Từ sáng đến giờ, lão xác như vờ loay hoay với ba mớ rau cỏ húng quế với tía tô, đầu óc lão rối như canh hẹ nghĩ đến bu nó láo ngáo qua đất khách quê người còn bê cả mảnh vườn cải quê nhà theo, rồi sinh lắm chuyện. Mới bữa cơm hôm qua đây, bu nó mặt như chiếu ướt lào thào rằng gà luộc mà không có lá chanh thì lạt thèo lèo như nước ốc ngâm vôi. Nhớ ngày nào lão rứớc bu nó về, cho cửa nẻo đỡ trống trải…lão nói sao nghe vậy, bu nó rằm cũng ừ mười tư cũng gật. Dạo này đổ đốn hay sao ấy, mồm miệng như cái tôm cái tép, cứ đổ vấy cho lão là khọm rồi đốc chứng sinh tật, lười chẩy thây ra, chả được nước nôi gì sất. Nên lão nghĩ ắt hẳn là phải đào một cái hố trồng cây chanh cho xong chuyện, khiến lão bực cả mình.
Bực hơn nữa là chẳng bù cho…“cụ” bạn học lão, miệng câm như hến nên bấy lâu nay, lão chả biết nếp tẻ về cụ ấy cả. Chả là sau bốn mươi năm gặp lại, sáng cà phê, chiều trà tầu với bộ ấm Nghi Hưng, luận cổ suy kim miết, vậy mà cái đầu đất của lão vẫn mù tịt với cụ bạn này. Lần thứ hai, cụ từ bên trời Tây qua đây để dối già, cả hai hẹn nhau tại nhà thằng em cụ, ở tít cái quận Stockton lọng cọng bên đường. Lão được thể khăn gói gió đưa qua đấy để tửu lạc vong bần, cuối cùng lão nhìn cái trán bóng của bạn già, lão vẫn thấy…nhẵn như đít Bụt. Chiều về, ghé ông bạn nhà giáo dậy sử địa để ăn cơm mắm tôm điềm, lão đang ham hố nói chuyện trống đồng. Nghe hơi nồi chõ đầu đường cuối ngõ, ông này một hỏi lão một câu ngang phè, chả dính dáng gì đến trống Đông Sơn với Ngọc Lũ: “Hôm nay quan bác ghé nhà…thuốc lào Vĩnh Bảo hở ”.
Đang nuốt miếng thịt lợn, lão ho sặc sụa như thể cái lần đầu thở…ra khói.
Ấy vậy mà cụ bạn về rồi lão lại nhớ…Nhớ ai như nhớ thuốc lào, với ngày tháng đong đưa, lão chẳng quên cái lễ thượng thọ của cụ ấy sắp đến. Ngay cái lúc đang cầm cái xẻng, lão vẫn chửa nghĩ ra có món quà gì cho cụ bạn ngậm hột thị, không lẽ chuyến nào cũng trần như nhộng cái “cra-vát” buộc cổ đến nghẹn thở, ứ họng. Rồi lão ngửa mặt lơ mơ nhìn mây trời, vẩn vơ chả hiểu Vĩnh Bảo, với Tiên Lãng nằm ở cái xó xỉnh nào ở quê nhà xa mãi bên kia biển…Lão lẩn thẩn như đang chống gậy trúc khua cua trở về làng xưa chốn cũ, thì như số ruồi, lão hụt cẳng dẵm vào cái hố cây chanh đang đào dở dang ngã vật ra đằng sau, đầu chạm vào cái vũng nước mưa nghe cái “tủm”, như tiếng sung chín rụng ngòai bờ ao nhà và không biết trời trăng mây nước gì nữa.
Trong cái lửng lơ gần đất xa trời, lão vẫn lơ mơ nhớ mang máng tay cầm…cái xẻng.
Tôi…
”Tôi” đây không phải là lão khọm hòai cổ, hòai vọng với hòai cố nhân ở trên. Mà tôi đang…”hòai bão” muốn là cái bến đò để nối liền quá khứ với hiện tại. Vì vậy nếu chuyện kể lỡ có nhắc đến những dòng sông hay địa danh cùng niên đại cũng là ở cái lẽ chẳng đặng đừng. Ngắn và gọn thì cái tôi đáng ghét của mình chỉ là cái gạch nối không đâu của một dòng họ. Nhưng khổ một nỗi, tôi lại không phải là người dương gian, cũng chẳng phải là ma. Mà làng nước ơi, dấm dớ thế nào được vua Lê Thánh Tôn và cụ bà Hô Xuân Hương phóng bút cho cả một bài thơ...tự trào hay nhân cách hóa này kia. Mà chữ nghĩa cách mấy cũng vậy thôi, như thể thân thể người ta được chia ra làm ba phần, gồm đầu mình và chân tay. Tôi cũng vậy, cứ tuyệch tọac tả chân từ ngòai vào trong thì không ngòai trên răng dưới hột thị gồm cái xe điếu, cái bát điếu và cái điếu bát.
Cũng như những người xưa năm cũ với tục xâm mình. Tôi cũng thế, thân tôi được làm bằng sành, với dăm hình vẽ ngư, tiều, canh, độc, mà để trơn tuốt tuồn tuột, trắng như ếch lột cũng chả sao. Như cụ bà chúa thơ Nôm đã vẽ vời “Lưng tròn vành vạch đít bảnh bao”, nhưng khổ nỗi, khi không ngay giữa mặt nhu nhú là cái nõ, thâm sì như cái tĩn của mấy bà nạ dòng. Thêm một cái lỗ bằng hạt ngô cho cái thằng xe điếu, cái giống gì mà gầy đuỗn đuồn đuột bằng cái thân đũa, đầu thì xám ngóet, hôi rình. Tối lửa tắt đèn các cụ lên cơn tòm tem, mò ra cái sập gụ và đét đồn lên, vần vê một bi thuốc bằng con nhặng xanh, ấn với nhét vào cái nõ. Châm cái đóm tre chẻ mỏng tanh và cái thằng phải gió xe điếu chỉ đợi có thế, nhỏm ngay dậy lom khom “Mân mân mó mó đút tay vào” thì nước nôi tôi lại “Âm dương nhị khí sướng làm sao”, được thể tôi lại gào thét như sấm chớp mây mưa. Tiếp đến là “Thủy hỏa tương giao sôi sình sịch”, tôi mặc thể rên la. Trong khi các cụ ngẩng cao đầu, mắt lim rim, miệng phà ra khói hết sức là thống khóai, để rồi các cụ thấy xa xa là đồi núi nhấp nhô chập chùng, thấy mặt đất xàng qua quét lại. Với tôi, đóm thuốc xòe lên, ngọn lửa vừa tắt là ngón tay ngón chân tôi đã tê rần, trong cái bải hỏai rã rời của tứ chi, mạch máu như nở ra. Tôi lóang thóang như nghe tiếng ríu rít như chim hót, tiếng kêu nghe thật vui tai, lúc vui vẻ như con gà trống gân cổ gáy, khi giận dữ chẳng khác mấy mụ nhà quê lộn tiết rít qua kẽ răng !!!
Ấy là chưa kể áo quần tôi bên Tây thì có bên Tầu thì không, được mô tả thẩn thơ với hôm qua em đi tỉnh về với chân chất quê mùa thì giống như cái váy, được tiện bằng gỗ, hình ống, để các cụ như bí chữ, đọc lộn ngược là…cái bát điếu. Thế mới lộn đầu lộn đuôi chết người, cái bát điếu với chả…cái điếu bát.
Với cái tên, rồi mỗi thời mỗi khác, riêng thời của các cụ tôi xưa cũng có phúc có phần, cũng thế gia vọng tộc như ai, đời vua Tự Đức được phong quan chức là “Thủy Hỏa Mặc hầu”. Chẳng phải vẽ rết thêm chân, chứ như gia tộc của điếu tôi được các cụ kể lại khởi nguyên từ quan Nội Hầu Phạm Ngũ Lão, người làng Phù Ủng, Hải Dương. Theo sử sách thì họ Trần khởi thủy từ trấn Hải Dương này, sau mới dời về đất Tức Mặc, trấn Sơn Nam. Đến đời vua Trần Anh Tôn, Phạm tướng quân cầm quân chinh phạt xứ Lão Qua, tức nước Lào, quân sĩ xa nhà, đêm đến trời lạnh lẽo nên bắt chước cư dân địa phương hút lọai thuốc này cho ấm và giải khuây nỗi sầu viền xứ. Khi trở về, du nhập luôn thói quen hút thuốc phì phò ấy và sau được gọi là…thuốc lào.
Cụ tổ điếu tôi được sinh ra đời vào khỏang thời gian ấy, năm nào không rõ. Chỉ biết rằng it lâu sau Phạm tướng quân kết duyên với con gái nuôi của đức thánh Trần và sinh ra công nương Tĩnh Huệ. Sau này gá nghĩa với một ông nghè làng Mộ Trạch, cũng người Hải Dương, cùnng quê với cụ “Trình quốc công sấm ký” Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và cụ tổ điếu tôi theo công nương về làm dâu dòng họ này từ ngày ấy. Đến thời cụ cố điếu tôi, vào thời Hậu Lê, dòng họ này có một ông đồ, ứng vào con đường khoa cử và gia cang càng ngày càng đi xuống. Ông đồ thi hương, trúng tuyển tam trường nên được gọi là sinh đồ, tính thi hội để được gọi là hương cống. Nhưng ông không có cái duyên với cái nghiệp bút nghiên, nên rút cuộc vẫn là ông đồ bát nháo, dở ông dở thằng. Thế nên ông sinh bất đắc chí không thiết gì thi cử nữa, tiến vi quan đạt vi sư, nhưng ông cũng chẳng chịu an phận thủ thường với nghề dậy học, và cũng chẳng màng đến mài mực ra mà kiếm gạo, nên ông cứ nằm co với mo cơm tấm, ấm ổ rơm là đủ.
Như dông dài vừa rồi, cụ cố tôi hầu hạ điếu đóm ở nhà ông đồ từ lúc ông còn để chỏm, với gia cảnh túng thiếu như vậy, một tay cụ lo toan gánh vác, buôn đầu chợ bán đầu sông, tất bật đêm ngày nên cũng tươm tất đâu vào đấy. Riêng ông đồ tự cho mình là bậc nho giả sinh bất phùng thời, đâm dở dở ương ương, chập chờn hoang tưởng mình là tráng sĩ mài gươm dưới trăng “Ta mượn nâu sòng che kiếm bạc - Mười năm gió núi lộng thư phòng”. Đến cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc, tưởng ông đồ không còn gì huyền hoặc nữa, thì bỗng dưng không đâu ông lững thững phong kiếm quy điền, đóng cửa tạ khách. Lâu lâu như kỳ nhân dị sĩ, lại thả hồn về phương tây phương bắc, miệng ngâm nga như điên như khùng “Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vi vút đá chạy cát dương”. Cụ cố tôi lấy thế làm lo lắm và hỏi cho ra lẽ thì hóa ra trong tâm tư ông đồ đang mang một hòai bão, mà cụ chịu không hiểu nổi. Ai đời thân học trò trói gà không chặt, văn dốt vũ dát, không biết kỳ môn, không rõ trận đồ, không tinh binh pháp…Lại đâm đầu đi tìm thanh trường kiếm Thiên Thanh nặng hơn một cân của Mạc Đăng Dung, hiện đang lưu lạc ở đâu đó.
Nhân một hôm, cụ cố tôi được qua hầu thuốc với người làng là cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm và được cụ Trạng dậy “Tan tác Kiến kiều An đất nước – Xác sơ Cổ thụ sạch Am mây”. Xong cụ bỏ lửng, nói vọng bâng quơ ra cửa: “Chép miệng đánh tan quân kiến gió – Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi”. (Lúc này chưa có địa danh Kiến An và Cổ Am, riêng Hải Dương với tên cổ là Hải Đông, vì nằm ở phía đông Thăng Long thành). Và cụ cố tôi như ngộ ra, về nhà, cụ luận về thời thế tạo anh hùng với ông đồ rằng: Không lẽ suốt đời chỉ lo mài dũa ngôn từ, chuyên công làm văn, tuổi xanh làm phú, đầu bạc tụng kinh. Nay quốc phá gia vong, sao không như người xưa, lấy sở học ra kinh bang tế thế, lấy chí nhân thay cường bạo, đem đại nghĩa thắng hung tàn. Được làm vua thua làm giặc, sao không theo phò Mạc Kính Cung, tức vua Càn Thống, hiện lẩn quẩn ở Sầm Nứa, Hòa Bình bên Lão Qua (đất Hòa Bình và Sầm Nứa thời ấy còn thuộc Lào). Một công đôi việc với kẻ sĩ bách vi, mang ít cây thuốc của người địa phương về để con cháu có cơ ngơi canh tác, gây dựng hương hỏa cho dòng họ về sau. Theo cụ cố tôi, nhất cử lưỡng tiện là về khai khẩn vùng đất Cổ Am của nhà Mạc thuộc vùng Thủy Nguyên, phía tây có núi cao, phía đông có biển sâu, giữa là ruộng nương đã bị bỏ hoang từ lâu. Đồng thời đi tìm thanh “chỉ trời xanh” của tiên đế...
Sau này lớn lên, tôi mới biết ấy là ông đồ họ Vũ, xưa kia vốn khởi từ họ Mạc, mộ tổ ở Đông Triều, vào đầu thế kỷ 17. Trong cơn binh biến, họ Mạc lưu lạc tứ phương tám hướng, để ẩn dấu tông tích, mỗi chi giữ một viên ngọc có khắc chữ và cứ chiếu theo chữ ấy mà dùng làm họ. Chi ở lại Đông Triều đổi sang họ Ngô, chi chạy về Nam Định lấy họ Hòang, chi xuống Thái Bình mượn họ Bùi. Riêng chi họ Mạc của ông đồ ghé Hải Dương và nhập vào họ Vũ của ông Nghè Vũ Quỳnh. Thủy tổ dòng họ này là cụ cố tổ Vũ Hồn, giữ chức Kinh Lược Sứ vào năm 841, thời Cao Chính Bình, nhà Đường, làm An Nam Đô Hộ Phủ. Thân phụ là Vũ Huy, người Phúc Kiến, Trung Quốc và mẹ người An Nam tên Nguyễn thị Đức. Nay đã tới đời họ Vũ thứ 18, tôi mới vỡ ra là cớ sự gì ông đồ họ Vũ lại đi tìm thanh trừơng kiếm nặng gần hai cân của dòng họ Mạc là vậy.
Thế là cụ cố tôi tay xách nách mang theo dòng họ Vũ lập nghiệp ở vùng đất này, sau dựng đất Tiên Lãng, Vĩnh Bảo với nghề trồng cây thuốc lào. Nghiệp tổ của điếu tôi khởi đi từ đời nhà Trần, sang đến đời Lê, vua Lê Thánh Tông có bài vịnh Cái Xe Điếu với hai câu “Động sóng tuôn mây khi chán miệng – Nghiêng trời lệch đất thuở buông tay”. Gặp lúc nhà Lê suy tàn, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn dụ qua khói thuốc để có câu thơ “Thôi thôi mặc lũ thằng hề - Gió mây ta lại tìm về gió mây”. Lại nữa, qua đời Nguyễn với vua Gia Long, lại có thêm giai thọai cụ Nguyễn Hầu Cẩn Chánh Đại Học sĩ đi sứ lần thứ hai vào năm 1813, cụ ghé tỉnh Nghi Hưng chuyên làm ấm trà và đặt cả thuyền điếu bát. Trước đó cụ đã cho thợ mộc lấy gỗ đẽo điếu tôi làm mẫu, ngòai vẽ nét thảo trúc lâm thất hiền hay đạp tuyết tầm mai này kia. Xong, nhận hàng về đến sông Tiền Đường, cụ lấy điếu tôi ra ngắm nghía thì mới ớ ra là tòan điếu…đặc như quả bưởi, quả bòng vì mấy tay thợ mộc quên khuấy, chẳng…khóet rỗng ruột.
Riêng cụ Lê Qúy Đôn với tập Đồng Khánh Dư Địa Chí Lược gọi cây thuốc lào là tương tư thảo, mang cái tên gợi nhớ gợi thương như câu ca dao trúc xinh trúc đứng đầu đình và sau này được đọc chại đi, để quảng bá cho làng nước với “Em xinh em…hút thuốc lào vần xinh”. Gần đây nhà thơ Quang Dũng cùng “Một thóang em về trong đáy cốc – Nói chuyện vui cười một đêm mưa”, chả là ông đã gợi ý qua câu hát quan họ: “Thóang bóng ai về trong khói thuốc - Mắt cừời lúng liếng lá răm tươi” này kia mà ra thơ. Nhưng đó là chuyện thơ thẩn và chưa kể lể đên những câu đồng dao như “Những nơi chiếu cói, võng đay - Điếu sàng, xe điếu chàng say là đà…”.
Mà tôi có dài dòng văn tự rằng như vậy, là như thế, chẳng qua là trong những thú chơi với tổ tôm, xóc đĩa hay hát cô đầu, ca trù của các cụ ta xưa thì chẳng có gì nhiều chữ nghĩa như…điếu tôi. Theo sử thi cổ cũng như kim, điếu tôi chỉ đứng sau nhất vàng, nhì vện, tam khoang, tứ đốm mà thôi. Và dường như tất cả ở cái “võng đay” từ câu hát dân gian trên mà ra, “trước” và “sau” trăm sự cũng nằm ở…cái võng:
Cố tôi đã về với thiên cổ, đời sau con đàn cháu đống, sinh sôi nẩy nở như cá lòng tong đẻ vào những ngày mưa phùn gió bấc, nên còn đi xa hơn nữa, vào tới tận Quảng Bình và cuối cùng thì ngừng chân ở đây, không hẻo lánh tới Đàng Trong, ấy là thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Vì những lỉnh kỉnh như nào là cây thông điếu, đến đóm làm lạt tre, phải là tre giang, mình dầy lóng dài hay nứa tước mỏng, lại còn phải phơi khô này nọ. Để rồi tất cả bằng vào sự tình cờ, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà lần thứ ba đánh quân Thanh. Ngài hành quân thần tốc, cứ ba người thay phiên nhau cáng võng bằng với cái đòn tre bánh tẻ. Bánh tẻ chỉ chung một lọai tre thân to, ruột rỗng, không già cứng, không non mềm. Nhìn thấy cái đòn võng, có chú suất đội trong tóan lính bật ra cái ý nghĩ nên thay cái điếu bát bằng cái điếu tre. Chú suất đội cắt ống tre, một đầu còn mấu để đựng nước, ngang thân ống khỏang một phần ba, chú khóet một cái lỗ đủ để gắn cái nõ hình như cái phễu, tỏe ngang như hình cái guốc, tên tục thọat đầu gọi quê mùa là…cái guốc điếu. Khi hút, khói thuốc đi qua cửa ải này, kêu giòn hay không ở chỗ khéo tay gọt cắt cái nõ hay guốc điếu vừa kể trên. Sau người nhà nông thấy tiện lợi, dễ dàng mang theo trong công việc đồng áng, nên đọan tre một đầu được vạt nhọn, cái đầu vẹt nhọn ấy cắm xuống bờ ruộng. Cầy bừa xong đến lúc nghỉ nghơi, kéo lên rít một hơi là xong tất. Thế nên được gọi là…cái điếu cầy.
Ấy là chuyện trước, chuyện “sau” cũng với cáng võng: Rằng sẽ kể lể…sau.
Lính của vua Quang Trung cứ hai người cáng võng cái nồi ba mươi, người còn lại chạy theo lúii húi mồi lửa nấu cơm bằng con cúi rơm. Đó là thân cây lúa khi đã gặt đập hết thóc và tết lại như kết tóc, to bằng bắp tay hay bắp chân để dùng làm mồi giữ lửa, lửa âm ỉ cháy, khi cần thì thổi phù phù vào mồi và lửa sẽ bốc lên. Thế là cái điếu cầy gắn liền với…con cúi rơm như định mệnh đã an bài với lại hai người cáng, một người nằm trên võng và thảnh thơi rít thuốc lào. Thời thế đổi thay, người Bắc tha phương cầu thực vào đến trong Nam khỏang đầu thế kỷ 20, trước cả phong trào mộ phu đồn điền cao su 1902. Lúc ấy diêm, quẹt còn hiếm, không lẽ đi đâu cũng mang con cúi rơm ở quê nhà to bằng cái bắp chân, nên họ mang theo nắm bùi nhùi, trong túi thủ hai hòn “đá kỳ” như hai cục xà-phòng, cần tắm táp thì kỳ cọ. Cần hút thuốc họ cà mạnh hai hòn đá vào nhau cọc cạch cho…tóe khói, tóe lửa. Vì thế có một dạo, người nước Nam gọi người nước Bắc Kỳ ta với cái tên…”Cọc cạch lửa” là thế.
Rồi cũng theo những bước thăng trầm của vận nước nổi trôi, với lịch sử là một cuộc tái diễn không ngừng…Năm 54, dòng họ thuốc lào tôi tay gánh tay gồng với rau muống, dắt díu nhau khăn gói lũ lượt di cư vào Nam đất ấm tình nồng. Và rồi trải rộng ở vùng Cái Sắn hoang sơ vắng ngắt, chiều chiều nghe tiếng chim cu đất kêu lại nhớ nhà trong điếu thuốc, khói huyền bay lên cây để có thuốc lào 3 số 8 ở tiệm Vĩnh Phát vùng Ngã Ba Ông Tạ. Thôi thì hãy trở về với kẻ sĩ với cái điếu cầy trong một thời thái bình thịnh trị “Ngẩng đầu đưa khói vào mây – Nghênh ngang hiền triết điếu cầy thăng thiên”. Và phải đợi đến cái năm thế sự thăng trầm quân mạc vấn, ấy là năm 75, thằng em điếu cầy mới hồ hỡi có mặt chỉ vì đôi rép râu mũ tai bèo. Thêm một lần nữa dòng họ tôi lại vất vả ngược suôi, bên kia là núi bên này là sông, từ trại cải tạo trong rừng Katum biên giới Việt Miên, đến tận dẫy núi Hòang Liên Sơn biên giới Việt Hoa, heo hắt với gió thổi muông chiều. Vào những ngày cận Tết mỗi năm hoa đào nở, lại nhớ cánh mai vàng của miền Nam mưa nắng hai mùa và ngơ ngáo nhìn nhau: “Điếu cầy càng rít càng kêu - Mặt người dại khói càng vêu mặt người” . Để người thơ Thanh Tâm Tuyền vay mượn từ câu ca dao nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên, để có năm ba câu thơ nhớ đời: “Nhớ bạn như nhớ thuốc lào – Đường gần nhưng cách trở xiết bao”. Và đường gần đây là cái hàng rào kẽm gai của hai láng và ông đã trầm ngâm trong một chiều vắng: “Mong ngày gặp lại nằm chung chiếu – Tán gẫu qua đêm như thuở nào”.
Ngược về cái buổi nhiễu nhương ấy, thằng em tôi tranh thủ về thành phố trấn ở đầu đường cuối hẻm, hàng quán không có mái che, dăm cái ghế gồ chân thấp, dưới đất có cái bếp lò, trên bàn dăm bịch ny lông đựng trà và thuốc lào 3 số 1 xuất xứ từ đường Lý Thái Tổ và không thể thiếu cái điếu cầy với những kẻ sĩ sinh bất phùng thời. Nơi hè phố, hút một điếu thuốc lào, hãm một ly trà mộc, kẻ sĩ ngâm nga: “Hãm một ngụm trà khô mộc thảo - Hồn bay lên một cõi trời mây”. Để trôi dạt về những ngày tù tội, mới cảm thấy nỗi nhớ “Ngồi chơi hút điếu thuốc lào - Tạm quên những lúc gian nan ưu phiền” cùng nỗi say bằng vào mỗi buổi sáng “Điếu thông, đóm nỏ, thuốc êm - Thử coi sẽ thấy đảo điên ngất trời””. Rồi nhét viên bi, bắn một phát, rồi ngà lăn đùng ra, mặc kệ trời đất xoay mòng mòng và nỡm ạ, “Sá gì mấy cuộc bể dâu – Loay hoay chỉ tổ bạc đầu mà thôi”.
Sá gì một cuộc bể dâu, hãy nghe một người viết kể lể mà điếu tôi đọc lóm được:
“Cái điếu đó, làm sao tôi quên được những ngày ở trong tù, sang đến đất Thái với diện H.O. Trưa mùa hè nắng gắt, giữa đám người nắm, ngồi, ngổn ngang trong trạm tạm trú, nhớ điếu, thèm hút, tôi mới cảm thấy cái cảnh chia ly giữa tôi và cái điếu cầy nó thảm thiết, ray rứt và buồn thảm như thế nào. Bỗng tôi…”nghe” thấy mùi thuốc quen thuộc và thóang nhìn thấy một làn khói trắng, tôi biết chắc đó là khói thuốc tương tư thảo. Đang cơn ghiền, tôi mò tới làm quen, mục hạ vô nhân, bèn bắn một quả khai pháo cả một cối thuốc “Tựa lưng thả khói thong dong – Tít say lú lấp cả mong với chờ” và kẻ sĩ ly hương lại thêm một lần u hòai “Người bỏ xứ ngồi ôm vừng trán rộng - Nhớ nhà trong điếu thuốc lào say”. Bởi thuốc lào sấy nắng, bao nhiều gió sương nắng nôi của đất nước quyện thành nên tôi ếm cả nắng gió quê nhà vào buồng phổi thì cảm nhận, không có cái say nào bằng say quê hương. Chỉ có một chút khói quê hương sao mà say, dù rằng mới xa quê nhà mới có mấy ngày, lại liên tưởng đến câu thơ “Sớm mai đánh bệt trước thềm - Đứ đừ phun khói thuốc lên tận trời” và ngẩng đầu về phương đông, phương bắc, chẳng biết bao giờ trở lại”.
Nói cho ngay, nước ao mà chẩy lên đồng, sau năm 75 là thời của thằng em điếu tôi.
Trở lại chuyện những nơi chiếu cói, võng đay, với chuyện sau nhưng lại là truyện “trước”. Trước là tôi theo cái nghiệp nhà là…”điếu đóm”, gần đây điếu tôi được xem như con cháu nhà, nên tôi xin mạn phép được gọi cụ ông họ Vũ đời thứ 16 là “ông nội”. Lúc này, nghề nhà với thuốc lào Vĩnh Bảo, dưới tay ông nội tôi đã có tiếng từ xứ Đòai sang xứ Đông. Có một dạo chỉ thua thuốc lào Cả Nghị ở dốc Hàng Gà đầu phố Huế, nhưng trội hẳn thuốc lào Ông Tề vùng Bến Tre. Có thể nói, trồng thuốc và ủ thuốc là nghề gia truyền của dòng họ, cha truyền con nối đến ông nội điếu tôi là phất như diều. Thong dong với nghề nhà thì cây thuốc trồng lá mầu xanh rêu, thân to và cứng, bẻ lá dưới gốc được để nguyên cả tầu, xếp thành bó móc trên sào ngang phơi khô. Chừng độ đủ nắng, lúc lá đã rũ mề, cuốn lá tròn, dùng dao bầu to bản thái từng sợi nhỏ, những sợi ấy trải trên nong phơi và ủ. Lúc đầu lá còn tươi, mùi ngai ngái, sau se khô, mùi hăng hắc, chưa tẩm thuốc, được gọi là thuốc mộc. Sau xóc thuốc và đấu thuốc, đấu là trộn hai ba thứ với nhau, về mùa hanh, thuốc khô giòn, khi đấu thuốc phải phun một lớp nước đường lõang. Kịp lúc người Pháp có mặt, ông tôi học được lọai thuốc mới mầu vàng đen, đằm và ngon hơn, mùi thơm và khói bay vào tới tận…kinh đô Huế với vua Khải Định.
Khỏang năm nào điếu tôi không nhớ, vua ta ra Hải Phòng để đi Marseille dự đấu xảo. Cái năm ấy, nghe nói nhà vua khuân cả…”hành cung” qua bên ấy để khoe mẽ, mà nói cho ngay, vải thưa che mắt thánh: Hành cung không ngòai…cái ngai vàng và cái long sàng được cưa sẻ lại bằng gỗ quý vậy thôi. Và chuyến đi ấy, của đáng tội, trong đó có đấu xảo cả mấy…phong thuốc lào Vĩnh Bảo-Tiên Lãng. Cũng một công đôi việc, vua ta ghé quận đường để ban cho ông nội tôi chức hàm cửu phẩm vì có công phát huy nghề trồng thuốc đầy dân tộc tính, thơm ngon nực mùi chẳng kém gì thuốc Gaulois của người Tây. Vì vậy mới sáng tinh mơ, ông nội tôi đã khăn đống áo the, tay cắp tráp đi hầu vua. Vì ngại quan trên trông xuống kỳ mục trông vào, lại sợ phạm thượng nên lễ bộ của ông nội tôi chỉ có thế, không ô che lọng chắn, xe tay xe kéo với kẻ hầu người hạ, và theo sau là hai chú tá điền khiêng cái trống to đùng.
Cái trống này là trống lâu đời của đình làng, theo các cụ thì khi gõ nhẹ, có đủ ngũ âm như vũ, chủy, dốc, thượng, cung. Lúc đánh lớn thì âm vọng tới cả mấy xã, mấy tổng. Trống được làm bằng da trâu mộng mạn đường ngược, mà phải là lọai trâu sừng cánh ná, tai lá mít thì da mới dầy. Tang trống là nguyên thân gỗ lim khuét rỗng đến hai, ba người ôm không suể, ngâm nước cả năm rồi phơi nắng để hấp khí âm khí dương. Trên đường cái quan, hai chú tá điền đang phởn phơ khiêng trống thì cái quai trống bện bằng giây thừng bị đứt, cái trống đổ lăn long lóc xuống ruộng. Vì vừa to vừa nặng, nên hai chú tá điền không cách nào vác lên nổi, cả ba, trong đó có ông nội tôi, đều cuống quýt không biết làm cách nào. Cùng tắc biến, biến tắc thông, bỗng một trong hai chú tá điền vỗ trán một cái bốp và ba chân bốn cẳng, ù té chạy vù sang làng bên cạnh, lúc này nhà không vườn trống vì ai nấy đều đã lên huyện xem mặt rồng vua ta.
Một lát sau, chú ấy hí hửng mang về được: Một cái võng.
Trống được võng lên huyện đánh thùng thùng vang trời vọng đất để đón vua…Vua ta nghe chuyện, thấy chú tá điền vừa có công khiêng trống, vừa lanh trí nên ban cho chú ấy phẩm cửu hàm. Còn ông nội điếu tôi, của người phúc ta được đôn lên hàng bát phẩm. Nhưng chuyện bất ngờ với thiên trời, địa đất, tồn mất, tử còn, rằng là chú ấy nghe vua phán xong, mừng quá đỗi, bèn lăn đùng ra đất, tay bắt chuồn chuồn, rồi trợn mắt trắng dã về chầu ông bà ông vải ngay tại sân huyện. Của khôn người khó, thế nên vua ta bèn cấp thời phong cho chú làm Thành Hòang làng điếu tôi. Dân làng rất mừng vui, cũng không quên quỳ mọp xuống cung kính khấn vái và gọi là: Ông Cửu Võng.
Nhưng dân làng bên cạnh vì trâu buộc ghét trâu ăn nên đâm ức, lại bị mất võng. Nên có lời ong tiếng ve và bôi bác gọi ngài Thành Hòang làng tôi là: Thằng ăn trộm.
Riêng ông nội điếu tôi mặc dù được thẻ bài ngà do chính tay vua ban, nhưng ông nội tôi cũng không lấy đó làm thỏa thuê gì cho lắm. Cũng chẳng phải vì dân làng bên cạnh gọi xách mé Thần Hòang làng mình là thằng ăn trộm, mà tang thương ngẫu lục thì chuyện nó như thế này: Nếu “điếu tôi” ở cái thời buổi giao thời ấy, nếu được đi học để có chút tiếng Tây tiếng u, thì cả tháng tiền trọ học, ăn ở giặt dũ chỉ mất ba đồng bạc bà đầm xòe, một đồng là mười hào, một hào là mười xu. Đến đời ông vua con còn đúc tiền chinh, giá trị chỉ bằng…nửa xu. Hành khất ngửa tay được có một chinh nhẹ hều, vì vậy họ hàng nhà Hồng Thất Công có câu “Bảo Đại làm hại ăn mày” thì cũng chẳng ngoa.
Chuyện này quàng qua chuyện kia như chó đái dắt, vì rằng tôi tay hòm tay khóa nên biết tỏng ông nội tôi, cứ bánh thuốc lớn 25 xu, bánh nhỏ gói hình quả ấu 5 xu. Năng nhặt chặt bị, lúc này ông tôi ăn nên làm ra và gần như giầu nứt đất đổ vách, giầu đến độ mấy quan Tây phải lập một đồn thuế quan ngay bến đò Qúy Cao để đánh thuế…ông nội tôi, bến đò này, ông tôi có cả một đội giang thuyền tam bản mấy chục chiếc chở thuốc lào đi tứ xứ. Một thuở hòang kim của gia đình ông nội tôi là một dinh thự kiểu Tây, nằm trên một nền gạch cao cả thước, cột La Mã, Hy Lạp gì đó dựng thẳng vút, trong nhà đèn “măng-sông” sáng choang. Năm cậu ấm tôi mười tám tuổi đã lấy xe ô tô của ông nội tôi, chiếc xe thứ hai sau Hòang Cao Khải của xứ Bắc Kỳ, và cậu ấm tôi đầu đội mũ cối thuộc địa, áo bốn túi có cầu vai, nhởn nhơ đi Đồ Sơn tắm biển. Hết ghé dốc phố Cát Dài ăn chả rươi, khi ghé phố Cát Ngắn sơi tôm he, tôm càng.
Để rồi ông nội điếu tôi vẫn tối ngày bần thần đi ra đi vào và thở ra, vì từ thời Khải Định qua đến thời Bảo Đại, mợ ấm tôi sơi tôm cua cho lắm nên cứ lười chẩy thây ra, chẳng chịu đẻ đái gì sất cả, để són cho ông nội tôi có thằng cháu nối dõi tông đường. Tiếp đến cả hai cậu mợ ấm, thay phiên nhau nhang khói, lời kệ, câu kinh, tiếng chuông, hồi mõ qua hết đền này miếu kia, ăn chay niệm phật, lạy thần khấn thánh để mong có thằng con cầu tự. Nhưng chẳng đi đến đâu, mợ ấm vẫn không chịu nhúc nhích, cứ ì ra, nhà trên nhà dưới vẫn vắng như chùa Bà Đanh. Đến nỗi có lúc ông nội tính kiếm mợ hai cho cậu ấm thì may quá trời thương Phật độ, có người mách về đền Bảo Sơn khấn. Đền này nằm ở làng Phù Ủng, quê ngọai của ông nội tôi, đền thờ Phạm Ngũ Lão, dầu gì cậu ấm cũng là hậu duệ đời thứ 17 của ái nữ Phạm tướng quân, chứ đâu có xa lạ gì.
Y như rằng, linh thật là linh, tháng sau Phạm tướng quân hiện về bay vèo vèo qua bến phà Khuể trên con sông Văn Úc. Bên kia là huyện Tiên Lãng có làng An Tử Hạ là quê ngọai của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, ở đây có mả Nghè, nơi an táng cụ được gọi là đất Lý Học. Cái tên từ người Chu Sán, danh sĩ đời nhà Minh với câu “An Nam Lý học hữu Trình Tuyền”. Qua Tiên Lãng là bến Hàn, xưa ở bến này có quán Trung Tân, nơi cụ Trạng ngồi ngâm vịnh thế cuộc, thiên cơ, quốc vận. Bến đò ấy đưa khách từ Ninh Giang sang huyện Vĩnh Bảo bằng cái cầu phao là địa phận Cổ Am, vùng đất trồng thuốc lào với thập bát trang am như Đông Am, Nam Am, Thượng Am, Hạ Am... Như cụ Trạng Trình qua sấm ký “Bao giờ Tiên Lãng chia đôi – sông Hàn nối lại thì tôi lại về”. Con sông đào cổ xưa chảy qua Tiên Lãng bị bỏ lấp từ lâu, nay được khơi lại với cái cầu phao được bắc lên, hai huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo được nối lại.
Vào năm 1944 hay 1945, điếu tôi không nhớ rõ, có một bài khảo luận viết với ẩn dụ gì tôi cũng chẳng hay mà ngay cả những nhà biên khảo, sử gia và khảo cổ học vắt óc bàn mãi không ra. Chuyện kỳ bí là ở tại bến đò vốn dĩ vắng mé đìu hiu này, bỗng khi không có chục ông bà xẩm mù và thầy bói mù cùng con cái nhếch nhác kéo về đây lập cư (bài viết còn dẫn chứng…có một người con của vợ chồng xẩm mù. nay là phó tiến sĩ địa chất học, tốt nghiệp bên Nga, hiện đang ở Hà Nội). Rằng thầy bói mù với cụ Trạng cùng họ hàng hang hốc thì chẳng nói làm gì. Còn nhóm ông bà hát xẩm thì sao?. Theo họ, những nhà khảo cổ, sử gia “đi điền dã” với “đi thực tế” thì mắt thấy tai nghe những khúc hát Nam ai với hồn non nước, nghe nẫu ruột, não lòng cả một bến sông. Rồi họ lại vật vã với câu bao giờ Tiên Lãng chia đôi, sông Hàn nối lại…Nhưng họ cũng như mấy thầy bói mù, chẳng ai lý giải được câu sấm ký ấy. Vì: “Tôi” là Ai ???…
Phạm tướng quân lại dùng kính chiếu yêu, chiếu về một vùng đất hòang kim cùng niên đại, niên kỷ cùng gia tộc của nhà Mạc từ Kiến An lên đến Uông Bí: Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương ( thuộc Kiến An). Cụ tổ bẩy đời tên là Đĩnh Chi, đậu trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) thời vua Trần Anh Tông, làm quan đến chức nhập nội hành khiển thượng thư môn hạ, vang danh bốn biển với lưỡng quốc trạng nguyên. Mạc Đăng Dung xóan ngôi nhà Trần, lên ngôi vua vào năm 1527, cho dựng Dương Kinh mới ỏ Hải Dương quê nhà, đấy là thành phố ven biển đầu tiên của nước ta. Từ Hải Phòng lên đến Quảng Ninh, đều dầy đặc di tích thành quách nhà Mạc như điện này, cung kia với phố phường giống như Phố Hiến, Hưng Yên, cùng chùa, đền và ngay cả văn miếu nữa. Phạm tướng quân như Tôn Ngộ Không, Ngài lửng lơ đứng trên mây, khom khom tay che mắt nhìn gần hơn một chút với quá khứ vị lai thì thấy năm 1991, thành phố Hải Phòng đã tổ chức hội nghị chuyên đề về nhà Mạc và Mạc Đĩnh Chi. Nhân kỷ niệm 500 năm của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, cụ là ông trạng nhà Mạc dưới ba triều vua là Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải và Mạc Phúc Nguyên.
Bay vi vút qua mấy rặng tre, nóc rơm nóc rạ trong làng, nhưng khôn nhà dại chợ, Ngài nỏ mắt tìm không ra một mống. Vì cái làng gì đâu, trồng gì không trồng lại đi trồng…thuốc lào và đầu thôn cuối ngõ tòan là thợ cắt, thợ ủ, thợ đấu. Vì là làng tân lập, nói không phải là làng văn học cũng không hẳn là đúng, theo như mấy thầy địa lý với địa linh nhân kiệt cùng long chầu hổ phục, thì đầu rống nắm ở tận làng Hành Thiện thuộc Nam Định, chân sau nằm ngay cái ao thuộc huyện Tiên Lãng. Nên long mạch bị úng thủy, hay nói khác đi là chân rồng bị…phong thấp, ai nấy muốn đại đăng khoa, tiểu đăng khoa thì phải đợi…Đợi đến khi nào chân rồng cọ quạy như muốn đi, là đã đến lúc phải bỏ làng bỏ nước, tha phương cầu thực xứ người…Chuyện quá khư vi lại nó là như vậy và Phạm tướng quân cũng biết thế, tính vào nhà báo mộng cho ông nội điếu tôi biết.
Vừa dẵm chân bước vào nhà thì Phạm tướng quân trợn mắt, bắt gặp ngay “Thằng ăn trộm” đang lúi húi nhét “điếu tôi” vào cái bị cói. Vì không ít thì nhiều, điếu tôi cũng là của gia bảo của dòng họ Vũ bấy lâu nay. Tướng quân nhìn kỹ hơn, hóa ra…Chết bu, chính là ông Cửu Võng: Thần Hòang của làng tôi.
Bị bắt quả tang, sợ quá, ông Cửu Võng đánh rơi “điếu tôi” xuống đất.
Mặc dù là thần là thánh, nhưng Phạm tướng quân cũng mờ người ra suy nghĩ mông lung vì cái khó nó bó cái khôn. Vai vế phẩm hàm sau ông nội tôi là ông Cửu Võng, Ngài tính hóa kiếp ông này cho đầu thai vào mợ ấm tôi, nhưng Ngài còn phân vân vì thấy ông này đúng là…thằng ăn trộm. Còn đang suy tính cách nào cho vẹn đôi bề, mà trời cũng gần sáng rồi, đã đến lúc Ngài phải thăng. Bất chợt Ngài nhìn xuống đất, và thấy thằng “điếu tôi” đang nằm ngổn ngang trăm bề với năm, sáu mảnh.
Phạm tướng quân vuốt râu, bật cười ha hả và vù…biến mất.
Như cụ Trạng Trình qua sấm ký với “Bao giờ Tiên Lãng chia đôi – Sông Hàn nối lại thì tôi lại về” để đúng ngày đúng tháng, lòng vòng thì dòng họ Vũ có được cậu quý tử nhằm vào vận nước chia đôi và “Tôi lại về” được đặt tên cong vòng là…Cung.
x x x
Nằm ngã bất tỉnh nhân sự chẳng biết bao lâu, lão chòang tỉnh dậy vì thóang nghe thấy có ai gọi tên lão. Lão thấy người ê ẩm râm ran, lại giật mình thấy trời chiều bảng lảng bóng hòang hôn lúc nào không hay và định thần tự hỏi cớ sự gì mình nằm đo đất ở đây. Bỗng lão hỏang hồn nhớ lại cái ngã bổ chửng hồi hôm và đẩy đưa nghĩ ngay đến một số bài báo viết về những “Lỗ hổng thời gian” của một số người. Sau khi ngã một cái trời giáng, quay cu lơ làm một giấc kê vàng, rồi u mê, bèn buồn tình bắt một chuyến phù vân, vượt thời gian không gian, lạc đường về quá khứ ở một góc làng xa xôi hẻo lánh nào đó. Để rồi tỉnh dậy kể lại khúc cầu này, con sông kia, nhà không số, ngõ không tên... Thỉnh thỏang lại bê về được cái nồi, cái chảo hoen rỉ, cũ kỹ cả mấy trăm năm…
Lão vội xem lại râu tóc, quần áo, vẫn chẳng sứt mẻ gì. Quay sang bên cạnh, lão muốn dựng tóc gáy, sợ như bò thấy nhà táng vì không thấy cái sẻng đâu nữa. Mà thay vào đó là một vật cũ sì, mốc meo như món đồ cổ lâu ngày. Dụi mắt dòm một lần nữa, thóang bắt gặp được một cái gì quen quen, lão vội vàng nhỏm ngay dậy, cái vật ấy cũng chẳng đâu xa, nằm ngay trong cái hố chanh mới đào. Ấy là…Cái điếu bát !
Thóc ở đâu bồ câu theo đấy, để rồi từ năm ấy, lão chẳng quên cái ngày thượng thọ của cụ bạn già…Cũng như không quên cái điếu bát của một cụ bạn mạt chược nằm trên cái kệ kính ngay phòng khách, nó với hai lần di cư, lần đầu năm 54, lần sau 75. Hỏi thăm chừng mua với cái giá “cứng”, cụ ậm ừ không bán, nhưng đến lúc đen bài, mà đen nghĩa là không đỏ, bị chao ù mấy chập thì đâu cũng vào đấy. Cờ đang giở cuộc, bạc chửa thâu canh, thế là cụ cấn ngay cho lão với cái giá “mềm”. Đâu đó cả hơn tháng gần đây, sáng chiều lão đi ngang qua mớ đồ cổ tạp nham, nhìn cái điếu bát với lớp cát bụi chân ai. Lão lại bâng khuâng bồi hồi đến cụ bạn đồng môn, đồng tuế gần nhau cả nửa thế kỷ. Để rồi lão mong: “Mong ngày gặp lại nằm chung chiếu – Tán gẫu qua đêm như thuở nào” để chẳng thiếu chuyện một thời, một dạo với thuốc lào Vĩnh Bảo.
Lại nữa, cũng mới cuối tuần này, lão ngồi ngòai hiên với bộ ấm trà, lãng đãng với thế sự du du hề một thóang bạch câu…Thì không hẹn mà đến, bu nó mở cửa cho một cụ ông, người đồng hương mới gặp ngòai chùa, đến ghé thăm…cây chanh vườn nhà. Cụ tay chống “ba-toong”, vừa bước ra cửa sau, chưa kịp đảo mắt nhìn cây cỏ, không kịp chào hỏi, cũng chẳng chắp hai tay xoắn vào nhau để vái lão hai, ba vái như mọi bữa.
Giọng cụ ông đầy mộc mạc và đon đả:
- Giời ạ…Thật là qúy hóa quá.
Rồi cụ ngập ngừng trong giây lát:
- Nhìn cái điếu của cụ, tôi lại nhớ quê.
Như ếch vồ hoa mướp, lão vồn vã mời cụ ngồi và bắt đầu với:
- Ấy, thưa cụ…Chả là dạo trước ở ngòai Bắc mình…
Phí Ngọc Hùng