Bài thơ “ Xem sư cả chơi cờ” là một bài thơ hay, nói đạo đức triền miên mà nghe không thấy chán, lại càng thích thú trong lòng.
Lời bình: Châu Thạch
Nếu nói văn dĩ tải đạo thì tôi có thể mạo muội nói rằng bài thơ “ Xem sư cả chơi cờ” của Nguyệt Lãng là một bài thơ tải đạo.
Tôi được biết bài thơ nầy có được là nhân một dịp đi sáng tác tại Tam đảo-Vĩnh Phúc, tác giả đến tham quan ngôi chùa Trúc lâm thiền viện và được xem nhà sư chơi cờ. Tôi đoan rằng lời trong thơ không phải là lời của nhà sư mà chính đó là tư duy của tác giả sau khi xem sư cả đánh cờ.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho thấy ngay cái phong cách đạo mạo nhưng không kém phần hài hước, cũng như trình độ cao cờ khi nhà sư vừa nói vừa chấp đối phương đôi xe:
“ Đốn tu là đốn ngộ” hiểu một cách nôm na là nhanh tu, gấp tu thì sẽ hiểu đạo mau, đạt đạo trước. “Ngủ trọ gốc hòe” lấy từ điển tích, ý nói cuộc đời ngắn như người học trò ngày xưa nằm dưới gốc cây hòe mà ngủ, mơ một giấc mơ dài công danh sự nghiệp, đến khi tỉnh mộng thi nồi kê chưa chín. Đang nói chuyện đạo đời, nhà sư lại nói ngang qua chuyện xăng lên giá rồi đòi chấp đôi xe cho khách. Không thể nói rằng nhà sư đã lạc đề, vì thật ra nhà sư không giảng đạo mà nói chuyện trong lúc đánh cờ. Trong khi đang sắp cờ ông muốn chấp đôi xe nên tư tưởng và lời cũng bất ngờ chuyển ý . Hai câu thơ sau cũng diễn tả được cách xử sự của một nhà sư đức cao trọng vọng đối với bạn chơi cờ. Trong bàn cờ tướng, cặp xe là chủ lực, người nói chấp cặp xe không phải là người rất cao cờ thì là người nói chơi hay là kiêu ngạo. Nhà sư tất nhiên là cao cờ, nhưng để tránh cho người khác tự ái hay đánh giá mình cao ngạo, nhà sư đã dùng lời nói đùa vui, nhún nhường, đổ tội cho xăng dầu lên giá, mình không đủ sức đi xe nên phải chấp, khiến cho đối thủ cười xòa, đấu cờ trong tâm trạng thân thiện an vui. Cái hay ở bốn câu thơ nầy không phải ở triết lý cao siêu mà ở chỗ tác giả rất rành tâm lý con người nên viết ra lời thoại rất hợp tình. Nói lên xu hướng nhập thế, tu hành nhưng không xa rời thực tại, vẫn còn quan tâm đến vật giá tức là quan tâm đến cuộc sống của người dân; của các vị chân tu.
Ở vế thứ hai của bài thơ, tác giả đã diễn đạt phong cách đánh cờ của nhà sư thư thái, chững chạc, vững vàng:
“ Tiệm tu là tiệm ngộ” nói một cách nôm na là tu chậm thì đạt đạo chậm, tu sau thì đạt đạo sau. Bốn câu nầy nhà sư muốn dạy con người đừng nôn nóng, đừng chạy vạy lanh chanh mà phải biết lượng sức mình trong cuộc cờ nhân thế, cũng phải biết chỗ mạnh chỗ yếu của mình để ứng xử với đời, giống như nhà sư chấp xe nhưng mà giữ lại ngựa để có thể thắng đối phương trong thế cờ kết thúc, vì chắc chắn nhà sư giỏi về dùng ngựa trong cờ.
Ở vế thư ba trong bài thơ, nhà sư đã dùng lời giáo huấn về lẽ sống ở đời, nhưng thực ra nhà sư nhìn ván cờ mà nói theo từng diễn biến của cuộc thế:
“ Chấp nê là chấp khổ”: ý nói ham muốn bao nhiêu thì khổ bấy nhiêu. Muốn thắng được cờ phải đau đầu khổ trí như đối phương hiện tại là chấp khổ vào thân. Trên bàn cờ tướng cũng chẳng khác chi trong cuộc cờ nhân thế, nếu cứ chấp nê thì chấp khổ, để cho thời vận không còn, số phận an bài thất bại thì đời ta sẽ như điểm bắn mà đại pháo đã canh vào tọa độ, chỉ còn tơi tã mà thôi, ví dầu có còn quân còn tướng cũng có ích chi vì đầu não đã bị phá rời, trung ương đã thành ra tan tác, ví như ván cờ hiện tại sĩ tượng vẫn còn nhưng cứ sơ hở để đối phương chiếu tướng hoài thì phải thua là chắc chắn. Số mạng đã kết thúc rồi thì những của cải gom góp vun vét phỏng có ích gì!
Qua khổ thứ tư của bài thơ, chắc trong ván cờ đối phương đã lâm vào thế bí. Sư dùng cái triết lý mấu chốt của Phật giáo để giảng dạy mà cũng để nhấn mạnh cái lý do mà đối phương đã lâm vào ngõ cụt trong ván cờ nầy:
Ác lai thì ác giả, làm ác thì gặp ác, Không phải nhà sư mạt sát ai, mà chỉ nhắc đên cái hậu quả tốt xấu là do tự người gây ra cho mình, cũng như ván cờ sắp thua vì đối phương vội vàng, háo thắng, không chịu dưỡng cờ nên phải đành thất thế. Ngày xưa, lục quốc đã vào thế bị Tần thôn tính, Kinh Kha qua sông Dịch Thủy thì lau trắng như đã nhuộm màu tang thương cho đất nước. Kinh Kha lúc ấy cũng chỉ như con chốt trên bàn cờ, dẫu có cầm con chủy thủ cũng đâu có làm chi được.
Đọc đoạn chót bài thơ thật là ngạc nhiên và thích thú:
Tâm thiện thì găp điều thiện, an nhiên thì sống vô lo. Nhà sư vừa nói vừa sắp lại ván cờ để đấu thêm ván nữa, có ý muốn giảng thêm cho khách nghe, đâu ngờ khách đã ngủ khò. Hai câu cuối nầy tác giả đã dựa vào điển tích ngày xưa Bị Vi đến chơi nghe thầy giảng đạo. Thầy tích cực nói nhưng khi nhìn lại thì thấy Bị Vi đã ngủ khò. Thầy đứng dậy vái Bị Vi và nói: ông nầy đã đắc đạo rồi.
Ngày xưa nghe giảng đạo êm tai mà ngủ thì được cho là đạt đạo, ngày nay đang động não đánh cờ mà ngủ được thì chắc là đã đạt đạo đỉnh cao (?). Chuyện kể trong hai câu kết của bài thơ đọc nghe ngồ ngộ nhưng suy nghĩ cho cùng là một triết lý sâu xa. Sư cả đánh cờ mà nói liên tục là sư đã ở trong thế động, ở trong trạng thái bất an. Khách đánh cờ mà khách ngồi yên rồi ngủ khò là khách ở trong thế tịnh, ở trong trạng thái bình an tự tại. Vậy thì sư cả và khách ai là người đạt đạo cao hơn? Khó mà phân biệt được! Biết đâu sư cả lại đánh cờ với vị chân tu đạo hạnh hơn mình không chừng?!
Bài thơ “ Xem sư cả chơi cờ” là một bài thơ hay, nói đạo đức triền miên mà nghe không thấy chán, lại càng thích thú trong lòng. Tác giả “để cho” nhà sư thỏa sức nói trong khi đánh cờ nên lẽ đạo nằm trong bàn cờ và bàn cờ nãy sinh ra lời lẽ đạo. Đó quả là “Đạo nằm trong Đạo” vậy!
Tác giả lại sành đời, am hiểu tâm lý, xúc tích văn phong nên diễn biến trên bàn cờ bày ra song song cùng lời nói sâu xa và cao trọng.
Châu Thạch ( ST ! Theo LNT )
XEM SƯ CẢ CHƠI CỜ
sư nói, đốn tu thì đốn ngộ
đời người như ngủ trọ gốc hoè
bây giờ xăng cộ lên cao quá
sư mĩm cười, chấp cả đôi xe!
sư nói, tiệm tu là tiệm ngộ
vội vàng chi mà chạy lanh chanh
dưỡng quân ba năm dùng một bữa
sư khoác tay, con mã để dành!
sư nói, chấp nê là chấp khổ
loanh quanh trong vô lượng hải hà
nếu khi đại pháo canh toạ độ
có ích gì, sĩ tượng quanh ta
sư nói, ác lai thì ác giả
bước qua sông trong lúc cùng đường
màu lau trắng nhuộm dòng Dịch Thủy
đâu có cần con chốt mang gươm
sư nói, thiện tâm thì thiện ngộ
đời an nhiên ắt sống vô lo
cuộc cờ sấp ngửa thêm ván nữa
sư loay quay còn khách ngủ khò!
nguyệt lãng
đời người như ngủ trọ gốc hoè
bây giờ xăng cộ lên cao quá
sư mĩm cười, chấp cả đôi xe!
sư nói, tiệm tu là tiệm ngộ
vội vàng chi mà chạy lanh chanh
dưỡng quân ba năm dùng một bữa
sư khoác tay, con mã để dành!
sư nói, chấp nê là chấp khổ
loanh quanh trong vô lượng hải hà
nếu khi đại pháo canh toạ độ
có ích gì, sĩ tượng quanh ta
sư nói, ác lai thì ác giả
bước qua sông trong lúc cùng đường
màu lau trắng nhuộm dòng Dịch Thủy
đâu có cần con chốt mang gươm
sư nói, thiện tâm thì thiện ngộ
đời an nhiên ắt sống vô lo
cuộc cờ sấp ngửa thêm ván nữa
sư loay quay còn khách ngủ khò!
nguyệt lãng
Lời bình: Châu Thạch
Nếu nói văn dĩ tải đạo thì tôi có thể mạo muội nói rằng bài thơ “ Xem sư cả chơi cờ” của Nguyệt Lãng là một bài thơ tải đạo.
Tôi được biết bài thơ nầy có được là nhân một dịp đi sáng tác tại Tam đảo-Vĩnh Phúc, tác giả đến tham quan ngôi chùa Trúc lâm thiền viện và được xem nhà sư chơi cờ. Tôi đoan rằng lời trong thơ không phải là lời của nhà sư mà chính đó là tư duy của tác giả sau khi xem sư cả đánh cờ.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho thấy ngay cái phong cách đạo mạo nhưng không kém phần hài hước, cũng như trình độ cao cờ khi nhà sư vừa nói vừa chấp đối phương đôi xe:
Sư nói, đốn tu là đốn ngộ
Đời người như ngủ trọ gốc hòe
Bây giờ xăng cộ lên cao quá
Sư mĩm cười chấp cả đôi xe!
Đời người như ngủ trọ gốc hòe
Bây giờ xăng cộ lên cao quá
Sư mĩm cười chấp cả đôi xe!
“ Đốn tu là đốn ngộ” hiểu một cách nôm na là nhanh tu, gấp tu thì sẽ hiểu đạo mau, đạt đạo trước. “Ngủ trọ gốc hòe” lấy từ điển tích, ý nói cuộc đời ngắn như người học trò ngày xưa nằm dưới gốc cây hòe mà ngủ, mơ một giấc mơ dài công danh sự nghiệp, đến khi tỉnh mộng thi nồi kê chưa chín. Đang nói chuyện đạo đời, nhà sư lại nói ngang qua chuyện xăng lên giá rồi đòi chấp đôi xe cho khách. Không thể nói rằng nhà sư đã lạc đề, vì thật ra nhà sư không giảng đạo mà nói chuyện trong lúc đánh cờ. Trong khi đang sắp cờ ông muốn chấp đôi xe nên tư tưởng và lời cũng bất ngờ chuyển ý . Hai câu thơ sau cũng diễn tả được cách xử sự của một nhà sư đức cao trọng vọng đối với bạn chơi cờ. Trong bàn cờ tướng, cặp xe là chủ lực, người nói chấp cặp xe không phải là người rất cao cờ thì là người nói chơi hay là kiêu ngạo. Nhà sư tất nhiên là cao cờ, nhưng để tránh cho người khác tự ái hay đánh giá mình cao ngạo, nhà sư đã dùng lời nói đùa vui, nhún nhường, đổ tội cho xăng dầu lên giá, mình không đủ sức đi xe nên phải chấp, khiến cho đối thủ cười xòa, đấu cờ trong tâm trạng thân thiện an vui. Cái hay ở bốn câu thơ nầy không phải ở triết lý cao siêu mà ở chỗ tác giả rất rành tâm lý con người nên viết ra lời thoại rất hợp tình. Nói lên xu hướng nhập thế, tu hành nhưng không xa rời thực tại, vẫn còn quan tâm đến vật giá tức là quan tâm đến cuộc sống của người dân; của các vị chân tu.
Ở vế thứ hai của bài thơ, tác giả đã diễn đạt phong cách đánh cờ của nhà sư thư thái, chững chạc, vững vàng:
Sư nói, tiệm tu là tiệm ngộ
Vội vàng chi mà chạy lanh chanh
Dưỡng quân ba năm dùng một bữa
Sư khoác tay, con mã để dành!
Vội vàng chi mà chạy lanh chanh
Dưỡng quân ba năm dùng một bữa
Sư khoác tay, con mã để dành!
“ Tiệm tu là tiệm ngộ” nói một cách nôm na là tu chậm thì đạt đạo chậm, tu sau thì đạt đạo sau. Bốn câu nầy nhà sư muốn dạy con người đừng nôn nóng, đừng chạy vạy lanh chanh mà phải biết lượng sức mình trong cuộc cờ nhân thế, cũng phải biết chỗ mạnh chỗ yếu của mình để ứng xử với đời, giống như nhà sư chấp xe nhưng mà giữ lại ngựa để có thể thắng đối phương trong thế cờ kết thúc, vì chắc chắn nhà sư giỏi về dùng ngựa trong cờ.
Ở vế thư ba trong bài thơ, nhà sư đã dùng lời giáo huấn về lẽ sống ở đời, nhưng thực ra nhà sư nhìn ván cờ mà nói theo từng diễn biến của cuộc thế:
Sư nói, chấp nê là chấp khổ
Loanh quanh trong vô lượng hải hà
Nếu khi đại pháo canh tọa độ
Có ích gì, sĩ tượng quanh ta
Loanh quanh trong vô lượng hải hà
Nếu khi đại pháo canh tọa độ
Có ích gì, sĩ tượng quanh ta
“ Chấp nê là chấp khổ”: ý nói ham muốn bao nhiêu thì khổ bấy nhiêu. Muốn thắng được cờ phải đau đầu khổ trí như đối phương hiện tại là chấp khổ vào thân. Trên bàn cờ tướng cũng chẳng khác chi trong cuộc cờ nhân thế, nếu cứ chấp nê thì chấp khổ, để cho thời vận không còn, số phận an bài thất bại thì đời ta sẽ như điểm bắn mà đại pháo đã canh vào tọa độ, chỉ còn tơi tã mà thôi, ví dầu có còn quân còn tướng cũng có ích chi vì đầu não đã bị phá rời, trung ương đã thành ra tan tác, ví như ván cờ hiện tại sĩ tượng vẫn còn nhưng cứ sơ hở để đối phương chiếu tướng hoài thì phải thua là chắc chắn. Số mạng đã kết thúc rồi thì những của cải gom góp vun vét phỏng có ích gì!
Qua khổ thứ tư của bài thơ, chắc trong ván cờ đối phương đã lâm vào thế bí. Sư dùng cái triết lý mấu chốt của Phật giáo để giảng dạy mà cũng để nhấn mạnh cái lý do mà đối phương đã lâm vào ngõ cụt trong ván cờ nầy:
Sư nói, ác lai là ác giả
Bước qua sông trong lúc cùng đường
Màu lau trắng nhuộm dòng Dịch Thủy
Đâu có cần con chốt mang gươm
Bước qua sông trong lúc cùng đường
Màu lau trắng nhuộm dòng Dịch Thủy
Đâu có cần con chốt mang gươm
Ác lai thì ác giả, làm ác thì gặp ác, Không phải nhà sư mạt sát ai, mà chỉ nhắc đên cái hậu quả tốt xấu là do tự người gây ra cho mình, cũng như ván cờ sắp thua vì đối phương vội vàng, háo thắng, không chịu dưỡng cờ nên phải đành thất thế. Ngày xưa, lục quốc đã vào thế bị Tần thôn tính, Kinh Kha qua sông Dịch Thủy thì lau trắng như đã nhuộm màu tang thương cho đất nước. Kinh Kha lúc ấy cũng chỉ như con chốt trên bàn cờ, dẫu có cầm con chủy thủ cũng đâu có làm chi được.
Đọc đoạn chót bài thơ thật là ngạc nhiên và thích thú:
Sư nói, thiện tâm thì thiện ngộ
Đời an nhiên ắt sống vô lo
Cuộc cờ sấp ngửa thêm ván nữa
Đời an nhiên ắt sống vô lo
Cuộc cờ sấp ngửa thêm ván nữa
Tâm thiện thì găp điều thiện, an nhiên thì sống vô lo. Nhà sư vừa nói vừa sắp lại ván cờ để đấu thêm ván nữa, có ý muốn giảng thêm cho khách nghe, đâu ngờ khách đã ngủ khò. Hai câu cuối nầy tác giả đã dựa vào điển tích ngày xưa Bị Vi đến chơi nghe thầy giảng đạo. Thầy tích cực nói nhưng khi nhìn lại thì thấy Bị Vi đã ngủ khò. Thầy đứng dậy vái Bị Vi và nói: ông nầy đã đắc đạo rồi.
Ngày xưa nghe giảng đạo êm tai mà ngủ thì được cho là đạt đạo, ngày nay đang động não đánh cờ mà ngủ được thì chắc là đã đạt đạo đỉnh cao (?). Chuyện kể trong hai câu kết của bài thơ đọc nghe ngồ ngộ nhưng suy nghĩ cho cùng là một triết lý sâu xa. Sư cả đánh cờ mà nói liên tục là sư đã ở trong thế động, ở trong trạng thái bất an. Khách đánh cờ mà khách ngồi yên rồi ngủ khò là khách ở trong thế tịnh, ở trong trạng thái bình an tự tại. Vậy thì sư cả và khách ai là người đạt đạo cao hơn? Khó mà phân biệt được! Biết đâu sư cả lại đánh cờ với vị chân tu đạo hạnh hơn mình không chừng?!
Bài thơ “ Xem sư cả chơi cờ” là một bài thơ hay, nói đạo đức triền miên mà nghe không thấy chán, lại càng thích thú trong lòng. Tác giả “để cho” nhà sư thỏa sức nói trong khi đánh cờ nên lẽ đạo nằm trong bàn cờ và bàn cờ nãy sinh ra lời lẽ đạo. Đó quả là “Đạo nằm trong Đạo” vậy!
Tác giả lại sành đời, am hiểu tâm lý, xúc tích văn phong nên diễn biến trên bàn cờ bày ra song song cùng lời nói sâu xa và cao trọng.
Châu Thạch ( ST ! Theo LNT )
Comment