-sử Việt Nam hậu bán Thế kỷ XIX, nxb Nguyễn Khuyến, Sài gòn, 1956).
Viên Linh / NV
Comment