Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Đã khám phá ra tác giả T.T.Kh.

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đã khám phá ra tác giả T.T.Kh.

    Những Bí ẩn Quanh T.t.kh Và ” Hai Sắc Hoa

    Ðã gần 7 thập niên, kể từ khi 4 bài thơ độc đáo của TTKh được phổ biến trên 2 tạp chí Tiểu thuyết thứ bẩy và Phụ nữ thời đàm ở Hà nội. Giới văn chương, báo chí cũng như những người yêu thích thơ văn tiền chiến đã tốn khá nhiều bút mực, công lao để tìm hiểu về thân thế và con người thật ngoài đời của bà, nhưng đến nay vẫn còn nhiều mù mờ !

    Gần đây đã có vài khám phá đáng mừng, dù vậy văn học sử vẫn còn cần thời gian để kiểm chứng mức độ chính xác của nó .

    Trong suốt thời gian dài vừa qua, biết bao nhiêu những dữ kiện được thêu dệt rất lãng mạn liên quan đến tác gỉa bởi những người yêu thơ của bà cũng như những nhà làm văn nghệ…Vài người còn tưởng tượng hay đưa ra những chứng minh tự nhận mình là người yêu của bà !.

    Để mở đầu, xin được phép trích dẫn bài thơ nổi tiếng nhất của T.T.Kh

    Hai sắc hoa Ti-gôn

    Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
    Nhặt cánh hoa rơi cảm thấy buồn
    Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
    Tôi chờ người đến với yêu đương


    Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
    Dải đường xa vút bóng chiều phong,
    Và phương trời thẳm mờ sương, cát
    Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng

    Người ấy thuờng hay vuốt tóc tôi
    Thở dài trong lúc thấy tôi vui
    Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ
    Anh sợ tình ta cũng thế thôi!”

    Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
    Cánh hoa tan tác của sinh ly
    Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng,
    Là chút lòng trong chẳng biến suy!”

    Đâu biết một đi một lỡ làng,
    Dưới trời đau khổ chết yêu đương
    Người xa xăm quá! Tồi buồn lắm,
    Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…

    Từ đấy, thu rồi, thu lại thụ..
    Lòng tôi còn giá đến bao giờ
    Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
    Người ấy, cho nên vẫn hững hờ

    Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
    Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
    Mà từng thu chết, từng thu chết
    Vẫn giấu trong tim bóng một người

    Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
    Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
    Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
    Và đỏ như màu máu thắm pha!

    Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
    Một muà thu trước rất xa xôị..
    Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
    Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

    Tôi sợ chiều thu nhạt nắng mờ
    Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu
    Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
    Người ấy sang sông đứng ngó đò

    Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
    Trời ơi! Người ấy có buồn không
    Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
    Tựa trái tim phai, tựa máu hồng

    1.Sự xuất hiện TTKh. trên thi đàn tiền chiến:

    Vào khoảng giữ năm 1937, trên tạp chí ’’ Tiểu thuyết thứ bẩy ’’ xuất bản ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn ’’Hoa Ti-gôn ’’ của ký gỉa Thanh Châu. Ðây là một truyện khá bi đát, trong đó mô tả truyện tình của một họa sĩ trẻ vừa ra trường tên Lê Chất. Trong một lần đạp xe đi tìm phong cảnh để vẽ ở một làng quê ven Hà Nội, ngẫu nhiên khi đi qua một căn biệt thự cổ Lê Chất nhìn thấy một cô gái rất đẹp, mặc áo ngắn tay bằng lụa đang đứng trên chiếc ghế cao níu lấy một cành hoa ti gôn mầu đỏ.

    Sắc đẹp của người thiếu nữ nổi trội lên giữa giàn hoa ti gôn đỏ đã làm cho người hoạ sĩ mẩn mê đứng nhìn… Rồi từ hôm đó, ngày nào anh ta cũng tìm cách quanh quẩn gần căn biệt thự để được nhìn cô gái và ngược lại cô gái cũng thấy anh ta. Nhưng chỉ được vài lần, rồi không biết lý do gì người con gái không còn xuất hiện nữa.

    Thời gian qua đi, mang thành công và danh vọng đến cho người hoạ sĩ, nhưng anh ta vẫn không bao giờ quên hình bóng người con gái đẹp dưới giàn hoa tigôn mầu đỏ mà anh ta đã gặp gỡ ngày còn nghèo khổ xa xưa .

    Rồi ngẫu nhiên, 9 năm sau, trong lần đi tìm dề tài sáng tác ở miền Nam Trung Quốc, anh ta được mời tham dự buổi dạ vũ trong toà lãnh sự Pháp tại Vân Nam . Lê Chất gặp lại cô con gái ngày xưa, nhưng trong nhiều oái oăm, muộn màng. Chồng của cô gái là một viên chức cao cấp của toà lãnh sự, người chồng mà cô ta không hề yêu thương . Trong lần tái ngộ đó, họ khiêu vũ, tâm sự với nhau, và tiếp theo mối tình của họ được tiếp nối trong vụng trộm . Ðến một lần, họ dự tính bỏ lại đằng sau tất cả để tìm cách trốn đi Nhật sinh sống với nhau.

    Nhưng đến giây phút cuối, người thiếu phụ gửi cho chàng họa sĩ một lá thư, kèm một chùm hoa tigôn mầu đỏ máu, nàng từ chối ra đi vì không đủ can đảm từ bỏ danh dự và tai tiếng của gia đình cũng như sự khinh bỉ của gia đình chồng.

    Buồn đau vì ý định không thành, người họa sĩ vẫn ra đi Nhật bản một mình trước khi trở về Hà nội. Rồi, ngẫu nhiên, bốn năm sau, anh ta nhận được lá thư từ người chồng của cô gái báo tin nàng đã mất ! Lê Chất sang Vân Nam viếng mộ người xưa với một chùm dây hoa tigôn, loại hoa kỉ niệm mối tình của họ. Cũng từ đó cho đến suốt cuộc đời, cứ vào mua hoa tigôn nở, Lê Chất không bao giờ quên mua những chùm hoa tigôn để trang hoàng trong phòng làm việc như để tưởng nhớ đến người yêu xa xưa vắn số của mình .

    Mấy ngày sau khi câu truyện ngắn trữ tình đó xuất hiện trên báo, có một thiếu phụ khỏang 20 tuổi, dáng dấp nhỏ bé, thùy mị, nét mặt u buồn mang đến toà báo, đưa tận tay người chủ bút một phong thư dán kín. Trong đó có một bài thơ rất hay với đề tựa ’’Hai sắc hoa tigôn’’ được ký tên tác giả là T.T.Kh.

    Bài thơ não lòng, lột tả được tất cả cái đau xót của người con gái đã phải xa người mình yêu, người đã cùng mình gắn bó thề ước dưới giàn hoa tigôn để đi lấy chồng, người mà mình không hề yêu.

    Khi bài thơ ‘’ Hai sắc hoa tigôn ‘’ vừa cho lên mặt báo đã gây xôn xao trong giới yêu văn chương. Nhiều nhà phê bình đã không ngần ngại cho rằng đây là một kiệt tác. Trong không khí sôi động đó, toà báo lại nhận thêm được một bài thơ khác cùng tác gỉa, qua đường bưu điện với đề tựa ‘’ Bài thơ thứ nhất ‘’. Bài thơ này cũng với những câu thơ buồn đau đầy nước mắt, giải thích, mô tả kỹ lưỡng hơn về mối tình dang dở của cặp tình nhân gặp nhau rồi yêu nhau và cuối cùng không biết vì lý do nào đó người đàn ông rời xa, người đàn bà ở lại yêu kỷ niệm cho đến ngày lấy chồng :

    Bài Thơ Thứ Nhất

    Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
    Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương…
    Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,
    Em ái trao tôi một vết thương.

    Tai ác ngờ đâu gió lạ qua,
    Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
    Thổi tan âm điệu du dương trước
    Và tiễn Người đi bến cát xạ

    Ở lại vườn Thanh có một mình,
    Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
    Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
    Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.

    Và một ngày kia tôi phải yêu
    Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
    Những cô áo đỏ sang nhà khác,
    – Gió hỡi ! Làm sao lạnh rất nhiều ?

    Từ đấy không mong, không dám hẹn
    Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
    Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
    Người ấy ghi lòng : “Vẫn nhớ em !”

    Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
    Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
    Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
    Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên ?

    Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
    Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ !
    Tóc úa giết dần đời thiếu phụ…
    Thì ai trông ngóng, chả nên chờ !

    Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
    Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa :
    – “Cố quên đi nhé, câm mà nín
    Đừng thở than bằng những giọng thơ !”

    Tôi run sợ viết; lặng im nghe
    Tiếng lá thu khô siết mặt hè
    Như tiếng chân người len lén đến.
    Song đời nào dám ga<.p ai về !

    Tuy thế, tôi tin vẫn có người
    Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi
    Biết đâụ.. tôi: một tâm hồn héo,
    Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi !

    Khi bài thơ thứ nhất được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được gửi đăng báo trước bài Thơ thứ nhất ?

    Người ta cho rằng, tác gỉa đã làm bài Thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện ngắn Hoa Tigôn cuả ký gỉa Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác gỉa đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn

    Sau khi bài thơ thứ nhất được đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy, giới văn nghệ càng bàn tán nhiều hơn nữa. Bao nhiêu những tưởng tưộng,thêu dệt với những tình tiết lâm ly về hình dạng, thân thế và cả mối tình buồn đau lãng mạn của tác gỉa được đưa ra báo chí.

    Vẫn trong cái không khí xao động, bàn tán lung tung vì 2 bài thơ vừa đăng báo đó, tạp chí ‘’Phụ nữ thời đàm’’ ở Hà nội lại nhận được bài thơ ‘’ Ðan áo cho chồng ‘’ của cùng tác gỉa qua bưu điện. Bài thơ này cũng vẫn với giọng điệu buồn đau, nhưng có vẻ than van, oán trách thân phận mình nhiều hơn. Nàng mô tả như bị tù tội trong cuộc sống với người chồng không yêu nhưng vẫn mong đợi bóng dáng người xưa :

    Đan Áo Cho Chồng

    “Chị ơi ! Nếu chị đã yêụ
    Đã từng lỡ hát ít nhiều đau thương,
    Đã xa hẳn quãng đường hương,
    Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.


    Biết chăng chị ? Mỗi mùa đông,
    Đáng thương những kẻ có chồng như em,
    Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
    Đan đi đan lại áo len cho chồng.

    Như con chim hót trong lồng,
    Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
    Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
    Than ôi ! Gió đã sang bờ ly tan…

    Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
    Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
    Như con chim nhốt trong lồng,
    Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao !

    Ngoài trời mưa gió xôn xao,
    Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm ?
    Ai đem lễ giáo giam em ?
    Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đờị..

    Lòng em khổ lắm chị ơi !
    Trong bao tủi cực với lời mỉa maị
    Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
    Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình

    Bài thơ đan áo cho chồng vừa ra mắt thì toà báo Tiểu thuyết thứ bẩy lại qua đường bưu điện nhận được bài thơ thứ tư với đề tựa : Bài thơ cuối cùng

    Ðúng như đề tựa của nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa, TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn! Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác giả mà chỉ có vỏn vẹn 4 bài thơ nhưng đã tạo được chỗ đứng rất vững chãi trong nền văn học VN.

    Bài Thơ Cuối Cùng

    Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ ?
    Một mùa thu cũ, một lòng đaụ..
    Ba năm ví biết anh còn nhớ,
    Em đã câm lời, có nói đâu !

    Đã lỡ, thôi rồi ! chuyện biệt ly,
    Càng khơi càng thấy lụy từng khị
    Trách ai mang cánh “ty-gôn” ấy,
    Mà viết tình em, được ích gì ?

    Chỉ có ba người đã đọc riêng,
    Bài thơ “đan áo” của chồng em.
    Bài thơ “đan áo” nay rao bán,
    Cho khắp người đời thóc mách xem…

    Là giết đời nhau đấy, biết không ?
    ….Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,
    Giận anh, em viết dòng dư lệ,
    Là chút dư hương : điệu cuối cùng !

    Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
    Còn để yên tôi với một mình,
    Những cánh hoa lòng, hừ ! đã ghét,
    Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

    Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
    Từng mùa gió lạnh sắc hương rơị..
    Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp,
    Đi nhớ người không muốn nhớ lời !

    Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
    Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
    Nếu không yên được thì tôị.. chết
    Đêm hỡi ! Làm sao tối thế nầy ?

    Năm lại năm qua cứ muốn yên
    Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
    Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
    Lại chính là anh ? anh của em !

    Tôi biết làm sao được hỡi trời ?
    Giận anh, không nỡ ! Nhớ không thôi !
    Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt…
    Sợ quá đi, anh… “có một người” !…

    Bài thơ cuối cùng xuất hiện vào giữa năm 1938, trong giới văn chương vẫn không giảm sút những lời bàn tán, thêu dệt về thân thế và cuộc tình buồn bã của tác gỉa, đã thế nhiều nhà báo, nhà thơ có tên tuổi đương thời đã đưa ra những chứng cớ để cố nhận người thi sĩ tài năng đầy bí ẩn đó là người yêu của mình.

    Khi bài thơ thứ nhất được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được gửi đăng báo trước bài Thơ thứ nhất ?

    Người ta cho rằng, tác gỉa đã làm bài Thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện ngắn Hoa Tigôn cuả ký gỉa Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác gỉa đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn.

    Sau khi bài thơ thứ nhất được đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy, giới văn nghệ càng bàn tán nhiều hơn nữa. Bao nhiêu những tưởng tưộng,thêu dệt với những tình tiết lâm ly về hình dạng, thân thế và cả mối tình buồn đau lãng mạn của tác gỉa được đưa ra báo chí.

    Vẫn trong cái không khí xao động, bàn tán lung tung vì 2 bài thơ vừa đăng báo đó, tạp chí ‘’Phụ nữ thời đàm’’ ở Hà nội lại nhận được bài thơ ‘’ Ðan áo cho chồng ‘’ của cùng tác gỉa qua bưu điện. Bài thơ này cũng vẫn với giọng điệu buồn đau, nhưng có vẻ than van, oán trách thân phận mình nhiều hơn. Nàng mô tả như bị tù tội trong cuộc sống với người chồng không yêu nhưng vẫn mong đợi bóng dáng người xưa.

    Bài thơ đan áo cho chồng vừa ra mắt thì toà báo Tiểu thuyết thứ bẩy lại qua đường bưu điện nhận được bài thơ thứ tư với đề tựa : Bài thơ cuối cùng .

    Ðúng như đề tựa của nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa, TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn! Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác giả mà chỉ có vỏn vẹn 4 bài thơ nhưng đã tạo được chỗ đứng rất vững trãi trong nền văn học VN.

    Bài thơ cuối cùng xuất hiện vào giữa năm 1938, trong giới văn chương vẫn không giảm xút những lời bàn tán, thêu dệt về thân thế và cuộc tình buồn bã của tác gỉa, đã thế nhiều nhà báo, nhà thơ có tên tuổi đương thời đã đưa ra những chứng cớ để cố nhận người thi sĩ tài năng đầy bí ẩn đó là người yêu của mình.

    2. Những dữ kiện lên quan đến thân thế của TTKh.

    Như trên đã đề cập đến cái độc đáo của bài thơ kèm theo ý tứ của một mối tình buồn bã, lãng mạn… thêm vào đó sự bí mật về thân thế thi nhân càng làm cho người ta tò mò muốn biết về tác gỉa. Ðến nay đã gần 70 năm rồi, người ta vẫn phải nhận lấy những điều mù mờ về thân thế và cả những thêu dệt vô căn cứ về người nữ sĩ tài danh đó ! Sau đây là một vài sự kiện đã gây ra những xáo động dư luận trong giới thơ văn. Ðúng hay sai, tưởng tượng hay là một lối tìm nguồn thi hứng của những người làm văn nghệ…Ðến nay vẫn chỉ là những dấu hỏi mù mờ mà thôi!

    a.Dư luận với ký gỉa Thanh Châu : Như phần trên đã viết, truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trên báo Tiểu thuyết thứ bẩy đã là nguyên nhân xuất hiện những bài thơ diễm tình, lãng mạn bất tử của TTKh trong làng thơ tiền chiến.

    Nếu xét những diễn tiến cũng như tâm trạng buồn đau của người con gái trong truyện ngắn Hoa Tigôn và trong 4 bài thơ của TTKh, nhất là bài Hai sắc hoa Tigôn, người ta thấy nội dung hai bài gần như giống hệt nhau. Cũng vẻ ngây thơ của người con gái thủa ban đầu gặp gỡ người yêu, cũng bóng dáng người nghệ sĩ làm cho nàng nhớ mãi không quên dưới giàn hoa Tigôn kỷ niệm :

    Thủa trước hồn tôi phơi phới qúa


    Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương

    Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại

    Em ái trao tôi một vết thương

    hay :

    Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

    Thở dài trong lúc thấy tôi vui

    Bảo rằng : hoa giống như tim vỡ

    Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi .

    Rồi những câu thơ tả người thiếu phụ luôn luôn tưởng nhớ đến cố nhân , phải miễn cưỡng kéo dài cuộc sống nhàm chán bên người chồng luống tuổi mà mình không yêu… Tất cả những dữ kiện đó đã lột tả gần như hòa hợp rất khắng khít với cốt truyện ngắn của Thanh Châu.

    Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời


    Ái ân lạnh lẽo của chồng tôi

    Mà từng thu chết từng thu chết

    Vẫn dấu trong tim bóng một người

    Chính vì vậy ngay khi mấy bài thơ xuất hiện trên báo chí, ký gỉa Thanh Châu đã khẳng định với dư luận, TTKh chính là người con gái trong căn biệt thự ở ngoại ô Hà nội, là người yêu của ông.Sự xác định này đã quấy lên những xáo trộn nghì ngờ cũng có, tin tưởng cũng có trong làng thơ văn lúc bấy giờ.

    Nhà văn Thanh Châu ra đi, T.T.Kh vẫn bí ẩn!


    Tôi có ước nguyện được đứng bên ông trong giây phút cuối cùng bên giường bệnh để nghe ông nói câu này: “Vâng, T.T.Kh chính là người yêu của tôi, là Trần Thị Vân Chung”. Thế nhưng giờ đây đã muộn rồi. Ông đã vĩnh viễn ra đi vào ngày 8-5-2007

    Nhà văn Thanh Châu sinh năm 1912. Vào năm 1937, khi văn đàn xôn xao về mấy bài thơ của tác giả bí ẩn T.T.Kh, ông đã 25 tuổi, có ít vốn liếng văn chương. Ông sinh ra và lớn lên tại thị xã Thanh Hóa, là quê mẹ. Nơi ấy cũng có một người con gái kém ông 7 tuổi đang sinh sống, tên là Trần Thị Vân Chung. Vào năm 1937, nàng đã 18 tuổi. Trên chuyến tàu định mệnh Hà Nội - Thanh Hóa vào một chiều cuối thu trước đó, hai người đã gặp nhau để khởi đầu một mối tình đầy nước mắt. Cũng một ngày cuối thu cách nay 4 năm, tôi đã đến căn nhà mà nhà văn Thanh Châu ở tại Tân Bình - TPHCM để nghe ông nói về mối tình ấy. Khi đó ông đang nằm trên giường bệnh, nói năng rất khó khăn nhưng vẫn cố gắng trả lời những câu hỏi tò mò của tôi. Dù phải chắp nối để nghe cho rõ câu chuyện nhưng tôi cảm nhận được sự thổn thức trong tim ông khi ông nhắc lại mối tình đã tan vỡ gần bảy mươi năm về trước. Có lẽ đó là lần đầu tiên ông tiết lộ vài chi tiết về mối tình bi thương ấy cho một người nghiên cứu như tôi nghe.

    Vì sao tôi đến thăm ông lần ấy? Bởi vì trước đó tôi đã thấy hé mở một số vấn đề rất thú vị trong khi nghiên cứu truyện ngắn Hoa ti-gôn của ông và bốn bài thơ tình của T.T.Kh. Tôi đã chắc rằng giữa hai người này có mối quan hệ dây mơ rễ má gì đó. Công việc giải mã truyện ngắn và bốn bài thơ cho tôi kết quả: T.T.Kh chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Và thế là tôi đến để hỏi ông, về một mối tình tan vỡ đớn đau vào lúc ông khoảng 22 - 23 tuổi. Tôi đã đưa đích danh Trần Thị Vân Chung ra để hỏi, nhưng trong lòng tôi cứ sợ ông chối, không nhận mình là người yêu của Trần Thị Vân Chung. Vì trước đó mười năm, tác giả Thế Phong đã công bố rằng Trần Thị Vân Chung là người yêu của Thanh Châu nhưng chính Thanh Châu đã lên tiếng rằng hai người chỉ là bạn bè một thuở mà thôi.

    Nếu nhà văn Thanh Châu không thừa nhận Trần Thị Vân Chung là người yêu của ông thì kết quả giải mã của tôi vô nghĩa. Vì thế tôi vô cùng hồi hộp khi gõ cửa ngôi nhà vắng vẻ ấy để lên căn gác nhỏ thăm ông. Và, tôi đã lặng người đi khi ông gật đầu trước câu hỏi của tôi. Sợ ông nghe nhầm câu hỏi, tôi phải hỏi đi hỏi lại ba, bốn lần, ghi âm cẩn thận và ông vẫn gật đầu. “Vâng, bà Vân Chung và tôi có yêu nhau”. Sau câu trả lời đó của ông, tôi đi sâu vào chuyện tình và ông đã không ngần ngại kể cho tôi nghe một số tình tiết câu chuyện.

    Có lẽ tôi phải trở lại đôi điều mà tôi đã trình bày trong cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh. Trước đó, nhiều giả định cho rằng T.T.Kh có thể là Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính. Có nghĩa là T.T.Kh là những người đàn ông. Nhưng qua phân tích truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu, các bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng và Bài thơ đan áo của T.T.Kh, tôi đã đưa ra được một số tiêu chí khác hẳn để xác định T.T.Kh như sau: Bất cứ nhân vật nào nếu muốn giả định là T.T.Kh thì đó phải là một người phụ nữ và hơn thế nữa, người phụ nữ ấy phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Ngoài các tiêu chí chính đó, còn có các tiêu chí phụ khác như nhân vật đó phải có độ tuổi hợp lý (đến năm 1937 phải là một thiếu nữ 17 – 18 để có thể đã có chồng dạm hỏi hay lên xe hoa rồi), T.T.Kh phải là một người có sinh hoạt văn học (có thơ đăng báo, in sách)… Và thật kỳ diệu, nhân vật Trần Thị Vân Chung, mà trước đó nhà văn Thế Phong đã phát hiện nhưng chính bà từ chối, có những đặc điểm nhân thân khớp một cách gần như hoàn toàn với T.T.Kh. Tôi chỉ còn phải làm một “phép thử” nhỏ, là xác định xem giữa Thanh Châu và T.T.Kh có mối quan hệ tình cảm thực sự nào không. Vì thế tôi đã đến gặp nhà văn Thanh Châu.



    Và tôi đã gặp may. Cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu vì sao nhà văn Thanh Châu lại nói thật với tôi về mối tình này. Theo đó, sau khi gia đình Vân Chung không đồng ý cho hai người lấy nhau, Thanh Châu liền ra Hà Nội học và bắt đầu viết văn, làm báo. Ông mang theo mối tình sầu thảm ấy như ông viết trong bài tùy bút Những cánh hoa tim vào mùa thu năm 1939: “Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái”. Một thời gian sau, Thanh Châu nhận được thư từ Thanh Hóa của gia đình gửi ra thông báo Vân Chung đã lấy chồng. Dĩ nhiên là Thanh Châu không có mặt trong ngày lên xe hoa đó của nàng (chồng Vân Chung lúc đó đã là một người có vai vị, về sau làm đến tri huyện, cho đến thời chính quyền Sài Gòn, làm đến chức tổng trưởng quốc phòng).

    Tôi sung sướng tột độ trước những thông tin từ tiết lộ chân thành này của nhà văn Thanh Châu. Cùng đi với tôi có nhà văn Nguyễn Khoa Đăng, khi đó dù chưa nắm thật rõ việc giải mã của tôi nhưng cũng chia sẻ niềm vui với tôi. Thế là những câu thơ T.T.Kh có thể gắn vào cho Trần Thị Vân Chung.

    Chẳng hạn đây là giây phút khi Thanh Châu ra Hà Nội viết văn, làm báo, Vân Chung ở lại thị xã Thanh Hóa một mình trong nỗi tiếc thương:

    Ở lại vườn Thanh có một mình
    Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
    (Bài thơ thứ nhất)

    Lúc Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng:
    Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
    Trời ơi! Người ấy có buồn không
    (Hai sắc hoa ti-gôn)

    Có vô vàn sự trùng khớp nữa mà tôi không thể kể ra hết trong một bài báo nhỏ này. Tôi liền quyết định dấn thêm một bước nữa. Tôi ghé miệng vào tai nhà văn Thanh Châu và hỏi (vì khi đó ông đã khá nặng tai rồi):

    - Trần Thị Vân Chung có phải là T.T.Kh không ạ?

    Hai, ba lần hỏi ông mới nghe rõ và ngó mặt đi chỗ khác:

    -Không! Không phải! Bà Vân Chung không phải là T.T.Kh. Toàn là bày vẽ chuyện.

    Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng thất vọng ra mặt. Nhưng tôi thì khác. Tôi không hề đón chờ câu trả lời “Vâng, Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh” vào lúc này. Dù rằng tôi phải hỏi cho bằng được câu hỏi ấy. Câu trả lời ấy nếu có phải là lúc ông sắp sửa đi xa mãi mãi vào cõi vô cùng. Hoặc có thể là không bao giờ có câu ấy, vì họ đã thề rằng:

    Cố quên đi nhé câm mà nín
    (Bài thơ thứ nhất)

    Sau khi tôi hoàn thành cuốn sách, mấy lần tôi định đem đến tặng ông nhưng rồi tôi lại chần chừ không muốn tặng. Không rõ vì lẽ gì. Thật kỳ lạ. Cho đến hôm nay ông đã đi xa vĩnh viễn. Sáu mươi mấy năm trước Hoài Thanh viết trong Thi nhân Việt Nam: “Ai biết “con người vườn Thanh” bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?”. Không biết T.T.Kh nghĩ gì trong ngày buồn này? Bà có thầm đọc những vần thơ đau đớn khi xưa để tiễn biệt nhà văn Thanh Châu về cõi vô cùng:

    Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
    Một mùa thu cũ một lòng đau…
    (Bài thơ thứ nhất)

    Nghe Hoàng Oanh ngâm thơ TTKH ở đây :



    Copy By PN
    Last edited by phng99; 12-06-2008, 05:21 PM.







  • #2
    Cảm ơn bạn đã post bài này rất hay.
    ** Đừng khi nào cười kẻ đau khổ và đôi khi nên đau khổ với kẻ đã cười.

    ** Khi người ta nói xấu bạn , nếu đúng bạn hãy sửa mình. Nếu sai bạn hãy mỉm cười.

    ** Khi thất bại nên soi gương để đừng nhăn nhó. Khi thành công càng nên soi gương để thấy bản mặt hợm hĩnh.

    Comment


    • #3
      Trần Thị Vân Chung và TTKH đâu có khớp nhau??
      "Life is like a river, let it flow.
      Cuộc đời giống như một dòng sông. Cứ để nó trôi."

      Comment


      • #4
        Tất cả cũng chỉ là nghi án thôi. Chưa thể khẳng định được T.T.Kh có phài là Trần Thị Vân Chung hay không?

        Comment


        • #5
          Hay quá, cuối cùng cũng tìm ra tác giả của những bài thơ tình đã đi vào lòng người. Những bài thơ mà cua rất thích
          "Money is the root of all evil"

          Comment


          • #6
            Nguyên Văn Bài Viết Của Hiệp Khách View Post
            Trần Thị Vân Chung và TTKH đâu có khớp nhau??
            Nguyên Văn Bài Viết Của Cỏ may View Post
            Tất cả cũng chỉ là nghi án thôi. Chưa thể khẳng định được T.T.Kh có phài là Trần Thị Vân Chung hay không?



            Đúng , tất cả chỉ là nghi án...
            Hãy nghe chính bà Vân Chung phủ nhận...


            T.T.KH, Nàng là ai ?



            Một nghi án văn học đã để laị trong lòng tất cả những người yêu thơ biết bao là thắc mắc và xúc động. Tôi muốn nói đến T.T.KH một người đàn bà đã gói trọn những tâm sự thời con gái vào 4 bài thơ mà cho đến hôm nay, hơn nửa thế kỷ vẫn lưu truyền và ca tụng. Thơ của bà mộc mạc, không phô trương, không làm dáng, laị rất dễ đi vào lòng người đọc, nhất là những cô gái cùng chung cảnh ngộ. Thơ của bà chứa đựng sự yếu đuối của một người con gái, pha lẫn sự cương trực của một người đàn bạ Tả cái giận nhưng không thể dấu được cái thương bên trong từng câu từng chự. Vậy T.T.KH nàng là ai ???

            Một câu hỏi mà tất cả tầng lớp yêu thơ đã tự hỏi và tìm tòi trong suốt hơn nửa thế kỷ quạ Môt. nghi án văn hoc. nay được công bộ tôi xin mời tất cả hãy đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểụ Vào khoảng 6/1937, báo "Tiểu Thuyết Thứ Bảy" xuất bản tại Hà Nội đăng truyện ngắn Hoa Ti Gôn của kỶ giả Thanh Châụ. Theo đó câu chuyện kể lại một mối tình giữa một chàng nghệ sî và một thiếu nự Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được của một người thiếu phụ trạc 20, dáng bé nhỏ, thùy mị, nét mặt u buồn, mang đến một bì thơ dán kín gởi cho chủ bút, trong đó chỉ gọn một bài thơ Hai Sắc Hoa Ty-gn , dưới kỶ tên T.T.Kh. Khi thiếu phụ đi rồi, tòa soạn xem thơ nhận thấy thi phẩm ghi lại cảnh tình đáng thương tâm, nhưng người ta chỉ nhớ lờ mờ hình ảnh thiếu phụ kiạ. Ưó là lần đầu và củng là lần cuối người thiếu phụ này xuất hiện. Câu chuyện "Hoa ti-gôn" đã khơi lại mối tình xưa mà người thiếu phụ (T.T.Kh.) đã từng yêu một người và từng trao lời gắn bó dưới dàn hoa ti-gôn. Rồi chàng ra đi, nàng ở lại và nhận một mối tình gượng ép. Nàng đã làm bài thơ để giải toả niềm tâm sự Trong "Hai sắc hoa ti-gôn", tác giả thuật lại câu chuyện tình giữa nàng và chàng nghệ sî trót đã yêu nhau, song hoàn cảnh trái ngang, nàng phải gạt nước mắt nên duyên cùng người khác - một ông chồng luớn tuổi - để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của một thời quá khự Sau bài thơ này, tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bảy lại nhận được bằng đường bưu cục 3 tác phẩm khác củng mang tên T.T.Kh. Ưó là các bài Bài Thơ Thứ Nhất , Bài Thơ đan áo (riêng đăng ở Phụ Nữ Thời Ưàm) và Bài Thơ Cuối Cùng. Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa và không hiểu tại sao bài "Hai sắc hoa ti-gôn" lại xuất hiện trước "Bài Thơ Thứ Nhất". Từ lúc T.T. Kh góp mặt vào làng thi ca tiền chiến, người ta đã tốn biết bao công phu đi tìm hiểu về T.T.Kh.. Không ai biết được tên thật củng như quê quán của nàng. Có người cho nàng là Trần Thị Khánh, một nữ sinh phố Sinh Từ, Hà nộị Có kẻ cho cô là người yêu của thi sî Thâm Tâm, hay đây chỉ là một nhân vật trong tưởng tượng của ông nha (`m lâm ly hóa hay thi vị hóa một mối tình tưởng tượng. Rồi, kỶ giả Thanh Châu, các thi sî Nguyễn Bính và J. Leiba củng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình !? Kể từ đó, dù cho các nhà văn tốn không biết bao giấy mực nhưng họ vẫn không biết gì hơn về nàng. Về hoa ty-gôn (antigone in French) : loại hoa dây đẹp, không thơm, có hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu trắng và hồng; ở miền Nam VN gọi là hoa nho vì lá giống lá nhọ Tác giả mượn Ỷ màu trắng là màu trinh bạch, ngây thơ khi nàng còn nhỏ dại, và hồng là màu mà nàng phải trải qua nhữg sự đau khổ trong tình trường khi con tim nàng tan vợ Như ta đã thấy "Bài Thơ Cuối Cùng", xuất hiện vào giữa năm 1938, trong đó T.T.Kh. giận trách người tình củ đã đem thơ của nàng lên mặt báo, làm lộ chuyện thầm kín "cho khắp người đời thóc mách xem", thì không còn thấy xuất hiện bài thơ nào khác của nàng nữạ Mãi tới 2 năm sau, vào giữa 1940, mới thấy xuất hiện bài thơ Gửi T.T.Kh với bút hiệu Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình,1917-1948), có lẽ là ông ở xa vừa mới vệ Ông tự nhận là người tình củ của T.T.Kh, gọi nàng bằng tên "Khánh" và nhắc tên này tổng cộng 4 lần. Bài thơ này là để trả lời cho 4 bài thơ của nàng, nhưng với giọng điệu cay đắng, mỉa maị Ngoài ra Thâm Tâm còn 2 bài thơ khác viết cho T.T.Kh như sau: Màu Máu Ty-gn maumautigonẹ, Dang Dợ Ưây là những bài thơ tình hay nhất của Thâm Tâm gởi cho T.T.Kh xuất hiện trong năm 1940. Bài thơ "Dang dở" trên đã chấm dứt "mối tình bí mật" đọ Nhưng... Sau đó, người ta lại được "biết chút ít" về T.T.Kh. qua bài thơ Dòng Dư Lệ của Nguyễn Bính. Lúc bấy giờ ai chẳng nghî T.T.Kh chính là người tình vườn Thanh củ a Nguyễn Bính. Nhưng đó chỉ là sự ngộ nhận của một kẻ si thơ T.T.Kh mà thôi ?! Thi sî Nguyễn Bính lúc còn trẻ có máu giang hồ, vào Nam ra Bắc mấy lần. Một lần dong ruổi, gặp đêm mưa lớn, ông ghé vào trọ tại một nhà ở vùng Thanh Hóa, được người lão bộc tiếp đãị Nhà có khu vuờn đẹp, trong nhà có cô gái trẻ ngồi quay tơ - mà ông gọi là "Người Vườn Thanh" - đã khiến ông run động, thao thức bâng quơ, nhưng nghî mình còn nặng kiếp giang hồ nên chưa dám tính đến chuyện tình duyên. Rồi mấy năm sau, ông lại có dịp qua vùng Thanh Hóa, bèn tìm đến chốn củ, thì được người lão bộc năm xưa kể cho nghe "một thiên hận tình". Thời gian lại qua đi, ông gần như đã quên câu chuyện đó, thì đọc được những bài thơ của T.T.Kh xuất hiện trên báọ Ông thấy những bài thơ đó giống hệt thiên hận tình của "Người Vườn Thanh" năm nào, ông nghî rằng "Người Vườn Thanh" chính là T.T.Kh., và viết bài thơ "Dòng dư lệ" để tặng nàng. Mặc dầu xôn xao bàn tán và tranh dành lấy mình và lấy thơ của mình. T.T.KH đã biến mất. Cho đến mùa xuân năm 1938 ngày 30 tháng 10 thì trên tiểu thuyết thứ bảy laị xuất hiện T.T.KH với Bài Thơ Cuối Cùng. Ưó là ba bài thơ mà T.T.KH đã để laị trong lòng tất cả người yêu thơ của bạ Cho đến thập kỷ 80, vẫn có người nói ra (`ng bà còn sống và đã gặp bà, nhưng dù sao đó củng chỉ là một lời nói mà thôị - Vậy T.T.KH nàng là ai ??? - Và vì ai mà làm thơ ??? Cái nghi vấn đã kéo dài hơn 50 năm cho đến năm 1994. Bà ỰT.L (tạm dấu tên) đã tiết lộ cái mà thiên hạ cho là "Thiên cơ bât' khả tiết lộ" cho nhà văn Thế Nhật, và đó củng là cái chìa khóa để mở cái cửa nghi vấn cho làng văn hoc. Việt Nam.

            T.T.KH là gỉ T chữ thứ nhất là TRẦN
            T chữ thứ hai là THANH
            KH chữ thứ ba là KHÓC

            KHÓC ở đây là khóc cho mối tình có duyên không nợ , khóc cho cái éo le cuộc đờị Tạo hóa chớ trêu khiến cho họ gặp nhau rồi đem cho họ bao nhiêu là nước mắt ngậm ngùi khi xa nhaụ THANH là Thanh Tâm, là tác giả của bài "Hoa Ti-gôn" mà tôi đã nhắc ở trên. Ông hiện cư ngụ tại Hà nội, là người đã tạo cho T.T.KH những cảm xúc để viết lên những giận hờn, thương xót, và khóc thương. Người đã mang nặng chữ chung, thủy với chữ tình, đã gắn bó với thơ T.T.KH, với cái hồn của nàng suôt' hơn 50 năm trời đằng đẵng. Môt. người mà hôm nay thân đã tàn sức đã tận, nhưng tâm hồn vẫn lâng lâng cái trẻ trung, cái nhớ thương ray rứt về cố nhân. Một người có tâm hồn cao thương và sắt đá, trước những thử thách chơ trêu của tạo hóa, nhưng laị mềm mại, đắng cay trong từng ngòi bút ông buông lơị TRAN là Trần Thị Chung , ( Tên thường goị là Trần Thị Vân Chung ). Sinh ngày 25-8-1919 tại thị xã Thanh Hóa, Hà Nộị Sinh trưởng trong một gia đình quan lại thời bấy giờ, Vân Chung có một người anh cả, hai người em gái và một người em trai út. Na (m 1934, qua mối mai, gia đình nàng đã hứa gả nàng cho một luật sư (Lê Ngọc Chấn, ông đã chết sau khi mãn tù cải tạo hoc. tập).
            Hiện nay bà cùng các con sinh sống ở miền nam nước Pháp trong một thị xã nhỏ và bà vẫn tiếp tục làm thơ, viết văn với nhiều bút hiệu khác khau như Vân Nương, Tơ Sương v.v...
            Tôi xin gửi đến bà Vân Chung lời cảm kích vô cùng về những cống hiến của bà cho nền văn hoc. việt nam, cảm ơn nhà văn Thế Nhật, bà ỰT.L cùng những người yêu T.T.KH. Rốt cuộc cái nghi án văn hoc. nay đã được công bố.

            Như chúng ta đã biết, có rất nhiều lơì đồn đãi về TTKH ! Nhưng đến bây gờ, mọi giả thuyết vẫn còn trong huyền thoại ! Thơ của TTKH đã nhanh chóng phổ biến trong quần chúng.


            Vũ Thu


            Trên đây là bài của tác giả Vũ Thụ Nhưng có những nguồn tin khác mà Hồng Mai ghi nhận đuợc như sau :

            Cách đây khoảng tám năm, môt tờ báo ở SG nêu đích danh TTKH là một người đang ở bên Pháp, tên là Vân Chung, hiện nay đã ngoài 80 tuổi và vẫn sinh hoạt Thơ Văn.
            Ngay sau đó, bà Vân Chung đã đính chính cũng trên tờ báo đó (bài đính chính này đã được các báo ở qủn Cam đăng tải lại). Trong đó, bàxác nhận rằng mình không phải là TTKH, và bà chỉ có một mối tình duy nhất với người chồng mà nay đã ông đã qua đời ! Việc nêu tên bà Vân Chung là TTKH làm tổn thương thanh danh của Bà đối với gia đình bên chồng. Bà Vân Chung làm thơ rất hay, với bút danh là Vân Nương Nữ sĩ, chồng bà là Luật Sư Lê Ngọc Chấn, một viên chức ngoại giao cao cấp của VN Cộng Hòa tại Anh quốc.Ông qua đời sau khi mãn tùcải tạo.

            Hồng Mai rất yêu thích thơ TTKH và tôn trọng tâm sự của tác giả. Còn TTKH, Nàng Là Aỉ đến nay vẫn còn là một huyền thoại! Hy vọng sẽ có một ngày nào...



            Sưu Tầm
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #7
              Bài đọc thêm về nghi vấn TTKH

              Vào khoảng 6/1937, báo "Tiểu Thuyết Thứ Bảy" xuất bản tại Hà Nội đăng truyện ngắn "Hoa ti-gôn" của ký giả Thanh Châu . Theo đó câu chuyện kể lại một mối tình giữa một chàng nghệ sĩ và một thiếu nữ.

              Sau đó không lâu, toà soạn nhận được của một người thiếu phụ trạc 20, dáng bé nhỏ, thùy mi, nét mặt u buồn, mang đến một bì thơ dán kín gửi cho chủ bút, trong đó chỉ gọn một bài thơ "Hai sắc hoa ti-gôn", dưới ký tên T.T.Kh. Khi thiếu phụ đi rồi, tòa soạn xem thơ nhận thấy thi phẩm ghi lại cảnh tình đáng thương tâm, nhưng người ta chỉ nhớ lờ mờ hình ảnh thiếu phụ kiạ Đó là lần đầu và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.

              Câu chuyện "Hoa ti-gôn" đã khơi lại mối tình xưa mà người thiếu phụ (T.T.Kh.) đã từng yêu một người và từng trao lời gắn bó dưới dàn hoa ti-gôn. Rồi chàng ra đi; nàng ở lại và nhận một mối tình gượng ép. Nàng đã làm bài thơ để giải toả niềm tâm sự.

              Trong "Hai sắc hoa ti-gôn", tác giả thuật lại câu chuyện tình giữa nàng và chàng nghệ sĩ trót đã yêu nhau, song hoàn cảnh trái ngang, nàng phải gạt nước mắt nên duyên cùng người khác -- một ông chồng luống tuổi -- để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của một thời quá khứ.

              Sau bài thơ nầy, toà soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu cục 3 tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh. Đó là các bài "Bài thơ thứ nhất", "Bài thơ đan áo" (riêng đăng ở Phụ nữ thời đàm) và "Bài thơ cuối cùng".

              Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa và không hiểu tại sao bài "Hai sắc hoa ti-gôn" lại xuất hiện trước "Bài thơ thứ nhất".

              Từ lúc T.T. Kh. góp mặt vào làng thi ca tiền chiến, người tă đã tốn biết bao công phu đi tìm hiểu về T.T. Kh. Không ai biết được tên thật cũng như quê quán của nàng. Có người cho nàng là Trần Thi Khánh, một nữ sinh phố Sinh Từ, Hà nội Có kẻ cho cô là người yêu của ký giả Thanh Châu, hay đây chỉ là một nhân vật trong tưởng tượng của ông nhằm lâm ly hoá hay thi vi hoá một mối tình tưởng tượng. Rồi, các thi sĩ Thâm Tâm, Nguyễn Bính và J. Leiba cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình ! Kể từ đó, dù cho các nhà văn tốn không biết bao giấy mực nhưng họ vẫn không biết gì hơn về nàng.

              Về hoa ti-gôn (antigone in French) : loại hoa dây đẹp, không thơm, có hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu trắng và hồng; ở miền Nam VN gọi là hoa nho vì lá giống lá nho. Tác giả mượn ý màu trắng là màu trinh bạch, ngây thơ khi nàng còn nhỏ dại, và hồng là màu mà nàng phải trải qua những sự đau khổ trong tình trường khi con tim nàng tan vỡ...

              Hai sắc hoa ti-gôn.
              Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
              Nhặt cánh hoa rơi chă?ng thấy buồn,
              Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
              Tôi chờ người đến với yêu đương.
              Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
              Dải đường xa vút bóng chiều phong,
              Và phương trời thă?m mờ sương cát,
              Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.
              Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
              Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
              Bảo rằng : "Hoa, dáng như tim vỡ,
              Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !"
              Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
              Cánh hoa tan tác của sinh ly,
              Cho nên cười đáp :"Màu hoa trắng
              Là chút lòng trong chă?ng biến suy".
              Đâu biết lần đi một lỡ làng,
              Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
              Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm,
              Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
              Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
              Lòng tôi còn giá đến bao giờ ?
              Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
              Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
              Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
              Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
              Mà từng thu chêt, từng thu chết,
              Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
              Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
              Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
              Như hồng tựa trái tim tan vỡ.
              Và đỏ như màu máu thắm pha !
              Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
              Một mùa thu trước rất xa xôi..
              Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
              Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !
              Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
              Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
              Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
              Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
              Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
              Trời ơi ! Người ấy có buồn không ?
              Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
              Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ? (*)

              Tiểu thuyết thứ bảy, số 179, 30/10/1937

              (*) Để trả lời 4 câu nầy của T.T. Kh., nhà thơ Hồ Dzếnh có làm 4 câu thơ sau đây đăng trong Trung Bắc Tân Văn :

              Rồi một ngày mai em lấy chồng,
              Anh về lấy vợ thế là xong,
              Vợ anh không giống em là mấy,
              Anh lấy cho anh đỡ lạnh lùng.

              Bài thơ thứ nhất
              Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
              Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương...
              Nhưng mà nghệ sĩ từ đâu lại,
              Êm ái trao tôi một vết thương.
              Tai ác ngờ đâu gió lạ qua,
              Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
              Thổi tan tâm điệu du dương trước
              Và tiễn Người đi bến cát xa.
              Ở lại vườn Thanh có một mình,
              Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
              Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
              Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.
              Và một ngày kia tôi phải yêu
              Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
              Những cô áo đỏ sang nhà khác,
              - Gió hỡi ! làm sao lạnh rất nhiều ?
              Từ đấy không mong, không dám hẹn
              Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
              Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
              Người ấy ghi lòng :"Vẫn nhớ em !"
              Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
              Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
              Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
              Rỏ xuống thành thi khóc chút duyên ?
              Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
              Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ !
              Tóc úa giết dần đời thiếu phụ ...
              Thì ai trông ngóng, chả nên chờ !
              Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
              Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa :
              - "Cố quên đi nhé, câm mà nín
              Đừng thở than bằng những giọng thơ !"
              Tôi run sợ viết; lặng im nghe
              Tiếng lá thu khô siết mặt hè
              Như tiếng chân người len lén đến.
              - Song đời nào dám gặp ai về!
              Tuy thế, tôi tin vẫn có người
              Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi
              Biết đâu...tôi : một tâm hồn héo,
              Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi !

              Tiểu thuyết thứ bẩy, số 182, 20/11/1937

              Đan áo cho chồng
              "Chi ơi! Nếu chi đã yêu
              Đã từng lỡ hát ít nhiều đau thương,
              Đã xa hă?n quãng đường hương,
              Đã đem lòng gởi gió sương mit mùng.
              Biết chăng chi ? Mỗi mùa đông,
              Đáng thương những kẻ có chồng như em,
              Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
              Đan đi đan lại áo len cho chồng.
              Như con chim hót trong lồng,
              Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
              Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
              Than ôi! Gió đã sang bờ ly tan...
              Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
              Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
              Như con chim nhốt trong lồng,
              Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao !
              Ngoài trời mưa gió xôn xao,
              Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm ?
              Ai đem lễ giáo giam em?
              Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời..
              Lòng em khổ lắm chi ơi !
              Trong bao tủi cực với lời mỉa mai
              Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
              Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình!"

              Phụ nữ thời đàm

              Bài thơ cuối cùng
              Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ ?
              Một mùa thu cũ, một lòng đau...
              Ba năm ví biết anh còn nhớ,
              Em đã câm lời, có nói đâu !
              Đã lỡ, thôi rồi ! chuyện biệt ly,
              Càng khơi càng thấy lụy từng khi
              Trách ai mang cánh "ti-gôn" ấy,
              Mà viết tình em, được ích gì ?
              Chỉ có ba người đã đọc riêng,
              Bài thơ "đan áo" của chồng em.
              Bài thơ "đan áo" nay rao bán,
              Cho khắp người đời thóc mách xem...
              Là giết đời nhau đấy, biết không ?
              ...Dưới dàn hoa máu tiếng mưa rung,
              Giận anh, em viết dòng dư lệ,
              Là chút dư hương : điệu cuối cùng !
              Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
              Còn để yên tôi với một mình,
              Những cánh hoa lòng, hừ ! đã ghét,
              Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
              Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
              Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi..
              Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp,
              Đi nhớ người không muốn nhớ lời !
              Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
              Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
              Nếu không yên được thì tôi..chết
              Đêm hỡi ! làm sao tối thế nầy ?
              Năm lại năm qua cứ muốn yên
              Mà phương ngoài gió chă?ng làm quên;
              Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
              Lại chính là anh ? anh của em !
              Tôi biết làm sao được hỡi trời ?
              Giận anh, không nỡ ! Nhớ không thôi !
              Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt...
              Sợ quá đi, anh..."có một người" !...

              Tiểu thuyết thứ bảy, số 217, 23/7/1938

              Quanh Chuyện Tình Buồn "Hai Sắc Hoa Ti-Gôn"
              T.T.KH VÀ "NGƯỜI ẤY LÀ AỈ"
              *** Theo Saigon-Nay ***

              LTS: Mới đây ở trong nước, nhà xuất bản Văn Hoá, Thông Tin tung ra cuốn sách của Thế Nhật về "T.T.Kh. - Nàng là ai?" đã minh danh nhân vật này chính là bà Trần Thi Vân Chung tức bà luật sư Lê Ngọc Chấn, tức nhà thơ nữ Vân Nương. Từ Pháp, bà luật sư Chấn đã cực lực lên tiếng phủ nhận việc trên.

              Để độc giả được rõ nội vụ từ nhiều phía, Ngày Nay xin đăng dưới đây hai bài báo ở trong nước, trên tờ Saigon-Nay (10/1994) và Văn Nghệ (26/10/1994) đề cập tới vấn đề trên.

              ***

              Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
              Thở dài trong lúc thấy tôi vui
              Bảo rằng: Hoa dáng như tim vỡ
              Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!

              (...)

              Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
              Trời ơi! Người ấy có buồn không?

              (Hai Sắc Hoa Ti-Gôn - T.T.Kh - 1937)

              T.T.Kh. (Trần Thi Khánh) yêu "người ấy" (nhà thơ Thâm Tâm) trước khi lấy chồng và chính bút danh T.T.Kh. ngầm ý ghép tên hai người làm một (T.T.Kh.: Thâm Tâm Khánh)?

              Cách đây 20 năm, nhà văn Thế Phong tạm tin giả thuyết trên (Lược sử văn nghệ VN - Nxb Vàng Son - Saigon 1974). Nhưng mới đây, chính Thế Phong trong cuốn "T.T.Kh. - Nàng là ai?", soạn chung với nhà thơ Trần Nhật Thu, ký tắt Thế Nhật (Nxb Văn Hoá Thông Tin, 9/94) bác bỏ giả thiết đó và khẳng định:

              T.T.Kh. tên thật là Trần Thi Chung (Vân Chung), sinh ngày 25/8/1919 tại Thanh Hoá. Năm 15 tuổi (1934), T.T.Kh. vâng lời gia đình lấy luật sư Lê Ngọc Chấn (tri huyện). Trước khi về nhà chồng, T.T.Kh. tiễn người yêu là Thanh Chân rời Thanh Hoá ra Hà Nội "đâu biết lần đi một lỡ làng, dưới trời đau khổ chết yêu đương ..."

              Ba năm sau ngày T.T.Kh. lấy chồng, Thanh Châu viết truyện "Hoa Ti-Gôn" đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy (7/1937). Truyện chan chứa nỗi buồn vì thơ người yêu gởi: "... anh hãy đi một mình và quên em đi ..." Người đọc thư âm thầm đặt một cái hôn trên hoa và khóc.

              Đọc truyện trên, T.T.Kh. thổn thức viết "Hai Sắc Hoa Ti-Gôn" rằng "vẫn giấu trong tim bóng một người ..." gởi đăng trong Tiểu Thuyết Thứ Bảy (9/1937). Hai tháng sau, T.T.Kh. gởi tiếp bài "Bài Thơ Thứ Nhất," cũng đăng trong Tiểu Thuyết Thứ Bảy, cũng giọng ngậm ngùi "ở lại vườn Thanh có một mình ..."

              Sau này nhà thơ Nguyễn Bính viết bài "Cô Gái Vườn Thanh" để tặng T.T.Kh. và mơ mơ màng màng hỏi "Phải chăng mình có nên ngờ, rằng người năm ấy bây giờ là đâỷ" Còn nhà thơ Thâm Tâm gọi thẳng: "K. hỡi! Người yêu của tôi ơi (...) Thôi em hãy giữ màu hoa úạ Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời.."

              Riêng T.T.Kh. vẫn im lặng. Chẳng ai biết tên thật, địa chỉ và tình buồn của tác giả "Hai sắc hoa Ti-Gôn" ra sao. Chỉ biết trong bài thơ "Bài thơ cuối cùng" (T.T.T.Bảy 10/1938), T.T.Kh. đã "trách ai mang cánh hoa ti-gôn ấy - mà viết tình em được ích gì? Và là giết đời nhau đấy biết không?"

              Ai "giết đời nhau"? Có phải nhà văn Thanh Châu

              Câu hỏi tạm gác đó. Sau 9 năm tham gia kháng chiến chống Pháp, ông Thanh Châu về lại Hà Nội và bà T.T.Kh. theo chồng di cư vào Nam (1954).

              Ở Saigon, bà T.T.Kh. sinh hoạt trong nhóm Quỳnh Dao, dùng các bút danh Vân Nương, Lê Đông Phương, Tam Nương viết trên nhiều báọ Sau 1975, chồng bà đi học tập cải tạo, bà ở nhà buôn bán nuôi con, trú nhờ nhà nữ sĩ Mộng Tuyết (vợ nhà thơ Đông Hồ).

              Năm 1975, nhà văn Thanh Châu từ Hà Nội vào Sài Gòn, lặn lội tìm gặp "người con gái vườn Thanh" của 42 năm về trước. Nước mắt hai người đã chảy, ấm của một ngày thu của cuộc đời ...

              Khi chồng bà T.T.Kh. trở về và mất tại VN, bà đem các con ra nước ngoài và hiện sống tại Dordogne (Pháp). Bà vẫn viết trên nhiều báo xuất bản tại Pháp, Mỹ, Canada ... và dĩ nhiên, không ký bút danh T.T.Kh., vì bà giành riêng tên ấy cho một người.. Theo Thế Nhật, T.T.Kh. chẳng phải là Trần Thi Khánh, Tôn Thi Khuê hoặc Thái Thi Khương nào cả, mà:

              - T. chữ thứ nhất là Trần (Trần thi Vân Chung, tên thật bà T.T.Kh.)

              - T. chữ thứ hai là Thanh (Thanh Châu, tên người yêu của bà T.T.Kh.)

              - Kh. chữ sau cùng, viết tắt của chữ khóc.

              Nghĩa: T.T.Kh. và người yêu (Thanh Châu), cả hai khóc "giấc mộng những ngày hoa" như lời thơ bà viết năm 18 tuổi.

              Có thể đọc rõ hơn những điều trên qua cuốn "T.T.Kh. - Nàng là ai?" của Thế Nhật. Nếu cái "nghi án văn học" kia quả đã được kết thúc ở đây vẫn còn một điều cần bàn với tác giả. Đó là:

              Dẫu nhà văn Thanh Châu (hiện ở Hà Nội) là người yêu của T.T.Kh. thuở nào cũng đừng nên vì thế nghĩ rằng nhà thơ Nguyễn Bính, hoặc nhà thơ Thâm Tâm, hoặc ai đó nữa, từng "dựng đứng" việc T.T.Kh. là người yêu của mình" nhằm "giây máu ăn phần" như chữ Thế Nhật nhắc đến trong "T.T.Kh. -

              Nàng là ai?" Cách nhắc vậy chưa "thơ" lắm. Như câu: "Ông (Thanh Châu) bác bỏ giả thiết những văn sĩ "ăn bám" vào giai thoại văn chương T.T.Kh. ..." (S.Đ.D) tr. 12), hoặc "Thanh Châu cực lực bác bỏ huyền thoại Thâm Tâm - Nguyễn Bính ... những văn thi sĩ "giây máu ăn phần với T.T.Kh."..." (S.Đ.D tr.46)

              Tôi nghĩ vốn im lặng cao thượng (Chữ Thế Nhật dùng) hơn 50 năm qua như nhà văn Thanh Châu hẳn không phải là người muốn nhắc mấy chữ "ăn bám, giây máu..." chẳng hay ho gì ấy . Huống hồ, tên tuổi và tài hoa của các nhà thơ như Nguyễn Bính, chẳng còn "dám ước một điều gì hơn, có chăng yêu chỉ để mà yêu ..." Xin hãy xem đó là "mối tình thơ" một thời lãng mạn, là những giấc mộng đầy lá thư trên đường đời nghệ sĩ ... 10/1994 Saigon-Nay



              Sưu Tầm
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment

              Working...
              X