Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

BÉ BIỂN : Những con người tử tế.(chuyện có thật)

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • BÉ BIỂN : Những con người tử tế.(chuyện có thật)


    Mo
    ng quý vị đọc hết câu chuyện của Bé Biển !!



    Đọc xong phải rơi lệ.
    Xin cám ơn những trái tim nhân từ ngoại quốc và những tấm lòng Việt Nam trong suốt chiều dài đau đớn của dân tộc.



    Những conngười tử tế.(chuyện có thật)


    ​​BéBiển

    Trên tường, lẫn trongnhiều bức hình rất đẹp được chụp từ một ống kính chuyên nghiệp là tấm hình củachiếc ghe mong manh, nhỏ bé, bồng bềnh trên đại dương. Trên khoang ghe, cácthuyền nhân Việt Nam (những boat people đã đánh động lương tâm thế giới vàonhững năm 70s và 80s) mặt mày ngơ ngác mệt mỏi nhưng mắt sáng lên hy vọng. Đó làmón quà tặng cho BS HQM từ một thuyền nhân cùng tàu vượt biển nămxưa.


    Ảnh con thuyền vượtbiển đó vị thuyền trưởng một tàu buôn của chụp trước khi đón mọi người lên tàu.BS. Vinh đứng ở mũi thuyền, tay cầm một thùng rỗng để xin nước từ con tàu gặpgiữa Thái Bình Dương JUN 1979.



    Mọi người trên ghe gọi em là "công dân củađại dương" vì em sinh ra giữa biển trời mênh mông, không thuộc hải phận của quốcgia nào, vào một đêm trời chuyển mưa, trời không trăng sao, lâu lâu có những tiachớp lóe lên soi sáng đêm đen.

    Chiếc ghe rời cửabiển Long Hải lúc nửa đêm về sáng để tránh công an biên phòng, đưa gần bảy mươithuyền nhân trốn khỏi quê cha đất tổ, đem sinh mạng mình đánh cuộc với định mệnhđể tìm tự do và tương lai. Trong số đó có hai vợ chồng trẻ, người vợ ốm yếu mảnhmai, lại mang thai lần đầu, mặc hai ba lớp áo quần nên hinh như không ai biếtchị có thai đã bảy tháng, ngoài anh chồng trẻ cũng mảnh khảnh như chị.

    Mà nếu có biết cũng chẳng ai còn tâm trí nào để nghĩđến chuyện người khác khi trong lòng mình cũng "ngổn ngang trăm mối". mà mối lolớn nhất là có thể bị bắt lại, bị nhục hình, bị tù tội trong khi mình không cótội gì hết, chỉ bỏ xứ ra đi, bỏ ông bà cha mẹ, bỏ tất cả ra đi vì muốn có tựdo.

    Vừa đặt chân lên sàn ghe, tất cả mọi người đềuđược đưa xuống lòng ghe để bảo đảm an toàn. Nếu có bất cứ ghe tàu nào đi ngang,nhìn vào người ta chỉ thấy trên khoang ghe có vài ngư phủ đi thả lưới ban đêm đểcó được một ít cá tôm tươi cho vợ hoặc mẹ mang ra bán ở buổi chợ sáng ngày mai.Nhất là vào ban đêm, ánh đèn bão tù mù, vàng úa giúp những người đang trốn chạykhỏi quê hương che được nét ưu tư lo lắng.

    Phíadưới lòng tàu, thông thường chỉ để lưới, xăng dầu, thức ăn của ngư phủ, mấythùng nước ngọt, và mấy thùng đựng cá tôm lưới được vào những hôm ra khơi nhiềumay mắn. Vậy mà bây giờ gần bảy mươi con người ngồi chen chúc, không khí đãthiếu lại càng ngột ngạt hơn khi rất nhiều người bị say sóng ói mửa ngay trênsàn tàu, trên áo quần của mình hay của người ngồi bên cạnh. Không ai nói với aitiếng nào. Khi ghe chưa ra đến hải phận quốc tế, người ta chưa sợ chết vì đạidương bao la, vì thiếu nước ngọt, thiếu thức ăn, mà đích đến thì còn ở xa mù títtắp, nhưng nỗi sợ bị công an biên phòng bắt được thì tù tội, nhục hình cũng kinhhoàng như nỗi chết. Nỗi sợ đó lớn quá, bao trùm lên mọi thứ, át đi sự ngột ngạttrong một hầm ghe quá tải, át đi mùi của mọi thứ trong bụng chưa kịp tiêu hóachạy ngược lên miệng chạy ra ngoài. Khi thức ăn đã ra hết, cả đến mật xanh cũngchạy ra, người ta mệt nhoài, không còn sức để sợ bị bắt lại, không còn sức đểcảm nhận được không khí ngột ngạt, nặng mùi chung quanh mình. Ở một góc ghe,người đàn bà trẻ đang mang thai lại tỉnh táo hơn mọi người, hơn cả ông chồngcũng vật vờ say sóng, nôn mửa như hầu hết mọi người trên ghe. Lòng ghe tối đen,không ánh sáng, không cả tiếng động, thời gian tưởng như ngưng lại. Lâu lâu cómột chút ánh sáng xanh yếu ớt từ cái đồng hồ đeo tay có dạ quang của ai đó. Đêmdài và sâu hơn với những người đang trốn chạy khỏi quê hương.

    Vào đêm thứ nhì của cuộc trốn chạy bằng đường biển, người đàn bà đangmang thai chợt thấy đau nhói ở bụng. Đây là con đầu lòng, chị không có kinhnghiệm về chuyện sinh đẻ. Trong bóng tối đặc quánh trong lòng chiếc ghe mongmanh chật như nêm, một tay nắm tay chồng, một tay chị chị nhẩm tính trên nhữngngón tay xem mình đã có thai bao nhiêu tháng.

    *

    Họ lấy nhau tháng chín nămngoái, sau mười lăm tháng quen nhau ở vùng kinh tế mới Đồng Bò, ngoại ô NhaTrang. Chị cố quay lại khúc phim tình yêu lãng mạn của anh chị để quên đi nỗiđau âm ỉ trong bụng. Tình yêu trên vùng đất khô cằn, -ngay cả hoa dại cũng khôngmọc nổi, không trồng được gì hết ngoài khoai mì, - nhưng rất chân thành, sâu đậmvì đó là tình đầu của cả anh và chị. Họ lấy nhau, không có đám cưới bình thường,chỉ có một lễ ra mắt hai bên họ hàng (cũng chỉ lưa thưa mấy người đàn bà vì đànông dạo đó hầu hết đã ở trong lao tù cải tạo vì "tội ngụy quân ngụy quyền") bằngmột mâm cơm... trắng (không bị độn khoai sắn như bữa ăn thuờng ngày của ngườidân kinh tế mới) và vài món ngon như nem, chả được gởi mua từ chợ Đầm ở NhaTrang. Hôn thú cũng chưa làm vì "ủy ban nhân dân xã kinh tế mới" vừa thành hình,chưa có con dấu. Về nơi ở cũ thì bị từ chối vì "hộ khầu đã bị cắt". Nhưng giađình vẫn cho họ lấy nhau, vì “phải nương nhau mà sống, không phải ở cái vùngkinh tế mới hoang vu này, mà sau này, đi đâu cũng nương tựa vào nhau….”. Mẹ chịđã căn dặn anh chị như vậy ở một lễ cưới dã chiến, không có khăn áo, không cómake up, và không có cả họ hàng, quan khách. Mấy miếng chả heo màu trắng - chắclà tỉ lệ thịt và bột ngang nhau -, mấy miếng nem hồng nhạt dành cho hai đứa emchưa đến tuổi đi học, lần đầu tiên trong đời được nếm mùi nem chả. Anh chịnhường nem chả cho các em, ăn cơm với canh rau muống, sau khi đã ăn mấy lát gừngmỏng chấm muối như phong tục ngàn xưa "gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”.

    Hơn nửa năm sau ngày cưới, một lần về Nha Trang muahạt giống, anh gặp một người lính hải quân làm dưới quyền ba anh ngày xưa.Thương anh cựu sinh viên Khoa học thư sinh kính trắng phải cày sâu cuốc bẩm nuôimẹ, nuôi em khi ba ở trong tù cải tạo, người lính hải quân sắp lái một chuyếntàu vượt biển, được chủ ghe cho mang theo cả gia đình, cho anh và chị đitheo.

    *

    Bụng chị vẫn đau, chị ước gìmình bị say sóng ngủ vùi, hoặc lã đi vì mệt như anh, như tất cả mọi người tronglòng ghe. Nhưng cơn đau vẫn chẳng chịu đi, lúc âm ỉ, lúc nhói lên, chị xanh mặt,vả mồ hôi chịu đựng, tự nhủ trong đầu:

    - Không sao,đau một chút rồi sẽ hết. Mình chưa đẻ đâu, đến hôm nay nhiều lắm là 29 tuần, ítnhất cũng cả tháng nữa mới sinh.

    Hết tự bảo mình,chị cúi xuống rờ tay lên bụng, thì thầm trong bóng tối:

    - Con ơi, nằm yên nha, để đến trại tỵ nạn rồi hãy ra nghe con, antoàn hơn cho cả con và mẹ.

    Cơn đau chỉ lắng xuốngmột vài giây, rồi lại nhói lên quặn đau mỗi lúc một nhiều hơn. Chịu không nổi,chị đành lay vai anh:

    - Anh ơi anh, chắc em đangchuyển bụng đẻ.

    Đang vật vờ say sóng, nghe vợ sắpsinh, anh tỉnh hẳn, mở mắt nhìn quanh, rồi hỏi chung quanh:

    - Có ai biết đở đẻ không? Xin giúp vợ tôi.

    Câu hỏi làm mọi người trong cái khoang ghe tối đen, ngột ngạt tỉnhhẳn lên. Giữa lúc mọi người đang vượt đại dương, có một phụ nữ trẻ sắp "vượtcạn". Có ai đó thò đầu lên khỏi hầm ghe, hỏi xin một ánh đèn cho sản phụ.

    May là ông chủ ghe cũng thuộc loại người nhân từ, vàghe đã ra đến hải phận quốc tế, nên chị được đưa lên khoang ghe. Anh cũng đượcđi theo cùng chị. Họ tỉnh hẳn ra khi ra khỏi hầm ghe, được hít thở không khítrong lành của đại dương, cũng là không khí của tự do mặc dù đích đến còn ở xa,xa lắm. Chị thấy khỏe hơn mặc dù cơn đau vẫn không dứt, quặn lên từng cơn.

    *
    Vinh cũng được rời khỏi hầm ghe, lên sàn tàucùng với anh chị vì Vinh là bác sĩ duy nhất trên chuyến ghe vượt biển đêm đó.Trời tối đen, Vinh cũng không biết lúc đó là mấy giờ, cái đồng hồ đeo tay đã rớtmất từ lúc nào. Dù đã từng làm việc đở đẻ từ cuối năm thứ tư y khoa trong cathực tập đầu tiên ở bệnh viện Từ Dũ. Và từ đó đến giờ, dù không chuyên về sản khoa, Vinh cũng đã có dịp trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc trong những trườnghợp sinh thường, cũng như sinh khó, phải xoay đầu hài nhi từ lúc còn nằm trongbụng mẹ, phải mổ để đem con ra khỏi bụng mẹ. Nhưng lần này giữa đại dương, trờitối đen, trên sàn tàu bằng ván lồi lõm còn mùi tanh của tôm cá, chỉ có một ngọnđèn bão tù mù mà người tài công tốt bụng đã cho mượn, không có thuốc khử trùng,không có alcohols, cũng chẳng có bông băng, hay bất kỳ một dụng cụ y khoa nào.Sản phụ lại sinh lần đầu, và Vinh không có một chi tiết nào về hồ sơ bệnh lý củachị. Chưa bao giờ Vinh tưởng tượng mình phải làm công việc tưởng như đơn giảnnhưng cả hai sinh mạng đều đặt trong tay Vinh trong một đêm trời tối đen trênsàn một chiếc ghe vượt biển. Mọi thứ đều làm bằng tay, không có cả găng tay,phương tiện còn hạn chế hơn dụng cụ thô sơ của một cô mụ đỡ đẻ ở nhà quê từnhiều thập niên trước Dưới ánh đèn bão tù mù, phải mất gần một tiếng, từ việcxoay đầu em bé đến việc cắt cuốn rốn, em bé sinh ra đỏ hỏn, sớm hơn kỳ hạn bìnhthường một tháng nhưng khỏe mạnh. May mắn là sản phụ dù xanh xao, yếu ớt nhưngrất can trường, đã dùng hết sức bình sinh để đẩy được em bé ra ngoài từ cửa tửcung hẹp của một người sinh con lần đầu. Gió của đại dương nhanh chóng làm khônhững giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt của Vinh, của anh, và nhất là của chị, sảnphụ can đảm nhất nhì thế giới, đã vừa vượt biển, vừa "vượt cạn" lần đầu, khôngcó thuốc tê, không có thuốc mê, không có cả bông băng, nhưng chị không hề rênla, chỉ cắn chặt môi đến rướm máu chịu đựng. Nếu chị không tự đẩy em bé ra được,Vinh cũng không biết mình phải làm gì trong tình trạng không thuốc men, không dụng cụ. Mãi về sau, sau này, sau nhiều năm hành nghề Y khoa ở Mỹ, có dịp chẩnđoán, điều trị cho rất nhiều bịnh nhân thuộc nhiều chủng tộc, nhiều lứa tuổikhác nhau, chị vẫn là bệnh nhân can đảm nhất của Vinh.

    Anh đứng bên cạnh là một chỗ dựa tinh thần cho chị, và một phụ tá đắclực cho Vinh. Người chồng sắp được làm cha, lại vô tình trở thành y tá bất đắcdĩ phụ việc cho Vinh trong một ca đỡ đẻ rất khác thường trên một chuyến tàu vượtbiển. Em bé gái mới ra đời được tắm bằng nước biển Đông, được cắt nhau bằng đầumóng tay cái và móng tay trỏ của Vinh. Những đầu móng tay Vinh bắt đầu để dài từlúc bắt đầu chơi guitar với sự hướng dẫn của một ông thầy dạy môn Nhạc từ nhữngnăm đầu Trung học, không ngờ lại được dùng rất có hiệu quả trong trường hợp hyhữu giữa biển khơi. Không có alcohol để tẩy trùng, Vinh đến bên mạn thuyền, múcnước biển lên rửa tay. Muối của đại dương cũng ít nhiều sát trùng những đầu ngóntay của Vinh trước khi Vinh cắt cuốn rún của em bé sơ sinh.

    Em được bọc bằng hai lớp áo, lớp trong là cái áo thun của cha, lớpngoài là cái áo khoác của mẹ. Tiếng khóc đầu tiên của em, của mầm sống mới đemlại nụ cười cho Vinh, cho anh và chị, và hy vọng cho một đời sống mới tự do, tốtđẹp hơn cho mọi người trên ghe. Em ra đời an lành giữa biển Đông, sớm hơn thờihạn bình thường (9 tháng 10 ngày) gần một tháng trong một hoàn cảnh rất đặcbiệt. Và dĩ nhiên không có cân, không có thước để biết trọng lượng, và chiều caocủa em.

    Trong niềm vui vừa hoàn thành một ca đở đẻcó một không hai trong đời, Vinh trao em bé cho sản phụ, dùng nước biển để rửatay. Giữa biển trời mênh mông, không có xà bông, không có alcohol sát trùng,không có cả nước thường để rửa tay. Vinh đến bên thành ghe, một tay bám chặt vàothành ghe, tay kia múc nước biền bằng một cái thùng nylon để rửa tay, và rửa embé cùng sàn ghe. Sau vài phút vui mừng cạnh vợ con với niềm vui của một ngườilần đầu làm cha, người chồng trẻ vừa rối rít cảm ơn, vừa giúp Vinh dọn rửa sànghe, nơi một con người bé bỏng vừa chào đời trong đêm tối giữa biển trời bao la.Cũng như cha mẹ không được làm hôn thú ở một vùng kinh tế mới, em cũng khôngđược làm khai sinh giữa biển trời, trên một chiếc ghe tỵ nạn. Em được cha mẹ gọilà "bé Biển".

    Trời sáng dần, mọi người tỉnh táohơn, lạc quan hơn vì ánh sáng mặt trời luôn là người bạn tốt của những con tàuđang lênh đênh trên đại dương. Họ còn vui mừng hơn vì có thêm một mầm sống mớivừa chào đời bằng sự can đảm của người mẹ, bằng sự tận tình của một ông bác sĩtrẻ cùng là đồng hành trên chuyến vượt biển tìm tự do của họ.

    Những ngày sau đó, dù vẫn phải ăn uống dè chừng vì không biết khi nàomới đến được đất liền, Vinh vẫn được đối xử tử tế hơn, được ông bà chủ ghe mờilên ngồi trên khoan tàu, được hít thở không khí trong lành của đại dương. Vinhcũng được phân phát thức ăn theo tiêu chuẩn đặc biệt, nhưng Vinh cũng chỉ ăn nhưkhẩu phần của mọi người trên ghe, nhường phần đặc biệt đó cho người mẹ mới sinhốm yếu mảnh mai, cần ăn nhiều để còn có sữa nuôi con sơ sinh.

    Những chuyện bình thường đó được rỉ tai bởi những người còn tỉnh táo,khỏe mạnh trên ghe, và như một vết dầu loang, người ta đối xử tốt đẹp với nhauhơn. Một vài người lớn tuổi được những người trẻ hơn nhường phần nước uống hiếmhoi được phát hai lần mỗi ngày. Các em bé được ăn thêm vài muỗng cơm từ nhữngngười lớn trên tàu. Chuyện tưởng như đơn giản trên đất liền trong hoàn cảnh bìnhthường, nhưng là cả một niềm an ủi, một niềm tin khi con người đang trốn chạykhỏi quê hương, đang lênh đênh trên đại dương, không biết lúc nào mới đến bờ,đến bến.

    *

    Bốn ngày sau, chiếc thuyềnmong manh của những thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng sản may mắn đượcmột con tàu buôn của Ý trông thấy. Họ đến gần và cho tất cả người tỵ nạn lên tàucủa họ, cho ăn uống. Họ đặc biệt cho bé Biển nhiều món quà quý, trong đó có mộtcái mỏ neo nhỏ như một lóng tay, - làm bằng vàng, biểu tượng của chiếc thươngthuyền -, sau khi nghe kể em được sỉnh ra vài ngày trước đó trên sàn con thuyềnmong manh không có một dụng cụ thuốc men nào, ngoài sự can đảm của mẹ em, và sựtận tình của một bác sĩ trẻ được đào tạo ở Đại học Y khoa Saigon trước năm 1975.Như luật hàng hải quốc tế vì sinh ra ở hải phận quốc tế nên bé Biển có quốc tịchÝ, chiếc tàu đầu tiên có mang cờ một quốc gia em được mang lên.

    Trước khi đưa từng thuyền nhân lên tàu lớn, họ có ghilại hình ảnh của chiếc ghe mong manh và những thuyền nhân mặt mày hốc hác nhưngánh mắt rạng rỡ vì biết chắc chắn mình sẽ đến được bến bờ tự do. Ông thuyềntrưởng đích thân ra trước mũi tàu chụp hình. Bên kia, bác sĩ Vinh được nhữngngười trong ghe cử ra nói chuyện với đại diện của tàu Ý. Vinh cũng đứng trướcmũi của chiếc ghe tỵ nạn, bên cạnh chiếc tàu buôn như một em bé gầy yếu đứngtrước một người khổng lồ. Tấm hình đó không một người tỵ nạn nào có dịp trôngthấy. Ngoài một số người muốn được định cư ờ Ý, tất cả thuyền nhân còn lại đượcđưa đến trại tỵ nạn và được đi định cư ở nhiều nước khác nhau.

    Ông thuyền trưởng nghe Vinh kể chuyện đỡ đẻ rất hiếm hoi đã giơ cảhai tay lên trời:

    - Tôi cảm phục lòng can đảm củasản phụ, tôi cảm phục sự bình tĩnh và tận tình của bác sĩ. Tôi cảm phục lòng quảcảm của tất cả các bạn. Thượng Đế đã phù hộ các bạn.

    Ông ta còn nói nhiều điều nữa, nhưng Vinh chỉ nhớ câu đó, và nhớ nụcười hiền từ nhân hậu của người thuyền trưởng người Ý da trắng. tóc đen.

    Vinh đến Mỹ vào cuối năm 1979, đi học lại một số lớpđể có thể thi lấy bằng Medical Doctor ở Mỹ và thi lấy giấy phép hành nghề. Kiếnthức của những năm Y khoa Saigon giúp Vinh rút ngắn được hơn nửa đường học trìnhcủa một Bác sĩ chuyên khoa ở Mỹ. Cứ lấy các "equivalent test" của từng giaiđoạn, đậu được mỗi bài test là khỏi phải học ít nhất là hai học kỳ (tương đương một năm). Cứ từ dễ đến khó, Vinh lần lượt đậu từng bài thi và không phải họclại, chỉ phải đi thực tập nội trú (Internship) trong một bệnh viện ở New Yorktrước khi được cấp bằng hành nghề. Lúc đó còn trẻ, chưa lập gia đình, dù khôngphải học lại 5 năm đầu của chương trình Y khoa ở Mỹ, Vinh vẫn chăm chỉ đọc sáchvà học thêm một lớp căn bản về "Business Law".

    Mỗituần làm việc từ bốn đến năm mươi giờ ở bệnh viện từ phòng cấp cứu đến các phòngbệnh nội trú, Vinh gặp bệnh nhân đủ mọi lứa tuổi, mọi màu da. Có người suốt ngàyrên rỉ, có người chỉ nhăn mặt khi thiếu thuốc giảm đau, có người luôn cố giữ nụcười lạc quan để thêm tinh thấn chiến đấu với bệnh tật. Không có ai can đảm nhưngười sản phụ thuyền nhân giữa đại dương năm nào, kể cả những người sinh congiữa một bệnh viện đầy đủ thuốc men, dụng cụ, y tá, bác sĩ, đã được chích thuốcgiảm đau mà vẫn rên la.

    Xong một năm nội trú ở NewYork, những ngày đầu chính thức hành nghề y khoa trong một bệnh viện ở Chicago,những khuôn mặt bệnh nhân đủ mọi cá tính đến rồi đi trong từng ngày làm việc củaVinh, vẫn chưa có ai vượt qua được sự can đảm chịu đựng của người sản phụ trênchiếc ghe mong manh vượt biển ngày trước. Giữa những tiện nghi dành cho một bácsĩ ở Mỹ, thỉnh thoảng Vinh vẫn nhớ đến nước Thái bình dương đã rửa tay cho mìnhvà tắm cho em bé sinh giữa đại dương. Vị mặn của nước biển có thể sát trùng mộtcách tương đối, đã giúp một em bé thuyền nhân chào đời an toàn, khỏe mạnh trênsàn ghe giữa biển trời mênh mông.


    Họp mặt truyền thốngchs Ngô Quyền lần thứ XIII - JUL 2014 ở Milpitas, California. Nhân vật chính: BSHuỳnh Quan Minh– cựu học sinh NQ K6- trước micro. Tác giả NTDH áo dài trắng,đứng giữa hai đàn anh Ngô Quyền.


    Rồi Vinh lập gia đình, dọn vềSan Jose ở California với khí hậu ven biển ấm hơn giống Việt Nam hơn, và để mộtlúc nào đó những đứa con chào đời sẽ có nhiều cơ hội học tiếng Việt hơn. Lúc đólà đầu thập niên 80s, cộng đồng Việt Nam ở Mỹ chưa lớn mạnh, những lần hiếm hoigặp bệnh nhân người Việt ở bệnh viện Kaiser, họ cứ hỏi Vinh có khám thêm ở nhàngoài giờ làm việc để họ đến nhờ giúp khi bệnh hoạn. Một, hai, năm, bảy rồi cảchục lần được yêu cầu như vậy, Vinh quyết định xin thôi việc ở bệnh viện, mởphòng khám tư, tự do hơn.

    Lần đầu tiên mở phòngkhám tư, lại là phòng khám ở Mỹ, một nơi mà nguyên tắc, và luật pháp rất nghiêmnhặt,Vinh phải mò mẩm từng bước để xây dựng phòng khám bệnh của mình. Thời đó,đầu thập niên 80s, cộng đổng tỵ nạn của người Việt còn non trẻ, bệnh nhân củaVinh thuộc đủ mọi chủng tộc, từ những người bản xứ hay đến phòng mạch của ôngbác sĩ trẻ còn giữ nguyên tính kính trọng người lớn tuổi của người Việt Nam, đếnnhững người di dân gốc Nga, gốc Tàu, gốc Ý, gốc Mễ... Và dĩ nhiên cũng có nhữngbệnh nhân Việt Nam chịu khó lái xe vài chục dặm để được một bác sĩ đồng hươngchăm sóc.

    Cũng chính nơi đây, Vinh gặp lại nhiềubạn học đã mất liên lạc từ ngày xong tú tài, mỗi người mỗi ngả.

    Phúc và Lan di tản từ tháng 4 năm 1975, vẫn không thayđổi nhiều so với ngày còn ở Trung học, tương đối thành công, vẫn mang theo cảmột thời mới lớn ở Việt Nam có những lý tưởng màu hồng dù lâu lâu vẫn nghe tiếngsúng vọng về từ một chiến trường nào đó rất gần thành phố.

    Xuân đi từ trường Ngô Quyền vào trường Võ bị, vừa cởi áo trắng họctrò, khoác ngay áo treillis của lính, không có thì giờ mặc áo dân sự giữa mộtđất nước chiến tranh. Nước mất, Xuân phải vào "trại cải tạo", mặc áo màu sậm,xám xịt như đời “tù... không có tội”. Ra khỏi nhà tù nhỏ, Xuân về nhà tù lớn chỉvài tháng rồi vượt biển, và chịu khó cắp sách đi học lại đến ngày thành kỹ sư ởthung lũng điện tử của miền Bắc California.

    Tuấnrời Việt Nam qua Nhật du học từ năm mười tám. Học vừa xong, thì nước mất, khôngcòn nhà, không còn quê hương để quay về. Một sáng đầu tháng 5 năm 1975, mở mắtdậy, bỗng dưng thành một người "vô gia đình, vô tổ quốc”, Tuấn quyết định đi xahơn nữa khi Mỹ cấp free pass vào Hoa Kỳ cho các sinh viên VN đang du học ở cácnước tự do trên thế giới vào thời điểm tháng 4 năm 1975. Tuấn ổn định đời sống ởMỹ từ năm 1976. Phiêu bạt từ Việt Nam qua Nhật, rồi Mỹ, ở đâu người bạn thân củaVinh cũng mang theo hình ảnh hiền hòa, thâm trầm như nhân vật cùng tên trong"Tuấn chàng trai nước Việt".

    Tấn đậu tú tài, vàoKhông quân, được đi tu nghiệp ở Mỹ, về nước chưa kịp đóng góp nhiều cho đất nướcthì "chim gãy cánh mây ngừng trôi ", Tấn vô tù vì vận nước, rồi trở về làm đủmọi nghề để sống đến khi được qua Mỹ theo diện HO, là người đến đất nước tự domuộn màng nhất trong lớp.

    Cả một cái lớp tứ hai ởNgô Quyền xưa lưu lạc khắp nơi trên thế giới, gần một phần tư lớp hội tụ ở SanJose, mỗi lần gặp nhau vui hơn Tết, chuyện trò râm ran, tiếng cười vang lên nhưngày xưa còn ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ở quê nhà.

    Nhưng vui nhất là lần Vinh gặp thầy Hợp, thầy dạy Toán năm đệ tam ởquê nhà. Thầy định cư ở Mỹ vảo thập niên 90s, lúc đó cộng đồng Việt Nam ở vùngthung lũng điện tử San Jose đã quần tụ khá đông. Chân ướt chân ráo ở quê người,chưa có xe, từ nhà, Thầy đi hai chuyến xe bus đến khu vực thuơng mại đông đúcnhất của người Việt ờ San Jose, lấy một tờ báo quảng cáo để tìm một ông bác sĩđồng hương ở quê người. Và thầy tìm ra cậu học trò thông minh, hiền lành năm xưađang hành nghề "lương y" ở một con đường yên tĩnh gần downtown. Trong mục quảngcáo của một tờ báo VN, trong danh sách các Bác sĩ Việt Nam ở San Jose, thầy Hợptìm thấy tên của cậu học trò thông minh, hiền lành ở cù lao Phố, Biên Hòa ngàyxưa. Bao nhiêu năm đứng trên bục giảng ở nhiều trường Trung học lớn ngày xưa,như một người lái đò đưa hàng ngàn người khách qua sông; có một vài khuôn mặt,vài cái tên Thầy không hề quên.

    Gần như chắc chắnđó lả học trò cũ của mình ngày xưa, nhưng muốn dành cho cho Vinh một bất ngờ,thầy Hợp vẫn gọi điện thoại lấy hẹn, đến văn phòng đúng giờ, lảm việc với mấy côthư ký, điền hồ sơ cho một bệnh nhân mới, rồi kiên nhẫn ngồi đợi như bao nhiêungười khác.

    Gần cuối buổi làm việc, Vinh được côthư ký chuyển vào hồ sơ của bệnh nhân kế tiếp. Nhìn cái folder màu vàng nhạt cònmới toanh của một bệnh nhân mới, Vinh liếc qua tên bệnh nhân, và độ tuổi, cùnggiới tính. Tên viết theo lối Mỹ, first name, last name, initial middle name, nênVinh không hề nghĩ đó là thầy dạy Toán của mình thời trung học.

    Vinh rời phỏng làm việc của mình, đẩy cửa vào phòng cóbệnh nhân, và thả rơi cái folder xuống nền nhà, không tin vào mắt mình. Cứ nhưmột giấc mơ, thẩy dạy Toán Nguyễn Thất Hợp của năm đệ tam đang ngồi cạnh bànkhám bệnh ở San Jose, California, chứ không phải cạnh bàn giáo sư của trường NgôQuyền Biên Hòa như hai mươi năm trước. Thầy vẫn vậy, chỉ già đi theo năm tháng(như người Mỹ vẫn gọi là aging process) chứ không thay đổi. Ánh mắt nghiêm nghịvẫn còn, lấp lánh sau tròng kính trắng. Vinh quên hết nhiệm vụ của mình, quênhết mình đang khám bệnh, quên là mình đã ở xa quê nhà cả một đại dương, mừng rỡchào Thầy, vẫn cung kính như ngày xưa còn là học trò trung học.

    Từ đó, thầy Hợp được học trò chăm sóc sức khỏe rất chuđáo. Không biết vì bản chất Thầy vốn khỏe mạnh, vì Vinh chăm sóc cho Thầy khôngchỉ bằng kiến thức chuyên môn của một bác sĩ, mà còn bằng tấm lòng của một ngườihọc trò cũ, hay vì cả hai lý do, thầy Hợp trông khỏe mạnh và trẻ hơn so vớinhững người cùng độ tuổi.

    *

    Tưởng đó là lần hạnh ngộ vui nhất trong đời ở phòng khámbệnh, nhưng có một lần khác, ngạc nhiên òa vỡ lớn hơn, đưa Vinh về với vị mặncủa gió biển, với lần duy nhất hành nghề y khoa dã chiến giữa trời nước mênhmông.

    Đó là một ngày mùa hè, ngày dài đến hơn 14tiếng, bóng nắng vẫn còn lung linh trên hàng cây cổ thụ ven đường, Vinh đã cởiáo blouse trắng, chuẩn bị về thì cô thư ký gọi vào cho biết có người quen cũ,đến từ Châu Âu kiên nhẫn đợi đến lúc bệnh nhân cuối cùng rời phòng mạch để đượcgặp bác sĩ Vinh.

    Vinh đặt chìa khóa xe vào lại ngănkéo, nhờ cô thư ký mời khách vào phòng làm việc. Đó không phải là một ngườikhách, mà là một gia đình gồm ba người. Hai vợ chồng đã qua tuổi trung niên, vàmột cô thiếu nữ chắc vẫn cỏn trong độ tuổi hai mươi. Vinh cố lục lạo trí nhớ củamình để nhớ ra người quen nhưng vẫn không nhận ra được khách là ai?

    Vinh mời khách ngồi, nhã nhặn:

    - Xin lỗi, tôi có thể giúp gì được cho quý vị?

    Người đàn ông mở lời, giọng Saigon rất thân quen:

    - Thưa bác sĩ, chúng tôi từ Ý đưa bé Biển đến thăm bác sĩ, và để cảmơn bác sĩ đã lo cho mẹ con cháu chu đáo trên biển đông năm xưa.

    Vinh tròn mắt ngạc nhiên:

    - Ô, anh chị ngày xưa trên con thuyền vượt biển tháng 6 năm 1979 từLong Hải, Vũng Tàu.

    Ngưởi đàn bà cười tươi tiếp lờibằng giọng Huế nhẹ nhàng:

    - Thưa đúng rồi, bác sĩcòn nhớ chúng tôi?

    - Không những chỉ nhớ mà cònphục sự can đảm chịu đựng của chị năm xưa khi sanh con đầu lòng trên sàn tàuvượt biển không có ánh sáng, không có thuốc men, không có cả dụng cụ.

    Đó là lần hội ngộ với một bệnh nhân cũ bất ngờ, cảmđộng nhất của Vinh.

    *

    Từ chiếc tàu buôn của Ý năm xưa, 68 thuyền nhân, cộng với"công dân của đại dương", bé Biển, được đưa về trại tỵ nạn Pulau Bidong củaMalaysia. Từ đó, họ đi định cư ở nhiều nước khác nhau. Vinh định cư ở Mỹ. Giađình nhỏ ba người của bé Biển đi Ý vì cảm kích lòng tử tế của thủy thủy đoàntrên thương thuyền của Ý, và vì bé Biển mang quốc tịch Ý.

    Từ đó, bận rộn với cuộc sống mới với một khởi đầu mới ở quê người,Vinh không còn dịp liên lạc với bất cứ một thuyền nhân nào trên chuyến tàu vượtbiển năm xưa.

    Gia đình bé Biển đến Ý, ổn định cuộcsống. Họ làm hôn thú cho mình và khai sinh cho con ở Ý. Trên khai sinh, tên củabé Biển là Nguyễn Thị Đại Dương. Và như một kỷ niệm suốt đời mang theo, sợi dâychuyền với chiếc mỏ neo bằng vàng luôn nằm trên cổ em từ lúc chỉ mới vài ngàytuổi. Vài năm sau, họ có thêm một cậu con trai sinh ở Rome, vẫn có cái tên ViệtNam là Nguyễn Thái Bình, tên Ý là Grato (nghĩa là cảm ơn). Đó là cách để họ nhớđến Thái bình dương với ân tình từ rất nhiều người cả Việt Nam lẫn Ý.

    Cho đến một ngày nọ, tin tức địa phương từ một tờ báovề chuyện một ngưởi thuyền trưởng tài ba, nhân từ về hưu sau hơn 30 năm lênhđênh trên các đại dương, giúp họ tìm ra vị thuyền trưởng đã cứu vớt con tàu nhỏbé năm xưa của những người Việt Nam tỵ nạn. Họ tìm đến gặp ông, và lần này đã cóthể nghe ông kể lại câu chuyện và tâm trạng của ông năm xưa bằng tiếng Ý. Sauđó, họ được ông tặng tấm hình chụp con tàu tỵ nạn dạo nào, trên đó có họ gầy yếuxanh xao, có đứa con đầu lòng, bé Biển hãy còn đỏ hỏn, không có sữa uống, đượcnuôi bằng nước cháo.

    Tấm hình được họ mang đếntiệm, nhờ chuyển qua dạng một cái plaque treo tường. Họ làm cho mình một, và mộtplaque thứ hai để dành tặng cho ông bác sĩ trẻ năm xưa giúp bé Biển chào đời antoàn trên sàn tàu vượt biên.

    Bước vào thế kỷ 21,khoa học phát triển, google search giúp họ tìm ra bác sĩ Vinh. Vì ngày xưa trướclúc rời trại tỵ nạn, họ có hỏi thăm tên họ của Vinh. Nhờ một người bạn ở SanJose giúp đỡ thêm, họ đưa bé Biển, đã là một Bác sĩ sản khoa ở Ý, qua Mỹ thămVinh.

    Cô bác sĩ trẻ người Ý gốc Việt nói với ôngbác sĩ đã qua tuổi trung niên người Mỹ gốc Việt, bằng tiếng Việt rõ ràng, khúcchiết với giọng Huế pha Saigon:

    - Thưa bác, con cảmơn bác đã giúp cho con chào đời an toàn trên biển. Nghe ba mẹ con kể lại, và nhớơn bác năm xưa, con đã học sản khoa. Có lẽ suốt đời con không có cơ duyên đặcbiệt như bác đã làm ngày con ra đời. Nhưng con nhớ hoài chuyện đó và vẫn kể chobệnh nhân của con nghe khi họ sắp chuyển dạ để giúp họ thêm can đảm.. Con cảm ơnbác rất nhiều.

    *
    Thay cho lời kết:

    Năm 2011, trong một lầnđến họp và tập hát chuẩn bị cho hội ngộ cựu học sinh Ngô Quyền toàn thế giới lầnthứ 2, ở phòng mạch của bác sĩ HQM, một đàn anh Ngô Quyền, chúng tôi thấy mộtplaque hình thuyền vượt biển khá đẹp, và được nghe kể lại một chuyện cảm độngtrên tàu thời đó.

    Tấm plaque treo tường với chiếcghe nhỏ bé chơ vơ giữa biển xanh đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, một cựuthuyền nhân. Có những tình cờ trong cuộc sống để lại một dấu ấn suốt đời mangtheo. Xin được ghi lại vài nét của một trong những chuyện không bao giờ quêntrong lịch sử thuyền nhân. Hy vọng đời sống luôn có những người trọng tình nghĩanhư những nhân vật trong chuyện, và những hạnh ngộ bất ngờ luôn luôn làm cho đờisống đẹp hơn.

    (Viết từ một bức hình ở phòng mạchcủa BS Huỳnh Quang Minh. Thung lũng hoa vàng- đầu mùa xuân2015)


    Nguyễn Trần DiệuHương





































    Last edited by chieutim; 12-04-2015, 11:01 AM.
Working...
X