Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Cái Cười Của Thánh Nhân - Nguyễn Duy Cần

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Cái Cười Của Thánh Nhân - Nguyễn Duy Cần

    Cái Cười Của Thánh Nhân
    Nguyễn Duy Cần


    [IMG][/IMG]
    Trào Lộng U Mặc Là Gì?

    Một nhà văn tây phương có viết:

    "Tình yêu là một vị thần bất tử,
    U mặc là một lợi khí,
    Cười là một sự bổ ích.
    Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười đùa quả là một
    sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của
    những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều
    khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám
    nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng
    cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ
    khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay!
    Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống
    theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào.

    Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu
    nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao
    nhiêu tội ác!"

    Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện".

    U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã
    hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges
    Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại
    tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà
    người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa,
    thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông
    Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời.

    Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã
    thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên
    Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời
    hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên:
    Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế...

    Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi!
    Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc.
    Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một
    thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và
    văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa.

    Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng
    biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang
    Châu...





    (Sưu tầm trên net)
    Last edited by GreenHN; 20-06-2010, 06:54 PM.

  • #2
    Cái cười của Thánh Nhân - Nguyễn Duy Cần (tt)

    [IMG][/IMG]

    Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận
    thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ,
    nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và
    phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm
    yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm
    chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm
    đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái
    siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa
    "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân
    mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách,
    xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp...

    Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân
    đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương
    tiện.

    Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng
    nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử:
    "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở
    thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất
    hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà
    được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy!

    Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không
    sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian,
    ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường
    biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và
    chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc
    hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật
    nào có thể đứng vững.

    Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một
    ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà
    không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương
    nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của
    Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con
    đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên
    nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn
    nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều
    luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ
    và giả dối.
    Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn
    điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc.
    Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh
    tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những
    khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa
    đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của
    u mặc.
    Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà
    thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi
    khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng
    nào!
    Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa
    mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết:
    "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự
    khinh đời mà độ lượng khoan hòa"

    [IMG][/IMG]
    U mặc là ngọn thanh phong trong những buổi trưa hè oi ả... của cuộc đời!
    Khổng Tử đi hỏi lễ Lão Tử. Lão Tử nói: "Lời nói của ông là lời nói của những
    kẻ nay đã xương tàn cốt rụi. Vả, người quân tử đắc thời thì đi xe, không đắc thời
    thì tay vịn nón lá mà đi chân. Ta nghe rằng kẻ buôn giỏi khéo giữ của quý như
    không có gì, người quân tử đức thạnh, dung mạo như người ngụ Họ khác với cái
    kiêu khí và đa dục của ông. Thái sắc ấy và dâm chí ấy không ích lợi gì cho ông
    cả! Ta sở dĩ báo cho ông biết có bấy nhiêu thôi".
    Đoạn văn trên đây của Tư Mã Thiên nói về Lão Tử và Khổng Tử, có cái ý vị
    trào lộng mà chua cay của người thời chiến quốc đối với hạng người thích làm
    thầy đời, chưa thể là văn u mặc thượng thừa. Phái siêu thoát, nếu lại nhập vào
    dòng yếm thế và phẫn thế, sẽ mất lần đi cái tinh thần chân chính của u mặc. Căn
    cứ vào tiêu chuẩn này, ta có thể nhận thấy rằng sách của Trang Tử gồm cả thảy
    ba mươi ba thiên, nhưng chỉ có nội thiên là toàn bích, phản ảnh đúng tinh thần u
    mặc thượng thừa của Trang Châu mà thôi. Các thiên chương khác, cũng có một
    số mà giọng trào lộng không kém Trang Châu, nhưng lại có giọng chua cay
    phẫn the (có thể do các tay Trang học, đạo theo lối văn u mặc của Trang), nên
    kém xa thần thái siêu thoát của Trang, như ở Thiên đạo chích chẳng hạn.
    Khổng Tử lắm lúc cũng tỏ ra tinh thần u mặc: Sau một thời gian bôn ba thuyết
    khách, cốt đem đạo học truyền bá cho hàng đế vương mà không thấy ai biết
    dùng đạo mình, bèn than: "Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai!". Rồi khi bị dồn
    vào thế kẹt, lại trào lộng tự bảo "tri kỳ bất khả nhi vi chi!!"
    Bởi vậy, điều mà ta thích ở Khổng Tử, đâu phải lúc ông thiếu thời, sớm được
    thành công, đầy hăng say và tiểu khí ra tay giết Thiếu Chính Mão, mà chính ở
    vào lúc liên miên thất bại nhưng không mất vẻ trào lộng, thời mà ông không
    muốn chỉ "làm trái bầu treo lủng lẳng mà không ăn được!!". Vậy mà bọn hủ nho
    chỉ biết thích thú vỗ tay hoan nghênh cái ông Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão,
    mà không biết thích cái ông Khổng Tử, vời cái cười trào lộng, khen cái chí của
    Tăng Điểm " Tắm sông Nghi, hứng gió ở nền Vũ Vu, trên đường về, cùng nhau
    nắm tay ca hát!" Nghĩa là họ chỉ biết thích cái ông Khổng bên ngoài của ông
    Khổng, mà không biết thích cái ông Lão ở bên trong của ông Khổng, cái ông
    Khổng "tòng ngô sở hiếu"!
    Về sau Mạnh Tử cũng còn giữ được cái tính chất khôi hài khi ông " vượt bức tường đông để ôm chầm người con gái", điều mà bọn sĩ phu về sau không bao giờ dám hở môi.
    Đến sau này, bọn hủ nho lại càng ngày lại càng kém, không đủ để bàn đến.
    Ngay như Hàn Phi Tử, tuy có tính cách trào lộng, nhưng lại thiếu sự nhẹ nhàng
    tự nhiên, nên cũng không sao theo kịp u mặc. Đến như bọn Đông Phương Sóc,
    Mai Cao đều chỉ là hạng người hoạt kê trào phúng, chưa có đủ bản sắc u mặc
    thượng thừa.
    Mãi đến Vương Bật, Hà Án với tinh thần phóng khoáng của lão Trang, lại thêm có nhóm Trúc Lâm thất hiền tiếp tục khởi xướng, nên mới mở ra được cái phong thái thanh đàm, quét sạch được cái khí vị nặng nề móc meo của hủ nho thời ấy.
    Trong cái không khí tự do đó, tư tưởng đời Chu Tần được cơ hội khai phóng,
    biến thành một phong trào hoạt đàm tự thích, như cây cỏ được cái nắng mùa hạ
    mà xum xuê, để rồi tiến sâu vào cảnh vật mùa thụ Kết quả là cuối đời Tấn, một
    nhà thơ trào lộng u mặc thành thục Đào Tiềm xuất hiện. Theo nhà văn họ Lâm,
    thì "cái vẻ đạm bạc tự thích của Đào Tiềm không giống cái vẻ cuồng phóng của
    Trang Châu, cũng không có cái bi phẫn của Khuất Nguyên"
    So sánh bài " Quy Khứ Lai Từ" của Đào Tiềm với các bài "Bốc cư", "Ngư phụ"
    của Khuất Nguyên, tuy điều là những bài văn cao quý như hoa thơm cỏ lạ,
    nhưng văn họ Đào không có cái hồn âm kịch liệt và ai phẫn của Khuất Nguyên.
    Họ Đào, như họ Trang, đều chủ trương về với tự nhiên, nhưng đối với thế tục,
    Đào không có cái bén nhọn như Trang. Đào không chịu " khom lưng, quỳ lụy vì
    năm đấu gạo" mà thương xót cho mình quá ngu dại vì miếng ăn đem đổi nhân
    phẩm của mình, còn Trang sinh thì lại cười vang cho bọn bon chen theo danh lợi
    không hơn gì bò lợn được dưỡng nuôi để mà xẻ thịt!
    Nói thế, đâu phải chê Trang mà khen Đào, là vì, sự thật, có nhiều thứ u mặc: U
    mặc trong thi ca tự thích thì Đào là thủy tổ, mà u mặc trong văn nghị luận thì
    Trang là tối cao. Bản chất của thi ca là nhẹ nhàng thanh nhã, cho nên Đào rất ôn
    hòa là cái lẽ nó phải vậy. Họ Lâm cho rằng Trang Tử là thứ u mặc thuộc dương
    tính, còn Đào Tiềm là thứ u mặc thuộc âm tính: Khí chất khác nhau mà thôi.
    Người Trung Hoa chưa nhận thức rõ ràng ý nghĩa sâu xa và vai trò quan trọng của u mặc nên cho rằng u mặc cũng đồng nghĩa với hoạt kê trào phúng, khiến nên u mặc bị kẹt trong một phạm vi hoạt động co hẹp.
    Sau Trang Tử, văn chương u mặc có tính khí ngang tàng không thấy tiếp tục
    xuất hiện nữa. Là vì những tư tưởng phóng dật ấy bị thế lực đạo thống của Nho
    gia và quyền uy của vua chúa áp đảo. Trong khoảng hai ngàn năm người viết
    văn nghị luận đều phải theo đòi thánh hiền còn kẻ sĩ cầm bút cũng chỉ múa may
    trong vòng Khổng Miếu. Nếu có thứ văn nghị luận nào mới mẻ, kiến giải có hơi
    siêu phàm thoát tục liền bị coi là phản lại đạo đức, biện ngôn hay ngụy thuyết.
    Thậm chí bọn đại sĩ phu còn quy cho Hà Án, Vương Bật về tội xúi giục thối lan
    tràn của Kiệt Trụ, làm cho nhân nghĩ bị chìm đắm, nho phong mờ mệt, lễ nhạc
    băng hoại. Sở dĩ nước Trung Hoa điên đảo, họ cũng đều quy tội cho u mặc gây
    ra. Vương Lạc thanh đàm, vậy mà bọn hủ nho cho đó là triệu chứng diệt vong
    của nước tấn. Sự thanh đàm còn chẳng được chấp nhận, thì còn ai dám chủ
    trương nói đến chuyện " tuyệt thánh, khí chí", " tuyệt nhân, khí nghĩa!"
    Các hủ nho có thể đem vứt bỏ văn học u mặc ra ngoài văn chương lăng miếu,
    mộ bia, nhưng không thể vứt nó ra khỏi cuộc sống của con người, vì u mặc là
    phần đặc biệt và quan trọng nhất của đời người. Dù là trong sinh hoạt của các
    nhà đại nho, dù học là những người sáng tạo ra văn học cần nguyện trang
    nghiêm đạo mạo bậc nào, trong những khi cùng bạn hữu đàm đạo, há chẳng có
    những lúc cười đùa châm chọc nhau sao? Chính những phút ấy là những giấy
    phút thần tiên, tâm hồn cởi mở và sống thật. Chỗ khác biệt giữa văn học cẩn
    nguyện và văn học u mặc là văn cẩn nguyện thiếu cái "ướt át" của u mặc mà
    thôi.
    Trong nền văn học Việt Nam, mà thiếu văn chương lãng mạn u mặc của ca trù,
    thử hỏi còn có cái gì là tự do sinh khí nữa! Vậy mà bọn đạo đức giả nước ta
    không ngớt lên án là thứ văn chương du hí và vong quốc! Người ta đã kém
    thành thật đối với mình.




    (Sưu tầm trên net)
    Last edited by GreenHN; 20-06-2010, 06:57 PM.

    Comment

    Working...
    X