Nó mang bản chất bất nhân từ thuở bé. Chưa lọt lòng, lão thầy bói mù dở đã quả quyết:
- Đứa trẻ này không làm Trụ Vương cũng thành Đắc Kỷ!
Câu phán tán hươu tán vượn của lão thế mà ăn sâu vào tiềm thức bà mẹ nhà quê không cách chi tẩy xoá. Bà mong mỏi một thằng con trai, chẳng phải để nối dõi tông đường vì bà đã có ba trai một gái. Nhưng bà bị ám ảnh bởi câu ca dao tục ngữ mà các cụ ngày xưa chẳng biết đào từ gốc cổ thụ nào ra
" Tam nam bất phú tứ nữ bất bần".
Con bé ra đời không đúng "thiên thời địa lợi nhân hoà”, lại nhằm lúc ông bố đổ đốn say sưa nên chẳng ai chăm sóc. Chưa đầy năm nó đã biết lê la khắp xóm, ăn đậu ở nhờ hết nhà người này đến vú chị kia. Cái xóm lao động cùng khổ, đèn đóm lù mù chỉ tổ cho giống người sanh đẻ như vịt nên chẳng lúc nào thiếu những ả nạ dòng cương sữa. Hàng xóm chẳng mấy ai ưa bà mẹ "đành đanh đỏ mỏ" nhưng thương con bé lem luốc nên cũng đỡ, chưa đến nỗi đói lạnh cho lắm.
- Giời ơi là giời, nhà với cửa, chồng với con đúng là của nợ.
Mụ "tru beo méo hộc" lên như con lợn bị cắt tiết. Một thằng ma cà bông nào đó mua hàng chưa trả tiền rồi chuồn mất. Mụ chạy đôn chạy đáo khắp chợ réo làng réo nước inh ỏi mà chẳng thấy đâu. Mất của mụ xót "đồng tiền liền khúc ruột" mà không biết phải làm sao nên thành "giận cá chém thớt" trút trăm tội ngàn vạ vào lũ con ở nhà. Lũ trẻ con "then lét như rắn mồng năm" rúc vào một xó tránh né những cán chổi vung bất tận của bà mẹ vì những lý do vô cớ. Ba thằng con trai mắt trước mắt sau tuồn ra cửa để mặc con chị ôm chặt đứa bé út tránh đòn. Đánh chán mỏi tay, mụ ném cây chổi lông gà vào xó quát tháo.
- Còn chưa lo cơm nước, ở đó mà thút với thít hở con "phải gió đồng lăn chết đốt".
Lài riu ríu dắt em vào bếp, mặt "cắt không còn hột máu". Con nhà "bạch đinh" hình như cũng khác lũ trẻ bình thường, chúng khôn trước tuổi dù chỉ là thứ khôn lõi. Có lẽ bản năng sinh tồn hay kinh nghiệm dậy chúng biết rằng câm mồm sẽ đỡ đòn roi hơn là khóc oà như đám trẻ khác.
- Mày đi đâu thế hử con chết tiệt kia.
- Con qua chị Lương mượn ít gạo, nhà hết từ hôm qua rồi mợ.
- Chúng mày ăn như hạm đến núi cũng phải lở. Bà lấy sức đâu mà lo cho đủ. Thôi nhịn đi đừng bêu xấu mặt mũi tao nữa.
Con Lài im lặng đun lại nồi cháo loãng, thêm ca nước cho đầy rồi chắt vào chiếc bình sữa nhựa bẩn như thứ đồ cổ đời thượng tổ, không quên khuấy chút đường vàng cho em. Con bé cười toe ôm ngay bình sữa lăn xuống sàn đất tu ngon lành như kẻ bị đói ba năm vừa gặp bữa.
Con Lài chẳng hiểu đúc từ cái khuôn nào hay rơi rớt di truyền từ thời Pháp thuộc nên tóc nó hoe hoe, nước da trắng ngần. Dù áo quần luộm thuộm nhưng nó vẫn có nét xinh sắn của một đứa con gái lai. Nhiều hôm nó bế em lân la ra tận ngoài phố xem hàng quán. Nó ao ước có tiền để mua cho con Quên con búp bê nhựa. Tội nghiệp, từ lúc sanh ra đến giờ em nó chưa bao giờ có món đồ chơi nào ra hồn nếu không phải là những thứ nhặt được hư hỏng cũ nát. Có lần ông bán hàng mã dạo tử tế cho nó cái máy bay uốn cắt từ những chiếc lon nước ngọt và nó ngu dại để con Quên cầm, con bé cho vào mồn cắn rách toang cả môi máu me đầm đìa. Đó là hồi nó mười mấy chưa biết xấu hổ chứ bây giờ nó cũng biết buồn, tủi thân khi những người bán hàng liếc chị em nó canh chừng như thể rình bắt lũ ăn cắp vặt.
Ý tưởng đi làm loáng thoáng trong đầu nó từ ngày lão tàu chủ tiệm đồng hồ hỏi nó:
- Lè, nị muốn kiếm tiền không? Ngộ cần một người cơm lước sai vặt
Lão bụng phệ nhưng tốt bụng không xua đuổi chị em nó như những chủ nhân các cửa hàng khác. Ngày mai nhất định nó sẽ hỏi lão Ba. Rồi nó lại nghĩ đến con Quên, ba thằng em kia còn lớn khôn chút đỉnh chứ con Quên còn nhỏ quá. Tự nhiên nó lo cho em nó như người mẹ trẻ quên bẵng bà mẹ thật còn sống sờ sờ trước mắt. Thôi thì kệ, tối về nhà lo cho Quên còn hơn cả ngày bồng bế lang thang đói rách. Đầu óc nó quyết định giản dị , mau lẹ và nó yên tâm bế con Quên nằm đu đưa trên chiếc võng. Tiếng võng kẽo kẹt át mất tiếng ruột quặn cào vì chưa có gì lót dạ từ sáng ngoài chút cháo suông.
- Ầu ơ, ví dầu cầu ván đóng đdinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...
- Câm mồm đi con khốn nạn, thằng bố mày về lại chửi cha "cả lò nhà mày" ở đó mà hát với hò.
Tuổi thơ của con Lài chỉ vỏn vẹn đôi năm đầm ấm. Nó nhớ mang máng như vậy cho đến ngày ăn cái tát đầu đời nẩy lửa vì tội nựng em bé bằng cách bẹo má cậu nhỏ bắt chước đám người lớn. Từ ngày có em trai , nó hiểu một cách mơ hồ về bà mẹ "trọng nam khinh nữ" và ông bố không bao giờ biểu lộ tình phụ tử vì lý do cay đắng. Đủ tuổi nai thằng em trẹo xương sườn, con Lài dần dần thay mặt người đàn bà chuyên ăn quà như mỏ hoét trông nom các em. Mụ Dậu chỉ còn bổn phận đẻ đái như để trả đủ món nợ ái ân rồi đem con bỏ chợ. Ông bố vô trách nhiệm cũng chẳng ngó ngàng đến núm ruột mà ông cứ nghi ngờ chẳng phải của mình. Bầy trẻ thơ tha hồ nằm vạ nằm vật theo bản năng con thú hoang đúng kiểu "trời sanh voi sanh cỏ". Những lúc ốm đau chúng chỉ tự động nằm lì một xó chờ cơn bệnh qua khỏi sau trận sốt hầm hập. Thế mà chúng vẫn sống phây phây nhờ vào lòng tốt của những người hàng xóm, thỉnh thoảng ban bố cho chúng màn cạo gió hay bữa ăn sang trọng từ những của thừa sau bữa giỗ to. Nhiều lần thằng bố túng tiền cờ bạc chẳng ngần ngại xúc gạo đem bán. Lũ trẻ đói oặt ẹo cũng chẳng dám than van chỉ tổ vừa nghe mụ Dậu bới tam đại nhà chồng lên chửi, lại ăn thêm trận đòn thù của người cha say sưa. Cái địa ngục trần gian đó vẫn tiếp diễn dưới con mắt thương hại của hàng xóm nhưng chẳng ai buồn mở lời khuyên can hay đúng hơn chẳng ai muốn giây dưa với gia đình mụ Dậu vì sợ cái mồm to hơn cái ống nhổ của mụ.
Con Lài nấu nồi cơm đầy, dặn dò thằng em lớn rồi ra khỏi nhà. Đó là ngày nó đi ở đợ cho lão tàu chủ hiệu đồng hồ. Một ngày tối mịt nó về đến nhà, đánh thức các em dậy cho mỗi đứa gói xôi thịt mặn nóng hổi không quên con búp bê nhựa cho con Quên. Nhìn đàn em cười toe toét, nó cảm thấy tất cả những gì nó đánh đổi đều xứng đáng không chút hối tiếc. Nói cho có vậy thôi, lúc mấy đứa đùa chán lăn ra ngủ tiếp, nó rón rén mắc màn, cẩn thận chèn bốn góc xong là lúc nó nước mắt ngắn nước mắt dài, múc nước xối liên hồi bất tận như để tẩy xoá dấu vết bàn tay lão tàu già. Đời con gái của nó trôi lờ đờ chậm hơn cả giòng nước cống lợn cợn váng xà bông, ngập ngừng chưa chịu chảy xuống cái rãnh gần nghẹt cứng những rác. Mụ Dậu vẫn bôn ba đâu đó trên những tuyến đường buôn hàng lậu, cũng có thể đã bị bắt đâu đó không chừng hay chết dấm chết dúi ở cái ngã ba tam biên đầy cạm bẫy. Cả tháng nay mụ vắng bóng, căn nhà êm ấm hơn. Lại nhờ đồng ra đồng vào của con Lài nên Lão Dậu có chút tiền được thể say sưa chẳng thèm ngó ngàng. Mặc xác con Lài bương chải chống đỡ mái nhà dột nát.
- Làm ăn gì cái ngữ ấy, nghề ngỗng gì cái ngón "đưa người cửa trước rước người cửa sau".
Cả xóm đều biết con Lài thôi làm cho lão Ba, nó ăn mặc chưng diện đi bán cho tiệm cà phê xanh đỏ. Bà hàng xóm thừa hiểu nó làm chuyện đi khuya về tắt nhưng có vẻ thương hại nó nhiều hơn khinh ghét. Ít ra nó còn biết điều hơn con mụ Dậu, vay trả sòng phẳng nên ai nói bóng gió gì con Lài là bà bênh vực ra mặt.
- Ừa, nó không làm ăn gì mà em nó ăn mặc sạch sẽ, học hành đàng hoàng. Tui không có con trai chứ nếu có tui cũng dám lấy cho con tui. Người ta "lấy đĩ làm vợ chứ có ai lấy vợ làm đĩ".
Dân trong xóm lao động thường chẳng có bao nhiêu chữ nghĩa, nhưng cái trò bơi móc mỉa mai bằng thứ văn chương bốn ngàn năm văn hiến thì không thiếu câu nào. Dù Nam cờ hay Bắc kỳ , đàn bà chẳng bao giờ lùi bước trong những trận đấu võ mồm. Lời qua tiếng lại chẳng mấy chốc thành cái chợ cá, phe này phe kia "cãi nhau như mổ bò". Tự nhiên mấy bà ngồi lê đôi mách" đem Lài ra làm đề tài dù chẳng hiểu "mô tê ất giáp" gì sau cánh cửa quán...
Người ta có thể kể trăng kể cuội về kiếp sống của một giai tầng, một nghề nghiệp nào đó. Nhưng làm sao họ hiểu được tâm trạng con Lài khi phải ngồi đồng cho đủ thằng đàn ông máy mó tay chân. Chữ cà phê ôm nghe bình thường như muôn ngàn quán mờ mọc lên ở Sài Gòn, nhưng không bao giờ có thứ ngôn ngữ diễn tả được nỗi buồn của đứa con gái phải làm thứ nghề bất hạnh "ôm". Dĩ nhiên con Lài cũng sẽ chai đá, sạn sỏi, nhưng tránh sao khỏi cảnh ngỡ ngàng lúng túng khi người nó để ý cũng đang nhìn nó trước cảnh tượng bỉ ổi đó. Và nham nhở hơn nữa nếu phải chứng kiến thằng con trai nó lưu luyến đang ôm một cô gái trẻ khác.
Ngày Việt Nam mở cửa, con Lài cũng mở cửa đón nhận một anh Việt kiều. Anh khác bọn đàn ông trong nước, không sỗ sàng như đám quỷ sứ có tiền. Anh có những lời hứa hẹn làm nó xiêu lòng trở thành món đồ tiêu khiển không công cho anh sau giờ làm việc. Anh làm nó quên bẵng đám em ở nhà và tóm lại, anh làm nó yêu, yêu tha thiết, yêu mù quáng đến độ nó dám mơ ước ngày được đặt chân đến cái xứ "tiền mọc trên cây bạc rơi ngoài ng ". Nó quên rằng cuộc đời của anh ta còn có những người chung quanh và anh chàng Việt kiều lịch sự ấy chỉ là một trong số đám khách "cưỡi ngựa xem hoa".
Lúc cái bụng nó to hơn phải nghỉ việc, số tiền anh ta cho cạn lần mà bóng dáng anh vẫn mịt mờ, nó bắt đầu ý thức được lũ đàn ông muôn đời chẳng khác gì nhau, không giống thằng bố say sưa cờ bạc thì cũng là phường sở khanh đàng điếm.
- Quân đểu giả khốn nạn, đồ "cơm đường cháo chợ vợ nhà thổ".
Nó vừa khóc vừa nguyền rủa, lập lại những câu văn chương bóng bảy của mụ Dậu không hiểu ăn sâu trong tiềm thức của nó từ lúc nào.
Chín tháng mười ngày cưu mang giọt máu của thằng đàn ông xa tít mù tắt. "Bụng mang dạ chửa, nó mửa tôi ăn". Con Lài vừa hậm hực vừa túng quẫn nên chẳng còn chút nhân tính. Chỉ chực chờ lũ đàn ông mở miệng là nhảy vào họng chửi như tát nước. Nhất là mỗi khi ông bố vòi tiền cờ bạc rượu chè là nó trút vào lỗ tai hàng xóm từng loạt pháo cối như "mùa trăm hoa đua nở".
- Mày không đi làm, nhà chẳng còn cái gì để ăn.
- Làm gì? làm đĩ cũng phải có thời chứ. Không có gì ăn thì hốc cứt. Tôi có phải nợ đời nợ kiếp với cái nhà này đâu.
- A, con này giỏi nhể. Nuôi mày lớn khôn để mày to tiếng miếng chì miếng bấc với bố mày à. Quân bất hiếu.
- Bố con gì ông, bố tôi là thằng tá ơm nào đó chứ ông làm gì có phúc có phần mà đòi con với cái.
- Tiên sư nhà mày con bất nhân. Mày mới đủ lông đủ cánh đi làm đã giở thói bạc. Không có tao nuôi dễ hồ thổi đít mày lớn như hôm nay đó phỏng, thế mà tao có nề công khó ngày nào đâu mà mày đã kể lể ơn nghĩa.
- Phải, nuôi con cái kiểu của ông thà ông bóp mũi tôi chết từ bé còn hơn.
Lão Dậu biết thế cùng. Con Lài "nắm cán đằng chuôi " nên đành xuống giọng.
- Thôi thì mày xón cho tao vài trăm bạc để tao tự nuôi cái miệng già.
- Tiền đây rồi xéo cho khuất mắt hay theo luôn con mụ vợ ông cho tôi yên.
Đứa con gái mặt mày son phấn loè loẹt, tay chống mạng sườn ưỡn cái bụng kễnh như trống ngoạc mồm ăn miếng trả miếng như chị hàng tôm hàng cá đã là cái cảnh quen thuộc của mụ Dậu năm xửa năm xưa.
Vài đứa trẻ con bu vào coi, chỉ trỏ cười nói như đang xem trò phường tuồng bỗng vụt chạy tán loạn lúc con Lài cáu tiết ném cả chiếc khung hình lộng ảnh anh chàng việt kiều bảnh bao bên cạnh chiếc xe hơi bóng loáng ra đường hẻm. Từ xa con Quyên đi học về vội vàng lẩn mặt quành sang ngõ khác.
Dạo này con Quyên hay trốn học thất thểu dọc con kinh B. Chị nó đổi chệch tên nó từ chữ Quên thành Quyên ngày nó bắt đầu cắp sách vì không muốn người ta nhắc lại câu truyện của mụ Dậu một đêm quá trớn với thằng lơ xe. Không hiểu chữ Quên là do mụ đặt vì muốn quên hay do lão Dậu muốn gọi để quên con vợ mất nết. Cách nào thì con Quên cũng là hậu quả gánh chịu của giai cấp bần cùng. Ba thằng anh "ma cà bông ma cà cúi" của nó cả ngày chỉ lo khăn xanh khăn đỏ vì người ta thổi phồng đám bần cố nông, cho chúng leo lên tít trên mây xanh rồi đùng một cái rút thang, cả ba đã tròng cổ vào thứ "đại học lớn nhất miền Nam" trên đường nghĩa vụ quốc tế hay lún chân trên những công trường lao động.
Con Lài rên rỉ rồi tòi ra thằng Mỹ, tóc đen mũi tẹt da vàng nhưng nó nhất định đặt tên Mỹ để tưởng nhớ chàng Việt kiều, biết đâu một ngày nào đó - Ảnh sẽ về đón con - Lài biết nó tự lừa dối chính nó nhưng biết làm sao hơn. Giá mà hắn đừng hứa hẹn có lẽ nó đã nạo cái thai oan nghiệt đó đi từ lúc ban đầu.
Lọt vào cái gia đình giòng họ nhà mụ Dậu chắc phải là thứ tiền kiếp hiếp dâm cướp của giết người chứ ai nỡ để con mọn o oe chưa đầy tháng để đi làm, giao phó thằng bé kháu khỉnh vào tay con ranh Quyên chỉ biết hét “Nín, nín!”.
Thằng bé gào khóc mà bà cô tí hon chỉ biết hát "nín nín" hay tọng vào mồm cái nắm vú đầy đất cát làm sao nó chẳng khóc "inh nhân tôn" lên muốn vỡ cả nhà. Bà hàng xóm tốt bụng cũng chỉ tử tế đến một mức giới hạn nào đó chứ ai có thì giờ trông trẻ không công mãi được. Khóc chán thằng bé mệt lả ngủ vùi ngoan như chú bé thiên thần nằm trong máng cỏ mà con Quyên nhìn thấy ở nhà thờ. Thực ra thì con Quyên còn lớn hơn con Lài khi phải trông em ngày trước. Lại có chút chữ nghĩa võ vẽ chứ không đến độ "i tờ rít" như con Lài. Mà cũng bởi mớ chữ này mà con Quyên biết so sánh hoàn cảnh của nó với con nhà chị Lương.
Chị Lương cũng chỉ bán xôi chè nhưng sao gia đình người ta ấm cúng quá. Chị Lương bán hàng đêm, ban ngày trông nom con cái nhà cửa tươm tất. Không thịt cá dư giả nhưng có bữa cơm bày trên mâm và những buổi chiều chị ngồi chải chấy cho con làm nó thèm chảy nước mắt.
Thằng Mỹ vừa đầy ba tuổi thì con Lài trở bệnh. Chẳng hiểu bệnh gì mà người nó dạc ra, cả ngày nằm dài nhìn lên trần. Con Quyên cũng bỏ học vì chị nó không đủ tiền để đóng "trăm thứ bà dằn “. Nào lệ phí phụ huynh, nào góp quỹ nhà giáo. Tiếng là trường công lập miễn phí nhưng nghèo như gia đình nó thì cũng chẳng thể theo kịp với những đòi hỏi của nhà trường. Gặp bà cô giáo thiên vị đứa nộp đứa không nên đối xử có phần chênh lệch. Nó chán cảnh đọc ké sách con bạn bên cạnh, chán cảnh có bút thiếu vở nên nhân cái cớ trông chị trông cháu, nó ở nhà bán vé số. Vào nghề nó mới hiểu cuộc đời không như bức tranh trong quyển sách "Em bé ngoan". Bán rong cũng có lãnh thổ, khu vực và phần lớn lợi tức thu về nay đầu nậu. Chưa kể những hôm bị bọn du thủ du thực chận lấy hay những ngài công an mua chịu không hoàn trả.
Số tiền dành giụm của con Lài vừa cạn là lúc con Lài thở hắt ra. Phút cuối nó vẫn mở trừng trừng con mắt nhìn đời đầy vẻ oán hận. Thằng Mỹ thản nhiên ngồi chơi cạnh mẹ, cười sằng sặc cầm chiếc lông gà ngoáy vào mũi cái xác không hồn. Con Quyên ký vào tờ giấy cầm cố chẳng cần hiểu mô tê miễn sao có tiền chôn chị. Người ta thí đất , thí hòm, thí nhang đèn. Nhưng không ai thí công khóc cho chị nó vài giọt nước mắt. Nó nghe phong phanh chị nó chết vì thứ bệch ếch nhái gì đó truyền sang từ một ông tây si đa. Ông Bố cũng biệt tăm vì sợ lây huống hồ người dưng nước lã. Con Quên mắt ráo hoảnh theo đám nhà đòn, đốt cả bó nhang to rồi bế thằng Mỹ về nhà. Nó biết nay mai căn nhà này sẽ vào tay bà cầm đồ vì nó đào đâu ra tiền chuộc. Cầm vài trăm ngàn trong tay, nó bế cháu ra chợ. Không phải cái chợ con lầy lội mà căn chợ nhà lồng lớn tít ngoài phố. Thôi thì nó mua đủ các món đồ chơi , quần áo mới cho thằng Mỹ và cho cả nó. Nó có cảm giác cả chợ cung phụng nó, ngay cả bọn lưu manh cũng e dè như sợ nó có vây cánh quen biết lớn. Về nhà nó mở những gói đồ ăn thịnh soạn, cẩn thận trộn đều "món gia vị" đậm đà rồi pha ly sữa to và ngọt hơn bao giờ hết. Hai cô cháu thưởng thức chậm rãi bữa tiệc nhà quan không quên để dành phần cho ông bố say sưa cờ bạc. Ăn uống no nê , nó leo lên võng ru thằng cháu bài hát duy nhất nó nhớ:
- Ầu ơ , ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...
Không còn mụ Dậu chửi bới cắt ngang. Không còn chị Lài dễ thương bỗng trở chứng gắt gỏng. Không còn ông bố lè nhè với cây chổi lông gà trơ cán mây giập. Chút nữa chắc cũng không còn thằng Mỹ oe oe khóc và không còn con Quên biết đọc hàng chữ bên dưới cái sọ người với hai thanh xuơng bắt chéo.
Lũ chuột thấy yên từ các xó xỉnh bu quanh chiếc bàn còn ngổn ngang thức ăn. Chúng thản nhiên liếm láp tận hưởng thứ của trời cho chẳng buồn để ý thằng bé Mỹ vừa vặn người mép sùi bọt sữa trắng xoá.
(*) Nhại từ câu ca dao: Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa lại quét lá đa
ST ! ( Tác Giả: Đa Nguyên )
- Đứa trẻ này không làm Trụ Vương cũng thành Đắc Kỷ!
Câu phán tán hươu tán vượn của lão thế mà ăn sâu vào tiềm thức bà mẹ nhà quê không cách chi tẩy xoá. Bà mong mỏi một thằng con trai, chẳng phải để nối dõi tông đường vì bà đã có ba trai một gái. Nhưng bà bị ám ảnh bởi câu ca dao tục ngữ mà các cụ ngày xưa chẳng biết đào từ gốc cổ thụ nào ra
" Tam nam bất phú tứ nữ bất bần".
Con bé ra đời không đúng "thiên thời địa lợi nhân hoà”, lại nhằm lúc ông bố đổ đốn say sưa nên chẳng ai chăm sóc. Chưa đầy năm nó đã biết lê la khắp xóm, ăn đậu ở nhờ hết nhà người này đến vú chị kia. Cái xóm lao động cùng khổ, đèn đóm lù mù chỉ tổ cho giống người sanh đẻ như vịt nên chẳng lúc nào thiếu những ả nạ dòng cương sữa. Hàng xóm chẳng mấy ai ưa bà mẹ "đành đanh đỏ mỏ" nhưng thương con bé lem luốc nên cũng đỡ, chưa đến nỗi đói lạnh cho lắm.
- Giời ơi là giời, nhà với cửa, chồng với con đúng là của nợ.
Mụ "tru beo méo hộc" lên như con lợn bị cắt tiết. Một thằng ma cà bông nào đó mua hàng chưa trả tiền rồi chuồn mất. Mụ chạy đôn chạy đáo khắp chợ réo làng réo nước inh ỏi mà chẳng thấy đâu. Mất của mụ xót "đồng tiền liền khúc ruột" mà không biết phải làm sao nên thành "giận cá chém thớt" trút trăm tội ngàn vạ vào lũ con ở nhà. Lũ trẻ con "then lét như rắn mồng năm" rúc vào một xó tránh né những cán chổi vung bất tận của bà mẹ vì những lý do vô cớ. Ba thằng con trai mắt trước mắt sau tuồn ra cửa để mặc con chị ôm chặt đứa bé út tránh đòn. Đánh chán mỏi tay, mụ ném cây chổi lông gà vào xó quát tháo.
- Còn chưa lo cơm nước, ở đó mà thút với thít hở con "phải gió đồng lăn chết đốt".
Lài riu ríu dắt em vào bếp, mặt "cắt không còn hột máu". Con nhà "bạch đinh" hình như cũng khác lũ trẻ bình thường, chúng khôn trước tuổi dù chỉ là thứ khôn lõi. Có lẽ bản năng sinh tồn hay kinh nghiệm dậy chúng biết rằng câm mồm sẽ đỡ đòn roi hơn là khóc oà như đám trẻ khác.
- Mày đi đâu thế hử con chết tiệt kia.
- Con qua chị Lương mượn ít gạo, nhà hết từ hôm qua rồi mợ.
- Chúng mày ăn như hạm đến núi cũng phải lở. Bà lấy sức đâu mà lo cho đủ. Thôi nhịn đi đừng bêu xấu mặt mũi tao nữa.
Con Lài im lặng đun lại nồi cháo loãng, thêm ca nước cho đầy rồi chắt vào chiếc bình sữa nhựa bẩn như thứ đồ cổ đời thượng tổ, không quên khuấy chút đường vàng cho em. Con bé cười toe ôm ngay bình sữa lăn xuống sàn đất tu ngon lành như kẻ bị đói ba năm vừa gặp bữa.
Con Lài chẳng hiểu đúc từ cái khuôn nào hay rơi rớt di truyền từ thời Pháp thuộc nên tóc nó hoe hoe, nước da trắng ngần. Dù áo quần luộm thuộm nhưng nó vẫn có nét xinh sắn của một đứa con gái lai. Nhiều hôm nó bế em lân la ra tận ngoài phố xem hàng quán. Nó ao ước có tiền để mua cho con Quên con búp bê nhựa. Tội nghiệp, từ lúc sanh ra đến giờ em nó chưa bao giờ có món đồ chơi nào ra hồn nếu không phải là những thứ nhặt được hư hỏng cũ nát. Có lần ông bán hàng mã dạo tử tế cho nó cái máy bay uốn cắt từ những chiếc lon nước ngọt và nó ngu dại để con Quên cầm, con bé cho vào mồn cắn rách toang cả môi máu me đầm đìa. Đó là hồi nó mười mấy chưa biết xấu hổ chứ bây giờ nó cũng biết buồn, tủi thân khi những người bán hàng liếc chị em nó canh chừng như thể rình bắt lũ ăn cắp vặt.
Ý tưởng đi làm loáng thoáng trong đầu nó từ ngày lão tàu chủ tiệm đồng hồ hỏi nó:
- Lè, nị muốn kiếm tiền không? Ngộ cần một người cơm lước sai vặt
Lão bụng phệ nhưng tốt bụng không xua đuổi chị em nó như những chủ nhân các cửa hàng khác. Ngày mai nhất định nó sẽ hỏi lão Ba. Rồi nó lại nghĩ đến con Quên, ba thằng em kia còn lớn khôn chút đỉnh chứ con Quên còn nhỏ quá. Tự nhiên nó lo cho em nó như người mẹ trẻ quên bẵng bà mẹ thật còn sống sờ sờ trước mắt. Thôi thì kệ, tối về nhà lo cho Quên còn hơn cả ngày bồng bế lang thang đói rách. Đầu óc nó quyết định giản dị , mau lẹ và nó yên tâm bế con Quên nằm đu đưa trên chiếc võng. Tiếng võng kẽo kẹt át mất tiếng ruột quặn cào vì chưa có gì lót dạ từ sáng ngoài chút cháo suông.
- Ầu ơ, ví dầu cầu ván đóng đdinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...
- Câm mồm đi con khốn nạn, thằng bố mày về lại chửi cha "cả lò nhà mày" ở đó mà hát với hò.
Tuổi thơ của con Lài chỉ vỏn vẹn đôi năm đầm ấm. Nó nhớ mang máng như vậy cho đến ngày ăn cái tát đầu đời nẩy lửa vì tội nựng em bé bằng cách bẹo má cậu nhỏ bắt chước đám người lớn. Từ ngày có em trai , nó hiểu một cách mơ hồ về bà mẹ "trọng nam khinh nữ" và ông bố không bao giờ biểu lộ tình phụ tử vì lý do cay đắng. Đủ tuổi nai thằng em trẹo xương sườn, con Lài dần dần thay mặt người đàn bà chuyên ăn quà như mỏ hoét trông nom các em. Mụ Dậu chỉ còn bổn phận đẻ đái như để trả đủ món nợ ái ân rồi đem con bỏ chợ. Ông bố vô trách nhiệm cũng chẳng ngó ngàng đến núm ruột mà ông cứ nghi ngờ chẳng phải của mình. Bầy trẻ thơ tha hồ nằm vạ nằm vật theo bản năng con thú hoang đúng kiểu "trời sanh voi sanh cỏ". Những lúc ốm đau chúng chỉ tự động nằm lì một xó chờ cơn bệnh qua khỏi sau trận sốt hầm hập. Thế mà chúng vẫn sống phây phây nhờ vào lòng tốt của những người hàng xóm, thỉnh thoảng ban bố cho chúng màn cạo gió hay bữa ăn sang trọng từ những của thừa sau bữa giỗ to. Nhiều lần thằng bố túng tiền cờ bạc chẳng ngần ngại xúc gạo đem bán. Lũ trẻ đói oặt ẹo cũng chẳng dám than van chỉ tổ vừa nghe mụ Dậu bới tam đại nhà chồng lên chửi, lại ăn thêm trận đòn thù của người cha say sưa. Cái địa ngục trần gian đó vẫn tiếp diễn dưới con mắt thương hại của hàng xóm nhưng chẳng ai buồn mở lời khuyên can hay đúng hơn chẳng ai muốn giây dưa với gia đình mụ Dậu vì sợ cái mồm to hơn cái ống nhổ của mụ.
Con Lài nấu nồi cơm đầy, dặn dò thằng em lớn rồi ra khỏi nhà. Đó là ngày nó đi ở đợ cho lão tàu chủ hiệu đồng hồ. Một ngày tối mịt nó về đến nhà, đánh thức các em dậy cho mỗi đứa gói xôi thịt mặn nóng hổi không quên con búp bê nhựa cho con Quên. Nhìn đàn em cười toe toét, nó cảm thấy tất cả những gì nó đánh đổi đều xứng đáng không chút hối tiếc. Nói cho có vậy thôi, lúc mấy đứa đùa chán lăn ra ngủ tiếp, nó rón rén mắc màn, cẩn thận chèn bốn góc xong là lúc nó nước mắt ngắn nước mắt dài, múc nước xối liên hồi bất tận như để tẩy xoá dấu vết bàn tay lão tàu già. Đời con gái của nó trôi lờ đờ chậm hơn cả giòng nước cống lợn cợn váng xà bông, ngập ngừng chưa chịu chảy xuống cái rãnh gần nghẹt cứng những rác. Mụ Dậu vẫn bôn ba đâu đó trên những tuyến đường buôn hàng lậu, cũng có thể đã bị bắt đâu đó không chừng hay chết dấm chết dúi ở cái ngã ba tam biên đầy cạm bẫy. Cả tháng nay mụ vắng bóng, căn nhà êm ấm hơn. Lại nhờ đồng ra đồng vào của con Lài nên Lão Dậu có chút tiền được thể say sưa chẳng thèm ngó ngàng. Mặc xác con Lài bương chải chống đỡ mái nhà dột nát.
- Làm ăn gì cái ngữ ấy, nghề ngỗng gì cái ngón "đưa người cửa trước rước người cửa sau".
Cả xóm đều biết con Lài thôi làm cho lão Ba, nó ăn mặc chưng diện đi bán cho tiệm cà phê xanh đỏ. Bà hàng xóm thừa hiểu nó làm chuyện đi khuya về tắt nhưng có vẻ thương hại nó nhiều hơn khinh ghét. Ít ra nó còn biết điều hơn con mụ Dậu, vay trả sòng phẳng nên ai nói bóng gió gì con Lài là bà bênh vực ra mặt.
- Ừa, nó không làm ăn gì mà em nó ăn mặc sạch sẽ, học hành đàng hoàng. Tui không có con trai chứ nếu có tui cũng dám lấy cho con tui. Người ta "lấy đĩ làm vợ chứ có ai lấy vợ làm đĩ".
Dân trong xóm lao động thường chẳng có bao nhiêu chữ nghĩa, nhưng cái trò bơi móc mỉa mai bằng thứ văn chương bốn ngàn năm văn hiến thì không thiếu câu nào. Dù Nam cờ hay Bắc kỳ , đàn bà chẳng bao giờ lùi bước trong những trận đấu võ mồm. Lời qua tiếng lại chẳng mấy chốc thành cái chợ cá, phe này phe kia "cãi nhau như mổ bò". Tự nhiên mấy bà ngồi lê đôi mách" đem Lài ra làm đề tài dù chẳng hiểu "mô tê ất giáp" gì sau cánh cửa quán...
Người ta có thể kể trăng kể cuội về kiếp sống của một giai tầng, một nghề nghiệp nào đó. Nhưng làm sao họ hiểu được tâm trạng con Lài khi phải ngồi đồng cho đủ thằng đàn ông máy mó tay chân. Chữ cà phê ôm nghe bình thường như muôn ngàn quán mờ mọc lên ở Sài Gòn, nhưng không bao giờ có thứ ngôn ngữ diễn tả được nỗi buồn của đứa con gái phải làm thứ nghề bất hạnh "ôm". Dĩ nhiên con Lài cũng sẽ chai đá, sạn sỏi, nhưng tránh sao khỏi cảnh ngỡ ngàng lúng túng khi người nó để ý cũng đang nhìn nó trước cảnh tượng bỉ ổi đó. Và nham nhở hơn nữa nếu phải chứng kiến thằng con trai nó lưu luyến đang ôm một cô gái trẻ khác.
Ngày Việt Nam mở cửa, con Lài cũng mở cửa đón nhận một anh Việt kiều. Anh khác bọn đàn ông trong nước, không sỗ sàng như đám quỷ sứ có tiền. Anh có những lời hứa hẹn làm nó xiêu lòng trở thành món đồ tiêu khiển không công cho anh sau giờ làm việc. Anh làm nó quên bẵng đám em ở nhà và tóm lại, anh làm nó yêu, yêu tha thiết, yêu mù quáng đến độ nó dám mơ ước ngày được đặt chân đến cái xứ "tiền mọc trên cây bạc rơi ngoài ng ". Nó quên rằng cuộc đời của anh ta còn có những người chung quanh và anh chàng Việt kiều lịch sự ấy chỉ là một trong số đám khách "cưỡi ngựa xem hoa".
Lúc cái bụng nó to hơn phải nghỉ việc, số tiền anh ta cho cạn lần mà bóng dáng anh vẫn mịt mờ, nó bắt đầu ý thức được lũ đàn ông muôn đời chẳng khác gì nhau, không giống thằng bố say sưa cờ bạc thì cũng là phường sở khanh đàng điếm.
- Quân đểu giả khốn nạn, đồ "cơm đường cháo chợ vợ nhà thổ".
Nó vừa khóc vừa nguyền rủa, lập lại những câu văn chương bóng bảy của mụ Dậu không hiểu ăn sâu trong tiềm thức của nó từ lúc nào.
Chín tháng mười ngày cưu mang giọt máu của thằng đàn ông xa tít mù tắt. "Bụng mang dạ chửa, nó mửa tôi ăn". Con Lài vừa hậm hực vừa túng quẫn nên chẳng còn chút nhân tính. Chỉ chực chờ lũ đàn ông mở miệng là nhảy vào họng chửi như tát nước. Nhất là mỗi khi ông bố vòi tiền cờ bạc rượu chè là nó trút vào lỗ tai hàng xóm từng loạt pháo cối như "mùa trăm hoa đua nở".
- Mày không đi làm, nhà chẳng còn cái gì để ăn.
- Làm gì? làm đĩ cũng phải có thời chứ. Không có gì ăn thì hốc cứt. Tôi có phải nợ đời nợ kiếp với cái nhà này đâu.
- A, con này giỏi nhể. Nuôi mày lớn khôn để mày to tiếng miếng chì miếng bấc với bố mày à. Quân bất hiếu.
- Bố con gì ông, bố tôi là thằng tá ơm nào đó chứ ông làm gì có phúc có phần mà đòi con với cái.
- Tiên sư nhà mày con bất nhân. Mày mới đủ lông đủ cánh đi làm đã giở thói bạc. Không có tao nuôi dễ hồ thổi đít mày lớn như hôm nay đó phỏng, thế mà tao có nề công khó ngày nào đâu mà mày đã kể lể ơn nghĩa.
- Phải, nuôi con cái kiểu của ông thà ông bóp mũi tôi chết từ bé còn hơn.
Lão Dậu biết thế cùng. Con Lài "nắm cán đằng chuôi " nên đành xuống giọng.
- Thôi thì mày xón cho tao vài trăm bạc để tao tự nuôi cái miệng già.
- Tiền đây rồi xéo cho khuất mắt hay theo luôn con mụ vợ ông cho tôi yên.
Đứa con gái mặt mày son phấn loè loẹt, tay chống mạng sườn ưỡn cái bụng kễnh như trống ngoạc mồm ăn miếng trả miếng như chị hàng tôm hàng cá đã là cái cảnh quen thuộc của mụ Dậu năm xửa năm xưa.
Vài đứa trẻ con bu vào coi, chỉ trỏ cười nói như đang xem trò phường tuồng bỗng vụt chạy tán loạn lúc con Lài cáu tiết ném cả chiếc khung hình lộng ảnh anh chàng việt kiều bảnh bao bên cạnh chiếc xe hơi bóng loáng ra đường hẻm. Từ xa con Quyên đi học về vội vàng lẩn mặt quành sang ngõ khác.
Dạo này con Quyên hay trốn học thất thểu dọc con kinh B. Chị nó đổi chệch tên nó từ chữ Quên thành Quyên ngày nó bắt đầu cắp sách vì không muốn người ta nhắc lại câu truyện của mụ Dậu một đêm quá trớn với thằng lơ xe. Không hiểu chữ Quên là do mụ đặt vì muốn quên hay do lão Dậu muốn gọi để quên con vợ mất nết. Cách nào thì con Quên cũng là hậu quả gánh chịu của giai cấp bần cùng. Ba thằng anh "ma cà bông ma cà cúi" của nó cả ngày chỉ lo khăn xanh khăn đỏ vì người ta thổi phồng đám bần cố nông, cho chúng leo lên tít trên mây xanh rồi đùng một cái rút thang, cả ba đã tròng cổ vào thứ "đại học lớn nhất miền Nam" trên đường nghĩa vụ quốc tế hay lún chân trên những công trường lao động.
Con Lài rên rỉ rồi tòi ra thằng Mỹ, tóc đen mũi tẹt da vàng nhưng nó nhất định đặt tên Mỹ để tưởng nhớ chàng Việt kiều, biết đâu một ngày nào đó - Ảnh sẽ về đón con - Lài biết nó tự lừa dối chính nó nhưng biết làm sao hơn. Giá mà hắn đừng hứa hẹn có lẽ nó đã nạo cái thai oan nghiệt đó đi từ lúc ban đầu.
Lọt vào cái gia đình giòng họ nhà mụ Dậu chắc phải là thứ tiền kiếp hiếp dâm cướp của giết người chứ ai nỡ để con mọn o oe chưa đầy tháng để đi làm, giao phó thằng bé kháu khỉnh vào tay con ranh Quyên chỉ biết hét “Nín, nín!”.
Thằng bé gào khóc mà bà cô tí hon chỉ biết hát "nín nín" hay tọng vào mồm cái nắm vú đầy đất cát làm sao nó chẳng khóc "inh nhân tôn" lên muốn vỡ cả nhà. Bà hàng xóm tốt bụng cũng chỉ tử tế đến một mức giới hạn nào đó chứ ai có thì giờ trông trẻ không công mãi được. Khóc chán thằng bé mệt lả ngủ vùi ngoan như chú bé thiên thần nằm trong máng cỏ mà con Quyên nhìn thấy ở nhà thờ. Thực ra thì con Quyên còn lớn hơn con Lài khi phải trông em ngày trước. Lại có chút chữ nghĩa võ vẽ chứ không đến độ "i tờ rít" như con Lài. Mà cũng bởi mớ chữ này mà con Quyên biết so sánh hoàn cảnh của nó với con nhà chị Lương.
Chị Lương cũng chỉ bán xôi chè nhưng sao gia đình người ta ấm cúng quá. Chị Lương bán hàng đêm, ban ngày trông nom con cái nhà cửa tươm tất. Không thịt cá dư giả nhưng có bữa cơm bày trên mâm và những buổi chiều chị ngồi chải chấy cho con làm nó thèm chảy nước mắt.
Thằng Mỹ vừa đầy ba tuổi thì con Lài trở bệnh. Chẳng hiểu bệnh gì mà người nó dạc ra, cả ngày nằm dài nhìn lên trần. Con Quyên cũng bỏ học vì chị nó không đủ tiền để đóng "trăm thứ bà dằn “. Nào lệ phí phụ huynh, nào góp quỹ nhà giáo. Tiếng là trường công lập miễn phí nhưng nghèo như gia đình nó thì cũng chẳng thể theo kịp với những đòi hỏi của nhà trường. Gặp bà cô giáo thiên vị đứa nộp đứa không nên đối xử có phần chênh lệch. Nó chán cảnh đọc ké sách con bạn bên cạnh, chán cảnh có bút thiếu vở nên nhân cái cớ trông chị trông cháu, nó ở nhà bán vé số. Vào nghề nó mới hiểu cuộc đời không như bức tranh trong quyển sách "Em bé ngoan". Bán rong cũng có lãnh thổ, khu vực và phần lớn lợi tức thu về nay đầu nậu. Chưa kể những hôm bị bọn du thủ du thực chận lấy hay những ngài công an mua chịu không hoàn trả.
Số tiền dành giụm của con Lài vừa cạn là lúc con Lài thở hắt ra. Phút cuối nó vẫn mở trừng trừng con mắt nhìn đời đầy vẻ oán hận. Thằng Mỹ thản nhiên ngồi chơi cạnh mẹ, cười sằng sặc cầm chiếc lông gà ngoáy vào mũi cái xác không hồn. Con Quyên ký vào tờ giấy cầm cố chẳng cần hiểu mô tê miễn sao có tiền chôn chị. Người ta thí đất , thí hòm, thí nhang đèn. Nhưng không ai thí công khóc cho chị nó vài giọt nước mắt. Nó nghe phong phanh chị nó chết vì thứ bệch ếch nhái gì đó truyền sang từ một ông tây si đa. Ông Bố cũng biệt tăm vì sợ lây huống hồ người dưng nước lã. Con Quên mắt ráo hoảnh theo đám nhà đòn, đốt cả bó nhang to rồi bế thằng Mỹ về nhà. Nó biết nay mai căn nhà này sẽ vào tay bà cầm đồ vì nó đào đâu ra tiền chuộc. Cầm vài trăm ngàn trong tay, nó bế cháu ra chợ. Không phải cái chợ con lầy lội mà căn chợ nhà lồng lớn tít ngoài phố. Thôi thì nó mua đủ các món đồ chơi , quần áo mới cho thằng Mỹ và cho cả nó. Nó có cảm giác cả chợ cung phụng nó, ngay cả bọn lưu manh cũng e dè như sợ nó có vây cánh quen biết lớn. Về nhà nó mở những gói đồ ăn thịnh soạn, cẩn thận trộn đều "món gia vị" đậm đà rồi pha ly sữa to và ngọt hơn bao giờ hết. Hai cô cháu thưởng thức chậm rãi bữa tiệc nhà quan không quên để dành phần cho ông bố say sưa cờ bạc. Ăn uống no nê , nó leo lên võng ru thằng cháu bài hát duy nhất nó nhớ:
- Ầu ơ , ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...
Không còn mụ Dậu chửi bới cắt ngang. Không còn chị Lài dễ thương bỗng trở chứng gắt gỏng. Không còn ông bố lè nhè với cây chổi lông gà trơ cán mây giập. Chút nữa chắc cũng không còn thằng Mỹ oe oe khóc và không còn con Quên biết đọc hàng chữ bên dưới cái sọ người với hai thanh xuơng bắt chéo.
Lũ chuột thấy yên từ các xó xỉnh bu quanh chiếc bàn còn ngổn ngang thức ăn. Chúng thản nhiên liếm láp tận hưởng thứ của trời cho chẳng buồn để ý thằng bé Mỹ vừa vặn người mép sùi bọt sữa trắng xoá.
(*) Nhại từ câu ca dao: Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa lại quét lá đa
ST ! ( Tác Giả: Đa Nguyên )