Từ trước tới nay chúng ta chỉ nghe nói đến các lọai ca dao: Theo đặc tính địa phương thì có ca dao nam bộ, ca dao miền trung…Hoặc theo cách kết cấu thì có ca dao ở thể trào phúng, nói lái…Hay là theo nội dung thì có ca dao tranh đấu, ca dao ru em…Nhưng thật ra, đi sâu vào tư tưởng và tâm tình của dân tộc Việt qua Ca Dao, ta còn có thể phân biệt một dòng ca dao khác nữa. Ca Dao An Vi là những vần ca dao chắt lọc từ kho tàng ca dao dân tộc. Nhưng tích cực hơn nó có Tính An Vi cuả con người Việt. Có nghĩa là Ca Dao An Vi là những vần thơ từ dòng tâm thức tự nhiên, an lành, đơn sơ , chuyên chở ý nghĩa về Tâm Đạo của Dân Tộc Việt.
Đề cập đến Tâm Đạo, có lẽ chúng ta dễ nghĩ đến những điều cao siêu xa rời đời sống. Thưa không, Tâm Đạo ở đây chỉ là con đường trở về cái Tâm Thức ban sơ của con người. Nó trong lành như tâm thức vô phân biệt của Trẻ Thơ. Cái Tâm Thức sáng suốt thiện lành đẹp đẽ, cái Tâm chan hòa khắp vũ trụ nhân linh. Cái Đạo Tâm bao la ấy biểu lộ cụ thể thành xúc cảm, Tình Yêu của con người với vạn vật , thiên nhiên, và giữa người và người với nhau, không phân biệt mầu da, tôn giáo, tài sản….Tình Yêu ấy như vượt qua cả cá nhân nhỏ bé, chật hẹp, cảm thức vươn lên cõi mênh mang của niềm hòa hợp thông giao cái ta nhỏ bé này với cội nguồn nào bao la hơn. Triết Việt gọi niềm rung cảm hòa đồng ấy là Thái Hòa. Hòa Trời- Hòa Đất- Hòa Người. Ca Dao An Vi là cách biểu tỏ niềm rung cảm tự nhiên ấy trong bản thể con người bằng những vần thơ lục bát dịu dàng nuôi dưỡng cái tình yêu trời yêu đất yêu người hòa ái đơn sơ. Nên có thể nói Ca Dao An Vi chính là nhịp đập cuảTrái Tim Dân Tộc.
Lao tác là một đặc tính sáng tạo của trí óc con người. Của trình độ mà khi con người đã bắt đầu ý thức Nhân Chủ của mình, tách ra khỏi đời sống du mục săn bắt, hái trái hoang dã, biết chế biến dụng cụ, chăn nuôi, trồng trọt hoa mầu, làm nhà, dệt vải… Do đó, trong nền văn hóa nông nghiệp của Tổ Tiên Việt Tộc, Ca Dao An Vi, cũng bắt đầu với những nhịp đập yêu mến của cảnh lao tác của nhà nông.
Cỏ luá đã dọn sạch rồi
Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai
Cao thì đong một gầu dai
Ruộng thấp thì phải đong hai gầu sòng
Chờ cho luá có đòng đòng
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người
Bao giờ cho đến tháng mười
Ta đem liềm hái ra ngòai ruộng ta
Gặt hái ta đem về nhà
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Ca Dao An Vi còn nói lên cảnh sống tổng quát của một năm trong một gia đình điển hình ở làng quê:
Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cầy vỡ ruộng ra
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng
Ai ai cùng vợ cùng chồng
Chồng cầy vợ cấy trong lòng vui thay
Tháng năm gặt hái đã xong
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy
Năm nong đầy em xay em giã
Trấu ủ phân cám bã nuôi heo
Sang năm lúa tốt tiền nhiều
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng
Đói no có thiếp có chàng
Còn hơn chung đỉnh giầu sang một mình.
Ca Dao An Vi cũng nhắc ta cội nguồn Lạc Việt:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ về giỗ Tổ mùng Muời tháng Ba.
Và Ca Dao nói lên tính chất Nhân Chủ Thờ Người của Văn Hóa Việt, nơi di tích lịch sử ở Vĩnh Phú, Phú Thọ, dân ta đã lập đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương:
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười.
Ca Dao An Vi còn nói lên tình tự quê hương với lịch sử và đất nước như các vần ca dao về câu chuyện lịch sử:
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.
Hay là:
Ai về Hậu Lộc Phú Điền
Nhớ đây bà Triệu trận tiền xung phong.
Người Việt ngòai đời sống nông nghiệp ổn định có những khi phải đối phó với giặc ngọai xâm để giữ gìn mảnh đất, bờ ruộng, đời sống an vui hòa lạc của văn hóa quê mình. Tâm thưc Nhân Chủ lại biến thể thành tình yêu đất nước, đồng bào. Và còn đẹp hơn nữa, Tình Yêu ấy , vì mang sắc mầu Nhân Chủ, đạo lý của quê hương, nên tuyệt nhiên Làm vì Tình Yêu, vì Đại Nghĩa. Đó là tâm thức vô cầu của cậu bé làng Phù Đổng. Dẹp giặc cứu nước xong rồi, không màng đến công danh hư ảo của trần gian, bay về trời hưởng chân hạnh phúc trong đỉnh an lành:
Nhớ xưa đương thủơ triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nổi ra kỳ tài
Lên ba đang tuổi anh hài
Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lửa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời.
Rồi Làng Quê Việt lại trở về trong cảnh hữu tình thấm trong từng mạch đất hương quê, cho lòng an nhiên thanh thóat:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Vào ngày lễ hội, những sinh họat cũng có sắc mầu riêng của nền văn hóa chân chất cuả làng quê khi từng bè nam nữ cùng hát vui, hát đố nhau. Con người vưà hát, nói, ăn, chơi bên những vần điệu và ý thơ chở đầy tình tứ:
Ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chẩy xuôi một dòng
Sông nào bên đục bên trong
Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh
Đền nào thiêng nhất tỉnh Thanh
Ở đâu mà lại có thành tiên xây
Ở đâu là chín tầng mây
Ở đâu lắm nước ở đâu nhiều vàng
Chùa nào mà lại ở hang
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?
…….
Rồi bên nữ phải trả lời cho được các câu hỏi. Ta hãy nghe nàng đáp lại:
Thành Hà nội năm cửa chàng ơi
Sông Lục đầu sáu khúc nước chẩy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây
Trên trời có chín tầng mây
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng
Chuà Hương tích mà lại ở hang,
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không?
….
Nhưng nổi bật nhất của Ca Dao An Vi vẫn mãi là những vần thơ trữ tình của trai gái làng quê trong cảm mến, yêu thương:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Ao anh sứt chỉ đuờng tà
Vợ anh chưa có Mẹ già chưa khâu
Ao anh sứt chỉ đã lâu
Hay mượn cô ấy về khâu áo này
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo
Gíup em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Đình Làng Quê Việt còn là một trung tâm văn hóa của người Việt: Ngòai việc là nơi lo công việc hành chính, không những là cơ duyên cho chàng trai ngỏ lời của tình yêu âm thầm trong trái tim, mà còn là nơi sinh họat bao hội hè lễ tết, cho nên Đình còn là nơi chốn của bao kỷ niệm.
Ôi ! Đình làng Quê Việt với bao hình ảnh gợi nhớ gợi thương!
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Sau ngày vui hội làng chàng trai đã nghe thỏang mùi hương hoa chanh hoa bưởi với một nụ cười của riêng ai trên bước đường về:
Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan đổi lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen
Răng đen ai khéo nhuộm cho mình
Để duyên mình đẹp cho tình anh mê.
Nụ cười mà hàm răng đen nhánh đến nỗi “hạt huyền kém thua” như một vần thơ ví von nào thì quả là cái đẹp của Cô Gái Việt thật rồi. Vì chỉ có cô gái Việt mới nhuộm răng đen để làm duyên làm đẹp và để ăn trầu. Nhưng chàng trai đâu chỉ muốn nói có bấy nhiêu. Chàng còn phải cần nói một câu quan trọng hơn:
Đường xa thì thật là xa
Mượn người làm mối cho ta một người
Một người mười tám đôi mươi
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
Rồi nhiều khi nàng con e lệ chưa biết trả lời sao, thì chàng lại sẵn hồn thơ lai láng, dệt những vần thơ mơ ước:
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì anh cưới được nàng
Thì anh mua gạch bát tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân…
Không biết rằng chàng trai lãng mạn có xây được hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân không, nhưng ước mơ Tình đẹp quá!
Rồi cưới được nàng rồi, mộng mơ chuyển sang tình nghĩa. Nghĩa là Tình Thăng Hoa. Trong Nghĩa mới có Tình thương chân thật và bền vững:
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Hình ảnh người vợ mới cưới phải quên thân yếu đuối, sớm khuya trồng dâu, nuôi tằm, se tơ, dệt lụa, lo canh cửi giúp chồng ăn học đã là bức tranh đẹp nhất của tình nghĩa vợ chồng thời xưa:
Sáng trăng sáng cả vườn chè
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau
Vì chồng tôi phải chạy dâu
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay
Chồng tôi thi đỗ khoa này
Bõ công canh cửi từ ngày lấy tôi
Kẻo không thì chúng bạn cười
Rằng tôi nhan sắc cho người say mê
Tôi thường khuyên sớm khuyên trưa
Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng.
Tình đẹp quá, Nghĩa lại còn đẹp hơn. Ca Dao An Vi đã nuôi dưỡng một chữ Tình chở Nghĩa vợ chồng đến tận thiên thu.
Nhưng, có hạt lúa mới thành cây lúa. Có nhân mới có quả. Cuộc sống trồng cấy canh tác đã phát triển cái Tâm Bao La của Đạo Việt. Tình thương ấy phải có nguồn có gốc. Ca Dao An Vi do đó cũng đặt nền tảng cho một nền văn hóa tô bồi cho một Đại Tình thuở ấu thơ, đó là lòng Hiếu Đạo. Người con được cha mẹ thương yêu lo lắng, hy sinh cho từ lúc lọt lòng. Nhưng tình thương cha mẹ trong đời sống bị nhạt nhòa theo năm tháng với những đuổi bắt công danh, sự nghiệp, và ràng buộc của mối tình nam nữ, vợ chồng, con cái. Hiếu là một thứ tình của văn hóa. Nếu không có văn hóa người ta dễ quên đi chữ hiếu. Hiếu không nằm trong bản năng của lòai sinh vật. Hiếu phải được ý thức, trau giồi, phải có ý chí của con người tham dự. Hiếu là một biểu tỏ cao cấp của Văn Hóa Nhân Chủ. Cho nên nhìn đạo Hiếu của một sắc dân, ta có thể đánh giá trình độ Nhân Chủ của sắc dân đó.
Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ buồng sau kính thầy
Ai về tôi gửi đôi giầy
Phòng khi mưa nắng cho thầy mẹ đi.
Vần thơ từ thuở thơ ấu dậy về Đạo Hiếu, người Việt nào cũng thuộc nằm lòng:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Với tâm thức Nhân Chủ, nên coi việc tôn kính, phụng dưỡng cha mẹ như là một cái Đạo, là sự tu hành chân thật, chính đáng nhất trong đạo làm người:
Tu đâu không bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Trong tình ruột thịt Ca Dao An Vi cũng chất phác ví von:
Cắt dây bầu dây bí
Ai cắt dây chị, dây em.
Hay như đàn gà ríu rít:
Khôn ngoan đối đáp người ngòai
Gà cùng một mẹ chớ hòai đá nhau.
Ngòai khía cạnh biểu lộ tình cảm, Ca Dao An Vi còn nói lên cái quan niệm đạo đức tu sửa con người. Đời sống nông nghiệp nên cách ví von cũng chân chất bên hột đỗ, trái bí, dây bầu:
Ai ơi thương lấy nhau cùng
Đỗ ngâm ra giá đãi đùng nhau chi.
Hay là:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Giàn hoa nhân lọai! Đẹp biết bao nhiêu, Ca Dao An Vi còn chăm sóc cụ thể hơn:
Kẻ ăn người ở trong nhà
Sớm khuya công việc giúp ta nhọc nhằn
Thương người đầy đọa chút thân
Chớ nên ngược đãi lòng nhân mới là.
Phát triển cái tình nhân lọai đầm ấm, thương xót nương nhẹ người yếu kém hơn như thế trong Ca Dao An Vi, làm sao xã hội Việt có những cảnh dã man như nô lệ, vô sản lầm than, bất nhân như bên Tây Âu được.
Cái Tình bao la, cao cả, trải khắp nơi không phân biệt con người qua của cải, giai cấp, chủng tộc …đã thể hiện qua hai câu thơ:
Kinh đô cũng có người rồ
Man di cũng có sính đồ trạng nguyên.
Tuy nhiên, Quân Bình là đạo lý của Việt Tộc. Cho nên, Ca Dao An Vi ngòai việc tô bồi Tình Nghĩa Con Người, nhưng cũng khuyên con người phải dùng Trí Tuệ của mình đề nhận thức mọi vấn đề của đời sống sao cho đạt được sự sâu xa tòan diện :
Làm người phải có trí khôn
Nghĩ sao cho hết đất VUÔNG trời TRÒN.
Đạo Lý Vuông Tròn của Dân Tộc Việt là Đạo Làm Người, là Nhân Đạo Hai Chiều Nối Kết, Ràng Buộc giữa Thiên Địa, không duy thiên lơ lửng huyễn hoặc trên trời hay duy địa là sà mặt đất. Hình ảnh một hình Tròn bao bọc lấy hình Vuông một cách cân đối như cặp bánh chưng bánh dầy, là một biểu tượng của sự giác ngộ mối Tương Quan, Hòa Hợp ấy của tất cả các cặp mâu thuẫn nền tảng trong vũ trụ, con người, vạn vật: lý trí và tình cảm, vật thể và tâm linh, tiểu ngã và đại ngã, tương đối và tuyệt đối, hữu hình và siêu hình, không gian và thời gian, đời và đạo…
Do đó Đạo Lý Việt nhìn đời sống trong cái nhìn tòan thể, bao dung , tương đối:
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Sao trăng lại phải chịu lòn đám mây
Đèn khoe đèn to hơn trăng
Đèn ra trước gió được chăng hỡi đèn?
Dòng Ca Dao An Vi còn là một dòng suối Nhân Bản tinh tuyền. Đường đời xa xôi, gian nan, lòng người đâu phải lúc nào cũng trinh bền với Tâm Đạo, cũng có lúc lao lung, lầm lối, lạc đường. Thì Ca Dao An Vi nhắc nhở:
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Hay:
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Cùng giúp nhau giữ Nhân Đạo, những vần Ca Dao An Vi còn giúp nhau đức khiêm nhường:
Ai nhất thì tôi thứ nhì
Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba.
Hay cái Hạnh của đức tương dung, giải quyết mọi mâu thuẫn, khác biệt trong hiểu biết, hòa hợp. Kỵ nhất là cái tính cực đoan, hủy diệt đối lập.
Bên thẳng thì bên phải chùng
Hai bên cùng thẳng thì cùng đứt dây.
Đức Tương Dung còn sáng tỏ hơn trong cách đối nhân xử thế :
Đừng khôn ngoan chớ vụng về
Đừng cho ai lấn chớ hề lấn ai.
Một nền Văn Hóa có những vần ca dao của tình yêu thương mà thực tế, cụ thể, ơn ích cho sự hòa ái với nhau, thảo nào Văn Hóa Việt chẳng tạo ra những mẫu người HIỀN LÀNH.. Cái hiền hậu và an lành của triết nhân, thi nhân, hiền nhân xứ Việt. Cái hiền hậu, an lành của tâm thức sáng suốt, sống theo quy luật Thái Hòa muôn thuở của vũ trụ nhân sinh. Cho nên người Hiền Lành của Văn HóaViệt sống với tâm An Nhiên giữa đời động lọan như những đóa sen trong sạch giữa bùn lầy:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Trình độ tâm thức đạt đến “Sen Trắng giữa Bùn Đen’, đó chính là Tâm Thức An Vi. An Vi là sống với Vô biên trong đời Hữu hạn, nên tâm hồn được Bình An với Đạo Lý giữa bao nghịch cảnh của đời thường.
Ca Dao An Vi đã đưa con người Việt về với Tâm Đạo Việt. Thật thế, Ca Dao An Vi đã hun đúc tình tự dân tộc, tình thâm giữa người với người, đạo lý gia đình, mỹ tục thờ cúng tổ tiên, lòng hiếu đạo.
Hay nói cách khác, Ca Dao An Vi, dòng Ca Dao chắt lọc tinh tuyền từ dòng sông Tâm linh phù sa Mẹ, đã nuôi dưỡng tình cảm tâm tư con người để xây dựng NHÂN CÁCH của một CHỦ NHÂN trong vũ trụ. Ca Dao An Vi, từ phản ánh lao tác và tình nhà, đã đưa con người tiến lên, tiến mãi, vượt trên cấp độ của một con vật sống bằng cảm tính của bản năng. Ca Dao An Vi đã đưa con người bay lên cõi bao la của Tâm và của Linh, nghĩa là vượt những gì nhỏ bé thô cạn, để vươn lên cao, đến tận miền trời bao la, vi tế, thanh thóat.
Hòan cảnh xã hội thay đổi, sinh họat kinh tế thay đổi, hình ảnh thơ mộng“ bên anh đọc sách bên nàng quay tơ” cũng không còn…Nhưng trên tất cả những ý và lời, Ca Dao An Vi đã hun đúc cho con người mọi nơi mọi thời một nền Đạo Đức nhất định : Một chữ TÌNH để đưa lòng người về với cội nguồn an lành TÂM ĐẠO.
Đông Lan
Đề cập đến Tâm Đạo, có lẽ chúng ta dễ nghĩ đến những điều cao siêu xa rời đời sống. Thưa không, Tâm Đạo ở đây chỉ là con đường trở về cái Tâm Thức ban sơ của con người. Nó trong lành như tâm thức vô phân biệt của Trẻ Thơ. Cái Tâm Thức sáng suốt thiện lành đẹp đẽ, cái Tâm chan hòa khắp vũ trụ nhân linh. Cái Đạo Tâm bao la ấy biểu lộ cụ thể thành xúc cảm, Tình Yêu của con người với vạn vật , thiên nhiên, và giữa người và người với nhau, không phân biệt mầu da, tôn giáo, tài sản….Tình Yêu ấy như vượt qua cả cá nhân nhỏ bé, chật hẹp, cảm thức vươn lên cõi mênh mang của niềm hòa hợp thông giao cái ta nhỏ bé này với cội nguồn nào bao la hơn. Triết Việt gọi niềm rung cảm hòa đồng ấy là Thái Hòa. Hòa Trời- Hòa Đất- Hòa Người. Ca Dao An Vi là cách biểu tỏ niềm rung cảm tự nhiên ấy trong bản thể con người bằng những vần thơ lục bát dịu dàng nuôi dưỡng cái tình yêu trời yêu đất yêu người hòa ái đơn sơ. Nên có thể nói Ca Dao An Vi chính là nhịp đập cuảTrái Tim Dân Tộc.
Lao tác là một đặc tính sáng tạo của trí óc con người. Của trình độ mà khi con người đã bắt đầu ý thức Nhân Chủ của mình, tách ra khỏi đời sống du mục săn bắt, hái trái hoang dã, biết chế biến dụng cụ, chăn nuôi, trồng trọt hoa mầu, làm nhà, dệt vải… Do đó, trong nền văn hóa nông nghiệp của Tổ Tiên Việt Tộc, Ca Dao An Vi, cũng bắt đầu với những nhịp đập yêu mến của cảnh lao tác của nhà nông.
Cỏ luá đã dọn sạch rồi
Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai
Cao thì đong một gầu dai
Ruộng thấp thì phải đong hai gầu sòng
Chờ cho luá có đòng đòng
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người
Bao giờ cho đến tháng mười
Ta đem liềm hái ra ngòai ruộng ta
Gặt hái ta đem về nhà
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Ca Dao An Vi còn nói lên cảnh sống tổng quát của một năm trong một gia đình điển hình ở làng quê:
Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cầy vỡ ruộng ra
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng
Ai ai cùng vợ cùng chồng
Chồng cầy vợ cấy trong lòng vui thay
Tháng năm gặt hái đã xong
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy
Năm nong đầy em xay em giã
Trấu ủ phân cám bã nuôi heo
Sang năm lúa tốt tiền nhiều
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng
Đói no có thiếp có chàng
Còn hơn chung đỉnh giầu sang một mình.
Ca Dao An Vi cũng nhắc ta cội nguồn Lạc Việt:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ về giỗ Tổ mùng Muời tháng Ba.
Và Ca Dao nói lên tính chất Nhân Chủ Thờ Người của Văn Hóa Việt, nơi di tích lịch sử ở Vĩnh Phú, Phú Thọ, dân ta đã lập đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương:
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười.
Ca Dao An Vi còn nói lên tình tự quê hương với lịch sử và đất nước như các vần ca dao về câu chuyện lịch sử:
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương
Cổ Loa hình ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.
Hay là:
Ai về Hậu Lộc Phú Điền
Nhớ đây bà Triệu trận tiền xung phong.
Người Việt ngòai đời sống nông nghiệp ổn định có những khi phải đối phó với giặc ngọai xâm để giữ gìn mảnh đất, bờ ruộng, đời sống an vui hòa lạc của văn hóa quê mình. Tâm thưc Nhân Chủ lại biến thể thành tình yêu đất nước, đồng bào. Và còn đẹp hơn nữa, Tình Yêu ấy , vì mang sắc mầu Nhân Chủ, đạo lý của quê hương, nên tuyệt nhiên Làm vì Tình Yêu, vì Đại Nghĩa. Đó là tâm thức vô cầu của cậu bé làng Phù Đổng. Dẹp giặc cứu nước xong rồi, không màng đến công danh hư ảo của trần gian, bay về trời hưởng chân hạnh phúc trong đỉnh an lành:
Nhớ xưa đương thủơ triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nổi ra kỳ tài
Lên ba đang tuổi anh hài
Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lửa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời.
Rồi Làng Quê Việt lại trở về trong cảnh hữu tình thấm trong từng mạch đất hương quê, cho lòng an nhiên thanh thóat:
Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Vào ngày lễ hội, những sinh họat cũng có sắc mầu riêng của nền văn hóa chân chất cuả làng quê khi từng bè nam nữ cùng hát vui, hát đố nhau. Con người vưà hát, nói, ăn, chơi bên những vần điệu và ý thơ chở đầy tình tứ:
Ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chẩy xuôi một dòng
Sông nào bên đục bên trong
Núi nào thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh
Đền nào thiêng nhất tỉnh Thanh
Ở đâu mà lại có thành tiên xây
Ở đâu là chín tầng mây
Ở đâu lắm nước ở đâu nhiều vàng
Chùa nào mà lại ở hang
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?
…….
Rồi bên nữ phải trả lời cho được các câu hỏi. Ta hãy nghe nàng đáp lại:
Thành Hà nội năm cửa chàng ơi
Sông Lục đầu sáu khúc nước chẩy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây
Trên trời có chín tầng mây
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng
Chuà Hương tích mà lại ở hang,
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không?
….
Nhưng nổi bật nhất của Ca Dao An Vi vẫn mãi là những vần thơ trữ tình của trai gái làng quê trong cảm mến, yêu thương:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà
Ao anh sứt chỉ đuờng tà
Vợ anh chưa có Mẹ già chưa khâu
Ao anh sứt chỉ đã lâu
Hay mượn cô ấy về khâu áo này
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo
Gíup em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Đình Làng Quê Việt còn là một trung tâm văn hóa của người Việt: Ngòai việc là nơi lo công việc hành chính, không những là cơ duyên cho chàng trai ngỏ lời của tình yêu âm thầm trong trái tim, mà còn là nơi sinh họat bao hội hè lễ tết, cho nên Đình còn là nơi chốn của bao kỷ niệm.
Ôi ! Đình làng Quê Việt với bao hình ảnh gợi nhớ gợi thương!
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Sau ngày vui hội làng chàng trai đã nghe thỏang mùi hương hoa chanh hoa bưởi với một nụ cười của riêng ai trên bước đường về:
Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan đổi lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen
Răng đen ai khéo nhuộm cho mình
Để duyên mình đẹp cho tình anh mê.
Nụ cười mà hàm răng đen nhánh đến nỗi “hạt huyền kém thua” như một vần thơ ví von nào thì quả là cái đẹp của Cô Gái Việt thật rồi. Vì chỉ có cô gái Việt mới nhuộm răng đen để làm duyên làm đẹp và để ăn trầu. Nhưng chàng trai đâu chỉ muốn nói có bấy nhiêu. Chàng còn phải cần nói một câu quan trọng hơn:
Đường xa thì thật là xa
Mượn người làm mối cho ta một người
Một người mười tám đôi mươi
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
Rồi nhiều khi nàng con e lệ chưa biết trả lời sao, thì chàng lại sẵn hồn thơ lai láng, dệt những vần thơ mơ ước:
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì anh cưới được nàng
Thì anh mua gạch bát tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân…
Không biết rằng chàng trai lãng mạn có xây được hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân không, nhưng ước mơ Tình đẹp quá!
Rồi cưới được nàng rồi, mộng mơ chuyển sang tình nghĩa. Nghĩa là Tình Thăng Hoa. Trong Nghĩa mới có Tình thương chân thật và bền vững:
Ai ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Hình ảnh người vợ mới cưới phải quên thân yếu đuối, sớm khuya trồng dâu, nuôi tằm, se tơ, dệt lụa, lo canh cửi giúp chồng ăn học đã là bức tranh đẹp nhất của tình nghĩa vợ chồng thời xưa:
Sáng trăng sáng cả vườn chè
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau
Vì chồng tôi phải chạy dâu
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay
Chồng tôi thi đỗ khoa này
Bõ công canh cửi từ ngày lấy tôi
Kẻo không thì chúng bạn cười
Rằng tôi nhan sắc cho người say mê
Tôi thường khuyên sớm khuyên trưa
Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng.
Tình đẹp quá, Nghĩa lại còn đẹp hơn. Ca Dao An Vi đã nuôi dưỡng một chữ Tình chở Nghĩa vợ chồng đến tận thiên thu.
Nhưng, có hạt lúa mới thành cây lúa. Có nhân mới có quả. Cuộc sống trồng cấy canh tác đã phát triển cái Tâm Bao La của Đạo Việt. Tình thương ấy phải có nguồn có gốc. Ca Dao An Vi do đó cũng đặt nền tảng cho một nền văn hóa tô bồi cho một Đại Tình thuở ấu thơ, đó là lòng Hiếu Đạo. Người con được cha mẹ thương yêu lo lắng, hy sinh cho từ lúc lọt lòng. Nhưng tình thương cha mẹ trong đời sống bị nhạt nhòa theo năm tháng với những đuổi bắt công danh, sự nghiệp, và ràng buộc của mối tình nam nữ, vợ chồng, con cái. Hiếu là một thứ tình của văn hóa. Nếu không có văn hóa người ta dễ quên đi chữ hiếu. Hiếu không nằm trong bản năng của lòai sinh vật. Hiếu phải được ý thức, trau giồi, phải có ý chí của con người tham dự. Hiếu là một biểu tỏ cao cấp của Văn Hóa Nhân Chủ. Cho nên nhìn đạo Hiếu của một sắc dân, ta có thể đánh giá trình độ Nhân Chủ của sắc dân đó.
Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ buồng sau kính thầy
Ai về tôi gửi đôi giầy
Phòng khi mưa nắng cho thầy mẹ đi.
Vần thơ từ thuở thơ ấu dậy về Đạo Hiếu, người Việt nào cũng thuộc nằm lòng:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Với tâm thức Nhân Chủ, nên coi việc tôn kính, phụng dưỡng cha mẹ như là một cái Đạo, là sự tu hành chân thật, chính đáng nhất trong đạo làm người:
Tu đâu không bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Trong tình ruột thịt Ca Dao An Vi cũng chất phác ví von:
Cắt dây bầu dây bí
Ai cắt dây chị, dây em.
Hay như đàn gà ríu rít:
Khôn ngoan đối đáp người ngòai
Gà cùng một mẹ chớ hòai đá nhau.
Ngòai khía cạnh biểu lộ tình cảm, Ca Dao An Vi còn nói lên cái quan niệm đạo đức tu sửa con người. Đời sống nông nghiệp nên cách ví von cũng chân chất bên hột đỗ, trái bí, dây bầu:
Ai ơi thương lấy nhau cùng
Đỗ ngâm ra giá đãi đùng nhau chi.
Hay là:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Giàn hoa nhân lọai! Đẹp biết bao nhiêu, Ca Dao An Vi còn chăm sóc cụ thể hơn:
Kẻ ăn người ở trong nhà
Sớm khuya công việc giúp ta nhọc nhằn
Thương người đầy đọa chút thân
Chớ nên ngược đãi lòng nhân mới là.
Phát triển cái tình nhân lọai đầm ấm, thương xót nương nhẹ người yếu kém hơn như thế trong Ca Dao An Vi, làm sao xã hội Việt có những cảnh dã man như nô lệ, vô sản lầm than, bất nhân như bên Tây Âu được.
Cái Tình bao la, cao cả, trải khắp nơi không phân biệt con người qua của cải, giai cấp, chủng tộc …đã thể hiện qua hai câu thơ:
Kinh đô cũng có người rồ
Man di cũng có sính đồ trạng nguyên.
Tuy nhiên, Quân Bình là đạo lý của Việt Tộc. Cho nên, Ca Dao An Vi ngòai việc tô bồi Tình Nghĩa Con Người, nhưng cũng khuyên con người phải dùng Trí Tuệ của mình đề nhận thức mọi vấn đề của đời sống sao cho đạt được sự sâu xa tòan diện :
Làm người phải có trí khôn
Nghĩ sao cho hết đất VUÔNG trời TRÒN.
Đạo Lý Vuông Tròn của Dân Tộc Việt là Đạo Làm Người, là Nhân Đạo Hai Chiều Nối Kết, Ràng Buộc giữa Thiên Địa, không duy thiên lơ lửng huyễn hoặc trên trời hay duy địa là sà mặt đất. Hình ảnh một hình Tròn bao bọc lấy hình Vuông một cách cân đối như cặp bánh chưng bánh dầy, là một biểu tượng của sự giác ngộ mối Tương Quan, Hòa Hợp ấy của tất cả các cặp mâu thuẫn nền tảng trong vũ trụ, con người, vạn vật: lý trí và tình cảm, vật thể và tâm linh, tiểu ngã và đại ngã, tương đối và tuyệt đối, hữu hình và siêu hình, không gian và thời gian, đời và đạo…
Do đó Đạo Lý Việt nhìn đời sống trong cái nhìn tòan thể, bao dung , tương đối:
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Sao trăng lại phải chịu lòn đám mây
Đèn khoe đèn to hơn trăng
Đèn ra trước gió được chăng hỡi đèn?
Dòng Ca Dao An Vi còn là một dòng suối Nhân Bản tinh tuyền. Đường đời xa xôi, gian nan, lòng người đâu phải lúc nào cũng trinh bền với Tâm Đạo, cũng có lúc lao lung, lầm lối, lạc đường. Thì Ca Dao An Vi nhắc nhở:
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Hay:
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Cùng giúp nhau giữ Nhân Đạo, những vần Ca Dao An Vi còn giúp nhau đức khiêm nhường:
Ai nhất thì tôi thứ nhì
Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba.
Hay cái Hạnh của đức tương dung, giải quyết mọi mâu thuẫn, khác biệt trong hiểu biết, hòa hợp. Kỵ nhất là cái tính cực đoan, hủy diệt đối lập.
Bên thẳng thì bên phải chùng
Hai bên cùng thẳng thì cùng đứt dây.
Đức Tương Dung còn sáng tỏ hơn trong cách đối nhân xử thế :
Đừng khôn ngoan chớ vụng về
Đừng cho ai lấn chớ hề lấn ai.
Một nền Văn Hóa có những vần ca dao của tình yêu thương mà thực tế, cụ thể, ơn ích cho sự hòa ái với nhau, thảo nào Văn Hóa Việt chẳng tạo ra những mẫu người HIỀN LÀNH.. Cái hiền hậu và an lành của triết nhân, thi nhân, hiền nhân xứ Việt. Cái hiền hậu, an lành của tâm thức sáng suốt, sống theo quy luật Thái Hòa muôn thuở của vũ trụ nhân sinh. Cho nên người Hiền Lành của Văn HóaViệt sống với tâm An Nhiên giữa đời động lọan như những đóa sen trong sạch giữa bùn lầy:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Trình độ tâm thức đạt đến “Sen Trắng giữa Bùn Đen’, đó chính là Tâm Thức An Vi. An Vi là sống với Vô biên trong đời Hữu hạn, nên tâm hồn được Bình An với Đạo Lý giữa bao nghịch cảnh của đời thường.
Ca Dao An Vi đã đưa con người Việt về với Tâm Đạo Việt. Thật thế, Ca Dao An Vi đã hun đúc tình tự dân tộc, tình thâm giữa người với người, đạo lý gia đình, mỹ tục thờ cúng tổ tiên, lòng hiếu đạo.
Hay nói cách khác, Ca Dao An Vi, dòng Ca Dao chắt lọc tinh tuyền từ dòng sông Tâm linh phù sa Mẹ, đã nuôi dưỡng tình cảm tâm tư con người để xây dựng NHÂN CÁCH của một CHỦ NHÂN trong vũ trụ. Ca Dao An Vi, từ phản ánh lao tác và tình nhà, đã đưa con người tiến lên, tiến mãi, vượt trên cấp độ của một con vật sống bằng cảm tính của bản năng. Ca Dao An Vi đã đưa con người bay lên cõi bao la của Tâm và của Linh, nghĩa là vượt những gì nhỏ bé thô cạn, để vươn lên cao, đến tận miền trời bao la, vi tế, thanh thóat.
Hòan cảnh xã hội thay đổi, sinh họat kinh tế thay đổi, hình ảnh thơ mộng“ bên anh đọc sách bên nàng quay tơ” cũng không còn…Nhưng trên tất cả những ý và lời, Ca Dao An Vi đã hun đúc cho con người mọi nơi mọi thời một nền Đạo Đức nhất định : Một chữ TÌNH để đưa lòng người về với cội nguồn an lành TÂM ĐẠO.
Đông Lan