Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Tập truyện - Nguyên Nhung

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tập truyện - Nguyên Nhung

    NGỌN NẾN LUNG LINH - NGuyên NHung

    1-



    Tôi không nhớ được mùa Giáng Sinh năm ấy tôi bao nhiêu tuổi, nhưng chắc chỉ độ lên mười. Có lẽ đó là một mùa Giáng Sinh khá buồn và ảm đạm vì các anh chị tôi đi làm, đi học xa không về được, ở nhà quạnh quẽ chỉ còn hai mẹ con. Thời thơ ấu, tôi thèm lắm những bóng đèn xanh đỏ chớp nháy trên cây Giáng Sinh, một hang đá bằng giấy quết mực đen với những tượng Thánh xinh xinh bằng đất nung. Nhưng mộng ước ấy xa vời lắm đối với một đứa trẻ mười tuổi quá bé bỏng, trong lúc mẹ tôi xoay sở lo cho các con cơm ăn áo mặc đã vất vả, thời buổi ấy quả là một gánh nặng nhọc nhằn, trên đôi vai bé nhỏ của người đàn bà góa bụa.



    Là một đứa trẻ con, nhưng dường như ông Trời đã cho tôi một tâm hồn khá nhạy cảm để âm thầm tìm niềm vui cho mình từ những nhỏ nhoi nhất. Bởi vậy, đêm Giáng Sinh năm ấy dù không có đèn sao nhấp nháy, những trái châu xanh đỏ, nhưng tôi đã biết dùng những chiếc kẹo đủ màu để treo lên nhánh cây dương xỉ nhặt được trong khu nhà thờ, khi người ta đến đó trang hoàng hang đá cho mùa Giáng Sinh. Duy nhất một ngọn nến trắng bập bùng, ánh sáng lung linh hắt lên tường bóng một cành cây và một bóng người. Ngọn nến trắng đêm ấy đã làm cho cành cây và cái bóng của đứa trẻ thơ như lớn hơn, in lên tường chập chờn một giấc mơ tuyệt vời ấm áp. Tôi không nhớ được hết cảm giác đó vì thời gian qua đi khá lâu, nhưng cảm nhận về ngọn nến trắng thời thơ ấu đã giúp tôi vượt qua nhiều nỗi buồn, mỗi khi lẻ loi, thất vọng, tôi vẫn cứ nhớ hoài ngọn nến trắng mùa Giáng Sinh năm tôi mười tuổi. Tôi còn nhận được một món quà đặc biệt của bà hàng xóm, bạn của mẹ tôi, cho đến bây giờ dù thời gian qua đi mấy chục năm, tôi vẫn hình dung ra được hình dáng và mùi vị của nó: một củ khoai lang nướng.



    Món quà Giáng Sinh nghèo nàn của bà hàng xóm quê mùa thật vừa bụng tôi lắm, dù rằng mẹ tôi có làm vài món ăn đặc biệt cho ngày Lễ. Tôi mơ màng nhìn ngọn nến lung linh soi lên cây Giáng Sinh của tôi, cứ gọi như vậy vì nó là niềm vui có thể làm được của một đứa trẻ con mười tuổi, củ khoai nướng gói trong mảnh lá chuối còn nóng hổi, mùi mật ngọt của khoai bốc lên thơm lừng, mùi rơm rạ hình như còn ủ trong lớp vỏ khoai cháy xém. Nụ cười trìu mến trên khuôn mặt hiền lành của bà hàng xóm, khi đưa cho tôi món quà Giáng Sinh nghèo nàn ấy. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ khuôn mặt quê mùa, chân thật của bà, củ khoai lang nướng đêm Giáng Sinh ngày thơ ấu đã theo tôi vào đời. Khi trưởng thành, những lúc bụng đói mắt cay, đời gặp lúc gian nan, buồn tủi, tôi cũng nhớ củ khoai nướng, nhớ mùi khoai lang nướng. Khi sung sướng hạnh phúc ở quê người, đời no đủ những cao lương mĩ vị, tôi cũng nhớ mùi vị củ khoai nướng. Phải chăng trong tôi vẫn vấn vương thứ TÌNH NGƯỜI nhỏ nhoi ấy, không thể mua được bằng tiền. . .



    2-



    Tôi yêu đóm lửa ngọn nến trắng từ hồi còn thơ ấu, chắc là ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm xưa cũng đi theo tôi đến những chặng đường còn lại của đời người. Có một câu chuyện tôi sắp kể ra đây, đó là câu chuyện của ông cụ Rôbéctô tôi có dịp gặp ở ngôi nhà nguyện. Mỗi ngày, sau Thánh Lễ buổi sáng, mọi người đã lục tục ra về, ngôi nhà nguyện đóng kín cửa như chìm trong yên lặng và bóng tối, chỉ còn lại duy nhất một ngọn nến trắng trên bàn thờ. Ánh nến hắt lên tường những chấm sáng lung linh, soi lên bức tượng Đức Mẹ bồng con bằng thạch cao trắng toát. Nến trắng và tượng trắng, tất cả chỉ là một màu trắng nhưng nghe trong thinh lặng chút bình an tràn ngập tâm hồn.



    Tôi ngồi lại một lúc giữa những hàng ghế chỏng trơ không còn ai, nhìn chăm chăm lên ngọn nến. Tôi ở lại một mình chỉ vì thích đóm lửa nhỏ nhoi của ngọn nến, say sưa nhìn đóm lửa nhỏ lay lắt tỏa ánh sáng hắt hiu xuống chiếc khăn trải bàn cũng màu trắng, trong cái tĩnh lặng của tâm hồn. Tôi không cầu nguyện gì đâu, nhưng cảm giác bình yên khi nhìn ánh sáng của cây nến trắng đã rất đủ. Chắc hẳn trong mỗi đời người ai cũng có lúc thèm sự yên tĩnh của tâm hồn. À không, ở dãy ghế bên kia còn một ông già Mễ Tây Cơ, ông vẫn quỳ im lặng nhìn lên ngọn nến như tôi vậy, nhưng khác hơn là miệng ông mấp máy cầu nguyện. Mặt ông héo quắt với chòm râu bạc, đôi mắt đăm đăm nhìn lên ngon nến, nét mặt thành khẩn như đang cố bám lấy một niềm hy vọng nơi bức tượng Thánh trên bàn thờ.



    Buổi sáng nay đi ngang công viên để đến nhà nguyện, tôi đã nhìn thấy mùa Đông trở về, một rừng lá vàng khô xôn xao đuổi nhau lăn xuống cuối dốc, trơ lại những nhánh cây khô, treo trên đó là những thân tầm gửi đang đong đưa theo gió sớm. Buổi sáng đầu mùa Đông mang theo chút giá buốt, khu công viên chỉ lác đác dăm người đi bộ, và những cây hoa dại có một sức chịu đựng dẻo dai, nở những bông hoa li ti trên bờ cỏ ven đường.



    Khi ngọn nến tàn là lúc ấy tôi với ông già Mễ cũng ra khỏi ra nguyện. Ánh sáng leo lét của ngọn nến cháy bập bùng rồi gần như lả xuống trong lòng chiếc bình thủy tinh trong suốt, y như cái ngoẹo đầu cuối cùng của một người khi từ giã cõi đời. Ông già Mễ mỉm cười chào tôi trước sân nhà nguyện, ở đấy có một vườn hoa nhỏ và hai băng ghế dài đặt song song đối diện nhau. Có khi tôi cũng ngồi lại một chút để nhìn vẩn vơ lũ chim sẻ đang nhảy nhót trên sân tìm mồi, bỗng đồng loạt bay ào lên khi thấy có bóng người bước tới. Đôi khi tôi và ông Rôbéctô hay trao đổi vài câu chuyện nhỏ, cái miệng móm mém của ông phều phào kể cho tôi nghe những nỗi buồn nho nhỏ trong gia đình, ông hay đi nhà thờ để cầu nguyện cho đứa cháu đang đi lính ở phương xa.



    Khi biết tôi ở lại một mình cũng chỉ vì thích ánh sáng lung linh của ngọn nến trắng, và câu chuyện mùa Giáng Sinh thời thơ ấu, ông RôBécTô cảm động lắm. Đôi mắt ông hấp háy, nhòa ướt qua giọng nói khàn khàn ẩm đục. Mùa Giáng Sinh đến, trời bắt đầu lạnh hơn, tôi có ý nghĩ chuẩn bị một món quà cho ông bạn già vong niên trước ngày Lễ Giáng Sinh. Có gì đâu, tôi lại nhớ đến củ khoai lang nướng bà hàng xóm tặng tôi đêm Giáng Sinh, bây giờ nghe ông Rôbéctô thích vài món ăn Việt Nam, tôi nghĩ đến chuyện tặng ông một hộp cơm rang và chục cái chả giò tôm thịt. Chẳng có gì hơn bằng một món quà đáp ứng đúng sự ưa thích của người nhận, ông Rôbéctô cảm động lắm khi nhận món quà của tôi buổi sáng trước ngày Lễ Giáng Sinh, tôi thấy đôi mắt ông nhòa lệ khi nắm lấy tay tôi nói phều phào những lời cảm ơn.



    Tôi không nghĩ đến việc cho đi để nhận lại một món quà thật dễ thương của ông Rôbéctô vài hôm sau đó. Khi tan buổi lễ, ông gặp tôi trước sân nhà nguyện, với một gói giấy hoa thật đẹp, thì ra ông già đã nhờ cô con gái mua hộ cho tôi một món quà thật xinh: đó là chiếc áo len màu hồng nhạt. Vẫn cái giọng Mễ Tây Cơ lùng bùng những thanh âm nằng nặng, ông nói rằng món quà này thật là thích hợp cho tôi, người phụ nữ Á Đông có dáng dấp nhỏ nhắn và nước da trắng trẻo. Quả thật chiếc áo len màu hồng khi mặc vào đã làm tôi như trẻ lại hằng chục tuổi. Món quà của ông Rôbéctô đã thắp lại trong tôi ngọn nến sáng mùa Giáng Sinh năm nào, với củ khoai lang nướng khi tôi là cô bé lên mười thuở ấy. . .



    Ông Rôbéctô đã qua đời vài năm nay, ông chết vì bịnh ung thư phổi. Những năm cuối của cuộc đời, ông không đến được nhà nguyện mỗi ngày, nhưng trước khi chết ông vẫn mong được gặp những khuôn mặt yêu thương của những người Việt ông quen biết. Rất tiếc là tôi không thường gặp ông sau này, nhưng tôi biết ông ra đi rất êm ả. Người ta kể rằng trong những giây phút cuối cùng của đời người, ông chỉ xin đốt lên cho mình một ngọn nến. . .



    3-



    Những ngày cuối năm với những cơn mưa mùa Đông làm ẩm ướt không gian, đất trời như nặng trĩu một nỗi sầu da diết. Trong căn nhà vắng lặng, bóng chiều hình như đến vội với những giọt mưa rả rích ngoài hiên. Trời rét lắm, gió và rét khiến những chú chim sẻ nhiều chuyện không ríu rít như mọi ngày, chúng rủ nhau vào trốn gió sau bụi mía, lả mình vào hàng rào đang rung rung những chiếc lá úa. Những con chim sẻ mùa Đông trông thật dễ thương, xù lông ra tròn quay như một cụm len màu nâu xám biết nhảy nhót.



    Góc vườn nơi cửa sổ nhà bếp rất khuất gió, bụi mía sắp tàn như một mái nhà tranh trống trước hở sau, che tạm cho một gia đình nghèo khổ. Sau cơn mưa, trời chuyển qua những đợt gió lạnh buốt xương, tôi đứng từ trong nhà nhìn ra khung cửa kính nhà bếp, tò mò nhìn mấy chú chim sẻ núp dưới vòm lá mía. Cũng đỡ buồn lắm khi ngắm nhìn bầy chim sẻ mùa Đông, y như những đứa trẻ bụi đời trên vỉa hè thành phố một đêm mưa nào đó, rúc vào nhau trong tấm chiếu trải bên lề đường, cuộn tròn lại với nhau đưới tấm chăn bẩn . Mấy con chim sẻ cũng khôn ngoan rủ nhau tụ vào một chỗ, có con đang co ro ngủ gật, có con mắt láo liên, thỉnh thoảng lại lách chách bay lên tàu lá như vừa tìm được một con mồi đỡ lòng cho ngày Đông buốt giá. Nhu cầu ăn để sống vẫn bắt nó phải tìm mồi dù đôi cánh lảo đảo trong gió rét như muốn rơi xuống thảm cỏ, trông thật tội nghiệp.



    Đứng trong nhà nhìn qua lớp cửa kính trong suốt, ở góc phòng chớp tắt những chiếc đèn nhấp nháy trên cây Giáng Sinh, tôi thấy con chim bé bỏng đang vỗ vỗ đôi cánh nhỏ, rồi gõ cái mỏ nhỏ xíu lên mặt kính, cũng tò mò nhìn tôi, làm như nó cũng thèm thuồng được vào trú ẩn trong căn nhà có ánh đèn ấm áp. Tôi chia xẻ được gì đây? Người và chim là hai thế giới khác hẳn nhau, và có lẽ dù được cho ăn no, chú chim sẻ vẫn không thích thú gì khi bị con người giam chú vào cái lồng chim chật hẹp. Những chú chim sẻ mùa Đông như những búp len xậm màu, xếp hàng xúm xít vào nhau để trốn gió sau rặng mía ven bờ rào, lại dẫn đưa tôi đến một khía cạnh khác của con người, mà ở câu chuyện này tôi vẫn thấy cái đẹp nhỏ nhoi của Tình Người ấm áp biết bao nhiêu. Đó là câu chuyện của hai người vô gia cư, hay là chuyện "lá rách đùm lá nát" đã làm thức dậy chút bâng khuâng trong tâm hồn những quả tim chai đá.



    4-



    Một buổi tối mùa Đông trước ngày Lễ Giáng Sinh, trời mưa phùn, rét như cắt ruột. Đường phố vắng xe qua lại, phía xa là những ánh đèn màu rực rỡ chớp tắt quấn trên những thân cây ven đường. Suốt một tuần sắp lễ Giáng Sinh, thời tiết bỗng dưng âm ỉ rét, những đợt gió lạnh từ hướng Bắc thổi về, người có việc ra đường co ro trong những chiếc áo ấm dày cộm và khăn phu la quấn quanh cổ. Hình như người ta ngại đi ra đường vào một tối trời mưa như vậy, chỉ còn một vài cửa hàng bán "fast food" và cà phê là còn mở cửa, có dăm người khách ngồi im lặng trầm ngâm trước khay thức ăn ăn uống uể oải. Khách đến tiệm vào giờ này có lẽ là những kẻ xa nhà, thiếu một bếp lửa hồng để sưởi ấm cõi lòng cô quạnh, ngày giáp Lễ thường sau giờ làm việc, ai nấy hối hả về nhà chuẩn bị đón mừng lễ Giáng Sinh.



    Người phụ nữ bán hàng đang dọn dẹp mấy thứ lặt vặt, mong đến giờ đóng cửa để đi về, vì chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là đến nửa đêm. Bà nghĩ đến hai đứa con đi học xa vừa về nhà với mẹ mấy hôm nay, đã lâu lắm người mẹ chỉ mong được gặp các con trong những dịp Lễ Tạ Ơn hay mùa Giáng Sinh, và bà đã chuẩn bị những món ăn truyền thống mùa Giáng Sinh cho các con từ mấy ngày hôm trước. Gia cảnh đơn chiếc vì năm ngoái người chồng đã qua đời sau một tai nạn, bà vẫn ở một mình trong căn chung cư cũ kỹ, những ngày gió mưa căn nhà nhỏ như càng ẩm ướt, lạnh lẽo.



    Ngay khi ấy, cánh cửa tiệm bật mở đem theo một làn gió buốt lạnh vào trong tiệm ăn, hai người đàn ông chùm đụp trong những tấm chăn bẩn bước vào tiệm. Người phụ nữ nghĩ đó là hai người khách cuối cùng, vì bà cũng nhớ ra đó là hai người đàn ông nghèo khổ, không có một mái nhà, chỗ trú của họ là cái gầm cầu ngoài xa lộ đi về hướng Galveston. Thỉnh thoảng họ có dắt nhau đến đây, trông họ có vẻ là hai anh em, người đàn ông lớn tuổi trông vẻ mặt rất ngây ngô như một đứa trẻ chậm phát triển.



    Trong hai người đàn ông ấy, ông già gương mặt đờ đẫn, ngờ nghệch nhìn thế giới xung quanh ông như nhìn một thế giới khác, thời gian đã cày lên khuôn mặt ông những nếp nhăn chằng chịt, bộ râu hung hung nay đã xám ngoét, bết vào nhau như một cụm rơm bẩn. Người đàn ông kia trẻ hơn, có đôi mắt màu xanh lơ trông hiền lành như màu biển, co ro trong chiếc áo rét bằng dạ xám bẩn và cũ. Họ rét lắm, chằng đụp lên người những quần áo và chăn bẩn, bốc lên một mùi hôi. Ngoài trời, cơn mưa phùn mùa Đông như những chiếc kim khâu luồn từng giọt căm căm vào xương tủy, gió nhiều hơn mưa, mưa và gió lại là hai vị Thần nguy hiểm của những người bần cùng, nghèo khổ.



    Hai người đứng xếp hàng chờ đợi. Người đàn ông trung niên vét mãi hết túi này đến túi kia được một nắm hào lẻ, chưa đầy một đồng bạc nhưng cũng đủ mua một ly cà phê nóng. Theo quy định của cửa hàng, khách vào tiệm phải mua một món gì mới được phép ngồi lại. Trời rét ngọt ở bên ngoài, nhưng trong tiệm thật ấm vì có máy sưởi, quần áo của hai người đàn ông nghèo khổ toát ra một mùi hôi khiến những người trong tiệm phải nhăn mặt. Mua xong ly cà phê, họ vội vã dẫn nhau vào cái bàn xa nhất, như sợ rằng mùi hôi trên quần áo, cái nheo nhóc, bẩn thỉu của thân phận người nghèo cũng sẽ làm những người xung quanh khó chịu.



    Người phụ nữ bán hàng để ý nhìn hai người "homeless" mà chỉ mua có một ly cà phê. Khi nhận ly cà phê trên tay bà, người đàn ông trẻ hơn vội vã đưa cánh tay dìu người đàn ông già đi về chiếc bàn trong góc tối. Hình ảnh đó khiến bà xúc động, một người "không có gì" cũng đang cố sức giúp một người" không có gì" gượng đứng trên cõi đời đầy đau khổ, khi họ nhường cho nhau ủ đôi bàn tay lạnh cóng vào ly cà phê nóng còn bốc khói. Người đàn ông trẻ hơn đẩy ly cà phê vào đôi tay ông bạn già đang run rẩy, rồi một chốc người kia lại đẩy ly cà phê sang phía người đối diện, họ cứ chuyền tay nhau ly cà phê nóng còn bốc khói mà không uống ngụm nào. Họ cần một chút ấm trong đêm nay, mà cơn gió tháng chạp lạnh lẽo đã luồn vào gầm cầu trống trải khiến họ rét run bần bật . Thời tiết và thời gian là đôi bạn đồng hành ác độc đè lên đôi vai họ một cách nghiệt ngã, để họ không còn sức chịu đựng mà chống chỏi cơn giá rét mùa Đông như những năm trước.



    Người phụ nữ đứng trong quầy hàng, như bức xúc trước cái khổ của đồng loại. Dù sao bà cũng có một mái nhà để chui ra chui vào, dù sao bà cũng có hai đứa con, và lát nữa đây khi tiệm đóng cửa, con bà sẽ đến đón mẹ về nhà để đón mừng ngày Lễ Giáng Sinh. So sánh giữa hai cái khổ, bà vẫn thấy mình hạnh phúc hơn hai người đàn ông "homeless" kia. Không biết nghĩ sao, bà móc túi tìm vài đồng bạc lẻ, và thật sung sướng khi đóng vai một người khách, bà có đủ tiền mua tặng cho hai người đàn ông nghèo khổ một khay thức ăn nóng hổi. Bà bưng khay thức ăn đến cái bàn của hai người đàn ông, với một nụ cười dịu dàng và câu chúc "Giáng Sinh Vui Tươi", bên chiếc khay còn thêm một ngọn nến trắng cắm trong cái ly nhỏ bằng thủy tinh trong suốt, bà vừa mua nó hồi trưa nay tại một tiệm chín mươi chín xu để buổi tối đặt trên bàn ăn, đốt lên ngọn lửa giáng sinh ấm áp mừng ngày xum họp trong gia đình.



    Hai người "homeless" ngỡ ngàng nhìn người phụ nữ. Người đàn ông mắt màu xanh lơ có chòm râu bạc nhìn chăm chăm vào khuôn mặt của người phụ nữ tốt bụng, nói lời cảm ơn nghẹn ngào với đôi mắt rưng rưng. Ông đẩy khay thức ăn qua cho người bạn già ngớ ngẩn của mình, bằng ánh mắt thương yêu trìu mến. Ngọn nến mà người đàn bà tốt bụng vừa đốt lên để mừng Giáng Sinh, cho họ một cảm giác cực kỳ hạnh phúc, vì họ đang tận hưởng được sự trân trọng như những con người bình thường trong xã hội.



    Sau khi ăn xong khay thức ăn, người đàn ông trẻ tuổi dọn dẹp rồi lại dìu người bạn già ra khỏi tiệm ăn. Đi qua chỗ người phụ nữ, ông ta ngước đôi mắt xanh và mấp máy một lời chúc tốt lành nhất mùa Giáng Sinh đến người phụ nữ, họ mỉm cười với nhau. Đã tới giờ đóng cửa, hai kẻ cùng khổ không nhà ấy dẫn nhau trở về cái dạ cầu, nơi trú ẩn của họ hằng bao nhiêu năm nay, họ xin người đàn bà cho họ mang theo ngọn nến trắng. Bụng đã no, lòng đã ấm vì tình người như một món quà Giáng Sinh quá bất ngờ, vừa rơi xuống từ Trời để họ biết là vẫn còn những tấm lòng tử tế trên cõi đời này. Người phụ nữ cũng sửa soạn ra về, mang theo trong lòng một niềm vui nhỏ nhoi mà thật là ấm áp. Đôi mắt xanh hiền hậu của người "homeless" nhìn bà lúc nãy trông quen quá, dường như bà đã nhìn thấy ở đâu? Sau một phút nghĩ ngợi, bà chợt "à"ø lên một tiếng nhỏ. Phải rồi, đó là đôi mắt tượng Chúa treo trên vách nhà nguyện, ngồi giữa một bầy trẻ thơ đang ríu rít đứng xung quanh.



    5-



    Người ta kể cho tôi nghe một câu chuyện khác, lần này thì tôi nhớ ra ông Tom, người đưa thư da đen quen thuộc vùng ngoại ô SouthEast. Ông Tom gốc gác người Phi Châu, da đen bóng, tổ tiên ông bao đời đã từng sống nơi vùng đầm lầy Lousiana, người du lịch đó đây có thể thấy bên ven đường đi Baton Rouge, đài kỷ niệm những bước chân đầu tiên của người nô lệ da đen trên xứ Mỹ.



    Ông Tom làm nghề phát thư cho khu vực này khá lâu, từ khi hàng cây sồi ven đường còn bé tý, những căn nhà khang trang thuở ấy nay đã cũ kỹ, và chủ nhân những căn nhà ấy bây giờ có thể là một bà cụ già đi không vững, đám trẻ đã đi đâu mất, chỉ còn những tiếng chim ríu rít trên rặng sồi là còn y nguyên. Ông Tom biết hết những căn nhà trên con đường River, biết cả những căn nhà lần lượt đổi chủ, và những phụ nữ xinh đẹp dễ thương năm nào, nay bước vào tuổi già còn lại một mình trong khu nhà êm ả đầy bóng cây râm mát.



    Ông Tom thân với cụ Mary nhất, cũng từ cái hôm ông bị một con chó trong khu vực ra được cổng rào, rượt ông chạy trối chết rồi vấp chân vào bậc xi măng bên vệ đường, ngã lăn ra trước cổng nhà cụ Mary, đúng vào lúc bà cụ ra mở thùng thư để lấy thư như thường lệ. Bà cụ nhìn người đưa thư da đen ái ngại, rồi bà mời ông vào ngồi nghỉ trên chiếc ghế đá ở sân trước, trong khi ông Tom chưa hoàn hồn vì cái ngã đau làm đầu gối ông bị trầy trụa, rướm máu.



    Bà cụ Mary vào nhà, lúc trở ra bà bưng cho ông một ly nước cam, với một túi vải đựng dăm thứ thuốc sát trùng và băng cá nhân. Bà dịu dàng bảo ông Tom vén ống quần lên cho bà xem vết thương, nhẹ nhàng lau vết thương cho ông rồi băng lại cẩn thận. Ông Tom cảm thấy dễ chịu quá, trước kia ông vẫn ngấm ngầm cho rằng đâu đó là sự chia cách của màu da, của con người giữa những tầng lớp xã hội, và những đau buồn của dĩ vãng từ đời tổ tiên khiến ông có ít nhiều mặc cảm với người da trắng. Hai người mỉm cười với nhau, chỉ có thế mà ông Tom nhớ mãi vì hôm ấy là một ngày đẹp nhất của mùa thu . . .



    Từ đó họ thành đôi bạn vong niên của nhau. Ông Tom cũng biết thêm bà cụ Mary sống cu ky có một mình, con cháu bà ở một thành phố khác, từ khi cụ ông qua đời thì bà Mary cô quạnh thêm vì vắng người hủ hỉ. Mỗi ngày đem thư đến khu vực này, ông Tom luôn mong thấy khuôn mặt và nụ cười hiền lành của bà bạn vong niên ra lấy thư, hôm nào vắng bà cụ là ông Tom lại cảm thấy không yên bụng.



    Năm nay mùa Giáng Sinh lại đến. Mùa Đông rét hơn mọi năm, hay là ông Tom nay đã yếu để thấy rằng cơn gió mùa Đông Bắc bỗng dưng lại khắc nghiệt hơn những năm trước. Sau mùa Giáng Sinh ông Tom sẽ có những ngày nghỉ phép, ông về thăm lại anh em của mình ở vùng đầm lầy Lousiana, ông sẽ trở về khu nhà tồi tàn, cũ kỹ nhưng ấm áp tình thương gia đình. Trước khi đi, ông Tom sẽ nói cho bà Mary biết những ngày ông đi vắng, và ông cũng mong rằng con cháu bà sẽ về xum họp với bà trong những ngày nghỉ lễ cuối năm. Những ngày cuối năm bận rộn, ông Tom lái xe đem đầy nhóc những cánh thiệp Giáng Sinh, thùng thư nào cũng có những cánh thiệp mang đầy lời chúc tốt đẹp, nhưng hai ngày qua mà thùng thư của bà Mary vẫn còn nguyên, không thấy bà lấy thư như mọi khi.



    Ông Tom lái xe đi rồi lại băn khoăn nghĩ ngợi mãi, không yên lòng chút nào cả. Bà bạn già của ông không biết đi đâu, ra sao? Lúc trước mỗi lần đi vắng đôi ngày, bà có nói cho ông Tom biết, nhưng lần này ông chỉ nghe bà khoe người con trai sẽ về thăm, lũ cháu đi nghỉ Đông với bạn bè ở miền Bắc. Chắc chắn là bà Mary ở trong nhà, nhưng lý do nào mà thùng thư của bà hai hôm rồi vẫn chưa lấy? Đáng lẽ ông Tom lái xe về Bưu Điện khi đã bỏ hết thư trong ngày, nhưng nghĩ sao ông lại quành xe về nhà bà cụ Mary, và ông rón rén mở cánh cổng rào thấp, hồi hộp gõ cửa chờ đợi. Ông gõ năm, bảy lần, ông bần thần trong dạ, linh tính cho ông biết bà bạn già không đi đâu, nhưng chẳng biết vì sao bà không mở cửa.



    Tuổi già sống một mình như bà cụ Mary là chấp nhận tất cả nỗi cô đơn, buồn rầu, hiu quạnh, chưa kể những cơn bịnh đến bất ngờ không chống đỡ được. Ông Tom định bỏ đi nhưng lòng không an ổn, ông nhớ lại buổi chiều thu hôm nào bà Mary đã lật đật lấy cho ông một ly nước cam, đã lau chùi băng lại vết thương trầy trụa trên đầu gối ông, đã cho ông một nụ cười hiền dịu nhất của tình nhân loại. Không nghĩ gì nữa, ông Tom quyết định gọi "emergency" để báo cáo về sự vắng mặt của bà bạn già dễ mến của mình. Khi người ta phá cửa vào nhà, bà Mary chỉ còn thoi thóp thở, nằm bất động trên giường với khuôn mặt xanh lướt. . . .



    Câu chuyện của người đưa thư da đen cứu sống một người đàn bà già nua cô độc trong căn nhà ở đường River, người ta có đưa lên chương trình truyền hình địa phương một buổi tối áp lễ Giáng Sinh. Chẳng biết có ai nghĩ gì về những nỗi buồn đầy ắp trong cuộc sống thường ngày, hay chỉ có ông Tom đang cầu nguyện cho bà bạn già mau bình phục.



    Mùa Giáng Sinh

    NGUYÊN NHUNG

  • #2
    VẪN LÀ NỖI NHỚ KHÔN NGUÔI
    * Truyện Nguyên Nhung


    Mùa tựu trường bắt đầu vào cuối tháng Tám, thời tiết như dịu đi chút nóng của mùa hè, buổi sáng đã có chút gió heo may thổi về trên rặng cây xồi cổ thụ quanh khu công viên. Trên các nẻo đường vào buổi sáng, đã xuất hiện những chiếc xe school-bus màu vàng đưa đón các em học sinh.

    Năm nay, lớp học tôi phụ trách có vài em học sinh người Á châu, có lẽ chúng nó ở trong những chung cư phía bên kia đường đối diện với ngôi trường Tiểu Học. Thỉnh thoảng lái xe ngang đấy, tôi lại bắt gặp những khuôn mặt lạ lẫm, ngộ nghĩnh của mấy người Á Ðông, vài phụ nữ lớn tuổi vẫn còn mặc y phục của xứ họ, trên đầu đội thêm chiếc nón lá.

    Ðó là hai đứa bé trai và đứa bé gái, chúng như đôi nét chấm phá đậm nét trong lớp học giữa các học sinh bản xứ, với mái tóc đen mượt và đôi mắt cũng màu đen long lanh, hơi dài ra như một chiếc lá, nhìn chúng rất ngộ nghĩnh và dễ thương. Vì khác biệt ngôn ngữ nên chúng có vẻ e dè, tôi thấy cô bé gái vẫn đứng khoanh tay nhìn tôi bằng đôi mắt ướt, có lẽ bé vừa khóc xong vì lần đầu tiên phải xa mẹ đến trường, xung quanh toàn là trẻ con tóc vàng, mắt xanh đang tò mò nhìn chúng.

    Tôi đọc hồ sơ của học sinh, mấy đứa nhỏ này người Việt Nam có những cái tên phát âm thật khó, nhưng chính nơi xuất xứ của chúng đã gợi lại trong tôi biết bao kỷ niệm đằm thắm của ngày trẻ tuổi, với mối tình đầu hình như vẫn bàng bạc những hình ảnh đẹp đẽ trong lòng . Davis đã viết cho tôi bao nhiêu lá thư từ miền đất xa xăm đó, ngày chàng ra đi, chúng tôi đã đắm chìm trong những giọt nước mắt chia ly, những nụ hôn cuống quýt tưởng có thể ngộp thở trong phút giây gần gũi của hai kẻ yêu nhau. Vậy mà đã hơn ba mươi năm trôi qua, những giòng chữ của Davis vẫn còn in trong lòng tôi:

    "Jane yêu quý của anh,

    Lá thư đầu tiên anh viết cho em từ miền đất nhiệt đới, trên bản đồ có lẽ em chỉ nhìn thấy một giải đất dài và hẹp nằm ven bờ Thái Bình Dương. Tuy mới bước vào mùa Xuân, nhưng khí hậu nóng và ẩm làm anh muốn ngộp thở. Lúc nào người anh cũng nhơm nhớp mồ hôi, thời tiết quả rất là khó chịu. Anh nhớ em vô cùng, nhớ em và nhớ cả những mùa xuân của quê nhà, bây giờ chắc cánh đồng cỏ hoa đã rộ lên những bông hoa " blue bonnet" màu xanh thật đẹp, những rừng thông bạt ngàn chắc đã xanh biêng biếc.

    Mùa xuân ở bên này khác hẳn mùa xuân ở xứ mình, tuy đường phố nhộn nhịp người qua lại, không vắng vẻ, yên tĩnh như thành phố của chúng mình. Từ Phillipine chuyển tiếp sang Việt Nam, mỗi một đường bay như dài thêm nỗi xa cách giữa anh và em. Anh nhớ em vô cùng, Jane, anh mong đợi thời gian qua nhanh để trở về với em....."

    Năm 1968, sau khi tốt nghiệp Trung học, tôi bắt đầu theo học một trường Ðại học lớn ở Houston. Vốn yêu thích trẻ em từ khi còn sinh hoạt trong một tổ chức hướng đạo của nhà thờ, tôi chọn ngành sư phạm. Cha mẹ tôi cũng đồng ý với sự chọn lựa ấy, tôi sống với cha mẹ trong một căn nhà cũ kỹ ở vùng ngoại ô trong một thành phố đất rộng, người thưa có rất nhiều di dân từ Mễ tây Cơ tới.

    Davis là bạn trai của tôi từ thuở Trung học, chàng gia nhập Không quân Hoa Kỳ để làm đúng nỗi ước ao được trở thành một phi công. Ðất nước tôi không có chiến tranh, nhưng nhu cầu quân đội và chiến trường lại nằm ở những quốc gia khác. Tôi thật sự lo lắng cho Davis, nhưng người Mỹ vốn vậy, thích là làm, dù yêu tôi Davis vẫn theo đuổi ý muốn được bay bổng trên không trung, dù chàng biết sẽ rất nhiều gian nan.

    Hai đứa yêu nhau mải miết, thỉnh thoảng tôi đi quân trường thăm chàng, thỉnh thoảng chàng về thăm tôi. Gia đình hai bên đã tổ chức một lễ đính hôn nho nhỏ, cái nhẫn ấy cho đến bây giờ tôi vẫn còn giữ, như một kỷ vật khó quên trong đời.

    Sau khi ra trường, lúc chàng báo tin được phân phối sang chiến trường Việt Nam, tôi đã khóc biết bao nhiêu. Nhìn trên bản đồ, tôi không hình dung nổi giải đất bé nhỏ cong cong hình chữ S, nằm ven bờ đại dương xa xăm đó lại là một vùng đất đầy máu lửa. Ðã nhiều lần tôi tự hỏi, chàng sang đấy làm gì, chiến đấu cho ai, Việt Nam đâu phải quê hương tôi. Mỗi lần nhìn chiếc nhẫn đính hôn trên tay, tôi lại không ngăn được những giọt lệ nhớ nhung. Chiếc nhẫn ấy chưa đủ cột chặt đời chúng tôi bên nhau, cho nên tôi vẫn lủi thủi đếm bước trên hành lang của khu giảng đường rộng thênh thang, từng tiếng giày gõ nhịp trên nền đá hoa khô lạnh, như đếm được cả nỗi cô đơn trong lòng người con gái trẻ.

    "Jane yêu quý của anh,

    Không biết đây là lá thư thứ mấy anh viết cho em, từ đất nước xa xăm có những người dân dáng người bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn, đôi mắt đen như dấu kín những tư tưởng khó hiểu khi họ nhìn anh, nhưng nụ cười của họ lại làm anh yên tâm.

    Khí hậu ở đây thật là khác biệt với quê mình. Mưa chỉ bắt đầu vào mùa hè, những cơn mưa tầm tã đổ xuống đột ngột rồi ngưng để cái nóng lại trở về, nhưng đất trời có vẻ như dịu đi. Anh đang ở căn cứ Không quân Biên Hòa, thuộc miền Ðông của thủ đô Sài Gòn, bay khoảng mười lăm phút. Nếu lái xe, anh có thể nhìn thấy nhiều thửa ruộng và vườn cây nằm chen lẫn nhau, vùng này lại có núi, tất cả đều có vẻ bình yên.

    Bây giờ thì anh đã quen một phần nào với khí hậu ở đây, quanh năm giống như mùa hè ở Texas, nhưng dễ chịu hơn vì vào buổi tối trời lại trở nên mát mẻ. Anh có theo mấy người bạn ra phố, rất buồn cười khi có những đứa bé chạy theo anh và nói " OK. Salem ", chúng nó là những đứa trẻ của vỉa hè, nhìn chúng đen đủi và gầy guộc, cái miệng toác ra cười mỗi khi bày tỏ sự thân thiện. Tuy nhiên, anh cũng thấy có nhiều trường học, trẻ con mặc đồng phục đến trường, chúng được cha mẹ chở trên những chiếc xe đạp hoặc xe gắn máy. Anh thấy có một cái gì đó khác biệt trong cuộc sống của những đứa trẻ trên đất nước này, có cái gì đó không bình thường giữa những cái bình thường, nhưng với anh đứa bé nào cũng có nét dễ thương. Anh lại nhớ đến em mai này khi thành cô giáo trẻ, với những đứa học trò mũm mĩm, hồng hào trong một trường tiểu học."

    Năm nay là mùa hè thứ hai tôi xa Davis, những lá thư vẫn đều đặn gửi về, có nhiều chuyện vui vui nhưng cũng có những chuyện khá buồn, nhất là khi bạn Davis có người vĩnh viễn nằm xuống. Davis vẫn thường an ủi tôi, và cho rằng con người sống hay chết là do sự an bài của Thượng Ðế, tôi cũng cố tin như vậy, và hy vọng chiến tranh ở đất nước xa xôi chóng đến ngày kết thúc.

    Davis có gửi cho tôi vài xấp lụa dệt bằng tơ tằm, đó là thứ lụa quý dùng để may áo dài cho những người phụ nữ thanh lịch. Davis kể cho tôi nghe về y phục cổ truyền của những người đàn bà Việt Nam, khiến mỗi khi họ bước đi, hai tà áo như được bọc trong gió, và bay phất phơ như hai cánh bướm. Cầm tấm lụa với đường vân óng ánh, nó mềm mại và mát dịu như tình yêu của chàng đã xoa dịu phần nào nỗi buồn của sự xa cách, mặc dù tôi chưa biết sẽ may kiểu áo nào với xấp lụa mềm mà Davis gửi cho tôi. Không biết tôi có thể chờ chàng bao lâu vì tôi còn trẻ quá, tôi thèm những đêm đắm đuối bên chàng, tôi thèm nụ hôn ngọt ngào và vòng tay của Davis vào những buổi chiều như buổi chiều nay. Ôi những chiều cuối tuần mùa hè cùng chàng tung tăng bên bờ biển Galveston, đùa rỡn với những đợt sóng đẩy vào bờ, nằm phơi nắng trên bãi cát, bây giờ chỉ còn là kỷ niệm. Bạn bè tôi thật hạnh phúc với người tình của chúng nó, còn tôi sẽ đợi chàng đến bao giờ?



    Chủ nhật tôi thích đi nhà thờ, sinh hoạt với nhóm Hướng đạo sinh ngoài trời vào những ngày trời đẹp. Tôi muốn gói nỗi nhớ chàng trong những sinh hoạt chung của xã hội, của gia đình, nhưng không đơn giản thế, lúc nào tôi cũng cảm thấy thiếu vắng, lúc nào tôi cũng cảm thấy cô đơn.

    Davis gởi cho tôi nhiều tấm hình cảnh Việt Nam, hầu hết là hình ảnh thành phố Sài Gòn đông vui, người qua lại như mắc cửi. Davis nói đó chỉ là mặt nổi của đô thị, còn trong ngõ hẻm hay ở vùng quê thì lại có bao nhiêu cảnh đời khốn khổ. Người ta đổ dồn về thành phố, chen chúc nhau trong những khu lao động, cuộc sống thật là tăm tối. Chiến tranh có mặt ở khắp mọi nơi, sống và chết kề cận bên nhau, hạnh phúc và đau khổ như lẫn lộn đến nỗi người ta không biết thế nào để chọn lựa hoặc lẩn tránh.

    Tuy vậy, tôi ao ước được đến đó, được gặp chàng, ôm lấy chàng, đắm đuối trong đôi mắt chàng. Chỉ thế thôi, để biết rằng đời không phải là mộng....

    "Jane yêu quý,

    Không biết đến bao giờ anh mới được trở về bên em, hơn một năm rồi anh xa gia đình, xa quê hương, xa người bạn tình yêu dấu đầu tiên của đời anh.

    Anh đã được thuyên chuyển đến một căn cứ khác thuộc miền Tây miền Nam Việt Nam. Từ trên máy bay, anh nhìn thấy đồng quê Việt Nam đẹp như một bức tranh, với những thửa ruộng nối tiếp nhau và bao nhiêu sông rạch tạo thành một bức tranh màu xanh của hy vọng. Vậy mà ngấm ngầm ở đâu đó vẫn là nỗi chết rình rập, vẫn là phân định không rõ rệt giữa bên này và bên kia.

    Thành phố Cần Thơ trù phú, hiền hòa nằm ven bờ Hậu giang của nhánh sông Mêkông. Sông mênh mông là nước, những lượn sóng vỗ vào bờ, những thân dừa soi nghiêng trên mặt sông đục màu phù sa, anh thấy có một loại hoa màu tím lênh đênh trôi theo dòng nước, đẹp một cách kỳ lạ. Mỗi một dòng sông như chuyên chở bao sức sống của những miền đất khác nhau, bởi vậy mà anh vẫn thấy nó khác, nó lạ vì nó buồn quá, mênh mông quá.

    Mùa hè nữa lại đến, thời gian qua đi nhanh quá phải không Jane, ráng chờ anh Jane nhé! Anh sẽ thất vọng vô cùng nếu ngày trở về không có em đón anh với những nụ hôn ngọt ngào và những giọt nước mắt mừng vui của ngày đoàn tụ.

    Những cơn mưa mùa hè như tưới mát cây cỏ, cái nóng của miền Nam như dịu đi , thành phố ướt át và bóng bẩy sau cơn mưa làm sáng lên màu đỏ rực rỡ của một loại hoa mùa hè, dân địa phương gọi là hoa phượng. Chưa bao giờ anh thấy một loại hoa nào tươi thắm đến thế, bên này phố xá không nhiều cây cối như bên mình, cho nên màu đỏ của hoa như lung linh cả một góc trời, và những cô nữ sinh trong màu áo trắng đồng phục thướt tha, nhặt những chiếc hoa ấy để cài lên những chiếc nón lá dễ thương của họ. Nhìn những tà áo trắng tung bay trên đường phố, anh không biết diễn tả làm sao được vẻ đẹp rất dịu dàng của những cô gái Việt Nam còn đang tuổi học trò. Những cô gái cũng thật lạ, anh không muốn nói đến những người đàn bà son phấn trong những quán rượu của lính Mỹ, nhưng muốn làm quen với một người con gái Việt Nam thật không dễ. Jane đừng ghen với họ nghe, anh không bao giờ quên em đâu, anh chỉ muốn nói đến tâm hồn kỳ lạ của họ. Vài người bạn phi công Việt Nam nói với anh, những người con gái xinh đẹp ấy, nhìn rất dễ thương nhưng thương không dễ là vậy."

    Phong trào chống chiến tranh nổi lên khắp nơi, sinh viên bỏ học xuống đường giương cao biểu ngữ "Make love, not War" đằng sau minh tinh màn bạc Jane Fonda ở Hoa Thịnh Ðốn. Chiến tranh phải chấm dứt, trả lại Việt Nam cho Việt Nam, trên màn ảnh truyền hình, mọi người nhìn thấy những chiếc quan tài của lính Mỹ được chở về quê hương trên mỗi chuyến bay, mỗi lần nhìn những hình ảnh đó, tim tôi muốn vỡ ra làm trăm mảnh. Tôi mong Davis trở về, chứ không thì tôi cũng đã mỏi mòn trong chờ đợi. Lũ bạn chế nhạo tôi thuộc loại phụ nữ cổ điển chỉ tôn thờ những mối tình vô vọng. Làm sao tôi có thể giải bày cho họ hiểu, tình yêu của tôi dành cho Davis, chính vì cảm phục lòng can đảm và chấp nhận tất cả khó khăn, nguy hiểm khi trở thành một người lính. . .

    "Jane yêu dấu của anh,

    Như thư trước anh đã kể em nghe, Việt Nam dần dần đã trở thành một miền đất dễ thương trong tâm hồn anh, dù nó bị tàn phá bởi chiến tranh. Những người bạn phi công Việt Nam đã chiến đấu không mỏi mệt trong mọi điều kiện thiếu thốn, chắc hẳn phải có một lý do sâu xa nào đó, hẳn nhiên để bảo vệ một chính nghĩa. Ðất nước ấy như một bức tranh đẹp đẽ trong lòng dân tộc họ, có ai lại nghĩ đến chuyện gạch những nét ngang dọc lên tác phẩm quê hương, có ai lại muốn dội xuống quê hương mình hằng ngàn tấn bom đạn? Nó là khuôn mặt của mẹ, của cha, là sức sống mọc lên từ cây lúa, từ bờ tre, từng thân dừa để tô điểm vẻ đẹp, sức sống của cả một dân tộc.

    Chiến tranh tàn nhẫn quá em ạ. Anh phải làm nhiệm vụ và cả những người phi công Việt Nam cũng làm nhiệm vụ của họ, nhưng mỗi người mang một nỗi niềm đau xót khác nhau. Chỉ vì ý nghĩ "chậm tay thì chết" mà con người phải giết lẫn nhau, kinh khủng quá phải không em? Muốn có thỏa hiệp hòa bình mà phải trả một giá quá đắt cho cả một dân tộc khốn khổ như thế, anh ngậm ngùi lắm.

    Chúng ta đã có bốn năm lầm lẫn cho cuộc nội chiến ngu xuẩn trong lịch sử Hoa Kỳ, Việt Nam cũng lại tương tàn trong một cuộc chiến tranh dai dẳng cũng chỉ bởi tham vọng kỳ cục, khi muốn đem về cho đất nước họ một triết thuyết không tưởng và một thiên đàng không làm sao có được trên mặt địa cầu."

    Năm 1972, xong bốn năm Ðại Học, tôi ra trường, Davis báo tin sắp trở về sau bốn năm phục vụ tại Việt Nam. Bao nhiêu đợt lính Mỹ hồi hương được chiếu trên truyền hình mỗi buổi tối, nhìn nét mặt hân hoan của họ, tôi nôn nao chờ ngày vui của đời mình. Hòa bình đã được ký kết, chiến tranh Việt Nam sắp kết thúc, chàng sẽ trở về và chúng tôi sẽ có một đám cưới, sau đó là những ngày trăng mật. Tôi mừng cho hạnh phúc của mình, cho hạnh phúc của cả một dân tộc khi hai miền Nam Bắc của họ được phân định rõ rệt, không còn chiến tranh, bức tranh đẹp đẽ của đất nước xa xăm kia sẽ chỉ là một màu xanh, màu xanh của hy vọng và vươn lên, để người dân Việt Nam có một cuộc sống dễ chịu hơn.

    Vậy mà có một ngày, một ngày bi thảm và tàn khốc nhất đã đến với Davis, với tôi khi cả hai cùng ngây thơ tin rằng có một ngày người ta thôi không còn giết lẫn nhau. Chuyến bay đưa Davis về Sài Gòn để lên đường trở về quê hương đã bị bắn rơi bởi những người phía bên kia, chắc ngay cả những giây phút cuối cùng của đời mình, Davis vẫn chưa hiểu tại sao đời mình lại có một kết thúc bi thảm như vậy?

    Bên này bờ đại dương, người ta đang hoan hỉ vì đã tìm ra được một giải pháp cho cuộc chiến ở Việt Nam, họ được ban tặng giải thưởng hòa bình. Nào ai nghĩ nổi, trong khi ấy có cả một dân tộc vẫn đang quằn quại vì những vết thương chiến tranh, có cả những người như Davis đã chết vì sự bịp bợm ấy.

    * * *

    Thời gian qua đi rất nhanh, mới đó mà tôi đã trở thành người mẹ của ba đứa con nay cũng đã lớn khôn. Không còn sống chung với cha mẹ, nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhờ mẹ tôi giữ những kỷ niệm của tôi và Davis, tôi không có can đảm tiêu hủy nó bởi vì nó đẹp và trong sáng quá. Trong đời tôi, ít nhất đã có vài lần tìm vào căn phòng nhỏ, lật từng lá thư và những tấm ảnh đã ố vàng với thời gian, để lòng vẫn ngậm ngùi và thổn thức với những kỷ niệm của dĩ vãng.

    Cách đây vài năm, tôi có dịp lên Washington D.C. Tôi đã đi tìm đến bức tường đá đen, đài tưởng niệm những người lính Mỹ chết ở Việt Nam. Tôi đã tìm thấy tên chàng, William Davis, tôi đã khóc khi đặt những đóa hồng dưới chân tường , ngậm ngùi đọc tên chàng như có lần tôi đã thì thầm những lời vĩnh biệt trước nấm mộ của chàng ở nghĩa trang Arlington. Phản chiếu từ bức tường đá đen ấy, những bóng người buồn bã đi lại trên con đường xào xạc lá khô. Một ngày cuối thu có hơi gió heo may se lạnh, tôi cứ ngỡ linh hồn của Davis và của bao nhiêu người chiến binh năm xưa đang dật dờ trở về từ cõi chết.

    Năm nay tôi đã năm mươi tuổi, cái tuổi có thể là hơn nửa đời người mà cũng có thể là cả một đời người, như Davis thì cuộc đời chàng chỉ vỏn vẹn hai mươi mấy năm. Con người vẫn không quyết định được cuộc đời mình, Thượng đế muốn lấy đi lúc nào chẳng được.

    Mười năm rồi tôi dạy ở ngôi trường này, lớp học có thêm những đứa học trò Việt Nam ở khu chung cư bên kia đường. Tôi có dịp tiếp xúc với những phụ huynh Việt Nam, họ đã làm tôi cảm phục vì họ vẫn cố gắng bảo tồn nền văn hóa của họ qua sự dạy dỗ những đứa trẻ biết trân trọng và biết ơn những người mang trách nhiệm giáo dục và khai sáng con người. Mỗi lần nghĩ đến đây, tôi đã hiểu phần nào tại sao tôi lại thông cảm với nỗi đau của những người Việt Nam lưu vong, mỗi lần nhớ đến quê hương yêu dấu của họ bên kia bờ đại dương.

    Nguyên Nhung

    (Ðể Tưởng Niệm Những Người Ðã Chết trong cuộc chiến Việt Nam)

    Comment


    • #3
      NGỌN RAU LÁ CỎ* Nguyên Nhung


      Ngày còn bé, gia đình tôi sống rất đạm bạc vì cuộc phân ly Nam Bắc làm tiêu tan sự nghiệp của cha mẹ tôi. Khi vào Nam, để an ủi lũ con bằng lòng với nỗi thiếu thốn hằng ngày, mẹ tôi thường bảo: “Đói ăn rau, đau uống thuốc, thịt cá hương hoa, dưa cà căn bản”. Câu nói ấy nhập vào tâm hồn chị em tôi như nét mực tím in trên trang giấy trắng, khi lớn khôn dù cơm gà cá gỏi ngon đến đâu, vẫn thòm thèm hương vị những bữa cơm rau thời thơ bé.

      Bản tính mẹ tôi hay lo xa, dành dụm tằn tiện đề phòng khi trái gió trở trời các con vẫn có cái ăn cái mặc, nên không bỏ phí món gì. Trước tiên là củi gạo, mắm muối, mỗi lần đi bán hàng về mẹ tôi lại mua thêm một ít, sau này khi lâm vào cảnh khó khăn như mẹ tôi, tôi cũng tính toán y hệt mẹ. Trên cái giàn bếp bồ hóng giăng giăng, mẹ tôi lèn đủ thứ lương thực phơi khô như đường tán, khoai khô, củ cải, xu hào để ngâm tương, cá khô, tép khô phòng khi mưa gió vẫn có thứ đưa được miếng cơm vào bụng. Ngoài mé hiên là vại tương vại cà, cũng nhờ cái vại tương nhiều chất đạm này thay cho thịt cá, khi lớn lên đọc sách vở mới biết dù cơm rau thanh đạm, nhưng mẹ tôi nuôi các con từ tấm bé it khi ốm đau bịnh tật.

      Quanh khu vườn rộng vuông vức ấy không có chỗ nào thừa để phải thiếu rau ăn kể cả khi mùa hè nắng khô ran không một giọt mưa. Chiều nào nơi cái giếng trong vắt dưới lòng đá ong, chị em tôi thi nhau kéo nước tưới rau, trẻ con cũng vất vả như người lớn. Nhờ vậy trời oi ả thì đã có tô canh hoa lý ở sân trước làm mát mẻ. Đang đi ở ngoài nắng chang chang, bước vào sân trước có giàn hoa thiên lý tự nhiên thấy cái nóng dịu hẳn đi. Giàn thiên lý lá xanh biêng biếc che kín khoảng sân đất, được tưới tắm đầy đủ nên cho hoa quanh năm để mẹ tôi nấu canh hoa lý với tôm khô.

      Hoa thiên lý màu ưng ửng vàng có mùi thơm dìu dịu, không nồng nàn như các loại hoa khác, hoa ra nụ từng chùm từ thân dây, lá thiên lý thuộc loại lá đơn, chi chít như lá hoa bông giấy. Hoa có hình dáng đơn sơ xòe ra năm cánh như ngôi sao mùa Sinh nhật, nhưng có duyên lạ lùng, nhìn nó người ta hình dung ra cái đẹp của một cô thôn nữ đoan trang, hiền lành, quanh năm ngày tháng không cần đến phấn son tô điểm.

      Những buổi chiều ở nhà quê thật êm ả, chỉ có bụi chuối bên hè xào xạc. Dưới giàn hoa thiên lý là một mảnh sân đất pha cát, nên khi trời mưa, mảnh sân như một tờ giấy thấm hút hết nước, khi cơn mưa tạnh, sân lại khô ran, khi nắng lên soi qua giàn hoa lý những cái bóng nắng nhảy múa trên nền đất rất vui mắt. Ở cái sân đất cát này là nơi chị em tôi ngồi chơi ô quan, nhảy dây với lũ trẻ con hàng xóm, chí choé cãi nhau vui đáo để. Không phải hôm nào mảnh sân cũng ồn ào, ngược lại có những ngày mẹ tôi đi bán hàng xa chưa về, tôi tha thẩn chơi một mình trước nhà chờ mẹ. Trò chơi trẻ con của tôi là một cái que tre nhặt được, rồi cứ thế ngồi phệt xuống ngạch cửa và bắt đầu vẽ những cái mặt người méo mó, tùy theo óc tưởng tượng của một đứa trẻ con.

      Đâu có gì để chơi ngoài một cái que nhọn với khoảng sân đất nhẵn thín, vẽ rồi lại xóa, xóa rồi lại vẽ, trong đầu tôi là hình ảnh một bà tiên, một cô dâu khăn áo lượt là, bà hoàng hậu, cô công chúa trong những chuyện cổ tích. Lần lượt những nhân vật thần tiên huyền diệu nằm đầy trên mảnh sân con trước nhà, không có trò chơi ấy chắc tôi phát khóc lên được khi bóng chiều đổ xuống căn nhà nhập nhòa bóng tối mà chờ mãi mẹ tôi vẫn chưa về. Chị tôi lo nấu cơm chiều, đứa trẻ con lên mười ở nhà quê cũng biết lo như người lớn, cũng biết cắp rổ ra vườn hái đọt đậu xào tỏi, thêm vài con cá khô nướng là mâm cơm đã tươm tất rồi. Sau này khi rời xa chốn cũ, trong ký ức của tôi vẫn thoảng lại mùi cá khô nướng bay tản mát trong khu vườn khoai sắn xanh um của những ngày bé dại.

      Mảnh vườn ấy có nhiều thứ rau để mẹ con tôi sống qua ngày với mắm muối dưa cà, bây giờ ngồi nhớ lại tôi dám cho là những món sơn hào hải vị cuộc đời dễ tìm để ăn hơn những món rau quanh vườn của mẹ con tôi hồi ấy. Chẳng hạn mẹ tôi trồng đậu đen nhưng không phải để lấy hạt nấu chè, mà cái chính là đọt đậu đen xào tỏi bùi bùi thơm ngon không chê vào đâu được. Giàn mướp trĩu quả ăn không hết mẹ tôi còn mang ra chợ bán, nhưng đọt mướp hương xào tỏi thì dám chắc ít người được thưởng thức, vì cả giàn mướp may ra mới bẻ được một nắm tay, khi xào tóp lại chỉ còn một dĩa, chị em tranh nhau gắp quên cả phần cho mẹ.

      Bây giờ ở quê người, rau cỏ tuy không phải cao lương mỹ vị mà vẫn khó tìm, ăn để mà ăn chứ tìm ra mùi “hương đồng cỏ nội” trong những lá rau ngoài chợ không bao giờ có, người xa quê nhấm cọng rau trong miệng tìm lại mùi hương quê lại càng khó tìm hơn nữa.

      * * *

      Ít lâu sau, chiến tranh lại bò vào cái miền quê nghèo ấy, mọi người sợ tên bay đạn lạc nên lại lần lượt bỏ đi, gia đình tôi chuyển về miền Tây vì nơi ấy đất lành chim đậu. Ngày về miền Tây chị em tôi như lạc vào một khung cảnh khác, con người miền Nam cũng khác, đồng ruộng bao la bát ngát, sông nước mênh mông với bao nhiêu cây cầu lớn nhỏ, những ngôi nhà lợp ngói đã xậm màu với nắng mưa. Nhiều con đường còn lổn nhổn đất và đá, khi trời mưa xình bùn bám chặt vào tà áo dài lốm đốm như hoa.

      Năm ấy tôi đã bước vào ngưỡng cửa trung học, làm thân được ngay với con nhỏ bạn người Cần Thơ học chung lớp. Nhà nó cũng nghèo, căn nhà của cha mẹ nó là căn nhà lợp ngói âm dương, thấp và tối, buổi chiều thường âm u mùi khói nhang. Tuy nhà cửa ẩm thấp cũ kỹ nhưng sau nhà lại có được một mảnh sân vuông rất mát mẻ, trồng một cây vú sữa tím tàn che rợp khoảng sân sau, xung quanh sân là những chậu sành lớn bé đã sứt vành mẻ miệng với thời gian, trồng đủ loại rau thơm đủ dùng trên mâm cơm hằng ngày.

      Chỉ có ba cha con bạn tôi sống ở căn nhà ấy, không thấy bóng dáng bà mẹ. Sau hỏi ra mới biết, ông già của bạn làm công nhân chạy xe hủ lô cho ty công chánh, lương không đủ nuôi con ăn học, má của bạn phải ở nhà quê, trông coi mảnh vườn và chăn nuôi thêm để phụ chồng nuôi hai đứa con đi học. Cuối tuần nào ba của bạn tôi cũng về thăm nhà ở trong quê, khi trở ra ông mang theo những thức ăn đủ cho cả tuần, kèm theo rất nhiều rau xanh rất lạ.

      Đám con trong nhà thường gọi "tía" mình là "ông già Ba Tri", bởi vì khi không có xị rượu trên mâm cơm, ông ít nói, tính hơi cộc nên lũ nhỏ đứa nào cũng sợ. Thói quen cố hữu của gia đình bạn là khi dọn cơm, dù không cao lương mỹ vị nhưng bao giờ cũng dành riêng một chén cơm trắng với chút thức ăn, một đôi đũa vắt ngang trên miệng chén, và một chung rượu đế đặt bên cạnh. Trước khi ăn cơm, " ông già Ba Tri " chắp tay xá xá ba cái vào khoảng không chắc để mời ông bà hay những người khuất mày khuất mặt về dùng bữa, sau đó ông mới rót rượu cho mình và nhâm nhi cái đầu cá trong tô canh chua.

      Cái đặc biệt nữa trên mâm cơm nhà bạn tôi là rổ rau tươi, không bữa nào thiếu, bởi vì nó rất hạp cho món cá kho mà người miền Nam gọi là kho mẳn. Những khúc cá trong cái nồi lõng bõng nước, người ta có thể thả thêm mấy khúc cà tím, hay mấy khoanh bầu cũng được, nổi lềnh bềnh trên nồi cá là những lát ớt xắt khúc trông rất bắt mắt, một nhúm rau răm cũng chẳng sao. Cái rổ rau kia gồm có ít giá mập tròn trắng phếu, rồi thì cần nước, lá sầu đâu, rau dấp cá, rau đắng, lá mơ, lá lụa, rau dừa, rau tía tô, kinh giới, rau răm, húng lủi, bông súng, cả nhà ăn rau như thỏ ăn cỏ, khi xong bữa cơm thường rổ rau cũng hết...

      Tôi gọi "ông già Ba Tri" ba của bạn tôi là bác Ba. Tuy mặt mũi trông khó đăm đăm vậy nhưng bác Ba lại rộng rãi miếng ăn, hễ đến chơi gặp bữa cơm ông điệu nghệ kêu ăn bậy ba hột cho vui. Nhờ vậy tôi còn biết thêm vài món canh chua rất ngon như vỏ trái cóc nấu cá lóc hay với thịt nạc, chua rất thanh như ở miền Bắc có món cá quả nấu quả sấu chua. Lươn vàng nấu canh chua cơm mẻ và hoa chuối, không thể thay thế vào đó quả me chua vì nó không đúng vị. Xoài rụng trong vườn bác Ba gái phơi khô để dành, trời mưa lâm thâm mà nấu với khô đuối, thả rau ngò om và ớt trái, ăn cũng hết xảy ! Bác Ba ăn cơm rất ít, thư thả nhấp rượu, vừa nhâm nhi cái đầu cá, tay ngắt mấy cọng rau mà hôm nào cũng làm láng cái xị rượu rồi đi ngủ...

      Tuy đến chơi nhà bạn hà rầm, nhưng tôi vẫn cón ngán "ông già Ba Tri" nhà nó vì tính cộc cằn bất chợt như sấm chớp trong cơn mưa giông mùa hạ. Bác Ba có một tính tốt, bình thường rất nóng nảy và khi nói hay đệm theo một câu chửi thề vô tội vạ, nhưng khi ngồi vào mâm cơm, sau vài chung rượu tuyệt đối không bao giờ bác Ba rầy rà các con, vì ông nói "trời đánh còn tránh bữa ăn" mà...

      Không biết một hôm "ma đưa lối quỷ dẫn đường" chi mà tôi lại tự nhiên buột miệng hỏi xin bác Ba thử chơi một chút rượu đế sủi tăm trong cái xị rượu của bác. Tự nhiên bác Ba cười ha hả khiến tôi giựt nảy mình, còn nhỏ bạn thì lấm lét nhìn ông già nó đang ngoác miệng ra cười :

      - Thiệt hông mậy ?

      Tôi làm gan gật đầu, khiến bác Ba càng thích chí, giống hệt ông Tản Đà quê tôi bảo "rượu ngon phải có bạn hiền", nhưng tôi đâu phải bạn nhậu của bác Ba, thỉnh thoảng ở nhà mẹ tôi cho uống một ly rượu bách nhật ngọt lịm thơm mùi thuốc Bắc. Đó là thứ rượu nếp than khi làm thành cơm rượu, mẹ tôi cho vào đấy vài thang thuốc Bắc, đổ thêm chục lít rượu trắng rồi chôn cái khạp rượu xuống lòng đất, đúng trăm ngày mới mang lên. Rượu này được gọi là rượu bách nhật, dành cho phụ nữ sau khi sinh nở để ăn cho ngon cơm, lấy sữa cho con bú. Công nhận mẹ tôi là người phụ nữ đảm đang, lập nghiệp ở đâu là bà nghĩ ngay đến việc phải làm gì để kiếm tiền lo cho các con, sau này người miền Nam cũng biết mua cao hổ cốt của mẹ tôi để trị phong thấp, mua rượu bách nhật cho phụ nữ uống sau khi sinh nở, thứ rượu này đối với những con sâu rượu như bác Ba, chỉ là thứ chè ngọt của đàn bà con gái.

      Cha mẹ ơi ! Lỡ đâm lao thì phải theo lao, tôi yên chí cái món rượu trắng "quốc hồn quốc lủi" của bác Ba ngon như rượu bách nhật của mẹ tôi, nên hùng dũng cầm cái chung rượu của bác đưa mà làm một hớp nhớ đời vì nó cay xè tới cuống họng. Thấy tôi nhăn mặt sau khi làm thử hớp rượu đế, bác Ba cười khà khà thích chí, nói huyên thuyên khác với vẻ im lìm hằng ngày, hôm ấy lũ nhỏ cũng nói cười thoải mái.

      Bác Ba làm việc cực nhọc, nên khi về nhà thường cau có khó chịu với các con, kể cả mấy đứa bạn đến chơi không đúng lúc. Nhưng từ hôm tôi làm gan xin hớp rượu của bác thì hễ mỗi khi gặp, tôi lại được bác ban cho một nụ cười thân thiện. Sau này khi lớn khôn hơn, tôi mới nghĩ ra cái chân lý ở đời, hễ người ta thích gì mà mình cũng làm như cùng một sở thích thì lấy được cảm tình của người ta dễ ợt, huống chi uống rượu một mình như bác Ba đang thiếu người "chén chú chén anh" mà lai rai kể chuyện đời nữa.

      Năm ấy cận Tết Âm lịch, bác Ba gái tát đìa lấy cá bán Tết. Khi thủy triều lên, nước từ sông đổ vào mấy cái mương xung quanh vườn, cá tôm cũng theo nhau bơi vô rồi kẹt lại, sinh sôi nảy nở ra trong cái đìa đầy bông súng. Bác Ba kéo lũ con về phụ việc, và cũng là dịp ăn Tết sớm với bà con lối xóm mà tụi nhỏ ít khi được gặp kể từ ngày ra tỉnh học. Vì thế ngoài số tôm cá chọn lọc đem ra chợ bán lấy tiền sắm sửa ăn Tết, còn lại bao nhiêu phơi khô để dành ăn dần trong năm, bác Ba gái còn làm một nồi mắm kho thật bĩ bàng, cho chồng con ăn thoải mái, đãi luôn những nhà lối xóm đến giúp tát đìa hôm đó nữa.

      Hôm đó tôi cũng được đi theo bạn về quê cho biết rõ cảnh sống của người dân quê miền Nam.Từ tỉnh đón xe Lam về quê bạn cách thị xã khoảng hai chục cây số, đó là một cái vườn không lớn lắm nằm sâu cách quốc lộ vài công vườn, phải đi theo một con đường đất rất trơn trợt khi trời mưa, vườn này cách vườn nhà kia bằng những cái mương đào và trồng nhiều dừa nước mát rượi, khác với lối trồng tre trúc bao quanh vườn như người miền Đông Nam phần. Trong vườn trồng được mấy chục gốc dừa, lợi tức chính của gia đình, chen trong vườn dừa là mãng cầu, ổi, quýt, mận, bưởi nằm dọc theo những bờ mương, những ngày cuối tuần về quê, bác Ba trai cũng không được hở tay chút nào vì vẫn phải múc bùn đắp lên những gốc cây. Cây trái tuy không nhiều nhưng mỗi mùa bác Ba gái đều có trái cây đem bán ngoài chợ mua thức ăn gửi cho chồng con ở ngoài tỉnh.

      So với cái khoảnh sân sau trồng chen chúc những loại rau sống ăn kèm trong bữa cơm ở ngoài thị xã, vườn rau ở nhà quê xum xuê đầy đủ hơn nhiều. Tát đìa xong, số cá tôm năm đó trúng lớn nên bữa mắm kho hôm ấy thật phủ phê, bao nhiêu cá lóc, tôm càng, lươn vàng béo ngậy. Hôm ấy là đại tiệc của nhà bạn tôi, vì ngoài một số tôm cá nướng lửa than, còn bao nhiêu trút hết vào nồi mắm, bác Ba gái luôn tay xào xả cho thơm để đổ vào nồi mắm nấu tiếp, nước mắm kho đục lờ lờ như nước bùn mà thơm hết biết !

      Ăn mắm thì phải có rau, vì vậy mà hôm ấy tôi được dịp đi khắp khu vườn đầy bóng mát cây xanh của nhà bạn, nhân tiện tiếp bạn chuẩn bị các món rau để ăn với nồi mắm kho. Trong bữa ăn, Bác Ba trai khi ấy mới nhẩn nha kể về những công dụng dược thảo trong các thứ rau xanh trong vườn nhà bác cho tôi và mọi người cùng nghe, thì ra trước đây đa số ăn rau vì thói quen, cho thêm ngon miệng chứ ít ai biết được những vị thuốc trong ngọn rau lá cỏ, mà ông bà mình thường cho rằng người mình sống trên đống thuốc mà không biết.

      Rổ rau sống hôm đó còn đầy đủ hơn rổ rau của cha con bác Ba ăn hằng ngày nữa, rồi khi cầm từng thứ rau trên tay, bác Ba mới bắt đầu e hèm để vào chuyện:

      "Ngó đây nè ! Trước tiên là rau dấp cá, thứ này hễ mọc mạnh rồi là cỏ không lên nổi với nó, tên của nó gọi là ngư tinh thảo, ai đau khổ về bịnh trĩ là biết đến công dụng của dấp cá. Đàn bà ăn thường da dẻ mịn màng, con nít đau ban, lên trái lấy nước uống, hay xoa lên mình cũng liền lặn, viêm ruột, kinh nguyệt hổng đều ăn thường xuyên cũng có kết quả."

      Mấy người đàn ông lối xóm cười rộ lên :

      "Đàn ông ăn được không anh Ba ?"

      Bác Ba trai hôm nay cũng vui hơn thường ngày, chắc vì "rượu ngon mà lại có bạn hiền", nên vui vẻ gật gù bứt một cọng tía tô giơ lên giải thích tiếp:

      "Còn lá tía tô hay gọi là tử tô thì công dụng lại hay hơn nữa, chữa nhức đầu, cảm sốt rất hiệu nghiệm."

      Nghe bác Ba nói tới đây tôi liền xen vô :

      "Hèn chi ở nhà mỗi khi bị cảm, mẹ cháu cũng hay nấu cháo trắng rồi đập thêm cái trứng gà, thêm một nắm tía tô với hành lá, ăn xong toát mồ hôi là khỏi bịnh."

      Bác Ba gật đầu nhìn tôi rất cảm tình :

      “Cái con Bắc Kỳ “con” này cái chi nó cũng biết, cứ “mẹ cháu, mẹ cháu” là biết liền hà, nó còn biết nhậu nữa nghe bà con. Con nhà nghèo đâu có thuốc men chi, hễ bịnh thì cạo gió, giác hơi xong rồi làm tô cháo nóng tía tô, hành lá là hết bịnh (e hèm). Còn đây là rau má (bác lại cầm cọng rau má bỏ vô miệng nhai chóp chép), bà con mình cũng xem thường loại rau này vì nó cũng mọc tràn lan như cỏ, người Tàu gọi là Tích tuyết thảo hay Liên tiền thảo, chữa nóng sốt, lên sởi, ói ra máu, kiết lỵ, ỉa chảy, táo bón, đái rát, thống kinh, bạch đới. Nghe nói mỗi ngày chỉ cần ăn vài cọng thôi là cũng đỡ được chứng phong thấp, không cần ăn nhiều vì rau má lạnh, ăn nhiều quá bị mất hồng huyết cầu, phàm cái chi cũng vậy, không nên lạm dụng...”

      Có tiếng cười khúc khích trong đám đàn bà con gái, ở nhà quê hễ nghe ai nói cái gì lạ là cười. Bác Ba trai chỉ đám xả lên phơi phới một màu xanh mát mắt trồng bên vệ rào:

      “Trồng cây xả ở xung quanh rào là cũng có ý rồi đó, trước là khử không cho mấy con rắn bén mảng vô vườn, sau là khi nấu mắm như bữa nay thì phải có xả mới dậy được mùi mắm. Sách thuốc người ta gọi là Chu Cam Cun, giúp tiêu hoá, ói mửa, đầy bụng. Còn cái đám rau ngót xanh rờn kia người Bắc hảo ăn hơn người Nam, họ nấu canh với giò sống, xem như một món canh ăn thường xuyên, rau này trị ban sởi, mát phổi, bí tiểu tiện, thông huyết nên đàn bà mới sanh cũng ăn được.”

      Mọi người cùng ồ lên vì sự thông thái của bác Ba, ngạc nhiên không hiểu người đàn ông quê mùa này có vẻ am hiểu về thuốc men mà lại không làm ông thầy thuốc Nam. Bác Ba được dịp khoe tiếp:

      “Tui đi ta bà khắp nơi, đói ăn rau, đau uống thuốc nên vì vậy mà biết chút chút để dành khi cần xài, lỡ lúc ngặt nghèo cũng qua cơn khốn khó. Cho nên hễ đến nhà ai thấy có loại rau lạ, xin về làm giống rồi lan tràn ra khắp vườn. Miền Nam hay um lươn với lá cách, rau ngổ, mấy thứ lá này kết hợp với lươn mà thành thứ thức ăn bổ âm, rất tốt. Ông Lâm ngữ Đường viết sách nói phàm cái gì ăn được tự nhiên mà bổ dưỡng cho cơ thể, tốt hơn ba cái thứ thuốc bào chế uống nhiều chỉ hại gan, nát phổi thêm”

      A hà, bây giờ khi bác Ba chạy qua ông Lâm ngữ Đường thì bà con cùng ngớ ra nhìn bác như Thánh sống. Ông Lâm ngữ Đường là ai thì họ không biết, nhưng nội cái tên Trung Hoa là đủ sức cho họ thán phục rồi. Bác Ba chỉ những vồng cây lá lốt mọc xanh tốt ven bờ rào rồi nói:

      “Đó, thuốc nằm khơi khơi ra đó mà ai hễ đau lưng, thấp khớp cũng đi tìm thuốc, nó cho uống ba cái thuốc hạt dưa độc thấy bà ra mà ai cũng khen là thuốc tiên, uống vô một viên bách bịnh tiêu tan, có mà tiêu tán đường ra nghĩa địa luôn đó. Lá lốt nhiếu chất vôi, chủ trị thấp khớp, đau xương, đau lưng, tiêu hóa kém, đầy hơi, đau bụng, sưng phù ăn thường là có kết quả, ví nó là thứ quy trong thuốc Bắc cũng được. Riêng còn một thứ rau mà hễ Bắc Kỳ ăn bún riêu không có nó là không được, đó là cây kinh giới....”

      Mấy người đang cắm cúi ăn cùng “ồ” lên một lượt. Bác Ba hứng chí tiếp:

      “Bà con mình ở trong quê không biết tới thứ rau này, nó cay cay nồng nồng mà hay thượng hạng, cảm sốt nhức đầu, cảm cúm, viêm họng muốn ói chỉ cần bứt một nắm ăn là thấy khoẻ.”

      Rồi bác xoay qua đùa với tôi:

      “Ê, Bắc Kỳ con, có phải “trên trời có đám mây xanh, ở giữa có cây kinh giới, xung quanh Bắc Kỳ” không nhỏ?”

      Mọi người lại cười ồ lên, ai cũng ngó tôi như người hành tinh khác, nhưng sao mặt mũi cũng dễ thương y chang mấy đứa con gái Nam Kỳ.

      “Rau muống xào tỏi mà ăn với rau kinh giới thì mới đúng điệu con cá gỗ. Nhưng ăn bún riêu mà lại ăn rau muống chẻ với rau kinh giới nữa thì con trai Nam Kỳ đi theo con gái Bắc ráo trọi. Không nói đến công dụng về thuốc, mà nội hương vị của các thứ rau thôi cũng thấy nó ngon rồi...”

      Ai cũng trố mắt lên nhìn bác Ba một cách thán phục. Đúng lúc đó thì hai con “ky ky” nhà bác Ba dành nhau mẩu xương cá, ủng oẳng dưới gầm bàn, bác Ba trai lại cười chỉ vào cái nhúm lá mơ ở trong rổ. Mọi người lại trố mắt lên chờ đợi, mấy cái miệng đều la lên:

      “Trời! Lá thúi địt, hôi muốn chết.” Rồi họ cười ầm ĩ lên như phát hiện điều gì thú vị lắm. Bác Ba lại nheo mắt nhìn tôi:

      “Ậy, thứ lá này là mấy con cẩu nhà tao chạy cong đuôi, nhưng nói đến công dụng của nó thì đệ nhất hạng trong các thứ rau, vì nếu biết dùng thì rất tốt cho người yếu tỳ yếu vị. Mỗi ngày chịu khó ăn chơi vài lá có thể ngừa được nhiều chứng bịnh thông thường như sình hơi, kiết lỵ, sỏi thận, bí tiểu, thấp khớp, ăn không tiêu, đi cầu ra máu, viêm bao tử, viêm ruột.”

      Nghe bác Ba nói tới đây thì ai cũng vội tìm một lá giơ lên ngắm nghía. Màu lá phơn phớt nâu tím, một mặt xanh, lông tơ mịn phủ trên thân lá mềm, ai biết được nó là vị thuốc quý như vậy mà lại hằng hà sa số, không cần trồng cũng mọc. Người Bắc khi đánh chén “nai đồng quê” nhất định không thể thiếu lá mơ, nhà thuyền chài ăn gỏi cá mà không có lá mơ xem như thiếu tất cả, còn như bác Ba kẹt lắm có miếng thịt ba rọi luộc, quấn với lá mơ mà chấm mắm nêm, nhậu với xị rượu không có gì ngon hơn. Riêng bác Ba gái mùa hè khi rảnh rỗi, bứt hằng rổ rồi đem phơi khô, bắt đầu tháng năm khi sắp bước vào mùa mưa, trời nắng hạn con nít nổi rôm, sẩy đầy người, khó ngủ, chỉ cần sao lên rồi nấu nước uống, mình mẩy lành trơn, mát rượi.

      Bữa mắm và rau cuối năm ở nhà bác Ba năm ấy chắc là bữa ăn ngon cuối cùng, vì năm sau chiến trận xảy ra ở đây dữ dội lắm, dân chúng chạy tản cư ra chợ, lộn đi lộn về nhiều phen nhưng không ai dám ở vì ban ngày thì có vẻ bình yên, nhưng ban đêm tên bay đạn lạc ì xèo, bác Ba gái đành phải bỏ vườn chạy ra tỉnh ở luôn với chồng con. Lâu lâu khi tình hình tạm yên, bác lại mò về mảnh vườn ở trong quê của mình, để nhìn các thứ rau không còn ai chăm sóc, bò quanh bò quẩn quanh vườn tìm cách tồn tại, vườn tược rậm rịt y như những đứa trẻ côi cút không ai ngó ngàng tới.

      Tôi vẫn đến nhà bạn chơi như những năm trước, khi đó hai đứa đã lớn bộn mà còn biết yêu nữa. Bạn tôi yêu một anh bạn hàng xóm, hai nhà cách nhau có cái giậu hoa trang mà cũng viết thư xanh, thư hồng, tôi lâu lâu làm thơ tình giùm cho nó, dĩ nhiên cái sân sau nhà bạn chỉ trồng rau, cho nên thơ của tôi không khỏi có hương vị rau cỏ trong đó. Một bài thơ mà đối với tôi thuở đó rất dễ thương, nhớ hoài đến bây giờ, kể lại chuyện tình của bạn tôi năm mười bảy tuổi, đến cũng nhanh mà đi cũng vội, như con bướm bay từ vườn hàng xóm, đậu trên những luống cải hoa vàng mùa Xuân, rồi bay đi đâu không biết.

      Tình Đầu

      “Năm em mười bảy tuổi

      Có anh đi vào đời

      Bằng ánh mắt nụ cười

      Với mùa Xuân lên ngôi

      Thương nhau vào mùa Xuân

      Rồi tình yêu thắm dần

      Sách vở đầy thương nhớ

      Tình đẹp như thiên thần

      Hai nhà chung một ngõ

      Cách một mảnh vườn sau

      Vườn nhà anh bướm lượn

      Vườn nhà em trồng rau

      Yêu nhau không dám nói

      Nhìn nhau không dám cười

      Thư tình anh đem dấu

      Dưới bụi cây ven rào

      Những chiều ra hái rau

      Mắt ngó trước nhìn sau

      Thư tình trong túi áo

      Len lén mình thương nhau

      Rồi bỗng dưng một dạo

      Thư hồng anh thôi trao

      Nụ cười thôi đưa đón

      Gặp nhau anh chẳng chào

      Buồn lắm anh biết không?

      Chiều chiều ra vườn sau

      Nắng nghiêng qua hàng giậu

      Thư hồng anh để đâu?

      Không phiền trách chi nhau

      Chỉ buồn cho tình đầu

      Mau phai như màu áo

      Nghe tim mình đau đau...”


      Đó là bài thơ tuổi học trò khi yêu còn ngây thơ không có tội, nửa muốn mạo hiểm bước vào ngưỡng cửa tình yêu, nửa rụt rè vì sợ cha sợ mẹ. Bạn tôi có một mối tình đầu thầm lặng như thế đó, tôi nghĩ tại bác Ba trai rất nghiêm khắc cho nên anh bạn hàng xóm sợ rồi rút êm, đi tìm một tình yêu khác. Vậy mà bạn tôi nhớ hoài, hễ khi nào chỉ còn hai đứa ngồi nhắc chuyện cũ, bạn vẫn nhắc đến anh bạn hàng xóm năm xưa với nỗi rung động đầu đời rất dễ thương.

      Bác Ba gái vì hoàn cảnh phải dời quê ra tỉnh, ngày ngày quanh quẩn ở mảnh sân sau chật chội. Mặc dù sống gần chồng con nhưng hình như bác không quên được cây trái và những loại rau hiền như đất ở mảnh vườn quê của mình, nhiều khi nghe bác nhắc đến mà mắt rưng rưng như muốn khóc. Bao nhiêu cây trái do công lao bác trồng trọt vẫn cố bám vào đất để tìm đường sống, trong khi ấy, chiến tranh đi đến đâu cũng chỉ để lại sự tàn phá tang thương cho những mầm xanh và con người hiền lương luôn thiết tha với ngọn rau, lá cỏ.

      Nguyên Nhung, 2007.

      Comment


      • #4




        Khi gió mùa Đông Bắc phả hơi giá lạnh lùng vào mảnh vườn hiu hắt, đầu tháng Mười Hai của mỗi năm, là tôi lại chạnh nhớ đến những mùa Giáng Sinh ngày thơ ấu. Lạ một điều là trong đáy lòng tôi bỗng ấm lại, có phải chăng khi nhớ lại những kỷ niệm đẹp của thời thơ dại năm nào, khiến tôi quên mất là mình không còn trẻ nữa. Cảm giác mỗi mùa Giáng Sinh tuyệt vời đến nỗi, tôi tưởng như mỗi năm một lần, mình lại là đứa trẻ thơ mới lên tám tuổi, hình ảnh con búp bê tật nguyền lại chập chờn trở lại trong trí nhớ, y như năm nào tôi còn bế nó trên tay.

        Chuyện quả thật không có gì đối với những con búp bê hằng hà sa số trong các tiệm buôn ở thành phố, món đồ chơi của hầu hết những đứa bé gái trạc tuổi tôi độ ấy, vậy mà chị em tôi thèm thuồng mơ ước mãi. Cho đến một chiều kia, mẹ tôi sau khi nấu xong mẻ cao hổ cốt, vừa khô mặt đã được cắt ra từng lạng vuông vức, gói trong giấy bóng kính là vội vã đi giao hàng cho các nhà quen ở xa. Chị em tôi thơ thẩn trước sân chờ mẹ, lòng nôn nao chờ đợi vì hôm đó là một chiều áp lễ Giáng Sinh. Tiếng chuông chiều ngân vang giục giã bóng chiều đổ xuống những mái tranh nghèo leo lét ánh đèn dầu, lúc ấy mẹ tôi mới tất tả trở về, tay xách cái giỏ mây đựng dăm thứ thức ăn mua vội ở chợ chiều phương xa.

        Hai đứa trẻ con xán lại cái giỏ mây của mẹ đợi chờ. Bao giờ cũng thế, mỗi lần đi chợ xa về, mẹ tôi thường mua cho các con một ít kẹo lạc, giỏ trứng cá thu nướng để kho tương rất ngon, và đặc biệt là chị tôi dặn dò mẹ mua cho một ít kẹo bạc hà gói bóng kính để trang hoàng cây giáng sinh, thay cho những trái châu xanh đỏ. Cây giáng sinh của chúng tôi chỉ là một nhánh dương xỉ nhặt được ở khu nhà thờ, khi người ta đến đó trang hoàng cho hang đá, những cành nhỏ được chặt bớt đi, và đám trẻ con lại nhặt nhạnh đem về để làm cây Giáng Sinh.

        Hôm ấy có lẽ là buổi chiều hạnh phúc nhất của chị em tôi, khi mẹ tôi lôi từ đáy giỏ mây ra một gói nhỏ được bọc cẩn thận bằng giấy báo, chúng tôi cùng hớn hở nhận món quà bất ngờ trong buổi chiều áp lễ Giáng Sinh. Đó là một con búp bê đã cũ, được thải ra từ đống đồ chơi ngồn ngộn của bé Lan, con gái cưng của cậu mợ tôi đang sống ở thành phố.

        Trong niềm hân hoan vui sướng, khi đặt con búp bê đứng trên mặt bàn, tôi mới phát hiện ra đó là một con búp bê tật nguyền, một cái chân lỏng lẻo đung đưa không thể nào đứng được như con búp bê của con Nhuần , bạn tôi. Nó là đứa duy nhất có được một con búp bê trong đám bạn nghèo cùng lứa tuổi, vì thế nhà nó lúc nào cũng có mấy đứa trẻ con xúm xít mong đợi được bế con búp bê trên tay. Vì được làm chủ một món đồ chơi đắt giá như vậy, nên con Nhuần cũng chỉ cho đám bạn nhỏ chơi ké tùy theo sự vui, buồn của nó, tùy theo giá trị của những chiếc bánh hay cục kẹo, củ khoai mà bọn con nít như tôi đem đến tặng cho nó để lấy lòng.

        Thấy mặt tôi tiu nghỉu buồn so vì con búp bê què chân, chị tôi an ủi:

        “Cái chân nó què nhưng mặt nó xinh lắm em ạ, để chị rửa mặt cho nó nhé!”

        Rồi chị mau mau đi lấy cái khăn ướt lau mặt cho con búp bê, trông làn da nó có vẻ sáng lên được một chút. Nghe chị nói tôi cũng thấy vui vui, nhoẻn miệng cười. Chị lại bảo:

        “Thôi vậy là em không phải lên nhà con Nhuần nữa, dù sao nó cũng là của mình, nếu nó không què chân thì bé Lan đâu có thải ra cho chúng mình đâu.”

        Thế là hai chị em quên cả ăn cơm, nghĩ đến cách chữa cái chân què cho con búp bê, bằng cách dùng một sợi dây thun cột cái chân què vào cái khớp của thân búp bê, bây giờ thì nó cũng tạm đứng được, nhưng dáng đứng lại cứng như que củi, vẫn xiêu vẹo trông rất tội nghiệp. Chị tôi nghiêng đầu nhìn con búp bê, rồi lại nói với tôi:

        “Thế là đẹp chán rồi em ạ. Ngày mai mình sẽ đi xin vải vụn về may quần áo mới cho nó để mừng lễ.”

        Ngày giáp lễ Giáng Sinh năm đó, chị em tôi suốt ngày bận rộn với con búp bê tật nguyền. Trước tiên tôi lân la sang nhà cô Xuân thợ may, xin được những mảnh vải vụn rất đẹp để may quần áo cho con búp bê, cái váy đầm cũ xì của nó lem luốc như váy của cô bé lọ lem. Khi được mặc bộ quần áo mới trông nó xinh hẳn ra, dù không đứng được ngay ngắn và chỉ nằm suốt ngày, nhưng nó có vẻ đẹp rất dễ thương, đôi mắt khép hờ với hàng mi cong, he hé mở như chưa ngủ say, và nhất là cái miệng thì hình như luôn mỉm cười kể cả trong giấc ngủ.

        Ban đêm, hai chị em lại đem con búp bê tật nguyền lên giường để ngủ chung, tưởng tượng nó là một em bé vẫn thường được mẹ săn sóc suốt ngày ở những nhà có trẻ con. Khi thì giả bộ cho em ăn, lúc sờ đít để thay tã, con búp bê nằm giữa như một đứa em được che chở bởi hai bà chị rất chăm chỉ khi mẹ vắng nhà. Buổi tối khi mẹ tôi còn quanh quẩn dọn dẹp nhà cửa, tôi ôm con búp bê tật nguyền trên đôi tay măng non của mình, mơ mộng nghĩ đến một khung cảnh ấm cúng, thần tiên nào đó, chị tôi lấy sách ra đọc truyện cho em nghe:


        “Ở một miền xa xôi nơi đồng quê nước Pháp, có một xứ đạo rất nghèo với một ông cha già và một con chó cũng già. Xứ đạo nghèo lắm nên cha xứ quanh năm cũng chỉ được ăn bánh mì đen quết bơ, với thứ “soup” nấu bằng bắp cải và hột đậu khô. Con chó cũng chỉ được ăn như thế, và nó suốt ngày luẩn quẩn đi theo gót chân ông cha xứ già như hình với bóng.

        Mùa Đông năm ấy trời rất lạnh, ngôi giáo đường với cái gác chuông xập xệ chìm khuất trong màn sương đục như sữa, im vắng không đèn nến vì các nhà giáo dân nằm rải rác trong thung lũng xa xa, đời sống của họ cũng không khấm khá bao nhiêu nên tuy là buổi chiều áp lễ Giáng Sinh, nhà nhà cửa nẻo đóng kín với ánh đèn âm u. Những căn nhà gỗ mốc thếch chắc chỉ còn người già và trẻ con, lớp người trẻ trong làng lâu nay đã túa đi tìm việc trên những đô thị xa, nơi ấy có những ngôi nhà thờ đông người đèn nến sáng trưng như sao sa, họ vui chơi cả đêm với rượu ngon thịt béo, nhân dịp kỷ niệm ngày Chúa sinh ra đời.

        Ông cha xứ già sống hiu quạnh với một con chó già như một người bạn thân thiết nhất trong đời ông. Nhìn đất trời ảm đạm trong một chiều áp lễ Giáng Sinh, ông buột miệng than thở:

        “Lạy Chúa! Người ta bỏ rơi Ngài và bỏ rơi con trong cái ngôi nhà thờ miền quê khốn khổ này, chỉ vì nơi đây không có đèn đuốc hoa đăng sáng trưng như những nơi khác. Người ta đi tìm Chúa trong cung điện nguy nga, vì nghĩ rằng chỉ có nơi đó mới là nơi Ngài ngự trị.”

        Ông cha già thẫn thờ lẩm bẩm nói một mình, nhìn bóng tối âm u dần ập xuống ngôi nhà thờ quạnh vắng, lòng cha rưng rưng nhớ lại suốt quãng đời linh mục của mình. Đành rằng khi quyết định dâng hết cuộc đời cho lý tưởng để phục vụ Thiên Chúa, đem khả năng và yêu thương đến với tha nhân, nhưng đứng trước sự hững hờ của thế nhân, và sự đào thải của kiếp người, Cha vẫn cảm thấy nao nao buồn vì nỗi đơn côi của ông cha già bị bỏ rơi nơi xứ đạo nghèo. Nhưng đâu phải vì vậy mà đêm nay cha cũng bỏ buổi lễ đêm hằng năm để không đón mừng con Chúa đến với nhân loại, cho dù chỉ còn mình cha và con chó già nằm khoanh chân dưới gầm bàn trốn lạnh.

        Ngoài trời gió rét căm căm, từ thung lũng gió luồn qua cây để hú lên những tiếng thở dài trong đêm tối với một bầu trời không trăng sao, nhìn ra xa xa là ánh lửa leo lét từ những chuồng nuôi gia súc, loài vật cũng không chịu nổi cái giá rét của đêm đông nếu không được sưởi ấm. Cuối cùng, vị linh mục già quyết định dù chỉ có một mình, cha vẫn phải dâng lễ để đón mừng Lễ Giáng Sinh như mọi năm.

        Không còn ai kéo những hồi chuông báo giờ lễ đã đến, vì ông từ ngôi nhà thờ này cũng đã theo Chúa từ độ mới sang đông hồi tháng mười trong năm, cho nên tất cả việc lớn nhỏ trong ngôi nhà thờ làng cha đều kiêm nhiệm hết. Mặc thêm chiếc áo dạ cũ, cha run rẩy leo lên chiếc thang gỗ thấp của tháp chuông, con chó già cũng lẽo đẽo theo sau. Bằng tất cả sức lực còn lại trong tấm thân héo hắt của tuổi già, không hiểu có một sức mạnh thiêng liêng nào đến với ông, tiếng chuông cô đơn bắt đầu ngân lên giữa màn đêm thanh vắng.

        Tiếng chuông đổ hồi rộn rã, dồn dập vang lên khắp thung lũng trong màn sương dầy đặc, như đánh thức trái tim những người giáo dân trong xứ nghèo khiến họ choàng tỉnh và lắng nghe. Rồi họ chợt nghĩ đến những mùa Lễ Thánh hằng năm, tiếng hát tiếng chuông hòa vào nhau để vang xa đến các thôn làng, những ngôi nhà thiếp ngủ trong đêm đông lạnh giá. Họ cũng chợt nhớ ra rằng có một ông cha già bị lãng quên trong cái nhà xứ ẩm ướt thiếu thốn trăm bề, không hiểu sao đêm nay phép lạ nào mà hồi chuông giáo đường lại nhịp nhàng ngân lên từng hồi rộn rã, tiếng chuông càng lúc càng dồn dập một âm điệu vui tươi như muốn đem một niềm hy vọng, xóa tan bóng tối âm u cho những cảnh nghèo vạc mặt.

        Ôi! Dù có thế nào chăng nữa cũng không thể bỏ rơi Chúa hài nhi bé nhỏ trong ngôi nhà thờ cũ kỹ dột nát, không thể bỏ rơi ông linh mục già ốm đau với con chó già cũng tang thương như chủ nó. Thế rồi khi cửa nhà thờ mở hé, những ngọn nến trắng bập bùng trên cung Thánh, ông cha xứ già thấy lác đác có những bóng người chằng đụp khăn áo quỳ dưới những hàng ghế, và khi cha vừa cất giọng khàn khàn bài ca Vinh Danh thì ngôi nhà thờ miền quê đã vang lên tiếng hát rộn ràng, nhiều âm điệu pha trộn vào nhau để trở thành một bản hòa tấu không cần tiếng đàn phong cầm phụ họa.

        Ông cha già dâng lễ trên bàn thờ nghẹn ngào với đôi mắt đẫm lệ, ngỡ như Chúa đã làm phép lạ để tăng sức cho cha giựt nổi những hồi chuông cô đơn trong đêm tối. Ôi những hồi chuông cô đơn đã biến thành những hồi chuông reo vui, đã đem lại bầu sinh khí và niềm hy vọng trong những mái nhà gỗ xiêu vẹo, nằm rải rác trong khu thung lũng buồn hiu, nơi con người phải chống trả với bao nhiêu khắc nghiệt của thiên nhiên và thời tiết để đời sống được tồn tại. Những giọt nước mắt cứ thi nhau rơi trên đôi má nhăn nheo của ông linh mục già tội nghiệp.”

        Câu chuyện về tiếng chuông cô đơn của ông cha xứ già mà chị tôi đọc trong mùa Giáng Sinh năm ấy, vẫn không bao giờ phai nhòa trong ký ức của tôi. Đêm đó ngọn nến trắng hắt ánh sáng lung linh bập bùng lên nhánh dương xỉ, có treo những chiếc kẹo bạc hà đủ màu thay thế cho những trái châu xanh đỏ, chị tôi chăm chỉ đọc sách, còn tôi thì im lặng lắng nghe, trên tay nâng niu con búp bê tật nguyền với tất cả tấm lòng trìu mến của một đứa trẻ thơ. Những giọt lệ long lanh rớt xuống đôi má bầu bĩnh của tôi, rồi rơi xuống khuôn mặt xinh đẹp của con búp bê đang say sưa ngủ, nhưng đôi môi kia vẫn hé nở một nụ cười. Chắc nó không bao giờ biết buồn mặc dù bị một cái chân què quặt không đứng vững trên mặt bàn. Rất thơ ngây tôi hỏi chị:

        “Như vậy đâu phải chỉ có nhà mình mới nghèo phải không chị?”

        Chị tôi gật đầu, mới hơn mười tuổi nhưng vì nhà nghèo nên trông chị có vẻ khôn ngoan trước tuổi, và cũng vì nghèo nên chúng tôi biết an phận với hoàn cảnh trong niềm vui của một gia đình đơn sơ nhưng êm ả vì có mẹ tôi đảm đang lo toan tất cả. Tôi nghĩ đến con búp bê tật nguyền đang thiếp ngủ, nó ngoan lắm và ngủ suốt ngày trên tay tôi, chỉ vì nó không đứng được bình thường như những con búp bê khác. Tôi ao ước:

        “Giá như Chúa thương mà làm phép lạ cho con búp bê của mình đừng què nữa chị nhỉ?”

        Chị tôi chỉ ngồi im lặng, trầm ngâm nhìn ánh nến lung linh tỏa sáng khuôn mặt xinh đẹp của con búp bê tật nguyền. Nghĩ sao, chị bảo tôi:

        “Chắc là mai sau Chúa sẽ làm phép lạ cho chị em mình nhiều con búp bê thật xinh đẹp. Phải vâng lời mẹ, chịu khó học, mai mốt chị lớn lên đi làm có tiền, sẽ mua cho em con búp bê thật đẹp nhé!”

        * * *

        Đúng như lòng mơ ước của chị em tôi trong đêm Giáng Sinh hồi tôi lên tám tuổi, mẹ tôi đã thoát ra được cảnh đời gian nan, vất vả ấy vì có những may mắn bất ngờ đưa đẩy đến. Ngày chiến tranh bò vào thôn xóm quê mùa đó, anh tôi đón cả nhà về một thành phố phồn thịnh ở miền Tây, chị em tôi lớn lên trong tuổi thanh xuân với không khí của bao nhiêu mùa Giáng Sinh an bình nơi phố thị bình yên. Khi dời nhà đi nơi khác, chúng tôi đã lớn rồi, con búp bê tật nguyền được cho lại một đứa em họ nhà nghèo còn ở lại nơi đó. Vẫn “cũ người mới ta”, con bé lên năm tuổi với đôi mắt trong veo đã sung sướng ôm chặt con búp bê tật nguyền trong tay, thay cho vòng tay bé nhỏ của tôi ngày nào.

        Mỗi năm đến mùa Giáng Sinh, chị em tôi dẫn nhau đi mua quà Giáng Sinh ở các tiệm bách hóa, có bao nhiêu con búp bê đủ loại rất xinh đẹp đứng, ngồi trong tủ kính sáng choang ánh đèn, lại gợi nhớ trong lòng chị em tôi hình ảnh con búp bê tật nguyền thuở còn thơ. Năm đó, người lính từ đơn vị được về phép đúng vào chiều Giáng Sinh, đã vội vã chạy ra tiệm buôn mua làm quà cho người yêu con búp bê rất xinh, trong hình ảnh cô bé mười bảy tuổi với nét nhí nhảnh dễ yêu của tuổi trẻ đầy sức sống.

        Rất ngộ nghĩnh là gần bốn mươi năm sau, con búp bê xinh đẹp ấy cũng bị què chân, đứng nghiêng nghiêng trong cái tủ sách với cái chân khập khiễng. Hình như tiếng chuông ngân mỗi mùa Giáng Sinh không bao giờ thay đổi với thời gian ...



        Nguyên Nhung, mùa Giáng Sinh 2007.

        Comment


        • #5
          ĐỐM LỬA TRÊN SÔNG

          Nguyên Nhung









          Ông thầy già ngôi trường Trung Học của tôi thời cắp sách, cho đến bây giờ ngoài “thất thập cổ lai hi” vẫn mê thơ Đường. Những bài thơ của Tô Đông Pha, Lý Bạch, Trương Kế từ hơn nghìn năm trước vẫn được thầy ngồi suy tư nghĩ ngợi, tìm trong thơ ý tưởng của người xưa, như bây giờ người ta đi tìm cái bí ẩn nụ cười của Mona Lisa (1479 - 1528), bức danh họa của Leonard da Vinci. Chắc hẳn thầy đã trăn trở nhiều đêm với nỗi lòng của người xưa, bài thơ được thầy dịch đi dịch lại nhiều lần mà vẫn chưa vừa ý, qua nhiều tháng năm mòn mỏi của đời người, để mỗi lần đọc lại thầy vẫn thấy còn thiêu thiếu.



          Mới đây, ông thầy già gửi đi một bản dịch bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” nguyên tác của Trương Kế, thi sĩ Trung Hoa từ thế kỷ thứ 8, khoảng trước và sau năm 756, niên hiệu Chí Đức, đời Đường Tông, sinh quán ở Tương Châu, thuộc tỉnh Hà Bắc. Tương truyền rằng Trương Kế thi rớt khoa thi năm đó, đêm neo thuyền ở cầu Phong, nhìn ánh trăng bàng bạc trên sông nước. Thao thức mãi không ngủ được, quá nửa đêm về sáng lại nghe tiếng quạ kêu sương, hai bên bờ hàng cây say ngủ, bỗng đâu nghe vẳng lên tiếng chuông chùa Hàn San, nỗi u uẩn của lòng hòa thêm tiếng chuông tinh khôi buổi sáng khiến lòng càng thêm trắc ẩn, ngậm ngùi nên tức cảnh sinh ...Thơ. Bài thơ vỏn vẹn 4 câu đã trở thành bất hủ:



          PHONG KIỀU DẠ BẠC

          “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

          Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

          Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự

          Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.”

          (Trương Kế)



          Ý tưởng và vẻ đẹp thi ca của người xưa vẫn còn bàng bạc mãi trong tâm hồn người yêu thơ cho tới tận bây giờ. Khi dịch bài thơ này, ông giáo già cứ băn khoăn mãi khi tưởng tượng ra đốm lửa trên chiếc thuyền chài cá lúc nửa đêm, sương giăng như một dòng sữa, hàng cây phong ven bờ lim rim ngủ, tiếng quạ kêu khắc khoải quyện với hồi chuông khuya từ ngôi chùa Hàn San.



          “Trăng lẩn, quạ kêu, trời đầy sương

          Ánh lửa chài xa quyện vấn vương

          Hàng cây phong ngủ bên bờ vắng

          Văng vẳng chuông khuya vỗ mộng thường.”

          (Giáo sư Phạm khắc Trí)



          Đọc bản dịch của Thầy, hình như mấy chữ “ánh lửa chài” trong bài thơ bỗng làm tôi nhớ đến nỗi buồn mông lung của những Xóm Thuyền Chài ngày xưa, trên một dòng sông nhỏ thời tôi còn trẻ. Dễ có đến gần bốn mươi năm khi tuổi còn thanh xuân, sao những đốm lửa trên sông vẫn in trong lòng tôi một nỗi buồn khắc khoải mênh mông. Nhất là mỗi buổi tối trời nhập nhoạng lên đèn, ngồi bên bờ sông trên bến nước, đưa mắt nhìn ra khoảng sông tối mịt mùng xa xa vẫn thấy ánh lửa lắt lay trên những chiếc thuyền chài rách nát.



          Không biết tại sao trên dòng sông này có những chiếc thuyền đi giăng câu ở những khúc sông rộng vắng vẻ, khi nào vào dịp Lễ Tết, họ lại tụ nhau về một khúc sông như những chiếc nhà nổi, người ta gọi đó là Xóm Thuyền Chài, để chỉ những cư dân vùng sông nước suốt một đời lênh đênh trên những con thuyền. Thường thì bến sông nào cũng là nhà khi họ ghé vào để trao đổi với cư dân hai ven bờ, những mớ cá, tôm mà họ đã phơi sương để giăng lưới suốt đêm trường. Dĩ nhiên họ không bán được giá cao như ngoài chợ, nhưng tôm cá của họ tươi soi sói, lại rẻ nên chẳng bao giờ ế ẩm. Người ta gọi đó là thuyền chài, nhưng thực ra đối với dân địa phương ở miền Nam, chiếc thuyền chài của người Bắc lại là một chiếc ghe nhỏ, trên có mái che như cái vòm cong cong được đan khít bằng tre nứa khá chắc chắn, rồi phủ ra ngoài là một lớp sơn giữ cho mái vòm được bền bỉ với nắng mưa.



          Nhà ở ven sông nên vì thế tôi làm quen dễ dàng được một gia đình Xóm Thuyền Chài, gồm một bà mẹ già, hai vợ chồng bác đánh cá và một lũ con còn bé leo nheo đến ba đứa. Hỏi ra thì không đứa nào được đi học vì cả nhà sống trên sông, khi thuyền đi xa bờ đến những khoảng sông rộng để giăng lưới, tùy theo con nước mà họ còn đang chài cá, nên không tiện để chở mấy đứa bé đến trường. Năm ấy đứa con lớn nhất của bác Bút chỉ mới độ tám, chín tuổi, con lớn chăn con bé nên cả nhà ai cũng có việc. Bác Bút gái nước da đen ròn, đậm chắc trông rất khỏe, tiếp tay với chồng chèo chống con thuyền trên nhiều khoảng sông dài, trong khi bác trai chăm chỉ bủa lưới. Bà cụ Bút lo việc cơm nước ở khoang trống đầu thuyền, đêm về thì ngay lối vào được thả xuống một cái mành mành bằng ni lông để che gió, cả nhà chen chúc nhau trên cái thuyền rách, xung quanh được che chắn bằng những phên lá và thiếc mỏng.



          Cả nhà bác Bút thích tôi lắm, nhất là mấy đứa trẻ con mỗi lần được lên bờ chạy nhảy, y như lũ chim sáo được sổ lồng. Mẹ của bác Bút năm ấy đã già, đầu chít khăn mỏ quạ theo kiểu phụ nữ nhà quê miền Bắc. Hình như họ cũng chẳng biết bao nhiêu về xã hội của loài người trên bờ sông, ngoài phố chợ, khi vào bờ là để bác Bút gái bán xong mẻ tôm cá đổi chác những thức cần dùng, họ chỉ ghé lên những bến sông vắng có nhiều người quen. Bà cụ Bút tóc bạc phơ, lưng còng, tiếng nói của bà đặc sệt giọng quê người vùng bể ở miền Bắc, khi có dịp lên bờ bà lại đòi vào thăm mẹ tôi, cũng chỉ vì thèm nghe giọng nói của người đồng hương miền Bắc.



          Vào mùa hè hay Tết là tôi thường có dịp xuống thuyền để chơi với lũ trẻ nhà bác Bút, hai vợ chồng bác bỏ lũ nhỏ lại thuyền cho bà cụ trông nom rồi xuống chợ mua sắm những thức cần dùng. Mỗi lần như vậy tôi thích được làm cô giáo của lũ trẻ nhếch nhác bẩn thỉu này lắm, nhìn những mái tóc bốc mùi sông nước chua lè, cắm cúi tô hình bằng những cây bút chì màu tôi đem xuống, nhe mấy chiếc răng sún ra cười mới dễ thương làm sao! Trong đôi mắt của những đứa bé con nhà thuyền chài đen đủi vì nắng gió, tôi là hiện thân của một cô tiên với nước da trắng trẻo, quần áo lành lặn sạch sẽ. Con bé gái rụt rè sờ vào đôi guốc sơn có vẽ hoa của tôi đầy vẻ ao ước, tội nghiệp những đôi chân không nào biết đến guốc dép là gì, ngay cả ngày Tết khi lên chùa thì chúng cũng chỉ tung tăng đôi chân trần trên con đường đầy đất bụi mà thôi.



          Trên con thuyền dập dềnh giữa đám lục bình, có những mảnh đời cũng dập dềnh, lềnh bềnh nhiều năm tháng trôi theo con nước lớn, nước ròng mà chưa tìm được một bến đậu. Tôi tò mò quan sát sinh hoạt của gia đình bác Bút, nơi ăn ngủ là những tấm ván không đều nhau, đóng lại như cái vạt giường, rộng bằng hai chiếc giường sát với nhau khá chật chội. Ở đầu khoang phía trước là chỗ nấu ăn, một chiếc “cà ràng” đôi và vại nước sạch dùng để nấu nướng và ăn uống, còn tắm rửa giặt giũ đã có đầy một dòng sông. Bây giờ tôi mới được biết thêm cái đốm lửa trên sông mà tôi nhìn thấy từ xa trong những chiếc thuyền chài khi mờ, khi tỏ như ma trơi, cũng từ cái bếp lửa ở đầu thuyền của một gia đình sống lênh đênh trên dòng sông, ánh lửa chập chờn ấy giữa khoảng sông tối thẫm gieo vào tâm hồn nhạy cảm của tôi một nỗi buồn vời vợi.



          Mẹ bác Bút kể rằng, ngày xưa gia đình gốc thuyền chài, ở ngoài Bắc họ cũng lênh đênh sống với sông nước, từ đời cha đến đời con tiếp nối nhau làm nghề hạ bạc. Sống trên sông đã quen, nên không muốn lên bờ, khi lớn khôn lấy vợ lấy chồng, đám trẻ con mới chào đời cũng yên phận như những cọng hoa lục bình trôi trên dòng sông. Sở dĩ bác Bút có cái tên cúng cơm này cũng do sự mơ ước của bà mẹ, mong con được biết chữ, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy gia đình trong nỗi vất vả, nên cuối cùng cũng chẳng được cắp sách đến trường.



          Năm ấy không nhớ rõ là năm nào, cả nhà bác Bút neo thuyền vào bờ ăn Tết, ngay trên cái bến nước gần nhà tôi thay vì về bến tụ tập với những gia đình thuyền chài khác, có lẽ bác Bút muốn gần ngôi chùa nhỏ để bà cụ Bút có dịp đi lễ Phật suốt ba ngày đầu năm. Trong cái khoang thuyền hẹp bà cụ Bút cũng chu đáo đặt một cái bàn thờ con con, một khung hình chưng lộn xộn vài tấm ảnh của người khuất núi, có mấy bông hoa giả xanh đỏ cặm vào vách ghe cạnh bàn thờ, bát nhang có những cọng chân nhang màu đỏ xậm. Ở đâu thì con người vẫn phải có ông bà tổ tiên, đôi khi tôi thầm nghĩ đến những mảnh hồn khuất bóng trong gia đình bác Bút, cũng lênh đênh với con cháu họ trên những đoạn sông dài.



          Cũng y như mọi người, trước Tết bác gái đã đưa lũ con đến nhà cô thợ may trong xóm may quần áo mới, và sắm sửa mọi thứ để ăn Tết. Vì cắm neo ở xa bờ một khoảng ngắn, nên muốn xuống thuyền phải đi trên một tấm ván dài và hẹp rất chênh vênh, tôi đã phải rón rén đi trên tấm ván nhún nhảy đó, trong khi lũ con của bác Bút như những con sóc chạy nhảy rất nhanh. Bác Bút gái đã bưng về hai chậu cúc vạn thọ vàng thẫm, rồi cũng tranh Gà, tranh Lợn, cũng bánh mứt hạt dưa, chiếc thuyền giờ đây như cái nhà nổi trên sông, ban đêm quây chung quanh ánh đèn dầu là một gia đình ấm cúng và hạnh phúc.



          Tuy sống trong cảnh nghèo đạm bạc với nghề chài lưới, nhưng bản chất lương thiện, chân thật và xử sự của những người không biết “một chữ bẻ đôi” này, sợ rằng còn tử tế hơn nhiều người được ăn học. Khi đã xem gia đình tôi là chỗ quen biết để tới lui mỗi lúc vào bờ, cuối năm bao giờ bà cụ Bút cũng bắt con trai phải chọn biếu mẹ tôi con cá, vài con tôm to tươi nhất để nấu canh riêu, mẹ tôi cũng chu đáo biếu lại nhà bác Bút một nồi thịt kho măng. Đấy là món ngon ngày Tết mà bà cụ Bút rất thích, những miếng măng khô được ngâm kỹ với nước vo gạo vài ngày, rồi luộc đi luộc lại cho thật mềm, xé bằng đốt ngón tay kho lạt chung với thịt ba rọi hay thịt đùi, ngày Tết đi chơi về chỉ cần cuộn với bún, rau sống và bánh tráng, chấm nước mắm chua ngọt thế là xong bữa, ngon miệng mà lại không làm phiền ông bà Táo ba ngày Xuân. Ngày mùng Một tết, mẹ tôi chèo kéo bà cụ Bút vào nhà ăn miếng thịt đông dưa chua, vuông bánh chưng miền Bắc cho đỡ thèm, bà cụ ngồi khép nép trên chiếc ghế dựa nơi bàn ăn cơm, chắc quanh năm ngày tháng chỉ quen ngồi xệp trên cái sạp thuyền để ăn cơm, rồi lăn ra đấy mà làm một giấc. Nhìn bà cụ già nhẩn nha nhai nhóp nhép miếng bánh chưng, lại thấy tội nghiệp cho những mảnh đời cơ hàn vất vả, nhưng cả nhà tôi không một ai tỏ ý khó chịu khi mẹ tôi ân cần với những người bạn nghèo chân thật như gia đình nhà bà cụ Bút.



          Ba ngày neo thuyền ăn Tết có lẽ là ba ngày vui nhất của cả nhà bác Bút, hai người lớn ít đi đâu, nhưng bà cụ Bút thì nhất định phải lên bờ đi chùa cầu Phật, và để mấy đứa cháu lớn được theo bà đi chơi Xuân. Gọi là chơi Xuân nhưng cũng chỉ quanh quẩn trong con đường và dẻo đất ven sông ấy, bà cụ Bút giữ ý không dám dẫn cháu đến nhà ai, nhưng bao giờ thì mẹ tôi cũng chu đáo cho mỗi đứa một phong bao mừng tuổi. Bà cháu quanh quẩn ở ngôi chùa nhỏ thế thôi, ngôi chùa nghèo nằm hẻo hút ở ven con sông nhỏ, trước sân chùa có hai cây mai cổ rất quý, vào mùa Xuân hoa nở rộ lên vàng rực. Dưới bóng mát của những hàng cau tỏa hương thơm dịu vào buổi sáng, xung quanh hàng rào người ta trồng toàn hoa mẫu đơn vàng và đỏ thẫm. Chùa chỉ có ba ni cô trụ trì ở đó, sư bà đã già lọm khọm như một chiếc bóng vào ra quanh quẩn trên mảnh sân trồng cây kiểng, còn hai cô trẻ hơn thì lo việc ủ tương chao, trồng rau đậu làm kế sinh nhai.



          Có những sáng thức dậy sớm, trời còn mờ hơi sương đã nghe văng vẳng hồi chuông công phu từ ngôi chùa nhỏ, tiếng chuông như những hạt sương nhỏ vào cái tĩnh lặng của đêm trường còn ngái ngủ một sự êm ả lạ lùng, xóm ven sông như ướp một mùi hương của cỏ cây vừa thức dậy. Hương cau, hương bưởi, hương dạ lý quyện lẫn với mùi hương của nhang thơm cúng Phật lúc ban mai, cho đến nhiều năm sau người đi xa vẫn tưởng như mùi hương ấy còn quanh quẩn bên lòng. Đấy là một ngày bình thường, đêm ba mười Tết thời chiến tranh không cho đốt pháo, không có mùi thuốc pháo để đón Xuân nhưng ở cái xóm ven sông này vẫn có mùi hương đưa trong gió giữa đêm trừ tịch.



          Từ cửa sổ nhà tôi nhìn ra bờ sông không xa, mù mờ trong bóng đêm và màn sương là chiếc thuyền câu của nhà bác Bút. Chưa đến giờ Giao Thừa, không khí trong xóm chừng im ắng hơn, chỉ thỉnh thoảng có tiếng chó sủa và tiếng í ới gọi nhau canh nồi bánh Tết, càng về khuya thì càng im lặng hơn. Trong không khí cô đọng giữa đêm trừ tịch, bỗng từ ngôi chùa vẳng lên những hồi chuông trống, âm thanh hòa lẫn với mùi trầm nhang thoang thoảng đưa, cả xóm lắng nghe thì biết là đêm giao thừa sắp tới. Trong xóm nhiều nhà vẫn còn đốt đèn sáng choang, ngoài khoảng sân trước bàn ông Thiên, đã thấy mấy phụ nữ lớn tuổi khăn áo chỉnh tề, đang vái lạy trời đất để đón mừng năm mới.



          Nhìn ra chiếc thuyền của nhà bác Bút, giữa đêm khuya ngọn đèn được khêu sáng hơn, đốm lửa duy nhất trong cái khoang thuyền bề ngang độ chừng hơn hai thước, bóng bà cụ Bút động đậy vào ra. Một mâm trái cây bánh mứt và nhang đèn được bày ở mũi thuyền, cái bóng lưng còng còng của bà cụ Bút đang lom khom vái lạy tứ phương, với những đốm nhang lập lòe trong bóng đêm. Có nhìn thấy hình ảnh một gia đình thuyền chài neo ghe vào bờ đón tết, mới thấy được nỗi buồn hắt hiu của những gia đình làm nghề hạ bạc. Người sống có nhà, người chết có mồ, ngôi nhà cố định ở một chỗ nào đó dù nghèo nàn tới đâu, vẫn là nơi để một mai có đi Đông đi Tây người ta quay về vẫn tìm ra chốn cũ. Con thuyền nhà bác Bút lênh đênh trên sông nước biết bến bờ nào là cố hương? Đã nhiều lần trong những đêm gió mưa sùi sụt, ngồi trong căn nhà ấm sáng ánh đèn, tôi vẫn có lúc băn khoăn nghĩ đến chiếc thuyền chài của nhà bác Bút, rồi tưởng như nghe được cả tiếng mưa rơi lộp độp trên mái thuyền, có một gia đình co ro trên những manh chiếu trải trên sạp gỗ. Hay những đêm trăng vằng vặc sáng, con thuyền lại theo con nước lớn neo giữa cù lao mênh mông để chờ những mẻ lưới đầy cá tôm, khi mọi người đang ngủ ngon hay còn thao thức với trăng như tôi trong mảnh sân nhỏ trước nhà.



          Sau này khi bước vào đời rồi trải qua những lúc bon chen chật vật, khốn khổ vì sinh kế, đời chồng chất thêm nỗi buồn, có lúc tôi ao ước mình có một con thuyền như nhà bác Bút để muốn đi đâu thì đi, đến bến bờ nào cũng được, miễn là thoát khỏi sự ràng buộc với thế giới loài người hẹp hòi, ích kỷ. Tôi hình dung ra cái tự do của bác Bút thảnh thơi biết chừng nào, mà con thuyền ấy giữa đêm khuya với một vầng trăng sáng, xung quanh sông nước bề bề, cuộc đời không bị kềm tỏa ấy chẳng phải là thứ hạnh phúc tôi hằng mơ ước sao?!



          Liên tiếp nhiều năm, mỗi khi Xuân về, chiếc thuyền chài nhà bác Bút vẫn ghé vào cái bến sông có ngôi chùa nhỏ, chắc hẳn cũng là muốn tìm một nơi cố định để đón Xuân sang, thay vì lang thang mỗi năm mỗi bến. Đám con cái bác vẫn không được đi học, da chúng đen trùi trũi, quần áo vẫn khét mùi bùn sông rạch, con bé lớn đã nhỉnh hơn ra dáng một thiếu nữ chưa nẩy nở. Bà cụ Bút chép miệng tâm sự với mẹ tôi, ao ước vài năm nữa dành dụm thêm sẽ mua một miếng đất ở cuối giẻo đất ven sông này, chỗ ấy gần ngôi chùa, rồi làm cái nhà lá để cả nhà có chỗ chui ra chui vào, mấy đứa cháu bà cũng sẽ được tới trường như những đứa trẻ khác. Từ đời cha đến đời con, bà cụ Bút đã mơ ước cho con mình đi học, nay đến đời cháu mà họ vẫn còn chưa thực hiện được giấc mơ tầm thường đó.



          Năm tiếp theo bà cụ Bút ốm đau luôn, đến nỗi có lúc ốm nặng uống thuốc mãi không khỏi, bác Bút phải đưa mẹ đến nhà chú y tá chích dạo trong xóm để khám bệnh. Gầy gò, héo quắt trong mớ quần áo chằng đụp trên người, bà cụ Bút thều thào mơ ước khi chết được nằm nhờ trên miếng đất của ngôi chùa nhỏ gần với nhánh sông mà những năm tháng cuối đời, bà cũng tìm được những tấm lòng. Cả đời lênh đênh trên sông nước, đến lúc gần nằm xuống vẫn mơ một chỗ nằm thanh tịnh cho tấm thân èo uột cát bụi. Thuở ấy đất rộng người thưa, nên trong các khu vườn rộng rậm rịt nhiều bụi tre, nếu muốn người ta vẫn có thể chôn người thân ở góc vườn, chứ không nhất thiết phải đưa ra ngoài nghĩa địa. Bà cụ Bút đã tính toán một cách tội nghiệp, đi lại với sư bà cũng chỉ mong khi nhắm mắt được một nắm mồ tử tế, trong khi suốt đời đã phải sống kiếp lênh đênh không nhà.



          Sư bà là người nhân đức, nên chẳng nỡ chối từ bà cụ Bút một thẻo đất tý teo để làm nơi an nghỉ nghìn thu. Hôm ấy lần đầu tiên tôi được thấy đám ma một nhà thuyền chài, xác bà cụ Bút được đặt trong chiếc áo quan nhà nghèo quét sơn vàng nhạt thếch, một nắm nhang to cháy đỏ trên mặt hòm có bát cơm quả trứng, đó cũng là lần cuối cùng trong đời bà cụ già con nhà hạ bạc, từ giã cuộc đời trôi nổi trên sông nước để được lên bờ vĩnh viễn.



          Ngày tháng thoi đưa, từ ngày mẹ chết bác Bút cho thuyền đi lang thang trên các dòng sông xa, thỉnh thoảng vẫn neo thuyền vào bến chùa để viếng mộ mẹ, rồi đi thăm những nhà quen trong xóm cũ. Bộ mặt của xóm nhà ven sông cũng dần dần thay đổi, chiến tranh đưa đẩy người trong quê chạy ra thành phố tránh bom đạn, người quê vẫn thích cảnh sông nước êm đềm, tìm vào mua đất cất nhà ở cũng đông, mùi hương cau hương bưởi của xóm cũ ngày xưa cũng không còn nguyên vẹn. Sư bà đã khuất bóng, cũng được nằm yên nghỉ ở góc vườn có bụi tre làm bạn với bà cụ Bút, ngôi chùa vẫn còn lại hai ni cô trẻ năm xưa nay đã già hơn, ngày Xuân người đi vãn cảnh chùa đông hơn, nhưng bao nhiêu bóng cũ người xưa mỗi ngày một vắng.



          Mỗi lần về xóm thăm mộ mẹ, hai bác Bút vẫn không quên ghé thăm gia đình tôi, mang theo con cá mớ tôm tươi vừa lưới được còn tươi soi sói để biếu mẹ tôi, bác vẫn giữ được cái tình giao hảo với mẹ tôi như ngày bà cụ Bút còn sống. Mẹ tôi chẳng bao giờ để thiệt thòi cho gia đình người thuyền chài nghèo khổ ấy, bà thường dành dụm lại những quần áo cũ ngắn ngủn của chị em tôi không mặc vừa, dúi cho bác Bút gái vài món đồ chơi nhặt nhạnh được của mấy đứa cháu nội, ngoại trong nhà. Chỉ thế thôi mà lúc chia tay bao giờ cũng bịn rịn, miệng tuy cười nhưng mắt bác Bút gái bao giờ cũng rưng rưng lệ, khi gặp lại tôi trong khu chợ đông người, bác Bút gái vẫn chạy theo kêu ơi ới . . .



          Sau năm chiến tranh chấm dứt, gia đình tôi cũng rời xóm cũ dọn nhà đi nơi khác, trong nhà mỗi người mỗi cảnh chẳng dúm lại được với nhau để xum họp, nên căn nhà ven sông ấy phải bán lại cho người khác, bỏ lại cây mận đỏ lúc lỉu trái mẹ tôi trồng trước sân rợp bóng mát, có những mùa Xuân thuở nào với mùi hương hoa cỏ và nhang trầm ngôi chùa nhỏ. Ngày bỏ xóm cũ ra đi, mẹ tôi sang chùa để đốt nhang và từ biệt bà bạn già đồng hương của mình đã ở lại đây mãi mãi, kể từ đấy không gặp lại gia đình người thuyền chài nghèo khổ nhưng tấm lòng rất chân thật ấy nữa. Không hiểu sau này khi ghé vào xóm ven sông, không còn gặp gia đình tôi ở đó, bác Bút và lũ trẻ có buồn không?



          Tôi trưởng thành và xa dần cái xóm nhỏ ven sông ấy nhiều năm rồi, nhưng mỗi năm khi Xuân về, hồi tưởng lại những khuôn mặt người quen đã đến đã đi trong cuộc đời mình, tôi lại nhớ đến gia đình bác Bút và những đứa trẻ bất hạnh không được cắp sách đến trường trong chiếc thuyền chài ấy. Nhớ đến con đường xi măng nằm giữa hai bờ cây im ngủ dưới ánh trăng, nhớ đến mùi hương hoa cau thơm ngát giữa đêm khuya thanh vắng, nhớ tiếng chuông chùa văng vẳng trong đêm sương, và cũng nhớ đến đốm lửa trên sông hắt lên trong khoang chiếc thuyền chài độ xưa. Lòng tôi chơi vơi một nỗi thương cảm. Giá như tôi có dịp trở về chốn cũ, tìm ra đám con bé dại của bác Bút ngày xưa, xem con thuyền mục nát của bác giờ này đã tìm được cái bến nào để an cư lạc nghiệp như bà cụ Bút mong mỏi. Những đứa trẻ giờ này đã khôn lớn, không biết đã có được mái nhà và không còn lênh đênh trên sông nước với nghề hạ bạc cha truyền con nối?



          Đọc lại bài thơ dịch của ông thầy già, tôi thấu hiểu được nỗi buồn của Thầy với bài thơ bất hủ của người xưa. Để rồi lại nhớ đến cảnh đời vất vả của gia đình người thuyền chài quen biết với gia đình tôi độ ấy, không biết ánh lửa lắt lay trong những chiếc thuyền chài nghèo khổ, có buồn bằng ánh lửa thuyền câu mà người học trò Trung Hoa thi rớt năm xưa cảm nhận được? Nghĩ về cảnh cũ, người xưa, tôi cũng cám cảnh nên bắt chước thầy ghi lại mấy vần thơ sau đây:



          “Trăng ẩn, trời khuya, quạ kêu sương

          Leo lét thuyền câu ánh lửa buồn

          Lặng lẽ đôi bờ cây thiếp ngủ

          Đêm tàn thổn thức mấy hồi chuông.”




          Nguyên Nhung

          Comment


          • #6
            ĐÔI CHIM SÁO

            Truyện Nguyên Nhung


            Lời tác giả:

            Mùa thu sắp trở về, những mùa thu rất ngắn của đất trời vẫn mỗi năm một lần trở lại, nhưng những mùa thu của đời người thì mãi mãi ra đi. Khu vườn nhuốm chút heo may để giàn mướp rung rinh những bông hoa cuối mùa, bụi mía xào xạc thoảng qua hồn chút gió hắt hiu , và đôi chim sáo vẫn mải miết tìm mồi trên sân cỏ úa...

            "Đôi chim sáo" là hình ảnh một đôi vợ chồng già, khi những con sáo non đã đủ lông đủ cánh để bay đi xa lìa cha mẹ, chỉ còn lại đôi sáo già buồn bã, ủ ê trong cái tổ ẩm ướt với những ngày Đông dài lê thê . . . "





            Khi người hàng xóm sửa chữa lại chỗ mái hiên bị giột, là từ lúc ấy đôi vợ chồng chim bị mất tổ. Không biết đấy có phải là nỗi éo le của cuộc đời, hạnh phúc của kẻ này lại là nỗi bất hạnh của người kia, vẫn hay kề cận bên nhau, khi đời sống luôn luôn là những thay đổi. Như một thành phố được tân trang cho mới mẻ, lại cũng mất đi nét cổ kính của một vẻ đẹp yên tĩnh, rất nên thơ.



            Mỗi buổi sáng, khi mặt trời vừa thức dậy, vợ chồng đôi chim sáo đã lo tần tảo kiếm ăn. Tôi không biết đó là loại chim gì, nhưng tiếng hót khá hay, với màu lông xám có một mảng phơn phớt bạc ở trên đầu. Mình to gấp hai lần chim sẻ, tôi cho chúng là một loại sáo, vì chúng hay hót, có khi hót cả ngày vì một điều gì vui trong thế giới của loài chim.



            Đấy là một đôi vợ chồng chăm chỉ, còn trẻ tuổi, chưa con cái. Hôm nào mưa, anh chồng bay lên sợi dây điện, ngó quanh, hót lên mấy tiếng, có ý than thở cảnh đất trời u ám, khiến một kẻ chăm làm tham công tiếc việc phải bất đắc dĩ nghỉ ngơi. Còn lại chị vợ trong hốc tối ở mái hiên, chị cũng hay hót, như đàn bà thường lắm điều hơn đàn ông, thỉnh thoảng chị bay sà xuống cây thông đất trước cửa nhà tôi để rỉa lông, rỉa cánh.



            Khoảng đầu xuân, khi vợ chồng chim đến làm tổ trên cái hốc tối con con nơi mái hiên nhà hàng xóm, tôi thấy họ bận rộn lắm. Qua khung cửa kính, tôi quan sát đôi chim như một đôi vợ chồng mới cưới, có thể cô vợ đang mang thai, và họ cần một tổ ấm cho gia đình. Vợ chồng sáo ríu rít vào ra cái hốc nhỏ, được hình thành khi mảnh ván bị mục vì nước mưa, lâu ngày đã vô tình khoét một chỗ trống, vừa vặn cho gia đình một đôi chim sáo.



            Hai người trẻ tuổi yêu nhau, bước vào đời rộn ràng như thế nào thì đôi chim sáo cũng y như vậy. Từ mờ sáng, ánh đèn đường còn lung linh dưới tàn cây tối thẫm, tôi đã nghe đôi chim ríu rít, trò truyện. Họ dậy sớm lắm, sớm hơn cả lũ trẻ phải dậy đi học, nhất là những ngày vào Xuân, năm ấy đâu là mùa Xuân đầu tiên của vợ chồng sáo. Không biết họ ở đâu đến đây, nhưng ngay những ngày đầu, tiếng hót của họ đã làm những người trong khu chung cư thức dậy, và biết là mùa xuân đã tới. Những giọt mưa xuân đêm qua còn lóng lánh trên những lá cỏ non, khi bình minh đến, chiếu những tia nắng dịu dàng lên cỏ hoa, để những giọt nước li ti ấy biến thành những viên kim cương diễm lệ.



            Đúng là những người yêu đời nhất thế gian, đôi vợ chồng chim bắt tay vào việc xây dựng tổ ấm rất hăng hái, bay ra bay vào suốt ngày, mỗi lần trở về lại cắp theo một nhánh cây khô, một cọng cỏ héo, và cả những chiếc lá xanh. Họ có cái rộn ràng, tất bật khi phải cố hoàn thành cho nhanh, một cái nôi cho lũ con thơ sắp chào đời nay mai. Được một dạo, khi anh chồng đi kiếm ăn, chị vợ có vẻ mệt mỏi đậu xuống cành thông đất trước hiên nhà, chị hững hờ mổ mổ chiếc lá non, như người phụ nữ đang mang thai thèm ăn dở.



            Sáng nào, tôi cũng ngồi hằng giờ ngắm nghía hạnh phúc của vợ chồng chim sáo, ngay cả khi chị sáo khẽ khàng đậu trên nhánh thông, tôi cũng không dám mở cửa, sợ kinh động cái thảnh thơi của chị. Chị sáo có cái thảnh thơi của một tâm hồn trong sáng, hình như không có gì để suy nghĩ ngoài những hạnh phúc chị đang có. Chị nhảy từ cành này sang cành kia, thỉnh thoảng lơ đãng ngó mông lên rặng cây bên đường, có thể chị đang nghĩ đến anh chồng đang luẩn quẩn đâu đó. Khi anh sáo về, chị cũng cuống quýt bay lên, đôi vợ chồng chim lại lục đục trên cái hốc tối. Ấm áp lắm, nồng nàn lắm, tôi ưa nhìn cái hạnh phúc của muôn loài, và cảm nhận được cái vui từ chút hạnh phúc nhỏ nhoi, đơn giản ấy.



            Đấy là những ngày đầu tiên của vợ chồng chim sáo, hạnh phúc khi có thì ở đâu cũng hạnh phúc, chưa chắc gì trong những căn phòng đẹp đẽ, tiện nghi của loài người, hạnh phúc đã thèm hiện diện.



            Đôi vợ chồng chim sống thật êm đềm, đơn giản đến không còn gì đơn giản hơn. Sáng. Dậy sớm. Hỏi han nhau ba điều bốn chuyện, qua những tiếng hót làm vui tai mọi loài. Rồi khi nắng lên, bay đi kiếm ăn. Tuy nhiên, họ lại là những kẻ rất chu đáo trong vấn đề chăm sóc gia đình, rất bận rộn cho miếng ăn hằng ngày, nhưng vẫn không bỏ bê nhà cửa. Tôi thấy vợ chồng sáo về nhà luôn luôn, tha thêm những nhánh cỏ khô, chiếc lá héo.Tôi tưởng tượng trên đống cỏ khô được khoanh tròn lại bằng những chiếc mỏ khéo léo của vợ chồng sáo, dăm chiếc trứng xinh xinh, tròn trĩnh đã được chị vợ sắp xếp gọn gàng, vừa đủ cho chị mỗi ngày ủ ấp lũ con thơ, đang hình thành trong lớp vỏ trứng.



            Cái ấp yêu của vợ sáo, là cái ấp yêu của những người mẹ yêu con ngay từ lúc còn là bào thai, vừa mới tượng hình trong lòng mẹ. Tình mẫu tử đã được ràng buộc giữa mẹ và con, chị sáo cũng như bao người mẹ khác, đã nâng niu những đứa con yêu của chị trong những quả trứng mỏng manh kia. Chị sáo chắc hẳn cũng đã từng nghe ngóng, chờ đợi. Một hôm nào nghe lũ con cựa mình trong vỏ trứng, rất khẽ khàng chị dùng chiếc mỏ cứng, giúp con đẩy chiếc cửa đầu tiên vào đời. Mấy chú sáo non run rẩy, trần trụi lớp lông tơ, nếu không có tổ ấm của cha, sự săn sóc của mẹ, làm sao để sống?



            Từ đấy, tôi có cái ngạc nhiên khi nhìn cuộc đời ở một khía cạnh khác, khi biết rằng trong thế giới loài người, có những người con thành đạt, lớn lên trong nỗi nhọc nhằn của cha mẹ, đã hắt hủi cái tổ ấm của mình, và nhìn nó bằng những đôi mắt ghẻ lạnh.



            Khi lũ con ra đời thì vợ chồng sáo có vẻ bận rộn hơn. Ở góc cạnh này, tôi rất khâm phục anh sáo, nếu là người, anh rất xứng đáng là một người cha gương mẫu. Anh ta vốn là một người chăm chỉ, bây giờ lại càng chăm chỉ hơn, khi trên chiếc tổ chim ấy, đã vang lên tiếng liếp chiếp đòi ăn của bầy con dại. Chị sáo dạo này thỉnh thoảng mới bay ra cây thông, có lẽ vì bận con mọn. Trông chị có vẻ tất bật, không còn cái vẻ thảnh thơi của độ còn son rỗi, vì lo ngại lũ con thơ có thể lăn ra khỏi tổ lúc chị vắng nhà, rồi cứ thế lăn lông lốc xuống thềm xi măng dưới kia, thì dẫu có Trời giúp, chị vẫn không đủ sức để đem con về tổ. Quan sát kỹ để thấy, chị luôn luôn lấp ló nơi cửa , đầu ló ra ngoài, hai con mắt trong veo như hai hạt đậu. Người mẹ ấy chăm sóc con cẩn thận lắm, lũ sáo non dường như đã được đẩy tít vào phía trong, cho dù một cơn gió lang thang, cũng không thể thổi hắt vào cái tổ nhỏ bé ấy.



            * * *



            Qua hết mùa hè, mải miết kiếm ăn nuôi lũ con thơ, anh sáo trông có vẻ phờ phạc hơn. Tôi rất khâm phục sự hy sinh của anh. Khoảng cách từ nhà anh ra rặng cây xanh không xa, vì anh bay khá nhanh, nhưng phải nói sự vật lộn để mưu sinh giữa chợ đời đâu phải là dễ dàng, khi trên ấy có đủ loại khác nhau như sóc, quạ, hoàng oanh, chim sẻ. . . . Anh sáo chắc có lúc cũng nhận ra cái thực tế phũ phàng và cay đắng trong việc tìm miếng cơm, manh áo, sự tranh giành giữa muôn loài với nhau, đâu có gì là dễ chịu, cho dù anh có đạt được chân lý “ăn để sống”.



            Cuối hè ấy, khi lũ chim non đã đủ lông đủ cánh, tôi thấy mấy cái đầu xinh xinh ngó ngó, nghênh nghênh ngoài cửa tổ, chiêm chiếp kêu. Chị sáo cũng phục hồi sau thời gian ở cữ, tròn trịa hơn, mũm mĩm và xinh đẹp hơn, như người đàn bà sau kỳ sinh nở, những đường nét trên cơ thể nẩy nở ra như một đóa hoa thời kỳ mãn khai. Lũ con lớn hơn thì người cha càng vất vả, có vẻ như kiệt sức, bộ lông sáo không mượt mà như xưa, cái nóng của mùa hè khiến anh thêm hốc hác. Trong nhà, người ta mở máy lạnh suốt ngày đêm, lúc cần ra đường, người ta vội vã chui ngay vào xe, rồi hối hả đi vào những căn phòng có máy lạnh khác. Chắc anh sáo cũng mệt mỏi lắm. Anh phải đi kiếm ăn, suốt ngày bay tới bay lui từ hàng hiên ra rặng cây xồi ven đường, lúc ấy râm ran những tiếng ve gọi hè, chỉ còn mẹ con nhà sáo chui rúc trong cái tổ nóng bức chật chội. Ba đứa con chưa biết bay, nhưng ăn tợn, thỉnh thoảng tôi thấy chị sáo cùng chồng bay xuống sân cỏ, nhặt nhạnh những hạt cơm, vụn bánh, hột cỏ rồi lại bay ù về tổ. Bây giờ chị cũng phải cùng chồng đi tìm mồi về nuôi lũ con háu đói kia, chiêm chiếp suốt ngày đến sốt ruột.



            Sang đầu thu, mẹ sáo dạy con tập bay. Mới đầu là những khoảng ngắn từ tổ xuống hàng hiên, những cánh chim non sợ hãi, rụt rè bay xuống hiên, rồi lại bay về tổ. Những bước chân chập chững vào đời, trong nỗi buồn vui của cha mẹ. Như còn đấy, như mất đấy, một ngày nào tổ ấm sẽ yên lặng, không còn tiếng chim vui như tiếng trẻ khóc, trẻ học. Khi những đứa con lớn lên, sắp ra khỏi tầm tay cha mẹ, là lúc ấy đời dường như ngắn lại, rồi ở đâu kia đã hình dung ra màu tàn phai của những chiếc lá héo, thấy mình trong gương bỗng xa lạ với mình ngày trẻ tuổi.



            Ngày hôm ấy là một sáng đẹp trời, tôi đã nhìn thấy, nghe thấy lũ sáo con ríu rít bay ra khỏi tổ. Không hiểu vợ chồng sáo buồn hay vui, khi thấy con mình đã đủ sức bay đi, rồi mấy đứa đã quay về cái nôi êm ái đó?



            Lũ sáo con thật hồn nhiên khi mở to đôi mắt nhìn bầu trời khoảng khoát, rồi như kẻ đã nhìn thấy tự do, chúng bật lên những tiếng hót thánh thót, du dương như một bản nhạc vui. Cái gì cũng mới lạ, khoảng trời xanh bao la cho những cánh chim rộn ràng xoải cánh đến những vùng trời thênh thang, trên vòm cây xanh, những âm thanh mời gọi của bạn bè khiến lòng nao nức lạ. Phải nhập cuộc thôi, một khung trời mới mẻ có hoa thơm và mồi ngon, để túy lúy với men say cuộc đời. Trong những con người trẻ, tâm hồn trẻ, đâu đã biết ngậm ngùi trước cảnh chia ly với mái ấm gia đình.



            Tôi đã nhìn thấy những con sáo con bay ra khỏi tổ vào đầu thu hôm ấy. Nó có trở về không nhỉ? Làm sao tôi có một câu trả lời, nhưng tôi cứ chờ đợi, như đợi những đứa con của mình đi đâu đó, sẽ trở về, sẽ mãi mãi không bao giờ quên tổ ấm.



            * * *



            Sang thu, có một chút heo may chợt đến vào buổi chiều, gia đình sáo có vẻ yên lặng hơn, vì những đứa con chưa trở về. Anh chị sáo buổi sáng vẫn dậy sớm từ mờ đất. Hôm ấy có thể mặt trời không lên, đám mây xám giăng ngang bầu trời, cho cơn mưa thu chợt đến và kéo dài suốt những ngày tháng tám.



            Mưa kéo dài suốt một mùa thu, vài cơn bão rớt từ đâu ghé lại khiến lòng người cũng chùng xuống bao nhung nhớ. Cây cỏ ướt sũng dưới mưa, vợ chồng chim thưa thớt tiếng chim vui, những giọt mưa luồn vào tấm gỗ mục trên mái hiên, làm tổ ấm của đôi chim chừng ẩm ướt hẳn đi.



            Vào mùa thu, vài tia nắng dịu dàng ươm trên hàng cây đã có nhiều lá úa, để một cơn gió tới, đã cuốn theo những chiếc lá vàng từ trên cây rớt xuống như mưa, rồiø cứ thế lăn tròn xuống cuối dốc. Mùa thu bao giờ cũng ngắn ngủi và rưng rưng buồn, giàn mướp hương còn lại những chiếc lá cuối cùng vẫn xào xạc nghe như dư âm của một cung đàn đềm êm trong quá khứ. . .



            Hết mùa thu lại tới một mùa đông, không gian như càng ảm đạm và lạnh lẽo. Gã mặt trời lười biếng không thức dậy, ánh đèn vẫn tỏa sáng trong vòm cây tối. Vợ chồng sáo không hót lên câu chào hỏi mỗi ban mai, những giọt mưa mùa đông vẫn rớt trên mặt đường, loang loáng ánh đèn từ những chiếc xe qua lại vội vã.



            Vợ chồng sáo như đôi vợ chồng già, lủi thủi trong chiếc tổ ẩm ướt, nùi cỏ khô như tả tơi thêm khi anh sáo già không có cái hăng hái ngày trẻ tuổi, đi tha những cọng cỏ khô về làm tổ cho lũ con. Thỉnh thoảng, vào một ngày khô ráo. vài tia nắng yếu ớt lách ra khỏi màn mây màu xám đục, tỏa xuống nhân gian một chút ấm áp. Anh chị sáo bay ra khỏi tổ, đậu trên sợi giây điện, hai cái bóng chim như hai nốt nhạc sậm màu cho một bản nhạc buồn.



            Sao tôi ngậm ngùi thế. Buổi sáng, chỉ còn một mình trong căn phòng vắng, tôi nghe đôi chim sáo buông ra những tiếng kêu rời rạc, khắc khoải như tiếng ca cẩm cái chân đau, chiếc lưng mỏi cho một tuổi già lụm khụm.



            Hết mùa Đông, lũ sáo con vẫn không trở về, nhưng một biến cố đã xảy ra cho đôi vợ chồng sáo. Người ta chuẩn bị sửa nhà đón mùa xuân mới, người hàng xóm đã gọi thợ đến sửa lại mái hiên bị giột, thay vào đó một tấm ván mới, bít lại cái tổ chim. Khi đám thợ mang cưa, búa, gỗ đến, tôi thấy đôi chim hoảng hốt bay ra, mắt nhớn nhác nhìn loài người như một loài quỷ dữ, nhất là khi âm thanh của tiếng cưa kèn kẹt nghiến vào tấm ván, như nhát dao cuối cùng trên cổ người tử tội, thì mới hình dung được cái hãi hùng của người sắp chết.



            Chiều hôm ấy, khi mái hiên nhà hàng xóm đã được sửa chữa xong, còn nồng mùi sơn mới. Mới mẻ, cứng cát, không còn một cái hốc nào làm chỗ trú cho loài chim. Tôi thấy đôi chim sáo bay về, ngơ ngẩn đậu trên sợi giây điện như hai nốt nhạc buồn, ngơ ngẩn nhìn về tổ ấm dưới mái hiên, rồi chúng vụt bay đi. Không biết ở mắt chúng có ứa ra giọt lệ nào không? Riêng tôi, sao buồn quá, và tôi đã khóc.



            NGUYÊN NHUNG

            Comment


            • #7
              Câu chuyện của một cây chanh





              Truyện Nguyên Nhung






              Tôi là một cây chanh, cây chanh thì không bao giờ biết viết, nhưng cơ duyên đưa đẩy, tôi có dịp hòa nhập vào tâm hồn người viết, để viết lại câu chuyện của đời mình.



              Khởi đầu như mọi thứ, mọi loài hiện hữu trên cuộc đời, tôi cũng có cội nguồn, tổ tiên. Bắt đầu từ một chiếc hột được vứt lăn lóc trong đám cỏ hoang sau vườn, tôi ngoi mình lên bắt đầu một sự sống, giống như sự bắt đầu của con người, cũng bằng giọt máu tượng hình trong lòng mẹ. Tôi được ủ trong lòng đất, sau một vài cơn mưa, tôi cựa mình tách ra một mầm sống, một cây chanh non ra đời.



              Sự ra đời thật tự nhiên không hề tính toán, như là cha mẹ tôi không hề nghĩ rằng có những đứa con ra đời bằng cách ấy, nhưng dù bằng cách này hay cách khác, nơi nào tôi lớn lên thì đấy là quê hương, mạch đất nuôi sống tôi thì tôi phải mang ơn và quấn quýt, như con người ai cũng phải có tổ quốc.



              Khi tôi cao được khoảng một tấc thì lũ trẻ trong nhà phát hiện ra tôi, với vài chiếc lá màu xanh lá cây đậm, trên mình lại điểm gai, đứa bé gái đi hái rau tập tàng trong vườn để nấu canh, nó ngắt cho tôi một phát và đưa lên mũi hửi. Đúng rồi, một cây chanh, chẳng gì so với đám rau hoang sau vườn tôi cũng có một chút giá trị. Tuy nhỏ nhoi và gai góc, tôi vẫn có mùi thơm phát tiết tự trong người, đó là cái tinh hoa mà tôi nghĩ mình càng phải biết xử dụng cho đúng đắn để làm đẹp cho cuộc đời.



              Mảnh đất ấy khô cằn lại thiếu sự chăm sóc, chủ nhà lại không thiết tha gì một cây chanh, chỉ vì đời đã có nhiều thứ quí hơn, ở cái bóng sắc màu mè, vương giả của chúng. Ngay từ thuở còn thơ, tôi đã nhìn thấy tâm hồn đơn sơ của những đứa trẻ con, vì chỉ phát hiện ra một cây chanh tầm thường như tôi, vậy mà cũng làm chúng vui như người lớn bắt được tiền vậy. Ai bảo không có sự kỳ thị nơi cây cỏ, điều ấy phát sinh tự con người, rồi tự lòng người ngấm ngầm lây lan qua loài vật cây cỏ, qua sự sắp xếp ngôi thứ cao thấp trong xã hội, phân biệt từ trình độ kiến thức, giàu nghèo, màu da, chủng tộc, nảy sinh lòng ích kỷ rồi khinh miệt lẫn nhau.



              Đám trẻ con hè hụi bứng tôi lên mang vào gần hàng rào chỗ áng nước, ở đấy có một chị mùng tơi nõn nà, đang phơi phới khoe những chiếc lá mòng mọng màu xanh tím trên hàng rào, đúng là một cô gái xuân có cái đẹp thật hồn nhiên giản dị. Một bác xả lá dài lại nham nháp như cỏ, nhưng tôi ngửi được mùi hương của bác cũng nồng nàn lắm. Hai mụ ớt đứng gần bác xả lại có vẻ cay nghiệt ra mặt, im thin thít, làm như hai mụ gớm ghiếc một người láng giềng như tôi, người đã gầy gò lại gai đâm tua tủa. Sau này có dịp gần gũi nhau lâu ở mảnh sân sau, tôi mới thấy cái thành kiến thiển cận của mình, về những ý nghĩ sai lầm khi đánh giá con người hay sự vật qua cái hình vẻ bên ngoài.



              Tôi cũng mắc cái mặc cảm như con người ví mình sinh ra dưới vì sao xấu, so với đồng loại như chị bưởi, anh cam, chị quýt hay em quất, số phận của tôi có vẻ hẩm hiu hơn cả. Không phải người ta không cần đến chúng tôi, rất cần nữa là khác, nhưng để nâng niu, ngắm nghía, trầm trồ thì mấy ai đã dành cho một quả chanh. Dẫu sao tôi vẫn không phụ lòng trời, không phụ lòng người, cố gắng vươn lên bằng cách bám chặt lấy mảnh đất quê hương, hít vào thở ra cái không khí tự nhiên mà ông trời đã rộng rãi ban cho cùng khắp mọi loài, mọi vật.



              Đã tên chanh mà lại chua, hình dạng tên tuổi kém mĩ miều, không ngọt ngào để đẹp lòng thiên hạ, ai có dịp tiếp xúc với chúng tôi lúc ban đầu, đều lắc đầu, rùng mình, le lưỡi. Người tôi như thế nhưng đâu phải tôi không giúp ích cho đời, hãy xem cách con người xử dụng tôi thì rõ. Anh chiến sĩ xông pha ngoài trận mạc, trên đường hành quân đồng khô cỏ cháy, có chúng tôi cũng đỡ khát được vài giờ. Anh nhà giàu ăn phở, bà nội trợ làm nước chấm, chỉ cần vài lát chanh hương vị đã dịu dàng, tôi hòa đồng vào cái mặn, cái ngọt thật nhanh, người hưởng thụ sung sướng đầy đủ khi vị giác đạt đến cực kỳ cảm khoái, ấy vậy mà họ vẫn chẳng nâng niu, quí hóa. Ngay cả những lúc cấp bách nguy nan, tối lửa tắt đèn, ông lão lên cơn áp huyết, thằng bé nóng sốt co giật, có chúng tôi là hạ hỏa ngay.



              Nói trắng ra, tôi là món giải khát của loài người, bạn của bà nội trợ, gần gũi với người lớn tuổi và bệnh tật. Không tin à? Cứ thử xơi đẫy vài quả xoài, ăn một hơi vài quả quýt là biết ngay, nó nóng hừng hực, nóng đổ ghèn mờ mắt, nhưng chỉ cần uống một ly chanh tươi chua chua một chút là mát mẻ liền. Thằng bé con nóng sốt đến thế, vắt một vài giọt vào miệng, chà mấy lượt chanh lên trán, hiệu nghiệm thấy rõ, ít ra thì cũng cầm cự cho đến khi tìm được thuốc. Người lớn tuổi đã đến lúc tim mạch bất thường, cứ cho là chúng tôi là thứ nước thông ống cống cho cơ thể con người cũng được đi, nhưng cũng tại con người đấy chứ, họ trân quí cao lương mĩ vị, bữa ăn của họ ê hề những thứ máu đổ thịt rơi, toàn những thứ độc hại mà không tiên liệu rằng có một ngày, chúng phản lại con người như con dao hai lưỡi. Sự thật hay mất lòng, nhưng càng về lâu về dài mới biết ai là người hiền lương, ai là kẻ nguy hiểm.



              Trở về câu chuyện của đời tôi, tôi không hề có ngày sinh nhật vì việc ấy đối với tôi không quan trọng, ngày sinh nhật chỉ là dấu mốc cho người ta đếm tuổi, đếm thời gian tính ngày ra ma, ra mả. Ra ma hay ra mả cũng đồng một nghĩa như nhau, có nghĩa gì đâu mà phải kỷ niệm, phụ nữ cũng thường mừng ngày sinh nhật của họ nhưng không muốn ai biết tuổi thật của mình, một kiếp người qua nhanh như bóng câu vù qua cửa sổ. Qua tuổi năm mươi, “tri thiên mệnh” đã lù lù tới, không muốn tri cũng phải tri, vì cơ thể nó cũng ương bướng lắm kia, nó có phải của mình đâu mà điều khiển được nó.



              Đời là thế, thân phận con người là thế, sinh ra được thì cũng chết được, tôi không hề oán trách Thượng Đế đã sinh ra tôi, vì tôi hiểu giá trị của mình, mặc ai muốn nghĩ sao cũng được. Mỗi người một việc, việc lớn việc nhỏ không quan trọng, tất cả đều có liên quan đến nhau cho guồng máy cuộc đời phát triển không ngừng, không có gì thừa, không có chi thiếu, nếu chỉ sản sinh toàn những tư tưởng lớn, thì ai là người triển khai và phát huy tư tưởng ấy, bởi vậy với những chị em, bạn bè đồng cảnh hay kém may mắn như tôi, tôi không nhìn ai với cái nhìn cỏ rác.



              Hằng ngày, tôi chung đụng với đủ thứ cỏ lác, rau hoang, rau dại, rau thật trong vườn, có đứa thật thà, hiền lành như rau sam, rau diệu, có đứa cũng ích kỷ, giành giựt từng tấc đất như đám cỏ dại, nếu không có lũ trẻ bảo vệ có lẽ tôi cũng khó sống với hạng ấy. Tôi cứ lẩn thẩn khi nghĩ ông trời đã lầm lẫn khi sinh ra cỏ, sau già hơn mới nghĩ ra, hóa ra mình cũng ích kỷ mà không biết, không có cỏ làm sao có lương thực cho trâu bò ăn, chỉ có điều lũ này dễ sống quá, tại trời sinh ra thế chứ có phải chúng muốn vậy đâu.



              Từ lúc được lũ trẻ đem vào gần áng nước, tôi lớn lên trông thấy, mình mây mẩy sức thanh niên. Thỉnh thoảng, lúc thì nước gạo, lúc thì nước rửa rau, bao nhiêu thứ nước thừa thãi dơ bẩn con người hất cả vào chúng tôi. Tôi cảm động quá, thôi thì “cũ người mới ta”, lòng bác ái có thể hiện bằng cách nào thì chúng tôi cũng mang ơn hết, nguyện một lòng tạc dạ ghi ơn, sau này lấy hết sức mình để đền đáp. Qua những lúc được tưới tắm như thế, tôi lớn phỗng lên, tuổi thanh niên mà, ngày còn trẻ chúng tôi cứ tưởng mình quan trọng, cho nên lắm lúc cũng phí sức lực vì những lời tâng bốc hay phỉnh nịnh. Tôi đã nguyện trong lòng, dù chỉ là cây cỏ thì cũng xin cố sức mà vươn lên, rễ tôi bám chặt vào đất, lan tỏa ra cố hút lấy cái tinh hoa của đất trời mà đơm hoa kết trái, hầu trả ơn đời, trả ơn người.



              Cái thằng bé con chủ nhà thật chẳng suy nghĩ gì cả, thỉnh thoảng bí quá nó “tè” đại lên người tôi ướt rượt, cái mùi nước đái ngai ngái, mằn mặn của trẻ con thật khó chịu, nhờ vậy mà tôi lại nghĩ ra được một triết lý nhảm về cuộc đời, ví như làm người cũng có nhiều lúc đắng cay, ngọt bùi, thế thái nhân tình bạc trắng như vôi hay nồng nồng như nước đái trẻ con, thì cũng có chi mà buồn. Tôi biết phận mình nên không hề oán trách ai cả, người ta dùng mình là vì người ta cần dùng, chứ không phải vì ý nghĩ trân trọng một tấm tình hiền lương, chất phác.



              Tôi đơm hoa kết trái vào mùa xuân năm ấy, hoa đã nhỏ, lại đơn giản một màu trắng hơi ưng ửng tím, từng chùm, từng chùm, lũ ong bướm lả lơi đùa cợt, dù sao họ cũng giúp tôi được những phút giây thơ mộng tuổi đầu đời. Cứ tưởng tượng đi khi mình sinh ra là đàn bà con gái, quanh năm quạnh vắng không nghe lời tán tỉnh của phía bên kia, đời chán biết bao nhiêu. Sau đó bọn con tôi ra đời, những quả li ti, bé xíu như đầu đứa hài nhi mới tượng hình trong lòng mẹ. Như bao nhiêu người mẹ khác, tôi chỉ mong các con tôi khỏe mạnh, mau lớn, các con tôi lớn nhanh, đứa nào cũng tròn trĩnh bằnh quả ping pông, quanh năm tứ thời mặc một màu áo. Người ta xử dụng chúng từ lúc đang sung sức, vặt kiệt đến giọt cuối cùng, tùy theo tính tình của người hưởng thụ. Cứ nhìn cách con người xử dụng lũ con tôi thì rõ, gặp người tử tế, rộng lượng thì dùng lấy hương lấy hoa, lúc lọt vào tay bọn keo kiệt thì họ ra sức vắt, chỉ còn hai miếng vỏ ép sát vào nhau dẹp lép. Trong cuộc đời, người ta cũng thường than thở cái câu “vắt chanh bỏ vỏ”, để chỉ những hạng người ích kỷ, tận dụng công sức của người khác cho đến cùng kiệt, sau đó thì không ngó ngàng gì nữa.



              Chủ nhà tôi hể hả lắm, lúc vặt làm nước mắm, lúc pha nước chanh, lúc hái lá bỏ vào nồi ốc luộc cho thơm, khi có con gà luộc cũng thái mấy lá chanh non lên đĩa thịt gà mà ngẫm nghĩ câu “con gà cục tác là chanh”, thơm thì có thơm, lá chanh có ngon quái gì, nếu không nói là đắng nghét. Đời vốn vậy, ăn uống cứ cầu kỳ như anh nhà giàu ăn ngon, mặc đẹp nhưng nếu không có anh đầy tớ ngứa đâu gãi đó, vẫn chưa cho là sướng. Có một chuyện mà tôi ghi nhớ mãi, thằng bé con chủ nhà đêm hôm ấy giá không có quả chanh thì đã nguy hiểm đến tính mạng , nhìn thằng bé nóng sốt thấy rất thương, đêm ấy người mẹ đã chạy ra tìm một quả chanh để vắt nước và chà lên trán cho thằng nhỏ. Lúc ấy nhìn mẹ con người đàn bà, tôi đã cảm động đến phát khóc, dù biết khi người ta phũ phàng dứt một đứa con ra khỏi đời tôi, tôi cũng đau đớn vậy. Sau này, khi những đứa con do máu thịt mình tạo nên, đã đủ sức dâng hiến cho cuộc đời, tôi vẫn không khỏi chua chát nghĩ rằng sự thiệt thòi bao giờ vẫn dành cho cha mẹ, nhưng cha mẹ nào cũng hãnh diện về những đứa con thành đạt, nên người hữu dụng.



              Số tôi hẩm hiu, cái mạch đất mà tôi gọi là quê hương ấy cũng gặp cảnh tang thương, dâu bể. Gia chủ gặp năm thất bát, không trang trải được nợ nần, chạy quanh mấy người láng giềng cũng chả mong được sự giúp đỡ. Trong thời gian này, thấy họ khổ tôi cũng khổ lây, lũ nhỏ bữa đói bữa no đi quanh vườn tìm rau ăn cho đỡ đói, thân tôi chua chát, gai góc thế này không giúp cho chúng nó được chút nào, tôi buồn lắm. Người khổ, cây khổ, đất đai cũng khô kiệt vì nắng hạn, chị mùng tơi cũng ốm mãi rồi lăn ra chết, hai mụ ớt già héo queo, bác xả phất phơ mấy chiếc lá cỏ đùa với gió, trông già xọm đi, y như một cụ già hom hem còn lại nhúm tóc bạc xác xơ trên đầu. Người buồn, cảnh buồn, đất không có người chăm nom tưới bón, đất cũng khô queo như người.



              Một ngày, không nhớ là năm thứ bao nhiêu, nhưng mùa hè năm ấy nắng dữ dội lắm, nắng như nung, gia chủ bỏ nhà ra đi, nhà cửa tan hoang, lũ nhền nhện giăng màn khắp nơi như đưa ma. Bây giờ thì lũ cây cỏ như tụi tôi hoàn toàn rũ xuống, đứa nào không chịu nổi thì chết trước, mạng như mạng cỏ, lúc nào cũng bao phủ một màu tang tóc. Bấy giờ tôi mới thấy sức lực mình dẻo dai, có lẽ một phần tôi đã rèn luyện được ý chí Tự Thắng ngay từ hồi còn thanh niên, ăn uống kham khổ đã quen, dù đất trời có nghiệt ngã đến đâu, tôi vẫn gồng mình chịu. Tôi đau khổ vô cùng trước cái tai trời ách nước, người chủ cũ đã ra đi, vườn tược xác xơ hàng hàng lớp lớp cỏ cây rũ xuống, tôi chạnh lòng nhớ đến tấm lòng nhân hậu của lũ trẻ con mà chảy nước mắt, thôi đành phó mặc cho thân phận mình muốn ra sao thì ra.



              Ai ngờ, tôi cũng được cứu thoát, sau cơn nắng hạn trời đã đổ mưa, có người làm vườn cho một nhà giàu có, một hôm đi dạo xóm đã mang tôi về vì thấy tôi cũng còn có vẻ dẻo dai, chịu đựng. Một lần nữa tôi được họ bứng vào chiếc chậu sành, thế là giã từ đất mẹ. Tuy đã ra đi nhưng gốc rễ tôi vẫn còn một phần không ít đã bám vào mảnh đất quê hương, vì vậy mà những ngày đầu tiên trong khu vườn lạ tôi vẫn chưa lấy lại được sức sống. Còn đâu những ngày chia vui, xẻ buồn với bạn bè nơi thôn xóm cũ, còn đâu anh cải trời hiền lành, còn đâu cái dí dỏm, sâu sắc của mụ ớt hiểm, còn đâu vẻ đẹp mộc mạc, dịu dàng của chị mùng tơi. Tôi bây giờ loanh quanh trong cái chậu chật hẹp, chủ mới xem ra là một người giảo hoạt dù ông ta đã có công mang tôi đến nơi này, cũng là người mà sao người thì ốm yếu, xác xơ, kẻ lại đẫy đà, no cơm ấm cật.



              Tuy sống trong khoảng sân vuông đẹp đẽ tôi vẫn cảm thấy gò bó thế nào ấy, suốt ngày ăn no, tắm mát phởn phơ nhưng tôi vẫn mang cái mặc cảm tù ngục trong tâm hồn. Tôi biết tại làm sao rồi, là vì tôi cứ nhớ nhung cái mảnh đất nghèo khổ nơi tôi chào đời, là vì nơi ấy còn biết bao nhiêu bạn bè bất hạnh của tôi còn đang khổ sở ở đó. Tôi có mượt mà ra nhưng buồn thì vẫn buồn, ít giao thiệp với ai. Có người cho tôi là kẻ lập dị, có người cho tôi là kẻ bất tài vô dụng, thân phận nghèo hèn nay lọt được vào đây là đại hồng phúc. Nhìn mụ hồng tía cứ phởn mãi lên khi được chủ nâng niu, ngắm nghía, độ vài hôm như thế, khi cố giương hết nhan sắc ra thì mụ đã xác xơ trông thấy, dù ngon lành, mỹ miều đến đâu mà tới lúc tàn phai thấy cũng chán chường. Mấy em quất vàng xum xuê dạo trước, nay đã héo quắt lại, mỏn dần rụng lộp độp cả xuống sân. Nhìn nhân tình thế sự mà tôi phát sầu, chung chung là một kiếp tù đày, đời đã ngột ngạt, tù túng trong cái biển khổ mênh mông mà vẫn chưa nhìn ra chân lý của sự đào thải, cứ kèn cựa, hằn học, bon chen với nhau làm gì, nào có tồn tại mãi đâu.



              Tất cả những sinh hoạt của đám hoa cỏ trên mảnh sân này đã mở mắt cho tôi, cái đích thực của sinh, hoại, trụ, diệt diễn ra hằng ngày, âm thầm từng giây từng phút. Sự cống hiến âm thầm của mỗi loài bằng mọi cách, làm cho tôi vô cùng cảm kích cái ý nghĩa cao cả của sự sống.



              Thời gian qua đi, xuân hạ thu đông thay nhau bước tới, thân tôi nay đã già, không còn sinh hoa kết quả, nắng không ưa mưa không chịu, mỗi đợt gió đông lạnh lùng thổi qua tôi lại rùng mình rớt xuống những chiếc lá úa. Cành cây đã khô khóc, mình mẩy tua tủa đầy gai, tôi biết ngày ấy sắp tới rồi, không còn những đứa con bên cạnh, tôi đã dâng hiến tất cả chúng cho đời, rồi chúng lại làm cái vòng luẩn quẩn như tôi, nghĩa là sinh ra để rồi chết. Vẫn biết đời thường “vắt chanh bỏ vỏ”, nhưng sao vẫn hay buồn, ngay cả lũ sâu ăn lá ngày nào đục đẽo tôi, nay cũng bỏ tôi mà đi.



              Một chiều kia, bác làm vườn ngắm nghía tôi để định giá thân phận của một cây chanh già. Không một chút thương tiếc, bác lôi tôi lên bằng những nhát dao sắn xuống lòng chậu, rễ lớn rễ nhỏ gì bật tung cả lên. Một chiều thu gió heo may se lạnh, tôi từ giã cuộc đời, giây phút ấy tôi cũng run lên bần bật, như người sắp chết cũng có lúc oằn lên khi linh hồn ra khỏi xác. Thôi thế là xong, tôi có sống thêm nữa chỉ là sự vướng víu cho kẻ khác, mất một khoảng đất cho những cây non đang cần chỗ.



              Tôi được vứt vào đống cỏ khô, với vô số những thứ khác chờ thiêu hủy. Nghĩa lý gì một kiếp cỏ cây, một mồi lửa, đám cỏ bùng lên, người ta đang hóa kiếp cho chúng tôi, chỉ còn lại đống tro tàn trên nền đất bẩn. Trả lại cho đời nắm bụi tro, linh hồn cây cỏ theo làn khói trắng bay lên trời, mây khói chập chùng, bay là là về cõi hư vô.





              NGUYÊN NHUNG

              Comment


              • #8
                TỪNG GIỌT HƯ KHÔNG

                Nguyên Nhung


                Tiếng chuông chiều chầm chậm thả từng giọt buồn vào không gian im vắng nơi cảnh chùa tịch mịch. Đó là một buổi chiều cuối thu, trời chưa tắt nắng, những vệt nắng còn kéo dài trên rặng liễu úa vàng, rủ xuống thảm cỏ ẻo lả như một cái bóng thướt tha. Hàng cọ vẫn lao xao trong gió chiều rì rào xen lẫn với hồi chuông thầm thì buông, hai con chim đậu trên cây thông chừng sắp về tổ, cũng lặng mình nghe tiếng chuông ngân nga gọi chiều buồn ngơ ngẩn. . .

                Sao cảnh bỗng dưng buồn mà lòng người chừng như tịnh lại. Nơi bậc tam cấp của tháp chuông, một người con gái mặc áo đen, tóc xõa xuống đôi bờ vai, mắt u uẩn nhìn ánh nắng cuối ngày thoi thóp trên bụi trúc đã đổi màu vàng ẩm. Âm vang của hồi chuông thong thả, không rộn rã như tiếng chuông nhà thờ, y hệt từng bước chân đi ngược vào lòng người để tìm ra những ngóc ngách sâu kín của tâm hồn.

                Ngọc đã định ra về khi thấy bóng chiều ngả xuống trước sân chùa, gió chiều càng lúc càng lạnh, tiếng gió rền rĩ cuộn trôi những dải mây tím, bay về một hướng trời xa. Đúng lúc ấy hồi chuông công phu chiều vang ngân nga, khiến nàng đảo mắt nhìn về phía gác chuông. Một cụ già khoảng ngoài bảy mươi, đầu đội chiếc mũ len màu nâu, bộ quần áo màu lam nhạt may lối nhà chùa, một tay cầm chuỗi Bồ Đề đang thì thầm nguyện kinh. Đứng cách đó khoảng mười mét, Ngọc không nghe rõ được tiếng tụng kinh của cụ, nhưng đôi môi ấy mấp máy liên tục. Rồi cứ một khoảng ngắn của thời gian, cụ lại dùng cả hai tay đẩy chiếc chày gỗ mun vào quả chuông đồng vàng xẫm, tiếng chuông lại ngân lên gieo vào không gian im vắng một tiếng thở dài.

                Tiếng chuông buổi hoàng hôn như có một hấp lực thiêng liêng khiến Ngọc bước lần trên thảm cỏ, gần hơn với cái tháp chuông để quan sát ông cụ đang thỉnh từng hồi chuông một. Khuôn mặt ấy toát lên vẻ thành khẩn, như đang dồn hết tâm tư vào lời cầu nguyện, và mỗi một động tác nhịp nhàng của ông có vẻ như đã chìm vào một thế giới khác. Nàng đứng lặng trên bãi cỏ úa, im lặng nghe từng tiếng chuông ngân, không để ý đến một người đàn ông lưng hơi gù, râu tóc bạc trắng cũng đã bước tới đứng im lặng lắng nghe. Lúc nãy Ngọc nhìn thấy ông ta khập khiễng đi đi, lại lại trên sân chùa, nàng tưởng là một người già tàn tật. Khi nàng giựt mình quay lại nhìn, ông ta mỉm cười chào, mới biết đó là người đàn ông chưa già lắm, chỉ trạc độ ngoài năm mươi tuổi, da mặt phẳng phiu tương phản lại với râu tóc bạc trắng của ông ta:

                "Chào chị!"

                Ông ta mỉm cười, nụ cười hiền khiến Ngọc có cảm tình ngay với người đối diện:

                "Chào ông. Tiếng chuông nghe buồn quá phải không ạ?"

                Ông ta gật gù, như xác nhận tại sao ông lại lò mò đến đây đứng cạnh nàng trong lúc này:

                "Vâng, đúng vậy. Tôi biết có đến 108 tiếng chuông mỗi buổi công phu chiều, vì đã nhiều lần đến đây, đã đếm và đã nghe nhưng thật sự chưa hiểu hết được ý nghĩa của từng hồi chuông. Nghe hoài thì cứ tưởng nó vang đi xa, mà sao lại có vẻ đi vào lòng mình, khắc khoải làm sao đó phải không chị?
                Ngọc gật đầu đồng ý với người đàn ông:

                "Tôi cũng có cảm tưởng như thế, dù đây là lần đầu tiên tôi nghe được tiếng chuông công phu vào buổi hoàng hôn. Tôi cũng có cảm giác như những bước chân đi vào từng ngõ ngách của lòng người, bao nhiêu sân si của đời dường như lắng lại. Ông nhìn cô con gái ngồi ở dưới bậc cấp của tháp chuông sẽ thấy, cô ta còn trẻ lắm nhưng tiếng chuông hình như cũng dội vào lòng cô nỗi u uẩn nào đó, khiến khuôn mặt ấy tự nhiên trông dịu dàng, dễ thương chi lạ."

                Người đàn ông đưa mắt nhìn cô gái đang dõi mắt nhìn hai con chim sẻ đậu trên cây thông già, chắc hẳn cô đang hình dung đến tình yêu, và cái bóng lẻ loi của cô gần như toát ra một nỗi buồn đơn lẻ. Im lặng một lát, hình như không thể nào giữ được những khắc khoải trong tâm hồn, người đàn ông tự nhiên thổ lộ:

                "Hình như mỗi hồi chuông lại gieo vào lòng người một cảm nhận khác nhau, chị có nghĩ vậy không. Tôi lại đang hồi tưởng đến cha mẹ mình, mẹ tôi đạo Thiên Chúa, còn cha tôi lại đạo Phật. Hồi trẻ người ta cứ tưởng khi người ta yêu, tình yêu sẽ xóa bỏ những lằn ranh của niềm tin vẫn nằm sâu trong tâm tưởng của mỗi con người, nên cố tin rằng chẳng có gì có thể lớn hơn hai chữ tình yêu. Đến chừng sống chung với nhau một thời gian dài, khi tình yêu lắng xuống, lúc đó người ta mới thấy được sự nghiệt ngã của những niềm tin. Tôi là sản phẩm kết hợp của hai niềm tin ấy, và cũng bất hạnh thay khi thấy cha mẹ tôi không tìm được hạnh phúc, vì họ không nhìn về một hướng như nhau. Càng về già, mỗi người lại càng đi ngược với nhau để tìm gốc rễ của mình, và họ cứ bị dằn vặt mãi không thôi. Tôi. . . "

                Ngọc ngắt lời người đàn ông:

                "Ông cho rằng tôn giáo đã làm khổ con người?"

                Ông ta gật gù cái đầu bạc phơ:

                "Gần như là như vậy, vì chính tôi khi lớn lên, đã từng bị lôi kéo giữa sự giằng co của cha mẹ, của ông bà cô chú hai bên, đến nỗi có lúc tôi đã muốn bỏ nhà ra đi. Và tôi đi thật, tôi bỏ học đi lính để đừng nghe, đừng nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ tôi, để không nghe những câu nói làm tổn thương Phật, Chúa của cả hai bên nội ngoại. Người ta tranh chấp nhau, dành giựt những đứa trẻ từ khi chào đời, bắt đi theo những gì có sẵn mà không cho quyền chọn lựa. Hóa ra con người làm khổ con người, chứ tôi có thấy Phật, Chúa nào hiện lên để phân rẽ con người đâu."

                À thì ra, tiếng chuông chùa buổi chiều nay cũng là dịp để cho người đàn ông xa lạ nói ra được những u uẩn trong lòng ông, lại cũng là dịp may để Ngọc có thể chia xẻ với ông ta những khắc khoải của một người đồng cảnh. Nhưng Ngọc chưa vội nói ra những điều đó, cứ để cho ông ta nói hết cho nhẹ lòng:

                "Chị có nhìn thấy cái chân bị thương tật của tôi rồi chứ gì? Đấy, cũng từ nỗi khổ của chiến tranh mà ra, tôi cũng đâu có quyền chọn lựa, cũng phải đi theo những tranh chấp chính trị cũng do con người đẻ ra nó, nếu con người biết thương nhau, hiểu nhau thì làm gì nên nỗi. Tôi đi lính rồi bị đẩy ra đơn vị tác chiến, được hai năm thì bị thương, may là không phải chống nạng.Tôi đã nhìn ra nỗi khổ của nhân loại đều do con người tạo nên, mình chỉ là nạn nhân. . ."

                Ông ta lại cúi xuống xoa tay vào hai đầu gối, rồi mỉm cười buồn bã:

                "Xin lỗi chị, mấy chục năm rồi mà mỗi khi trở trời tôi lại khốn khổ với vết thương, nó nhức nhối đến không chịu được. Đó là nỗi đau của thể xác mà hậu quả của chiến tranh còn để lại, khiến một người lính như tôi dễ gì quên được cái thời chiến tranh mà mình có dự phần trong đó. Nỗi nhức nhối của tinh thần còn ghê gớm hơn, bàng bạc đâu đó mỗi lần gặp, cứ nghe tiếng chuông nhà thờ hay chuông chùa, là tôi lại nhớ đến cha mẹ tôi. Giờ này đã chết cả rồi, không biết họ có gặp nhau ở một khoảng trời nào đó, thiên đàng hay niết bàn, địa ngục hay hỏa ngục? Thật buồn khi còn sống họ đã làm khổ nhau, ảnh hưởng lây đến con cái. Tất cả những gì ta có trên cuộc đời đều đã ra đi, lắm khi tôi hay nhìn lên trời mà tìm kiếm, nhưng có phải:

                "Ngước hỏi cao xanh, ta thấy được gì

                Cũng chỉ vẫn một "ngàn trùng vĩnh cửu"
                Nghe ông ta đọc hai câu thơ, Ngọc buột miệng khen:

                "Hai câu thơ của ông thật hay, như vậy có phải ông đã nhìn ra cái hữu hạn của vật chất, và cái vô hạn của tinh thần, những điều mình không nắm được bao giờ. Tôn giáo chắc cũng vậy, hay niềm tin của mỗi con người thì cũng bởi ở mỗi con người mà thôi, đau khổ làm gì cho bận tâm."

                Người đàn ông yên lặng nghe tiếng chuông rơi từng giọt trên mái chùa cong, la đà trên những thân cọ vẫn lào xào trong gió. Bỗng nhiên tiếng chuông chiều đã cho Ngọc cảm tưởng thật gần gũi với người đàn ông này, rồi tự hỏi sao không kể cho ông nghe câu chuyện của mình, cũng khắc khoải nhiều năm tháng, cho đến khi hiểu ra được chân lý của niềm tin, tự giải thoát cho mình những niềm đau của tinh thần. Ngọc lên tiếng:

                "Bây giờ tôi kể cho ông nghe chuyện của tôi, để xem chúng ta có một cái nhìn giống nhau về niềm tin Tôn giáo của mình không? Nếu ông bảo rằng ông là nạn nhân sự tranh chấp giữa hai niềm tin khác nhau, nhưng theo như ông kể, sự đau khổ của ông đã tự chấm dứt khi ông nhìn ra vấn đề. Chỉ có cha mẹ ông mới là hai kẻ đau khổ vì họ không tìm ra lối thoát cho nhau. Riêng tôi, cái đau khổ dữ dội hơn, chắc cũng giống nỗi đau khổ của mẹ ông ngày xưa, tôi đã phải chống chỏi một lúc nhiều phía khác nhau, cả gia đình chồng tôi cũng như gia đình tôi, cuối cùng nơi nào tôi cũng chỉ nhìn thấy hỏa ngục."

                Người đàn ông há hốc mồm nhìn người thiếu phụ xinh xắn đứng trước mặt mình, bỗng nhiên mà gặp gỡ tâm sự như một đôi bạn tri âm, tri kỷ.

                "Tình cảnh của tôi còn tồi tệ hơn ông nhiều, vì dù khác biệt niềm tin để gia đình không hạnh phúc, nhưng ông vẫn là đứa con luôn luôn nhận được sự thương yêu của người sinh ra mình. Tôi là một tín đồ công giáo, khi sinh ra cha mẹ tôi đã mang tôi đến nhà thờ để làm phép Rửa Tội. Tôi lớn lên bằng sự giáo huấn màu sắc tôn giáo của gia đình, nhưng đến khi trưởng thành thì thú thật với ông, tôi chịu thua tiếng nói của tình yêu. Tuy phải chấp nhận giải pháp đạo ai nấy giữ, nhưng thật ra tự trong tim tôi, tôi vẫn nghĩ mình bị tước đoạt niềm tin một cách quá đáng. Muốn vừa lòng gia đình chồng, tôi lại gặp sự chống đối của gia đình mình, tồi tệ hơn là vì lý do đó, tôi còn hứng chịu nhiều cay đắng hơn mình tưởng. Đó là một trong những nguyên nhân họ không thương yêu tôi, tìm đủ cách để làm khổ tôi. Đến nỗi những khi tuyệt vọng vì đau khổ, thay vì tôi phải thương yêu họ như lời Chúa dạy, tôi chỉ thêm oán hận, rồi vì cái yếu đuối của con người, lắm lúc tôi chỉ cầu sao cho họ gặp điều không may xứng đáng với nỗi khổ mà người ta trút lên đầu tôi. . . "

                Ngọc nở một nụ cười buồn bã, trong khi người đàn ông có vẻ ngỡ ngàng lắm trước nỗi đau khổ của thiếu phụ, ông ta lúng túng chưa tìm được lời ủi an cho người bạn mới:

                "Thật đáng tiếc, hóa ra tôi đã vô tình khơi dậy nỗi đau của chị. . ."

                Ngọc xua tay, nàng tiếp tục câu chuyện:

                "Không có gì ghê gớm đâu, vì tôi chưa nói hết câu chuyện nên ông chưa biết tại sao đến một lúc tôi không còn cảm thấy đau khổ nữa. Quay ra quay vào, chỗ nào tôi cũng không tìm ra lối thoát, điều ấy lại còn ảnh hưởng đến hạnh phúc trong gia đình, có lúc tôi cảm thấy tình yêu vợ chồng bị rạn nứt. Với những trở lực trong đời sống thường ngày, sự giáo dục con cái cũng là một vấn đề khi người lớn lý luận niềm tin ngược chiều nhau, gia đình bỗng rời rạc và đến lúc chẳng biết mình là ai, như thế nào nữa. Tôi đã sống trong cảnh đời u buồn đó nhiều năm dài mà không thoát ra được, tôi đã phí hết một đời thanh xuân của mình chỉ vì những ray rứt mơ hồ đó.

                Ngọc thở dài, những cành lá cọ vẫn xào xạc theo tiếng chuông rền rĩ:

                "Nhưng thưa ông, tôi đã lục lọi trong lòng mình những lý do để hiểu tại sao người ta không thương yêu nhau, đặt niềm tin nơi nhau hay cùng nhau nhìn về một hướng, thì quả thật đơn giản là chính con người làm khổ nhau, chứ không có Phật, có Chúa nào nhúng tay vào để phân rẽ. Chưa ai nhìn thấy Chúa, chưa ai nhìn thấy Phật, chẳng qua sự tin tưởng dẫn đưa con người đi vào ảo giác của niềm tin, và vì thế khiến họ nhìn thấy tất cả, niềm tin càng mãnh liệt hơn. Rồi từ đó cho rằng chỉ có mình đúng, mình thật, còn ai khác họ là sai, đến nỗi Phật Chúa là những vị vô can trong cách suy nghĩ, dàn dựng của con người, cũng bị họ chê bai, khích bác."

                Nét mặt Ngọc lúc ấy hẳn cương quyết lắm đến độ người đàn ông dường như cũng nín thở để lắng nghe. Vẫn chỉ mình Ngọc tiếp tục câu chuyện của mình:

                "Thưa ông, khi khoa học đã tiến bộ, người ta tìm được nguyên nhân của nhiều vấn đề, nâng cao dân trí cho con người thì chuyện tôi tự giải quyết cái đau khổ của mình cũng không có gì lạ lắm đâu. Nhiều đêm không ngủ được, có khi khóc thầm một mình, tôi đã có lúc tự hỏi không biết Thượng Đế sinh ra con người hay con người tạo nên Thượng Đế. Người Mỹ họ bảo có bao nhiêu "Gods" trong cuộc sống, cái chính là mình đi tìm được ông "God" của mình mà thôi. Sau nhiều lần oán trách Trời rồi oán trách người, càng suy nghĩ tôi mới thấy dần dần lòi ra cái ích kỷ của chính mình và cả của người khác nữa, đến nỗi tôi lại bật cười một mình khi nhìn ra sự mâu thuẫn đó. Người ta có khuynh hướng chống những gì đi ngược với mình, và chẳng qua cái khổ của tất cả mọi thứ trên cuộc đời này chỉ có vậy."

                Tiếng chuông vẫn rền rĩ tan vào hư không, có lúc như bay tuốt lên trời xanh để nhập vào thế giới của Tiên Phật, có lúc như chìm xuống đáy vực đến với những linh hồn tự cõi u minh. Chuông vẫn là chuông nhưng cảm xúc của lòng người thì vô hạn, bởi vậy tùy theo tâm mà nghe được hồi chuông để tỉnh thức. Người đàn ông ngước mắt nhìn theo dải nắng chiều se sắt, kéo trên rặng liễu rớt xuống tới mặt cỏ, đọng lại đó một chút buồn mênh mang. Ông ta cắt nghĩa thêm về những tiếng chuông:

                "Có tới 108 tiếng chuông cho buổi công phu chiều, nhưng thực ra nó chỉ gom lại có hai điều, đó là sự bình an và giải thoát. Nó không thuộc về thế giới của thần linh, mà vẫn là sự vỗ về những hương linh đau khổ. Nó chẳng là của người sống mà còn là của người chết nữa. Nếu mình nghĩ xa hơn thì tiếng chuông chiều như một làn khói tỏa, một bếp lửa hồng, xoa dịu được sự cô quạnh cho tâm hồn đỡ đơn độc. Có lẽ cũng trùng hợp với câu chuyện của chị, khi người ta cảm thấy bình an thì tức khắc sẽ có được sự giải thoát, chị có nghĩ vậy không?"

                Ngọc gật đầu :

                "À thì ra nó cũng có điểm trùng hợp với câu "Love God and love others", nhưng ít ra tôi cũng phải kể hết cho ông nghe để mình có thể kết luận rằng hạnh phúc hay đau khổ là do con người tạo nên. Nhiều năm dài trôi qua, khi hiểu ra điều đó là tôi biết tự tôi đã làm khổ tôi, và vì một lẽ nào đó khi tôi ước ao sự đau khổ đến cho người khác, tôi đã tự tạo cho mình hỏa ngục mà không hay. Mãi đến khi nghe được câu "Thiên Đàng tại tâm, Hỏa ngục cũng tại Tâm" của một vị lãnh đạo tinh thần, tôi đã hiểu cuối cùng thì những dòng sông đều chảy ra biển. Tại sao loài người lại phải dằn vặt nhau về vấn đề tôn giáo, trong khi đã từng được học hỏi về đủ thứ tốt đẹp của nó. Đôi khi ngồi ngắm nhìn chân dung Chúa, tôi tưởng đôi mắt nhân từ kia cũng chỉ nhìn tôi bằng sự hiền từ nhân ái, làm sao có thể nhận lời tôi để giáng tai họa xuống cho người khác. Tôi nhìn lên tượng Phật, Ngài cũng mỉm cười suốt ngày và suốt đêm, khuôn mặt "an nhiên tự tại" ấy đâu phải được sinh ra để đem đau khổ cho nhân loại. Chỉ con người, với cái tâm ích kỷ, lòng đố kỵ và tham vọng thích thống trị người khác mà gây nên tội ác. Đó chỉ là phạm vi nhỏ hẹp của gia đình, lớn rộng hơn như tầm cỡ quốc gia thì tai họa ấy vô cùng khủng khiếp, bằng chứng những cuộc chiến tranh vì tôn giáo vẫn còn hằn vết trong lịch sử nhân loại, vẫn còn tiếp diễn và tiếp diễn..."

                Khi cả hai cùng nói ra được những khắc khoải đó, dường như họ đều cảm thấy tâm hồn thật nhẹ nhõm, như vừa cởi được chiếc áo chật hẹp mà tâm hồn họ đã phải mặc từ hồi còn rất trẻ. Những tiếng chuông ngân cuối cùng như rời rạc hơn, nhẹ hơn, bay xa hơn, vút lên cao rồi rơi xuống lòng người để rồi tan loãng vào với hư không. Ngọc mỉm cười như nói với chính mình thôi:

                "Cuối cùng, điều lớn nhất là mình làm sao sống ngay thẳng với lương tâm mình, cái Đạo Tâm hình như vượt lên trên tất cả."

                Nghĩ ngợi mãi nên cả hai đều không biết là hồi chuông chiều đã tắt lịm tự bao giờ. Người đàn ông lại cúi xuống xoa hai đầu gối, vết đau cũ vẫn còn đó, không cho ông ta đứng lâu hơn. Chẳng còn gì để nói nữa, ông ta chào Ngọc rồi khập khiễng bước đi. Những bước chân xiêu vẹo đẩy cái lưng oằn xuống với tuổi đời chồng chất, như một cái bóng thấp thoáng sau những lùm cây thấp.



                NGUYÊN NHUNG, 2005

                Comment


                • #9
                  GIẤC MƠ ĐÊM GIÁNG SINH

                  Nguyên Nhung






                  Xếp cuốn truyện lại trước ngực, Danny lim rim đôi mắt đen tròn dưới hàng mi cong, lòng nó lâng lâng với câu truyện của cô bé bán diêm trong đêm Giáng Sinh. Thằng nhỏ thì thầm nói một mình:

                  “Cuối cùng thì Thượng đế cũng làm phép lạ”.

                  Danny tưởng tượng buổi sáng một ngày giáng sinh nào đó, cô bé bán diêm nằm bất động bên hang đá Chúa Hài nhi, với những cành trạng nguyên ngọn lá màu đỏ thắm, như những hình ngôi sao đêm sinh nhật. Linh hồn cô bé đã được các thiên thần mặc áo trắng nâng niu đưa về Trời, còn món quà Giáng sinh của cô dâng cho Chúa Hài nhi giữa một trời đông giá, đã nẩy ra những ngọn lá đỏ tuyệt đẹp.

                  Cứ yên lặng như thế, thằng bé tưởng tượng thêm. Một đoàn người ăn mặc đẹp đẽ, buổi sáng lễ Giáng Sinh kéo nhau đến nhà thờ, đã chứng kiến cái chết thật an bình của cô bé bán diêm nghèo khổ bên cạnh hang đá. Chúa làm phép lạ để nẩy lên những chiếc lá đỏ trên ngọn cành cây cô bé còn cầm trên tay, mặc dù những chiếc que diêm còn lả tả trên nền đất khô lạnh. Những ánh lửa nhỏ nhoi đem đến cho cô bé niềm hy vọng, phép lạ đến quá trễ cho một cô bé nghèo khổ, hay bao giờ lòng nhân ái cũng thật muộn màng cho những cảnh cùng khốn. Với cái đầu ngây thơ của Danny, câu truyện ấy đã nẩy lên trong lòng chú một ao ước. Chú nghĩ:

                  “Giá Thượng đế ban cho mình một phép lạ, thì mình sẽ dâng cho Thượng đế tất cả những gì mình có”.

                  Đêm Giáng sinh năm nào, có một cô bé bán diêm nghèo khổ co ro bên lề đường. Trời lạnh lắm, trong chiếc áo mỏng bẩn thỉu cô bé đã cóng cả người, và cô đã dùng những que diêm để sưởi ấm, cũng như để thắp riêng cho mình những ước mơ. Danny chỉ mới chín tuổi, nó không nghĩ đấy là một truyện được viết ra bởi một đầu óc tưởng tượng của nhà văn, cậu nghĩ đấy là một truyện thật, lần đầu tiên tâm hồn bé thơ của cậu đã hình dung ra cái khổ của đồng loại.

                  Danny là đứa con cưng trong một gia đình giàu có, lại rất xinh đẹp cho nên từ lúc sinh ra cho đến bây giờ, cậu chưa hề bị thất vọng một điều gì, khi xung quanh cậu đầy những dư thừa và yêu thương. Không ai dám làm khổ một đứa bé như cậu, vì Thượng đế dường như đã an bài cho cậu một cuộc sống như thế, không biết có bất công khi đối với những đứa bé nghèo khổ, sống trong cảnh bữa đói bữa no, áo quần không lành lặn.

                  Tuy vậy, cuộc sống của Danny buồn chán lắm, vì hầu như những thứ no đủ ấy đã giết chết niềm ước mơ trong lòng cậu, như người lúc nào cũng no nê, không cảm được mùi vị thơm tho và ngọt ngào của những món ăn. Trời vẫn phú cho Danny một tâm hồn khá nhạy cảm, để khi đọc xong truyện "Cô bé bán diêm", thì nó có ngay cái ước ao sẽ trở nên nghèo khổ như thế, để ít ra cũng thấy được cái thi vị của niềm mơ ước, và sự lạ lùng của phép lạ.

                  Nhìn những món quà được chất đầy dưới gốc cây Giáng sinh trong góc phòng, cậu không cảm thấy rộn rã như ngày còn bé tí, vì biết rằng không phải chỉ cần đến ngày lễ Giáng sinh, cậu mới được những thứ ấy. Những ánh đèn đủ màu chớp tắt trên cây Giáng Sinh, những sợi kim tuyến óng ánh rủ xuống làm tăng thêm cảnh huyền ảo nơi hang đá Bê Lem, Danny chưa hề nhìn thấy sự nghèo nàn của gia đình Nazareth, như những bài trong Kinh thánh tả lại năm xưa.

                  Danny nhắm mắt lại, cậu mơ màng nghĩ đến phép lạ. Để rồi trong giấc ngủ đêm Giáng sinh, trong căn phòng ấm cúng, Danny đã thiếp đi với một giấc mơ tuyệt vời, khi cậu được một lần đối diện với chân dung, con người của Đấng Cứu Thế.

                  * * *


                  Danny mơ thấy mình mặc quần áo đẹp, từ trên xe bước xuống với một giỏ quà nặng trĩu trên tay, cậu đi tìm Chúa để xin một phép lạ. Sau Thánh lễ nửa đêm, mọi người đã về hết, họ đang hân hoan bên nhau trong những bữa tiệc đêm Giáng sinh đầy thịt béo, rượu ngon. Dưới chiếc cột tối trước nhà thờ chỉ còn hai ba người hành khất, họ co ro trong mảnh chăn rách và bẩn, chờ buổi lễ sáng để ăn xin lòng nhân đạo của những người tử tế.

                  Không biết sao cổng nhà thờ vẫn mở, và Danny cứ thế bước nhanh vào khung cảnh huyền ảo giữa những chiếc đèn ngôi sao bằng giấy, treo lủng lẳng dọc theo các bức tường xung quanh nhà thờ. Trước khi bước vào đây, Danny đã phải vượt qua cái bóng của hai người ăn xin ngồi trước giáo đường, nó cảm thấy lợm giọng khi gió khuya phả vào khứu giác một mùi hôi bốc ra từ những chiếc chăn bẩn, và tiếng van nài xin xỏ giữa đêm khuya thanh vắng. Họ đã đánh hơi thấy mùi thơm của những chiếc bánh nướng thơm lừng trong tay Danny, chú gọi đó là " Món quà cho Thượng đế". Một món đồ chơi tuyệt hảo rất đắt tiền, một bó hoa hồng còn ngậm sương đêm, những chiếc bánh thơm mùi bơ sữa và nhân táo, Danny định đem đến dâng cho Chúa và đánh đổi lấy một phép lạ.

                  Người đàn bà nghèo khổ và đứa con trai lết đến, miệng không ngớt van vỉ:

                  “Xin cậu bố thí cho người nghèo khổ. Ôi! Sao thơm thế, một chiếc bánh cho thằng con trai tôi, nó vừa đói vừa lạnh, giữa đêm Chúa sinh ra đời”.

                  Danny vội vàng đi nhanh lên khoảng sân trước cửa nhà thờ, cậu tỏ vẻ bất bình khi có người dám phiền đến mục đích của mình. Cậu gắt lên:

                  “Ô hay bà già lẩm cẩm, đây đâu phải những món dành cho mẹ con bà. Đây là quà dành cho Thượng đế, bà hiểu chưa?”

                  Người đàn bà như đã hiểu, buồn rầu nhìn giỏ quà của Thượng đế, rồi lui vào một hốc tối. Bà im lặng. Đúng, không có gì dành cho mẹ con bà, người ta có thể dâng cho Chúa nhiều thứ, như người ta để dành những thứ quí giá đem tặng cho những người quyền quí. Trong lúc ấy, Danny tiến thẳng vào hang đá Bê Lem được trưng bày trong góc phải của cung thánh, nơi gia đình Chúa Hài nhi được ngự trị ở đó. Mắt Danny như biến ảo lạ lùng, những bức tượng gia đình Thánh gia xinh đẹp như sống động cả lên, rõ ràng thì thằng bé đã nhìn thấy Giêsu bé nhỏ đang cựa quậy dưới lớp chăn đơn trong máng cỏ. Cậu sững sờ, quỳ thụp xuống trước hang đá và đưa tay sờ vào bàn chân mũm mĩm của Giêsu. Từ đôi môi rất xinh đẹp của Hài nhi trong máng cỏ, Giêsu bật lên tiếng cười trẻ thơ. Danny nghe tiếng chào thật êm ái:


                  “Chào bạn, bạn tên gì?”

                  Danny lắp bắp, nó cảm thấy một niềm hân hoan tràn ngập trong lòng:

                  “Ôi lạy Chúa, ngài cũng biết nói ư?”

                  Nó thì thào tiếp:

                  “Danny mang đến cho Chúa nhiều quà lắm, những món quà mừng ngày sinh nhật, những đồ chơi, những chiếc bánh ngon, những bông hoa đẹp nhất.”

                  Giêsu cười thật ngây thơ:

                  “Để làm gì nhỉ? Nằm trong một hang đá với bao nhiêu ánh đèn giăng mắc xung quanh, ta nóng đến không chịu nổi. Cả những sợi giây kim tuyến vắt ngang vắt dọc, những thứ ấy trông vui mắt nhưng cũng chóa mắt lắm. Ôi! Hang Bê Lem của loài người hôm nay, khác hẳn hang Bê Lem của hai ngàn năm trước. Mẹ của ta không má phấn môi son, cha của ta chỉ là người thợ mộc nghèo khổ, khi ta sinh ra trong một túp lều, làm gì có những thứ này. Bây giờ bạn cho ta nhiều đồ chơi, ta biết làm gì với những thứ đó?”

                  Danny thì thầm mặc cả, như thói quen của loài người vẫn hay thì thầm xin xỏ:

                  “Ôi! Lạy Chúa, Danny chỉ muốn Ngài cho Danny một phép lạ, như phép lạ những chiếc lá đỏ trên cành cây của cô bé bán diêm nghèo khổ. Đây là những món quà của Danny trong dịp Sinh nhật Ngài, Danny sẵn sàng dâng hết cho Ngài để xin một phép lạ”.

                  Chúa Giêsu mỉm cười, hỏi Danny:

                  “Trước khi vào đây, bạn có gặp ai không?”

                  Danny gật đầu:

                  “Thưa Ngài có, một đứa bé rách rưới, một người đàn bà đói ăn.”

                  Giêsu nhìn vào mắt Danny:

                  “Vậy bạn đã làm gì cho họ?”

                  Danny tỏ vẻ bối rối:

                  “Nhưng... lạy Chúa! Danny không thể cho thằng bé chiếc áo đẹp của mình, và những chiếc bánh ngon là để dành cho Chúa, không phải để dành cho mẹ con bà kia.”

                  Chúa Giêsu lắc đầu một cách tuyệt vọng:

                  “Chao ơi! Những gì bạn dành cho những người bất hạnh ấy, chính là những gì bạn dành cho ta, vì ta yêu thương những kẻ đó.”

                  Danny định quày quả đi ra cửa nhà thờ tìm hai người ăn xin như lời của Giêsu, nhưng Chúa đã lên tiếng:

                  “Muộn rồi Danny, hai người ăn xin ấy là hai thiên thần giả dạng ăn xin để thử lòng bạn, họ đang đứng hai bên hang đá và đang mỉm cười với bạn đấy. Chần chờ, tính toán trước một việc thiện, tất cả đều không có ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa. Không thể đánh đổi bất cứ điều gì để lấy một phép lạ, vì hai ngàn năm trước, ta đã làm một số phép lạ, rồi từ đấy loài người chỉ trông cậy nơi ta bằng phép lạ, tin ta bằng phép lạ.”

                  Danny thảng thốt kêu lên tuyệt vọng:

                  “Ôi ! Lạy Chúa, sao lại như thế? Một con bé bán diêm nghèo khổ, đã đem đến dâng Ngài những nhánh cây bẻ dọc ven đường, đáng gì đâu mà Ngài cũng làm một phép lạ cho nó. Tại sao Chúa không cho Danny một phép lạ, khi Danny đã dâng cho Ngài tất cả những thứ đẹp nhất, ngon nhất đêm nay...”

                  Giêsu buồn rầu nhìn cậu:

                  “Chính vì thế mà phép lạ chỉ có nơi những người có niềm tin vào Thượng đế, chính niềm tin là phép lạ, cho từng con người, cho từng hoàn cảnh, tự họ đã cảm nhận được phép lạ khi họ kết hợp được với thượng đế đang hiện diện trong đời sống của họ. Ta chỉ cần một tấm lòng, một tấm lòng phát xuất từ trái tim nhân ái, như Cha ta trên trời đã ủy thác cho ta đem yêu thương gieo rắc sự bình an cho nhân loại. Bạn có biết khi bắt ta làm phép lạ, là bạn đã vô tình hạ ta xuống, bởi vì Satan cũng làm được những điều đó cho con người nông nổi, chỉ xin xỏ những điều vật chất, như công danh, sự nghiệp, như sức khỏe và nhiều thứ khác. Hằng ngày, Cha ta đã phải nghe biết bao điều xin xỏ, tất cả chỉ là sự mặc cả, sao con người lại nhìn Thiên Chúa của mình với một cái nhìn tầm thường như thế?”

                  Danny ngạc nhiên kêu lên:

                  “Ô hay, sao lại là một sự mặc cả?!?. Thưa Ngài, Danny không làm sao hiểu nổi...”

                  Giêsu cười khúc khích, Chúa đùa như một đứa trẻ thơ:

                  “Đúng vậy, khi người ta bảo ai làm việc thiện, bao giờ cũng tự hứa hẹn cho mình một sự trả công từ Thượng Đế. Sao lại thế nhỉ? Cứ cho đi là nhận lại, sao lại o ép, mặc cả với Thiên Chúa khi làm điều gì cho anh em. Như bạn, nếu lúc nãy cho người ăn xin nghèo khổ một chiếc bánh, để đòi hỏi ta làm một phép lạ cho bạn, thì đúng là bạn đang đặt điều kiện với ta đấy chứ!”

                  Danny cúi mặt xấu hổ, cậu đã hiểu phần nào ý của Chúa. Nó rên rỉ kêu lên:

                  “Ôi lạy Chúa! Danny đã hiểu rồi, vì hằng ngày Danny vẫn nghe ba mẹ nói, con làm thế này thì sẽ được thế nọ, và Danny chỉ nghĩ tất cả là một sự đổi chác.”

                  Tiếng Giêsu thì thầm, Ngài kể lể:

                  “Còn nhiều điều mà vì bạn còn quá nhỏ để không hiểu hết. Hằng ngàn năm nay xảy ra bao nhiêu chuyện chinh phục, chém giết, căm thù nhau, người ta cũng bảo vì ta. Ôi! tội nghiệp cho ta quá, ta không hề tham dự vào những việc kinh khủng như thế. Bất cứ ai biết ta, hoặc không biết về ta, nếu ở họ có một trái tim nhân ái là ở đấy có ta, khi ta hiện diện trên thế gian để bảo cho mọi người biết về lòng yêu thương, thì không lý gì lại can dự vào những việc xấu xa như thế. Điều ấy đã làm ta đau khổ mãi...”

                  Danny trố mắt ngạc nhiên, cậu chưa làm sao hiểu nổi những gì Chúa nói, như không hiểu hết được con người của trần gian. Giêsu vẫn tâm tình với cậu như một đôi bạn nhỏ:

                  “Ta rất cần tâm sự với bạn, vì ta cô đơn quá. Hai ngàn năm nay loài người không hiểu hết những lời ta nói, những việc ta làm, cho nên bản chất của Thiên Chúa đã được suy diễn đi theo nhiều lối khác nhau. Phép lạ vẫn xảy ra hằng ngày mà Danny không để ý, như hạt lúa được ủ xuống đất, phải thối đi để mọc lên cây mạ non, rồi sinh sôi nảy nở ra bao hạt lúa khác, nuôi sống mọi người.”

                  Danny nhướng mắt nhìn Giêsu, cậu thật khó khăn để hiểu những gì Chúa nói, Giêsu lại nói với cậu một cách giản dị hơn:

                  “Dễ hiểu thôi bạn. Hằng ngày, bạn đi học, bạn có thấy những cây hoa mọc trên lối đi của mình không? Mới vài hôm trước, bạn còn thấy nó vừa đơm mấy cái nụ nhỏ, hôm nay đã nở những đóa hoa xinh. Phép lạ đấy, xảy ra hằng ngày, trong mọi vật, trong lòng mỗi người khi ta nhìn nó với cái nhìn đẹp, vì khi sự bình an đi kèm theo niềm tin, thì ở đâu quanh ta cũng là những mầu nhiệm.”

                  Danny hiểu, cậu gật đầu, có lẽ những lời Chúa nói đã trở thành những đóa hoa tư tưởng trong lòng cậu, vì Danny đang thực sự tiếp xúc với một Giêsu rất đơn sơ và đầy lòng nhân ái. Chúa Giêsu cũng cười, lâu lắm Ngài không tìm được một tâm hồn trong sáng như thế, có lẽ cả hàng ngàn năm, trăm năm sau cái chết của Ngài:

                  “Để ta kể bạn nghe vài câu chuyện vui. Trong một nhà thờ kia, một đứa nhỏ trong buổi kinh chiều vào mùa chay, buổi lễ thì kéo dài cho nên vì thế mà nó đã ngủ gật, thằng bé được đánh thức dậy và người ta cho nó biết nó vừa phạm tội ngủ gật trong nhà thờ. Đứa nhỏ tức khắc mang mặc cảm một kẻ tội lỗi, rồi nhìn Thiên Chúa qua hình ảnh một ông già nghiêm khắc, ác độc. Ngày hôm sau, cậu phải đi xin vị linh mục tha thứ cho cậu cái tội ngủ gật trong giờ cầu nguyện. Ta không bao giờ muốn gieo rắc cái ý nghĩ quái đản ấy vào đầu một đứa trẻ thơ, khi nó chưa ý thức tội là gì. Cậu bé ngủ trong nhà thờ vì cơ thể bé nhỏ đó mệt mỏi, vì những kinh nguyện trầm trầm, êm êm như tiếng mẹ ru, chứ đâu có thể nghĩ nổi đấy là tội.”

                  Trong lúc Danny yên lặng lắng nghe những lời tâm tình của Giêsu, Chúa Hài Nhi lại tiếp tục kể cho cậu bé nghe những mẩu chuyện nhỏ khác:

                  “Này bạn ạ, có những tâm hồn dễ thương, những việc làm dễ thương, như câu chuyện của cô bé trong “Cánh Buồm Đỏ Thắm” cứ làm ta ngẫm nghĩ mãi. Ở một làng quê xa xăm kia, có một gia đình thật là đáng thương, có một cô bé chỉ bằng trạc tuổi bạn bây giờ. Cha của cô là một thủy thủ phải xa nhà luôn luôn, mẹ cô yếu đuối nên hay bị người ta ức hiếp, và cuối cùng người đàn bà xinh đẹp ấy đã chết vì dầm mình trong tuyết lạnh, để đi vay tiền mua thuốc cho cô con gái đang bị sưng phổi. Cuối cùng bà ta đã chết, và người chồng trở về ôm đứa con thơ bé bỏng của mình, trong nỗi cô độc vì bị dân làng khinh rẻ. Danny có biết rằng hai cha con người kia không hề đi đến nhà thờ, vì họ không thể hòa nhập được với đám dân làng đầy những thành kiến với họ. Mỗi ngày cô bé vẫn cầu nguyện với Thượng Đế như những gì mẹ cô đã dạy. Cô chỉ nhìn thấy Chúa là một người rất bận rộn, vì hình như cô biết thế gian này họ chỉ chạy đến để xin xỏ, và vì thế cô không dám làm phiền đến thì giờ của Chúa. Mỗi buổi sáng khi thức dậy, cô chỉ mỉm cười nói đơn giản “Chào Chúa, con đã dậy!”. Và mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, cô bé cũng chỉ nói “Chào Chúa, con đi ngủ!”

                  Chúa Giêsu lại mỉm cười nhìn Danny, trong khi cậu lim rim đôi mắt lắng nghe:

                  “Chỉ vậy thôi, Danny. Có bao giờ cô bé bắt Ta làm phép lạ như Danny đang đổi chác với Ta bằng những món quà thế gian tầm thường kia đâu. Hãy đến với ta những tâm hồn bé thơ, hãy ngủ đi một giấc thật bình yên hơn là bắt ta phải nghe những lời van nài, xin xỏ đủ thứ trên cuộc đời. Tất cả những gì Thượng Đế ban cho mọi người, sẽ không bao giờ có sự đổi chác trong đó, vì lòng thương xót của Thượng Đế dành cho con người, hay giữa con người với nhau không có giá. Ôi! Ta kinh khiếp những đồng tiền của thế gian, kể từ khi Giuda bán ta lấy ba mươi đồng bạc, và cả lúc ta xua đuổi bọn mua bán, trục lợi ra khỏi đền thờ, vì đã biến nhà cha ta thành ô uế. Cái gì đã làm cho ta một mình chống chỏi với một đám đông như thế, đã chết một cách nhục nhã như thế...”

                  Danny rươm rướm nước mắt, và bỗng nhiên cậu bật lên khóc thảm thiết. Không biết trong giấc mơ Danny đã khóc như thế nào, khi mẹ cậu đánh thức con dậy thì vẫn nghe tiếng khóc thút thít của con, và nước mắt đã ướt đầm một bên gối.

                  Mẹ Danny ôm con vào lòng, có lẽ bà tưởng cậu vừa trải qua một cơn ác mộng. Cho đến khi Danny tỉnh hẳn giấc chiêm bao, mẹ cậu âu yếm hỏi con:

                  “Con sợ lắm phải không? Sao con lại khóc?”

                  Danny lắc đầu, cậu im lặng, như vẫn chìm đắm với hình ảnh Giêsu bé nhỏ trong giấc mơ, cậu thổn thức:

                  “Không, con nằm mơ gặp Chúa, và con khóc vì những điều Chúa kể lể.”

                  Mẹ cậu an ủi:

                  “Đấy là điều hạnh phúc Chúa cho con, nhưng Chúa kể gì mà con lại khóc.”

                  Danny ngập ngừng, rồi cậu nói với mẹ bằng một giọng chân thành nhất:

                  “Chúa nói rằng không có phép lạ, đừng tìm Chúa bằng phép lạï. Chỉ có tình yêu thôi.”

                  Rồi cậu nhắm mắt lại, trong khi mẹ cậu không làm sao hiểu nổi sự mầu nhiệm của giấc mơ, trong lòng đứa con trai yêu dấu của mình.

                  * * *

                  Sau giấc mơ đêm Noel, một phép lạ đã xảy ra với Danny, cậu bé mười tuổi sinh trưởng trong một gia đình giàu có: đó là tấm lòng biết yêu thương mọi người.

                  Danny không bao giờ còn tơ tưởng chuyện phép lạ từ Thượng Đế, nhưng từ đấy, mỗi khi làm được điều gì tốt lành cho chính bản thân, hay cho mọi người, Danny thấy tình yêu nở hoa trong lòng cậu, điều ấy làm cậu vui sướng hơn cả.

                  Những ngọn lá đỏ trong huyền thoại đêm Giáng Sinh năm xưa, hay những đóa hoa tươi thắm cứ mỗi ngày một nhiều trong tâm hồn cậu bé. Phép lạ vẫn xảy ra hằng ngày, khi trái tim yêu thương biết chia xẻ hạnh phúc chan hòa cho nhân thế.



                  Cầu một mùa Giáng Sinh An Hòa.

                  NGUYÊN NHUNG

                  Comment


                  • #10
                    GIẤC MỘNG ĐÊM XUÂN

                    * Đôi lời của người viết:

                    Một mùa Xuân , tôi có ý định đem vứt đi cây Quất già trồng trước cửa, nhưng lần lữa nửa muốn nửa không. Tôi nói điều đó với chị tôi, chị bảo: “Hoa không phụ người sao người lại phụ hoa”. Vì câu nói ấy tôi vẫn giữ cây lại. Lạ lùng thay, buổi sáng mùng một Tết, tôi bước ra hiên và xung quanh tôi thoang thoảng mùi hương thơm từ những chiếc hoa xinh xinh màu trắng, với những chiếc lộc non trên cành quất xác xơ. Đó là lý do tại sao tôi đã viết câu chuyện “Giấc Mộng Đêm Xuân”.

                    Nguyên Nhung.






                    Năm nay Xuân về, Tết đến muộn, đã bước qua tháng hai Dương lịch nên tiết trời thật là ấm áp. Mùa Xuân đã trải những vạt nắng hồng trên sân cỏ còn ướt sương, bầy chim cũng thức dậy hót líu lo trước hiên nhà mỗi buổi bình minh.



                    Trước Tết độ nửa tháng, Nguyễn, chủ nhân căn chung cư hai phòng ngủ, nhưng hàng hiên rất thoáng và rộng, đã dọn dẹp mớ cây cảnh trong những chiếc chậu sành tráng men trước cửa nhà. Tuy chưa đến tuổi điền viên, nhưng mỗi ngày đi làm về, chăm chút mấy cây kiểng cũng là thú vui của Nguyễn, đỡ phải nghĩ ngợi chuyện đời vốn vui ít, buồn nhiều.



                    Sống cảnh đời cô độc, không vợ không con, không họ hàng thân thích, Nguyễn đã quen dần với cái cô độc, tĩnh mịch của tâm hồn. Có lúc chàng cũng nghĩ đến chuyện ở chung với một người bạn nào đó, chia nhau chút tiền điện, tiền nước hằng tháng, nhưng chàng lại vội thôi ngay, vì chỉ sợ sẽ đánh mất cái tự do được yên tĩnh sống một mình. Có khi chàng tự chế giễu mình, “lòng mình còn không hiểu nổi huống chi lòng người”. Đây chỉ là lối an ủi của người sống mà không biết rằng mình đang sống, đau mà cố quên rằng lòng mình đang đau.



                    Năm nay tự nhiên Nguyễn có ý định cần phải thay đổi một cái gì, khi nhìn những chậu cây chàng trồng trước cửa. Hai cây thông đất khỏe mạnh tươi tốt, bất chấp sự thay đổi của thời tiết, mấy giò phong lan đang trổ hoa rất đẹp dù không được tưới tắm bao nhiêu. Giống này rất lạ, không ưa nước, Nguyễn tưởng sự chăm sóc sơ sài của mình thì chẳng hoa nào sống được, vậy mà giờ này nó vẫn đơm hoa. Riêng cây quất nom có vẻ cỗi, cách đây bốn năm cũng vào dịp Xuân về, vợ chồng người bạn đã mang tặng chàng, với nhã ý đem cái sung túc, xum xuê, tươi thắm của cây cỏ để chàng khỏa lấp phần nào nỗi hiu quạnh. Hai năm đầu chàng còn chăm tưới bón, nhưng đến mùa Xuân thứ ba chỉ còn lác đác dăm quả vàng óng trên cành cây xơ xác cằn cỗi, nhìn rõ mà phát chán. Nắng hè hừng hực rồi mùa đông giá rét đã cướp dần sinh lực của cây, như người con gái chỉ vui có một mùa cưới, rồi thì cũng quắt quay với những tất bật của đời.



                    Dạo này tự nhiên Nguyễn hay có những nỗi buồn vô cớ, đến nỗi chểnh mảng cả việc săn sóc cây cỏ. Mỗi độ Xuân về, Nguyễn lại nghe lòng mình chìm ngập trong một nỗi buồn không đâu. Lắm khi chàng nhìn đăm đăm vào một chiếc lá xanh, nhìn để mà nhìn chứ hồn chàng dường như đã gửi vào một nơi chốn rất xa xăm, có thể là một khoảnh đời trong dĩ vãng. Ở đấy biết bao kỷ niệm buồn vui lẫn lộn, muốn thoát ra rồi lại muốn quay về, khi con người đến lúc sống bằng những hồi tưởng dĩ vãng. Nhìn hoa, nhìn lá, lắm khi Nguyễn đã ngậm ngùi nhìn rõ mối tương quan giữa con người và cây cỏ, mới ngày nào tóc còn xanh mà nay đã sợi đen sợi trắng, mắt đã bớt phần tinh anh, đuôi mắt thì hệt như một chiếc lá héo. Không có gì chống chỏi nổi với thời gian, sự luân chuyển của vũ trụ vẫn quay đều, Nguyễn nghe như đời dần dần ngắn lại.



                    Đêm nay, đêm cuối năm. Dù chỉ có một mình, Nguyễn vẫn có thói quen bày biện chút bánh trái để cúng Ông Bà. Trên chiếc bàn con là tấm ảnh của cha mẹ chàng đã ố vàng với thời gian, tấm hình duy nhất còn lại mà chàng nâng niu gìn giữ, từ khi gom góp mớ hành trang xuống tàu quyết thoát ra miền quê hương khốn khổ. Trong cái đêm ngày cùng tháng tận, mùi nhang khói lãng đãng trong không gian, lòng chàng lại chập chùng với biết bao kỷ niệm buồn vui, rất nhiều lần Nguyễn nghe như có tiếng sụt sùi của những giọt nước mắt, chảy ngược vào tim khiến chàng xúc động đến run rẩy.



                    Nguyễn mở hé cánh cửa kính, một làn hơi mát lạnh từ bên ngoài ùa vào căn phòng vắng, không phải thứ gió lạnh giữa đêm Xuân, mà nếu nghĩ ngợi thêm chàng cứ ngỡ đó là cái dịu dàng của dáng Xuân, đang rón rén bước vào, quấn lấy chàng trong một cảm giác kỳ thú. Đêm dịu dàng vô cùng, dưới sân cây hoa đào cũng đang rung rinh những nụ hoa mới nở dưới đêm sương, Nguyễn hình dung ra cây cỏ cũng đang nín thở để tận hưởng chút êm ái của đêm giao mùa.



                    Tự nhiên Nguyễn lại muốn nghe một vài bản nhạc Xuân quen thuộc trong một đêm tuyệt vời như đêm nay. Lâu lắm rồi, năm nào cũng đón Tết một mình, chàng có bao giờ lại có được cái êm ả như vậy. Chàng mở nhạc rồi lười biếng thả mình trên chiếc “sofa” ngoài phòng khách, nhắm mắt lại để tận hưởng những âm thanh dặt dìu trong đêm vắng. Trong lúc mơ màng thả hồn với suối nhạc êm đềm, Nguyễn mơ hồ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang, tiếng lá hoa rì rào từ mấy chậu hoa, rồi giọng ngọt ngào của ai đó gọi tên mình, ngay khi ấy bóng một phụ nữ đã xuất hiện trước khung cửa. . .



                    Nàng mặc chiếc áo vàng, màu vàng tươi thắm làm cho khuôn mặt ửng hồng, nụ cười rạng rỡ trên đôi môi phơn phớt hồng và từ nơi nàng toát ra mùi hương của hoa cỏ, rất thanh khiết. Chưa bao giờ Nguyễn thấy một vẻ đẹp nào thanh lịch hơn, không phải nét ngây thơ nũng nịu của một cô gái mới lớn, cũng không son phấn lả lơi mời gọi của một ả giang hồ. Từ nơi nàng toát ra một vẻ là lạ khiến chàng phải kính nể. Nàng lên tiếng, âm thanh cao và trong trẻo:



                    “Đêm Xuân, đến thăm chủ nhân lúc này thật là đường đột, mong ông vui lòng thứ lỗi. Gần gũi đây mà mấy độ Xuân về, không chia xẻ được nỗi niềm với người cùng quê lòng thật là áy náy. Thôi thì mỗi năm có một mùa, một mùa có một ngày như đêm nay, ông cho phép thì tôi xin được vào đàm đạo mấy lời.”



                    Nguyễn thấy thật là lạ lùng, tuy vậy chàng cũng vẫn giơ tay lịch sự mời khách, cố moi óc để nhớ xem quanh đây có ai giống nàng, mà nếu có thì chàng cũng chẳng biết, vì ngày nào cũng đi làm từ sáng tinh mơ, chiều về tưới cây qua quýt rồi lại chúi đầu vào đọc sách. Khu chung cư lẫn lộn dân tứ xứ, lâu nay cũng thấy có nhiều người Việt dọn đến rồi dọn đi, Nguyễn cũng chẳng quan tâm. Sự xuất hiện của người thiếu phụ áo vàng trong đêm nay làm chàng ngạc nhiên, vừa ngạc nhiên lại vừa thích thú. Hay nàng chỉ là một hồn ma, sự gặp gỡ một bóng ma đẹp trong đêm nay chẳng thích thú lắm sao!



                    Nguyễn rót trà mời khách, bình trà cúng giao thừa vẫn còn ấm, chủ khách nhìn nhau bỡ ngỡ. Chàng khách sáo mở lời:



                    “Thật quý hóa quá! Mấy năm nhà cửa vắng vẻ vì chỉ có một mình, nay có khách đến thăm, lại là một giai nhân, năm nay chắc may nhiều hơn rủi.”



                    Thiếu phụ cũng cười, trông nàng thật có duyên, sắc áo vàng như rạng rỡ theo nụ cười của giai nhân, khiến nàng bội phần kiều diễm, tuy vậy người đối diện lại vẫn không dám buông lời bất nhã.



                    “Cám ơn ông đã quá khen. Trong phòng này ấm quá, nào nhang thơm, nào trà ngon, chủ nhân thật là tươm tất. Mùa Đông đã qua, năm nay Xuân về tiết trời ấm áp, người người cây cỏ cùng rạo rực đón Xuân sang. Riêng chủ nhân, sang năm mới phải tìm một bóng hồng cho vui nhà, vui cửa.”



                    Nói xong, nàng nhìn Nguyễn ý nhị khiến chàng bỗng dưng nghe lòng mình xao xuyến. Chàng thở nhẹ:



                    “Không dấu gì cô, từ ngày sang đây đời sất bất xang bang nên chưa dám nghĩ đến chuyện vợ con. Bây giờ đã qua đi tuổi ấy, ngoảnh lại thấy mình đã già lại càng không dám nghĩ. Thôi thì “lần lữa ngày qua tháng lại qua”, riêng tôi lại có nỗi niềm riêng, biết ai là người tri kỷ?”



                    Thiếu phụ nâng tách trà nhấp giọng, thanh âm lắng xuống bùi ngùi:



                    “Biết ông đã mấy năm mà không chia xẻ được thật là đáng tiếc. Chúng ta cùng gốc gác trời Nam, vì “tai trời ách nước” mà phải bỏ nước ra đi, mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau nhưng cũng đồng cảnh ngộ, lưu lạc nơi xứ lạ quê người. Qua xứ này, khác biệt từ văn hóa cho tới phong thổ, cây cỏ còn héo hắt huống chi con người. Sẵn đây cũng kể ông nghe, tôi được một người Việt Nam bất đắc dĩ phải bỏ nước ra đi, mang theo làm bạn cho đỡ nhớ quê cha đất tổ. Tưởng đã bỏ thây nơi lòng đại dương, ngờ đâu lại được đến nơi này. Đất nước quê người khác đất nước quê mình, chí lớn không thành, sống một đời cô quạnh, chủ nhân tôi buồn rầu sinh ốm đau, bịnh tật rồi chết, thân tôi lưu lạc bốn phương. Dù sao, vì vận nước mà phải nổi trôi đến nơi này, nhưng có sao chăng nữa thì vẫn giữ nguyên cái tình chung thủy với nước non, cốt cho xứng là người dân nước Việt.”



                    Nguyễn nghe lòng dạt dào xúc cảm. Tâm sự của người phụ nữ áo vàng cũng giống như tâm sự của chàng, ngoài chuyện tình cảm riêng tư thì vẫn mang một nỗi niềm chung, mang kiếp sống tha hương nơi xứ lạ. Nguyễn thổ lộ, tự nhiên sao đêm nay chàng lại đem nỗi lòng của mình kể cho người khác nghe, trong khi tính chàng vô cùng kín đáo:



                    “Cũng chẳng ai muốn bỏ quê hương mà đi, thưa cô, dù có phải vất vả vì miếng cơm manh áo. Sang bên này, tuy có được hít thở không khí tự do, nhưng đổi lại cũng mất mát khá nhiều. Tuổi thanh xuân và tình yêu của tôi đã mất theo những tháng năm tù tội, rồi sau đó dù ở trong hay ngoài vòng tù tội, tôi vẫn bị ngột ngạt trong cái không khí nặng nề của sự nghi kỵ. Hơn nữa vợ tôi. . .”



                    Nguyễn im lặng thở dài. Chàng tự hỏi không biết có nên nói ra những điều này không? Người phụ nữ vẫn im lặng nhìn chàng chờ đợi. Nguyễn tiếp:



                    “Nàng gần giống như cô, cũng hay mặc màu áo lụa vàng mỗi độ Xuân về. Xin lỗi cô nhé! Đây chỉ là sự trùng hợp khi đêm nay cô đến đây với màu áo vàng của nàng năm xưa, thuở tôi còn là một người lính. Nay coi như đã hết, có lẽ nàng đã thay mấy lần áo như hoa nở mấy lần hoa, nàng còn trẻ quá làm sao chờ đợi được. Tôi không hề trách nàng dù từ đấy đời tôi không còn có mùa Xuân, sống lêu bêu như cây cỏ, có lẽ cái số của mình đã vậy, không thay đổi được. Đời lại không lối thoát, tôi muốn hòa nhập vào xã hội để sống như một người bình thường, nhưng xã hội lại không chấp nhận mình, vì thế chỉ có một cách là thoát ra thôi cô ạ.”



                    Thiếu phụ cúi đầu lặng lẽ, nhưng trong mắt nàng đã rưng rưng hai hạt lệ:



                    “Tội nghiệp ông, sao đời buồn thế ông nhỉ? Bao nhiêu năm nhìn ông thui thủi trong căn nhà này, tôi cũng nghĩ ông có tâm sự gì đó nhưng không tiện hỏi. . .”



                    Nguyễn gật đầu. Chàng rót thêm trà vào tách để nén xúc động:



                    “Thế là tôi vượt biên. Bao nhiêu ngày sóng gió, đói khát trên biển, cuối cùng cũng đến được nơi đây. Xã hội này mở cửa cho tôi bước vào, mười năm qua mà cũng chẳng làm được gì. Cuộc đời thì vẫn những con người bon chen, đố kỵ, tâm hồn nhiều mất mát khiến tôi chả thiết tha gì nữa, co rút lại trong cái vỏ ốc cô đơn của mình, mãi rồi không muốn hòa nhập với bên ngoài, dù biết là mình vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở. Đêm nay cô đến đây, có lòng chia xẻ cái vui của ngày đầu Xuân, tôi vô cùng cảm kích. Sẵn đây cũng xin được hỏi, chắc là cô cũng ở gần đâu đây?”



                    Thiếu phụ áo vàng nở nụ cười kín đáo, vẻ bí mật:



                    “Vâng, thưa ông, rất gần nữa là khác. Ông có biết mà dường như không biết, vì tâm hồn ông đã gửi tận đâu đâu. Tôi có cảm tưởng ông nhìn mà không nhìn, thờ ơ với tất cả, ông làm cho có chuyện chứ chẳng thiết tha gì, bởi vậy dù có muốn chia xẻ điều gì cũng ngại ngần không tỏ được.”



                    Giọng nàng ra chiều hờn giỗi, còn Nguyễn lại ngạc nhiên quá sức:



                    “Thực thế hở cô? Lâu nay tôi cứ tưởng chẳng ai chú ý đến mình nữa, không ngờ đã phụ một tấm lòng, cô bỏ qua nhé!”



                    Giọng nàng thật dịu dàng, nửa như trách móc, nửa như ủi an:



                    “Bởi vậy có những việc ông làm cho người khác ông cũng không để ý làm như thế để làm gì, ông không lắng nghe lời thì thầm giao cảm giữa đôi bên, thì làm sao thấy được niềm vui giữa người cho kẻ nhận. Lắm khi ông lại tạo cho mình rất nhiều ngộ nhận, ích kỷ, vô tình, lãnh đạm, hay có khi người ta cho ông là một kẻ kiêu căng, khối người đã nghĩ về ông như thế. Riêng tôi thì tôi hiểu, bản thân ông là thiện, không hề làm hại ai, nhưng sao không mở tấm lòng mình ra cho đời bớt khổ, cứ phong tỏa lấy mình để rồi chán ngán một mình, cửa cứ đóng thì làm sao ai mở được.”



                    Nghe những lời nàng nói, những nhận xét của nàng chính xác đến nỗi Nguyễn phải giật mình. Quái lạ! Người đàn bà này là ai sao có thể hiểu chàng thấu đáo, cặn kẽ đến thế. Tự nhiên chàng ao ước, giá mình có một người bạn đường đáng yêu như vậy thì dẫu chết cũng cam lòng. Có tới hai mươi năm rồi, từ lúc vợ chàng bỏ đi, mới đầu Nguyễn thấy lòng đau đớn, tái tê rồi lạnh lẽo hẳn, đối với chàng từ lúc ấy, đàn bà chỉ là sự đùa cợt, thoáng chút vui cho đời bớt phần tẻ lạnh, không thể biểu hiện cho điều gì cao cả. Sự xuất hiện đột ngột của người thiếu phụ áo vàng đêm nay, khiến chàng hiểu mình đã khép kín lòng mình trong hoang tàn, đổ nát, tối tăm. Thiếu phụ lại nói:



                    “Ông Nguyễn ạ, có lẽ ông phải dẹp bỏ mọi thành kiến với phụ nữ và cả với cuộc đời nữa. Tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, mỗi người là một đơn vị trong muôn ngàn đơn vị mà Thượng Đế đã tạo nên, ta chẳng nên tự tôn mặc cảm hay tự ty mặc cảm. Nếu không có số 0 làm sao 1 lại trở nên 10, cái này bổ khuyết cho cái kia là vậy. Ông Nguyễn nghĩ xem, nếu không có người đổ rác, làm gì có sự sạch sẽ để có một môi sinh tốt đẹp cho người khác hưởng. Ngay cả các triết thuyết của các bậc cao nhân, cũng trở thành số 0 nếu nó không được cái đám đông của số 0 kia hưởng ứng. Chúng ta cứ lòng vòng ở những cái tầm thường nhất, để thấy rằng chẳng có gì là tầm thường cả, phải không ông Nguyễn?”



                    Nguyễn chỉ im lặng lắng nghe, khẽ liếc nhìn nàng chờ đợi. Dáng vẻ của nàng trang trọng tuyệt vời, mà mỗi lời nói lại vô cùng khúc triết:



                    “Tôi hiểu ông vì giữa ông và tôi có những cảm nhận giống nhau, tâm cảm thì dường như đồng nhất, nhưng quan niệm sống của mỗi người lại hơi khác. Cây cỏ mọc ở phương Nam đem trồng trên đất Bắc, làm sao mà tươi tốt cho được. Con người cũng thế, nhưng nếu biết thích nghi với hoàn cảnh, biết vượt qua những khó khăn nhất thời, giản dị tìm cái tương đối của nó thì cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa. Chúng ta vẫn phải làm một điều gì có thể, dâng hiến cho đời , chia cái Ta có cho Người thì mới hoàn toàn hạnh phúc, ông có đồng ý vậy không?”



                    Nguyễn ngạc nhiên đến thán phục. Những lời người phụ nữ vừa nói ra có một sức thuyết phục mạnh mẽ, khiến chàng cũng thấy mình cần thay đổi cái nhìn, cũng như những tư duy về cuộc sống xung quanh. Chàng tỏ vẻ bối rối:



                    “Vậy mà bấy lâu nay tôi đã khổ sở với nỗi cô đơn của mình, nếu không có cuộc gặp gỡ đêm nay, biết bao giờ tôi mới tìm lại được niềm vui của tâm hồn. Không biết thì thôi, biết rồi thỉnh thoảng mời cô tới đây cùng đàm đạo chuyện văn chương, sách vở. . . “



                    Nguyễn nói với tất cả tấm lòng thành thật của mình khiến người phụ nữ áo vàng cũng bùi ngùi xúc động:



                    “Tôi không biết nói với ông thế nào, nếu cơ duyên còn gặp lại thì đó là một điều vui, nhưng nếu không còn gặp nhau nữa thì tôi vẫn luôn luôn nhớ đến ông. Còn phải cảm ơn ông nữa là khác, như mặc chiếc áo đẹp phải cảm ơn người thợ dệt, người này mang hạnh phúc đến cho người kia, đó là chân lý của lẽ sống. Ngày nào mình còn làm được điều gì tốt đẹp ta cứ làm, không mặc cảm mình là người hèn kém hay thừa thãi trong xã hội. Giống như đêm nay, coi như chúng ta chưa biết nhau, vậy mà tôi vẫn đến đây, để chúng ta cùng có một đêm Xuân đầy ý nghĩa.”



                    Nguyễn chỉ thấy ngỡ ngàng mà không hiểu nàng nói gì. Người thiếu phụ áo vàng đứng dậy, khoát một cử chỉ tạ từ, giọng nàng lại cất lên trong vắt, âm thanh tươi vui như tiếng hót của một loài chim:



                    “Xuân về, mong ông tìm được niềm vui cho tâm hồn, nhớ chia lại niềm vui ấy cho mọi người và mọi loài ông Nguyễn nhé!”



                    Nguyễn chưa kịp nói gì thì bóng nàng đã thoắt ra cửa, tan dần trong màn sương trắng đục như sữa. Trời đã ưng ửng sáng, tiếng chim hót líu lo ngoài hiên làm chàng tỉnh giấc, thì ra chàng vừa trải qua một giấc mộng. Nguyễn thấy tiếc ngẩn ngơ, dường như hương thơm của người phụ nữ áo vàng còn vướng vít đâu đây.



                    Nguyễn pha một bình trà ngon cho buổi sáng đầu Xuân, tách trà thơm như càng ý vị với hình ảnh giai nhân trong giấc chiêm bao. Chàng mở cửa bước ra hiên, cây cỏ sau một đêm Xuân bừng bừng sức sống, nắng vàng đã lóng lánh trên những giọt sương đêm. Lạ thay! Nguyễn chợt nhìn thấy những lộc non đơm đầy trên cành quất xác xơ, bao nhiêu nụ trắng đang nở hoa, tỏa mùi thơm bát ngát. Chàng nâng nhẹ một nhánh cây, trên ấy còn sót lại một quả quất vàng từ mùa năm trước. Bỗng một làn gió Xuân làm run nhẹ những chiếc lá non trên tay chàng, trong một thoáng bâng khuâng, Nguyễn có cảm tưởng người thiếu phụ áo vàng chính là hồn cây quất trời Nam, đã đến với chàng trong giấc mộng đêm Xuân.



                    NGUYÊN NHUNG



                    Tác giả Nguyên Nhung, mùa Xuân với ngôi chùa Việt Nam.

                    Comment

                    Working...
                    X