Bên Lề Bài Thơ Cổ Điển Nhất Chi Mai
David Lý Lãng Nhân
1. Một chút Tiểu sử về Mãn Giác thiền sư (1051-1096)
Theo tài liệu Hán Việt thi tuyễn (trên Internet), Mãn Giác thiền sư tên là Lý Truờng, nguời đất Lũng Triền, Huơng (làng) An Cách, là con của Lý Hoài Tổ, một vị quan chức Trung Thư Ngoại Lang, duới triều Lý (Việt Nam); xuất gia khoảng năm 1076-1084, đuợc Quãn Trí thiền sư truyền tâm ấn. Vua Lý Nhân Tôn xây chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng, mời thiền sư đến trụ trì. Ngày 30 tháng 11, năm Hội-Phong thứ 5 (1096), thiền sư Mãn Giác cáo bệnh, gọi môn đồ đến, đọc bài kệ Cáo Tật Thị Chúng rồi mất. Thiền sư được vua sắc thụy (vua ban tên mới) là Mãn Giác (hoàn toàn giác ngộ). Bài kệ Cáo Tật Thị Chúng (cũng được gọi là bài thơ Nhất Chi Mai) được truyền tụng nhiều thế kỷ ở Việt Nam vì lời thơ đẹp và có ý nghĩa thâm sâu về triết lý Đông phương.
2. Vài nhận xét về ngôn tự của bài thơ Nhất Chi Mai
Bài Nhất Chi Mai là một bài thơ danh tiếng trong văn học cổ điển Việt Nam, được viết bằng chữ Hán, tức là chữ Trung Hoa (chữ Tàu, chữ Nho – Chinese script), không phải là ngôn tự Việt Nam. Bài thơ đó không viết bằng chữ Nôm (demotic script), một hệ thống văn tự đặc biệt của người Việt sáng chế với căn bản Hán tự hai thế kỷ sau để viết tiếng Việt. Người Trung Hoa không đọc được những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, như Truyện Kiều hay thơ Hồ Xuân Hương. Chữ Nôm chỉ được áp dụng rộng rãi kể từ thế kỷ thứ 13 trở về sau. Trước triều Lý, Việt Nam không có văn tự chính thức riêng, phải dùng văn tự Trung Hoa (chữ Hán) để thông đạt. Dưới triều Lý, chữ Nôm tuy được khuyến khích nhưng vẫn phải dùng song song với chữ Hán, vì chữ Nôm không đủ chữ, phải vay muợn chữ Hán rất nhiều, và chữ Nôm không được tiêu chuẫn hóa, không đồng nhất và dễ bị hiểu sai. Người học chữ Nôm trước hết phải thông thạo chữ Hán. Các học giả Việt Nam ngày xưa thường phải dùng chữ Hán trong những văn tự quan trọng. Hán học rất cần thiết để giao dịch và thông đạt trong chính trường cũng như trong dân gian qua nhiều thế kỷ tại Việt Nam, trước khi người Pháp đô hộ nước Việt. Mãi cho đến 1917, Việt nam mới bãi bỏ chữ Hán và chữ Nôm để hoàn toàn áp dụng chữ Quốc Ngữ viết với mẫu tự La tinh (Roman alphabet).
Ngày nay bài thơ chữ Hán Nhất Chi Mai đã phiên âm ra chữ Quốc ngữ, và thế hệ người Việt hiện đại có thể đọc được, mà không nhứt thiết hiểu nghĩa, vì lẽ văn tự của bài thơ Nhất Chi Mai nguyên thủy là chữ Hán (chữ Trung Hoa). Ngược lại, người Tàu sẽ trực tiếp hiểu nghĩa ngay bài thơ Nhất Chi Mai nguyên tác vì đó là văn tự của họ. Tuy nhiên, người Trung Hoa Bắc Kinh sẽ đọc với giọng nói khác hơn người Trung Hoa Quảng Đông. Cũng vậy, người Việt có kinh nghiệm Hán học đọc thơ văn viết bằng chữ Hán sẽ hiểu trọn nghĩa, mặc dầu họ phát âm theo giọng nói người Việt.
Những bài thơ viết bằng chữ Hán, tức thơ Hán-Việt, phải được diễn dịch ra Việt ngữ cho người Việt thường, không biết chữ Hán, hiểu nghĩa. Thơ Hán-Việt có thể được diễn dịch từng câu, hoặc thích nghĩa từng chữ. Thông thường người ta phỏng dịch nguyên bài thơ chữ Hán bằng một bài thơ chữ Việt (Nôm). Người có căn bản Hán học có thể dịch thoát ý không khó khăn lắm một bài thơ văn chữ Hán qua Việt ngữ, mặc dù ngôn ngữ giữa Tàu và Việt đôi lúc không có từ ngữ tuơng đuơng (equivalent) tuy gần gũi và văn phạm (cú pháp) cũng khác nhau. Giá trị của một bài thơ dịch Hán-Việt tuơng đối tùy thuộc kinh nghiệm và cảm quan của dịch giả và độc giả.
Có một điểm cần ghi nhận là tiếng Trung Hoa rất cô đọng so với tiếng Việt. Do đó dịch thơ Tàu ra thơ Việt thường khi bị khó khăn trong sự diễn đạt hết nguyên ý và thi vị của bài thơ nếu phải gò bó trong thể thơ ngắn ngũ ngôn (5 chữ) như trong nhiều nguyên tác. Còn dịch thơ Tàu (Hán-Việt) thể ngũ ngôn 5 chữ bằng thể thơ thông dụng lục-bát 6/8 Việt nam thì tuơng đối rộng đuờng cho dịch giả diễn đạt hơn. Nhưng nếu không thận trọng, đôi khi lại đánh mất cái sắc thái trang trọng, cổ kính của văn chuơng cổ điển Hán-Việt.
Thêm vào đó, có những điển từ (clichés, metaphors) hay thổ ngữ (idioms) Trung Hoa mà dịch giả cần phải cẩn thận khi dịch sát qua tiếng Việt (bằng thơ) để tránh ngây ngô, vô nghĩa, giảm mất ý đẹp nguyên thủy.
Bài thơ Nhất Chi Mai được viết vào khoảng thời Trung Đuờng, nên còn phản ảnh lối thơ ngũ ngôn 5 chữ và kết bằng 2 câu thơ thất ngôn 7 chữ của thời đó. Vào thời Mãn Đuờng (cuối đời Đuờng) thơ Đuờng được qui lệ thành thể 7 chữ (thất ngôn) - 4 câu (tứ tuyệt), hay 8 câu (bát cú), và niêm luật bằng trắc cũng khắc khe hơn truớc (xem Luật thơ Đuờng trong phụ đính). Theo ý tôi dùng thể thơ Ðuờng luật 7 chữ để dịch bài Nhất Chi Mai ra Việt ngữ, thì rất thích hợp vì nó cho phép dịch giả rộng đuờng dùng chữ, khỏi bị gò bó trong câu thơ ngắn 5 chữ, đồng thời vẫn giữ được sắc thái cô đọng, trang nhã và hàm súc của thơ cổ điển Hán-Việt. Nhưng đây là một thử thách.
Theo kinh nghiệm bản thân tôi câu thơ thứ 4 trong bài Nhất Chi Mai khó dịch nhất, bất luận dịch giả dùng thể thơ nào.
Câu đó tiếng Hán như sau: Lão tùng đầu thuợng lai.
Dịch từng chữ ra tiếng Việt: Già theo đầu trên đến.
Có tác giả truớc đây dịch thoát ý là : Tóc đã suơng pha mái đầu.
3. Ba bài dịch của bài thơ Nhất Chi Mai
Tôi đã dịch ra Việt ngữ bài Nhất Chi Mai bằng thơ ngũ ngôn 5 chữ, thể thơ của nguyên tác, bằng thể thơ Đuờng luật 7 chữ, và bằng thể thơ lục bát(6/8) để so sánh, xem bài dịch nào dễ nghe hơn và có thể giữ được ít nhiều cái hàm súc thiền vị của bài thơ nguyên thủy. Nhưng phải thú nhận là cho dù tôi có cố gắn bao nhiêu chăng nữa, tôi nhận thấy bài dịch nào của tôi cũng không thể gây được cảm xúc mạnh mẽ trong lòng tôi bằng nguyên tác Hán-Việt.
Cáo Tật Thị Chúng
(Nhất Chi Mai)
Thiền Sư Mãn Giác (1051-1096)
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thuợng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Cáo Tật Thị Chúng viết bằng chữ Hán
Bài dịch số 1 (thể 5 chữ theo nguyên tác):
Một Cành Mai
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cuời
Đời thoáng qua truớc mắt
Già đến đầu bạc phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân nở một cành mai
Bài dịch số 2 (thể 7 chữ) :
Một Cành Mai
Xuân đi tơi tả trăm hoa rơi
Xuân dến trăm hoa hé nụ cuời
Thế sự xoay vần qua truớc mắt
Già nua thôi đã bạc đầu phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân nở một cành mai
Bài dịch số 3 (thể 6/8):
Một Cành Mai
Xuân đi trăm cánh hoa rơi
Xuân về trăm cánh hoa cuời đó đây
Việc đời truớc mắt đổi thay
Tuổi già đầu đã nhuộm đầy bạc phai
Xuân tàn hoa dẫu rụng rơi
Đêm qua nở một cành mai truớc thềm
4. Kết luận
Theo sự nhận xét của tôi sở dĩ bài thơ Nhất Chi Mai được truyền tụng nhiều thế kỹ tại Việt Nam với nguyên tác bằng chữ Hán, phần lớn là nhờ giá trị triết lý của nó và môi truờng văn hoá đặc biệt của những thế hệ truớc. Với kinh nghiệm Hán học thời đó người ta chỉ thuởng thức thơ Hán-Việt trực tiếp không cần diễn dịch. Dù rằng có thể có vài bản dịch Việt ngữ của bài thơ Nhất Chi Mai truớc đây, hình như tới nay không có bản dịch nào chính thức tồn tại với thời gian. Có phải chăng một phần lớn là vì bài thơ nguyên tác Hán-Việt của thiền sư Mãn Giác rất ngắn nhưng rất hàm súc và dễ nhớ? Khách thơ mộ điệu và hoài cổ thường thích ngâm nga bài thơ ấy bằng tiếng Hán-Việt.
Biết đâu khi ngâm nga mãi bài thơ (hay bài Kệ) Nhất Chi Mai bằng tiếng Hán-Việt, có một ngày nào đó bỗng dưng mình bừng giác ngộ và hiễu tận nghĩa của bài thơ, với cái cảm quan đặc biệt thiền vị của nó! Một cách rất bí ẩn. Như câu thần chú. Mà rất nên thơ!
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
David Lý Lãng Nhân
1. Một chút Tiểu sử về Mãn Giác thiền sư (1051-1096)
Theo tài liệu Hán Việt thi tuyễn (trên Internet), Mãn Giác thiền sư tên là Lý Truờng, nguời đất Lũng Triền, Huơng (làng) An Cách, là con của Lý Hoài Tổ, một vị quan chức Trung Thư Ngoại Lang, duới triều Lý (Việt Nam); xuất gia khoảng năm 1076-1084, đuợc Quãn Trí thiền sư truyền tâm ấn. Vua Lý Nhân Tôn xây chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng, mời thiền sư đến trụ trì. Ngày 30 tháng 11, năm Hội-Phong thứ 5 (1096), thiền sư Mãn Giác cáo bệnh, gọi môn đồ đến, đọc bài kệ Cáo Tật Thị Chúng rồi mất. Thiền sư được vua sắc thụy (vua ban tên mới) là Mãn Giác (hoàn toàn giác ngộ). Bài kệ Cáo Tật Thị Chúng (cũng được gọi là bài thơ Nhất Chi Mai) được truyền tụng nhiều thế kỷ ở Việt Nam vì lời thơ đẹp và có ý nghĩa thâm sâu về triết lý Đông phương.
2. Vài nhận xét về ngôn tự của bài thơ Nhất Chi Mai
Bài Nhất Chi Mai là một bài thơ danh tiếng trong văn học cổ điển Việt Nam, được viết bằng chữ Hán, tức là chữ Trung Hoa (chữ Tàu, chữ Nho – Chinese script), không phải là ngôn tự Việt Nam. Bài thơ đó không viết bằng chữ Nôm (demotic script), một hệ thống văn tự đặc biệt của người Việt sáng chế với căn bản Hán tự hai thế kỷ sau để viết tiếng Việt. Người Trung Hoa không đọc được những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, như Truyện Kiều hay thơ Hồ Xuân Hương. Chữ Nôm chỉ được áp dụng rộng rãi kể từ thế kỷ thứ 13 trở về sau. Trước triều Lý, Việt Nam không có văn tự chính thức riêng, phải dùng văn tự Trung Hoa (chữ Hán) để thông đạt. Dưới triều Lý, chữ Nôm tuy được khuyến khích nhưng vẫn phải dùng song song với chữ Hán, vì chữ Nôm không đủ chữ, phải vay muợn chữ Hán rất nhiều, và chữ Nôm không được tiêu chuẫn hóa, không đồng nhất và dễ bị hiểu sai. Người học chữ Nôm trước hết phải thông thạo chữ Hán. Các học giả Việt Nam ngày xưa thường phải dùng chữ Hán trong những văn tự quan trọng. Hán học rất cần thiết để giao dịch và thông đạt trong chính trường cũng như trong dân gian qua nhiều thế kỷ tại Việt Nam, trước khi người Pháp đô hộ nước Việt. Mãi cho đến 1917, Việt nam mới bãi bỏ chữ Hán và chữ Nôm để hoàn toàn áp dụng chữ Quốc Ngữ viết với mẫu tự La tinh (Roman alphabet).
Ngày nay bài thơ chữ Hán Nhất Chi Mai đã phiên âm ra chữ Quốc ngữ, và thế hệ người Việt hiện đại có thể đọc được, mà không nhứt thiết hiểu nghĩa, vì lẽ văn tự của bài thơ Nhất Chi Mai nguyên thủy là chữ Hán (chữ Trung Hoa). Ngược lại, người Tàu sẽ trực tiếp hiểu nghĩa ngay bài thơ Nhất Chi Mai nguyên tác vì đó là văn tự của họ. Tuy nhiên, người Trung Hoa Bắc Kinh sẽ đọc với giọng nói khác hơn người Trung Hoa Quảng Đông. Cũng vậy, người Việt có kinh nghiệm Hán học đọc thơ văn viết bằng chữ Hán sẽ hiểu trọn nghĩa, mặc dầu họ phát âm theo giọng nói người Việt.
Những bài thơ viết bằng chữ Hán, tức thơ Hán-Việt, phải được diễn dịch ra Việt ngữ cho người Việt thường, không biết chữ Hán, hiểu nghĩa. Thơ Hán-Việt có thể được diễn dịch từng câu, hoặc thích nghĩa từng chữ. Thông thường người ta phỏng dịch nguyên bài thơ chữ Hán bằng một bài thơ chữ Việt (Nôm). Người có căn bản Hán học có thể dịch thoát ý không khó khăn lắm một bài thơ văn chữ Hán qua Việt ngữ, mặc dù ngôn ngữ giữa Tàu và Việt đôi lúc không có từ ngữ tuơng đuơng (equivalent) tuy gần gũi và văn phạm (cú pháp) cũng khác nhau. Giá trị của một bài thơ dịch Hán-Việt tuơng đối tùy thuộc kinh nghiệm và cảm quan của dịch giả và độc giả.
Có một điểm cần ghi nhận là tiếng Trung Hoa rất cô đọng so với tiếng Việt. Do đó dịch thơ Tàu ra thơ Việt thường khi bị khó khăn trong sự diễn đạt hết nguyên ý và thi vị của bài thơ nếu phải gò bó trong thể thơ ngắn ngũ ngôn (5 chữ) như trong nhiều nguyên tác. Còn dịch thơ Tàu (Hán-Việt) thể ngũ ngôn 5 chữ bằng thể thơ thông dụng lục-bát 6/8 Việt nam thì tuơng đối rộng đuờng cho dịch giả diễn đạt hơn. Nhưng nếu không thận trọng, đôi khi lại đánh mất cái sắc thái trang trọng, cổ kính của văn chuơng cổ điển Hán-Việt.
Thêm vào đó, có những điển từ (clichés, metaphors) hay thổ ngữ (idioms) Trung Hoa mà dịch giả cần phải cẩn thận khi dịch sát qua tiếng Việt (bằng thơ) để tránh ngây ngô, vô nghĩa, giảm mất ý đẹp nguyên thủy.
Bài thơ Nhất Chi Mai được viết vào khoảng thời Trung Đuờng, nên còn phản ảnh lối thơ ngũ ngôn 5 chữ và kết bằng 2 câu thơ thất ngôn 7 chữ của thời đó. Vào thời Mãn Đuờng (cuối đời Đuờng) thơ Đuờng được qui lệ thành thể 7 chữ (thất ngôn) - 4 câu (tứ tuyệt), hay 8 câu (bát cú), và niêm luật bằng trắc cũng khắc khe hơn truớc (xem Luật thơ Đuờng trong phụ đính). Theo ý tôi dùng thể thơ Ðuờng luật 7 chữ để dịch bài Nhất Chi Mai ra Việt ngữ, thì rất thích hợp vì nó cho phép dịch giả rộng đuờng dùng chữ, khỏi bị gò bó trong câu thơ ngắn 5 chữ, đồng thời vẫn giữ được sắc thái cô đọng, trang nhã và hàm súc của thơ cổ điển Hán-Việt. Nhưng đây là một thử thách.
Theo kinh nghiệm bản thân tôi câu thơ thứ 4 trong bài Nhất Chi Mai khó dịch nhất, bất luận dịch giả dùng thể thơ nào.
Câu đó tiếng Hán như sau: Lão tùng đầu thuợng lai.
Dịch từng chữ ra tiếng Việt: Già theo đầu trên đến.
Có tác giả truớc đây dịch thoát ý là : Tóc đã suơng pha mái đầu.
3. Ba bài dịch của bài thơ Nhất Chi Mai
Tôi đã dịch ra Việt ngữ bài Nhất Chi Mai bằng thơ ngũ ngôn 5 chữ, thể thơ của nguyên tác, bằng thể thơ Đuờng luật 7 chữ, và bằng thể thơ lục bát(6/8) để so sánh, xem bài dịch nào dễ nghe hơn và có thể giữ được ít nhiều cái hàm súc thiền vị của bài thơ nguyên thủy. Nhưng phải thú nhận là cho dù tôi có cố gắn bao nhiêu chăng nữa, tôi nhận thấy bài dịch nào của tôi cũng không thể gây được cảm xúc mạnh mẽ trong lòng tôi bằng nguyên tác Hán-Việt.
Cáo Tật Thị Chúng
(Nhất Chi Mai)
Thiền Sư Mãn Giác (1051-1096)
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thuợng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Cáo Tật Thị Chúng viết bằng chữ Hán
Bài dịch số 1 (thể 5 chữ theo nguyên tác):
Một Cành Mai
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cuời
Đời thoáng qua truớc mắt
Già đến đầu bạc phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân nở một cành mai
Bài dịch số 2 (thể 7 chữ) :
Một Cành Mai
Xuân đi tơi tả trăm hoa rơi
Xuân dến trăm hoa hé nụ cuời
Thế sự xoay vần qua truớc mắt
Già nua thôi đã bạc đầu phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân nở một cành mai
Bài dịch số 3 (thể 6/8):
Một Cành Mai
Xuân đi trăm cánh hoa rơi
Xuân về trăm cánh hoa cuời đó đây
Việc đời truớc mắt đổi thay
Tuổi già đầu đã nhuộm đầy bạc phai
Xuân tàn hoa dẫu rụng rơi
Đêm qua nở một cành mai truớc thềm
4. Kết luận
Theo sự nhận xét của tôi sở dĩ bài thơ Nhất Chi Mai được truyền tụng nhiều thế kỹ tại Việt Nam với nguyên tác bằng chữ Hán, phần lớn là nhờ giá trị triết lý của nó và môi truờng văn hoá đặc biệt của những thế hệ truớc. Với kinh nghiệm Hán học thời đó người ta chỉ thuởng thức thơ Hán-Việt trực tiếp không cần diễn dịch. Dù rằng có thể có vài bản dịch Việt ngữ của bài thơ Nhất Chi Mai truớc đây, hình như tới nay không có bản dịch nào chính thức tồn tại với thời gian. Có phải chăng một phần lớn là vì bài thơ nguyên tác Hán-Việt của thiền sư Mãn Giác rất ngắn nhưng rất hàm súc và dễ nhớ? Khách thơ mộ điệu và hoài cổ thường thích ngâm nga bài thơ ấy bằng tiếng Hán-Việt.
Biết đâu khi ngâm nga mãi bài thơ (hay bài Kệ) Nhất Chi Mai bằng tiếng Hán-Việt, có một ngày nào đó bỗng dưng mình bừng giác ngộ và hiễu tận nghĩa của bài thơ, với cái cảm quan đặc biệt thiền vị của nó! Một cách rất bí ẩn. Như câu thần chú. Mà rất nên thơ!
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Comment