Về đời vua Hùng Vương thứ sáu, thiên hạ thái bình, dân gian giàu có; vua không triều cống với nhà Ân bên Tàu. Vua nhà Ân thấy vậy, giả tiếng đi tuần thú muốn đem quân sang cướp nước Nam.
Vua Hùng Vương lo sợ, vời quần thần vào hỏi mẹo đánh giữ, có người phương sĩ thưa rằng:
- Bệ hạ nên kêu khấn với Long quân, thì ngài sai thiên tướng xuống giúp mới xong.
Vua nghe lời, lập đàn làm chay, cúng cấp ba ngày cầu khấn. Bỗng đâu trời nổi cơn giông, sấm sét ầm ầm, mưa như trút nước. Rồi có một ông cụ già, cao lớn 9 thước, mặt mũi to lớn, đầu bạc râu trắng, ngồi ở ngã ba đường cái, vừa cười vừa nói, ngâm hát múa mênh.
Ai trong thấy cũng cho làm lạ, mới tâu vua. Vua thân hành ra mời ông cụ ấy đến chỗ dân làm chay, dâng cơm rượu thết dãi. Ông cụ ấy không ăn uống và cũng không nói năng câu gì.
Vua hỏi rằng:
- Sắp có giặc Bắc xâm phạm nước Nam, được thua thế nào, xin cụ bảo cho.
Ông cụ lâu mãi mới nói rằng:
- Sau ba năm nữa, giặc Bắc tất kéo đến đây. Nhà vua nên tìm khắp cả thiên hạ, mà cầu lấy người kỳ tài, phá được giặc, thì nên chi đất phong tước cho người ta, truyền mãi vô cùng. Nếu được người giỏi phá giặc không khó gì nữa.
Nói đoạn, bay vụt lên trời biến mất.
Vua lấy làm lạ, mới tuân lời ấy, sai sứ đi khắp trong nước cầu người tài. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, huyện Võ Ninh (bây giờ là Võ Giáng,) có một ông nhà giàu, ngoài 60 tuổi, chỉ sinh được một người con trai lên ba tuổi chưa biết nói, mà chỉ nắm ngửa, không ngồi đứng lên được. Khi sứ giả đi cầu người tài, đến làng ấy, người mẹ cười nói con rằng:
- Đẻ được một chút con trai, chỉ biết ăn uống, ngồi đứng không được, thì đánh thế nào được giặc, dễ mà lĩnh thưởng của vua, đến công sinh dưỡng cho cha mẹ.
Người con nghe vậy, bỗng nhiên biết nói, bảo mẹ gọi sứ giả lại đấy. Mẹ lấy làm lạ lùng, bảo với láng giềng. Người láng giềng thấy lạ chuyện, xúi người nhà thử gọi sứ giả xem ra làm sao.
Khi sứ giả đến, trông thấy người còn bé, hỏi rằng:
- Tiểu nhi kia, gọi ta đến làm gì?
Tiểu nhi ngồi dậy, bảo với sứ giả rằng:
- Sứ giả trở về cho mau, tâu với vua, đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 thước: một thanh kiếm dài 7 thước; và một cái nón sắt, đem lại đây cho ta. Giặc đến trông thấy ta, tự nhiên phải sợ mà chạy, vua cần gì phải lo?
Sứ giả mừng lắm, về tâu với vua. Vua mừng rở bảo quần thần rằng:
- Đây là Long vương cứu ta đây! Năm ngoái ông cụ già nói chuyện, quả nhiên không sai, các ngươi chớ hồ nghi gì nữa!
Vua lập tức sai thợ rèn đúc ngựa sắt, kiếm sắt đến, sai người đem lại đưa cho tiểu nhi. Sứ giả sắp đến, mẹ ở nhà lo lắm, chỉ sợ con nói xẵng thì vạ lây đến cả nhà.
Tiểu nhi cười ầm lên nói rằng:
- Mẹ cứ kiếm rượu thịt cho nhiều, cho tôi ăn uống, còn việc đánh giặc, mẹ không phải lo.
Tiểu nhi tự bấy giờ mỗi ngày một lớn, cơm ăn áo mặc tốn lắm. Mẹ tuy nhà giàu mà cũng không đủ nuôi cho ăn, hàng xóm láng giềng phải tư cấp giúp thêm; nào kẻ đỡ tiền thóc, người dâng rượu thịt, mà ăn vẫn không được no; vải lụa nhiều thế nào cũng mặc không đủ; cửa nhà ở cũng không vừa, phải ken cỏ lau lợp một cái nhà to để ngài ở.
Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn (thuộc về huyện Tiên Du) thì sứ giả đem ngựa kiếm đến nhà giao cho ngài. Ngài vươn vai đứng lên, cao hơn 2 trượng, ngẩng mặt lên trời, gầm lên vài mươi tiếng, rồi rút thanh kiếm cầm trên tay quát lên rằng:
- Ta là thiên tướng nhà trời đây!
Lập tức đội nón nhảy lên ngựa tế đi. Ngựa hét ra lửa mà chạy như bay, chỉ chớp mắt đã đến chỗ quân đóng. Ngài trở gươm đi trước, quan quân kéo theo sau, tiến sát đến trại giặc. Giặc bày trận ở dưới chân núi Châu Sơn, ngài xông vào trận đánh giết một hồi lâu, gẫy mất cả kiếm, mơí vớ lấy tre ở bên cạnh đường cầm cả tảng tre mà quật vào đám giặc. Quân giặc tan nát tựa hồ đất lở ngói tan, tranh nhau lạy phục xuống đất, kêu rằng:
- Lạy ngài, ngài là thần tướng trên trời, chúng tôi xin chịu hàng cả.
Khi đánh đến núi Ninh Sóc, thì giặc đã tan hết cả rồi, ngài mới cởi áo bỏ đấy, rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Đến bây giờ vẫn còn dấu người, ngựa ở trên núi.
Vua nhớ, không biết lấy gì báo được, mới phong ngài làm Phù Đổng thiên vương lập miếu thờ ngay ở vườn nhà khi trước, ban cho dân một trăm mẫu ruộng tự điền bắt phải bốn mùa cúng tế.
Từ đấy, giặc Bắc không dám sang xâm phạm nữa. Bốn phương nghe chuyện làm vậy, đâu đâu cũng hòa hiếu với nước Nam.
Đến đời nhà Lý, gia phong làm Xung Thiên thần vương. Bây giờ vẫn còn thờ ở làng Gióng, mà tượng thì tô ở trên núi Vệ Linh, mỗi năm đến tháng tư dân làng ấy mở hội to lắm.
Những tre ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ thành rừng ở huyện Gia Bình, gọi là tre Đằng Ngà.Chỗ con ngựa thét ra lửa, cháy mất một làng, cho nên bây giờ làng chỗ ấy gọi là làng Cháy.
Vua Hùng Vương lo sợ, vời quần thần vào hỏi mẹo đánh giữ, có người phương sĩ thưa rằng:
- Bệ hạ nên kêu khấn với Long quân, thì ngài sai thiên tướng xuống giúp mới xong.
Vua nghe lời, lập đàn làm chay, cúng cấp ba ngày cầu khấn. Bỗng đâu trời nổi cơn giông, sấm sét ầm ầm, mưa như trút nước. Rồi có một ông cụ già, cao lớn 9 thước, mặt mũi to lớn, đầu bạc râu trắng, ngồi ở ngã ba đường cái, vừa cười vừa nói, ngâm hát múa mênh.
Ai trong thấy cũng cho làm lạ, mới tâu vua. Vua thân hành ra mời ông cụ ấy đến chỗ dân làm chay, dâng cơm rượu thết dãi. Ông cụ ấy không ăn uống và cũng không nói năng câu gì.
Vua hỏi rằng:
- Sắp có giặc Bắc xâm phạm nước Nam, được thua thế nào, xin cụ bảo cho.
Ông cụ lâu mãi mới nói rằng:
- Sau ba năm nữa, giặc Bắc tất kéo đến đây. Nhà vua nên tìm khắp cả thiên hạ, mà cầu lấy người kỳ tài, phá được giặc, thì nên chi đất phong tước cho người ta, truyền mãi vô cùng. Nếu được người giỏi phá giặc không khó gì nữa.
Nói đoạn, bay vụt lên trời biến mất.
Vua lấy làm lạ, mới tuân lời ấy, sai sứ đi khắp trong nước cầu người tài. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, huyện Võ Ninh (bây giờ là Võ Giáng,) có một ông nhà giàu, ngoài 60 tuổi, chỉ sinh được một người con trai lên ba tuổi chưa biết nói, mà chỉ nắm ngửa, không ngồi đứng lên được. Khi sứ giả đi cầu người tài, đến làng ấy, người mẹ cười nói con rằng:
- Đẻ được một chút con trai, chỉ biết ăn uống, ngồi đứng không được, thì đánh thế nào được giặc, dễ mà lĩnh thưởng của vua, đến công sinh dưỡng cho cha mẹ.
Người con nghe vậy, bỗng nhiên biết nói, bảo mẹ gọi sứ giả lại đấy. Mẹ lấy làm lạ lùng, bảo với láng giềng. Người láng giềng thấy lạ chuyện, xúi người nhà thử gọi sứ giả xem ra làm sao.
Khi sứ giả đến, trông thấy người còn bé, hỏi rằng:
- Tiểu nhi kia, gọi ta đến làm gì?
Tiểu nhi ngồi dậy, bảo với sứ giả rằng:
- Sứ giả trở về cho mau, tâu với vua, đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 thước: một thanh kiếm dài 7 thước; và một cái nón sắt, đem lại đây cho ta. Giặc đến trông thấy ta, tự nhiên phải sợ mà chạy, vua cần gì phải lo?
Sứ giả mừng lắm, về tâu với vua. Vua mừng rở bảo quần thần rằng:
- Đây là Long vương cứu ta đây! Năm ngoái ông cụ già nói chuyện, quả nhiên không sai, các ngươi chớ hồ nghi gì nữa!
Vua lập tức sai thợ rèn đúc ngựa sắt, kiếm sắt đến, sai người đem lại đưa cho tiểu nhi. Sứ giả sắp đến, mẹ ở nhà lo lắm, chỉ sợ con nói xẵng thì vạ lây đến cả nhà.
Tiểu nhi cười ầm lên nói rằng:
- Mẹ cứ kiếm rượu thịt cho nhiều, cho tôi ăn uống, còn việc đánh giặc, mẹ không phải lo.
Tiểu nhi tự bấy giờ mỗi ngày một lớn, cơm ăn áo mặc tốn lắm. Mẹ tuy nhà giàu mà cũng không đủ nuôi cho ăn, hàng xóm láng giềng phải tư cấp giúp thêm; nào kẻ đỡ tiền thóc, người dâng rượu thịt, mà ăn vẫn không được no; vải lụa nhiều thế nào cũng mặc không đủ; cửa nhà ở cũng không vừa, phải ken cỏ lau lợp một cái nhà to để ngài ở.
Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn (thuộc về huyện Tiên Du) thì sứ giả đem ngựa kiếm đến nhà giao cho ngài. Ngài vươn vai đứng lên, cao hơn 2 trượng, ngẩng mặt lên trời, gầm lên vài mươi tiếng, rồi rút thanh kiếm cầm trên tay quát lên rằng:
- Ta là thiên tướng nhà trời đây!
Lập tức đội nón nhảy lên ngựa tế đi. Ngựa hét ra lửa mà chạy như bay, chỉ chớp mắt đã đến chỗ quân đóng. Ngài trở gươm đi trước, quan quân kéo theo sau, tiến sát đến trại giặc. Giặc bày trận ở dưới chân núi Châu Sơn, ngài xông vào trận đánh giết một hồi lâu, gẫy mất cả kiếm, mơí vớ lấy tre ở bên cạnh đường cầm cả tảng tre mà quật vào đám giặc. Quân giặc tan nát tựa hồ đất lở ngói tan, tranh nhau lạy phục xuống đất, kêu rằng:
- Lạy ngài, ngài là thần tướng trên trời, chúng tôi xin chịu hàng cả.
Khi đánh đến núi Ninh Sóc, thì giặc đã tan hết cả rồi, ngài mới cởi áo bỏ đấy, rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Đến bây giờ vẫn còn dấu người, ngựa ở trên núi.
Vua nhớ, không biết lấy gì báo được, mới phong ngài làm Phù Đổng thiên vương lập miếu thờ ngay ở vườn nhà khi trước, ban cho dân một trăm mẫu ruộng tự điền bắt phải bốn mùa cúng tế.
Từ đấy, giặc Bắc không dám sang xâm phạm nữa. Bốn phương nghe chuyện làm vậy, đâu đâu cũng hòa hiếu với nước Nam.
Đến đời nhà Lý, gia phong làm Xung Thiên thần vương. Bây giờ vẫn còn thờ ở làng Gióng, mà tượng thì tô ở trên núi Vệ Linh, mỗi năm đến tháng tư dân làng ấy mở hội to lắm.
Những tre ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ thành rừng ở huyện Gia Bình, gọi là tre Đằng Ngà.Chỗ con ngựa thét ra lửa, cháy mất một làng, cho nên bây giờ làng chỗ ấy gọi là làng Cháy.