MàU XaNh VàNg PhAi - Du Tử Lê
Du Tử Lê , làm thơ, chẻ chữ, ghép chữ, rồi bây giờ ghép chữ (thơ) với màu. Chữ biến màu, màu hóa chữ. Bàng bạc nhưng cuốn hút. Xa xăm nhưng cận kề. Gợi cảm. Đó là cảm xúc của tôi sau khi xem khoảng 20 bức tranh của ông.
Cảm xúc đó vẫn còn nguyên vẹn trong tôi, khi viết bài nầy.
Người nghệ sĩ chân chính, tài năng là những người luôn luôn có nhiều đam mê, khát vọng. Suốt đời, họ, lúc nào cũng cảm thấy chưa đủ. Mằn mò, mải mê tìm kiếm cái đẹp, cho mình, cho đời.
Họ làm nghệ thuật với toàn vẹn yêu thích nó, vì nó. Du Tử Lê không ngoại lệ. Ông đã làm giàu cho văn học Việt Nam bằng một gia tài (chưa hết) thơ văn khá đồ sộ. Bây giờ Du Tử Lê còn muốn đóng góp thêm qua nghệ thuật tạo hình.
Chữ tìm chữ. Màu gọi màu. Du Tử Lê đang ở trong cõi “Chữ-gọi-màu-màutìm-chữ.” Những trăn trở, suy, nghiệm mà cõi thơ của Du Tử Lê không,hay chưa thanh thõa, được ông đưa vào hội họa. Nhưng nếu nói như vậythì cũng oan cho ông. Thật ra Du Tử Lê đã đến với hôi họa ngay từ nhữngbài thơ ký tên Du Tử Lê xuất hiện khoảng 1957.
Trong tập “Thơ Du Tử Lê1”, xuất bản tháng 3,1964, ở “Bài Huyền Châu” ông vẽ những: “kè đá xanh tiếng quạ biển xa vời”, “cánh dơi nào quắp hồn tôi về động”, “ chiều du cađuổi bắt bóng điêu tàn”, và, ông gọi đích danh là tranh trừu tượng: “emtrừu tượng như những ngày rét mướt”.
Toàn thể bài thơ khiến ta liên tưởngđến sự đánh đố giữa thực tại và trừu tượng.
Hay, trong bài “Tình Yêu Thành Phố” dùng toàn những từ ngữ mạnh bạo,những hình ảnh nồng cháy (của thời bấy giờ) và những màu sắc rất thật (pure colors):
“Vì đêm thành phố là đôi mắt buồn của người thiếu phụ
Đường Bàn cờ muôn lối – hẻm Nguyễn Tri Phương rối tơ
Hàng cây cao vút ven bờ
Như những cột giáo đường lờ mờ ánh sáng
Tôi yêu thành phố với những chiều vàng lá rụng
Về chiều thành phố là bộ ngực nở
căng của người thiếu nữ
Bụi tung bay mỏi mắt thế nhân
Thành phố bùng lên muôn màu quyến rũ
Khi ánh sáng nhạt dần
Những âm thanh cuồn cuộn xô nhau trên đường nhựa
Căn nhà xanh, vàng mở toang từng cánh cửa
Và những người con gái trong thành phố
Tóc ngắn uốn, nõn nà khuôn cổ
Áo vạn màu phất phới hoa bay.”
Để rồi cuối bài ông hé lộ, tình yêu của ông là sự thèm thuồng dã thú:“Cúi hôn em lòng dã thú thèm thuồng.”
Bài thơ làm ta hình dung đến những bức tranh theo Trường phái Dã Thú
(Fauvism).
Trong khoảng hơn 20 tập thơ của Du Tử Lê có thật nhiều những bài thơ là những bức tranh như thế.
Nếu coi những bài thơ của Du Tử Lê là hạt giống tranh , những dòng chữ vừa mạnh mẽ vừa bay bướm trên đồ gốm mà Du Tử Lê đã thực hiện cách đây khoảng hơn 10 năm là mầm thì những bức tranh ông đang vẽ hiện giờ chính là những cây non đang khoe lá.
Thơ văn cũng như hội họa của Du Tử Lê không trường lớp chính quy,nhưng cả hai phía đều là sự khám phá và tìm thấy.
“Tìm thấy” trong thơ của Du Tử Lê, như Lê Huy Oanh trong một bài viết trên Tạp chí Văn Học 1 / 1974, là chủ trương chia lại nhịp thơ lục bát . Trước Du Tử Lê thơ lục bát chia theo nhịp 2 đều hay nhịp chẵn Du Tử Lê tìm và thấy âm điệu mới cho thơ lục bát bằng cáchthay nhịp chỏi hay nhịp lẻ. Thổi một sinh khí mới cho điệu lục bát chừngnhư đã bắt đầu nhạt đi hương vị vì đơn điệu. Nhiều người trong giới phê bình văn học, giới báo chí như Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Bảo Trúc… cũng có ý kiến tương đồng với Lê Huy Oanh.
“Tìm thấy” trong thơ Du Tử Lê là chẻ chữ, ghép chữ. Những dấu hỏi không hẳn là nghi vấn. Những đổi mới từ hình thức đến nội dung để đến được với nhiều lứa tuổi, nhiều tầng lớp người đọc.
“ Tìm thấy” là “…có những câu thơ thành ngôn ngữ hằng ngày… .” như nhà bỉnh bút Đỗ Quý Toàn đã viết.
“Tìm thấy” trong thơ Du Tử Lê còn nhiều nhiều hơn nữa, nhưng đây không phải chủ đề của bài viết này.
"Khám phá” trong hội họa của Du Tử Lê qua cái nhìn của tôi: Cây cọ, condao của Du Tử Lê có khuynh hướng đi theo chiều dọc. Chiều dọc là trên dưới, âm dương, là sự giao thoa của trời và đất để tạo ra cuộc sống. Trongtranh của Du Tử Lê, nó còn ý nghĩa của sự kết hợp hài hòa giữa các màu nóng lạnh tương phản như xanh và đỏ, tím với vàng… .Du Tử Lê dùng màu xanh khá nhiều cho tranh của ông. Trong thư gửi cho người viết, ông tâm sự:“… Tôi đang loay hoay đi tìm một mầu xanh, khác hơn mầu xanh của những họa sĩ chuyên nghiệp, nổi tiếng. -Đó là ‘Màu xanh lá mạ.’Có thể tôi thất bại. Nhưng nó sẽ là mầu xanh chủ đạo trong tranh của tôi, chí ít cũng nhiều tháng tới…”
Nguyễn Trung, Đinh Cường, Cao bá Minh và Nguyễn Đình Thuần lànhững họa sĩ có những màu xanh rất đẹp, rất tài tình.
- Tôi gọi màu xanh của Nguyễn Trung là Màu-xanh-vô-cùng.
Màu Xanh của Đinh Cường : -Màu-xanh-miên-viễn .
Màu Xanh của Cao Bá Minh : Màu-xanh-ký ức.
MàuXanh Nguyễn Đình Thuần: Màu-xanh-thạch-nhũ.
Và, Màu Xanh của Du Tử Lê tôi gọi là Màu-xanh-vàng-phai.
Trước Du Tử Lê là Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, trước nữa là Thi sĩ Bùi Giáng là những nghệ sĩ lớn đã không cần trường lớp, ung dung bước thẳng vào thế giới hội họa. Nhưng tranh của hai người nghệ sĩ này đã để lại dấu ấnlung linh sắc mầu cho nghệ thuật và sự yêu, thích của giới thưởng ngoạn.
Còn Du Tử Lê thì sao?
Câu hỏi rơi vào hư vô?
Câu hỏi như một đánh động?
Hay, câu hỏi như một lời chờ xem?
Riêng với tôi. Du Tử Lê, chỉ mới cầm cọ và đang tìm kiếm, tuy nhiên ông đã cho chúng ta những bức tranh giàu màu sắc, đầy ấn tượng , và nhất là hơi thơ bát ngát, khi lãng đãng , khi trầm tích trong tranh.
Đó sẽ là sức sống bền bỉ cho tranh của ông. Du Tử Lê còn tiến triển nhiều hơn nữa, ít nhất, sẽ có một cõi riêng của Du Tử Lê trong hội họa.
Đặng Phú Phong
Aug. 10. /2011