Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nhật Ký Đặng Thùy Trâm - Một Sản Phẩm Dối Trá Và Phản Bội

Collapse
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhật Ký Đặng Thùy Trâm - Một Sản Phẩm Dối Trá Và Phản Bội

    Nhật Ký Đặng Thùy Trâm - Một Sản Phẩm Dối Trá Và Phản Bội

    [B]
    1. Nhật Ký Đặng Thùy Trâm - Một Sản Phẩm Dối Trá Và Phản Bội



    1.- NGUỒN: Cuốn nhật ký Ðặng Thùy Trâm của NXB hội nhà văn được độc giả trong và ngoài nước chú ý, toàn bộ hệ thống báo chí VN thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một điển hình anh hùng cho thế hệ trẻ VN, trong lúc đó lại có nhiều tranh cải tính xác thật của nhật ký trên các diễn đàn BBC, Talawas, Ðàn Chim Việt.... Ðâu là sự thật? người viết bắt đầu đi tìm nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Ký Ðặng Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật ký Ðặng Thùy Trâm bản gốc và bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web:







    Sau cùng, người viết đã có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:



    1)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 1



    2)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 2



    Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG).



    Bản gốc này đã được đối chiếu là đúng theo bản gốc ở nguồn http://www.vietnam.ttu.edu . Hiện lưu trử tại Ðại học TEXAS TECT. TEXAS USA



    3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkĐTT .



    (Chú ý bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá trị để đối chiếu)



    Mở đầu nhật ký bản in, NXB cho biết (tr. 7): Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..



    Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Ðặng Kim Trâm, em út của bà Ðặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung



    phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.



    Bà Ðặng Kim Trâm đã tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ý nghĩ quá đỏ có thể không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”



    Kết quả đối chiếu sau đây đã cho thấy lời nói không đi đôi với việc làm.



    2.- ÐỐI CHIẾU:



    2.1- BẢN GỐC:



    Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.



    Nhật ký được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một đoạn ngắn, nhật ký có được 276 đoạn. Nhật ký bản gốc được trình bày theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.



    2.2.- BẢN IN của NXB Hội Nhà Văn (nkĐTT)



    Bản in gồm 322 trang, đặt mua tại nhà sách lớn của quận Cam , Cali vào giữa tháng 11-2005, sau khi chờ đợi 3 tuần mới có được quyển sách từ VN gởi sang. Trang đầu ghi Ðặng Kim Trâm chỉnh lý, Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn. In 20.000 cuốn, Số đăng ký..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu quý IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần nào(?).



    Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkĐTT với bản gốc, người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả vì rằng trong cuốn sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rõ mà không chịu sửa chữa vì với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, paste điều chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại không làm?



    2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật ký đã bị đổi thay hay sáp nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.



    ... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là 11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm 11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70 và 29-3-70 (bg)



    2.2.2.- ÐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN



    9-3-69 (tr. 132)



    ..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.



    Ðó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt Ðó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một



    câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.



    Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.



    [(bg) ngày 11-3-69



    ..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.



    Ðó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.



    Ðó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt Ðó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc quan tin tưởng.



    Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.]



    2.3.3.- NHỮNG ÐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN



    Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật, người viết tìm thấy có đến 21 đoạn nhật ký bị cắt xén, ảnh hưởng đến nội dung như sau:



    2-6-68 Mất đoạn cuối



    Tr.53 tiếp theo dòng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ.



    [”bg): Tư tưởng lạc hậu là của những người còn mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu vì sự nghiệp chung. Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]



    12-5-69 thiếu đoạn cuối



    Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long thì đúng như vậy. [(bg) Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh mình thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó đã thực hiện rồi.]



    18-5-69



    Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Ðâu chẳng có bàn chân những người trai dũng cảm. Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày hòa bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước.]



    .... Vậy đó, cả nước đã lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn mình trong cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]



    25-6-69 thiếu 2 câu



    tiếp dòng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg) Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị của người CS...]



    16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối



    Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những người dân VN anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]



    26-7-69 thiếu đoạn cuối



    Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg) Con đường em đi những bước đi còn chập chững nhưng chông gai gian khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]



    6-8-69 thiếu đoạn cuối



    Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]



    1-9-69 thiếu đoạn cuối



    Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm ơi, anh đi bình an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và tình thương sâu dậm của một đứa em gái.]



    1-11-69 thiếu một hàng cuối



    Tr.195 ... Anh đi bình an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân thương rất đỗi!]



    5-11-69 thiếu đoạn cuối



    Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]



    26-02-70 Thiếu đoạn cuối



    Tr. 228 ... Tình thương của mình bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng. [(bg) Tuy nhiên lúc em ra về mình cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố gắng tập cho cánh tay mau bình phục rồi nhìn em bằng đôi mắt trìu mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến đấu.]



    27-02-70 Thiếu mất hai đoạn



    Cuối Tr.228. Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?



    [(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết điểm. Mình không hề sợ khuyết điểm, cái gì sai thì cố gắng khắc phục, cái gì đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không độc đoán quan liêu, không vì sợ mất lòng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi làm một việc gì phải cân nhắc kỹ không hướng mình đang đứng trong vai trò của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả đang nhìn, mình làm được điều đó là dĩ nhiên vì mình là một diễn viên, họ chỉ khen khi nào mình thật xuất sắc (mà điều đó thì mình chưa thể làm được). Nếu mình làm còn thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều, vậy mà cũng đòi làm diễn viên, dở quá vv và vv...]



    Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”



    [(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ vì sự nghiệp của cách mang, Ðảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng chỉ vì Ðảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ cho



    Ðảng nhiều nhất. Tôi vinh dự vì được tin cậy nhưng không vì vậy mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị nhiều lý luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3 năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đã trải qua 10 năm, 20 năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hãy đến với tôi bằng tình thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự do, bằng tình thương của những kẽ xa nhà lấy gia đình cách mạng làm chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hãy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Ðảng. Phần tôi, tôi tự biết tôi phải làm gì, tự biết năng lực của mình và tự nhủ mình phải khiêm tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]



    8-3-70 thiếu một câu cuối



    Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của mình đó. [(bg) Nhất định phải vậy nghe Th.!]



    30-3-70 thiếu câu cuối



    Tr. 237 ... hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người con gái XHCN trên đất miền Nam]



    5-5-70 thiếu hai đoạn



    Tr.241 Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến].



    Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.



    [(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]



    13-5-70 Thiếu đoạn cuối



    Tr.243 những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu. [(bg) Em ơi, hãy bồi đắp cho tình cảm chị em mãi mãi thắm thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt đẹp của mối tình cảm ấy vì không biết giữ gìn, lỗi đó ở em hay ở mình.]



    19-5-70 Thiếu đoạn cuối.



    Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở anh? Tại sao nỗi lo cho mình trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp anh



    mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa kia mà!) Sao vậy hở anh? ]



    4-6-70 thiếu đoạn cuối



    Cuối Tr. 247. vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?



    [(bg) Cách mạng miền Nam! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử mà cũng còn nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xã hội, cũng dễ hiểu thôi, vì tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn diện, biết sống vì mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn hóa.]



    2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT



    10-11-68 :



    [(bg) Những hoạt động xã hội ngày một mở rộng đối với mình. Ðại hội phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng mình không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có những điều kiện chưa hợp lý. Một lần nữa mình hiểu thêm về lòng ghen tỵ của người đời, vẫn còn những người không vui khi thấy đồng chí mình tiến lên. Những phút giây lịch sử trong tình chị em, trong đời người. Hãy nhớ trọn đời nghe em!]



    7-12-1968



    [(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em mình đều bước đi những bước



    trưởng thành và tình chị em cũng đã lớn lên dày dạn với thời gian. Vũng vàng trước sóng gió. Hãy vun xới cho tình cảm ấy lớn lên và lớn mãi lên nghe em!]



    23-5-69



    [(bg) Về công tác Phổ Cường. Ðêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể mình” Không, thực tế thì có vậy nhưng em thì không có. ]



    26-10-69



    [(bg) Những ngày sống bên anh có cái gì làm mình cảm thấy quên đi những ngày gian khổ đang đe dọa bên mình. Có phải vì bàn tay ấm áp của anh đã nắm chặt tay mình truyền cho mình sức mạnh để đánh bạt mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đã vuốt trên mái tóc mình thân thiết truyền cho mình tình thương ruột thịt làm mình quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi mắt đen anh đã nhìn mình qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn ngủi giữa mọi người đã nói với mình rằng: “Hãy vững bước nghe em, trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đã chọn, bao giờ cũng có các anh giúp đỡ em với tình đồng chí và có anh dìu dắt em trong cánh tay của một người anh”



    Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương của em?]



    19-01-70



    [(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đã đến với mẹ bằng tình thương chân thành ruột thịt, anh đã là một chỗ dưa trong cuộc sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa lòng tất cả được, cũng như anh đã nói: “Ðó là lẽ dĩ nhiên, em không bao giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của mình”. Như bao lần em đã nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết tình thương và cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của mình. Anh Năm thân thương, anh tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]



    15-02-70



    [(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy tình anh em ngày thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian khổ, luôn có anh dìu dắt, anh lo cho em từng ly từng tý, anh dạy bảo em với tình một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công tác Ðảng, anh săn sóc em với tình đồng đội cùng chung trong cuộc chiến đấu sinh tử này. Hãy giữ tròn mãi mãi “...trong ngần thiết tha” nghe anh Năm!]



    24-3-70



    [(bg) Ðọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng, anh Năm ạ. Quả thực anh đã lo, đã thương em với tình thương sắt son ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh nào



    cũng giữ trọn tình anh em thủy chung như nhau. Ðâu có phải em không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin bản thân mình nhưng ngay cả bản thân mình em cũng nhiều lúc không hiểu rằng xử trí như vậy đã đúng chưa. Vì vậy anh đừng trách khi em giận anh. Thực ra cũng có một tình thương sâu đậm nên em mới cảm thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy hết sức bình thường với những người khác nhưng với em lại là khác, em đòi hỏi ở anh một sự quan tâm, đòi hỏi ở anh những biểu hiện của một tình thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa em gái cưng của anh. Ðòi hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đã dành tất cả tình thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Thì như vậy đâu phải là cao. Vậy đó anh à, hãy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt tình, đầy ưu ái, niềm tin ở cuộc đời. Em còn dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại chưa phải đáng



    để tin như vậy. Mong anh sẽ là người dìu dắt em đi vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh quang mà anh em mình đã chọn.]



    01-4-70



    [(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Ðoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây giờ Th. đã là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề dưới cờ Ðoàn trong



    ngày hôm ấy. Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người không hiểu Th? Mà hãy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu mình? Ðành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không thể nói được. Vậy thì hãy làm như những người đó. Ðừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Ðêm khuya nằm bên những người đồng đội, họ đã ngủ,hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen



    tuông kìn cựa để làm gì?]



    05-4-70



    [(bg) Có phải mình cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay không hở người anh thân thiết của em?



    Chiều nay Cúc lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp mà sao mình lại làm một con bé sống với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì



    từ nhỏ đến giờ nó là như vậy. Nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được những tình cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của em ơi, có đúng như lời anh đã nói đó không? “Tình anh em ta sẽ tồn tại mãi mãi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như lời em đã hứa cùng anh.]



    3.- TÁC GIẢ: Bàn về một tác phẩm mà không tìm hiểu tác giả là một điều thiếu sót không thể tha thứ được cho dù người đó đã nằm xuống. Trong bản gốc của nhật ký không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của gia đình và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:



    Ðặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942



    1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.



    Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Ðại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.



    Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Ðức Phổ Quảng Ngãi.



    Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.



    Nhiều người đã đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của ĐTT, bởi nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)vì vậy người viết phải làm cuộc so sánh như sau:



    3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là 10 năm. Ðào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.



    Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.



    3.2.- HỌC TRÌNH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay sinh hoạt đảng phái đoàn thể.



    Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại học, xây dựng chủ nghĩa CS khoa học, đây là những môn thi bắt buộc.



    Ngoài ra còn phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Ðoàn, đối tượng Ðảng.



    Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào tạo 3 năm chuyên môn, với trình độ trung học, tổng cọng thời gian học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3 năm chuyên môn).



    Nếu căn cứ vào học trình để kết luận, thì người bác sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có trình độ tương đương với một người cán



    sự y tế trung bình mà thôi, không thể so sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)



    3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với trình độ chuyên môn như trên, tốt nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là ĐTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyên môn của mình. Sau đây là những thành tích của một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.



    08.04.68 (tr.33)



    Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ còn vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng, anh còn cười để động viên mình, nhìn nụ cười gượng trên môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng.



    Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.



    Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thể yên lòng, vuốt nhẹ mái tóc anh mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi



    không cứu chữa được thì đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.



    Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người



    22.04.68 (Tr.41)



    ... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập ...



    ĐTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.



    20.07.68 (Tr.64)



    ... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả.



    Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả cũng còn nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng, sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng....



    27.08.68 (Tr.75)



    Một ca mổ quan trọng đã kết quả. Thận dập nát đã được may lại, máu ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao



    mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu dòng máu đã chảy và đang chảy? ...



    05.10.68 (Tr.84)



    Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Ðó là một bệnh nhân gần 66 tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Ðảng viên già đã 23 năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình dù tập thể và chính bản thân con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa nhưng mình vẫn xót xa.



    Vì sao ông ta chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên cắt cụt nhưng mình vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng



    không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả.



    Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được bài học nào cả.



    24.10.68 (Tr.91)



    Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mỗ thăm dò nhưng rất tiếc rằng cancer đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người



    bệnh nhân đi dần đến cái chết....



    Lại mổ ung thư, gây chết người.



    09.01.69 (Tr.115)



    ... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im lìm không rên la, một chân đã bị mìn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đây“



    Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng. Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi máu em đã thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu....



    Cũng cắt cụt gây chết người



    15.03.69 (Tr.133)



    Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu đến có lẽ vì một sự chảy máu trong do miến mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băng khoăn lưỡng lự.



    Cuối cùng anh đã chết. Cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu cương quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng cứu sống anh có thể có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm nên làm.”



    ĐTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền quyết định về chuyên môn bằng lãnh đạo quần chúng? Giá trị của lãnh đạo tập thể?



    29.07.69 (Tr.174)



    Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân....



    Tóm lại ĐTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng còn nhiều nữa



    chưa kể hết trong nhật ký này (?)



    Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen tặng như sau:



    06.10.68 (Tr.85)



    Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với tình thương mà mọi người đã giành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ “Bác sỹ”...



    1.11.68 (Tr.92)



    Tổng kết năm qua, bệnh xá Ðức Phổ được báo cáo điển hình trong toàn tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người xuất sắc ấy có cả mình. Ðó là một thắng lợi chung trong đó có mình một chút.



    07.04.1969 (Tr.138)



    Ðược rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha.



    Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Thùy Trâm đã được mọi người thương, bạn mến, Ðảng tin...”, “Thật là một người trí thức toàn diện...”



    Không biết bao nhiêu lần mình tự hỏi phải làm gì đây để xứng đáng với lòng tin của mọi người.



    Ðây là niềm hãnh diện của Ðặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn diện(?)



    Với thành tích trên đã khơi động sự tò mò của người viết phải đi tìm lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ ĐTT:



    Bà cụ nói: “Gia đình không tưởng tượng được là ngay ở Ðức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược



    liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.



    Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây đố lá”, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn”.



    Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy mãi)



    Tóm lại ĐTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hãnh diện ghi vào lịch sử phát triển y tế CNXH VN(?)



    Ðọc tiếp nhật ký (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Ðặng Thùy Trâm? ... Chúng tôi đã hỏi trường Ðại học Y khoa, Sở Lao động Thương binh-Xã hội, hỏi Ban liên lạc họ Ðặng VN, đến cả Bảo tàng Phụ nữ VN cũng không ai biết”.



    ĐTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đình tại sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đình không có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, hình ảnh lễ mãn khóa, tiệc mừng gia đình lúc ĐTT tốt nghiệp? Trong khi gia đình vẫn còn giữ hình ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu. Ðiều này chứng tỏ ĐTT không có làm lễ mãn khóa ra trường, không có đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đình lưu giữ (?)Chỉ có một câu trả lời hợp lý là ĐTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và ĐTT đã khai man lý lịch trước khi vào Nam chiến đấu?



    Hãy nghe lời nhân chứng trong nkĐTT (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy (nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Ðinh Tiên Hoàng) là bạn thân của Ðặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được



    tốt nghiệp trường Ðại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”



    Tại sao ĐTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh viên ra trường sớm hơn học trình đào tạo chỉ rơi vào những trường hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc thì



    sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?



    Hãy nghe ĐTT tự thú trong nhật ký:



    23-07-69 (Tr.170)



    Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Ðáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rồi trả lại anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em



    cạnh anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm việc gì mà không có ý nghĩ. M. lại càng không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?



    M là người yêu của ĐTT từ 8 năm trước, vẫn xem ĐTT là một sinh viên y khoa dù ĐTT đã làm việc với chức danh bác sĩ đã 3 năm qua, đây là điều nghịch lý trong nhật ký. Chỉ có thể lý giải một điều bí mật chỉ có



    giữa M. và ĐTT biết rất rõ mà thôi đó là : ĐTT là một sinh viên y khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và mãi mãi vẫn là một sinh viên y khoa trong lòng M. ĐTT đã chấp nhận sự thật đó! ĐTT không hề phản kháng hay hờn giận.



    4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KÝ:



    Ðây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lý biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc nhật ký.



    4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KÝ:



    Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật ký của ÐTT, và ông đã có ý định tìm lại gia đình ĐTT để tính đến chuyện



    xuất bản tập nhật ký trên, phần sau là một trong những thư trao đổi đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đình ĐTT.



    Chủ nhật, 1.5.2005,



    Thưa bà Trâm, Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh trong quá khứ.



    Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Ðơn vị của anh gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Ðức Phổ. Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.



    Ðây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ



    không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.



    Fred (Di sản của DDT-Talawas)



    Bức thư trên đã được chỉnh lý sửa đổi. Người biên tập đã ngang nhiên sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ý của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:



    20g27, chủ nhật 1-5-2005



    Thưa bà Trâm. Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.



    Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Ðơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Ðức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu



    hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ. Ðây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.



    Fred (Tr.259)



    Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đình không tin câu chuyện kể của mình , nên ông Fred đã cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:



    9g44, thứ hai, 2-5-2005.



    Thưa bà Trâm. Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình.



    Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của



    con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)



    Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới thiệu:



    Thứ Ba, 3.5.2005



    Hiền và Hồ thân mến,



    .... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi. Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người tài trợ là quân đội Mỹ. Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng mình để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hiểu bất cứ điều gì do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington D.C. Chính ở đó tôi đã



    trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Ðó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi.Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Ðại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật. ... Fred (Di sản ĐTT - Talawas)



    Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như trên thì tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố tình không muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố tình tin là sự thật(?)để tạo dựng nên một mẫu anh hùng ÐẶNG THÙY TRÂM thì người viết đành phải đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu trữ nhật ký này bởi những nghịch lý sơ đẳng như sau:



    4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính Mỹ và VNCH được tổ chức theo lý thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba trung đội



    thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.



    4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên cuộc chiến đã hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều. Còn những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC không còn được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa vì hỏa lực yếu, tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị phòng thủ cơ sở, hay nhát ma mà thôi.



    Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy trốn làm gì có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. Vì chỉ cần nổ phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có thể cầm cự khá lâu. Ðây là một sự hoang tưởng.



    4.1.3.- Thực tế hành quân: Ðội hình hành quân căn bản ở quân trường đã dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa, để tránh nhiều thương vong thì khi hành quân thường dùng đội hình quả trám hay đội hình hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi đầu. Như vậy ĐTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đã chết bởi hỏa lực yếu kém của mình, đâu còn thời gian chờ 120 lính Mỹ đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.



    4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.



    Ðây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn”



    Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào mình tại sao không bắn trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lý.



    4.1.5.- Ðặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?



    Chúng ta hãy nghe lời tự thuật của ĐTT trong nhật ký:



    27-7-69 (Tr.173)



    Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên chưa nói dứt lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Ðành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Ðêm nay chỉ một mình mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở



    Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, ĐTT chưa một ngày trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.



    Trong thư ông mô tả ĐTT một mình chiến đấu như là anh hùng, có phải ĐTT đã tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật ký ĐTT:



    8.4.69 (Tr.139)



    Ðịch càn, vào gần đến máng nước, còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tĩnh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.



    28.4.69 (Tr.145)



    Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Ðảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá. Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Ðảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.



    Chưa đầy 1 giờ 30i phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt



    hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy. Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.



    Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng trí Vận- thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.



    Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.



    ĐTT đã bị bỏ rơi một mình với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán bộ vẫn chưa về.



    Hãy đọc tiếp trang nhật ký cuối cùng:



    20.6.70 (Tr.255)



    Ðến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Ðã gần 10 ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Ðiệp đã chỉ điểm nay. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?



    Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn ra trên mi mắt.



    Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo, đường đi trăm nghìn nguy hiểm còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người nếu có tình huống gì xẩy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay lam sao cho kịp, chăng nilon trước thì sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai người chị quần xắn tròn trên vế, lăn lội qua dòng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.



    Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng ĐTT chưa hề có một ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, ĐTT làm công tác hậu cần săn sóc thương binh, và đã từng bị bỏ rơi một mình khi có tình huống địch càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận thì làm gì có chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như hình ảnh những cán binh mặt còn búng ra sửa, không biết lý do vì sao mà phải đi chiến đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn vì số lùi đã bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế cũng được ca ngợi là anh hùng?



    ĐTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một mình chỉ là trường hợp vắt chanh bỏ vỏ mà thôi.



    4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả tình huống trong lá thư ngày 17-06-70 (Tr.253)



    “Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”



    Ngày 20.6.70 hai người đi tìm lương thực, chỉ còn lại một mình ĐTT và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.



    Ngày 22.6.70 ĐTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh nằm tại chỗ ?



    4.1.7.- Tiếng chân người? Với tình huống hiện trường như trên, thì một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:



    KB1: Ðoàn người không về. ĐTT phải chiến đấu cản đường với cây súng SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường mà còn khả năng chạy tạo nên tiếng chân thình thịch cho lính Mỹ nghe thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần thì đã bị bắt vì chạy chậm hoặc đã chết vì nằm trong tầm hỏa lực của súng Mỹ.



    KB2: Ðoàn người đi, đã trở về, nhưng trước tình huống địch tới đã bỏ chạy, bỏ rơi ĐTT một mình, với 5 thương binh.



    KB3: Ðoàn người đã trở về cứu 5 thương binh, thì tại sao ĐTT lại không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của mình. Tất cả đi hết rồi, ĐTT ở lại chiến đấu làm gì?



    Ba kịch bản trên đây đều là nghich lý. Và ĐTT đã nghi ngờ trong nhật ký là hợp lý theo kịch bản 4:



    KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu vì thực tế trong tình hình nóng bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và ĐTT đi cả. Lời ĐTT đã nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.



    4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả ĐTT nằm chết với cây súng, không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy ĐTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia đình ĐTT).



    Ðây là một điều nghịch lý vì với một người chiến đấu trên mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động mà chỉ có một vết thương duy nhất?



    Những ai đã từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rõ chỉ cần một tiểu đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.



    Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi. Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số đông người được.



    4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên mình ĐTT là súng SKS và ông đã giải thích:



    Thứ Sáu, 6.5.2005



    Em gái Kim, ... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng gì thì cũng không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.



    Anh trai Fred. (Di sản ĐTT - talawas )



    Với lời giải thích này ông đã xác quyết rằng trên xác ĐTT có cây súng SKS là loại súng bán tự động.



    Nhưng thực tế trên chiến trường VN không hề có loại súng nào tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập đã sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này. Không



    thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.



    4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:



    Ðây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đã kể ra trong thư với gia đình ĐTT:



    5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005



    Hiền và Kim, Tôi nhớ rõ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu, và sau khi đã tìm kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu thì Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật ký của chị các bạn và nói: “Fred đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọngmột kẻ thù nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đã ngồi bên nhau và bắt đầu dịch cuốn nhật ký. Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật ký qua bên. Khoảng một năm sau đó,trong khi tôi dịch thêm một số tài liệu với Hiếu thì anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là cuốn nhật ký thứ hai của cô bác sĩ. Fred (Di sản ĐTT - talawas)



    Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:



    Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật ký của ĐTT có lửa? Trong khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn, số còn lại sửa soạn đốt đi.



    Ông Hiếu đã đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật ký có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ý, mà phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?



    Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật ký (1970) là của Ðặng Thùy Trâm trong khi trên bản nhật ký này ở trang đầu trang cuối không có ghi tên họ người viết nhật ký?



    Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật ký thứ hai (1968-1969)? Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật ký này trong tay Hiếu? Ðây là một trong hai cuốn nhật ký mà ĐTT đã bị ăn cướp theo như đã ghi trong nhật ký ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian này đến ngày ĐTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật ký có lửa. Như vậy là cuốn nhật ký 68-69 đã lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:



    KB.1: Cuốn nhật ký thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được ? Ðây là chuyện hy hữu khó xảy ra vì sau 18 tháng tập sách phơi mưa nắng ở khó có thể còn nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể tình cờ may mắn như vậy được.



    KB.2: Cuốn nhật ký này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu thì với thời gian này đã bị xử lý hoặc thiêu hủy rồi.



    KB.3: Ðơn vị của Fred đã tịch thu từ lâu mà Hiếu đã ém lại để 18 tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lý.



    Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy chỉ còn duy nhất kịch bản sau đây là hợp với tình huống trên mà thôi:



    KB.4: Cuốn nhật ký thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho ĐTT biết. Hành động này nằm trong kế hoạch đã được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết



    luận ở phần sau)



    4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành trình đi tìm Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:



    Ông Hiếu đã tiết lộ một tình tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi Ðôi: Khi cuốn nhật ký lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy rời chép nguyên văn bài thơ Núi Ðôi được kẹp giữa những trang viết.



    Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đã đánh liều giữ lại nó cho mình trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông không còn giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật ký đã chép tặng chị.



    Tại sao trong nhật ký không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Ðôi? Một sự kiện quan trọng trong đời sống tình cảm của ĐTT. Trong nhật ký ngày 14.8.1968 (Tr.72) ĐTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài “Núi đôi”.



    “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở gì đến M. cả.



    Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rõ tên Minh người yêu của Thùy Trâm là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật ký?



    4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN:



    Anh Tâm bí thư huyện ủy Ðức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước

    khi hi sinh chị còn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Ðả đảo đế quốc Mỹ” (Tr.258) (????)



    Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết? Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán thì có còn thở được không chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.



    Thiên Đức

Working...
X