Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Vạn lý trường chinh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Vạn lý trường chinh

    VẠN LÝ TRƯỜNG CHINH




    Trương Quốc Đào



    Thay Lời Tựa



    Cuộc chiến giữa Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch và lực lượng cộng sản Trung hoa bắt đầu từ năm 1928. Phe cộng sản lúc đầu do Trương Quốc Ðào và Mao Trạch Ðông lãnh đạo. Trương Quốc Ðào và Mao Trạch Ðông là những sáng lập viên cộng đảng Trung Hoa tại Thượng Hải năm 1921.

    Ðảng cộng sản đưa ra những mục tiêu rất hấp dẫn đối với nông dân nghèo, chẳng hạn như tịch thu ruộng đất của địa chủ đem chia cho nông dân, và bãi bỏ mọi bất công xã hội. Chính vì thế đảng cộng sản đã thu hút được một số đông đảo nông dân, tình nguyện chiến đấu cho mục đích cao cả giải phóng cho nước Trung Hoa nhiều tệ đoan thối nát, khỏi những áp bức của ngoại bang, và giải phóng cho chính bản thân của họ đang bị đàn áp bóc lột.

    Ý thức được vai trò và quyền lợi của mình, người cộng sản Trung Hoa trở thành những binh sĩ có tinh thần cao. Trong khi đó, người lính Quốc dân đảng Trung Hoa nổi tiếng tham lam tàn ác, đến nỗi người Trung Hoa thường nói: “Sắt tốt thì không dùng làm đinh, và người tốt thì không thể là lính.” Một số lớn quân đội của các sứ quân dưới quyền của Tưởng Giới Thạch vừa thiếu kỷ luật vừa nghiện hút bạc nhược, không có tinh thần chiến đấu, chỉ mong hưởng thụ cầu an.

    Nhiều đạo quân trong quân đội Quốc dân đảng được gọi là những đạo quân “hai súng”, có nghĩa là họ đeo một khẩu súng thiệt, và một khẩu súng thứ hai là tẩu hút thuốc phiện. Các binh sĩ này mang theo bàn đèn thuốc phiện trong ba lô, và mỗi ngày phải ngả bàn đèn ít nhất là hai cữ. Tại Bắc Việt năm 1945, khi “quân đội chiến thắng” của Trung Hoa do tướng Lư Hán chỉ huy, sang tước khí giới của quân Nhật bại trận, chúng ta cũng đã có dịp kinh ngạc khi được chứng kiến một “quân đội chiến thắng” mà lại có thể ô hợp, thiếu tác phong đến như thế.

    Vào đầu năm 1930, Tưởng Giới Thạch bắt đầu lo ngại trước sự bành trướng mau lẹ và mạnh mẽ của hồng quân, nên tung hết sức mạnh vào việc tiêu diệt cộng sản. Nhưng quân đội Quốc dân đảng cứ tiếp tục bại trận. Chiến thuật của hồng quân Trung hoa theo đúng khẩu hiệu:

    Khi địch tiến, ta lui.

    Khi địch dừng lại và đóng trại, ta quấy rối.

    Khi địch không muốn giao chiến, ta tấn công.

    Khi địch rút lui, ta truy kích.

    Nhờ chiến thuật này, hồng quân thắng được hai đợt bao vây tiêu điệt đầu tiên của Quốc dân đảng. Năm 1931, Tưởng tập trung một lực lượng hùng hậu trên 300 ngàn binh sĩ, với ý định tràn ngập căn cứ sô viết Giang Tây chỉ có 30 ngàn hồng quân.

    Nhưng may mắn cho hồng quân, chính lúc đó quân Nhật tiến chiếm Mãn Châu, khiến Tưởng Giới Thạch phải tạm hoãn chiến dịch bao vây lần thứ ba, để lo đối phó với quân xâm lăng Nhật Bản. Nhờ vậy, hồng quân có đủ thời giờ dưỡng sức và bồi dưỡng, đủ sức đánh bại được đợt bao vây lần thứ tư vào mùa đông năm 1933.

    Hitler rất quan ngại đến sự bành trướng của cộng sản thế giới, nên cử tướng Hans von Seeckt sang Trung Hoa giúp Tưởng Giới Thạch tiêu diệt cộng sản. Hans von Seeckt áp dụng một chiến thuật bao vây tiêu diệt bằng cách thiết lập hàng loạt pháo đài và xa lộ bao vây khu vực cộng sản.

    Vòng vây này cứ từ từ xiết chặt lại, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế quân nhu thực phẩm từ bên ngoài. Chiến lược bao vây như vậy rất là tốn kém, nhưng gây thiệt hại lớn lao cho phe cộng sản và dân chúng sống trong vùng cộng sản kiểm soát. Người ta ước tính ít nhất trên một triệu người Trung Hoa trong khu sô viết Giang Tây đã bị tiêu diệt, hoặc bằng bom đạn hoặc vì thiếu thuốc men và lương thực.

    Nga sô thấy thế nguy của cộng sản Trung hoa nên phái một danh tướng cộng sản, cũng người Ðức, tướng Otto Braun, sang giúp phe cộng. Otto Braun lấy tên Trung hoa là Lý Ðức. Phe cộng sản thành công tránh né được bốn đợt bao vây tấn công của Quốc dân đảng, và Mao chủ trương bỏ thành thị lấy thôn quê làm điểm tựa cho cuộc trường kỳ kháng chiến. Cuối tháng 10 năm 1933, Tưởng động viên toàn lực, tung ra cuộc tổng tấn công lần thứ năm.

    Cuộc bao vây tấn công này kéo dài trong nhiều tháng và kết quả đã gây khốn quẫn cho phe cộng sản, đặc biệt là thiếu muối ăn. Chính quyền Nam Kinh tin tưởng nỗ lực tiêu diệt trọn vẹn cộng sản sắp thành công, vì địch quân bị bao vây và không đường trốn thoát. Trong đợt bao vây tấn công lần thứ năm, 50 ngàn quân cộng sản tử trận, cả khu vực bị tàn phá, dân chúng hoặc bị xử tử hoặc bị bắt buộc phải di cư đi nơi khác.

    Cuối cùng Lý Ðức đành phải thay đổi chiến lược, bỏ chiến thuật du kích, tung 180 ngàn quân đánh chiếm và giữ thành phố, và đương đầu với quân Quốc dân đảng bằng trận địa chiến, nhưng bị quân cơ giới của Tưởng đánh bại.

    Cuối cùng phe cộng sản chỉ còn lại 90 ngàn quân. Sau 7 năm chiến đấu tại sô viết Giang Tây, các lãnh tụ cộng sản chỉ còn hai lựa chọn: hoặc đầu hàng Quốc dân đảng hoặc phải rút lui lẩn tránh đại quân của Tưởng. Bằng một quyết định táo bạo, các lãnh tụ cộng sản quyết định dẫn đám tàn quân trốn lên vùng hoang giá của miền bắc Trung Hoa, để tránh bị tiêu diệt và chờ cơ hội phục thù.

    Ngày 16-10-1934, các lãnh tụ cộng sản và đám tàn quân bắt đầu cuộc rút lui lịch sử mà ngày nay người ta gọi là cuộc Vạn Lý Trường Chinh, hay là cuộc Trường Hành, một cuộc chạy trốn dài 6 ngàn dậm, bắt đầu từ Giang Tây và Phúc Kiến, tiến về phía tây tới Tây Tạng rồi đi ngược lên phía bắc, tới tận Diên An của tỉnh Thiểm Tây ở miền bắc hẻo lánh của Trung Hoa.

    Trong lịch sử Trung Hoa cũng đã có một cuộc rút lui tương tự của Lưu Bang vào đất Ba Thục, đốt đường sạn đạo để tránh bị Hạng Võ tiêu diệt, và chờ ngày phục hận.

    Tuy nhiên cuộc Vạn Lý Trường Chinh của người cộng sản Trung Hoa gian nan gấp bội lần cuộc rút lui của Lưu Bang vào đất Ba Thục. Không những con đường của họ dài hơn nhiều, mà trên đường chạy trốn, những người cộng sản bại trận luôn luôn bị đại quân của Tưởng Giới Thạch đuổi theo truy kích.

    Không những thế, họ còn phải đương đầu với những khó khăn kinh hồn của thiên nhiên, núi cao sông rộng, đói khát, bệnh tật và tuyết lạnh. Khi khởi đầu cuộc rút lui, hồng quân có 90 ngàn người, nhưng một năm sau khi tới Diên An thì chỉ còn 7 ngàn người sống sót.

    Sự nguy hiểm của hồng quân trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh thật khủng khiếp. Chu Ân Lai phải xác nhận: “Ðối với chúng tôi, giờ phút đen tối nhất của lịch sử là cuộc Vạn Lý Trường Chinh, nhất là khi chúng tôi phải băng qua Cánh Ðồng Cỏ Hoang gần Tây Tạng.

    Hoàn cảnh của chúng tôi lúc đó thật tuyệt vọng. Không những chúng tôi không có gì để ăn, mà chúng tôi không có cả nước uống. Vậy mà chúng tôi vẫn thoát hiểm và chiến thắng.” Mao Trạch Ðông cũng kể lại: “Mỗi giấc ngủ của tôi phải trả giá bằng sự hy sinh của một đồng chí.”

    Người cộng sản hãnh diện nhắc nhở đến cuộc Vạn Lý Trường Chinh như là một thiên anh hùng ca độc nhất trong lịch sử nhân loại. Họ vượt qua được mọi trở ngại vô cùng to lớn, để rồi chiến thắng làm chủ lục địa Trung Hoa. Người ta không thể phủ nhận rằng đây là một cuộc “trường chinh” vĩ đại, nhưng huy chương nào cũng có mặt trái của nó. Các lãnh tụ cộng sản không hề cho binh sĩ biết sự thực của cuộc rút lui.

    Cán binh cộng sản chỉ tưởng cuộc rút lui là một chiến dịch tấn công mới, chứ không hề hay biết họ sẽ phải dấn thân vào một cuộc ra đi đầy nguy hiểm, mười người không sống sót được một. Trên đường rút lui, khi tới những nơi có thể dừng lại được, các lãnh tụ cộng sản tịch thu lương thực tài sản của nhà giầu, gọi là để chia cho người nghèo, nhưng phần lớn là để cho quân cộng sản dùng. Rồi cộng sản tổ chức chế độ cộng sản, chia ruộng cho nông dân và đấu tố địa chủ và giai cấp cai trị.

    Khi quân cộng sản bị áp lực của quân Quốc dân đảng phải rút đi thì các nông dân vừa mới được hưởng “phú quý” vài ngày lâm vào thế kẹt. Nếu họ ở lại thì họ sẽ bị địa chủ và quân Quốc dân đảng trừng phạt. Những nông dân này chỉ còn một con đường duy nhất là phải đi theo hồng quân. Các lãnh tụ cộng sản cần rất nhiều quân lót đường để họ đi tới đích.

    Như vậy số quân rút lui bị thiệt mạng trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh không phải chỉ có gần 90 ngàn người lúc ban đầu ra đi từ Giang Tây, mà còn có thêm hàng trăm ngàn dân bị đặt vào thế kẹt mà phải đi theo hồng quân ở dọc đường.

    Trên đường trốn chạy, trong lúc binh sĩ phải trèo núi vượt sông đầy gian lao nguy hiểm, thì các lãnh tụ cao cấp được nằm trên cáng gần như suốt lộ trình, hoặc người khoẻ thì được cưỡi ngựa. Khi leo núi không dùng được cáng thì các lãnh tụ được binh sĩ khoẻ mạnh cõng trên lưng. Chuyến đi tuy gian nan vất vả và nguy hiểm, nhưng đối với các lãnh tụ cao cấp thì tương đối nhàn nhã bình yên.

    Binh sĩ không ai được đem theo vợ con, nhưng các lãnh tụ hoặc cấp chỉ huy quân sự cao cấp đều đem theo vợ. Lãnh tụ nào không có vợ thì dọc đường cũng tìm được người bầu bạn giải khuây. Khi các bà vợ của các lãnh tụ mang thai và chửa đẻ thì binh sĩ phải quây lều vải ngay trên đường đi để các “bà lớn” có chỗ lâm bồn. Ðó là tình “huynh đệ chi binh” và chủ trương “đồng lao cộng khổ” kiểu Trung cộng.

    Chính vợ Mao Trạch Ðông đã sinh đẻ hai lần trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Sau khi vợ đẻ xong, Mao gửi con cho các nông dân tại địa phương nuôi dùm, dự định sau này sẽ trở lại tìm kiếm. Nhưng về sau các nông dân nghèo bị chiến tranh xua đuổi lạc lõng khắp nơi, hoặc chết đói chết đạn nên hai đứa con của Mao mất tích luôn.

    Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày tất cả những điều chưa được nói đến trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, và cuộc đời thầm kín của các lãnh tụ cộng sản Trung Hoa.





    (Xem Tiép Chương 2)

    Tài liệu lịch sử
    Nguyễn Vạn Lý tổng hợp
    sigpic


  • #2
    Vạn lý trường chinh

    Chương Một

    Tẩu Vi Thượng Sách





    Mao Trạch Đông và Trương Quốc Đào



    Buổi chiều ngày 9-10-1934, Chu Ân Lai đến thăm Trần Nghị tại một quân y viện của hồng quân Trung hoa, và báo cho Trần Nghị một tin không vui. Ủy Ban Trung Ương đã quyết định trong vài ngày nữa, lực lượng chính quy của hồng quân sẽ rút lui khỏi căn cứ sô viết tại Giang Tây, cố gắng phá vòng vây của quân Quốc dân đảng, rồi tiến về phía tây lập một căn cứ mới.

    Hồng quân đang lâm vào thế quẫn bách, không thể chống lại được quân Quốc dân đảng, và bắt buộc phải lui binh để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn, trước Chiến Dịch Tiêu Diệt Quân Cướp Ðỏ của Tưởng Giới Thạch.

    Trần Nghị lúc đó đang bị thương nặng. Trong một trận giao chiến với quân Quốc dân đảng một tháng trước đó, Trần Nghị bị trúng một viên đạn vào mông, xương hông bị vỡ, và vết thương nhất định không chịu lành. Các điều kiện của quân y viện quá nghèo nàn, không có máy chiếu điện nên các y sĩ không biết tình trạng xương hông của Trần Nghị ra sao.

    Trần Nghị là một tướng trẻ có tài, gốc người Tứ Xuyên. Tuy mới 33 tuổi mà Trần Nghị đã tạo được nhiều thành tích chiến đấu lẫy lừng, và được coi là một viên tướng thông minh nhất của hồng quân Trung hoa. Sau này Trần Nghị được phong chức thống chế, và một thời gian giữ chức ngoại trưởng của Trung cộng.

    Chu Ân Lai còn cho Trần Nghị biết thêm rằng, tình trạng sức khoẻ của Trần Nghị không cho phép Trần Nghị di chuyển theo đại quân. Trần Nghị được giao phó trọng trách ở lại, áp dụng chiến thuật du kích, khuấy phá hậu phương của địch. Trần Nghị đã từng chiến đấu tại Tỉnh Cương Sơn với Mao Trạch Ðông và Chu Ðức từ năm 1929. Họ Trần rất am tường địa hình địa vật của chiến khu này.

    Trần Nghị và Mao cùng với Chu Ðức thành công mở rộng khu vực sô viết lên đến 33 quận tại Giang Tây, tới sát biên giới Phúc Kiến. Dân chúng sống dưới quyền kiểm soát của cộng sản lên đến ba triệu người.

    Trần Nghị là một người thực tế. Viên tướng cộng sản này biết rất rõ trong một năm gần đây, hồng quân đã chịu những tổn thất rất nặng nề. Trong đợt bao vây lần thứ năm của Quốc dân đảng, hồng quân thua hết trận này đến trận khác, và đã hy sinh 60 ngàn quân chính quy. Bây giờ hồng quân phải chấp nhận chiến bại, và phải đương đầu với một cuộc rút lui vô cùng nguy hiểm.

    Hồng quân không thể rút ra biển hoặc về đồng bằng được, vì những khu vực ấy hiện nằm dưới sự kiểm soát của Tưởng Giới Thạch. Hồng quân bắt buộc phải đi vào chỗ nguy hiểm nhất, đi vào chỗ chết để tìm sự sống. Sinh lộ duy nhất của hồng quân là tiến vào các khu vực núi non hiểm trở, lấy thiên nhiên che chở chống lại chiến dịch tiêu diệt của quân Quốc dân đảng.

    Quân số dưới quyền Trần Nghị chỉ còn vào khoảng 30 ngàn người, trong đó có trên 10 ngàn bị thương nặng như Trần Nghị. Quân số này sẽ phải ở lại với Trần Nghị, lẩn vào rừng núi và áp dụng chiến thuật du kích tiêu hao chiến, chống lại một kẻ thù đông gấp bội và được trang bị đầy đủ.

    Quân số thực sự có thể chiến đấu được của Trần Nghị chỉ có vào khoảng 16 ngàn người, trong đó chỉ có bảy ngàn được huấn luyện như quân chính quy, số còn lại chỉ là dân quân du kích, phần lớn chưa hề được dùng súng, chỉ được cung cấp dao và lựu đạn. Một lực lượng như thế phải đương đầu với 200 ngàn quân của Tưởng Giới Thạch, được cơ giới hóa, trang bị đầy đủ quân nhu và lương thực.

    Trần Nghị không dám hỏi Chu Ân Lai xem lực lượng ở lại của mình sẽ được tiếp tế đầy đủ vũ khí đạn dược không. Trần Nghị cũng biết dù có đòi hỏi thì Ủy Ban Trung Ương cũng không thể làm gì được. Ngay quân chính quy còn phải chịu thiếu thốn quân trang và vũ khí thì quân du kích làm sao có đủ được.

    Chu Ân Lai cũng biết Trần Nghị không hào hứng lắm với mệnh lệnh và nhiệm vụ mới được giao phó. Tuy nhiên Chu Ân Lai cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của Trần Nghị. Trước hết quân du kích của Trần Nghị có nhiệm vụ cầm chân quân Quốc dân đảng để cuộc rút lui của hồng quân có thể thực hiện thành công.

    Trong số các tướng của Trung cộng thì không ai sánh bằng Trần Nghị trong nhiệm vụ ở lại. Không một khe núi, một nhánh sông nào trong vùng mà Trần Nghị không biết rõ. Trần Nghị cũng có uy tín lớn đối với dân chúng trong khu vực. Trần Nghị ở lại sẽ nâng cao tinh thần chiến đấu của quân và dân.

    Trần Nghị không phải là người duy nhất Chu Ân Lai thông báo quyết định rút lui. Trước đó Chu Ân Lai đã cho mời Mao Trạch Ðông từ Vu Ðô tới trụ sở của Ủy Ban Trung Ương tại Thụy Kim và báo cho Mao biết quyết định trên. Mao lúc đó vừa đúng 40 tuổi và đang ở trong tình trạng thất thế. Gần một năm rồi, Mao bị bệnh sốt rét hành hạ, và không được tham gia vào các cuộc họp quan trọng của đảng. Mao hầu như sống trong tình trạng bị giam lỏng tại gia.

    Ủy Ban Trung Ương gồm có ba người: Lý Ðức, tư lệnh hồng quân, Bác Cổ, tổng bí thư đảng, và Chu Ân Lai, chủ tịch Ủy Ban Quân Sự và phụ trách các vấn đề hành chánh. Lệnh rút lui này là của Lý Ðức và được Bác Cổ mau lẹ chấp thuận. Lý Ðức và Bác Cổ là người của Nga sô và liên kết với nhau. Chu Ân Lai chỉ là tiếng nói thiểu số. Phe thân Nga đang lấn át tất cả những đảng viên không được huấn luyện tại Nga sô, như trường hợp Mao Trạch Ðông.

    Nhóm thân Nga chủ trương trục xuất Mao ra khỏi đảng, và không muốn Mao tham dự cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Hai năm trước Mao bị loại ra khỏi các chức vụ quân sự và chính trị, và chỉ được giữ một chức vụ tượng trưng, là chủ tịch đảng tại quận Vu Ðô, một thị trấn có khoảng 10 ngàn dân.

    Nhiệm vụ của Mao lúc ấy là chủ tọa các cuộc họp của ủy ban địa phương tại Vu Ðô. Mao cư ngụ trong một căn nhà tại phía bắc Vu Ðô, cùng với Hạ Tử Trân, người vợ thứ hai, 24 tuổi, và đang có thai đứa con thứ tư. Mao bị cô lập, không được liên lạc với các giới chức cao cấp về quân sự và chính trị.

    Hai tháng trước cuộc bao vây tiệu diệt lần thứ năm của Quốc dân đảng, Mao đã đề nghị tung những lực lượng chủ yếu của hồng quân đánh sâu vào khu vực Giang Tô – Triết Giang – An Huy – Giang Tây, với Triết Giang là trung tâm và quét sạch một vùng rộng lớn giữa Hàng Châu, Tô Châu, Nam Kinh, Ngũ Hồ, Nam Xương và Phúc Châu, biến thế phòng ngự chiến lược của hồng quân thành thế tấn công chiến lược, uy hiếp những trung tâm trọng yếu của Quốc dân đảng, và tìm những trận đánh tại những vùng rộng lớn, không có những lô cốt bao vây như tại Giang Tây.

    Mao cho rằng bằng cách như vậy, hồng quân có thể buộc quân Quốc dân đảng lúc đó đang tiến vào phía nam Giang Tây và phía tây Phúc Kiến, phải quay về bảo vệ những trung tâm trọng yếu. Mao tin rằng hồng quân có thể phá vỡ được cuộc bao vây tấn công lần thứ năm của Quốc quân vào khu sô viết Giang Tây. Lần khác Mao đề nghị tiến quân đánh Hán Khẩu và tiến thẳng tới Nam Kinh.

    Nhưng tại Bộ Chính Trị chẳng ai nghe lời của Mao. Lý Ðức còn đề nghị đưa Mao sang điều trị bệnh sốt rét tại Nga sô, một hình thức loại trừ. Nhưng Nga sô thấy còn cần đến uy tín của Mao đối với dân chúng, nên bác bỏ đề nghị của Lý Ðức. Mao cũng kịch liệt chống đối việc phải sang chữa bệnh tại Nga sô, vì Mao biết một khi ra khỏi Trung hoa thì Mao sẽ không có cơ hội trở về, và mất hẳn quyền chính trị.

    Bệnh sốt rét đã hủy hoại sức khỏe và thân thể của Mao rất nhiều, nhưng lúc nào Mao cũng cố giữ vững tinh thần cho minh mẫn, và cảnh giác trước những âm mưu hãm hại của kẻ thù là những lãnh tụ cộng sản thân Nga sô, đang nắm giữ những chức vụ quan trọng trong đảng và chính quyền. Chính vì thế khi Chu Ân Lai thông báo lệnh rút lui thì Mao chỉ im lặng chấp nhận. Lúc nào Mao cũng đề phòng Bác Cổ kết tội rồi thủ tiêu.

    Ngoài Mao Trạch Ðông và Trần Nghị, Chu Ân Lai còn thông báo quyết định quân sự tối mật này cho 5 tư lệnh các quân đoàn, trong đó có Lâm Bưu và Bành Ðức Hoài. Lâm Bưu tìm cách lén đến nơi cư ngụ của Mao Trạch Ðông, và hỏi ý kiến Mao về cuộc rút lui. Mao dè dặt khuyên Lâm Bưu: “Tướng quân nên tuân lệnh trên và phải đi tới nơi đã được chỉ định.

    ” Mao biết địa điểm phải tới, nhưng đây là một mật lệnh quân sự, Mao không dám nhắc đến địa danh đó, dù với Lâm Bưu, một người có vẻ trung thành với Mao. Mao thận trọng tránh không tiết lộ bí mật quân sự để Bác Cổ không có lý do hãm hại mình. Một số người thân tín của Mao Trạch Ðông phải ở lại, như vợ chồng em ruột của Mao như Mao Trạch Ðàm có vợ là em ruột Hạ Tử Trân, và một số bạn thân của Mao. Hình như tất cả những người Mao đề nghị cho đi theo đều bị Lý Ðức và Bác Cổ từ chối.

    Tuy cuộc rút lui vào nơi hoang dã đã nguy hiểm, nhưng số phận những người ở lại khi quân Quốc dân đảng tiến tới còn nguy hiểm gấp bội, cơ hội sống sót trong trường hợp này không bằng một phần mười. Chính Mao Trạch Ðàm, em của Mao, và thân phụ của Hạ Tử Trân đã là những người đầu tiên bị quốc quân hành quyết, khi khu vực sô viết Giang Tây lọt vào tay quốc quân.

    Theo chương trình của Ủy Ban Trung Ương thì hồng quân sẽ tập trung và tấn công quốc quân tại mặt trận phía tây, rồi từ đó tiến về một căn cứ mới do tướng Hạ Long đã thiết lập được tại vùng tây bắc, nằm giữa biên giới hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc. Quân số còn lại của hồng quân sẽ rút lui có khoảng 86 ngàn, trực thuộc năm quân đoàn.

    Ngoài năm quân đoàn này ra còn có thêm 30 phụ nữ và hai lộ quân gồm chín ngàn người, thuộc Ủy Ban Quân Sự và Lộ quân Trung ương. Ðệ nhất quân đoàn do Bành Ðức Hoài chỉ huy có nhiệm vụ đi tiên phong, mở đường máu cho đại quân đi sau. Ðệ nhất quân đoàn của Bành Ðức Hoài thành công trong nhiệm vụ giao phó, nhưng đã phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề.

    *

    Buổi chiều ngày 10-10-1934, một đám đông bắt đầu tụ tập trước trụ sở Ủy Ban Trung Ương tại Thụy Kim để chuẩn bị lên đường. Hôm đó là một ngày rất đẹp trời và ấm áp. Những người tập hợp tại đây không phải là quân nhân; có khoảng một trăm đàn ông và vài chục phụ nữ. Tất cả được xung vào đoàn “dưỡng nhân” – những người yếu đuối hoặc già cả, bệnh tật hoặc bị thương, và đàn bà.

    Mỗi người mang theo một cái mền, một bao lương thực, mười cân gạo đủ dùng cho mười ngày, một túi quần áo và các đồ vật dụng hàng ngày. Mỗi người còn nhét vào thắt lưng một chiếc ly sành, trong đựng một bàn chải đánh răng và một chiếc khăn tay nhét đầy cái ly.

    Một số người được cưỡi ngựa, như Mao Trạch Ðông, Sử Thế Ly vị sư phụ 57 tuổi từng dậy Mao tại trường Sư Phạm Trường Sa trước kia, Ðổng Tất Vũ một đảng viên cộng sản đầu tiên 48 tuổi, Hạ Tử Trân vợ của Mao đang mang bầu sắp tới ngày sinh, và một số phụ nữ.

    Cái đám đông lếch thếch ấy sau đó được phân thành từng đội nhỏ, và đặt dưới quyền chỉ huy của Ðặng Phát, chỉ huy trưởng ngành an ninh của đảng. Những người thuộc đoàn “dưỡng nhân” này được đi trước. Riêng Mao Trạch Ðông chưa đi ngay, vì Mao còn phải làm một vài công việc cần thiết, và việc khó khăn nhất là đọc một bài diễn văn trước các cán bộ tại Vu Ðô và dân chúng ở lại.

    Mao muốn chỉ dẫn cho những người ở lại một vài ý niệm về những gì sẽ xảy tới, và phải đối phó thế nào khi hồng quân đã rút hết và quốc quân tới nơi. Tuy sức khỏe suy nhược, Mao đã cố hết sức nói một cách đầy tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng, mặc dầu những khó khăn to lớn mà hồng quân hiện đang phải đối phó.

    Các lãnh tụ Trung cộng đều có biệt tài tuyên truyền. Chính Mao cũng không chắc sống sót được trong cuộc chạy trốn, nhưng Mao vẫn hùng hồn nói đến chiến thắng cuối cùng, và kêu gọi dân chúng tiếp tục hy sinh chiến đấu!

    Trong khi đó hồng quân ra sức tuyển mộ những thanh niên tình nguyện, bổ xung thêm quân số. Tất cả hồng quân được lệnh chuẩn bị cho một cuộc hành quân quan trọng nhằm phá vỡ vòng vây của địch quân.

    Mỗi người phải mang theo lương thực đủ dùng cho mười ngày. Mọi người tưởng sắp sửa tham gia một trận đánh mới, nên họ rất đỗi ngạc nhiên khi được lệnh phải đem theo quần áo ấm mùa đông, mặc dù thời tiết tháng mười chưa lạnh lắm.

    Ngày 12-10, tất cả các cán bộ mọi cấp rút lui từ Thụy Kim về Vu Ðô. Họ đi ban đêm để tránh sự nghi ngờ của quốc quân. Hàng ngàn phu khuân vác đem theo tất cả những gì có thể đem theo được, kể cả những dụng cụ rất nặng nề, như máy in, những tủ đựng hồ sơ, những chiếc rương lớn chứa đầy vàng bạc thuốc men, các cỗ súng nặng, các bộ phận phát thanh và điện thoại. Ngày 16-10 là ngày hồng quân chính thức rút lui.

    Từng đoàn quân từ nhiều nơi khác nhau tiến ngang qua Vu Ðô, vượt qua con sông Vu Giang để tới An quận về phía nam.

    Mãi chiều tối ngày 18-10, Mao Trạch Ðông và đoàn tùy tùng khoảng hai mươi người, gồm cả thư ký và vệ sĩ, mới bắt đầu lên đường, gia nhập vào Lộ Quân Trung Ương. Mao mang theo một túi đựng đầy sách, một chiếc dù gẫy cán, hai cái mền, và một áo choàng đã rách. Tất cả di chuyển một cách âm thầm kín đáo, hy vọng các oanh tạc cơ của quốc quân không khám phá ra họ.

    Kể từ Lý Ðức và Bác Cổ trở xuống, không ai biết chắc hồng quân sẽ thành công đi đến đâu. Nhiều người nghĩ rằng cuộc rút lui vào nơi hoang dã, bỏ lại các căn cứ đã được tổ chức thành công từ nhiều năm qua là một hành động tự sát. Vì mang theo quá nhiều đồ nặng nề, nên có những phu khuân vác mỗi ngày chỉ tiến được vài dậm.

    Một tiểu đoàn công binh bắc năm cây cầu nổi qua con sông Vu Giang. Nước sông chảy về phía đông nam ra biển cả, trong khi hồng quân đi ngược chiều của dòng sông, đi về phía tây bắc, tới những ngọn núi cao chìm vào mây. Phần lớn hồng quân là những nông dân, những người vốn nặng lòng quyến luyến quê hương làng mạc và gia đình cùng lối xóm.

    Lần ra đi này, mọi nguời linh cảm ít có hy vọng trở lại làng cũ và gặp lại cha mẹ, vợ con. Tới bờ sông, nhiều người quay lại nhìn con đường cũ, rồi im lặng nhìn nhau và cùng hoang mang cảm thấy một nỗi buồn xót xa.

    Về mùa này nước sông rất thấp, nhiều chỗ quân sĩ có thể lội qua được. Mao và đoàn tùy tùng đi dọc theo bờ sông. Mặt sông phẳng lặng và bóng loáng dưới ánh trăng. Mọi người qua con sông nhỏ một cách dễ dàng.

    Sự im lặng, ánh trăng và tiếng nước vỗ nhẹ vào các cây cầu nổi đã gây cảm hứng và nâng cao tinh thần mọi người. Bỗng một vài người bắt đầu cất tiếng hát. Tiếng hát của họ có vui tươi hùng hồn, nhưng không khỏi cảm khái bùi ngùi. Họ biết họ đang tiến vào một con đường vô định, với một mục tiêu còn rất xa vời.





    (Xem Tiép Chương 2)

    Tài liệu lịch sử
    Nguyễn Vạn Lý tổng hợp
    sigpic

    Comment


    • #3
      Vạn lý trường chinh

      Chương Hai

      Những Ngày Ðầu Của Hồng Quân








      Trần Nghị



      Ðối với Tưởng Giới Thạch thì chưa bao giờ mọi việc lại tốt đẹp đến như thế. Ngày 15-10-1934, Tưởng cùng bà vợ Tống Mỹ Linh lên phi cơ từ Nam Xương để đi quan sát chiến trường vùng tây bắc. Kể từ ngày kết hôn với Tưởng Giới Thạch, trở thành vị đệ nhất phu nhân đầy quyền thế đến nay, bà Tống Mỹ Linh, cô con gái út của Tống Giáo Nhân, ít khi xa chồng, kể cả những lúc Tưởng đi quan sát chiến trường.

      Kể từ năm 1930, khi mà Tưởng tung hết sức mạnh nhằm diệt trừ “Quân Cướp Ðỏ”, thì Tưởng có mặt thường xuyên tại Nam Xương. Bây giờ thì Tưởng hài lòng lắm. Nhờ chiến pháp của Hans von Seeckt, quân Quốc dân đảng đã dồn hồng quân vào chân tường, và số phận của “Quân Cướp Ðỏ” chỉ còn được tính từng ngày.

      Tưởng sẽ loại được mối lo tâm phúc nhất, để dồn hết nỗ lực còn lại vào việc chinh phục các sứ quân, và thống nhất nước Trung hoa. Giấc mơ làm chúa tể Trung hoa của Tưởng chưa bao giờ hứa hẹn rực rỡ như lúc đó.

      Các tay đao phủ của Tưởng Giới Thạch đã chặt đầu rất nhiều đảng viên cộng sản, và cả những người thân cộng, đến nỗi hàng ngũ cộng sản không thể phát triển mạnh về nhân lực được. Số người bị Tưởng hạ lệnh chém đầu nhiều hơn con số tuyển mộ bổ xung của hồng quân.

      Tuy vậy Tưởng cũng phải thầm khen những cấp chỉ huy của hồng quân tại Giang Tây. Tưởng cũng quen biết nhiều người trong nhóm này, khi mà tất cả cùng kết hợp nhau dưới lá cờ của Tôn Dật Tiên. Một trong những thủ lãnh cộng sản mà Tưởng căm thù nhất là Chu Ân Lai. Trước kia Chu Ân Lai là phụ tá của Tưởng tại trường võ bị danh tiếng Hoàng Phố. Lúc đó Tưởng là chỉ huy trưởng, còn Chu Ân Lai phụ trách việc huấn luyện chính trị.

      Nhiều lãnh tụ quân sự của hồng quân cũng đã từng học tại Hoàng Phố. Cũng có những người chưa được đào luyện tại Hoàng Phố, như Mao Trạch Ðông và Chu Ðức. Tưởng cũng từng nghe nói rất nhiều về Mao Trạch Ðông, mặc dầu hai người chưa từng có dịp gặp nhau. Về phần Chu Ðức trước kia cũng là một sứ quân, có rất nhiều vợ và nghiện thuốc phiện. Nhưng về sau Chu Ðức giải tán các bà vợ, bỏ thuốc phiện và gia nhập hồng quân.

      Mao Trạch Ðông và Chu Ðức chiến đấu sát cánh nhau rất thân thiết thành cặp bài trùng Chu Mao. Nhiều người lúc đầu không biết, cứ tưởng Chu Mao là một người. Tuy nhiên Mao Trạch Ðông và Chu Ðức chỉ hợp tác chặt chẽ với nhau trong những ngày chiến đấu gian khổ; khi phe cộng sản đạt được chiến thắng làm chủ Hoa Lục, Mao và Chu Ðức thường chống đối nhau vì quyền lợi cá nhân.

      Tuy Tưởng gọi những kẻ thù cộng sản là “Quân Cướp Ðỏ”, nhưng Tưởng không bao giờ đánh giá họ quá thấp. Họ đã liên tiếp thành công đánh bại quân của Tưởng trong suốt bảy năm vừa qua. Nhờ Hans von Seeckt đến giúp, làm thay đổi hẳn cục diện. Hans von Seeckt tiến quân rất chậm và thận trọng.

      Trong khi tiến quân, Hans von Seeckt thiết lập những pháo đài, đồn bót ngăn chặn tất cả mọi con đường dẫn vào khu vực cộng sản. Vòng vây của Hans von Seeckt cứ từ từ xiết chặt lại. Việc buôn bán giữa khu vực cộng sản và khu vực Quốc dân đảng hoàn toàn bị cắt đứt.

      Không ai vào được khu vực cộng sản, và cũng không ai đi ra được từ khu vực cộng sản. Người dân sống trong khu vực cộng sản không bán được lúa gạo và ngô khoai, nhưng lại thiếu thốn muối, dầu lửa và vải.

      Trước khi Tưởng tung ra đợt tấn công thứ năm, quân cộng sản vẫn tiếp tục chiến thắng bằng chiến thuật du kích, tấn công lén rồi rút lui. Hồng quân dụ cho quân Quốc dân đảng tiến sâu vào khu vực cộng sản, rồi dùng những cuộc phục kích để tiêu diệt. Hồng quân chiếm được rất nhiều lương thực và vũ khí.

      Rất nhiều quân Quốc dân đảng bị bắt làm tù binh, rồi bị cộng sản cải tạo để trở thành những người thay thế cho những tổn thất về quân số của hồng quân.

      Nhưng bây giờ thì hồng quân không thể nào đối địch trực tiếp với quân Quốc dân đảng được nữa. Trong trận Quảng Xương tháng 4-1934, hồng quân và quốc quân đã chiến đấu bất phân thắng bại. Ðây là lần đầu tiên quân của Tưởng có thể cầm cự nghiêng ngửa với hồng quân. Cả hai bên đều không tiến lên được, dù là một tấc đất.

      Hồng quân bị tổn thất tám ngàn quân trong trận đánh này. Quân của Tưởng cũng bị thiệt hại tương tự. Nhưng Tưởng có thể bổ xung số quân tử trận mau lẹ, trong khi hồng quân không có khả năng thay thế được những thiệt hại to lớn về quân số được, vì nhân sự trong khu vực cộng sản đã được xử dụng tới tối đa, nay đã đến lúc kiệt quệ.

      Chưa bao giờ Tưởng lên tinh thần như hiện nay. Cộng sản là lực lượng chính yếu cản trở mộng thống nhất Trung Hoa của Tưởng. Bây giờ hồng quân sắp bị tiêu diệt. Tưởng hy vọng có thể xin được viện trợ ngoại quốc để tạo thế mạnh trong cuộc thương thuyết đòi lại đất Mãn Châu trong tay người Nhật. Hitler hiện đang giúp Tưởng đánh lại hồng quân, nhưng Hitler sẽ không dám công khai giúp Tưởng chống lại Nhật, vì Hitler đang muốn lấy lòng Nhật để Nhật trở thành đồng minh với Ðức.

      Tuy vậy Tưởng vẫn lạc quan hy vọng có được sự trợ giúp ngầm của Hitler. Về phần Stalin thì Tưởng tin rằng Stalin là người thực tế, nghĩ đến quyền lợi của Nga sô trước hết. Stalin sẽ không bao giờ trợ giúp Tưởng đánh bại cộng sản Trung hoa. Nhưng khi cộng sản Trung Hoa bị tiêu diệt rồi, thì Stalin sẽ nghiêng về Tưởng, vì một nước Trung Hoa thống nhất dưới quyền lãnh đạo tối cao của Tưởng sẽ có lợi cho Nga nhiều hơn.

      Phi cơ của Tưởng tiếp tục bay từ Nam Xương, dọc theo sông Dương Tử, trên những cánh đồng lúa mì phì nhiêu và qua những vùng đồi vàng một mầu đất hoàng thổ. Ðằng sau Tưởng là Giang Tây, một khu vực mà hồng quân đang bị vây tứ phía, không còn đường rút lui. Tưởng lẩm bẩm: “Chúng bay sẽ bị tiêu diệt trọn ổ trong nay mai. Cái ngày tàn của chúng bay không còn xa đâu.” Tưởng định khi trở về Nam Xương sẽ ra lệnh mở cuộc tấn công tàn sát cuối cùng.

      Nhiều người tại Nam Xương cũng phải chia xẻ sự lạc quan của Tưởng Giới Thạch cho rằng có thể tiêu diệt hết quân cộng sản tại Giang Tây. Người Trung hoa tại các nơi khác biết rất ít về sự hiện diện của cộng sản, nhưng người dân tại Nam Xương biết rõ khí thế và hoạt động của cộng sản hơn.

      Họ đã biết quân cộng sản từ ngày 1-8-1927, khi cộng sản vùng lên chiếm thành phố, rồi gióng cờ lên tiến về phía nam, trong hy vọng khôi phục lại một cuộc cách mạng mà Tưởng Giới Thạch đã hủy diệt trong biển máu tại Thượng Hải. Nhân vật nổi bật nhất trong cuộc nổi dậy tại Nam Xương là một thanh niên đẹp trai, lúc đó mới có 29 tuổi. Chàng thanh niên đó là Chu Ân Lai, một người tự nhận là “sản phẩm của một gia đình quan lại băng hoại.”

      Giống phần đông thanh niên Trung hoa cùng thế hệ, Chu Ân Lai đã không bỏ lỡ cơ hội đầu tiên gia nhập các phong trào sinh viên quá khích. Sau đó Chu Ân Lai xuất ngoại sang Âu châu, làm việc tại hãng xe hơi Renault của Pháp, rồi học tại Ba Lê và Bá Linh, Ðức quốc. Chu Ân Lai là đảng viên sáng lập cộng đảng Trung hoa tại Âu châu.

      Năm 1927 là một cái mốc lớn trong lịch sử Trung hoa. Chính năm đó Tưởng Giới Thạch từ Quảng Ðông mở cuộc chinh phạt miền bắc, với sự hợp tác của phe cộng sản. Thực ra phe cộng sản Trung Hoa liên kết với Quốc dân đảng chỉ là giai đoạn tạm thời trong lúc phe cộng sản còn yếu kém, và họ luôn luôn tìm mọi cơ hội để khai thác và chiếm đoạt chiến thắng của phe Quốc dân đảng.

      Mục tiêu đầu tiên của cuộc Bắc phạt là Thượng Hải, và sau đó hy vọng sẽ là Bắc Kinh. Chu Ân Lai định cướp công của Quốc dân đảng bằng cách lén tới Thượng Hải trước, âm mưu tổ chức các cuộc nổi dậy của công nhân, đặt bước đầu cho các hoạt động của đảng cộng sản sau này. Hai cuộc nổi dậy đầu tiên của công nhân thất bại vì thiếu chuẩn bị.

      Ðợt nổi dậy lần thứ ba thành công. Hàng trăm ngàn công nhân tiến ra đường, đoạt quyền chỉ huy thành phố, và sửa soạn chào đón Tưởng Giới Thạch và quân đội Quốc dân đảng.

      Nhưng biến cố buổi sáng ngày 12-4-1927 không phải là chiến thắng mà Chu Ân Lai và các lãnh tụ cộng sản mong đợi. Trong khi công nhân giăng biển ngữ “Hoan Hô Quân Ðội Giải Phóng Quốc Gia” và “Hoan Hô Tưởng Giới Thạch” thì Tưởng Giới Thạch âm thầm liên kết với các bang hội, các nhóm anh chị của Hoàng Mặt Rỗ và Ðỗ Nguyệt Thăng có biệt hiệu là Ðỗ Ðại Nhĩ, để triệt hạ giới công nhân.

      Tưởng trông thấy âm mưu hớt tay trên của Chu Ân Lai cho mục tiêu cộng sản sau này. Bề ngoài công nhân có vẻ ủng hộ đại quân của Tưởng, nhưng Tưởng biết rõ lý do của sự ủng hộ bất đắc dĩ này chỉ vì lực lượng cộng sản chưa đủ mạnh. Tưởng đã làm một điều cần thiết để tránh hậu họa.

      Trong khi đại quân của Tưởng án binh bất động, thì từng nhóm anh chị của các bố già Hoàng Mặt Rỗ và Ðỗ Ðại Nhĩ xông ra, mặc sức “làm thịt” công nhân tại chỗ. Hàng ngàn công nhân bị các tay anh chị tàn nhẫn bắn giết, chặt đầu, hoặc bị quẳng vào luộc sống trong những lò nước sôi. Tưởng treo giải thưởng 80 ngàn đô la cho ai bắt được hoặc giết được Chu Ân Lai. Các cơ sở của cộng sản tại Thượng Hải bị tàn phá, nhiều lãnh tụ bị bắt và bị giết.

      Người ta đồn Chu Ân Lai đã bị quân của Tưởng bắt được, nhưng sau Chu Ân Lai phải mặc giả làm đàn bà mới trốn thoát. Nhưng thực ra Chu bị đệ nhị sư đoàn Quốc dân đảng bắt giữ trong khi sư đoàn này có nhiệm vụ tái lập trật tự và tước vũ khí của dân quân. Một số sĩ quan cao cấp trong đệ nhị sư đoàn đã biết Chu từ thời còn học tại trường võ bị Hoàng Phố, và họ có thiện cảm với Chu. Sau một hồi bàn cãi sôi nổi giữa các cấp chỉ huy sư đoàn, Chu được thả. Lập tức Chu tìm đường trốn về Vũ Hán.

      Giai thoại Chu Ân Lai phải mặc giả đàn bà để trốn bắt nguồn từ sự kiện Chu Ân Lai là người rất đẹp trai, và hồi còn học tại Thiên Tân, Chu Ân Lai hay đóng kịch, và thường phải đóng những vai giả làm con gái. Trong khi đó người yêu của Chu Ân Lai là Ðặng Dĩnh Siêu thường phải đóng giả làm đàn ông, có lẽ tại Ðặng Dĩnh Siêu thiếu nhan sắc.

      Lúc đó phe cộng sản và Quốc dân đảng đang trong thời kỳ hợp tác với nhau, và đặt chính phủ tại Vũ Hán. Sự hợp tác Quốc Cộng là chủ trương của Tôn Dật Tiên. Tưởng Giới Thạch là một lãnh tụ chống cộng triệt để, và không chịu hợp tác với phe cộng. Sau biến cố đẫm máu đánh bại phe cộng sản tại Thượng Hải, Tưởng gạt bỏ những người cộng sản ra khỏi tổ chức Quốc dân đảng và chính phủ tại Vũ Hán.

      Liền sau đó là một cuộc đàn áp công nhân và nông dân tại Vũ Hán. Các lãnh tụ cộng sản phải bỏ trốn, đi vào con đường hoạt động bí mật. Tưởng Giới Thạch dời thủ đô về Nam Kinh. Việc khai trừ và đàn áp người cộng sản tại Vũ Hán của Tưởng Giới Thạch đã đẩy một số lãnh tụ cộng sản mở những cuộc nổi dậy, chiếm một số thành phố của Quốc dân đảng. Các cuộc nổi dậy này khởi sự vào mùa thu, vì thế được gọi là Những Cuộc Nổi Dậy Mùa Thu.

      Các lãnh tụ cộng sản hy vọng dùng được một số đơn vị nhỏ của tướng Trương Phát Khuê cho mục tiêu đánh chiếm Nam Xương, rồi tiến về chiếm Quảng Châu ở phía nam. Trương Phát Khuê không phải là cộng sản, nhưng nhiều cấp chỉ huy dưới quyền của họ Trương lại là cộng sản, như Diệp Dĩnh, tư lệnh Nam Xương và sư đoàn 24, Diệp Kiếm Anh tham mưu trưởng quân đoàn 4, Hạ Long tư lệnh quân đoàn 20, và thiếu tướng Chu Ðức là giám đốc sở công an Nam Xương. Với nhiều nhân sự nắm giữ những chức vụ quân sự quan trọng như thế, Nam Xương quả thực là một mục tiêu lý tưởng cho cộng sản.

      *

      Chu Ân Lai Và Cuộc Nổi Dậy Tại Nam Xương

      Chu Ân Lai sinh năm 1899 tại tỉnh Hoài An, trong một gia đình quan lại. Thân phụ của Chu có một người em trai sắp chết mà chưa có con trai, và sợ rằng người em sau này không có ai nối dõi để tiếp tục việc thờ phụng, nên lúc Chu Ân Lai được bốn tuổi thì bị thân phụ đem cho người chú nuôi. Sau khi người chú chết rồi thì Chu vẫn tiếp tục ở nhà người chú với người mẹ nuôi là thím ruột của mình.

      Người thím của Chu là người hay chữ và thích đọc sách. Bà ta rất thích đọc những sách bị cấm hồi đó, như những sách nói về những cuộc nổi loạn chống lại triều đình, và đưa cho Chu đọc. Chu rất say mê những sách này. Chu bắt đầu học tại nhà do một thày đồ đến dạy. Khi Chu 14 tuổi thì được gia đình gửi tới Nam Khai Học Hiệu tại Thiên Tân, và hoàn toàn bị ảnh hưởng Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên. Năm 1917, Chu sang Nhật Bản và giao du với rất nhiều sinh viên cách mạng.

      Ðầu năm 1919, Chu trở về nước và học tại đại học Thiên Tân. Trong thời gian học tại Nam Khai Học Hiệu, Chu Ân Lai bị tù 5 tháng vì lãnh đạo học sinh trong Phong Trào Sinh Viên Ngũ Tứ. Gia đình tức giận không gửi tiền trợ giúp Chu nữa. Chu phải tự lo liệu bằng cách viết báo hoặc bằng học bổng, vì Chu là một học sinh xuất sắc. Trong thời gian này, Chu thành lập hội Thức Tỉnh, bao gồm những phần tử quá khích.

      Trong số những hội viên của Hội Thức Tỉnh, có một nữ sinh viên tên là Ðặng Dĩnh Siêu. Năm 1925, Chu Ân Lai và Ðặng Dĩnh Siêu kết hôn với nhau, và cùng đi chung một con đường phục vụ cộng đảng Trung hoa. Ðây là một cặp vợ chồng son sắt nhất trong cộng đảng Trung hoa; hai người yêu nhau, kính trọng nhau và sống bên nhau suốt đời, kể cả những lúc gian lao nhất trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, và mặc dù không có con.

      Khi Chu làm thủ tướng, nhiều người đề nghị Chu nên kết hôn với một người con gái trẻ khác để có con, nhưng Chu từ chối và nói: “Tôi không cần có con riêng. Tất cả trẻ con Trung Hoa đều là con tôi.” Trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, vì không chịu đựng nổi những gian khổ, Ðặng Dĩnh Siêu mắc bệnh lao phổi, và phải được chở đi bằng cáng. Sau đó Ðặng Dĩnh Siêu phải lén trở lại Bắc Kinh để chữa bệnh phổi.

      Hội Thức Tỉnh của Chu Ân Lai tan rã vào năm 1920, khi Chu và Ðặng Dĩnh Siêu đuợc đi Pháp du học theo chương trình “Làm Việc Và Học Tập” do Trần Ðộc Tú tổ chức. Tại Pháp, Ðức và Anh quốc, Chu Ân Lai làm đủ mọi thứ việc, như bồi bàn, thợ mỏ, thợ xe hơi để học, và thành lập chi bộ cộng đảng Trung hoa tại Âu Châu. Năm 1924 Chu Ân Lai trở về nước, và dừng lại tại Mạc Tư Khoa để tham dự một vài khóa huấn luyện đặc biệt. Tại Quảng Ðông năm đó, Chu Ân Lai trở thành phụ tá cho Tưởng Giới Thạch, giảng dạy chính trị tại trường võ bị Hoàng Phố.

      *

      Một ngày cuối tháng 7 năm 1927, một thanh niên đẹp trai, dong dỏng cao, trong bộ âu phục màu xám, xách cặp da màu đen, bước vào Ðại Khách Sạn tại Nam Xương, và thuê phòng số 25. Chàng thanh niên đó chính là Chu Ân Lai. Khách sạn này lúc đó hầu như không còn phòng trống nữa. Tướng Hạ Long cũng đã thuê phòng số 20. Lưu Bá Thừa có biệt danh là Ðộc Nhãn Long vì chột một bên mắt, thì chiếm phòng số 9.

      Lâm Bưu lúc đó chỉ là một trung đội trưởng nên không được dành phòng tại đây, kể cả Chu Ðức lúc đó vẫn chưa chính thức gia nhập đảng cộng sản, và còn đang đứng trong hàng ngũ Quốc dân đảng và phụ trách ngành an ninh tại Nam Xương. Các lãnh tụ cộng sản cao cấp đang âm thầm kéo về Nam Xương trong một mưu toan lớn.

      Chu Ân Lai là người được cộng đảng giao phó trọng trách tổ chức cuộc nổi dậy tại Nam Xương. Phe cộng sản có vẻ nắm chắc phần thắng tại đây, vì cộng quân tung vào cuộc nổi loạn 20 ngàn quân để chống lại 10 ngàn quân chính phủ. Tuy nhiên nếu Chu Ân Lai không cương quyết thì mọi kế hoạch của cộng sản đã không thể thi hành được. Stalin mới phái Lominadze, một đảng viên Nga sô mới 29 tuổi, sang làm cố vấn cho cộng đảng Trung hoa.

      Lominadze không hiểu biết gì về Trung hoa, nhưng được lòng Stalin. Khi tới Trung hoa, Lominadze ra lệnh ngưng cuộc nổi dậy tại Nam Xương. Lệnh của Lominadze đưa ra 25 giờ trước khi cuộc nổi dậy khởi sự. Trương Quốc Ðào được lệnh tới Nam Xương để thuyết phục Chu Ân Lai bãi bỏ cuộc nổi dậy.

      Họ Trương nhấn mạnh cuộc nổi dậy chỉ khởi sự nếu bảo đảm được chiến thắng, nếu không thì tốt hơn là rút những người cộng sản ra khỏi quân đội của Trương Phát Khuê, và tìm về lập một căn cứ tại nông thôn.

      Chu Ân Lai và một số lãnh tụ khác bất tuân lệnh của Lominadze, có lẽ vì đã tập trung quá nhiều nỗ lực vào việc chuẩn bị. Tất cả tránh trường hợp căng thẳng chờ đợi để thăm dò Trương Phát Khuê. Một số người chủ trương rằng mũi tên đã đặt lên cung rồi thì phải được bắn đi.

      Chu Ân Lai quyết định cứ tiến hành cuộc nổi dậy như đã định, và cuộc nổi dậy Nam Xương bùng nổ sáng ngày 1-8-1927, do Hạ Long làm tư lệnh và Diệp Dĩnh làm phó tư lệnh. Lúc đó là đầu tháng 8, trời đẹp nhưng rất oi bức nên quân đội chính phủ phải ngủ ngay ngoài sân trại, và do đó rất chểnh mảng việc bố phòng.

      Cuộc tấn công xảy ra rất mau lẹ, và quân của Chu Ân Lai làm chủ được thành phố vào lúc hừng sáng. Trên 800 quân chính phủ tử trận. Số tổn thất của cộng quân nặng hơn gấp ba lần. Tuy nhiên quân cộng sản không thể chiếm giữ thành phố được lâu, vì đệ nhị quân đoàn của tướng Trương Phát Khuê lập tức tiến tới bao vây Nam Xương.

      Trong vòng ba ngày, quân cộng sản rút lui khỏi thành phố, tiến về phía nam. Ngày 6-8 Nam Xương lại thuộc về chính phủ Quốc dân đảng. Tuy cuộc nổi dậy Nam Xương thất bại, cộng quân chỉ làm chủ thành phố được ba ngày, nhưng đó là thành tích đầu tiên của cộng sản, và có hậu quả quan trọng cho công cuộc cách mạng cộng sản Trung hoa. Các lãnh tụ quan trọng nhất của phe cộng sản Trung hoa đều tham dự cuộc nổi dậy này, như Chu Ân Lai, Trần Nghị, Hạ Long, Lưu Bá Thừa, Lâm Bưu, Chu Ðức…

      Kể từ đó, ngày quân lực của hồng quân Trung hoa được tổ chức hàng năm vào ngày 1-8, để tưởng niệm cuộc nổi dậy quan trọng đầu tiên của hồng quân tại Nam Xương.

      Lực lượng nổi dậy tại Nam Xương phải ra đi ngày 3-8, và tiến về Quảng Ðông với ý định đánh chiếm thành phố Quảng Châu. Ðoàn quân rút lui khỏi Nam Xương đem theo tất cả vũ khí chiếm được và tiền bạc của ngân hàng Nam Xương. Nhưng khi toán quân 21 ngàn người này tới địa phận tỉnh Quảng Ðông thì chỉ còn lại 8 ngàn người. Nhiều người dồ đào ngũ, người thì chết vì bệnh thời khí và đói khát.

      Với một quân số ít ỏi như vậy thì không đủ sức mạnh chiếm được Quảng Châu, các lãnh tụ cộng sản liền tạm chiếm hải cảng Sán Ðầu, nhưng chỉ vài ngày sau thì bị một lực lượng Quốc dân đảng hùng hậu hơn đánh tan. Phần lớn các lãnh tụ cộng sản thất bại bỏ trốn sang Hương Cảng bằng thuyền nhỏ. Diệp Kiếm Anh và Diệp Dĩnh ở lại Hương Cảng một thời gian. Hạ Long trở lại nguyên quán và xây dựng một đội quân khác.

      Lưu Bá Thừa thì bỏ sang Nga để học quân sự. Trong nhóm các lãnh tụ cộng sản tham dự cuộc nổi dậy tại Nam Xương, chỉ một mình Chu Ðức đã sống sót về mặt quân sự. Chu Ðức dẫn được một lực lượng hai ngàn người đi theo một con đường khác, và sau này gia nhập với lực lượng của Mao Trạch Ðông tại Tỉnh Cương Sơn.

      Sau khi thất bại tại Sán Ðầu, Chu Ân Lai ngã bệnh sốt rét. Ông nghỉ tại Hương Cảng một thời gian rồi lén trở lại Thượng Hải và hoạt động cho Trung ương đảng. Sau này trong một dịp nói chuyện với Hồng vệ binh, Chu Ân Lai phát biểu cảm tưởng về cuộc nổi dậy Nam Xương như sau: “Thực ra Trương Quốc Ðào cũng đúng một phần và tôi sai khi chúng tôi tranh luận tại Nam Xương.

      Vào lúc đó, tham gia cuộc đấu tranh vũ trang là đúng. Nhưng vấn đề là đáng lẽ chúng ta phải đoàn kết với nông dân. Nếu như sau cuộc nổi dậy, chúng ta phân tán đI để xây dựng các cơ sở trong các vùng nông thôn tỉnh Giang Tây thì sức mạnh của chúng ta rất lớn. Trái lại, chúng ta lại tìm cách chiếm những thành phố bằng sức mạnh quân sự của chúng ta. Ðó là một chính sách dựa vào quan điểm quân sự thuần túy.

      Chúng ta đi từ Giang Tây đến Quảng Ðông, mục tiêu đầu tiên là chiếm Sán Ðầu với mục đích nhận được viện trợ của Liên xô. Một mặt chúng ta muốn chiếm các thành phố, mặt khác, chúng ta muốn dựa vào viện trợ của ngoại quốc. Do ảnh hưởng của hai tư tưởng đó, chúng ta không đoàn kết với nông dân… Tôi bắt đầu phạm sai lầm khi tôi 29 tuổi. Nay tôi đã 69 tuổi, nhưng vẫn phạm sai lầm.”

      Sau những thất bại liên tiếp, Trần Ðộc Tú bị khiển trách và mất chức Tổng Bí Thư. Cù Thu Bạch được chọn lên thay thế. Trong dịp này Mao Trạch Ðông được chỉ định tổ chức cuộc Nổi Dậy Mùa Thu tại Trường Sa.

      *

      Mao Trạch Ðông Và Cuộc Nổi Dậy Mùa Thu Tại Trường Sa

      Mao Trạch Ðông không tham dự cuộc nổi dậy tại Nam Xương, vì lúc đó Mao còn bận tổ chức cuộc Nổi Dậy Mùa Thu tại Trường Sa, thủ phủ tỉnh Hồ Nam. Mao sinh năm 1893 trong một gia đình nông dân tại Thiều Sơn, cách Trường Sa 40 dặm. Thân phụ Mao là Mao Châu Thẩm, một nông dân vừa cần kiệm vừa tham lam.

      Ông nội của Mao bị chủ nợ xiết tất cả ruộng đất vì không trả nổi nợ. Về sau Mao Châu Thẩm cố gắng chuộc lại và mua thêm đất, và tài sản nhà họ Mao lên đến 3.7 mẫu ruộng. Hàng năm nhà họ Mao sản xuất được 7 tấn thóc và được coi là một địa chủ, vì có tá điền giúp việc.

      Thân phụ Mao rất nghiệm khắc với con cái, và thường hay đánh mắng con cái để duy trì sự tuyệt đối vâng lời và phục tùng. Ngay từ lúc 4 tuổi, Mao đã phải ra đồng làm việc như một nông dân. Thân phụ Mao hàng tháng cấp phát gạo và trứng cho tá điền, nhưng Mao chưa bao giờ được ăn trứng và thịt cá.

      Thân phụ Mao quyết định phải cho con trưởng là Mao Trạch Ðông đi học, không phải vì ông muốn cho con khá, mà là vì ông làm ăn phát đạt, bước sang ngành buôn gạo và cho vay lãi, nên cần một người con biết viết để giúp ông, và cũng vì ông vốn mù chữ. Nhờ thế Mao được đi học lúc 7 tuổi.

      Trường học của Mao theo lề lối giáo dục cổ điển, dùng nhục hình để bắt học sinh phải chăm học. Hành động phản kháng chống đối đầu tiên của Mao là tại trường học. Hồi Mao 10 tuổi, một hôm Mao bỏ trường để phản đối lối trừng phạt bằng roi vọt. Mao không dám về nhà vì sợ bị bố đánh.

      Nhưng cuối cùng gia đình cũng bắt được Mao đem về nhà. Nhưng một điều làm Mao ngạc nhiên là không bị thân phụ đánh mắng gì cả. Không những thế, từ đó trở đi thân phụ Mao đối xử với Mao dịu dàng hơn, và thày giáo cũng không dám đánh Mao nữa.

      Một ngày lúc Mao được 13 tuổi, thân phụ Mao mời một số khách lại chơi. Hai bố con bất đồng ý về một vấn đề, và Mao bị thân phụ mắng là “quân lười biếng vô dụng”. Mao vô cùng tức giận, cãi lại bố rồi vùng vằng bỏ nhà ra đI, hăm dọa sẽ tự tử. Bà mẹ vội vàng đuổi theo và năn nỉ Mao trở lại, nhưng cậu bé cứng đầu ngỗ nghịch cứ xăm xăm bước ra bờ ao, và có vẻ muốn nhảy xuống ao trầm mình.

      Mao kể lại cố sự này: “Bố tôi cũng đuổi theo tôi và bắt tôi phải quay về nhà. Ông nhất định bắt tôi phải khấu đầu tạ tội, một hình thức phục tùng. Tôi đồng ý chỉ quỳ một chân thôi, nếu bố tôi hứa từ đó không được đánh tôi nữa.

      Thế là cuộc xung đột giữa tôi và bố tôi chấm dứt. Từ kinh nghiệm này tôi học được một điều là khi nào tôi bảo vệ quyền lợi của tôi bằng cách nổi loạn chống lại thì bố tôi lui, nhưng nếu tôi cứ tiếp tục yếu đuối hàng phục thì bố tôi cứ chửi mắng và đánh đập tôi.” Bài học của đời sống gia đình đã dạy Mao tinh thần nổi loạn, và phải chống đối tất cả để trở thành lãnh tụ số một.

      Mao Trạch Ðông được học ngay tại trường làng, và trong năm năm, Mao đã đọc hết Tứ Thư Ngũ Kinh. Nhiều năm sau đó, Mao tỏ ra chê bai cái học của mình. Mao nói với một nhà báo Tây phương: “Tôi rất ghét Khổng Tử.”

      Nhưng thực ra Mao đã nghiền ngẫm và bắt chước các tác phẩm danh tiếng của nước Trung Hoa cổ, và trong các tác phẩm của mình, Mao thường hay trích dẫn những lời nói của Khổng Tử và Mạnh Tử. Trong những năm cuối cùng của đời mình, Mao đã thu thập rất nhiều tác phẩm cổ điển; các tư tưởng cổ điển ngày càng ăn sâu vào tâm trí Mao, đúng như Mao thường nói: “Hãy dùng quá khứ phục vụ hiện tại.”

      Ðúng ra Mao Trạch Ðông đã áp dụng triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử vào đường lối suy tư của mình. Khổng Tử và Mạnh Tử tha thiết sửa đổi thực tế chứ không tìm cách chạy trốn khỏi thực tế. Ðó cũng là căn bản tư tưởng chính trị của Mao. Mao rất thích câu nói của Mạnh Tử: “Nếu ý Trời muốn thiết lập hòa bình và trật tự khắp bốn phương thì còn ai ngoài ta thực hiện điều đó?”

      Mao say mê đọc các tiểu thuyết danh tiếng của Trung Hoa như Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Tây Du và Hồng Lâu Mộng. Mao thuộc lòng nhiều đoạn trong Tam Quốc Chí và Thủy Hử, và nhiều đoạn trong lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là những cố sự về tranh dành quyền lực giữa những nhân vật chính trị. Mao đã áp dụng tất cả những sách vở đã đọc vào chiến thuật du kích của mình.

      Khi các kẻ thù của Mao lên án Mao chiến đấu tại Tỉnh Cương Sơn và trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh đúng theo những gì Mao đã đọc trong cuốn Thủy Hử, thì quả thực họ đã khen ngợi Mao một cách chính xác nhất. Mao không bao giờ phủ nhận điều đó. Mao còn dùng cuốn Binh Thư của Tôn Tử như một cuốn sách gối đầu giường. Mao đặt cuộc cách mạng Trung Hoa trên căn bản hoàn toàn Trung Hoa.

      Khi Mao Trạch Ðông được 14 tuổi thì bị cha mẹ bắt lấy vợ, và cưới cho Mao một cô gái 20 tuổi, hơn Mao 6 tuổi. Mao rất bất mãn việc bắt buộc phải lấy vợ do cha mẹ chọn mà không có sự đồng ý của Mao, và không bao giờ Mao công nhận người con gái do cha mẹ cưới hỏi là vợ mình. Mao cũng không bao giờ gần gũi người con gái ấy.

      Mao biết mùi vị tình dục rất sớm. Ngay từ năm 12 tuổi, Mao đã thành công dụ dỗ một cô gái xinh đẹp trong làng làm tình với mình. Cô gái ấy cũng bằng tuổi Mao.

      Tuy Mao có vẻ bất hiếu ngỗ nghịch với thân phụ, nhưng Mao lại hết lòng yêu mến và vâng lời mẹ. Mao chịu ảnh hưởng của bà mẹ trong những năm niên thiếu. Thân mẫu Mao tên là Vương Kim Muội, một người đàn bà siêng năng, tốt bụng và hiểu biết. Bà thường giúp đỡ những người bần cùng.

      Vào những lúc đói kém, bà thường lén chồng lấy gạo cho các nông dân nghèo đói. Bà rất sùng đạo Phật, và chính vì bà, Mao trở thành một Phật tử lúc còn trẻ. Khi mẹ bị bệnh, Mao cầu nguyện Ðức Phật cho mẹ chóng bình phục, và lúc 15 tuổi, Mao đã đi hành hương tại ngôi chùa trên núi Hằng Sơn, cách xa Thiều Sơn trên 100 dặm. Hằng Sơn là một trong năm ngọn núi thiêng của Trung hoa.

      Khi mẹ chết năm 1919, Mao Trạch Ðông liền từ bỏ đạo Phật, nhưng tư tưởng Phật giáo vẫn còn dấu vết trong cách suy tư của Mao. Lý Thụy, một học giả từng làm bí thư cho Mao trước khi bị Mao bỏ tù và bị đi đầy 20 năm, nhận xét rằng tư tưởng Phật giáo đã khiến Mao quan niệm rằng sự cải tạo trước hết cần phải phá hủy trước khi xây dựng lại.

      Mao đã viết: “Sự hủy diệt thế giới không phải là sự hủy diệt cuối cùng. Sau ngày tận thế nhất định là sự thành công. Ðây là một sự hiển nhiên. Chúng ta hăng say mong đợi ngày tận thế của thế giới cũ. Sự hủy diệt thế giới cũ sẽ dẫn tới sự thiết lập một thế giới mới.”

      Thân phụ Mao không muốn cho Mao học nhiều, mà chỉ muốn Mao học đủ để làm việc với một lái buôn gạo tại làng bên cạnh. Lúc này nhà họ Mao cũng đã khá giả hơn trước nhiều, nhà cửa khang trang nhất trong làng, bên cạnh nhà có kho đựng thóc và một ao nuôi cá chép cùng vịt ngỗng.

      Nhưng Mao đòi thân phụ cho được tiếp tục học thêm, và cuối cùng đến đầu năm 1910, Mao được vào trường Ðông Sơn. Tại đây Mao học khoa học, Anh ngữ, và cổ văn Trung hoa. Mao tỏ ra có tài viết văn và nói trước công chúng. Tuy Mao ghét học môn Anh văn, nhưng Mao rất khâm phục tổng thống Washington của Hoa Kỳ. Mao thường nói với bạn bè: “Trung hoa cần phải có những vĩ nhân như Washington.”

      Ðây chính là thời gian Mao Trạch Ðông được đọc những tác phẩm của hai nhà cải cách quan trọng của Trung hoa là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu. Hai học giả này đã nổi bật nhất trong thời gian Trung Hoa bị quân Nhật đánh bại lần đầu tiên, và trong thời gian có loạn Quyền Phỉ. Nhưng lúc Mao biết và đọc Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu thì ảnh hưởng của hai người này đang ở vào thời kỳ suy tàn.

      Vào thời đó, tin tức bên ngoài tới vùng quê Hồ Nam rất chậm trễ. Phải hai năm sau Mao mới được tin thái hậu Từ Hy từ trần. Tuy nhiên bước tiến của Mao rất mau. Sau một thời gian đọc sách và suy ngẫm, Mao tìm đến thủ phủ Trường Sa đúng lúc cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 của Tôn Dật Tiên bắt đầu. Mao lập tức cắt bỏ mái tóc đuôi sam, một hình thức chống lại chế độ quân chủ của nhà Thanh, và lao vào cuộc cách mạng.

      Mao nhiệt liệt hô hào thành lập một chính phủ do Tôn Dật Tiên làm tổng thống, Khang hữu Vi làm thủ tướng và Lương Khải Siêu làm ngoại trưởng. Thực ra Mao không hiểu rằng quan điểm của Tôn Dật Tiên và của hai họ Khang, Lương rất xa cách nhau. Rồi Mao gia nhập quân đội cách mạng tại Trường Sa.

      Sáu tháng sau, ông vua cuối cùng của nhà Mãn Thanh là Phổ Nghi phải thoái vị, và Mao cho rằng cuộc cách mạng đã thành công. Thế là Mao lập tức rời bỏ quân đội để tìm đuờng học thêm. Lúc đầu Mao quyết định tự học trong thư viện. Mao say mê đọc các tác phẩm chính trị, kinh tế và khoa học của tây phương, và thơ văn của Trung Hoa và Hy Lạp.

      Năm 1913, Mao thi vào trường sư phạm Trường Sa để trở thành giáo viên. Trong kỳ thi này, bài luận của Mao được chấm điểm cao nhất. Tại trường sư phạm, Mao thọ giáo với giáo sư Dương Xương Tế, một vị giáo sư khả kính, được mệnh danh là “Khổng Tử của Trường Sa”.

      Mao học tại trường sư phạm trên 5 năm, và nhiều sinh viên tại đây sau này theo Mao vào đảng cộng sản. Năm 1918, Mao tốt nghiệp hạng ba. Các bạn cùng khóa bầu Mao là sinh viên xuất sắc nhất lớp, nhưng các giáo sư chê Mao là người quá độc lập, quá tự kiêu, một người rất dễ đập phá luật lệ. Năm đó Mao được 25 tuổi và tự nhận là một thi sĩ, một người ái quốc và một triết gia. Mao chủ trương Trung hoa cần phải thay đổi, và Mao tự nhận có sứ mạng lãnh đạo sự thay đổi đó.

      Sau khi tốt nghiệp trường sư phạm, Mao Trạch Ðông quyết định không đi theo nghề dạy học. Mao tìm đường lên Bắc Kinh để học hỏi thêm và tìm cách tiến thân. Tại Bắc Kinh, Mao gặp lại giáo sư Dương Xương Tế, người thày cũ tại Trường Sa và hiện là giáo sư đại học Bắc Kinh. Thoạt đầu Mao không có tiền nên cuộc sống hết sức thiếu thốn.

      Mao phải ở chung với cả chục người thuê một gian phòng nhỏ chỉ có một chiếc giường gạch. Ban đêm tất cả nằm chen chúc trên chiếc giường ấy. Khi một người muốn trở mình thì phải lên tiếng báo động trước cho hai người nằm hai bên.

      Nhưng ít lâu sau, Dương Xương Tế nhờ Lý Ðại Chiêu tìm cho Mao một công việc tại thư viện trường đại học Bắc Kinh. Lý Ðại Chiêu là một trong những nhà lãnh đạo trí thức nổi tiếng của thời Cộng Hòa đầu tiên. Vào khoảng năm 1920, Lý ÐạI Chiêu đi theo chủ nghĩa cộng sản. Nhưng khi một đảng viên cộng sản Nga sang Trung Hoa ngỏ ý muốn giúp Lý Ðại Chiêu thành lập đảng cộng sản Trung Hoa thì họ Lý từ chối, và giới thiệu người Nga ấy cho Trần Ðộc Tú. Tuy vậy Lý Ðại Chiêu vẫn giúp Trần Ðộc Tú chuẩn bị đại hội đảng lần thứ nhất. Lý Ðại Chiêu là bạn của Tôn Dật Tiên.

      Ông hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản, nhưng vẫn chủ trương Quốc Cộng nên hợp tác với nhau. Năm 1927, sứ quân Trương Tác Lâm chiếm Bắc Kinh. Lý Ðại Chiêu phải trốn vào tỵ nạn trong tòa đại sứ Nga và tiếp tục hoạt động cho cộng đảng tại đây. Thấy Tưởng Giới Thạch tấn công phe cộng sản tại Thượng Hải và Vũ Hán, Trương Tác Lâm liền tấn công tòa đại sứ Nga, bắt Lý ÐạI Chiêu và những người cộng sản tỵ nạn tại đây.

      Nhiều người có cảm tình với Lý Ðại Chiêu đã can thiệp, xin Trương Tác Lâm thả ông, nhưng ngày 28-4-1927, Trương Tác Lâm ra lệnh xiết cổ Lý Ðại Chiêu thật chậm, một cách xử tử dã man, làm cho nạn nhân đau đớn và chết từ từ. Người con gái Lý Ðại Chiêu và 19 cộng sự viên của ông cũng chịu chung một số phận.

      Người ta nghĩ rằng Mao Trạch Ðông sẽ mang ơn Lý Ðại Chiêu, vì Lý Ðại Chiêu đã giúp công ăn việc làm cho Mao trong những ngày khốn đốn tại Bắc Kinh. Nhưng Mao đã trả ơn Lý Ðại Chiêu một cách khác thường. Khi cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao phát động vào giữa thập niên 1960, Hồng vệ binh của Mao và Giang Thanh đã hành hạ con trai của Lý Ðại Chiêu là Lý Bảo Hoa.

      Lý Bảo Hoa là một trong những lãnh tụ đầu tiên của cộng đảng Trung hoa, và là một Ủy viên Trung ương. Lúc ấy Lý Bảo Hoa là bí thư thứ nhất của tỉnh ủy An Huy. Ngày 3-1-1967, Hồng vệ binh bắt Lý Bảo Hoa đưa về Bắc Kinh để đấu tố; một tuần sau Lý Bảo Hoa phải đội mũ lừa và bị đưa đi diễu trước quần chúng để sỉ nhục.

      Công việc của Mao tại thư viện cũng không khá lắm, nhưng lương tháng cũng dư thừa cho Mao một cuộc sống vật chất ung dung, đủ cho tinh thần được thoải mái để Mao tiếp tục đọc sách học hỏi thêm. Hàng ngày, Mao chỉ ngồi ghi tên những người đến mượn sách của thư viện. Khi gặp một người nổi tiếng, Mao thường tìm cách lân la làm quen, nhưng lúc đó ít ai để ý tới một nhân viên thư viện tầm thường như Mao.

      Từ ngày có tiền bạc, và áo quần tươm tất, Mao thường lui tới nhà riêng của giáo sư Dương Xương Tế, một phần vì lòng biết ơn sự giúp đỡ của Dương Xương Tế, một phần khác thì vì nhan sắc của Dương Khai Tuệ, con gái của Dương Xương Tế. Mao thường lưu lại dùng cơm tối tại nhà họ Dương. Dương Xương Tế là một người tân tiến phóng khoáng vì đã từng du học tại Anh quốc, nên thường cho con gái ra ngồi nói chuyện và ngồi ăn cùng bàn với Mao.

      Mao Trạch Ðông thành công gieo những tư tưởng quá khích vào tâm trí Dương Khai Tuệ. Lâu dần hai người yêu nhau, và kết hôn với nhau năm 1920, lúc đó Dương Khai Tuệ 20 tuổi và Mao 27 tuổi. Ðây là cuộc hôn nhân thứ hai của Mao, nhưng là cuộc hôn nhân do chính Mao chọn lựa. Hai người sống bên cạnh nhau được gần 10 năm, và sinh được hai con trai là Mao Ngạn Anh và Mao Ngạn Thanh.

      Sau khi Mao phát động cuộc Nổi Dậy Mùa Thu tại Trường Sa và thất bại phải bỏ trốn vào núi, thì quân đội Quốc dân đảng bắt ba mẹ con Dương Khai Tuệ và em gái của Mao là Mao Trạch Oanh. Năm 1930 quân đội chính phủ cho Dương Khai Tuệ hai lựa chọn: hoặc bị xử tử hoặc từ bỏ Mao Trạch Ðông và đảng cộng sản.

      Dương Khai Tuệ từ chối không chịu từ bỏ Mao và đảng cộng sản, nên cả Dương Khai Tuệ và Mao Trạch Oanh bị xử tử. Hai đứa con trai của Mao lâm vào cảnh bơ vơ, nhiều khi phải đi ăn xin để sống, cho tới năm 1937 thì Chu Ân Lai tìm được chúng và gửi về Diên An cho Mao.

      Cuộc Nổi Dậy Mùa Thu tại Trường Sa của Mao Trạch Ðông khởi sự ngày 8-9-1927. Mao dùng một lá cờ mới cho cuộc nổi dậy. Ðây là một tác phẩm của Mao, và lá cờ có hình một cái búa và một cái liềm nằm trong một ngôi sao đỏ.

      Mao là một trong những lãnh tụ soạn thảo kế hoạch, nhưng sau khi tới Hồ Nam, Mao đã phải giảm bớt nhiều mục tiêu và đưa ra những thay đổi quan trọng. Mao giới hạn mục tiêu của cuộc nổi dậy vào việc chiếm thủ phủ Trường Sa, xây dựng một quân đội và dùng quân đội này cho mục tiêu của cuộc nổi dậy, thay vì chỉ dựa vào quần chúng nông dân.

      Vào đầu tháng 9, Mao đã có sẵn 4 đơn vị quân đội: một trung đoàn từ Vũ Hỵn dự định dùng vào cuộc nổi dậy tại Nam Xương, một lực lượng chắp vá gồm những phần tử Quốc dân đảng chạy theo hồng quân, một đơn vị gồm các tay đầu trộm đuôi cướp được trang bị bằng giáo mác, và một lực lượng hỗn hợp gồm những thợ mỏ thất nghiệp và những nông dân của tỉnh Giang Tây.

      Mao dự định đánh chiếm hai thị trấn phụ cận của Trường Sa trong một cuộc hành quân dự định vào ngày 11-9, và sẽ tấn công Trường Sa vào ngày 15-9. Nhưng kế hoạch của Mao đã bị tiết lộ, và lực lượng của Mao mất đi yếu tố bất ngờ. Một cố vấn Nga tại mặt trận Hồ Nam cho biết các cuộc hành quân tại Trường Sa rất là rối loạn và đi sai kế hoạch.

      Mao bị cảnh sát địa phương bắt ngay khi rời Trường Sa. Mặc dầu Mao đã tẩu thoát được, nhưng Mao đã vắng mặt trong suốt giai đoạn hành quân. Lực lượng quân Quốc dân đảng đầu hàng đi theo cộng sản ganh tị với trung đoàn Vũ Hán được trang bị đầy đủ, đã phục kích để chiếm lấy súng ống của trung đoàn này.

      Lực lượng nông dân thành công chiếm được các đồn binh quanh Trường Sa và đoạt được nhiều vũ khí đạn dược, nhưng họ không biết sử dụng súng, và đã vô tình bắn chết đồng đội. Trong khi đó lực lượng chính phủ tại Trường Sa biết trước kế hoạch của cộng quân, đã bố trí phục kích trên các khu đất cao, và đã đánh bại được lực lượng tấn công của hồng quân.

      Chỉ có trung đoàn hỗn hợp công nhân và nông dân khởi sự đúng giờ, chiếm và kiểm soát được một thị trấn phụ cận một thời gian, nhưng không có sự hỗ trợ của các lực lượng khác. Cuối cùng trung đoàn này bị bao vây và bị tiêu diệt. Khi Mao trốn thoát được sự bắt giữ của cảnh sát, và trở lại chiến trường thì Mao chỉ còn đủ thời giờ thu thập tàn quân và trốn lên núi.

      Cuộc nổi dậy bị dẹp tan ngày 19-9. Mao dẫn một nhóm tàn quân chừng một ngàn người tiến về một làng nhỏ ven rặng núi Tỉnh Cương Sơn. Tại đây Mao hỏi đám tàn quân:

      “Chúng ta có dám tiếp tục cuộc cách mạng nữa không?”

      Tất cả thủ hạ của Mao đều đồng thanh hô to: “Chúng tôi quyết chí tiếp tục!”

      Rặng núi Tỉnh Cương Sơn nằm giữa hai tỉnh Giang Tây và Hồ Nam. Khu vực hoang vu này là một nơi lý tưởng để lập chiến khu vì núi non trùng điệp, rừng cây rậm rạp và không có đường lộ gì cả. Mao tạm thời dùng Tỉnh Cương Sơn làm nơi dung thân để bồi dưỡng sức mạnh. Tỉnh Cương Sơn là một vùng núi non hiểm trở, quanh năm mây phủ với những sườn dốc mọc đầy tre và nứa.

      Khu vực Tỉnh Cương Sơn nằm ngoài vòng kiểm soát của chính phủ. Lúc đó có hai nhóm thảo khấu đang liên kết với nhau làm chủ vùng núi non này. Một nhóm tự nhận là Ðại Kiếm Bang do thủ lãnh Viên Văn Tài làm chủ tướng, và đặt căn cứ tại thị trấn Mao Bình dưới chân núi. Nhóm cướp thứ hai do tướng cướp Vương Tá thống lĩnh và đặt căn cứ trên núi. Hai tướng cướp này cũng có trình độ khá. Ðầu năm 1927, chúng từng cho phép quân cộng sản được đi qua lãnh thổ của chúng trên đường tiến về Thượng Hải.

      Chúng cũng tham dự một trận đánh vào quận lỵ để giải cứu một số quân cộng sản đang bị giam giữ. Mao thấy rằng nếu thu phục được hai bọn cường đạo này thì chúng cũng có thể giúp Mao một tay, ít nhất là không cản trở hoạt động của cộng sản. Nếu cả hai tướng cướp cùng chống lại Mao thì Mao cũng khó có thể đặt căn cứ ở đây an toàn và lâu dài được.

      Nông dân quanh khu vực Tỉnh Cương Sơn rất nghèo, không thể giúp đỡ quân của Mao về lương thực được, vì đất đai quá khô cằn không sản xuất được nhiều. Dân chúng trong vùng rất mê tín và tin các thầy phong thủy địa lý. Các thầy phong thủy địa lý có quyền lực rất lớn. Chính họ là người quyết định cặp vợ chồng nào có thể lấy được nhau, và cặp nào không thể lấy được nhau.

      Người dân còn tin các thầy có thể giúp đàn bà sinh được con trai, đặt nhà cho đúng hướng, chữa bệnh cho người đau, và đặt bùa trừ tà ma hoặc hãm hại kẻ thù. ít người dám mạo hiểm đi vào núi Tỉnh Cương Sơn, và cũng chẳng ai vào mà trở về được. Trình độ dân trí rất thấp và ngu độn. Tại các thị trấn gần đó chỉ có vài thầy lang chữa bệnh bằng thuốc lá. Không có trường học, không có sách báo nhưng đầy rẫy những bất công, bệnh tật, đĩ điếm… Làng này thù hằn giao chiến với làng kia mà không biết nguyên nhân bắt đầu từ bao giờ.

      Trong một địa bàn hoạt động như thế, các cố vấn Nga rất dễ dàng chỉ trích Mao đã đi ngược lại chính sách và tôn chỉ của cách mạng vô sản thế giới, đặt căn bản vào các công nhân bị bóc lột tại thành phố. Theo các cố vấn Nga thì Mao phải tấn công vào các thành phố, chứ không nên thành lập quân cách mạng bằng những đám ăn mày, trộm cắp, đĩ điếm, những phần tử xã hội muốn bỏ quên như cái đám dân rách rưới ngu dốt tại vùng Tỉnh Cương Sơn. Các cố vấn Nga nhận xét Mao cũng chẳng khác gì một tên tướng cướp, chỉ biết cầm súng mà không biết gì về các tư tưởng trong cuốn Tư Bản Luận của Karl Marx cả.

      Thực ra trước khi Mao rút quân về Tỉnh Cương Sơn thì Mao cũng đã từng bị đảng chỉ trích, bị trừng phạt. Bây giờ Mao bị khiển trách thêm vì tội thất bại trong cuộc Nổi Dậy Mùa Thu, không chiếm được Trường Sa. Mao bị loại ra khỏi Ủy Ban Trung Ương và bị khai trừ ra khỏi chi bộ Hồ Nam.

      Tuy nhiên lệnh trục xuất Mao ra khỏi đảng cộng sản phải hàng tháng mới tới được vùng núi non hoang dã này. Mao rất say mê đọc truyện Thủy Hử, và chính tại rặng núi Tỉnh Cương Sơn, Mao muốn thực hiện một căn cứ du kích, theo đúng đường lối của các anh hùng Lương Sơn Bạc ngày xưa.

      Công việc của Mao cũng không dễ dàng gì. Nhưng Mao vốn từng quen với nhiều nghịch cảnh. Mấy tuần trước đó, chính Mao cũng đã bị quân chính phủ bắt được, trong lúc đi kêu gọi dân chúng nổi dậy trong cuộc Nổi Dậy Mùa Thu tại Trường Sa. Mao bị dẫn về trại quân để hành quyết. Quân chính phủ mê tín, sợ hồn ma của Mao theo dõi họ, nên đã cẩn thận tháo giầy của Mao vất đi.

      Mao tìm cách vay tiền của vài bạn đồng tù để hối lộ cho lính thả mình ra, nhưng việc không thành. Mao phải chui vào một bụi rậm, nằm chờ đến đêm tối rồi trốn đi. Ngày hôm sau, Mao dùng tiền vay được mua giầy, một cây dù, ít lương khô và bỏ trốn về căn cứ của mình. Ngay cả lúc Mao tiến vào rặng Tỉnh Cương Sơn, một số sĩ quan của Mao cũng âm mưu ám sát Mao nộp cho chính phủ để lấy thưởng.

      Mao chọn lựa một ngọn núi và dùng một pháo đài có 5 địa điểm phòng thủ chính. Mỗi địa điểm đều có những khối đá khổng lồ làm chướng ngại vật. Mao đặt súng máy sau những khối đá. Mao đặt bản doanh ngay tại một thị trấn bình nguyên, và bắt đầu tổ chức một khu vực sô-viết, giảng dạy lý thuyết cộng sản, tuyển mộ thêm lính cho các đơn vị hồng quân, và phát triển căn cứ.

      Ðiều tiên quyết Mao phải đạt được là giải quyết hai tên tướng cướp Viên Văn Tài và Vương TŸ. Hai tên cướp này hùng cứ tại đây từ năm 1921. Mỗi đảng cướp có ít nhất ba trăm bộ hạ và dăm chục khẩu súng. Trước hết Mao giải quyết tướng cướp Viên Văn Tài. Họ Viên rất lo ngại Mao.

      Giống như tất cả những người sống trong những khu vực hẻo lánh, họ Viên rất nghi ngờ những người xa lạ như Mao. Dân chúng trong vùng thoạt đầu đều tìm cách xa lánh Mao, nhưng dần dần cách đối xử thân thiện của Mao làm họ bớt lo ngại. Mao trông có vẻ giống một người thiểu số hơn là một người Hán, vì mái tóc của Mao để dài và buông xõa sau lưng.

      Mao có tài kết thân với nông dân. Gặp ai bao giờ Mao cũng tươi cười thân mật, hỏi thăm tên tuổi của họ. Dần dần sự sợ hãi giảm đi, nhưng Viên Văn Tài vẫn thận trọng. Viên sợ rằng Mao có thể diệt hắn và chiếm lấy đảng cướp của hắn.

      Ngày 6-10-1927, Mao gặp Viên Văn Tài tại một làng nhỏ trong thị trấn Mao Bình. Mao giải thích Mao là một người cộng sản, và quân đội của Mao sẽ không can thiệp đến hoạt động của họ Viên, mà chỉ có nhiệm vụ làm việc với quần chúng thôi. Cuối cùng Viên Văn Tài đồng ý hỗ trợ và hợp tác với Mao, với điều kiện Mao phải cung cấp cho Viên 100 khẩu súng. Viên Văn Tài cũng phải trả cho Mao một số bạc và đồng ý thiết lập một bệnh viện nhỏ tại một trường học bỏ hoang tại Mao Bình, nơi Mao đang đặt bản doanh.

      Mao Bình là một thị trấn khá đẹp, có một trăm gia đình với khoảng 700 dân. Mao chọn một căn nhà thật đẹp, có hoa viên, làm nơi cư ngụ. Chính tại căn nhà này Mao viết hai tập tài liệu “Tại Sao Lực Lượng Chính Trị Ðỏ Có Thể Tồn Tại Ở Trung Hoa” và “Cuộc Chiến Ðấu Tại Tỉnh Cương Sơn”. Ðây là một nỗ lực của Mao nhằm giải thích lý thuyết xử dụng quân đội nhân dân và xây dựng các căn cứ cách mạng.

      Việc giải quyết tướng cướp Vương Tá khó khăn hơn. Mao tiến tới đồi Chu Sơn ngày 23-10 và gặp người đại điện của Vương Tá. Họ Vương đồng ý gặp Mao ngày hôm sau tại làng Ðại Tỉnh, ngay gần đỉnh núi. Rặng núi này có tên là Tỉnh Cương Sơn hoặc Ngũ Tỉnh Sơn là vì có năm làng trên núi.

      Ðó là các làng Ðại Tỉnh, Tiểu Tỉnh, Trung Tỉnh, Thượng Tỉnh và Hạ Tỉnh. Cả năm làng đều có núi đá bao bọc, và từ trên cao nhìn xuống, năm làng này trông giống như năm cái giếng lớn. Vương Tá là một tướng cướp tài giỏi và kiêu ngạo. Mao sai một thủ hạ thân tín là Hà Trung Công đến thuyết phục Vương Tá cho Mao được dùng căn cứ Tỉnh Cương Sơn. Hà Trung Công khám phá rằng Vương Tá đang gặp khó khăn kình chống với một tướng cướp khác tên là Yên Giảo Kỳ. Yên Giảo Kỳ đang kiểm soát ba quận thuộc Giang Châu.

      Vương Tá đề nghị nếu Mao giúp hắn loại được Yên Giảo Kỳ thì hắn sẽ gia nhập đảng cộng sản. Hà Trung Công lập tức dẫn hai đơn vị cộng quân và một số thủ hạ của Vương Tá đi phục kích, và bắt được tướng cướp Yên Giảo Kỳ. Thủ hạ của Vương Tá mừng quá, chặt ngay đầu của Yên Giảo Kỳ mang về nộp cho chủ tướng. Vương Tá rất vui mừng và đem tất cả thủ hạ gia nhập hàng ngũ cộng sản. Vương Tá được nhận vào đảng cộng sản năm 1928.

      Tỉnh Cương Sơn không phải chỉ gồm có những chuyện cường đạo và hành quyết nhau như thế mà thôi. Chính tại đây ngày 4-5-1928, tại thị trấn Ninh Giang, Chu Ðức đã đem toàn lực lượng của mình gia nhập lực lượng của Mao, và hai người tuyên bố thành lập Ðệ Tứ Quân Ðoàn Công Nhân và Nông Dân.

      Trần Nghị cũng đem quân tới cùng với Chu Ðức. Mao Trạch Ðông và Chu Ðức gặp nhau tại khoảng đất trống bên bờ sông Long Giang. Hai người cùng nhau thảo luận kế hoạch thành lập một quân đội mà sau này được gọi là đoàn quân Chu Mao. Chính lực lượng này về sau trở thành nòng cốt cho cuộc cách mạng cộng sản tại Trung hoa. Quân số của Chu Ðức có vào khoảng một ngàn người, với hơn một ngàn của Mao, đã mở rộng khu vực Tỉnh Cương Sơn, tràn xuống Giang Tây làm thành căn cứ sô viết đầu tiên tại Trung Hoa.

      Chu Ðức là một cấp chỉ huy quân sự có nhiều kinh nghiệm, và quân đội của Chu Ðức là một lực lượng quân sự chuyên nghiệp hơn đám quân của Mao. Khi đệ tứ quân đoàn được thành lập thì Chu Ðức làm tư lệnh, Mao là chính ủy, và Trần Nghị phụ trách phòng chính trị. Lâm Bưu lúc đó mới có 21 tuổi và là một cấp chỉ huy dưới quyền Chu Ðức.

      Mao Trạch Ðông là một người rất dâm dật, không thể sống mà không có đàn bà. Ngay cả trong lúc đang bị bệnh sốt rét hành hạ, và trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh đầy gian lao vất vả, lúc nào Mao cũng cần phải có một người đàn bà bên cạnh. Mao đã làm bài thơ “Những Người Bất Tử” để tưởng nhớ người vợ thứ nhất là Dương Khai Tuệ bị Quốc dân đảng xử tử, trong đó Mao tha thiết gọi Dương Khai Tuệ là “nàng là cây dương kiêu hãnh của ta”.

      Tuy nhiên không nên nghĩ rằng Mao là một người đàn ông chung tình, theo chế độ một vợ một chồng, hoặc coi chủ nghĩa cộng sản là một tôn giáo. Dương Khai Tuệ chết năm 1930, nhưng ngay từ năm 1928 Mao đã chung sống với một người đàn bà khác tại Tỉnh Cương Sơn rồi.

      Một sĩ quan trẻ trong hàng ngũ của Chu Ðức về hợp tác với Mao đã nhận xét về thái độ của Mao đối với phụ nữ. Trong một buổi đi thăm công cuộc huấn luyện quân sự, Mao trông thấy có những phụ nữ trong hàng ngũ quân của Chu Ðức.

      Mao hỏi viên sĩ quan nghĩ gì về các người đồng chí phụ nữ, thì viên sĩ quan trả lời rằng họ cũng là những đồng chí cách mạng, và trong đơn vị có nhiều việc phải làm, và tình cảm yêu đương giữa nam và nữ chưa hề xảy ra. Mao cười và bảo viên sĩ quan rằng anh ta còn quá trẻ nên chưa thấy sự hấp dẫn của phụ nữ. Mao thích thú cho biết người đàn ông không thể trông thấy sắc đẹp của phụ nữ mà không liên cảm tới những khoái lạc của dục tình.

      Sau đó ít lâu, Mao tìm được một đồng chí xinh đẹp là Hạ Tử Trân. Hạ Tử Trân không phải là một đồng chí trong hồng quân, mà là một nữ sinh trung học trong một thị trấn trong khu vực. Hạ Tử Trân là một thiếu nữ xinh đẹp.

      Mao gặp Hạ Tử Trân khi cô ta đang là bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản địa phương. Sau một buổi họp, Mao giữ Hạ Tử Trân lại, với lý do Mao có những vấn đề thảo luận với nàng. Ngày hôm sau nàng đến giúp việc với tư cách là thư ký riêng cho Mao, và đêm đó nàng không trở về nhà. Kể từ đó về sau, Hạ Tử Trân ở hẳn với Mao. Lấy một người yêu là một đồng chí cách mạng là việc thường xảy ra đối với các lãnh tụ cộng sản.

      Năm 1929 Chu Ðức cũng đã kết hôn với một đồng chí nông dân trẻ tuổi, chỉ huy một đơn vị du kích là Khang Khắc Thanh. Nhưng Chu Ðức chỉ lấy Khang Khắc Thanh sau khi vợ cả của Chu Ðức bị Quốc dân đảng giết năm 1928. Trường hợp Mao Trạch Ðông thì khác hẳn. Mao đã sống hai năm với một người vợ hai trước khi người vợ cả Dương Khai Tuệ chết.

      Những ngày đầu tại Tỉnh Cương Sơn tương đối an ninh, vì lúc ấy các sứ quân còn mải tranh dành quyền lợi riêng, nên không để ý những gì đang xảy ra trong rặng núi Tỉnh Cương Sơn. Nhưng dần dần, các sứ quân nhận ra được sự nguy hiểm của hồng quân, và bắt đầu gây khó khăn cho hồng quân.

      Sứ quân họ Lý của Giang Tây và sứ quân họ Ðường tại Hồ Nam liên kết với nhau đem quân tiễu trừ “quân cướp đỏ” tại Tỉnh Cương Sơn. Một vấn đề khó khăn nữa của hồng quân là quân đội Chu-Mao bành trướng quá lớn, không đủ chỗ sinh hoạt trong khu vực Tỉnh Cương Sơn nhỏ hẹp.

      Ðệ Tứ Quân Ðoàn bây giờ có trên 4 ngàn tay súng, và Ðệ Ngũ quân đoàn có khoảng tám trăm người. Các cấp lãnh đạo thấy rằng Tỉnh Cương Sơn không có khả năng cung cấp thực phẩm cho một quân số lớn như vậy. Họ bắt đầu ra đi thiết lập một căn cứ mới.

      Ngày 14-1-1929, đại quân Chu-Mao bắt đầu rời khỏi Tỉnh Cương Sơn, chỉ lưu Bành Ðức Hoài và Ðặng Ðại Nguyên ở lại chỉ huy đệ ngũ quân đoàn. Cả hai được lệnh phải phòng vệ căn cứ Tỉnh Cương Sơn lâu được chừng nào tốt chừng ấy, rồi sau đó sẽ rút lui nhập với đại quân Chu-Mao.

      Giai đoạn cầm cự này rất ngắn ngủi. Ðệ ngũ quân đoàn tan vỡ trước sức tấn công của hai sứ quân Giang Tây và Hồ Nam. Hai sứ quân họ Lý và họ Ðường chiếm trọn vẹn khu vực Tỉnh Cương Sơn. Tháng 3-1929, một ngàn dân chúng trong khu vực Tỉnh Cương Sơn bị hai sứ quân hạ lệnh chém đầu, và toàn thể khu vực bị đốt cháy bình địa.

      Khi đại quân Chu-Mao rút lui khỏi Tỉnh Cương Sơn thì hai tướng cướp Vương Tá và Viên Văn Tài trở lại nghề lạc thảo như cũ. Theo lời Mao thì hai tướng cướp này tiếp tục cướp bóc, giết tróc dân chúng như trước.

      Mao quyết định sai Bành Ðức Hoài thủ tiêu hai tên tướng cướp này. Ngày 25-2, hai tướng cướp được mời đến dự một buổi họp đặc biệt. Cả hai tướng cướp đồng ý đến, và mang theo một số thủ hạ thân tín để hộ vệ. Cả Vương Tá và Viên Văn Tài cùng quân hộ vệ nghỉ đêm trong một khách điếm. Ðến nửa đêm, đội hành quyết của hồng quân bao vây khách điếm, và nổi lửa đốt khách điếm và giết chết được Viên Văn Tài.

      Vương Tá nhảy qua cửa sổ, leo lên mình ngựa và phóng chạy vào đêm tối. Chẳng may ngựa của Vương Tá nhảy lao xuống sông, và hắn bị chết đuối. Như vậy hai tướng cướp tin lời Mao và giúp Mao lúc Mao xa cơ lỡ vận đều bị Mao tiêu diệt. Ðây là hai nạn nhân đầu tiên của Mao bị Mao giết vì từng cộng tác với Mao. Trong suốt cuộc đời Mao, Mao đã tận diệt rất nhiều người đã từng giúp Mao qua những hoàn cảnh khốn quẫn.

      Những thủ hạ của hai tướng cướp bị giải tán, một số được thu nhận vào hồng quân. Nhưng một số khác bỏ trốn trở về Tỉnh Cương Sơn với tướng cướp Vương Văn Long, em ruột của Vương Tá. Bọn cướp do Vương Văn Long làm thủ lãnh tiếp tục kiểm soát rặng núi Tỉnh Cương Sơn.

      Trong suốt hai mươi năm sau đó, không một quân đội nào, hoặc của các sứ quân hay của hồng quân, có thể xâm nhập vào được rặng Tỉnh Cương Sơn. Cho mãi tới khi hồng quân chiếm trọn Hoa lục thì bọn cướp tại Tỉnh Cương Sơn mới chịu đầu hàng. Lúc đó con trai của Vương Văn Long làm thủ lĩnh trên Tỉnh Cương Sơn. Hắn bị hồng quân bắt được và xử tử. Kể từ đó, Tỉnh Cương Sơn trở nên một di tích lịch sử của hồng quân Trung hoa.

      Trong lúc người cộng sản hăng say thiết lập và mở mang các khu vực sô viết thì Tưởng Giới Thạch đang bận rộn với công cuộc Bắc phạt. Trong lúc phe “trắng” mải mê giết nhau thì phe “đỏ” bị bỏ quên trong rừng núi, và vì thế phe “đỏ” rảnh tay xây dựng các căn cứ và tăng cường lực lượng vũ trang của họ mà không bị quấy phá tấn công.

      Tỉnh Cương Sơn chỉ là một trong số nhiều căn cứ được xây dựng tại miền Tây Nam, Trung, Tây Bắc Trung hoa trong những năm mà sự hợp tác giữa cộng sản và Quốc dân đảng tan vỡ. Từ Hướng Tiền thành lập được một căn cứ sô viết tại vùng giáp giới giữa các tỉnh An Huy, Hồ Bắc và Hà Nam. Tại khu vực sô viết Hồ Nam và Hồ Bắc, tướng Hạ Long đã tạo dựng được một lực lượng quân sự khá vững mạnh là quân đoàn 20, do Chu Nghi Xuân làm chính ủy.

      Hạ Long là một tướng tài của phe cộng, và có kinh nghiệm quân sự từ lúc còn rất trẻ. Ðã một thời Hạ Long làm tướng cướp. Năm 1912, khi nạn đói hoành hành ở miền tây Hồ Nam, nông dân đã vùng dậy làm một cuộc khởi nghĩa. Trong vụ khởi nghĩa này, Hạ Long tự vũ trang bằng dáo mác, giết một quan chức của chính phủ rồi trốn lên núi. Lúc đó Hạ Long mới có 16 tuổi, và chỉ có một số ít người đi theo.

      Nhưng thân phụ Hạ Long là một người có ảnh hưởng trong một tổ chức bí mật rộng lớn khắp nơi, gọi là Ca-lão-hội. Nhiều người trong hội này đứng về phía Hạ Long. Tuy còn trẻ, nhưng Hạ Long tỏ ra là một người có khả năng lãnh đạo. Khi ông được 20 tuổi thì đảng cướp của ông lên tới vài ngàn người, và kiểm soát được tám quận trong khu vực giáp giới giữa Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên. Ðôi khi quân của Hạ Long đánh phá tới tận tỉnh Quí Châu.

      Năm 1918, vì không tiêu diệt nổi Hạ Long, chính quyền Hồ Nam đã phải nhìn nhận và phong chức cho Hạ Long, và giao cho Hạ Long nhiệm vụ chỉ huy một khu vực mà các xe chở thuốc phiện phải đi qua. Nhờ vào thuế thuốc phiện, Hạ Long đã có thể sống một cuộc đời rất thoải mái, như các tay hảo hán Lương Sơn Bạc ngày xưa. Khi cuộc Bắc Phạt của Tưởng Giới Thạch khởi sự thì Hạ Long liền phản lại chính quyền Quốc dân đảng.

      Hạ Long gia nhập phe cộng sản, và đã tạo được nhiều kỳ công. Sau này ông trở thành một trong mười thống chế của hồng quân Trung hoa. Tuy nhiên, trong cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Ðông lãnh đạo vào giữa thập niên 1960, Hạ Long đã bị đấu tố và chết nhục nhã, mặc dầu Chu Ân Lai hết sức cứu giúp che chở cho ông mà không được.




      (Xem Tiép Chương 3)

      Tài liệu lịch sử
      Nguyễn Vạn Lý tổng hợp
      sigpic

      Comment


      • #4
        Vạn lý trường chinh

        Chương Ba

        Xây Dựng Sô Viết Giang Tây





        Otto Braun (Lý Đức) - Người Đức do Liên Xô gửi qua giúp Mao


        Sau khi rời căn cứ Tỉnh Cương Sơn, quân đội Chu-Mao đụng phải một sư đoàn quốc quân trong một trận đánh ác liệt vào tháng 1-1929. Trong trận này hồng quân đã tiêu diệt hoàn toàn cả sư đoàn quốc quân, nhưng lực lượng hồng quân cũng bị thiệt hại nặng nề. Phân nửa lực lượng hồng quân bị loại ra khỏi vòng chiến.

        Sau chiến thắng khá đắt giá đó, Mao dẫn hồng quân tiến về vùng Ðông Cổ – Hưng Quốc, thuộc vùng trung nam tỉnh Giang Tây. Ðây là căn cứ của Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất. Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất cũng tham dự cuộc nổi dậy Nam Xương. Nhưng khi cuộc nổi dậy thất bại, hai người không đi theo Chu Ân Lai xuống tấn công Quảng Ðông; họ dẫn lực lượng riêng quay trở lại Giang Tây, và thành lập một căn cứ du kích tại đây.

        Một năm trước Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất cũng tới giúp Mao Trạch Ðông, và bây giờ họ mời Mao Trạch Ðông vào khu vực do họ đã thành lập được. Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất ngây thơ tin rằng Mao cũng là người cộng sản, cùng theo đuổi một mục đích như mình, thì Mao sẽ không hãm hại mình mà còn giúp căn cứ hùng mạnh thêm. Nhưng kết quả không như thế. Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất đã phải trả một giá rất đắt cho sự nhầm lẫn của họ.

        Sau một thời gian ngắn cho binh sĩ nghỉ ngơi và bổ xung lực lượng, Mao và Chu Ðức tiến về miền đông, tới vùng biên giới Giang Tây – Phúc Kiến, và thành công chiếm được thị trấn Trường Ðịnh.

        Trong lúc Mao và Chu Ðức tấn công và chiếm đất tại Phúc Kiến thì Bành Ðức Hoài phải bỏ chạy khỏi Tỉnh Cương Sơn, trước áp lực quá mạnh của hai sứ quân họ Ðường và họ Lý. Bành Ðức Hoài là một danh tướng của Trung cộng, chỉ đứng sau Chu Ðức trong tổng số mười vị thống chế của Trung cộng. Họ Bành sinh năm 1898 tại huyện Tương Ðàm, tỉnh Hồ Nam, cùng quê với Mao.

        Thuở nhỏ nhà nghèo, Bành phải làm nghề chăn trâu. Lớn lên Bành đi lính cho chính phủ, và tỏ ra có tài năng đặc biệt về quân sự. Sau này Bành đi theo phe cộng, và tạo được nhiều chiến công hiển hách. Bành là người nóng tính, và tự nhận là Trương Phi của thời đại.

        Cái “ngai vàng” của Mao một phần do công hãn mã của Bành Ðức Hoài, nhưng Mao đã trả ơn Bành Ðức Hoài bằng một cái chết nhục nhã. Trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, Bành Ðức Hoài hoàn toàn ủng hộ Mao Trạch Ðông, trong khi nhiều tướng lãnh khác, như Chu Ðức, ngả theo Trương Quốc Ðào.

        Trong thời kỳ chống Nhật, Bành Ðức Hoài là tư lệnh phó của Bát lộ quân. Kỳ đại hội đảng lần thứ 7, năm 1945, Bành trở thành Ủy viên Trung ương Ðảng cộng sản Trung Hoa. Từ sau năm 1946, Bành là tư lệnh quân Giải phóng nhân dân vùng Tây Bắc. Sau khi nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung hoa được thành lập, Bành được cử làm phó chủ tịch Ủy ban Quân sự cách mạng nhân dân, kiêm chủ tịch Ủy ban Quân Chính Tây Bắc.

        Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, Bành là tổng tư lệnh Chí nguyện quân Trung hoa tại Triều Tiên. Năm 1954, Bành lên tới tột đỉnh danh vọng khi được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị đảng cộng sản Trung hoa, kiêm nhiệm chức phó thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng.

        Bành Ðức Hoài bị Mao tước đoạt tất cả quyền hành vào năm 1959. Năm đó trong đại hội đảng tại Lư Sơn, Bành Ðức Hoài chân thành phê phán đường lối Ðại Nhảy Vọt và Công Xã Nhân Dân của Mao Trạch Ðông. Mặc dù Bành thận trọng lời nói, khen ngợi Mao rất nhiều và chỉ nhắc tới một vài sai lầm chính yếu, nhưng Mao cũng nổi giận, và ép buộc đại hội đảng phải thông qua một nghị quyết buộc tội Bành chống lại đảng.

        Bành bị cách chức bộ trưởng quốc phòng. Khi cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao phát động năm 1966 xảy ra, Bành bị đưa từ Thành Ðô, Tứ Xuyên về Bắc Kinh cho Hồng vệ binh đấu tố. Bành tên thật là Bành Ðắc Hoa. Chính cái tên ấy đã trở thành đầu đề đấu tố của Hồng vệ binh. Các Hồng vệ binh cho rằng Bành có tham vọng làm chủ cả Trung hoa lục địa với cái tên Ðắc Hoa (có nghĩa là được cả Trung hoa).

        Bành bị đánh dã man nhiều lần, gẫy cả sương sườn. Sau đó Bành bị bỏ mặc chết vào tháng 10-1971. Năm 1978 Ban Chấp hành Trung Ương đảng cộng sản Trung hoa đã phục hồi danh dự cho Bành Ðức Hoài.

        Năm 1929, trong lúc rời bỏ Tỉnh Cương Sơn đi tìm kiếm Mao và Chu Ðức, Bành Ðức Hoài đánh chiếm thị trấn Thụy Kim thuộc Giang Tây. Thụy Kim sau đó trở thành thủ đô của nước cộng hòa sô viết Trung hoa đầu tiên. Khi nghe tin Bành Ðức Hoài chiếm được Thụy Kim, Mao và Chu Ðức quay trở lại nhập với Bành Ðức Hoài.

        Khi trở về Thụy Kim, Mao nhận được một bản tin quan trọng từ Trung ương Ðảng ở Thượng Hải, cho biết cộng đảng Trung hoa mới bầu một ban lãnh đạo mới tại Mạc tư khoa vào mùa hè năm 1928.

        Ðảng cộng sản Trung hoa đã mở đại hội đảng lần thứ 6 tại Mạc tư khoa. Trong đại hội này, Mao Trạch Ðông được bầu vắng mặt vào ban Chấp hành Trung ương, nhưng Mao vẫn chưa được chọn vào Bộ Chính trị, cơ quan đầu não của cộng đảng. Lúc đó Bộ Chính trị gồm có Cù Thu Bạch, Chu Ân Lai, Trương Quốc Ðào, Lý Lập Tam, Thái Hòa Sâm, Hạng Anh, và Hướng Trung Phát.

        Việc khó khăn lúc đó là giải quyết vấn đề ai sẽ giữ chức Tổng thư ký. Cù Thu Bạch và Chu Ân Lai đã phạm phải những lỗi lầm. Trương Quốc Ðào bị chỉ trích theo cơ hội chủ nghĩa. Cuối cùng Hướng Trung Phát, một công nhân gốc vô sản được chọn. Tuy nhiên Hướng Trung Phát không phải là một người có khả năng lãnh đạo, vì thế chỉ ít lâu sau, Bộ Chính trị bị Lý Lập Tam chi phối kiểm soát.

        Lý Lập Tam và những đảng viên cộng sản từ Mạc tư khoa trở về Trung hoa để đương đầu với một hoàn cảnh bất lợi, sau khi bị Quốc dân đảng đàn áp mạnh mẽ. Con số đảng viên bị tiêu diệt rất nhiều, và số còn lại phải phân tán trốn tránh. Nhiều tổ chức cộng sản tại thành phố phải ngưng hoạt động. Sức mạnh duy nhất của đảng cộng sản lúc đó là những căn cứ tại nông thôn và những đội quân du kích.

        Quốc tế Cộng sản tại Mạc tư khoa cũng nhận thấy điều ấy, và đã ra nghị quyết phải phát triển cuộc cách mạng Trung hoa bằng cách củng cố Ðảng, nghĩa là phải cấp bách tăng gia số đảng viên, tăng cường sự tiếp xúc giữa Trung ương Ðảng và các tổ chức địa phương. Ðại hội đảng lần thứ 6 đã khẳng định rằng nhiệm vụ quan trọng nhất của Ðảng là phát triển quân đội cách mạng chính quy, gồm có công nhân và nông dân.

        Các đảng viên theo xu hướng Nga sô như Lý Lập Tam, thì đặt chủ yếu vào công nhân thành thị, hơn là nông dân. Trong khi đó, Mao Trạch Ðông thì nhấn mạnh vai trò quan trọng hàng đầu của nông dân, vì tại Trung hoa, giai cấp nông dân đông đảo hơn gấp bội giai cấp công nhân thành thị. Do đó đã có sự bất đồng chính kiến giữa Mao và Lý Lập Tam.

        Mao và Lý Lập Tam đã từng quen biết nhau từ những ngày còn học tại Trường Sa, nhưng hai người chưa bao giờ thực sự là bạn của nhau. Sau thời gian học chung tại Trường Sa, hai người đi theo hai con đường khác nhau. Lý Lập Tam sang Pháp du học, trong khi Mao ở lại Trung hoa. Lý Lập Tam chuyên tổ chức công nhân thành phố, và được Mạc tư khoa chú ý rồi nổi lên địa vị lãnh đạo.

        Lý Lập Tam không tin tưởng ở nông dân. Họ Lý cho rằng nông dân có những ảo tưởng tiểu tư sản; người nông dân thích chủ nghĩa cộng sản chỉ vì họ muốn làm chủ ruộng đất, và đòi lấy đất của địa chủ chia đồng đều cho họ.

        Trái lại Mao Trạch Ðông để hết tâm trí vào việc tổ chức nông dân, và coi nông dân là nòng cốt cho cuộc cách mạng Trung hoa. Ðó là sự khác biệt giữa Mao và Lý Lập Tam, và sự khác biệt này nhất định đưa tới sự xung đột giữa Mao và Lý Lập Tam.

        Cuộc xung đột giữa Lý Lập Tam và Mao bắt đầu ngay khi họ Lý trở về Trung hoa, với nhiệm vụ khôi phục lại đảng cộng sản. Trước đó, hồi năm 1928, Mao đã gửi một báo cáo cho ban Chấp hành Trung ương, than phiền Trung ương đã ra lệnh cho Mao phải phát triển chiến tranh du kích trong một phạm vi quá rộng lớn, có thể vì Trung ương đã đánh giá quá cao sức mạnh của lực lượng Chu-Mao.

        Mao nêu lên sự khác biệt giữa hồng quân và du kích. Theo Mao thì sức mạnh của hồng quân là tập trung trong khi du kích thì phải phân tán. Kinh nghiệm cho Mao biết việc phân tán lực lượng thường đưa tới thất bại, trong khi tập trung lực lượng để tấn công một kẻ địch ít hơn thì thường dễ chiến thắng. Trong bản báo cáo này, Mao hoàn toàn bất đồng với quan điểm của ban Chấp hành Trung ương.

        Nhưng Lý Lập Tam không chấp nhận các luận cứ của Mao. Trái lại Lý Lập Tam gửi một thư cho Mao, nhấn mạnh hơn nữa về các chỉ thị cũ của ban Chấp hành Trung ương. Lý Lập Tam ra lệnh cho Mao và Chu Ðức phải phân chia quân đội thành những đơn vị nhỏ, và phân tán về khắp nông thôn.

        Lý Lập Tam cũng ra lệnh cho cả Mao và Chu Ðức phải rút lui ra khỏi quân đội. Dĩ nhiên Mao không bao giờ chấp nhận chỉ thị của Lý Lập Tam. Trước hết Mao không muốn rời bỏ quân đội để trở về thành thị, như thế Mao sẽ mất sức mạnh hậu thuẫn của mình. Mao cũng không đồng ý đặt cuộc cách mạng tại nông thôn vào vai trò phụ thuộc cho cuộc cách mạng ở thành thị.

        Mao giải thích rằng việc phân tán quân đội thành những đơn vị nhỏ sẽ làm cho sự lãnh đạo yếu đi, và những đơn vị nhỏ như thế sẽ bị tiêu diệt một cách dễ dàng. Không những thế, việc phân tán lực lượng như vậy sẽ không thể bảo vệ được một căn cứ nào cả.

        Mao còn chỉ trích Lý Lập Tam đã không hiểu biết gì về nông dân. Mao viết: “Sự lãnh đạo của giai cấp vô sản là chìa khóa duy nhất để đi đến thắng lợi, nhưng đồng thời những tiền đề chủ yếu giúp cuộc đấu tranh ở thành thị và làm cho ngọn sóng cách mạng dâng lên mau chóng lại chính là sự phát triển của cuộc đấu tranh ở nông thôn, việc thành lập những chính quyền đỏ trong những khu vực nhỏ và việc xây dựng và phát triển hồng quân.

        Do đó, từ bỏ cuộc đấu tranh tại thành thị là một điều sai lầm, nhưng sợ sự phát triển sức mạnh của nông dân vì ngại rằng sức mạnh của nông dân sẽ vượt sức mạnh của công nhân, và làm hại công cuộc cách mạng thì cũng là một sai lầm.

        Trong một cuộc cách mạng ở một quốc gia bán thuộc địa như Trung hoa, cuộc đấu tranh của nông dân sẽ luôn luôn thất bại nếu không có sự lãnh đạo của công nhân, nhưng cách mạng không bao giờ bị thiệt hại nếu cuộc đấu tranh của nông dân vượt hơn lực lượng của công nhân.”

        Sự việc Mao Trạch Ðông bác bỏ mệnh lệnh của Trung ương Ðảng vào tháng 4-1929 đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn Mao đạt được nhiều thành quả trong việc xây đựng và mở rộng căn cứ sô viết Giang Tây. Mao không chịu đến Trung ương Ðảng để tránh rơi vào vòng kiểm soát của Lý Lập Tam, vì Mao biết Lý Lập Tam là người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để tiêu diệt những phần tử đối lập trong đảng.

        Mao cũng cố gắng không cho Lý Lập Tam vươn tới được khu vực kiểm soát của mình, vì Mao sợ bàn tay phá hoại của Lý Lập Tam. Không ai hiểu và sợ Lý Lập Tam bằng Mao vì chính Mao cũng là một con người đáng sợ như Lý Lập Tam. Mao là một người say mê quyền lực, và dùng mọi cách để giữ vững quyền lực của mình.

        Chính vì thế Mao đối xử tàn ác với những người cộng sản không phải là thủ hạ của Mao. Cùng một lúc, Mao cố gắng bành trướng quyền lực của mình, và dùng các phương pháp khủng bố và thủ tiêu những người cộng sản không đi theo mình.

        Ngay những người từng giúp Mao mà về sau không theo Mao cũng bị Mao thủ tiêu. Ðó là trường hợp của chính Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất đã ngây thơ cho Mao vào căn cứ của họ. Mao đã tổ chức lại đoàn quân du kích của Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất, đặt quân du kích thành Quân đoàn thứ 3, trực thuộc quyền chỉ huy của Bành Ðức Hoài.

        Mao vào ẩn náu trong căn cứ của Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất, rồi tìm cách tước đoạt quyền chỉ huy độc lập của họ. Mao đã biến Lý Văn Linh và Ðoàn Lương Tất thành những kẻ tử thù.

        Nhưng Mao không quan tâm đến phản ứng của người khác, miễn là Mao có lợi là đủ rồi. Chu Ðức không hoàn toàn đồng ý với cung cách chiếm quyền của Mao, và đổ hết trách nhiệm cho Mao trong những cuộc thanh trừng đẫm máu trong nội bộ đảng cộng sản tại Giang Tây.

        Năm 1929, Mao trở lại Phúc Kiến vài lần, với nỗ lực bắt căn cứ sô viết rộng lớn tại Trường Ðịnh phải sáp nhập với căn cứ Giang Tây. Mao tập trung quân du kích tại Phúc Kiến thành Quân đoàn thứ 12, và do thủ hạ thân tín của Mao chỉ huy.

        Mao đã làm việc ngày đêm để chiếm trọn vẹn căn cứ do những người cộng sản khác đã xây dựng được. Chính tại đây Mao đã nhiễm phải thói quen làm việc ban đêm. Kết quả là Mao bị bệnh nặng, nhưng may được bác sĩ Nelson Fu của một bệnh viện Thiên chúa giáo chữa khỏi.

        Cuối năm 1929 Mao triệu tập một cuộc hội nghị đại biểu Ðảng của Quân đoàn 4. Trong hội nghị, Mao đã chính thức tấn công lập trường của Lý Lập Tam và những người ủng hộ họ Lý. Mao cũng đưa ra những quan điểm riêng về chiến lược cách mạng, và xác định ưu thế tuyệt đối về quyền lãnh đạo chính trị của Mao so với quyền chỉ huy quân sự của Chu Ðức.

        Thoạt đầu khi Mao và Chu Ðức kết hợp với nhau trong lúc Mao đang ở vào tình trạng thất thế thì hai người bình đẳng với nhau, mặc dù quân của Chu Ðức mạnh hơn quân của Mao. Nhưng đó chỉ là tạm thời. Mao bao giờ cũng chờ cơ hội để tìm cách vượt lên trên người khác.

        Thực ra ngay từ những ngày đầu mới hợp tác, Mao và Chu Ðức thường hoạt động tách rời nhau, vì không người nào chịu dưới quyền người nào. Khi có những va chạm về vấn đề chỉ huy, Chu Ðức chỉ muốn coi đó là vấn đề quân sự để không bị Mao khống chế, trong khi Mao thì lại lên án Chu Ðức đã không chịu xét các vấn đề quân sự với nội dung chính trị rộng rãi hơn.

        Mao từng chỉ trích thái độ thuần túy quân sự của các cấp chỉ huy hồng quân. Mao viết: “Quan điểm thuần túy quân sự phát triển rất cao ở một số đồng chí trong hồng quân. Những đồng chí này coi những công việc quân sự và chính trị đối lập nhau, và không chịu nhận rằng những hoạt động quân sự chỉ là một phương tiện để hoàn thành những nhiệm vụ chính trị.

        Họ nghĩ rằng nhiệm vụ của hồng quân, giống như nhiệm vụ của quân Quốc dân đảng, chỉ là chiến đấu. Họ không hiểu rằng nhiệm vụ của hồng quân Trung hoa chỉ là một tổ chức vũ trang để thực hiện những nhiệm vụ chính trị của cách mạng. Hồng quân chiến đấu không phải chỉ là để chiến đấu, mà là thực hiện tuyên truyền trong quần chúng, tổ chức quần chúng, vũ trang quần chúng, và giúp quần chúng thiết lập chính quyền cách mạng. Không có những mục tiêu này, việc chiến đấu sẽ mất ý nghĩa của nó và hồng quân không còn lý do tồn tại.”

        Khi chống Lý Lập Tam, Mao khẳng định rằng người cộng sản không thể đẩy mạnh cao trào cách mạng bằng những hoạt động du kích.

        Trái lại, người cộng sản phải xây dựng các căn cứ, xây dựng một hệ thống chính quyền, đưa cuộc cách mạng ruộng đất đi vào chiều sâu, mở rộng lực lượng vũ trang bằng một quá trình xây dựng các đội hồng vệ binh tại các đô thị, những đội hồng vệ binh ở nông thôn và tất cả đều có mục đích cuối cùng là xây dựng hồng quân chính quy từ những hồng vệ binh này. Chỉ có làm như vậy mới có thể tạo dựng được một Hồng quân làm vũ khí chủ yếu cho cuộc cách mạng trong tương lai.

        Mao chấp nhận một sự thực là người cộng sản Trung hoa không thể tiến hành một cuộc nội chiến thông thường để thắng Quốc dân đảng được. Cuộc chiến của người cộng sản chỉ tiến hành thành công nếu kiểm soát được một lãnh thổ được quy định rõ ràng và một dân số lớn. Mao tỏ ra hiểu rõ sự khác nhau chính yếu giữa nội chiến thông thường và nội chiến cách mạng.

        Một cuộc nội chiến thông thường sẽ có sự phân công giữa quân đội ngoài chiến trường làm nhiệm vụ chiến đấu, và giai cấp lãnh đạo chính trị tại Trung ương sẽ chỉ đạo đường lối chiến lược và làm công tác tuyên truyền dân chúng thuộc cả hai phía. Nhưng một cuộc nội chiến cách mạng sẽ coi khối óc và trái tim là những mục tiêu quan trọng hơn là đất đai lãnh thổ, bởi vì phe cách mạng chiến đấu nhằm mục đích tạo khả năng liên hệ được với quần chúng, gây ảnh hưởng và tổ chức nhân dân.

        Nội chiến cách mạng phải xử dụng và phối hợp tất cả những phương tiện có khả năng thuyết phục quần chúng.

        Ðó là sự khác biệt về lãnh đạo cuộc cách mạng giữa Mao và Lý Lập Tam. Tháng 1-1930, Lý Lập Tam tổ chức đại hội các đại biểu từ các khu vực sô viết, và mời Mao Trạch Ðông tới dự. Nhưng Mao không bao giờ dám tới dự, vì sợ Lý Lập Tam có thể dùng thủ đoạn bắt Mao ra khỏi căn cứ quyền lực của Mao. Lý Lập Tam đành phải tiến hành đại hội mà không có Mao. Trong đại hội này, Lý Lập Tam công bố kế hoạch đánh chiếm các tỉnh thuộc miền Hoa Trung.

        Lý Lập Tam cho rằng thời gian đã chín mùi để mở một cuộc khởi nghĩa tổng tấn công Quốc dân đảng. Theo kế hoạch của Lý Lập Tam thì bên trong các thành phố lớn, công nhân sẽ nổi dậy và hồng quân sẽ hỗ trợ từ bên ngoài, trong khi quân đội Quốc dân đảng được khích lệ và mua chuộc để phản loạn và giết những cấp chỉ huy Quốc dân đảng.

        Bộ Chính Trị đã chấp thuận kế hoạch tổng khởi nghĩa của Lý Lập Tam, và quy định việc thành lập các quân đoàn hồng quân. Các quân đoàn này sẽ đặt dưới quyền chỉ huy tối cao của Chu Ðức với Mao Trạch Ðông làm chính ủy.

        Tất cả vũ khí đều tập trung vào hồng quân, như vậy các lực lượng du kích vũ trang sẽ hòa nhập vào hồng quân. Quân đoàn 1 sẽ do Chu Ðức trực tiếp chỉ huy với Mao là chính ủy, sẽ chiếm Nam Xương rồi tiến về Vũ Hán qua Cửu Giang. Quân đội của Hạ Long sẽ là quân doàn 2, và quân đội của Từ Hướng Tiền được gọi là quân đoàn 4. Hai quân đoàn 2 và quân đoàn 4 cũng có nhiệm vụ tiến về Vũ Hán.

        Bành Ðức Hoài chỉ huy quân đoàn 3 với nhiệm vụ chiếm Trường Sa và sau đó Bành Ðức Hoài cũng phải dẫn quân về tổng tấn công Vũ Hán. Các cuộc tấn công này sẽ được phối hợp với những cuộc nổi dậy của công nhân thành thị và nông dân tại nông thôn. Lý Lập Tam hy vọng rằng quân đội Quốc dân đảng sẽ bị tê liệt vì các cuộc phản loạn của chính quân sĩ Quốc dân đảng.

        Mao Trạch Ðông và Chu Ðức bắt buộc phải tham gia kế hoạch tổng tấn công của Lý Lập Tam, vì Mao và Chu Ðức được cử giữ chức vụ cao nhất trong lực lượng hỗn hợp mới được thành lập, nhất là khi các tư lệnh các quân đoàn khác đều chấp nhận thi hành kế hoạch. Tuy nhiên kế hoạch tổng tấn công của Lý Lập Tam đã thất bại ngay từ lúc khởi sự.

        Ngày 28-7, Bành Ðức Hoài thành công chiếm được Trường Sa và thành lập một chính phủ sô viết với Lý Lập Tam là chủ tịch vắng mặt. Nhưng sau 10 ngày chiếm giữ thành phố, quân đoàn 3 của Bành Ðức Hoài đã bắt buộc phải rút lui trước áp lực mạnh mẽ của Quốc dân đảng. Quân đoàn 1 của Mao và Chu Ðức tấn công Nam Xương ngày 1-8.

        Cũng chính ngày này ba năm trước cuộc nổi dậy chiếm Nam Xương của Chu Ân Lai đã bị thảm bại. Lần này Mao và Chu Ðức cũng không may mắn hơn. Quân đoàn 1 chỉ duy trì cuộc tấn công được 24 giờ rồi cũng phải rút lui.

        Các quân đoàn 2 và 4 của Hạ Long và Từ Hướng Tiền thất bại không tiến vào được thành phố Vũ Hán. Mặc dầu đã có những cuộc biểu dương lực lượng nhỏ của công nhân trong một số thành phố, nhưng công nhân không tạo được một cuộc nổi dậy nào đủ mạnh, và cũng không có một sự phản loạn nào của quân sĩ Quốc dân đảng chống lại cấp chỉ huy.

        Lý Lập Tam thấy kế hoạch thất bại, và địa vị chính trị của mình có thể bị lâm nguy, nên vội làm một cố gắng cứu vãn cuối cùng bằng cách trở lại tấn công Trường Sa lần thứ hai. Lần này Mao và Chu Ðức phối hợp với Bành Ðức Hoài thực hiện cuộc tấn công kéo dài từ ngày 1-9 đến ngày 13- 9.

        Cuộc tấn công không đem lại kết quả như ý muốn. Mao Trạch Ðông thuyết phục Chu Ðức và Bành Ðức Hoài bỏ cuộc, và cùng quay trở về căn cứ Giang Tây. Trung ương Ðảng đành phải bãi bỏ cuộc tấn công vào Vũ Hán và chấm dứt cố gắng của Lý Lập Tam, nhằm tiến hành một cuộc nổi dậy trên toàn lãnh thổ Trung hoa. Chính trong dịp tổng tấn công thất bại này mà vợ của Mao là Dương Khai Tuệ và em gái của Mao là Mao Trạch Oanh bị quốc quân xử tử.

        Sau thất bại này, Lý Lập Tam bị khai trừ ra khỏi những địa vị trong Ban chấp hành Trung ương Ðảng vào tháng 11. Cuối tháng 12-1930, Lý Lập Tam đã phải trình diện tại Mạc tư khoa để trả lời về những sai lầm vừa qua của Lý tại Trung hoa. Sau đó Lý Lập Tam sống một đời lưu vong tại Nga sô kéo dài 15 năm.

        Sau sự thất bại của Lý Lập Tam, quyền lãnh đạo cộng đảng Trung hoa rơi vào tay “Nhóm 28 Bôn-sê-vích”, gồm 28 thanh niên Trung hoa được đào tạo tại Nga sô. Ba người nổi tiếng nhất trong nhóm thân Nga là Trần Thiệu Vũ, bí danh là Vương Minh. Hai người kia là Tần Bang Hiến, bí danh Bác Cổ, và Trương Văn Thiên, bí danh Lạc Phủ, một người đã từng học tại đại học Berkerly, California. Lạc Phủ lúc đó trên 30, trong khi Vương Minh và Bác Cổ chỉ mới ngoài 20.

        Tuy vậy Hướng Trung Phát vẫn giữ chức tổng thư ký, cho tới lúc bị Quốc dân đảng giết chết.

        Khi Lý Lập Tam bị mất chức, Mao Trạch Ðông bắt đầu ra tay trừng phạt những người ủng hộ Lý Lập Tam trong bộ máy Ðảng thuộc tỉnh Giang Tây. Mao nghĩ rằng những người theo Lý Lập Tam sẽ không còn được Trung ương che chở nữa. Những người bị Mao bắt giữ là những ủy viên chủ chốt của ban chấp hành đặc khu tây nam Giang Tây.

        Từ lâu, ban chấp hành đặc khu tây nam Giang Tây là một cái gai đâm vào sườn Mao, vì họ chống lại cả đường lối và cá nhân Mao. Họ đã công khai chống lại Mao về vấn đề chiến lược quân sự và chính sách ruộng đất của Mao.

        Tổng bí thư của ủy ban hành động Giang Tây này chính là Ðoàn Lương Tất và Lý Văn Linh, hai người đã mở cửa căn cứ của họ cho Mao vào, và cưu mang Mao trong những ngày thất thế. Dần dần Mao đã tước đoạt quyền kiểm soát những đội du kích mà chính Ðoàn Lương Tất và Lý Văn Linh đã xây dựng nên.

        Tổng hành dinh của Ðoàn Lương Tất và Lý Văn Linh đặt tại thị trấn Phù Tiên vào lúc Mao Trạch Ðông ra lệnh bắt những ủy viên chủ chốt của Ủy ban hành động tỉnh Giang Tây. Vì vậy cuộc tàn sát đồng đội của Mao Trạch Ðông sau này được gọi là Sự Kiện Phù Tiên. Trước hết Mao ra lệnh bắt giam chính ủy của quân đoàn 20, vì sợ quân đoàn 20 sẽ bảo vệ Ðoàn Lương Tất và Lý Văn Linh.

        Phần đông các sĩ quan thuộc quân đoàn 20 là người cùng quê quán với Ðoàn Lương Tất và Lý Văn Linh. Một tiểu đoàn của quân đoàn 20 đã dẫn quân từ Ðông Cổ tới Phù Tiên giải thoát cho viên chính ủy. Tất cả những người này rút lui về một khu vực bên ngoài quyền kiểm soát của Mao, và họ tuyên bố tiếp tục trung thành với Chu Ðức và Bành Ðức Hoài. Họ hy vọng Chu Ðức và Bành Ðức Hoài ủng hộ họ chống lại Mao.

        Tuy nhiên trong một bức thư ngỏ công bố ngày 17-12, Chu Ðức và Bành Ðức Hoài tuyên bố tiếp tục ủng hộ Mao. Phe chống đối Mao tại Giang Tây tiếp tục được hai tháng trước khi bị tiêu diệt hoàn toàn.

        Ðể biện bạch cho việc bắt giữ những người lãnh đạo đảng tại Giang Tây, Mao buộc tội họ theo chủ nghĩa thủ tiêu và là tay sai của Quốc dân đảng. Mao tiết lộ hơn 4,400 binh sĩ hồng quân đã bị bắt trong vụ này, và nhiều người đã cung khai và nhận tội. Mao đã ra lệnh thủ tiêu những đảng viên cộng sản chống lại Mao.

        Người được Mao giao phó nhiệm vụ thủ tiêu là Trần Nghị. Trần Nghị không được Mao tin dùng, và bị Mao cách chức chính ủy trong quân đội của Chu Ðức. Mao tỏ ra là một người quỷ quyệt khi giao phó cho Trần Nghị nhiệm vụ thủ tiêu những người cộng sản không đồng chính kiến với Mao. Sau khi thi hành nhiệm vụ, Trần Nghị sẽ trở thành một người đứng trong hàng ngũ Mao, vì tay đã dính máu cho mục đích của Mao.

        Mỗi khi cần người thi hành một việc làm ô uế đen tối, Mao thường sai một người không hoàn toàn theo mình, để sau khi thi hành xong nhiệm vụ, người đó sẽ phải trung thành với Mao, vì tay đã nhúng chàm, không thể đi theo nhóm khác.

        Trong suốt năm 1931, Mao vẫn tiếp tục tiến hành cuộc thanh trừng, thủ tiêu những địch thủ thực sự hoặc tưởng tượng trong đảng. Những người bị tình nghi chống đối Mao bị bắt, bị tra tấn dã man cho đến lúc phải thú nhận tội theo ý Mao, hoặc tố cáo thêm những người khác.

        Cuộc thanh trừng của Mao đã giết hại rất nhiều đảng viên, cấp chỉ huy và cán bộ cộng sản vô tội. Trong khi Mao mải mê tìm giết những kẻ thù tưởng tượng trong đảng, thì Chu Ðức đảm trách công việc chỉ huy quân đội chống lại các cuộc tấn công của Tưởng Giới Thạch.

        Năm 1930 Tưởng thành công đánh bại cuộc liên minh của các sứ quân chống lại Tưởng. Năm đó, Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn, Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy, Trương Phát Khuê cùng với sự cổ võ của Uông Tinh Vệ, đã kết hợp với nhau thành một liên minh nhằm giành lại quyền lãnh đạo Trung hoa ra khỏi tay Tưởng Giới Thạch.

        Nhưng Tưởng đã thành công đánh bại liên minh này. Bây giờ Tưởng hoàn toàn rảnh tay đối phó với kẻ thù chính yếu của Tưởng là phe cộng sản. Sau những cuộc tấn công non của Lý Lập Tam vào một số thành phố, Tưởng cảnh giác trước mối đe dọa càng ngày càng lớn của phe cộng sản. Ðây là thời gian Tưởng tung hết sức mạnh vào chiến dịch diệt trừ “Quân Cướp Ðỏ” tại khu vực Giang Tây.





        (Xem Tiép Chương 4)

        Tài liệu lịch sử
        Nguyễn Vạn Lý tổng hợp
        sigpic

        Comment


        • #5
          Vạn lý trường chinh

          Chương Bốn

          Những Ðợt Tấn Công Vào Sô Viết Giang Tây





          Tưởng Giới Thạch


          Những cuộc tấn công đầu tiên của Quốc dân đảng vào căn cứ sô viết Giang Tây bắt đầu vào cuối năm 1930, và thất bại vào đầu năm 1931. Vào mùa xuân 1931, Tưởng Giới Thạch nhận thức rằng cái nguy hiểm chính bắt nguồn từ Thượng Hải, nơi Trung ương đảng cộng sản hoạt động. Tưởng bắt đầu gia tăng hoạt động tình báo và mật vụ, nhằm truy lùng giới lãnh đạo cộng sản.

          Mật vụ của Tưởng Giới Thạch đã mau lẹ đạt được một thành tích đáng kể. Một đơn vị mật vụ của Tưởng đã bắt được Cố Thuận Chương, người chỉ huy một đơn vị đặc nhiệm tại Thượng Hải. Cố Thuận Chương không chịu nổi sự tra tấn, nên đã phải báo cho mật vụ tên và địa chỉ của giới lãnh đạo cộng sản tại Thượng Hải. Sau đó mật vụ của Tưởng bắt được Hướng Trung Phát, tổng bí thư của đảng. Hướng Trung Phát bị xử tử ngay. Nhưng phần lớn giới lãnh đạo cộng sản đã kịp thời trốn thoát.

          Cố Thuận Chương hoạt động dưới quyền của Chu Ân Lai, nên chính Chu Ân Lai đứng ra xử tội phản bội của Cố Thuận Chương. Chu Ân Lai đích thân đứng giám sát việc hành quyết toàn gia Cố Thuận Chương. Chu Ân Lai có cái dáng vẻ bề ngoài ung dung, lúc nào cũng niềm nở tươi cười.

          Nhưng cái bề ngoài thiện cảm đó che dấu một con người cực kỳ tàn ác. Sau khi Hướng Trung Phát bị Quốc dân đảng giết, Vương Minh đảm nhiệm quyền lãnh đạo Trung ương đảng một thời gian. Khi Vương Minh được cử sang làm đại diện cho cộng đảng Trung hoa tại Quốc tế Cộng sản thì Tần Bang Hiến, tức Bác Cổ, lên thay thế. Trung ương Ðảng bây giờ hoạt động trong một tình trạng càng ngày càng nguy hiểm hơn.

          Cuối cùng Bác Cổ đi đến một quyết định mới: thu hẹp tổng hành dinh tại Thượng Hải thành một Trung ương cục, và giao cho Lưu Thiếu Kỳ phụ trách, còn Trung ương Ðảng thì di chuyển vào căn cứ Giang Tây của Mao.

          Trung ương Ðảng vào căn cứ đúng lúc có một cuộc hội nghị các sô viết toàn quốc Trung hoa. Hội nghị họp tại Thụy Kim ngày 7-11-1931. Tại hội nghị này, chính phủ Trung ương lâm thời của chế độ Cộng hòa Sô Viết Trung hoa được thành lập, và Mao Trạch Ðông được bầu làm chủ tịch chính phủ.

          Ðược bầu làm chủ tịch chính phủ, Mao có vẻ đạt được một địa vị cao nhất, nhưng sự thực thì quyền hạn của Mao bị giảm đi rất nhiều, vì các sô viết phân tán về địa lý, mỗi sô viết là một căn cứ tự lập, và chính phủ trung ương tại Giang Tây không thể kiểm soát hoạt động của các sô viết khác.

          Hơn nữa, đảng đứng trên và có quyền quyết định chính sách của chính quyền dân sự cũng như của quân đội. Bây giờ đảng di chuyển vào khu sô viết Giang Tây thì mọi việc sẽ do đảng giải quyết, chứ không còn do một mình Mao quyết định như trước nữa.

          Các căn cứ sô viết hoạt động thành công được, phần lớn không phải do sức lực của người cộng sản, mà do một yếu tố bên ngoài trợ giúp một phần lớn. Sở dĩ Tưởng Giới Thạch không thể tận diệt được phe cộng ngay là vì còn mải lo đối phó với sự gây hấn mỗi lúc một gia tăng của quân phiệt Nhật.

          Ðúng ra quân xâm lăng Nhật là cứu tinh của phe cộng sản Trung hoa. Trong lúc Tưởng mải mê đối phó với Quân đoàn Quan Ðông của Nhật tại Mãn Châu thì các khu vực cộng sản bị bỏ quên. Không phải Tưởng không nhớ tới mối hiểm họa cộng sản, nhưng Tưởng không thể làm hai việc cùng một lúc.

          Năm 1931, các đại biểu cộng sản đã có thể họp tại Thụy Kim mà không phải lo ngại một cuộc tấn công của Tưởng. Trong hai đợt tấn công căn cứ sô viết Giang Tây, Tưởng chỉ có thể tung vào cuộc chiến những lực lượng hỗn hợp, và cả hai lần, các lực lượng của Tưởng đều bị thảm bại.

          Ðến lần tấn công thứ ba, Tưởng tung vào cuộc chiến một số sư đoàn thiện chiến của Quốc dân đảng, và đích thân Tưởng chỉ huy cuộc tấn công. Lực lượng của Tưởng lần này tiến mạnh như vũ bão, và phe cộng sản không thể ngăn chặn được quân của Tưởng, và thủ đô cộng sản Thụy Kim chắc chắn sẽ bị Quốc dân đảng chiếm đóng.

          Nhưng đúng lúc quân Quốc dân đảng gần đạt được chiến thắng thì đêm 18-9-1931, Quân đoàn Quan Ðông của Nhật gây hấn và chiếm Phụng Thiên. Phụng Thiên là thủ phủ và cũng là thành phố quan trọng nhất của Mãn châu. Trước tình thế đó, Tưởng đành phải chấm dứt chiến dịch tấn công Thụy Kim, để đối phó với tình hình nghiêm trọng tại vùng Ðông Bắc.

          Thực tâm Tưởng muốn tránh né một cuộc chiến với quân phiệt Nhật, để thanh toán cho xong cái ung nhọt cộng sản bên trong. Tưởng ra lệnh cho thống chế Trương Học Lương, con trai và là người thừa kế của sứ quân Trương Tác Lâm, phải thi hành một chính sách không chống lại quân Nhật.

          Tưởng hy vọng rằng quân đội Nhật sẽ không xâm lấn thêm nữa. Nhưng hy vọng của Tưởng tỏ ra là một ảo vọng. Trương Học Lương tuân lệnh Tưởng không giao chiến với quân Nhật. Trương Học Lương đã bảo toàn được quân lực của mình, nhưng toàn thể Mãn Châu đã mau lẹ lọt vào vòng kiểm soát của Quân đoàn Quan Ðông của Nhật.

          Tưởng vẫn duy trì chính sách không kháng cự, ngay cả vào đầu tháng giêng năm 1932, khi mà thủy quân lục chiến Nhật đổ bộ lên Thượng Hải. Tuy nhiên Lộ quân 19 dưới quyền chỉ huy của tướng Thái Ðình Khải đã bất tuân lệnh của Tưởng, đứng lên anh dũng chống lại quân xâm lăng Nhật.

          Hai sư đoàn ái quốc của Tưởng, bất phục tùng lệnh của Tưởng, kết hợp với Lộ quân của Thái Ðình Khải, và đương đầu mạnh mẽ với thủy quân lục chiến Nhật. Quân Trung hoa tại Thượng Hải bị tổn thất nặng nề, nhưng họ đã gây được một phong trào ái quốc kháng Nhật sôi nổi khắp Trung hoa, và cũng nhờ vậy quân Nhật bị chặn lại; hai phe Hoa Nhật đã ký một thỏa hiệp chấm dứt cuộc xung đột tại Thượng Hải.

          Trong lúc các trận đánh dữ dội tiếp diễn tại Thượng Hải, thì Mãn Châu tuyên bố độc lập, tách khỏi Trung hoa, do sự giật dây của người Nhật. Phổ Nghi được người Nhật đưa ra làm quốc trưởng bù nhìn của cái gọi là Mãn châu quốc. Phổ Nghi lập một chính phủ, gồm có các bộ trưởng là người Mãn.

          Mỗi bộ trưởng người Mãn có một thứ trưởng người Nhật, và quyền hành thực sự nằm trong tay những thứ trưởng người Nhật. Chính sách tách Mãn Châu khỏi Trung hoa của người Nhật cho thấy người Nhật chưa có ý định mở rộng cuộc chiến vào lãnh thổ Trung hoa. Việc người Nhật sẵn sàng chấm dứt cuộc chiến tại Thượng Hải đã xác quyết thêm điều đó. Như vậy Tưởng Giới Thạch bây giờ rảnh tay tấn công phe cộng sản.

          Ðối với Tưởng thì cái họa cộng sản mới là mối lo tâm phúc, vì Tưởng không nghĩ rằng quân Nhật có thể chinh phục được một nước Trung hoa mênh mông và hiểm trở và có một tiềm lực nhân sự khổng lồ.

          Trong lúc quân phiệt Nhật và Quốc dân đảng quần thảo nhau tại Phụng Thiên và Thượng Hải, người cộng sản Trung hoa không bỏ lỡ cơ hội bành trướng các khu sô viết. Bây giờ khu vực của phe cộng bao gồm nhiều quận huyện và với một tổng số dân lên tới hai triệu rưỡi người. Các khu vực của Mao, Hạ Long, Từ Hướng Tiền và Trương Quốc Ðào chạy đua tăng cường quân lực, và cuối cùng hồng quân đã có một lực lượng đáng kể, gồm hai trăm ngàn tay súng.

          Các chiến thắng của phe cộng đánh bại ba cuộc tấn công của Quốc dân đảng, cùng với sự phân tâm lo lắng của Tưởng trong hoàn cảnh lưỡng đầu thọ địch, và cuộc xâm lăng của quân Nhật đã khiến cho các nhà lãnh đạo cộng sản tin rằng thời kỳ đánh du kích của hồng quân đã qua rồi.

          Bây giờ hồng quân đủ mạnh để giao chiến trực diện với quân Quốc dân đảng. Các lãnh tụ cộng sản bắt đầu dự tính mở những cuộc tấn công chiếm những thị trấn và các trung tâm đông dân cư. Ngày 1-1-1932, các lãnh tụ cộng sản kêu gọi phải chiến thắng tại thành phố.

          Các căn cứ sô viết khắp nơi bắt đầu một chiến pháp mới. Quân của Hạ Long tiến ra uy hiếp miền tây Hồ Bắc. Thành phố Vũ Hán bỗng dưng bị kẹt vào giữa gọng kìm của Hạ Long và lực lượng của Từ Hướng Tiền, trong khi Trương Quốc Ðào hoạt động mạnh tại khu vực giữa Hồ Bắc – Hà Nam – An Huy. Mao Trạch Ðông cực lực chống lại chiến lược tấn công các thành phố như thế, nhưng quan điểm của Mao bị gạt bỏ, và các cuộc tấn công vào thành phố vẫn tiếp diễn.

          Tháng 3-1932, Lâm Bưu được giao chỉ huy Phương diện quân miền Ðông, bao gồm lực lượng cơ bản của Lâm và quân đoàn 5. Mùa xuân năm 1932, Lâm Bưu mở một cuộc tấn công vào tỉnh Phúc Kiến. Lâm Bưu thành công dẫn quân cộng sản mau lẹ tiến thẳng tới Trường châu, và gần như tiến tới hải cảng Hạ Môn.

          Tưởng Giới Thạch có phản ứng ngay. Tháng 6-1932, Tưởng mở chiến dịch tấn công vào các căn cứ sô viết lần thứ 4. Thoạt tiên Tưởng giải nguy cho Vũ Hán, một thành phố chiến lược quan trọng. Quân của Tưởng đã đánh bại quân của Hạ Long, khiến Hạ Long phải rút lui ra các vùng ngoại biên hẻo lánh.

          Ðạo quân của Từ Hướng Tiền và Trương Quốc Ðào cũng phải rút lui vào Tứ Xuyên. Giải quyết xong áp lực vào Vũ Hán, Tưởng bắt đầu chuyển sức mạnh vào căn cứ Giang Tây. Ðối với Tưởng, việc tiến chiếm Thụy Kim trong căn cứ sô viết Giang Tây không phải là việc làm cấp bách, nhưng lại là mục tiêu quan trọng nhất.

          Trước cuộc đại tấn công sắp tới của Tưởng, các lãnh tụ Ðảng, quân đội và chính quyền của Giang Tây đã họp tại Ninh Ðô để bàn kế hoạch đối phó. Lúc đó Chu Ân Lai là chủ tịch Ủy ban quân sự, và Lưu Bá Thừa là tham mưu trưởng. Cả hai người đều chủ trương phải chặn đánh địch quân ngay từ bên ngoài khu vực sô viết.

          Trái lại Mao Trạch Ðông đề nghị nên theo chiến lược đã từng áp dụng và đã từng chiến thắng, là cứ lừa cho quân của Tưởng vào bên trong khu vực sô viết rồi mới tập kích. Mao Trạch Ðông luôn luôn nghĩ rằng phe cộng mặc dù thua kém quân địch về quân số, nhưng vẫn có thể chiến thắng bằng cách tập trung lực lượng cộng quân đông hơn để tấn công những đơn vị lẻ tẻ, ít quân hơn của Quốc dân đảng.

          Mao đã từng viết: “Chiến lược của địch là lấy một đánh mười trong khi chiến thuật của ta là lấy mười đánh một – đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của ta trong việc giành ưu thế với địch quân.”

          Mao Trạch Ðông lập luận rằng chiến lược và chiến thuật trên đây có thể áp dụng thành công, đặc biệt là tại những nơi mà quân cộng sản đã biết rõ địa hình địa vật, biết mọi ngõ ngách của chiến trường và được quần chúng hậu thuẫn, và bảo đảm sự di chuyển của hồng quân được hoàn toàn bí mật.

          Quần chúng cũng sẽ là tai mắt giúp cho hồng quân biết được mọi hoạt động của địch quân. Mao tin rằng khi chiến đấu ngay tại hậu phương của mình thì hồng quân sẽ có cái ưu thế của một con nhện trên màng lưới nhện, vì biết rõ được mọi mắt lưới và mau lẹ biết được nên hướng về phía nào để bắt con mồi đã sa vào cái bẫy đã giăng sẵn.

          Chu Ân Lai và Lưu Bá Thừa dường như không tin vào các lập luận của Mao. Họ cho rằng chiến lược của Mao chỉ hiệu nghiệm khi phải chống lại những lực lượng hỗn hợp trong hai chiến dịch đầu tiên, nhưng đã tỏ ra bất lợi khi phải đương cự với những sư đoàn thiện chiến của Tưởng trong đợt tấn công lần thứ ba. Hơn nữa nếu cứ để chiến cuộc tiếp diễn trong khu vực sô viết thì căn cứ bị tàn phá, gây thiệt hại nhiều về nhân mạng và tài sản.

          Khi phe cộng cứ để cho quân Quốc dân đảng tiến vào khu vực sô viết mãi như thế thì có thể quần chúng sẽ mất tin tưởng vào sức mạnh của đảng và chính quyền cộng sản, không đủ khả năng bảo vệ nhân dân. Và một lý do mạnh mẽ nhất là các tư lệnh hồng quân cho biết đã nắm được các kế hoạch hành quân của Tưởng Giới Thạch. Vì thế các tư lệnh hồng quân tin rằng họ có thể đánh bại được quân của Tưởng ở bên ngoài căn cứ.

          Phe cộng sản đã bắt được một số máy vô tuyến của Quốc dân đảng trong cuộc bao vây tấn công năm 1930. Năm 1931, Mao và Chu Ðức thành lập một đơn vị vô tuyến đặc biệt, với nhiệm vụ giải mã những điện tín của quân Quốc dân đảng.

          Ðơn vị vô tuyến đã có những tiến bộ đáng kể. Năm 1932, họ đã có thể giải mã những điện văn vô tuyến của Hội đồng quân sự trong chính quyền Nam Kinh. Từ đó các tư lệnh hồng quân biết được hành tung của địch, các kế hoạch của địch quân và quân số tại mỗi địa điểm chiến lược.

          Chiến lược của Chu Ân Lai và Lưu Bá Thừa muốn đánh bại quân Quốc dân đảng ngay từ bên ngoài căn cứ, dựa trên nhiều lý do khác nữa, ngoài sự biết trước được những kế hoạch hành quân của địch. Chiến lược này cũng phù hợp với đường lối tiến công đã được nhóm lãnh đạo thân Nga chấp thuận.

          Khi Mao phản đối chiến lược này thì Trương Văn Thiên, một trong 28 lãnh tụ thân Nga, đã kịch liệt chỉ trích Mao và đòi khai trừ Mao ra khỏi đảng. Nhưng Mao được Chu Ân Lai và Chu Ðức bênh vực bảo vệ nên thoát cảnh bị khai trừ.

          Sau hội nghị Ninh Ðô, Mao đi Trường Ðịnh thuộc Phúc Kiến. Mao bị bệnh và phải vào một bệnh viện Phúc Âm của Thiên chúa giáo. Mao được bác sĩ Nelson Fu chữa trị. Bệnh của Mao là do làm việc quá nhiều rồi bị kiệt sức, và cũng vì phải trải qua nhiều căng thẳng trong cuộc đấu tranh với nhóm lãnh đạo thân Nga vừa qua, và cũng do sự thất vọng và chán nản vì kết quả của hội nghị.

          Mao rất ưu tư về sự thất thế trong một đảng do những người thân Nga đang lãnh đạo. Mao phải nằm bệnh viện mất bốn tháng. Tuy nhiên Mao đã thành công khuyến dụ được bác sĩ Nelson Fu di chuyển bệnh viện tới Thụy Kim, và đổi tên là Bệnh Viện Ðỏ Trung Ương.

          Cuộc tấn công lần thứ tư của Tưởng vào căn cứ sô viết Giang Tây cũng lại thất bại như các lần trước. Ngay từ lúc khởi đầu cuộc tiến công, toàn bộ hai sư đoàn Quốc dân đảng đã bị hồng quân phục kích tiêu diệt hoàn toàn trong một đêm. Một tháng sau, Tưởng mở một cuộc tấn công nữa, nhưng vẫn bị những tổn thất nặng nề. Cuối cùng Tưởng phải lui quân, chấm dứt đợt tấn công lần thứ tư.

          Tuy nhiên tại các vùng khác, như tại Phúc Kiến và Quảng Ðông, hồng quân không tuân theo kế hoạch tấn công địch quân bên ngoài các căn cứ, mà vẫn theo chiến lược của Mao, dụ cho địch quân vào bên trong rồi mới tấn công. Tại Phúc Kiến, viên bí thư Lỗ Minh đã di tản dân tại một số thành phố để có thể áp dụng chiến thuật của Mao. Trung ương Ðảng nghiêm khắc trừng phạt Lỗ Minh. Lỗ Minh bị cách chức bí thư.

          Không những thế, trung ương còn phát động một cuộc đấu tranh nhằm phê phán cái gọi là “đường lối Lỗ Minh”, và trừng trị những người ủng hộ đường lối này. Sau hội nghị Ninh Ðô, Mao không còn nắm quyền lãnh đạo quân sự nữa. Nhưng cuộc đấu tranh chống lại “đường lối Lỗ Minh” của các lãnh tụ thân Nga có mục đích tiêu diệt ảnh hưởng còn lại của Mao trong quân đội. Người bí thư riêng của Mao đã bị khai trừ khỏi đảng trong cuộc đấu tranh này. Người ta không bao giờ gặp lại viên bí thư ấy nữa, không hiểu ông ta đã bỏ trốn ra vùng “trắng” hay là đã bị thủ tiêu.

          Người bí thư ấy cũng đóng một vai trò quan trọng trong vụ “Sự kiện Phù Tiên”, trong đó nhiều ngàn đảng viên cộng sản không thuộc phe Mao đã bị Mao ra lệnh tàn sát. Sự kiên Phù Tiên là một vết nhơ của đảng cộng sản Trung hoa mà nhiều lãnh tụ thân Nga không thể nào quên và tha thứ cho Mao được.

          Trong số những người bị chỉ trích trong cuộc đấu tranh này có em trai của Mao, là Mao Trạch Ðàm, và ba người nữa sau này trở thành những nhân vật quan trọng trong đảng, đó là Ðặng Tiểu Bình được coi là người cùng phe với Mao, Ðàm Chấn Lâm, tư lệnh tỉnh đội Phúc Kiến, và Tiêu Cảnh Quang, tư lệnh biên khu Phúc Kiến và Giang Tây. Sau cuộc đấu tranh chống lại “đường lối Lỗ Minh”, Chu Ân Lai trở thành nhân vật quan trọng nhất, nắm chức vụ chính ủy hồng quân, một chức vị nhiều quyền lực trước kia vốn là của Mao.

          Vào mùa thu năm 1933, phe cộng sản đã lỡ một cơ hội lợi dụng cuộc nổi dậy tại Phúc Kiến của Lộ quân 19, dưới quyền chỉ huy của Thái Ðình Khải. Trong tháng 2-1933, Quân đoàn Quan Ðông của Nhật mở rộng cuộc xâm lăng, chiếm tỉnh Nhiệt Hà ở Nội Mông. Ðến tháng 4 thì quân Nhật tràn qua Vạn Lý Trường Thành, tiến sâu vào lãnh thổ chính thống của Trung Hoa. Tưởng Giới Thạch vẫn chủ trương không kháng cự lại quân Nhật, và tháng 5-1933, Tưởng đồng ý ký một hiệp ước đình chiến tại Ðan Cố.

          Theo hiệp ước này thì một khu vực từ Bắc Kinh cho tới Vạn Lý Trường Thành trở thành vùng phi quân sự. Sự nhượng bộ mới của Tưởng trước áp lực của Nhật đã gây một làn sóng căm phẫn khắp Trung hoa. Những người ái quốc Trung Hoa đau lòng thấy rằng mỗi một cuộc xâm lấn của Nhật lại đưa tới một thỏa hiệp nhục nhã, và mỗi thỏa hiệp lại dẫn tới một cuộc xâm lấn khác của Nhật.

          Làn sóng chống lại Tưởng ngày một lan rộng, và những đối thủ chính trị của Tưởng đã liên kết với tướng Thái Ðình Khải, tư lệnh Lộ quân anh hùng đã chiến đấu chống quân xâm lăng Nhật tại Thượng Hải. Khi cuộc chiến tại Thượng Hải chấm dứt, Lộ quân 19 của Thái Ðình Khải được lệnh của Tưởng, tiến về Phúc Kiến để tấn công quân cộng sản.

          Từ đầu năm 1933, những người chống lại Tưởng đã hợp tác với Thái Ðình Khải tìm cách liên lạc với phe cộng sản, và đến tháng 10 thì hai bên đạt được một thỏa hiệp đầu tiên về một liên minh, nhằm mục đích chống lại Tưởng và kêu gọi kháng chiến chống Nhật. Một tháng sau, các phe chống Tưởng thành lập một chính phủ cách mạng nhân dân tại Phúc Châu, nhưng ngay sau đó phe cộng sản ra tuyên cáo không công nhận chính phủ cách mạng nhân dân Phúc Châu.

          Khi Tưởng mở chiến dịch tấn công Lộ quân 19 tại Phúc Châu, phe cộng sản lúng túng không biết nên phản ứng thế nào, và cuối cùng quyết định án binh bất động, để mặc Tưởng đánh bại Lộ quân 19 trong vài tuần lễ. Ðây là một lỗi lầm quan trọng của phe cộng sản mà sau này các lãnh tụ Trung cộng tìm cách đổ lỗi cho nhau.

          Sau khi giải trừ được Lộ quân 19, Tưởng lập tức bắt đầu cuộc tấn công lần thứ năm vào căn cứ sô viết Giang Tây vào đầu năm 1934. Trong lần tấn công thứ năm và cũng là lần tấn công cuối cùng, Tưởng được một danh tướng người Ðức là Hans von Seeckt làm cố vấn. Hans von Seeckt thi hành một chiến lược phong tỏa, được thực hiện với một lực lượng rất hùng mạnh, gồm khoảng 700 ngàn quân. Hàng ngàn công sự được thiết lập, và khoảng cách giữa những công sự được bảo vệ bằng súng máy.

          Nhiều công trình như vậy, cùng với đường xá cần thiết được xây dựng để tiến dần dần vào khu vực sô viết theo một vòng tròn đồng tâm. Cuộc bao vây quân sự này tiến từ từ nhưng rất chắc chắn, càng ngày càng xiết chặt thêm. Sự phong tỏa về kinh tế cũng gây khốn quẫn cho phe cộng sản. Ngay muối là món ăn rẻ tiền nhưng rất cần thiết cho dân chúng cũng trở nên cực kỳ khan hiếm.

          Trước kia hồng quân dựa vào khả năng giải mã các mật hiệu của Quốc dân đảng, nhưng nay trước chiến dịch bao vây từ từ này, khả năng đó trở thành vô hiệu. Ngay cả chiến lược của Mao lừa cho quân địch tiến sâu vào nội địa để tấn công cũng tỏ ra thất bại. Bởi vì lực lượng của Tưởng lần này tiến quân không theo từng mũi quân, mà tiến vào đồng loạt trên một trận tuyến vòng tròn khắp nơi, khiến cho hồng quân bắt buộc phải chiến đấu theo kiểu trận địa chiến. Hồng quân không quen và không đủ sức đánh trực diện trận địa chiến với một địch quân quá đông đảo và có hỏa lực quá mạnh mẽ.

          Cứ như thế, quân của Tưởng cứ từ từ tiến vào, rất có kỷ luật và được pháo binh yểm trợ và hai bên sườn được bảo vệ tối đa. Trong hoàn cảnh đó, phe cộng sản chỉ còn hai lựa chọn: một là chịu thất bại bằng cách chiến đấu để bảo vệ căn cứ và nhân dân; hai là từ bỏ nhân dân và căn cứ với hy vọng sống sót bằng một cuộc rút lui bỏ chạy.

          Năm 1936, khi bàn về thời kỳ này, Mao Trạch Ðông viết: “Vào thời gian của sự kiện Phúc Kiến, hai tháng sau khi chiến dịch phản công lần thứ 5 của ta bắt đầu, những lực lượng chủ yếu của hồng quân đáng lẽ phải thọc sâu vào vùng Giang Tô – Triết Giang – An Huy – Giang Tây, với Triết Giang là trung tâm, và quét sạch một vùng rộng lớn giữa Hàng Châu, Tô Châu, Nam Kinh, Ngũ Hồ, Nam Xương và Phúc Châu, biến thế phòng ngự chiến lược của ta thành thế tấn công chiến lược, uy hiếp những trung tâm trọng yếu của địch, và tìm những trận đánh tại những vùng rộng lớn không có các công sự của địch.

          Bằng cách như vậy, ta có thể buộc quân địch đang tiến công vào phía nam Giang Tây và phía tây Phúc Kiến, phải quay trở về bảo vệ những trung tâm trọng yếu của chúng. Chúng ta có thể phá vỡ cuộc tấn công của chúng vào căn cứ Giang Tây và trợ giúp được cho chính phủ cách mạng nhân dân tại Phúc Châu. Bởi vì kế hoạch này bị bác bỏ, cho nên Chiến dịch “bao vây và tiêu diệt” lần thứ 5 của địch đã không bị đánh bại, và chính phủ cách mạng nhân dân tại Phúc Kiến đã sụp đổ một cách không thể tránh khỏi.”

          Kế hoạch không được thực hiện trên đây của Mao Trạch Ðông chỉ là một cuộc mạo hiểm mà chính Mao đã phản đối năm 1930, vào lúc mà những hoàn cảnh còn tương đối thuận lợi hơn. Lúc đó Tưởng đang bị tấn công nhiều mặt cùng một lúc, và các lực lượng của Hạ Long và Từ Hướng Tiền vẫn còn ở Hoa Trung, và có thể tham gia cuộc tấn công của hồng quân.

          Năm 1934, hoàn cảnh của phe cộng yếu hơn nhiều, khi mà Hạ Long và Từ Hướng Tiền phải bỏ chạy xa vào các vùng hẻo lánh, không còn là những đe dọa cho Tưởng nữa, và cũng không thể tiếp sức cho lực lượng của Mao.

          Hơn nữa nếu tập trung toàn thể sức mạnh của hồng quân để tấn công các trung tâm lớn của Quốc dân đảng thì lại đi ngược với lời cảnh cáo trước kia của chính Mao, cho rằng làm như thế thì địch quân sẽ chiếm căn cứ ngay tức khắc.

          Bây giờ khi ủng hộ một chiến dịch như vậy vào lúc có cuộc nổi dậy của Thái Ðình Khải tại Phúc Kiến, Mao ngầm ngụ ý rằng Mao thông hiểu những hậu quả nghiêm trọng nếu phe cộng sản không hỗ trợ quân sự cho chính phủ cách mạng nhân dân tại Phúc châu. Nhưng Mao có vẻ mâu thuẫn với những tài liệu đã được ghi nhận.

          Ngày 13-1-1934, khi chiều hướng có vẻ bất lợi cho Lộ quân 19 của Thái Ðình Khải, phe cộng sản đã gửi cho phe Thái Ðình Khải một điện văn thúc giục họ võ trang cho quần chúng để bảo vệ Phúc Châu, và cho đó là lựa chọn duy nhất của phe Thái Ðình Khải. Bề ngoài thì phe cộng sản có vẻ như hỗ trợ quân sự cho phe Thái Ðình Khải, nhưng trong bức điện còn có một đoạn viết: “Cần thông báo cho Lộ quân 19 biết rằng con đường duy nhất đánh bại Nhật và Tưởng là phải hợp tác toàn diện với chính phủ cộng sản và hồng quân sô viết, được hỗ trợ bằng một hành động quân sự phối hợp.”

          Bức điện do chính phủ trung ương lâm thời của Cộng hòa Sô viết Trung hoa do Mao làm chủ tịch, và tên của Mao được ghi vào cuối bức điện văn. Ngoài ra trong một thời gian ngắn sau đó, Mao tuyên bố rằng chính quyền cách mạng nhân dân Phúc Châu chỉ đại diện cho một bộ phận của giai cấp cầm quyền phản động.

          Giai cấp đó coi người cộng sản là kẻ thù và coi Quốc dân đảng là một bè lũ thối nát. Ðể tự cứu, họ đã thành lập chính phủ cách mạng nhân dân Phúc châu, với mục đích đánh lừa, làm cho quần chúng tin rằng quần chúng còn có một con đường thứ ba, giữa con đường của Quốc dân đảng và chủ nghĩa cộng sản.

          Lập luận của Mao vào năm 1936, sau khi đã đạt được địa vị lãnh đạo đảng, chỉ là một sự bào chữa cho những lỗi lầm của phe cộng sản, không khai thác được cuộc nổi dậy Phúc Kiến cho ích lợi của phe cộng sản. Bây giờ Mao chỉ trích phe Thái Ðình Khải đã thất bại vì đã “không vận động được quần chúng nổi dậy đấu tranh”, và cho rằng Lộ quân 19 của Thái Ðình Khải đã đại diện cho những lợi ích giai cấp của những phần tử trong giai cấp tư sản và địa chủ.

          Ðúng ra những người thuộc phe Thái Ðình Khải coi cộng sản là kẻ thù của họ, nhưng vì lòng ái quốc, họ đã không tấn công phe cộng sản khi mà quân Nhật còn xâm lăng Trung Hoa. Chắc chắn Lộ quân 19 và hồng quân không thể phối hợp để chống Tưởng một cách thành công được, vì cả hai bên đều không có thiện cảm với nhau. Phe cộng sản không bao giờ giao quân đội của mình cho chính phủ nổi dậy Phúc Kiến xử dụng.

          Không những thế, phe cộng còn muốn lôi cuốn Lộ quân 19 vào quyền kiểm soát của hồng quân nữa. Dẫu sao phe cộng sản cũng chịu hậu quả nặng nề sau khi Lộ quân 19 bị Tưởng đánh bại. Nếu còn Lộ quân 19, hoặc phe cộng sản hợp tác hoặc trợ giúp Lộ quân 19 thì hai lực lượng sẽ tựa vào nhau để chống lại kẻ thù chung là Tưởng Giới Thạch. Nếu còn Lộ quân 19, thì phe cộng sản sẽ được bảo vệ sườn phía tây, và có thể lui tới các hải cảng và thị trường của chính quyền Phúc Kiến.

          Người cộng sản vì ích kỷ không trợ giúp Thái Ðình Khải, nhưng khi Lộ quân 19 thiện chiến và có tinh thần cao bị loại ra khỏi vòng chiến rồi thì phe cộng sản bị bao vây tứ phía và bị quân của Tưởng phong tỏa, gây khốn quẫn, và cuối cùng bị đánh bại và phải bỏ căn cứ, làm một cuộc bỏ chạy gian nan nhất trong lịch sử.

          Tháng 8 năm 1934, Mao bị bệnh sốt rét, và hầu như mất hết quyền hành chính trị. Mao dường như phải sống trong tình trạng quản thúc tại gia. Mao phải rời Thụy Kim về sống tại Vu Ðô, một thị trấn nhỏ của Giang Tây. Mao đã bị hạ tầng công tác vì lỗi lầm tại Phúc Kiến.

          Khi Tưởng tấn công Phúc Kiến, Chu Ân Lai, Bác Cổ và Trương Văn Thiên chủ trương điều động hai đạo quân tiến sang Phúc Kiến hỗ trợ cho Lộ quân 19, nhưng Mao cực lực phản đối, và nhấn mạnh chỉ trợ giúp Lộ quân 19 khi nào Lộ quân này chứng tỏ họ muốn chiến đấu thực sự. Nhưng Lộ quân 19 đã bị đánh bại quá nhanh đến nỗi hồng quân không còn cơ hội trợ giúp nữa. Và bây giờ Mao lãnh hậu quả của sự thất bại này.

          Một tháng trước khi Mao di chuyển tới Vu Ðô, phe cộng đã ra lệnh cho quân đoàn do Phương Chí Mẫn và Túc Dụ chỉ huy phải chọc thủng vòng vây của quốc quân về phía Bắc, để làm một cuộc tấn công nghi binh. Quân đoàn này đã thành công chọc thủng được phòng tuyến của quốc quân, nhưng không giải tỏa được khu trung ương.

          Sau đó quân đoàn đã bị quốc quân đánh bại, Phương Chí Mẫn bị bắt, phần còn lại phải hoạt động du kích dưới quyền của Túc Dụ. Tháng 8, một quân đoàn khác, do Tiêu Khắc, Vương Chấn và Nhiệm Bật Thời chỉ huy, đã phá vỡ được vòng vây và tiến về phía tây, nhằm hướng biên giới của hai tỉnh Hồ Nam và Quí Châu. Cuộc tấn công của Tiêu Khắc đã thành công, và đến tháng 10, lực lượng của Tiêu Khắc đã liên lạc được với lực lượng của Hạ Long.

          Tháng 10-1934, khu sô viết trung ương chỉ còn là một bộ phận nhỏ so với trước kia. Bây giờ phe cộng sản phải nhận chân rằng họ không thể bảo toàn được lực lượng nếu còn ở lại căn cứ Giang Tây. Kết luận này đưa họ tới những quyết định tàn nhẫn: trên hai mươi ngàn thương binh phải bỏ lại, binh sĩ không được mang theo vợ con, chỉ có 35 phụ nữ được di tản theo 85 ngàn binh sĩ.

          Nhiều người thuộc phe của Mao cũng không được đi theo, như em trai của Mao là Mao Trạch Ðàm. Ngay Cù Thu Bạch, cựu tổng bí thư, cũng bị bỏ lại vì mắc bệnh lao phổi nặng. Phe cộng sản còn làm một cuộc thanh trừng những sĩ quan và cán bộ bị nghi ngờ là giao động hoặc phản động. Tất cả bị đem đi quản thúc, và bị thủ tiêu trước khi cuộc Vạn Lý Trường Chinh bắt đầu.

          Ðợt tấn công lần thứ 5 của Tưởng đã thành công, và người cộng sản phải làm một cuộc đào tẩu đắt giá. Sau khi chiếm Thụy Kim, quốc quân đã giết chết Mao Trạch Ðàm và Cù Thu Bạch, và tàn phá căn cứ sô viết. Dân chúng bắt buộc phải di chuyển tới các vùng khác. Trong khi đại quân cộng sản bỏ ra đi, du kích quân cộng sản do Trần Nghị và Hạng Anh lãnh đạo vẫn tiếp tục cuộc chiến một cách hữu hiệu, từ những nơi ẩn nấp bí mật trong rừng sâu và núi non hiểm trở.




          (Xem Tiép Chương 5)

          Tài liệu lịch sử
          Nguyễn Vạn Lý tổng hợp
          sigpic

          Comment


          • #6
            Vạn lý trường chinh

            Chương Năm

            Âm Mưu Từ Những Chiếc Cáng





            Thống Chế Tưởng Giới Thạch





            Tưởng Giới Thạch cùng phu nhân Tống Mỹ Linh


            Thoạt đầu hồng quân thực hiện cuộc đào tẩu vĩ đại bằng cách ngày nghỉ đêm đi, để giữ bí mật và tránh bị quốc quân truy kích. Sau một đêm dài lặn lội qua những đường rừng núi cheo leo khúc khuỷu, ban ngày hồng quân nằm dài ra nghỉ mệt, hoặc chui vào các bụi rậm lùm cây mà ngủ. Ðoàn người chạy trốn chỉ chọn những con đường mòn, và tránh những con lộ lớn. Họ muốn chạy thật nhanh, thật xa đại quân của Tưởng Giới Thạch.

            Ði bộ ban đêm không phải luôn luôn là khổ cực khó khăn, nhất là vào những đêm trăng thanh gió mát. Trong những ngày đầu, hồng quân chưa thấm mệt và chưa bị tổn thất nhiều, nên tinh thần vẫn còn cao và ca hát suốt lộ trình.

            Vào những đêm không trăng sao, hồng quân phải đốt đuốc hoặc dùng những ống tre đổ dầu vào bên trong rồi thắp sáng lên để soi đường đi. Từ chân núi nhìn lên, đoàn quân chạy trốn trông giống như một con rắn lửa, trườn mình từ chân núi, lượn khúc lên đến đỉnh rồi bò xuống bên kia núi.

            Tuy vậy không phải bao giờ cũng dễ dàng và đẹp đẽ như thế. Vào những đêm mưa tối đen không đốt lửa lên được, hồng quân phải thắt khăn mặt trắng vào sau lưng, giúp cho người đi sau trông thấy để khỏi lạc nhau. Có những lúc họ phải nắm lấy vai nhau khi đi qua những đường mòn nhỏ hẹp. Gặp lúc trời mưa đường trơn ướt, một người té thì kéo cả nhóm lao đao theo.

            Nhưng nói chung thì tinh thần của hồng quân trong những ngày đầu rất cao. Các cán bộ tuyên truyền khích động lòng hăng say của họ. Người lính hồng quân chưa biết rõ sự thực là họ đang là kẻ bại trận, và cũng không biết họ đang trên đường chạy trốn, một cuộc chạy trốn thật xa và thập phần nguy hiểm.

            Cuộc chuyển quân của hồng quân theo một đội hình lạ lùng. Tướng Ðộc Nhãn Long Lưu Bá Thừa ví cuộc tiến quân giống như một chiếc ngai vàng. Có hai quân đoàn dẫn đầu là đệ nhất và đệ tam quân đoàn. Toán trung ương bao gồm các cấp lãnh đạo đầu não, cùng với hơn năm ngàn phu khuân vác và rất nhiều lừa ngựa, chở theo rất nhiều dụng cụ và đồ đạc cồng kềnh.

            Hệ thống lãnh đạo được tổ chức rất chặt chẽ. Ngay dưới tam đầu chế Lý Ðức, Bác Cổ và Chu Ân Lai là tư lệnh phó quân đội Chu Ðức, giám đốc bộ chính trị Vương Gia Tường và tham mưu trưởng Lưu Bá Thừa. Toán trung ương được phân làm hai lộ quân. Lộ quân thứ nhất do chủ tịch Ủy ban Quân Sự Diệp Kiếm Anh lãnh đạo. Về sau Diệp Kiếm Anh được phong chức thống chế và làm đến bộ trưởng quốc phòng. Lộ quân thứ hai do Lý Quế Nhân và Ðặng Phát chỉ huy.

            Ngay sau khi cuộc Vạn Lý Trường Chinh khởi đầu, mỗi đơn vị dùng một mật hiệu riêng. Ðệ nhất lộ quân được gọi là Hồng Ân, Ðệ nhị lộ quân là Hồng Giang, đệ tam quân đoàn là Nam Xương và đệ tứ quân đoàn là Phúc Châu.

            Quyền hành quân sự tại lộ quân trung ương được chia làm bốn đẳng cấp. Ðứng đầu là Lý Ðức, Bác Cổ, Chu Ân Lai, Chu Ðức và Lưu Bá Thừa. Nhóm này do Ðặng Yến Phong dẫn đầu. Nhóm thứ hai là quân nhu đạn dược. Nhóm thứ ba là các tiểu đoàn công binh, các đơn vị pháo binh và một quân y viện.

            Nhóm thứ tư là trung đoàn cán bộ do Trần Cương lãnh đạo. Về tổ chức, lộ quân trung ương cũng được phân thành bốn ban chuyên môn: thứ nhất là ban huấn luyện; ban thứ hai phụ trách liên lạc, tiếp tế và khuân vác. Ban thứ ba là một bệnh viện do Hồ Chương điều khiển. Ban thứ tư gồm các cán bộ và các nhân viên bí thư đảng và một trung đoàn an ninh.

            Lộ quân trung ương được bảo vệ cẩn mật và không một ai bị thương tích trong những ngày đầu, nhưng lộ quân này không di chuyển mau lẹ bằng các đơn vị tác chiến như Ðệ nhất và Ðệ tam quân đoàn. Vì mang nhiều đồ nặng nề nên lộ quân trung ương di chuyển rất chậm chạp.

            Trong lộ quân lại có những người già cả bệnh tật, như Mao Trạch Ðông và Hồ Diệu Bang thì bị bệnh sốt rét, Vương Gia Tường thì bị bệnh đau bao tử. Ngoài ra còn có thêm trên 30 phụ nữ, vừa là đảng viên vừa là vợ các lãnh tụ cao cấp. Càng ngày nhóm người trung ương càng tỏ ra cản trở bước tiến của hồng quân.

            Trong những ngày đầu tiên sinh tử của cuộc Vạn Lý Trường Chinh, điều kiện thiết yếu nhất là tốc độ: phải chạy cho thật nhanh trước khi quốc quân tung ra những cuộc truy kích. Chính vì thế nhiều đồ nặng đã phải bỏ lại. Hàng ngàn khẩu súng máy, nhiều đạn dược, và ngay cả vàng bạc cũng phải đem chôn dấu, dự định sau này có cơ hội sẽ đào lên dùng.

            Trong khi hồng quân đã lên đường rồi mà quốc quân vẫn chưa khám phá được cuộc đào tẩu của hồng quân, và chưa bắt đầu cuộc truy kích. Tại thành phố Nam Xương, Tưởng Giới Thạch vẫn yên trí quân cướp đỏ sắp bị tận diệt đến nơi và không còn cách nào thoát được vòng vây của quốc quân.

            Ngày 21-10, hồng quân vượt qua vòng vây đầu tiên của quốc quân tại vùng cực nam của Giang Tây, ngay tại con sông Ðào. Tại đây họ gặp một sức kháng cự rất yếu ớt của quốc quân. Có lẽ quốc quân không phòng thủ mạnh vì không tin hồng quân có thể tiến tới đó. Hồng quân tiến vào địa phận tỉnh Quảng Ðông, và vẫn tiến thẳng về hướng tây nam.

            Một số người ngạc nhiên trước hướng tiến quân này, vì mục tiêu chính của hồng quân là tiến về vùng tây bắc Trung hoa để nhập với đệ nhị và đệ lục quân đoàn. Tuy nhiên mọi người đều phấn khởi vì cuộc Vạn Lý Trường Chinh khởi đầu bằng một điềm lành: đó là trận chiến thắng đầu tiên phá vỡ được vòng vây thứ nhất. Ðược đà, hồng quân phá vỡ luôn vòng vây thứ hai một cách mau lẹ ngày 3-11.

            Trong những ngày đầu, các đơn vị tiền phương của hồng quân tiến như vũ bão. Thực ra chiến thắng đầu tiên của hồng quân không phải là tình cờ. Chu Ân Lai đã bí mật thỏa hiệp với sứ quân Quảng Ðông để cho hồng quân đi thoát mà không phải giao tranh. Trong suốt cuộc Vạn Lý Trường Chinh, việc liên lạc giữa các tư lệnh quốc quân và hồng quân thường xảy ra. Có lẽ đó là truyền thống quân sự của người Trung Hoa.

            Các tư lệnh quốc quân Trung Hoa rất nhậy cảm và tin rằng không cần phải đổ máu nếu có thể thu xếp được một phương cách khác. Hơn nữa các tướng tư lệnh của hai bên đều đã từng chiến đấu cùng một chiến tuyến dưới ngọn cờ của Tôn Dật Tiên, và hồng quân và quốc quân đã có một thời hợp tác với nhau.

            Tinh thần thiếu trách nhiệm và cầu an của các tướng tư lệnh quốc quân đã đồng lõa giúp cho đám hồng quân bại trận trốn thoát được cảnh tiêu diệt để chờ thời và bồi dưỡng sức mạnh. Chỉ mấy năm sau, các tướng tư lệnh quốc quân cầu an này bị chính hồng quân quay lại tiêu diệt.

            Trong bàn cờ chính trị phức tạp của Trung Hoa trong thập niên 1930, Tưởng Giới Thạch không phải là một lãnh tụ lúc nào cũng hùng mạnh nhất. Họ Tưởng phải đương đầu với sự thay đổi đồng minh liên tục của các sứ quân. Sự liên kết giữa các sứ quân và Tưởng cứ tiếp tục thay đổi, nay là bạn mai là thù, rồi sau đó là bạn trở lại.

            Thực ra các sứ quân không tin tưởng vào thiện chí của Tưởng Giới Thạch. Họ e sợ rằng nếu Tưởng mà mạnh hẳn thì chính họ cũng bị Tưởng tiêu diệt như quân cộng sản vậy. Họ không muốn Tưởng hoặc cộng sản quá mạnh.

            Họ không ngần ngại thỏa hiệp với cộng sản nếu họ có lợi riêng. Một số sứ quân cũng thực tình muốn có sự đoàn kết giữa mọi phe phái khác nhau, để cùng chống lại kẻ thù chung là quân xâm lăng Nhật Bản.

            Những sự kiện này đã thúc đẩy sứ quân Quảng Ðông gửi cho Chu Ân Lai một tín hiệu bí mật vào tháng 9-1934, đề nghị hai người nói chuyện với nhau. Lý Ðức thì cho rằng sứ quân Quảng Ðông sợ quốc quân diệt xong hồng quân sẽ tiến tới biên giới Quảng Ðông.

            Không biết lý do nào đúng, nhưng sứ quân Quảng Ðông phái một sứ giả đến gặp Chu Ân Lai. Chu Ân Lai chụp ngay cơ hội và dùng sứ quân Quảng Ðông chống lại Tưởng Giới Thạch.

            Chu sai hai cộng sự viên thân tín của mình tới một làng nhỏ tại miền bắc Quảng Ðông, và hai bên đi đến một thỏa hiệp là hồng quân và quân Quảng Ðông sẽ không chống lại nhau. Hơn thế nữa, cả hai bên sẽ còn hợp tác trao đổi tin tức tình báo cho nhau.

            Sứ quân Quảng Ðông còn cung cấp cả dụng cụ y tế cho hồng quân. Khi cuộc Vạn Lý Trường Chinh xảy ra, hồng quân tiến qua địa phận Quảng Ðông dễ dàng như đi dạo mát, trong lúc quân của sứ quân Quảng Ðông ngoảnh mặt nhìn đi chỗ khác.

            Tướng Dương Hổ Thành, tư lệnh một sư đoàn quốc quân, cũng cung cấp các dụng cụ truyền tin vô cùng thiết yếu cho hồng quân. Những dụng cụ truyền tin này đã giúp hồng quân rất nhiều trên đường chạy trốn, và ngay cả sau này khi đã thành lập được chiến khu tại Tứ Xuyên.

            Không những thế, hồng quân còn đọc được mật mã của quốc quân, nhờ lấy được hệ thống mật mã của quốc quân. Hồng quân đã thiết lập được phương pháp theo dõi hệ thống truyền tin của quốc quân mà không bị quốc quân nghi ngờ.

            Hồng quân xử dụng các máy truyền tin rất thận trọng, chỉ dùng cho cấp quân đoàn nên quốc quân không hề ngờ rằng hồng quân cũng có hệ thống truyền tin. Tướng Dương Hổ Thành về sau tham dự cuộc bắt cóc Tưởng Giới Thạch tại Tây An năm 1936 cùng với thống chế Trương Học Lương.

            Sau đó Dương Hổ Thành bị Tưởng bắt giam cùng với Trương Học Lương. Khi hồng quân sắp sửa chiếm trọn Hoa Lục thì Tưởng Giới Thạch ra lệnh hành quyết Dương Hổ Thành, và di chuyển Trương Học Lương ra Ðài Loan để tiếp tục làm tù nhân trong tay Tưởng.

            Sau khi thoát vòng vây thứ hai, hồng quân bắt đầu tiến quân ban ngày. Mỗi buổi sáng, hồng quân xuất phát vào lúc 6 giờ sáng. Sĩ quan và binh sĩ phải dậy từ 5 giờ sáng, nhổ trại, ăn sáng trước khi lên đường. Các lãnh tụ cao cấp thì dậy lúc 9 giờ sáng.

            Các đầu bếp và vệ sĩ đã đi trước để sắp sẵn bếp lửa và dọn điểm tâm chờ đón trước trên đường đi của các lãnh tụ. Các lãnh tụ lớn được binh sĩ dùng cáng khiêng đi, và họ ngủ ngon lành như những trẻ sơ sinh trong nôi. Cáng của họ được hai vệ sĩ khoẻ mạnh vừa khiêng vừa đưa đẩy cho họ dễ ngủ.

            Mãi đến cuối tháng 10, phe Quốc dân đảng mới biết hồng quân đã trốn thoát cuộc bao vây. Nhưng phải vài tháng sau họ mới biết được những gì đang xảy ra. Ðiều này được chứng tỏ trên báo chí trong khu vực Quốc dân đảng. Ngày 18-10, tờ Nam Xương Báo chào mừng chiến thắng của quốc quân.

            Ðến ngày 27-10, tờ báo loan tin cộng quân toan tính trốn về phía nam, tấn công An quận, nhưng bị đẩy lui, và hàng chục ngàn cộng quân tử trận. Ngày 31-10, tờ báo loan tải hồng quân bị đẩy lui về vị trí cũ, và căn cứ của hồng quân bị san thành bình địa.

            Phe Quốc dân đảng tiếp tục được ru ngủ bằng những bài báo loan tin chiến thắng thất thiệt. Ngày 8-11, một tờ báo khác trong vùng Quốc dân đảng loan tin cộng quân đang bị thảm bại, tuy nhiên cộng quân tỏ ra rất gan dạ nên phải vài tháng nữa quốc quân mới hoàn toàn tiêu diệt được “quân cướp đỏ”.

            Ngày 1-12, một tờ báo lớn nhất tại Nam Xương công bố số tổn thất của hồng quân lên tới mười ngàn người, và quốc quân bắt được bốn ngàn tù binh. Một cuộc biểu tình vĩ đại được tổ chức tại Nam Xương để ăn mừng chiến thắng, và ca ngợi công lao của Tưởng Giới Thạch.

            Thực ra quốc quân đã bị một thất bại nặng nề về tình báo. Có lẽ Tưởng Giới Thạch bận việc không có mặt tại Nam Xương, và một phần tướng Hans von Seeckt quá cẩn thận, không dám cho quốc quân tiến sâu vào khu vực cộng sản, sợ bị đánh phục kích.

            Vì thế trong những ngày đầu tiên, hồng quân không gặp sức kháng cự mạnh mẽ của quốc quân và không bị không quân của Tưởng oanh kích. Mãi đến ngày 28-11, khi hồng quân tới bờ sông Tây Giang thì quốc quân mới phái một phi đội lớn, khoảng 200 phi cơ, đuổi theo tấn công.

            Sự thất bại về tình báo của Tưởng Giới Thạch thật là lạ lùng, nhưng cũng không lạ lùng hơn tình báo thế giới. Báo chí quốc tế hầu như không nhắc nhở đăng tải một tin gì về cuộc tấn công của quốc quân và cuộc rút lui của hồng quân vào tháng 10-1934. Các tin thế giới lớn nhất của tờ New York Times chỉ nhắc đến Hitler, thế vận hội Bá Linh, và cuộc khủng hoảng tại Tây Ban Nha.

            Mãi đến ngày 9-11, tờ Times mới đăng tin 40 ngàn cộng quân bị bao vây từ nhiều tháng đã thoát vòng vây và chạy trốn khỏi Giang Tây và Phúc Kiến; cộng quân đang tiến về phía tây, vừa đi vừa cướp bóc dọc đường, suốt một giải đất dài hàng trăm dậm và rộng trên mười dậm. Ðó là tin đầu tiên của báo chí tây phương về cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Ba tuần sau đó, tờ Times trấn an độc giả rằng cộng quân đã bị quốc quân đánh bại tại Quảng Tây.

            *

            Kể từ khi vượt qua con sông Vu Giang, Mao Trạch Ðông làm một cuộc hành trình trên cáng do các binh sĩ lực lưỡng khiêng. Mao Trạch Ðông phải nằm cáng không phải vì Mao không biết đi bộ qua các miền hoang dã.

            Thực ra không một lãnh tụ cộng sản Trung Hoa nào biết nhiều về đất nước Trung Hoa bằng Mao. Ngay từ hồi còn ít tuổi, Mao đã đi bộ khắp các miền quê của tỉnh Hồ Nam. Mao không đem theo tiền bạc gì cả, và sống nhờ vào sự bố thí giúp đỡ của các nông dân.

            Năm 1927, Mao cũng lui về miền quê và nghiên cứu phân tích đời sống của người nông dân. Mao đã nhìn thấy sức mạnh của người nông dân, và tuyên bố: “Chẳng bao lâu nữa, hàng trăm triệu nông dân sẽ vùng lên mạnh như một trận cuồng phong, một sức mạnh mau lẹ và dữ dội mà không một quyền lực nào có thể ngăn cản được.” Mao tin tưởng người nông dân Trung Hoa sẽ quét sạch đế quốc, các sứ quân, các viên chức tham nhũng, và cường hào ác bá.

            Mao cho rằng mọi cuộc cách mạng phải cần đến sự thay đổi tại miền quê, và cách mạng là một công việc không nhẹ nhàng thư thái như là dự một bữa tiệc, làm một bài thơ hoặc vẽ một bức họa; trái lại cách mạng là bạo động tàn sát. Mao đã từng tuyên bố với một ký giả Mỹ: “Bất cứ ai thắng được nông dân sẽ thắng được Trung Hoa và ai giải quyết được vấn đề cải cách ruộng đất sẽ thắng được nông dân.”

            Nhưng vào lúc cuộc Vạn Lý Trường Chinh khởi sự thì sức khoẻ của Mao gần như kiệt quệ sau một cơn bệnh sốt rét lâu dài. Thuốc ký ninh đã giúp diệt trừ mầm mống bệnh sốt rét trong người Mao, nhưng không đủ lấy lại sức khỏe cho Mao.

            Bác sĩ Nelson Fu, bác sĩ riêng của Mao, khuyên Mao phải ăn nhiều hơn, và mỗi tối ông dọn cho Mao một tô cháo gà. Cáng của Mao nằm có một cái đòn rất dài, để giúp hai người khiêng có thể nhìn thấy đường đi của họ trên những con đường cheo leo nhỏ hẹp.

            Cáng còn được phủ giấy dầu để che mưa nắng. Mao bình yên ngủ, kể cả những lúc mưa to gió lớn. Một người nữa cũng nằm cáng suốt cuộc Vạn Lý Trường Chinh là Ðặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai. Ðặng Dĩnh Siêu bị bệnh lao phổi ngay khi cuộc Trường Hành bắt đầu.

            Những cái cáng trên con đường vạn lý là trung tâm của những buổi họp, bàn luận và âm mưu đưa Mao Trạch Ðông trở lại quyền lãnh đạo đảng cộng sản Trung Hoa, và quyền điều khiển cuộc Vạn Lý Trường Chinh đến thành công.

            Những cái cáng chở Mao và Vương Gia Tường đi song song với nhau tại những nơi đường rộng rãi, và đó là cơ hội cho Mao rủ rỉ trổ tài thuyết phục Vương Gia Tường đứng về phía mình. Ban đêm khi cắm trại, hai người vẫn tiếp tục nói chuyện, trao đổi quan điểm. Vương Gia Tường cũng là con một địa chủ như Mao.

            Vương thích đọc sách và đến Thượng Hải để học thêm. Tại đây Vương gia nhập nhóm cộng sản đầu tiên và được cử sang Nga sô học tập. Vương là một trong nhóm 28 đảng viên bôn sê vích đào tạo tại Nga và thân Nga, dưới quyền lãnh đạo của Vương Minh.

            Vương Gia Tường là một người rất gầy yếu, và có tài nói chuyện khuyến dụ người khác. Những sách mà Vương Gia Tường mê say đọc nhất là bộ Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, và các tác phẩm Nga của Gorky và Tolstoi.

            Chính tại những lúc cắm trại bên nhau mà Mao và Vương Gia Tường hiểu biết nhau nhiều hơn. Hai người phân tích những gì xảy ra tại Giang Tây, nhất là trận đánh Quảng Xương và cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Mao nói về những lỗi lầm chiến thuật mà giới lãnh đạo đương thời mắc phải.

            Càng ngày lý luận của Mao càng trở nên hợp lý và hấp dẫn đối với Vương Gia Tường. Trong vòng một tháng, Mao đã thành công lôi kéo được Vương đứng hẳn vào phe của Mao. Trong những tháng sau đó, chính Vương Gia Tường đã góp công lớn giúp Mao loại bỏ được cả Lý Ðức và Bác Cổ, để Mao trở thành người lãnh đạo tối cao của hồng quân Trung hoa.

            Nhiều lãnh tụ khác cũng không ưa Bác Cổ, và thường hay công kích những lỗi lầm của Bác Cổ. Nhưng Lý Ðức luôn luôn ra công thuyết phục mọi người phải hợp tác với Bác Cổ. Một đồng minh nữa của Mao là Lạc Phủ, một cựu chủ bút báo tại San Francisco.

            Lạc Phủ viết những bài báo kêu gọi người cộng sản Trung Hoa không những phải chiến đấu chống lại Tưởng Giới Thạch, mà còn phải chống lại những kẻ chỉ chiến đấu cho quyền lợi của Nga sô.

            Các bài luận thuyết này nhắm thẳng vào Bác Cổ, Lý Ðức và các lãnh tụ cộng sản được huấn luyện tại Nga sô. Lý Ðức không hiểu nhiều tiếng Trung Hoa, nhưng cũng cảm thấy sự bất lợi nên nhiều lần đã khuyên Lạc Phủ phải hợp tác với Bác Cổ vì cả hai người đều được huấn luyện tại Nga sô. Nhưng Lý Ðức không thành công lôi kéo Lạc Phủ trở về với phe thân Nga sô. Càng ngày Lạc Phủ càng xa cách Bác Cổ.

            Cuối cùng Mao, Lạc Phủ, và Vương Gia Tường đồng ý gặp lúc thuận tiện sẽ đòi hỏi Bác Cổ, Lý Ðức phải tổ chức một cuộc đại hội để giải quyết quyền lãnh đạo quân đội. Khi họ đạt được điều đó thì Bác Cổ và Lý Ðức kể như bị loại bỏ.

            Lý Ðức không biết gì về những âm mưu chống đối của nhóm người nằm cáng, nhưng Lý Ðức cũng biết Mao đang tận dụng tài thuyết phục của mình và điều đó chẳng có lợi gì cho Lý Ðức cả.

            Về sau trong một cuốn hồi ký, Lý Ðức than phiền Mao lân la nay nói chuyện với tư lệnh này, mai thì thầm với tư lệnh khác, và sau những cuộc thì thầm của Mao là hàng loạt những lời than phiền chống lại Bác Cổ và Lý Ðức. Lý Ðức gọi bộ ba Mao, Lạc Phủ và Vương Gia Tường là “Trung Ương Tam Hung”. Dù bị gọi là gì thì ba người này đang tiến tới chỗ nắm quyền chỉ huy cuộc Vạn Lý Trường Chinh.

            Các cố vấn Nga và các lãnh tụ thân Nga thường gọi Mao Trạch Ðông là một trái bí ngô quê mùa. Sự coi thường Mao là một lỗi lầm lớn nhất của họ, vì Mao là một đối thủ chính trị nguy hiểm có nhiều thủ đoạn hiểm độc, và đã từng chứng tỏ có khả năng sinh tồn siêu việt trong những hoàn cảnh rất khó khăn.

            Ngay khi cuộc Vạn Lý Trường Chinh bắt đầu thì Mao cũng đang ở trong tình trạng thất thế, nhưng Mao không chịu thua hoàn cảnh, và đang ngấm ngầm tung đòn độc quật ngược lại đối thủ. Phần lớn các lãnh tụ thân Nga đều còn rất trẻ, chỉ khoảng ngoài 20 và được nhồi sọ tại Mạc tư khoa. Mao già hơn các lãnh tụ thân Nga một thế hệ. Năm 1934, Vương Gia Tường mới có 27 tuổi.

            Bác Cổ trẻ hơn, mới có 26, và từng học tại Nga sô 4 năm, từ 18 đến 22 tuổi. Vương Minh, thủ lãnh của nhóm, cũng chỉ mới 28 tuổi. Lạc Phủ 35 tuổi được coi là già nhất trong nhóm thân Nga. Tất cả các lãnh tụ thân Nga trẻ tuổi này không thể là đối thủ của Mao Trạch Ðông, vì họ thiếu sự thâm trầm, tâm địa quỷ quyệt và lòng dạ tàn ác đến lạnh lùng của Mao Trạch Ðông.

            Mao chưa hề du học tại ngoại quốc. Mao không sang Âu châu sau đệ nhất thế chiến như Chu Ân Lai và Chu Ðức. Mao cũng chưa từng được đứng cúi đầu trước bàn thờ tổ cộng sản tại Mạc tư khoa.

            Các người bôn sê vích Trung Hoa đều xuất thân từ giới trung lưu trí thức thành thị, và hầu như không biết gì đến 80% dân chúng Trung Hoa sống tại miền quê. Trái lại Mao là một sản phẩm pha trộn một số tư tưởng Mác xít với triết lý Trung Hoa, cộng với tinh thần chậm tiến và bảo thủ của người nông dân Trung Hoa.

            Mao đã chứng tỏ là một người không bao giờ chịu nhường bước trước bất cứ đối thủ nào, một khi đã quyết tâm theo đuổi mục tiêu, dù kẻ địch là ai cũng vậy. Mao nhất quyết lật đổ giới lãnh đạo thân Nga và lấy nông dân làm căn bản cho cuộc cách mạng vô sản Trung Hoa. Chỉ trong điều kiện đó Mao mới bảo đảm.





            (Xem Tiép Chương 6)

            Tài liệu lịch sử
            Nguyễn Vạn Lý tổng hợp
            sigpic

            Comment

            Working...
            X