Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Thấp thoáng Hữu Loan

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thấp thoáng Hữu Loan

    Thấp thoáng Hữu Loan


    Cả ba lớp cửa từ đường làng vào vườn, vườn vào sân,sân vào nhà của nhà thơ Hữu Loan đều khép hờ.Ai ra vào tuỳ ý.Nhưng xem ra cũng ít người qua lại,trừ đám trẻ, như bà cụ hàng xóm nói,chúng kéo đến vào mùa nhãn,cho đến khi bói không ra một quả, rồi thôi, bỏ lại khu vườn đã vặt trụi hoa trái cho hai ông bà già...
    Bà cụ hàng xóm mau mắn: các bác có lòng đến thăm cụ Tú thì cứ vào, chứ gọi cửa cũng không có người ra đón đâu. Cụ Tú con đàn cháu đống,ra ở riêng cả rồi,về già chỉ còn lại hai cái bóng mướp. Cụ Tú có nhà đấy, chắc lại đang ngồi ngắm rượu.
    Nhà thơ đang ngồi ngắm rượu thật, trên manh chiếu trải ngoài hiên,tựa lưng vào tường,hai đầu gối so lên cằm, mái tóc bạc trắng rũ xuống,mắt nhìn đắm đuối vào chén rượu trên tay. Mâm bát sơ sài, chỉ một quả chối xanh, nhúm muối và đôi đũa lệch. Nhà văn xứ Thanh, Kiều Vượng, nói với tôi, mỗi năm ông vài lần đến thăm cụ Loan, lần nào cũng gặp cụ ngồi nhìn chén rượu thế kia, chỉ nhìn mà ít uống.
    Cụ đang sáng tác hay chỉ ngồi ngắm chén rượu như một thói quen của một thượng thọ ngoài tám mươi? Tôi không biết. Kiều Vượng cũng chịu. Chỉ có nhà thơ Trịnh Thanh Sơn, cùng quê Nga Sơn, từng nhiều lần hầu rượu cụ Loan, thì đoan chắc thi sĩ đang nghĩ về thơ đấy, nghĩ lạ lắm, chả giống ai. Đời thơ của cụ bắt đầu từĐèo Cả, khép lại là Hoa lúa, vỏn vẹn mươi bài, nhưng cụ nghĩ về thơ, người thơ, cõi thơ thì cả đời, nếu chép ra thì cả bộ trường thiên.
    Thi bá cho rằng thơ thuộc về âm, nghĩa là thuộc về đêm, thuộc về trăng, con nước, thuộc về đàn bà. Người có sao Thái âm đóng cung mệnh, người đó mới làm được thơ, mới trở thành nhà thơ. Thơ thuộc hành thuỷ, mềm đấy mà cứng đấy, thấy trước mặt mà không nắm được trong tay,ngỡ là hữu hình mà hoá ra vô hình. Bởi vậy trong thơ thường có trăng, có sông, lại khăng khít với nhau, tạo những suối nước. Ngày trăng viên mãn, thì nước ngập tràn.Ngày trăng hao mòn thì con nước nghẹn ngào. Bản chất của thơ là buồn, là cô đơn, là hiu quạnh. Khi vui người ta hát. Khi buồn người ta đọc thơ. Kiếp nhân sinh có vui có buồn. Khi buồn người ta cần có thơ để vịn mà đi. Thơ trường tồn là vậy. Bao nhiêu rượu quê Nga Sơn, bao nhiêu chiều ngồi ngắm rượu trên tay của một đời thơ để cụ cảm về thơ,nghĩ về thơ tràn đầy và thâm hậu đến như vậy ?

    Nhà thơ ngồi đó, trước mặt tôi, như ngồi để chờ một phép lạ giúp cụ được tan vào thứ ánh sáng vườn chiều sâm sẫm bò loang trên cỏ rác. Giá thử không có chúng tôi đánh động thì cơ chừng cụ sắp tan vào chiều quê thật. Được thế thì sướng quá, nhưng trời lại chưa cho nên xem cái dáng cụ ngồi ngắm chén rượu thấy cái vẻ thi nhân chưa được thư thái, mãn nguyện, buông xuôi sự đời của trưởng lão, mà vẫn như để tự giam mình cho đến cõi khổ tận cam lai của đời người bao vuông tròn...
    Trong các nhà thơ thuộc thế hệ đầu cách mạng, có lẽ Hữu Loan là người nhiều bước thăng trầm hơn cả. Ông người quê nghèo Nga Sơn Thanh Hoá, từ nhỏ, nói như Nam Cao, ít khi được thoả cơm nhưng ham học, lại sáng dạ nên hai mươi tuổi đã đậu tú tài. Dến tận bây giờ bà con láng giềng vẫn cứ một cụ Tú Loan, hai cụ Tú Loan là vậy. Cụ Tú học trường Tây, nhưng không đi làm cho Tây ở Sở Dây thép, mà mở trường dạy trẻ và hoạt động trong phong trào Bình dân rồi tham gia Việt Minh. Ngày cách mạng Tháng Tám ông 29 tuổi, được cử làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.
    Kháng chiến bùng nổ, Hữu Loan làm công tác tuyên truyền, phụ trách tờ báo Chiến sĩ ở Mặt trận miền Trung. Ký giả chiến tranh Hữu Loan có chuyến đi công tác nhớ đời, giống tráng sĩ, cưỡi con ngựa đực bất kham từ Huế dong duổi dọc miệt rừng miền Trung, đến với các đội Hồng quân mới từ thành phố, làng quê đồng bằng kéo lên bưng biền, tựa thế hiểm của núi non hùng vĩ dựng trận địa, bước vào cuộc chiến đấu lần thứ nhất đầy khí phách: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Thay vì viết những phóng sự, chủ bút Hữu Loan lấy thơ để diễn tả những tình cảm trào dâng trước thiên nhiên và người lính vạm vỡ, gân guốc, đầy nhiệt huyết .
    Đèo cả !
    Đèo cả !
    Núi cao ngất !
    Mây trời Ai Lao
    Sầu đại dương
    Dặm về heo hút
    Đá bia mù sương !
    Bên quán Hồng quân
    Người
    ngựa
    mỏi
    Nhìn dốc
    ngồi than
    thương
    ai
    lên
    đường
    ...
    Râu ngược
    chào nhau
    bên sườn núi
    Giặc từ Vũng Rô bắn tới
    Giặc từ trong tràn ra
    Nhưng Đèo Cả
    vẫn
    giữ
    vững
    Chân đèo nam
    máu giặc
    bao lần
    nắng khô
    Sau mỗi lần thắng
    Những người lính Đèo Cả
    Về bên suối
    đánh cờ
    Người hái cam rừng
    ăn nheo mắt
    Người vá áo
    thiếu kim
    mài sắt
    Người đập mảnh chai
    vểnh cằm
    cạo râu
    Suối mang bóng người
    soi
    những
    về
    đâu ? !
    Đầu năm 1948, bấy giờ Hữu Loan cưới cô học trò cũ ; Đỗ Thị Ninh, mới 17 tuổi. Trong chiến tranh thật khó có hạnh phúc trọn vẹn. Chỉ bảy tháng sau ngày cưới, Hữu Loan đang ở chiến trường, nhận tin vợ mất. Tráng sĩ Hữu Loan khóc vợ bằngMàu tím hoa sim làm xúc động bạn đọc nhiều thế hệ.
    Tôi người Vệ quốc quân
    xa gia đình
    Yêu nàng
    như tình yêu em gái
    Ngày hợp hôn
    nàng không đòi
    may áo mới
    Tôi mặc đồ quân nhân
    đôi giày đinh
    bết bùn đất hành quân
    Nàng cười xinh xinh
    bên anh chồng độc đáo
    Tôi ở đơn vị về
    cưới nhau xong
    là đi
    Từ chiến khu xa....
    nhớ về ái ngại
    Lấy chồng đời chiến chinh
    mấy người đi trở lại
    Nhỡ khi mình không về
    thì thương
    người vợ chờ
    bé bỏng
    chiều quê !
    ...
    Chiều hành quân
    qua những đồi hoa sim
    những đồi hoa sim
    Những đồi hoa sim dài
    trong chiều
    không hết
    Màu tím hoa sim
    tím
    chiều hoang
    biền biệt
    Nhìn áo rách vai
    tôi hát trong màu hoa
    “ áo anh sứt chỉ đường tà
    Vợ anh mất sớm
    mẹ già chưa khâu “
    Hữu Loan đi qua chín mươi tư năm cuộc đời chỉ với mười bài thơ. Và đó cũng là toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Sang hoà bình, sóng gió của những đổi thay đẫ đẩy ông sang hướng khác. Bước thăng trầm của ông bắt đầu từ cuối năm 1957. Một đêm Hà Hội nhiều sương muối, buốt giá, ông và nhạc sĩ Văn Cao trắng đêm dạo quanh hồ Thuyền Quang. Đến sáng thì Văn Cao tiễn ông ra bến xe để ông trở về quê Nga Sơn kiếm kế sinh nhai.
    Bấy giờ Nga Sơn, Thanh Hoá quê ông nghèo lắm. Ông lại tay trắng dắt vợ con về, biết sống sao đây. Buổi chiều đầu tiên về làng Vân Hoàn, thay vì đi thăm hỏi láng giềng ông cắp be rượu lên núi đá đầu thôn. Bạn ông, người cùng thời, nhà thơ Trần Dần về Nam Định kiếm sống có câu thơ làm ông sởn gai ốc: Cuối phố có ngọn đèn thắt cổ / Hãy chỉ cho tôi chỗ nào tôi đổ bớt tôi đi. Trần Dần đổ nỗi buồn thi nhân thăm thẳm vào đâu, ông chưa hình dung ra, nhưng với ông, ở Nga Sơn này, ông chỉ còn biết đổ lên đá mà càm cắp vợ con qua cơn giáp hạt. Vốn có sức như trai lực điền, lại ở bước cùng, không thể ngồi ngâm thơ nhìn các con hết gạo, ông tưới rượu lên mặt đá mà thề sẽ bám đá để sống. Một chiếc xe cút kít. Một đôi quang sắt. Một xà beng. Một cuốc chim. Một chiếc đòn gánh bằng cả khúc tre ngâm.Ông nạy từng khối đá đưa lên chiếc xe cút kít thô sơ đem đi bán ở các lò thợ làm cối, làm thớt, làm kê chân cột và làm vật liệu xây dựng. Bán cả chục xe đá mới kiếm đủ ngaỳ hai bữa cơm dưa muối cho đàn con. Đã thế, nhiều khi ế ẩm, đá chất đầy vườn, cả tháng không ai hỏi mua. Một năm, hai năm, ba năm...Hữu Loan trở thành người thợ đá da đen như sừng, chân tay sần sẹo, tua tủa tóc rễ tre, đi đứng nói năng mạnh mẽ. Cặm cụi vật lộn với núi đá ông nuôi cả mười đứa con khôn lớn. Đến giờ cả mười đứa con đã có chín nên vợ nên chồng, sinh cho ông đàn cháu 37 đứa. Chỉ còn cậu út là chưa lập gia đinh.
    Hữu Loan thôi bám núi đá dã mười năm nay. Ông lui về nhà,trải chiếu trên thềm,ngày ngày ngồi uống rượu, ngắm rượuvà ngóng đợi con cháu về thăm nhà, ngóng đợinhững chuyển độngđổi thay của làng xóm, của gia đình mình, của phận mình. Dằng dặc ngóng đợi, vận may cũng đã đôi lần gõ cửa nhà ông. Bắt đầu là toà soạn báo Văn nghệ, cơ quan ông công tác gần bón mươi năm trước đưa đến tận nhà cho ông sổ hưu, với mức lương gần hai trăm ngàn đồng/tháng. Rồi chờ thêm vài năm nữa ông được xuất bản tập thơ đầu tiên trong đời, tập Màu tím hoa sim với mười bài thơ ông viết từ thời kháng chiến. Lại đợi, ông được trời ban phúc, con trai út, chú bé ra đời trên lèn đá tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Hà Nội. Không biết có còn vận may nào đến nữa không, Hữu Loan vẫn chờ. Cái chỗ bao nhiêu năm ngồi uống rượu, ngắm rượu và chờ đợi, mồ hôi thấm lên tường hình một bờ vai. Hình bờ vai lún dần, lún dần xuống thấp, có dễ không lâu nữa ngả hẳn xuống gần mặt chiếu.
    Tôi ghé sát tai ông:
    - Thưa bác, bác có làm thơ nữa không ?
    Hữu Loan vẫn nhìn chén rượu:
    - Có. Nhưng toàn thơ đểu
    Bỗng nhiên ông cất tiếng cười, cười khà khà, mãn nguyện.
    - Bác thử đọc vài câu thơ đểu cho con nghe với nào ?
    Hữu Loan ngồi im. Lát sau ông nói :
    - Đọc Đèo Cả thì đọc, chứ đọc thơ đểu phí rượu.
    Rồi ông như người bất ngờ vùng tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, tinh nhanh, hoạt bát hẳn ra, giọng vang và còn sáng. Ông đọc hết Đèo Cả không hề vấp váp. Đọc xong, ông vơ lấy chén rượu,nhưng không uống, chỉ nhìn mà nước mắt rơi.
    Tôi có một chiều Hữu Loan.
    Hà Đình cẩn

  • #2
    Những việc như làm thơ khóc thương vợ, hy sinh bản thân để lao vào cực khổ nuôi con cũng đủ cho ta thấy nhà thi sĩ có 1 tấm lòng cao cả và nhân hậu.....
    Đáng tiếc thay cho 1 nhân tài sớm bị chôn vùi dưới chân núi đá chỉ vì lòng nhân hậu đôi với quê hương và đất nước....
    Cám ơn Sis CM đưa tin nha.


    Thân,
    Nahoku
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment

    Working...
    X