Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Lửa Hận Rừng Xanh Hoàng Ly

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Lửa Hận Rừng Xanh Hoàng Ly

    Lửa Hận Rừng Xanh



    Hoàng Ly








    Hồi Thứ Nhất



    Qủy Sứ Biên Thùy






    Bình minh bắt đầu lên. Ánh mặt trời hừng sáng dần dần quét sạch bóng đêm hãi hùng trên vùng biên địa phân mao Việt Trung. Cảnh vật trở lại bình thường, chim kêu, vượn hú vang lừng chào đón một ngày chớm sang thu...

    Viên tướng lạc thảo Quảng Tây Thoòng Mềnh đảo một vòng quan sát đoạn quay về cùng viên giám binh vào chân núi thăm "đứa nhỏ vòng xanh" cùng mấy người bị nạn.

    Qua một đêm kinh hoàng thức trắng, lão Kinh trưởng đoàn buôn lậu vẫn còn hơi mệt, nhưng nhờ đắp thuốc nên các vết thương bị sói cắn cũng đỡ đau nhức. Mọi người đang quây quần quanh đứa nhỏ bàn tán không ngớt. Đứa bé vừa thức. Nó giương cặp mắt đen láy nhìn mọi người, rồi như nhớ mẹ, nó mếu máo, bi bô gọi mấy tiếng, cả tiếng Kinh lẫn tiếng Thổ lơ lớ. Người đàn bà Thổ vội bế nó lên cho bú. Viên tướng lạc thảo nhe răng cười đùa với nó. Đứa bé ngừng bú nhoẻn miệng cười. Trông nó rất xinh, mắt sáng, mày dài, miệng như hoa nở, da dẻ hong hào. Càng ngắm càng đáng yêu, viên giặc khách bất giác thở phì, vò bộ râu xồm kêu lên:

    - Nhỏ con ngộ dữ à! Tội nghiệp! Tự nhiên phải chịu mồ côi! Tỉu nà, bố nó đâu để vợ con lạc lõng giữa rừng mắc nạn chó sói! Hầy à! Nhỏ con ráng ăn cho mau lớn, học võ, giết hết loài chó sói, báo thù cho mẹ à!

    Lạ thay, tự nhiên thằng bé không cười nữa. Hình như linh giác nó cũng biết, mặt nó bỗng trầm hẳn, hai con mắt trong sáng vụt như có một đám mây mờ kéo qua rồi... trước sự kinh ngạc của mọi người, nước mắt thằng bé từ từ ứa ra ướt đầm đìa hai má phính có núm đồng tiền như con gái.

    Lão Kinh buôn lậu ngậm ngùi ứa lệ, đưa tay ôm đứa bé vào lòng run giọng:

    - Trời ơi! Oan cừu này động đến Cửu tuyền... Con nhỏ lên hai cũng linh cảm được mẹ hiền thác oan!

    - Chỗ biên thùy vắng vẻ này không thể ở lâu được! Giờ mọi người mau ăn uống cho khỏe rồi còn theo bản chức về tỉnh!

    Viên giám binh Cao Bằng khoát tay ra lệnh cho mọi người. Tướng lạc thảo Quảng Tây Thoòng Mềnh chợt trầm lời bảo:

    - Đường về Cao Bằng qua nhiều vùng núi hiểm, quân phải đi hàng một.

    Nếu như bị tấn công dễ bị cắt vụn từng khúc à! Tụi áo đen không sợ bằng lũ sói quỉ mắt đỏ bốn chân! Chúng có thể chui bờ bụi, vượt ghềnh đá đến sát lối quân đi ào vào bắt đứa bé, rất khó ngăn chặn. Nó lại đánh hơi rất thính. Nếu không lừa nổi nó chắc khó lòng đem đứa bé về Cao Bằng. Vậy phải chia làm hai toán, theo hai con đường. Quan giám binh cứ rút binh theo lối cũ, chở theo cái thây người đàn bà, để lừa nó theo, còn đứa bé này, ngộ sẽ bí mật đem nó đi đường khác, xuyên sơn tới vùng Nước Hai rồi mới về tỉnh. Độc hành mình ngộ đủ rồi!

    Ai nấy đều khen hay, lão Kinh gật lia lịa:

    - Phải đấy! Chỉ có cách đó mới đánh lừa nổi chúng! Đại vương Thoòng cho lão theo cùng, phụ giúp một tay!

    Viện giặc khách ngại lão buôn lậu chưa mạnh hẳn, ý muốn đi một mình, nhưng sau hiểu ý ông già không muốn rời đứa nhỏ nên đành để lão cùng đi.

    Sửa soạn cơm nước ăn uống no nê xong, nghỉ giây lát, rồi đoàn nhân mã bắt đầu nhổ trại lên đường. Trước đó viên tướng lạc thảo Quảng Tây đã cùng lão Kinh buôn lậu bí mat bồng đứa nhỏ kiếm chỗ nấp kín, trét đất khắp người, cả đứa nhỏ cũng được trùm chăn phủ đất cho khỏi lộ hơi người. Chừng đoàn quân của viên giám binh đã rút khá lâu, cả hai người mới lần ra chỗ dấu ngựa sẵn. Viên giặc khách lắng nghe tiếng con hoẵng kêu "hoăng hoăng" trong sương sớm, hất hàm bảo lão Kinh:

    - Đi về phía đó! Có tiếng hoẵng kêu chắc rừng không có sói... chẩu gấp!

    Hai con ngựa cùng ra roi phóng như gió cuốn. Bóng nhân mã bôi trát đầy đất phi loang loáng qua những tia nắng mờ xiên kẽ lá coi quái gở như vừa từ dưới lỗ huyệt chui lên.

    Mãi đến lúc rời xa vùng đóng trại đêm qua đến bảy, tám dặm, hai người mới hạ nước ngựa, chạy kiệu băm lóc cóc. Người, ngựa cứ nhắm thẳng theo hướng Nước Hai - Cao Bằng đi tới. Cả hai đều mang "địu" trước bụng nhưng viên tướng lạc thảo mang đứa nhỏ. Ngựa phi hơi xóc như nhẹ như ru đứa bé mồ côi vào giấc ngủ thiu thiu.

    Đến khoảng năm sáu giờ chiều, ngựa đang lướt trên một trái đồi, bất thần giữa cảnh hoàng hôn cô tịch chợt nổi lên tiếng chó sói tru hộc vang vang.

    Tướng lạc thảo Thoòng Mềnh cùng lão Kinh giật mình ghìm cương ngoái nhìn tứ phía: từ đằng sau cách khoảng hơn trăm bộ, một bầy sói mắt đỏ đang ào ào đuổi theo.

    - Tỉu nà! Đúng lũ "quỉ mắt đỏ" rồi! Chẩu a!

    Cả hai thất kinh quất ngựa vọt đi chạy miet. Vượt qua ngọn đồi, hai người tế ngựa xuyên qua một cánh rừng đến gần một con suối thác, có cây cầu mây bắc ngang vắt vẻo. Lão buôn lậu mừng rỡ reo lên:

    - A! Câu mây treo kia rồi! Qua khỏi chỗ này có lối về tỉnh đấy! Lão đã qua đây một lần, Sếnh sáng Tài Wang à! Ta qua cầu xong chặt phứt đi ắt lũ sài kia không theo được!

    Lão cùng viên tướng lạc thảo tế ngựa vọt lên cầu. Ngờ đâu mới tới giữa cầu mây, dập dềnh ngó sang bờ bên kia đã thấy một hình thù lông lá xồm xoàm, bờm vàng rũ lòa xòa, hai con mắt đỏ khé như hai cuc than hồng, đứng lù lù dòm sang.

    - Trời đất! Con tinh... chúa đàn sói... kìa, Tài Wang!

    Lão Kinh bật kêu run giọng. Trong ánh nắng quái chiều hôm, hình thù con sói chúa trông càng mười phần quái đản. "Nó" phát âm, chìm gai rợn tiếng người:

    - Hai tên kia mau nộp đứa con nít vòng xanh, chúa sẽ tha tội. Bằng trái lời chúa sói cho sói ăn thịt hết!

    Kinh hoàng hai người quay đầu ngựa định lộn trở lại thì bầy sài kíu đã kéo đến chan đầu cầu bên này. Tướng lạc thảo Quảng Tây bật kêu thảng thốt, đầy giận dữ:

    - Trời! Huê Dung Đạo là đây! Trời hại đứa nhỏ mồ côi rồi! Tỉu nà! Bắn!

    Y rút phăng hai khẩu pạc-hoọc nổ liên hồi.

    Đoàng! Đoàng! Đoàng! Cư mỗi phát đạn là một con chó sói ngã gục. Lập tức đồng loại chúng lại xúm vào xé xác ăn hết tiêu. Lão buôn lậu cũng rút hai khẩu súng cối bắn bầy sói.

    - Bỏ súng xuống! Trái lời chúa sói ăn thịt hai thằng trâu đất!

    Giọng con tinh sói chúa âm u vang lên giữa tiếng súng nổ. Pạc-Hoọc Đại Vương Thoòng Mềnh chĩa vụt ngọn súng về phía nó nổ liền hai phát. Một phát trúng giữa tam tinh, một phát ngay giữa ngực, nhưng nó chỉ hơi lắc lư thân hình đôi chút, không hề hấn gì. Cạch! Hết đạn! Viên tướng lạc thảo trợn mắt, thở phì:

    - Tỉu nà! Thế là hết!

    Lão Kinh cũng bắn hết hai cối đạn, chán nản ném súng xuống vực thác.

    - Trời hại ta rồi, Tài Wang ơi!

    Hai người đưa mắt nhìn nhau. Tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Một đầu cầu con chúa sói trấn giữ. Một đầu là bầy sói hung tợn đang tru hộc và càng lúc càng đông vì những đám sau ào ào kéo tới. Nhưng hình như chưa có lệnh con chúa đàn nên chúng chưa xông tới ngay, chỉ nhe nanh múa vuốt rú lên từng tràng rởn ốc, vẻ bồn chồn nóng nảy. Con sói chúa ung dung xem người ngựa cử động như muốn để mấy con mồi thấm thía nỗi tuyệt vọng thảm thê. Bỗng nó cùng cất giọng khàn âm:

    - Hai thằng trâu đất. Còn đợi gì không nộp đứa con nít cho chúa sói!

    Nó cười ré lên tiếp:

    - Bọn mi bôi đầy đất vào người ngựa đánh lừa lũ sói con! Hà hà! Thằng khách xồm, chúa sói nhận ra mày rồi! Mày ăn cắp cái thây con đàn bà! Hà hà! Chúng bay khôn hồn mau nộp trả đứa con nít, chúa sói sẽ tha tội! Ngu dại không nghe lời, chúa sói sẽ cho hai đứa thành hai cái túi da!

    Giọng nó như cào màng tang khiến ai nấy đều dựng tóc gáy. Trong phút nguy nan, lão Kinh buôn lậu chợt động tâm nghĩ vụt trong đầu:

    - Lạ dữ! Tại sao nó không ùa ra vồ? Con quỉ này lợi hại vô cùng, nó chụp bắt lúc nào chẳng được, sao còn mất công giục nộp? À, chắc nó sợ bồng đứa nhỏ đứng giữa cầu... Nó sợ rớt mất đứa nhỏ vòng xanh này!

    Lão ghé tai viên giặc khách thì thầm, tướng lạc thảo Thoòng Mềnh hiểu ý, dòm xuống vực thác sâu hun hút, vùng hô lớn như lệnh vỡ:

    - Chó sói đông như kiến, thà chết mất xác còn hơn vào bụng chúng! Buôn lậu! Chuẩn bị nhảy xuống thac... mau!

    - Khoan, hai thằng trâu đất! Nộp đứa con nít cho chúa sói sẽ được toàn mạng!

    Con tinh sói chúa đàn vội lên tiếng ngăn cản. Có lẽ nó cũng sợ đứa nhỏ rớt xuống vực sâu.

    - Chúa sói không ăn thịt thằng con nít! Hai đứa mau nộp đây!

    - Tỉu nà! Tin sao được! Trao nó cho mi để mi ăn thịt nó à! Tỉu! Tao thà nhảy thác chết cả lũ còn hơn để nó bị mi biến thành cái túi da như mẹ nó đã bị...

    Viên giặc khách cố ý nói dông dài với con sói tinh đầu đàn giục hoãn cầu mưu. Lão Kinh bèn thừa dịp đảo mắt quan sát địa thế hòng tìm cách thoát hiểm. Đang lúc căng thẳng, vô kế khả thi, thình lình từ xa bỗng vẳng tiếng nhạc đồng khua loong coong hết sức lạ tai. Cả Lão Kinh, tướng lạc thảo và con tinh chúa sói cùng ngoảnh trông ra. Từ sau vách núi cạnh đường mòn bên bờ kia có một người cưỡi con lừa đủng đỉnh đi ra. Người và vật nom hết sưc cổ quái. Con lừa nhỏ bé như con ngựa thồ, tai vểnh như hai tàu lá dừa, mắt thao láo, gầy nhom, cổ đeo tràng lục lạc từng cái to bằng nắm tay một. Ngồi trên lưng nó là một ông già hình dung rất ngộ, mặc quần áo sô như có đại tang, râu dài đến rốn. Mặt nom sáng lạ nhưng coi đầy vẻ bi thảm thê lương. Bên mình đeo lủng lẳng đến mười mấy cái bầu lớn nhỏ, tay lại cầm một cái ô màu trắng đương xòe rộng. Ngó gần càng lạ vì tuy mặt mũi ông ta nom bi thảm nhưng da dẻ hồng hào, tuyệt không một nếp nhăn, đầy vẻ tiên phong đạo cốt.

    Đến gần con tinh sói đầu đàn, ông già đưa tay vẫy vẫy ra hiệu:

    - Chó sói! Mi đứng đó làm gì? Tránh ra cho lừa đi, nào!

    Con tinh chúa sói đưa mắt đỏ khé dòm ông lão lừ lừ, viên giặc khách vùng kêu lớn:

    - Ông già! Chạy mau đi kẻo nó vồ ăn thịt bây giờ!

    Ông lão ngó nghiêng ra nhận thấy hai người đứng giữa cầu, hất hàm hỏi:

    - Ê, hai chú đứng đó làm gì? Phải bị con chó này chực bắt không?

    - Trời, ông lão mau chạy khỏi đây! Con sói đã thành tinh, coi chừng nó bắt!

    Lão Kinh cũng bật kêu hoảng. Ông lão kỳ dị quay sang ngó sững con sói chúa, cười hi hí như trẻ con:

    - Hi! Con chó sói này to ghê! Dễ thường cao đến hai thước tây đấy nhỉ? À, mắt đỏ khé như than hồng, đúng giống Hồng Cẩu Quẩy!

    Con tinh sói nãy giờ im lặng bỗng giơ hai chân trước vẫy ra hiệu cho ông già đi qua cầu treo.

    - À, ngộ dữ à! Chó sói rừng biết đi hai chân, ra dấu... Hà hà!

    Lão đưa cây dù khều nhẹ vào chân trước nó. Con tinh sói chừng nổi cáu vì lối đùa bỡn của ông già, nó chìm giọng:

    - Lão già, qua cầu đi! Không được đùa với chúa sói!

    Ông lão sửng sốt, dụi dụi mắt kêu:

    - Trời đất! Chó sói lại biết nói cả tiếng người nữa! Lạ dữ à! Ta sống cả thế kỷ nay, bữa nay mới được mắt thấy tai nghe chuyện quái gở thế này! Hê! Mi là chó sói thành tinh hay là người mang lối sói? Nói ta nghe coi!

    Con tinh sói mắt long sòng sọc cất giọng nhọn hoắt, hung tợn:

    - Chớ nhiều lời! Chúa sói làm chúa rừng, chúa loài sài kíu, chúa sói đem đứa nhỏ kia về động, đứa nào ngăn trở, chúa sói ăn thịt!

    Chừng không đợi được nữa, nó nghếch mõm tru lên một tràng. Lập tức đàn sói bên kia cầu nhe nanh nhất loạt rống lên, lắc lư tiến đến chỗ Lão Kinh cùng viên tướng lạc thảo đứng. Hai người dáo dác nhìn trước sau. Ông lão kỳ dị chợt cao giọng bảo:

    - Hai chú kia! Mau bồng đứa nhỏ qua đây với ta, không sợ!

    Lão cưỡi lừa đứng giữa đầu cầu, con tinh sói đứng xế bên cạnh. Vừa thấy viên giặc khách vượt hết nhịp cầu cuối cùng, bất thần nó lắc mình vọt tới thò chân trước chụp bắt. Nhưng lẹ như cắt, ông lão đã quay ngoắt con lưa chắn ngang trước mặt con tinh sói. Không chậm trễ, Lão Kinh buôn lậu và viên giặc khách cùng xẹt vòng qua thân lừa vọt đi luôn mấy thước.

    Con tinh ré lên vung "tay" đẩy mạnh ra một nhát cùng lúc thổi phù một hơi vào mat ông lão kỳ dị. Nhưng ông già đã phất "phạch" tay áo rộng. Luồng gió thối khẳm của con tinh sói cùng đòn công bằng "tay" của nó chạm phải kình phong của ông già nghe "uỳnh" mấy tiếng chát chúa như khí trời tức hơi phát sấm. Trông lại con tinh sói đã bị áp lực đẩy bật lùi lại hai, ba bước, loạng choạng hai chân trên sườn đá nhấp nhô, mõm thở hồng hộc.

    - Ôi! Con chó quỉ này ăn phân gì mà thở hơi thối quá! Hê! Mi làm ta muon chết ngạt thôi!

    Ông lão cười hi hí. Bất ngờ quay ngoắt lại vung tay chém liên hồi những sợi dây treo cầu. "Phựt" "Phựt" "Phựt"! Cây cầu bị đứt dây không còn điểm tựa, bị sức nặng của bầy sói đè trĩu vụt sa xuống vực thác hun hút mang theo cả lũ. Và như trong mộng ảo, cây cầu đu đưa như võng lần lượt hất bầy sói rơi lả tả như sung rụng, giữa những tiếng tru rống lê thê chìm đáy vực.

    - Hầy à! Thần lực! Quả ông già có sức phi phàm! Cho đàn sói xuống vực hay quá!

    Viên tướng lạc thảo Quảng Tây vùng reo lên mừng rỡ. Lão Kinh buôn lậu tiếp luôn đầy phấn khích:

    - Ôi! Cụ giỏi quá! Cụ đưa nốt con chó sói tinh xuống vực làm phước cho đời!

    Ông già kỳ dị không đáp, quay dòm con tinh sói cười như con nít thích chí:

    - Hi hi! Sao mi thấy thế nào? Có muốn xuống chơi với đám sói lâu la dưới đó không? Hì hì!

    Dứt câu, lão rút luôn một bầu rượu bên hông đưa lên miệng tu ừng ực. Con tinh sói chừng đã mang thương qua lần thử sức với ông già vừa rồi, lại chứng kiến cảnh ông ta đưa cả bầy sói xuống vực thác. Nó có vẻ ngán uy lực của con người kỳ dị này. Nó đảo mắt, nghển cổ dòm đứa nhỏ viên giặc khách đang giữ, mấy lần định xông tới lại thôi. Nó thở phì phì ré lên căm phẫn phát giọng người gai gai:

    - U...u...u... Ngươi là ai? Lão già quái gở kia... Lão là ai?

    - Hi hi! Con sói này ngộ dữ à! Ta là ta chứ là ai? Còn mi, mi là sói thành tinh hay người hóa sói, hay người mang giả lốt sói? Nói mau! Hi hi!

    Ông già đậy nút bầu rượu, nheo nheo mắt cười hỏi con tinh sói:

    - Hi hi! Nói mau, chó sói! Ngoan ta cho uống rượu đào, ngon lắm!

    Lão dứ dứ bầu rượu trước mặt nó. Con tinh chợt cất giọng:

    - Chúa sói muốn uống thử rượu của lão!

    Ai nấy cũng thấy lạ. Viên tướng lạc thảo ghé tai Lão Kinh buôn lậu thì thầm:

    - Ngộ dữ! Chó sói cũng thích uống rượu!

    Nhưng ông lão kỳ dị đã cười hi hí, gật lia lịa:

    - Được lắm! Tinh chó biết uống rượu còn hơn đi bắt người ta ăn thịt! Mi biết không, từ ngày tiểu lư của ta nghiện rượu nó trở nên hiền lành dễ bảo, ngày đi ngàn dặm đấy! Đây, cho mi một bầu, mặc sức mà uống!

    Lão ném bầu rượu sang, con tinh sói thò chân trước bắt dính, đưa lên mũi hít hít mấy cái:

    - Hừ, rượu lão ngon đó!

    Nó ngửa cổ dốc cả bầu vào mõm. Loáng cái đã hết sạch bầu, nó đưa "tay" chùi ngang mép, khà giọng hệt như một tay "bợm" chính hiệu

    - Còn nữa không? Cho chúa sói một bầu nữa!

    Ông lão kỳ dị thích thú vỗ đùi đen đét:

    - Giỏi lắm! Chó sói cũng là tay tửu lượng cao, giỏi lắm!

    Đoạn quài tay rút bầu nữa cho nó. Nhưng giữa lúc ông già đang nhoài người đưa bầu rượu sang thì bỗng con tinh sói thở phì một cái, từ trong miệng, mũi nó lập tức phun ra mấy vệt đỏ như máu bắn thốc vào mặt lão... Nhưng, như tình cờ bị mất thăng bằng, ông già chúi hẳn xuống, mấy luồng huyết khí con tinh sói phun ra bắn vào khoảng không tanh khắm muốn lộn mửa.

    - À, con chó này hỗn xược quá! Dám lừa đánh trộm ta! Đã cho rượu uống, còn dở trò... chó sói! Xem đây!

    Ông lão bật ngồi ngay ngắn trên lưng lừa trợn mắt hét. Lời vừa dứt từ trong tay áo ông già chợt vút ra một vệt trắng loáng bay sang con tinh sói. Nó hụp vội đầu, vệt sáng hớt luôn một chùm lông bờm bay lả tả. Nó nổi hung giơ luôn hai chân trước chụp bắt luôn vệt sáng. Sức nó vồ cực kỳ mạnh tới nỗi vệt sáng đang đảo vòng quanh nó bị chạm phải văng ra ngót hai thước nhưng lập tức quay ngoắt lại "liếm" thêm mấy mảng lông con sói.

    - À! Chó sói liều dữ, dám chụp bắt cả lưỡi hái của ta!

    Theo tiếng quát, ông già múa tít bàn tay, vệt sáng loằng ngoằng di động, chém tới tấp vào con tinh sói. Nó phải tránh, đỡ không ngừng, quay trước quay sau như đèn cù. Dần dần vô hình trung nó bị "đưa" đến chỗ bờ vực.

    - Hi! Chó sói muốn xuống vực tắm mát chơi không? Nhảy nào!

    Vệt sáng chém vút xuống chân, con tinh sói đành phải co chân nhảy vút lên quay một vòng. Nó liếc vụt xuống thấy vực sâu hun hút, giật mình hất vội hai chân sau lộn mấy vòng trở vào.

    - À! Chó sói cũng biết nhào lộn như làm xiếc! Hi hi!

    Ông già bất chợt thu lưỡi hái về, thúc lừa xông tới. Giữa lúc con tinh sói đang lồm cồm bò dậy, con lừa quay đít tung luôn một cú đá hậu vào mông nó, "Huỵch!", một tiếng khô khan, con tinh sói chúi nhào lăn thêm một vòng và ngay khi nó vừa đứng lên, ông già liền phất mạnh tay áo... "Bùng!" Con sói tinh bị trúng độc ngã ngồi phịch dưới đất, hộc ra một búng máu tươi. Nó trợn trừng mắt, hai chân trước ôm lấy ngực thở hổn hển.

    - Cút mau! Chậm ta đổi ý làm thịt mi nhắm rượu đó!

    Ông lão trỏ mặt nó mắng. Đoạn ung dung rút hồ lô rượu ra tu ừng ực. Con lừa cũng ngoái cổ dòm lên hí nhỏ vẻ thèm thuồng.

    - À! Tiểu Lư muốn uống phải không? Thưởng cho ngươi về cú đá hậu vừa rồi!

    Lão dốc luôn bầu rượu vào mồm lừa. Con tinh sói cố gượng dậy giương mắt nhìn vẻ căm hận ghê gớm, nhưng chừng nó bị trúng đòn khá nặng, nên chẳng còn sức chiến đấu nữa. Nó rít lên, toàn thân rung động theo từng âm thanh quái gở phi phàm:

    - Chúa sói bắt đứa con nít về động, bọn bay cản trở việc của chúa sói... rồi chúa sói sẽ ăn thịt bọn bay... Hà hà! Tất cả sẽ thành cái túi da... Hà hà! Hãy chờ xem... chạy xuống âm ty cũng không thoát tay chúa sói... Hà hà!

    Rồi nó lắc mình chạy vọt đi như mũi tên bắn, âm thanh quái đản chờn vờn bay lê thê trong buổi chiều nắng úa loang lổ rừng già...

    - Hầy à! Con tinh chúa chạy mất rồi... Sao ông già không giết nó trừ hại cho đời... Hầy à! uổng quá!

    Viên tướng lạc thảo Quảng Tây như bàng hoàng chợt tỉnh, vò râu than.

    Ông già kỳ dị quay sang vẫy hai người lại gần, cả hai cúi đầu tạ lễ. Ông lão dòm viên giặc khách trố mắt cười khà:

    - Hà hà! Trâu đất tham lam dữ a! Không bị sói ăn thịt là may rồi! Ta đã giết hàng trăm con sói, tha cho con chúa đàn làm phước! Hì hì!

    Lão ngắm đứa bé. Lúc này nó đã thức từ lâu ngơ ngác dòm quanh, thấy ông già kỳ dị nhìn, nó chợt toét miệng cười. Lão khoái chí cười reo như con nít:

    - Hi hi! Nhỏ con này ngộ dữ a! Ê, con nít không sợ lão à? Hi hi! À, sao con chó sói lại gọi nó là con nít vòng xanh? Các chú biết không? À, mà các chú bà con chi với đứa bé nhỏ này?

    Lão Kinh buôn lậu lễ phép lên tiếng:

    - Thưa lão trượng ân nhân vì đứa bé này có đeo một cái vòng ngọc xanh! Đây, lão trượng coi!

    Viên giặc khách bồng đứa nhỏ lên lấy tay kéo nâng hẳn sợi dây chuyền vàng có buộc chiếc vòng xanh, miệng kể:

    - Thưa, chúng tôi tình cờ gặp mẹ con đứa nhỏ lâm nạn bầy sói giữa rừng biên giới cỏ phân mao. Tôi đã cố cứu nhưng không nổi... Hà! Mẹ nó bị con tinh sói chúa đàn sát hại thảm khốc... Hà! Con tinh vô cùng lợi hại tôi suýt chết vì nó, may tình cờ gặp bọn quan binh Cao Bằng, lũ chó bị súng lớn bắn dữ quá, bỏ đi... Hà! Lại còn một bọn mặc đồ đen cũng kéo tới lùng kiếm đứa nhỏ này... Hà! Tội nghiệp thằng nhỏ mồ côi sớm...

    Giọng viên tướng lạc thảo trở nên nghẹn ngào xúc động lạ thường.

    - Hà! Mẹ nó... Tôi đã chứng kiến tận mắt... Hà! Chưa có cái chết nào khủng khiếp như vậy... Hầy! con tinh sói cực kỳ tàn ác... chẳng hiểu bố nó đâu, để hai mẹ con giữa đường mắc nạn thảm thương... Hà!

    Trên gương mặt "cô hồn" của kẻ từng dọc ngang vào sinh ra tử đùa với súng đạn, tử thần khắp mấy cõi biên thùy, chợt như bị một đám mây mờ u ám che phủ. Y thở phì một hơi dài như muốn trút sạch những bi cảm, xót thương ray rứt trong lòng.

    Ông già kỳ dị đưa tay đỡ lấy đứa nhỏ chép miệng liên hồi:

    - Tội nghiệp! Chậc! Nhỏ con tội nghiệp qua! Đùa với lão chút cho vui nào! Hi hi!

    Đứa nhỏ chẳng lạ người gì cả, nó để mặc lão bế, hai con mắt đen láy mở to nhìn lão không chớp. Lão quét bộ râu dài như cái đuôi ngựa vào má nó khiến nó cựa quậy cười ré lên. Mot già, một trẻ đùa giỡn tự nhiên thoải mái như đã thân quen từ lâu rồi!

    - Ôi chao! Nhỏ con ngộ dữ! Không sợ lão râu dài! Không sợ chú trâu đất râu xồm! Ê, nhỏ con có sợ chó sói không?

    Đang cười ngặt nghẹo vừa nghe nhắc đến "chó sói" tự dưng thằng bé nín bặt, mếu máo chực òa khóc. Khiến ông già phải trố mắt ngạc nhiên:

    - Ôi! Thằng con nít không lạ, nói đến chó sói nó mếu ngay! Chậc! Con nít linh mẫn như thần, chắc nó biết mẹ nó bị chó sói ăn thịt đây?

    Lão Kinh buôn lậu đỡ lời:

    - Bẩm, từ lúc chúng tôi cứu được nó đến giờ, cứ hễ nhắc tới chó sói là nó mếu máo. Hà! tội quá, con trẻ lên hai cũng đau xót nỗi mẹ hiền oan thác!

    Ông lão kỳ dị vừa dỗ dành vừa sờ nắn tay chân mình mẩy đứa nhỏ một hồi, chợt vùng hỏi hai người:

    - Này, ta hỏi thật nhé! Các chú có muốn cho nó theo ta học võ không?

    Thằng bé nhỏ này có căn cơ cốt cách đặc biệt, nhân diện nó mạnh tợn, nếu được dạy dỗ đến nơi đến chốn chắc chắn sẽ thành tài! Ta sống cả thế kỷ nay chưa hề thu nhận một đồ đệ, giờ thằng nhỏ này gặp ta âu cũng là có nhân duyên, các chú nghĩ sao?

    Giọng lão trở nên nghiêm trang đứng đắn lạ. Hai người đưa mắt nhìn nhau tần ngần khó xử, không biết trả lời thế nào. Ông lão kỳ dị này là ân nhân cứu mạng, nhưng hình dung cổ quái, hành tung lai lịch không rõ ràng. Nay bất ngờ muốn thu nhận đứa bé đem theo dạy võ, hai người nào dám ưng thuận bừa? Lão Kinh buôn lậu từ lúc cứu được nó đa muốn nhận làm con nuôi, quyến luyến không rời một phút! Giây lâu Lão Kinh ấp úng ngỏ lời:

    - Bẩm lão trượng... Kẻ này từ lúc gặp thẳng nhỏ... đã có ý muốn... nhận làm nghĩa tử! Bẩm, kẻ này thực lòng... không muốn xa nó... mong lão trượng ân nhân rộng lượng tha thứ cho!

    Ông lão kỳ dị khoát tay bảo:

    - Hà! Ta không ép buộc đâu! Ưng hay không là tùy các chú! Ta chỉ hơi tiếc vì đứa nhỏ này có căn cốt thượng thừa! Thôi, tùy các chú! Chao nhé!

    Dứt lời lão giao đứa nhỏ, lại đưa bầu lên uống luôn, chân thúc vào hông con lừa. Con vật lững thững bước đi. Viên tướng lạc thảo Quảng Tây vụt đảo nhanh ý nghĩ trong đầu, quay bảo Lão Kinh buôn lậu:

    - Hầy à! Ông cụ này nom hình dung cổ quái khác đời nhưng xem ra rất tốt! Vả lại, nếu ông ta có ý xấu thì với tài nghệ siêu phàm như vậy ông ta cướp đứa bé này không khó! Hầy, thằng nhỏ vòng xanh đang bị nhiều kẻ ác săn đuổi, mà đường về Cao Bằng còn xa, biết đâu lại xảy ra sự bất trắc! Hầy à, kẻ thù của thẳng nhỏ là con tinh sói cực kỳ lợi hại, ai là người đủ tài sức dạy dỗ nó báo nổi thù nhà sau này, ngoài lão dị nhân kia? Hầy! Buôn lậu tính sao? Ta nghĩ nếu thương thằng nhỏ thì nên cho nó theo lão dị nhân kia thọ giáo! Hầy, âu cũng là kỳ duyên may mắn của thằng nhỏ!

    Lời viên tướng lạc thảo Thoòng Mềnh vang lên mạnh mẽ như thôi thúc lão Kinh buôn lậu. Lão cắn chặt môi muốn rớm máu cố nén xúc cảm, giây lâu chợt thở ra giọng trầm hẳn buồn menh mang:

    - Phải! Xếnh xáng Tài Wang Thoòng nói phải đó! Thôi, cũng là số mệnh định sẵn!

    Cả hai vội tế ngựa theo gọi ông lão kỳ dị, ông lão vẫn khoan thai ngồi trên ưng lừa uống rượu, hơi ngoảnh lại cười hi hí:

    - Sao? Hai chú trâu đất còn cần gì nữa? Sao không thẳng đường về Cao Bằng cho sớm?

    Lão Kinh buôn lậu ghìm cương, nhảy xuống phục luôn trước con lừa, rung giọng nghẹn ngào:

    - Bẩm lão trượng ân nhân... Kẻ tiện nhân này cúi đầu mong lão trượng... ra ơn cho đứa bé côi cút!

    Ông già kỳ dị xua tay nói:

    - Chú trâu đất bất tất phải diễn cái trò lễ nghi lẩm cẩm đó... có gì nói mau!

    Viên tướng lạc thảo gãi râu xồm vội đáp thay cho bạn:

    - Hà! Chúng tôi xin ông cụ ân nhân thâu nhận thằng nhỏ vòng xanh, dạy dỗ cho nó thành tài. Sau này còn báo thù cho mẹ nó à! Mong lão thương nó giùm.

    Ông lão sáng mắt lên, nhe răng cười:

    - A, hai chú trâu đất ưng chịu rồi à! Tốt lắm! Mà này, ta nhắc lại rằng ta không ép buộc các chú đâu nhé. Kẻo sau này lại than trách để tội cho ta.

    Viên giặc khách bồng đứa nhỏ sang cho lão. Lão dị nhân tròn mắt ngắm thằng bé cười vang:

    - Ha ha! Con nít vòng xanh dễ thương theo lão học võ, lớn lên về giết chó sói báo thù cho mẹ! Tốt lắm! Tiểu lư ơi, từ nay cũng ta có thêm một anh bạn tí hon. Hi hi! Ha ha!

    Lão Kinh buôn lậu đợi lão dứt tràng cười khoái trá, rụt rè hỏi:

    - Bẩm, chẳng hay lão trượng có thể cho bọn này biết đại danh cùng nơi cư ngụ của ngài chẳng?

    Ông già kỳ dị dòm sững lão buôn lậu rồi ngửa mặt tiếp tục cười. Toàn thân lão rung động lên theo tiếng cười bốc cao vang động khắp cánh rừng. Thằng nhỏ ngơ ngác giương mắt nhìn thao láo. Bỗng nó đưa bàn tay tí xíu túm râu lão giật lại mấy cái. Ông già ngưng cười cúi dòm nó:

    - A, nhỏ con không thích nghe giọng cười chói tai của lão! Xin lỗi! Xin lỗi! Hà! Tại chú trâu đất hỏi ấm ớ khiến lão buồn cười đó thôi! Lão không có tên họ cũng không có nhà cửa, thân thích. Hà hà! Trời đát mang mang, với lão đâu cũng thế thôi! Cùng với chú tiểu lư, lão ngao du khắp cùng trời cuối đất! Ha ha! "Lai như xuân mộng bất đa thời, khứ tựa triều vân vô thỏa xứ..." chính là lão đó! Thôi, đời người như mộng huyễn, hai chú trâu đất chẳng cần biết lão là ai? Hãy tin rằng mười bảy năm sau thằng nhỏ se trở về với các chú! Sao? Liên lạc nơi nào, nói mau?

    Lão chợt đổi giọng, hất hàm hỏi hai người. Lão Kinh buôn lậu lật đật đáp lời:

    - Dạ bẩm, tôi họ Võ tên Minh Phương có đồn điền tại Yên Bái... Còn đây là chúa núi Mã Đầu Sơn Quảng Tây, Pạc Hoọc đại vương Thoòng Mềnh...

    Ông già kỳ dị ngắt lời:

    - Thôi được! Cứ thế nhé! Đồn điền họ Võ tại Yên Bái! Mười bảy năm sau thằng nhỏ sẽ trở về! Các chú sẽ nói cho nó hay về thân thế của nó, còn ta, ta chỉ dạy nó thành tài! Nhớ nhé! Thôi, chia tay!

    Lời vừa buông, con lừa vụt hí lên cất vó phóng đi, nhanh như gió cuốn, viên tướng lạc thảo Quảng Tây cùng Lão Kinh buôn lậu đứng sững sờ nhìn theo ngơ ngác. Hình bóng ông già cổ quái cưỡi con lừa mang theo đứa nhỏ vòng xanh hút chìm dần sau hẻm núi xa xa...

    Rất lâu viên tướng lạc thảo Quảng Tây từ từ quay sang bạn đồng hành, thở ra nhè nhẹ:

    - Thôi, chúng ta về Cao Bang!

    Hai người lặng lẽ quay đầu ngựa thả kiệu băm về hướng Cao Bằng. Viên giặc khách câm nín không nói một lời duy chỉ có lão buôn lậu lảm nhảm nói một mình:

    - Hình dung cổ quái không tên họ, nguồn gốc, tính khí bất thường như trẻ nít, nhưng tài võ lại siêu phàm hạ tinh sói như bỡn, sống cả thế kỷ... Ông già này là người hay là tiên? Không thể biết được! Nhưng rõ ràng là bậc kỳ nhân dị sĩ! Hay "người" thọ khí thiêng liêng sông núi trong trời đất mà sinh ra chăng? Xưa đức Khổng Tử từng bảo có các sơn nhân vật khí gọi là Qui Võng Lạng! Hay "người" là giống Qui Võng Lạng? Hà! Khó hiểu! Cầu trời phù hộ đứa nhỏ vòng xanh.

    - Hầy! Buôn lậu lảm nhảm cái gì Qui Võng Lạng đó? Trời sắp tối rồi, mau lên nào!

    Viên giặc khách cho ngựa vượt lên trước phi nước đại. Lão buôn lậu lật đật phi theo. Hai bóng nhân mã theo nhau lướt nhanh qua những thung, đồi trùng điệp... Màn đêm đang bắt đầu phủ xuống núi rừng cô tịch...

  • #2
    Hồi Thứ Hai




    Qúai Vật Hồ Ba Bể



    Hồ Ba Bể, một chiều dịu nắng...

    Trời đang xanh thẳm, gió thổi hiu hiu mang theo hơi nước từ mặt hồ mát rượi. Thình lình mây đen từ đâu kéo về lớp lớp, cảnh vật sa sầm, gió thổi ào ào, cây rừng trút lá rồi mưa rào đổ xuống như trút nước. Giây phút cả một vùng danh lam thắng cảnh đã chìm sâu trong lớp sa mù.

    Chợt, từ trong cảnh mưa mù hiện ra hai thớt ngựa phi như gió cuốn trên đường dẫn đến hồ. Một con ngựa bạch, một con ngựa hồng chạy song song. Trên lưng ngựa bạch là một thiếu phu rất đẹp trạc hai bốn, hai lăm tuổi, trang phục theo lối đàn bà Thái. Nàng ngồi vắt hai chân sang phía trái, rạp mình ra roi. Trên ngựa hồng là một người đàn ông chừng ba mươi tuổi, vẻ quắc thước rắn rỏi của con nhà võ. Cả hai đều mặc áo mưa, người ngựa ướt sũng, chốc chốc lại ngoái dòm lại đằng sau vẻ hấp tấp lo ngại khác thường.

    Nhìn kỹ sẽ thấy nơi bả vai người đàn ông bị một vết thương loang máu, chưa kịp băng bó, rõ vừa trải qua một trận chiến đấu sinh tử.

    Bất thần, đang chạy bỗng con ngựa bạch của thiếu phụ ngã dụi xuống, hất tung nàng qua đầu. Nàng chỉ kịp kêu lên một tiếng đã bắn lộn theo ngựa ra về phía trước. Người đàn ông giật mình nhưng phản ứng rất nhanh, tung mình nhảy vèo qua đầu ngựa vươn tay túm được lưng áo thiếu phụ đúng lúc nàng sắp ngã vật xuống đường. Người đàn ông hoành thân ôm gọn thiếu phụ trong tay, động tác rất đẹp và chính xác như con diều hau chụp bắt gà con. Con ngựa hồng cũng dừng phắt vó, hí lên một tràng.

    - Ngựa bạch chết rồi! Đây cũng gần tới hồ, cố gắng chút nữa sẽ thoát hiểm! Để anh giấu xác ngựa bạch!

    Người đàn ông đưa thiếu phụ lên ngựa hồng, trao cương cho nàng rồi cúi xốc phăng con ngựa bạch lên vai chạy vụt vào cách rừng bên hữu. Thoắt cái đã chạy ra, nhảy lên ngồi sau lưng thiếu phụ, giật cương vọt đi vội vã.

    Đường núi quanh co, hai bên đồi cỏ rừng cây chập chùng, chạy được một quãng, ngựa hồng bắt đầu thở hộc, nó cố vểnh bờm quất đuôi chạy miết, nhưng nước kiệu lại "cao đầu phóng vĩ" đã lệch lạc, vó xiêu, mõm nghiêng coi bộ đã kiệt sức vì trải qua cả trăm dặm bôn hành. Vó câu như có thể đổ sụp bất cứ lúc nào!

    Thình lình thiếu phụ ôm bụng kêu lên vật vã muốn đổ dụi xuống. Người đàn ông hoảng hốt buông vội tay cương ôm cứng lấy nàng:

    - Trời! Sao thế... em?

    - Anh ơi... đau chết mất thôi! Hình như... cái thai... chắc chuyển bụng đẻ... Trời ơi, đau quá!

    - Trời! chuyển bụng đẻ... giữa đường mưa gió như vầy... làm sao bây giờ?

    Em cố nhịn đi... ráng đến hồ sẽ có chỗ an toàn!

    Người đàn ông cuống quýt, bồng vợ nằm hẳn trong lòng, lấy mình che mưa cho nàng. Thiếu phụ càng quằn quại, cắn chặt răng, ôm bụng co quắp thở hổn hển:

    - Đau! Đau mà... Khát lắm! Không nhịn được đâu... Anh ơi! Nãy giờ em cố nhịn... Không cho anh biết sợ anh rối trí! Trời ơi! chắc... đẻ vai... đến nơi... Anh ơi!

    Thì ra thiếu phụ có mang đã đến thời kỳ sinh nở, lại phải cưỡi ngựa bôn hành xông pha mưa gió nên càng khiến nàng trở dạ mạnh.

    Người chồng đảo mắt dòm quanh. Xa xa trong lớp mưa mù, trên đầu con dốc phía trước có một cái quán đơn sơ nằm trơ vơ cạnh lối mòn. Người chồng lưỡng lự giây phút vùng bảo vợ:

    - Kia có cái quán! Phải vào kiếm chỗ khô ráo cho em sinh nở đã rồi sẽ liệu!

    - Đừng... Anh ơi... Đừng! Kẻ thù... sắp đuổi đến nơi... chạy đi anh! Thiếu phụ vừa rên rỉ vừa cố thều thào bảo chồng. Người đàn ông thở hắt ra:

    - Không được! Dẫu thế nào cũng phải kiếm chỗ cho em sinh!

    Dứt lời, thúc ngựa chạy tới. Vó câu chưa ngừng hẳn, người đàn ông đã bồng vợ nhảy vèo xuống như một cơn lốc, bước nhanh vào trong quán. Quán vắng, chỉ có một người khách đang ngồi độc ẩm nơi chiếc bàn bên cửa sổ. Chủ quán đang ngồi ngáp vat nhìn trời mưa gió, thấy có người vào lật đật đứng lên. Không chờ y hỏi, người chồng nói luôn:

    - Nhà tôi đau đẻ giữa đường! Mong ông rộng lượng giúp cho!

    Như bị ong đốt, chủ quán dẫy nẩy kêu lên:

    - Trời đất! Sao... Sao lại khiêng người đẻ vào đây? Ôi! Thế thì... chết cả nhà tôi mất! Ông khách ơi!... Xin ông làm phước đem bà nhà về Bắc Cạn ở đó có nhà thương! Ôi chao! Sinh dữ tử lành mà ông lại không biết sao?

    Y xua tay lia lịa, người chồng cố khẩn khoản, xuống nước:

    - Trời mưa gió, nhà tôi trở dạ bất ngờ giữa rừng, xin ông mở lòng nhân đức cho chúng tôi nhờ chút qua cơn hiểm nghèo! Chúng tôi không dám để ông chịu thiệt thòi đâu!

    Gã chủ quán có lẽ nhiễm nặng thói tục xưa nay nên chỉ sợ xúi quẩy, cứ nằng nặc vò đầu bứt tai bảo đi kiếm chỗ khác. Người chồng năn nỉ cách nào gã cũng không chịu. Bỗng có tiếng nói xen vào giọng sang sảng như chuông đồng:

    - Này, tên bần tiện kia! Mưa to gió lớn giữa rừng chỉ có quán nhà mi, còn đuổi người ta đi đâu! Mi cũng từ trong đũng quần mẹ mi chui ra sao không biết thương người sinh đẻ? Đưa người ta vào nhà trong mau! Để người ta đẻ vãi, ta vặn cổ mi đó!

    Người khách ngồi bên cửa sổ lừ lừ đứng lên bước tới. Lúc này người chồng thiếu phụ mới nhìn rõ. Đó là một bà già sơn cước cao lênh khênh đến thước tám có dáng dấp nhiều phần giống đàn ông! Qua cách ăn mặc cho thấy bà ta là người Dao. Đặc biệt cặp mắt bà ta xanh biếc, sáng quắc như hai bóng đèn nhỏ chứng tỏ một tay cao bản lãnh, nội lực cực kỳ sung mãn!

    Gã chủ quán định cất lời mắng lại, chạm phải tia mắt bà ta đâm ra ấp úng:

    - Tôi... tôi...

    Bà già liếc nhìn thiếu phụ, bụng nàng phập phồng cuồn cuộn thấy rõ.

    - Mau đưa người ta vào trong! Còn chờ gì nữa, tên kia!

    - Không được đâu... bà cụ.

    Gã chủ quán thu hết đởm lược phản đối. Chưa dứt câu bỗng nghe "rầm" một tiếng, chiếc bàn lớn bằng gỗ lim bên gã đổ sụm xuống, mặt bàn vỡ vụn làm nhiều mảnh. Bà già quài tay túm gáy gã bêu lên cao, trầm giọng:

    - Mi có muốn như cái bàn đó không?

    Chủ quán giãy dụa như đỉa phải vôi, hai chân chòi đạp lung tung, miệng méo xệch đi cầu cứu, vợ hắn từ sau chạy ra chắp tay lạy rối rít:

    - Ấy đừng! Bà cụ ơi... Khéo chết nhà con mất! Đừng làm thế cụ ơi! Con xin vâng lời cụ!

    Bà già buông "huỵch" gã chủ quán xuống đất. Gã lóp ngóp ngồi dậy, suýt xoa, lấm lét dòm cái bàn bể nát rồi bảo người chồng:

    - Thôi, mời ông đem bà nhà vào đây!

    - Vào đi! Ta giúp cho một tay! Mau!

    Bà già người Dao hất hàm giục. Cả mừng, người đàn ông bồng vợ tất tả đi theo gã chủ quán vào căn buồng xép phía trong.

    Vừa đặt xuống chiếc giường tre, thiếu phụ đã lăn lộn nắm lấy thanh giường bẻ răng rắc. Bà già ra lệnh:

    - Vợ chồng tên bán quán mang chậu than, kiếm một bộ đồ, vài cái tã cho đứa nhỏ, chuẩn bị lửa củi, mau lên! Khép cưa lại tránh gió lùa! Nhớ kiếm ít bông băng, thuốc sát trùng!

    Bà già ngồi xuống bên giường, xốc thiếu phụ lên, thò tay nắn bụng mấy cái, bảo người chồng:

    - Sắp đẻ rồi! Gần vỡ nước ối!

    Đoạn, tiếp tục nắn vuốt xoa bóp cho thiếu phụ luôn tay. Chủ quán mang các thứ cần thiết vào. Bà già đuổi y ra rồi để chậu dưới chân sản phụ. Người chồng cởi trần trùng trục nhóm lửa giữa buồng nấu nước. Đống lửa vừa nhóm xong, bà già cởi y phục người vợ ném cho người chồng vắt, hơ cho khô.

    - Hừ! Chửa đẻ còn đẹp như tượng đúc! Gái này bạc mệnh, đến đâu loạn đấy! Đẻ con đầu lòng, coi bụng chửa này chắc đẻ con gái!

    Chợt thiếu phụ oằn mình rên rỉ, bụng nhô cuồn cuộn rồi... ục! ục!

    - Vỡ ối rồi! Rặn mạnh! Rặn từng hơi! Ta tiếp sức cho!

    Người chồng không dám nhìn vợ, chàng ta ngồi hơ áo. Bên ngoài trời vẫn mưa to ào ào. Bỗng nhiên liền mấy tiếng sấm rền trên không trung, rồi có một tiếng sét cực lớn đánh "ầm", ánh điện trời loằng ngoằng nhấp nháy chiếu sáng rực căn buồng. Thiếu phụ giật nảy mình rồi có mấy tiếng "oe oe" tiếp liền, bà già sơn cước bật kêu lên:

    - A! Đẻ đúng lúc sét đánh! Con gái! Ta đoán không sai! Con bé này hấp thụ nộ khí thiên cương, mai sau ắt thiên hạ phải đảo điên vì con thiên lôi đả! Người chồng nhào lại quả nhiên đã thấy bà già bồng một đứa nhỏ đỏ hỏn trên tay. Hài nhi coi bụ bẫm, xinh xắn khiến chàng ta mừng rỡ cảm ơn luôn miệng. Bà già tắm rửa, buộc rốn quấn bụng cho con nhỏ xong trao nó cho người chồng, rửa tay.

    - Mặc quần áo cho vợ mi! Mạch nó còn loạn, để ta cho vài viên thuốc khỏe!

    Bà già moi trong bọc ra một ống trúc nhỏ, dốc ra một viên bỏ vào miệng sản phụ, chiêu thêm ngụm nước nóng. Rồi dúi luôn ống trúc cho người chồng:

    - Còn mấy viên giữ cho vợ uống dần! Mi cũng uống môt viên đi, ta coi mi cũng mất sức nhiều đó!

    Chàng ta làm theo lời, kính cẩn cảm ơn, nhưng bà già đã gạt phắt đi, vẻ khó chịu, nói gọn lỏn:

    - Đẻ đái xong rồi, liệu mà trông vợ, kiêng mưa gió!

    Đoạn bước luôn ra ngoài, ngồi vào bàn uống rượu, không muốn nói chuyện, bỏ mặc hai vợ chồng với đứa hài nhi trong buồng.

    Bỗng có tiếng vó ngựa khua nhanh trên đường rồi dừng rập trước quán. Một người đàn ông mặc áo chàm, đầu chít khăn Thổ ghìm cương nhìn dáo dác vào trong, lẩm bẩm nói một mình:

    - Lạ thật! Ngựa cậu đây mà sao không thấy ngựa của cô?

    Người này nhảy xuống chạy thốc vào quán. Vuốt nước mưa trên mặt, hỏi lớn:

    - Cậu Hai, cô Ba có đây không?

    Trong buồng, người chồng nghe tiếng giật mình phóng ra:

    - Nùng Kham đó ư?

    Người mặc áo chàm mới tới vụt kêu lên nhào tới ôm lấy vai, run giọng thở gấp:

    - Trời cậu Hai! Cô Ba đâu? Tưởng chạy tới nơi rồi sao lại còn ở đây? Chết hết cả rồi, cậu ơi! Chúng nó sắp đuổi tới rồi! Cô Ba đây? Chạy mau đi thôi!

    - Sao? Chú bảo ai chết? Còn ông già chú với bọn...

    - Chết sạch rồi! Cha tôi bị thương nặng... chẳng hiểu sống nổi không? Bọn áo đen ghê như ma quỉ, chạy phía nào nó cũng biết. Cô Ba đâu?

    - Trở dạ giữa đường... vừa đẻ xong!

    - Trời! Cô Ba vừa đẻ... làm sao bây giờ! Nó sắp tới!

    Người chồng dắt Nùng Kham vào buồng. Thiếu phụ đang nằm nghỉ, gượng nhỏm dậy kêu:

    - Kìa, chú Kham!

    - Cô Ba ơi... chúng nó sắp đuổi tới rồi!

    Nùng Kham vừa dứt lời, thiếu phụ bật kêu "trời" đau đớn, nàng gỡ tay chồng ra gắng bước xuống đất vừa thở vừa nói:

    - Phải chạy ngay! Nán lại chết hết! Đừng để nó bắt... Anh ơi!

    Người chồng bối rối khó xử. Tình thế quá ngặt, vợ vừa đẻ xong dầm mưa nguy hiểm. Nán lại, quân thù ập tới cũng chết. Chàng đang phân vân, Nùng Kham bế luôn đứa hài nhi, lấy chăn bọc kín mấy lượt, nói luôn:

    - Cậu Hai đỡ cô Ba, tôi bồng em bé được rồi! Mau lên nào!

    Hai vợ chồng bước ra chắp tay vái bà già người Dao, nói nhanh:

    - Ơn đức lão bà vợ chồng chúng tôi suốt đời ghi lòng tạc dạ! Nay gặp cơn nguy, chẳng thể nán lại, cúi xin người xá cho!

    Xong quay sang tạ chủ quán, trả tiền rồi vội dắt dìu nhau lên ngựa chạy đi bất kể mưa gió tầm tã ngoài trời. Bà già nhìn theo hơi cau mày, lẩm bẩm:

    - Vừa đẻ xong đã dầm mưa chạy! Hừ!

    Hai vợ chồng thiếu phụ cùng Nùng Kham mải miết ra roi, chạy chừng ba dặm, cả bọn bỏ đường mòn phi vào một cánh rừng thưa bên tả, ven hồ, người chồng ghìm cương nói nhanh:

    - Giấu ngựa ở đây, mau! Giờ chỉ cần bơi ra ngoài hòn đảo kia là thoát! Có chỗ trú ẩn an toàn!

    Thiếu phụ nhìn theo tay chồng chỉ. Lờ mờ trong mưa mù, xa xa có một hòn đảo nhô lên khoảng giữa hồ. Giấu ngựa xong, cả bọn kéo nhau chạy. Nào ngờ vừa đến bờ hồ bỗng nghe một tiếng hú quái gở ngân dài:

    - Hà hú! Gái Bạc mang vòng xanh chạy đâu? Đứng lại! Hà hú!

    Ba người sửng sốt đảo mắt dòm quanh. Từ xa có một bóng trắng lòa xòa mang cà kheo xông tới, xế trốc đầu bóng này là một bầy dơi cả trăm con ào ào bay theo.

    - Trời! Em ơi, chính mụ Hấp Huyết Quỉ Nương đó! Nùng Kham, chạy mau đến chỗ giấu thuyền!

    Người chồng bồng vợ lao vọt đi theo bờ nước. Chừng trăm thước tới một lùm cây rậm rạp cạnh một tảng đá lớn. Người chồng đặt vội vợ đứng xuống, vén cành lá len vào lôi ra một chiếc thuyền nan, đẩy xuống nước:

    - Xuống thuyền mau!

    Cả ba hối hả xuống thuyền. Thiếu phụ ngồi giữa ôm hài nhi vào lòng ủ kín. Người chồng quơ vội cặp bơi chèo ném Nùng Kham một cái, giục:

    - Chèo nhanh!

    Thuyền nan ra xa bờ chừng ba mươi sải thì bóng Hấp Huyết Quỉ Nương cũng vừa đuổi tới.

    - Hà hú! Gái Bạc mang vòng xanh chạy đâu cho thoát!

    Tiếng hú quái gở vụt cất lên cao vút, lập tức bầy dơi bay vù vù rượt theo, quỉ nương mang cà kheo lội luôn xuống nước. Người chồng chèo một tay, tay kia rút súng bắn chận bầy dơi, Quỉ Nương.

    Thình lình, từ trên bờ, chếch phía dưới bỗng hiện ra một bầy nhân mã mặc toàn quần áo đen, trùm kín mặt.

    - Tên bất tài vô dụng kia! Mau để công chúa họ Bạc lại! Cãi lời mất mạng! Một tên ra dáng cầm đầu hô lớn, giọng hắn vang vang bay xa lồng lộng trên mặt hồ.

    Người chồng mím miệng, căm giận chụp luôn cây súng trường của Nùng Kham đưa lên nhắm bắn. Đoàng! Đạn xẹt qua mang tai tên đầu đảng. Hắn phất tay ra hiệu cho thủ hạ. Hàng loạt đạn từ bờ bắn vãi ra lõm bõm quanh mạn thuyền. Nhưng hình như không có chủ ý bắn người, chỉ dọa cản không cho thuyền ra xa. Có lẽ chúng sợ trúng "con mồi".

    Trong khi đó Quỉ Nương cùng bầy dơi đã xông tới gần. Người chồng vừa ấn vợ nằm úp xuống vừa bảo Nùng Kham:

    - Cứ chèo thẳng!

    Thuyền nan vùn vụt lao đi bất chấp những đường đạn rít veo véo trốc đầu. Được chừng vài chục sải nữa, hai người đàn ông đang mải miết chèo đột nhiên giật mình khựng lại. Phía trước mũi thuyền chẳng biết từ khi nào xuất hiện một bóng người đứng chặn vật vờ trên mặt nước. Chừng nhìn kỹ mới hay đó là một người đàn ông mặt mũi phương phi hồng hào mặc áo gấm tía, đầu chít khăn, tay cầm gậy, bên hông đeo lủng lẳng mấy cái bầu đựng rượu. Người này đứng lềnh bềnh trên mặt nước nhờ một miếng ván dưới chân.

    - Trời! Ai nữa đây...?

    Người chồng bật kêu sửng sốt. Người lạ mặc áo gấm vụt "trôi" đến sát thuyền dòm cả bọn hất hàm hỏi:

    - Chạy đâu gấp vậy? Phải bị bọn kia đuổi bắt?

    Đoán người này là cao nhân dị sĩ chi đây, người chồng chắp tay thi lễ nói nhanh:

    - Vợ chồng tôi bị mấy đám thù nhân đuổi gấp, mong ngài lượng thứ cho chúng tôi đi!

    Người áo gấm rút bầu tu ực xong dòm thiếu phụ nheo mắt:

    - Này, Trẫm hỏi thật, phải nàng là công chúa họ Bạc trên Tây Bắc đi trốn đó không? Chớ ngại, Trẫm không phải hạng người lùng bắt gái đẹp đâu!

    Người vợ bối rối, xúc động, giây lâu nàng khẽ nói:

    - Dạ... phải! Vợ chồng tôi bị nạn dữ, lại vừa sinh cháu bé giữa đường... cúi xin ngài mở lòng nhân đức bao dung, ân bằng trời biển!

    - Chớ lo! Trẫm sẽ đuổi lũ đầu trộm đuôi cướp đó cho cô nàng! Hà! Tuy nhiên Trẫm với vợ chồng cô nàng cũng như bèo nước gặp nhau... Hà...

    Người áo gấm đưa bầu vào miệng tợp một hớp, buông tiếp lời:

    - Hà! Bèo nước gặp nhau, sau này biết bao giờ tái ngộ... Hà! Bởi thế Trẫm cũng muốn có một vật để giữ làm kỷ niệm! Hà, cô nàng nghĩ ra sao?

    - Dạ, chẳng hay ngài cần chi? Người chồng vội dỡ lời hỏi.

    Người áo gấm xưng "Trẫm" nói luôn:

    - Vòng xanh! Gái Bạc tặng mỗ chiếc vòng xanh, mỗ cứu cho!

    Hai vợ chồng ngạc nhiên nhìn nhau, thiếu phụ họ Bạc nhíu mày lẩm bẩm:

    - Lại đòi vòng xanh! Vòng xanh! Chiếc vòng ngọc bích của ta có gì ghê gớm mà... sao cả mấy đám thù nhân với ông này đều quyết đòi lấy?

    Nàng bảo người áo gấm:

    - Dạ, bẩm ngài, gái này quả có chiếc vòng xanh, kỷ vật gia đình. Nhưng... nếu ngài đánh đuổi lũ ác nhân kia, giúp vợ chồng tôi thoát nạn... gái này xin biếu ngài làm kỷ niệm!

    - Hà hà! Tốt lắm! Nàng đưa đây cho ta!

    Người áo gấm gật lia vẻ mừng rỡ lạ thường, đưa tay ra. Thiếu phụ cúi lần tìm chiếc vòng. Thình lình mặt hồ cuộn sóng ầm ầm, nhô cao đến mấy thước rồi "ầm" một tiếng, nước tóe rộng cầu vồng văng ra mấy hướng, mạnh đến nỗi chiếc thuyền nan cùng người áo gấm bị hất dạt ra hai phía. Nước trùm cả đầu cổ mặt mũi mấy người ướt sũng. Từ dưới đáy hồ, một hình thù quái gở theo con sóng vọt lên cực kỳ mãnh liệt, bốc hẳn khỏi mặt nước đến ngót hai thước, rồi rơi ùm xuống. Hình thù rất to lớn, dài ngoằng, đầu to như cái thúng, mõm ngoác rộng đỏ như chậu máu, mắt cũng đỏ khé, nanh nhe dòm mấy người trông mười phần hung tợn, khủng khiếp.

    - À, rồng nước! Con rồng nước này lớn thật!

    Người áo gấm bật kêu lớn.

    - Thằng sâu rượu mắt mù! Hà! Cả đời mi chưa thấy Giao Long sao? Hà, ta là chúa Giao Long thần Hồ Ba Bể đây! Hà hà!

    Con quái vật phun nước phì phì, phát âm tiếng người chờn vờn âm âm làm ai nấy rởn tóc gáy. Người áo gấm qua phút bỡ ngỡ, ngó kỹ con quái vật, trợn mắt quát:

    - Láo! Con quái gớm ghiếc dưới vụng chui lên dám xưng Thần trước mặt Trẫm! Hừ! Mi là quái tinh hay người đột lối quái?

    - Hà hà! Thằng sâu rượu ngốc nghếch! Chúa Giao Long trị tội nghịch thượng của mi rồi bắt gái họ Bạc sau!

    Lời dứt, quái vật quất mạnh đuôi, xé nước xông tới. Người áo gấm lắc mình vọt lên không tránh, vung gậy đập xuống. "Bình" một tiếng, con Giao Long cùng người áo gấm đều bạt lùi mấy sải. Nó hét lên gai nhọn the thé:

    - Hú hú! Thằng sâu rượu! Thần Hồ Ba Bể ăn thịt mày!

    Người và vật lại xông vào nhau quần thảo. Nước hồ văng tung tóe, cuồn cuộn sóng. Người chồng vội bảo Nùng Kham:

    - Chèo mau!

    Hai người đàn ông ra sức chèo thật nhanh. Thuyền vừa lao đi được hơn chục sải đã bị bầy dơi chặn lại. Người chồng rút súng bắn đuổi.

    - Hà hú! Gái Bạc chạy đâu?

    Bóng Hấp Huyết Quỉ Nương trắng toát lòa xòa lướt trên đôi cà kheo đã tới sau lưng. Vút! Vút! Hai mũi giáo cắm phập vào mạn thuyền. Con thuyền tròng trành muốn hất tất cả mấy người xuống nước. Nùng Kham cùng người chồng giương súng nổ. Đoàng! Đoàng! Mấy phát đạn sướt qua mình Quỉ Nương cà kheo, không trúng!

    - À, hai thằng ngoan cố dám bắn nương nương! Cho chúng mày xuống âm ty, Hà hà!

    Vút! Một ngọn giáo cắm ngập vào lưng Nùng Kham, nạn nhân thét lên đổ dụi xuống nước. Vút! Lại một mũi giáo cắm trúng đùi người chồng. Chàng ta cắn răng chịu đau rút ngọn giáo phóng trả Quỉ Nương. Thiếu phụ ôm chặt hài nhi, nước mắt chảy dài trên mặt hoa run giọng thảng thốt:

    - Trời ơi! Chú Kham chết rồi! Anh ơi!

    Người chồng mím miệng cố nén cơn xúc động bảo vợ:

    - Nằm úp xuống em!

    Chàng ta cố sức chèo nhưng con thuyền bị mấy ngọn giáo, vết đạn xuyên thủng bên mạn, giờ nước đã bắt đầu tràn vào, nặng hẳn.

    - Trời hại ta rồi! Anh ơi... thuyền sắp chìm!

    Thiếu phụ nhìn chồng tuyệt vọng than. Ngay khi đó, bỗng nghe tiếng gọi vang bay trên mặt hồ rộng đầy mưa gió.

    - Vợ chồng gái đẻ đâu rồi... Chờ đó! Ta ra giúp một tay đây!

    Tiếng nghe quen quen, người chồng bảo vợ:

    - Nghe như tiếng... bà cụ người Dao trong quán khi nãy, em à!

    Thiếu phụ chưa kịp đáp. Một bóng người hiện ra lướt tới. Bóng này đội một cái mũ rộng vành đứng trên một tấm ván, tay vung vẩy một sợi dây lưng điều quất xuống mặt nước theo đà vọt đi. Người chồng dòm sững, cả mừng ôm vai vợ:

    - Đúng bà lão trong quán giúp em vượt cạn khi nãy rồi! Trời còn thương vợ chồng mình, em ơi!

    Bà già lướt chếch tới đón đầu Quỉ Nương, sợi dây lưng điều từ tay bà vụt phóng sang loằng ngoằng quấn lấy cặp cà kheo. Hấp Huyết Quỉ Nương hét vang:

    - À! Mụ già này là ai, dám gây sự với bản nương nương?

    Đoạn vận sức chống lại. Rắc! Rắc! Cả cặp cà kheo gẫy đôi, đổ sụm. Quỉ Nương tung mình nhảy lên lộn một vòng rơi xuống là là mặt hồ, vừa chạm mặt nước liền đạp hai chân vào nhau nhảy thêm lần nữa. Tình cờ mụ lại rơi xuống gần chỗ người áo gấm đang quần thảo với Giao Long Chúa hồ.

    - Hê! Mụ quỉ cà kheo định giúp Trẫm đánh con quái nước này chăng?

    Người áo gấm cả cười hỏi. Quỉ Nương roi tõm xuống nước, ngoi lên ướt sũng mắng:

    - Hừ! Thằng sâu rượu Tửu Chúa! Nương nương đi bắt gái Bạc, mi cứ ở đó làm mồi nhắm cho thuồng luồng tinh!

    Giao Long chiếu hai tia mắt đỏ khé nhìn Quỉ Nương cà kheo, nó phát cười âm u:

    - Hà hà! Con mẹ cà kheo kia cũng đòi bắt gái Bạc của ta! Chúa Giao Long ăn thịt mi!

    Nó xé nước lao tới thò vuốt chụp mũ Quỉ cà kheo. Mụ lật đật vung trảo đánh trả. "Bình"! Nhát trảo Quỉ Nương đánh trạm ngực Giao Long. Nó chỉ hơi khựng lại chút nhưng mụ bị sức phản chấn đẩy lùi mấy sải, tức ngực muốn nghẹt thở.

    - Hừ! Con thuồng luồng tinh này gớm thật!

    Giao Long lại xông tới, nhưng người mặc áo gấm đã lướt chặn vung gậy đập:

    - Ê, Quỉ cà kheo! Hai đứa đánh một chẳng chột cũng què! Ta với mụ cùng hợp sức trị con quái nước này đã!

    Cả ba tụm lại đánh nhầu. Giao Long Chúa tuy phải chống hai địch thủ cùng lúc nhưng nó vẫn không hề nao núng, tả xung hữu đột không để Tửu Chúa áo gấm và Quỉ Nương chiếm thế thượng phong.

    Trong lúc đó, bà già người Dao đã tới bên mạn thuyền. Thuyền ngập nước đến nửa, sắp chìm, hai vợ chồng phải bồng hài nhi đứng lên.

    - Mau ra khỏi thuyền, nắm lấy dây lưng, ta kéo đi cho! Đưa đứa bé cho ta ẵm!

    Người chồng xốc vợ, níu chặt sợi dây lưng điều, bà già địu đứa nhỏ sau lưng, đứng trụ một chân trên miếng ván chân kia thò xuống khua một cái. Miếng ván lướt đi mấy sải kéo căng sợi dây điều lôi theo hai vợ chồng cùng đứa hài nhi. Cứ thế giống như người ta kéo chiếc xe chạy trên mặt đất.

    Bỗng từ phía trước mặt lù lù xuất hiện năm, sáu chiếc thuyền lố nhố đầy bóng người súng ống tua tủa.

    - Bạc công chúa! Đừng dại dột chạy trốn vô ích!

    Bà già người Dao thở phì cay đắng:

    - Trời cao vô tình, không biết xót thương gái đẻ xấu số! Chúng chặn đường ra đảo rồi! Khốn thay!

    Bà ta chuyển hướng kéo hai người lướt chênh chếch về bên tả. Hai vợ chồng thiếu phụ bám giây lòng nóng như lửa đốt. Nhưng vượt chừng năm mươi sải đã lại thấy mấy chiếc thuyền xa xa án ngữ phía trước. Người chồng ý thức cảnh "đường cùng, sức kiệt" vùng bảo vợ:

    - Hết đường rồi, em ơi! Chỉ thương con trẻ mới ra đời đã chịu chung nghiệt số!

    Giọng chàng ta buồn đến nát lòng. Thiếu phụ mím miệng, gạt nước mắt:

    - Anh! Anh nên... thoát đi một mình... mặc mẹ con em!

    - Không! Anh thà chết không bao giờ rời em! Anh... một thân nam tử trượng phu mà không che chở nổi vợ con thì... còn sống làm gì trên đời thêm nhục!

    Thiếu phụ nép đầu vào ngực chồng thổn thức. Bỗng một loạt đạn chíu chíu trốc đầu rồi "phựt" một tiếng, sợi dây lưng điều nối liền bà già với hai vợ chồng đứt rời ra.

    - Chúng bắn đứt dây kéo rồi, Trời!

    Bà già đảo vòng lại chỗ hai vợ chồng quăng đoạn giây bảo người chồng cột lại. Thiếu phụ như linh cảm phút nghiêm trọng sắp đến, kêu lên nức nở:

    - Cụ ơi! chắc không thoát nổi đâu... chúng vây kín mấy mặt rồi! Cụ thương giùm đứa nhỏ... Gái này nguyện nghìn kiếp không quên ân đức!

    Nàng lấy trong áo ra một túi vải lớn hơn bàn tay chút đưa bà già giọng nghẹn ngào:

    - Cụ ơi! Đây là vật kỷ niệm của gái xấu số này, một sợi dây chuyền nửa mặt đồng tiền và chiếc vòng xanh... xin cụ ra ân trời biển!

    Bà già khịt mũi, hừ nhỏ, vẻ đau khổ xúc động lẫn tức giận nhìn xung quanh:

    - Hừ! Lũ chó! Nói gở miệng, nếu gái đẻ chẳng may có bề gì, ta sẽ nuôi dạy con nhỏ nay cho đến trưởng thành! Đủ sức trả thù cho cha mẹ... Đừng lo chuyện đó! Giờ thử cách nữa xem sao! Gái đẻ biết bơi, lặn không?

    - Dạ, biết! Thiếu phụ định vùng khỏi tay chồng. Bà già xua tay:

    - Ta hỏi cho biết thôi! Mi vừa sinh đẻ không nên dùng sức nguy hiểm đến tính mệnh! Chồng mi sẽ kè mi bơi và lặn sâu xuống vượt qua vòng vây, khi đó ta sẽ cầm chân bọn chúng trên mặt nước! Nào, theo ta! Buông giây để chúng khó nhận ra! Nếu thoát sẽ gặp lại tại Chapa vào tuần trăng tới!

    Bà già lướt về thuyền địch. Người chồng cặp vợ bơi theo rất êm. Cả hai chỉ hơi nhô đầu khỏi mặt nước để thở. Đến cách thuyền địch chừng ba mươi sải, bà già ra hiệu cho hai người lặn sâu xuống.

    - Bọn kia, chúng mày là đám nào? Sao muốn bắt gái đẻ họ Bạc? Nói ta nghe!

    - Bạc công chúa mang vòng xanh đâu rồi, mụ già? Nãy mụ vừa kéo, giờ đâu?

    Lao nhao từ mấy chiếc thuyền nhiều tiếng cất lên đủ giọng Kinh, Tày, Trung Quốc... bà già người Dao cười thét:

    - Tìm đi! Không chừng gái đẻ sa tay thuồng luồng tinh hay bọn Tửu Chúa, Quỉ cà kheo rồi!

    Nhiều tiếng lao xao bàn tán. Chợt một gã đầu trọc cao lớn như hộ pháp trỏ bà già kêu lên:

    - Kìa! Mụ già có địu đứa con nít sau lưng. Hầy! Chắc đứa nhỏ Bạc công chúa mới đẻ rơi dọc đường!

    - Anh em, bắt lấy mụ! Mụ dám giữ vòng xanh trong người lắm đó!

    Đạn bắn líu chíu mấy phía. Bà già vừa di động nhảy nhót, bắn trả vừa dụ chúng đuổi theo.

    Chừng đoán vợ chồng thiếu phụ đã lặn khỏi vòng vây, bà già tăng tốc lực, lướt vùn vụt trên mặt hồ theo hình chữ "chi".

    Thình lình, một tiếng "ầm" khủng khiếp vang lên khiến bà già phải quay lại dòm. Ngay hướng vợ chồng thiếu phụ lặn trốn vừa nãy, một cột nước khổng lồ bắn tung tóe, rồi con Giao Long Chúa vụt nhô lên cười thét lồng lộng, hai chân trước nó túm chặt hai người, một nam một nữ bêu lên. Chính là vợ chồng thiếu phụ vừa nãy!

    - Trời ơi! Vợ chồng gái Bạc xấu số! Tội nghiệp! Tội nghiệp!

    Bà già thở phì, lắc đầu. Ngay lúc Giao Long Chúa vừa bắt được con mồi, lập tức cả mấy đám săn đuổi Bạc công chúa liền đổ xô lại. Bọn Tửu Chúa, Quỉ cà kheo cũng ào tới. Cuộc hỗn chiến nổ ra dữ dội trên mặt hồ, sóng cuộn ầm ầm, đạn bay chi chít, tiếng la hét vang động khắp một vùng. Mỗi lúc càng thêm nhiều kẻ kéo đến tham chiến.

    Bà già người Dao định quay lại, chợt nghe tiếng đứa hài nhi khóc oe oe sau lưng, đành hậm hực thở dài, quài tay ra sau vỗ về nó:

    - Nín đi! Nhỏ con! Ta sẽ nuôi nhỏ con khôn lớn, dạy dỗ thành tài, mai sau trả thù cho cha mẹ! Nín đi! Ta chỉ có vú da, ta sẽ kiếm cho nhỏ con hai bầu sữa!

    Dứt lời, cố nén mối bi hoài, lân mẫn, bà già lắc mình nhắm hướng bờ hồ lướt vào.

    Mưa đã tạnh, trời đang tối dần. Trên bờ không một bóng nhân mã. Bà già tìm chỗ dấu ngựa, lên yên, ra roi phóng đi. Bóng người địu đứa nhỏ sơ sinh trên lưng hút nhanh vào bóng tối.

    Comment


    • #3
      Hồi Thứ Ba




      Một Oan Hồn Đi Tìm Dĩ Vãng




      Mười bảy năm sau...

      Một đêm trung tuần... mùa thu muộn.

      Gió vàng hiu hắt...

      Chuyến tàu hỏa Hà Nội - Lào Cai dài dặc cuộn mình quẫy khúc khạc lửa chạy trên thiết lộ như con quái vật từ đời tiền sử hiện về lồng lộn chồm ngược miền sơn cước.

      Chợt quái vật ré lên một hồi vang thé, dừng trước ga Vĩnh Yên, hai con mắt quắc đèn pha chiếu xa hàng cây số, đứng thở phì phì, hồng hộc, mở mang cho hành khách chui vào bụng.

      Chuyến tàu đêm nay vào dịp vùng sơn cước có nhiều phiên chợ, lại vào độ Trung Thu, nên đông hành khách, chen chúc nhau, tay xách nách mang tấp nập hết sức. Lại có người mang theo cả đầu sư tử giấy, đèn kéo quân, trống. Mấy phút sau, con quái vật lại rú lên khạc, chuyển bánh.

      Bỗng có một chàng trai dân tộc từ đâu lừ đừ đi vào chỗ bán vé. Quần áo chàm sờn vai đã rách một đường chưa vá, đeo một cái giỏ mây sau lưng đựng vật dụng lâm sản chi đó, lại cắm cả ống bương như đòn gánh, ống đựng nước, mật ong chi đó chắc coi biết ngay người trên núi "mới xuống chợ" mà hình như xuống lần đầu thì phải. Vì chàng này còn vẻ bỡ ngỡ vừa đi vừa nhìn quanh xem chừng lạ mắt lắm.

      Chàng trai còn đội một cái nón bằng mây đan, có điều hơi lạ là tay còn cầm một cái ô dù cúp, lúc chống, lúc cắp nách, coi ai cũng đoán dân nhà gác xuống chợ, mua chơi. Chàng trai ngó ra đường sắt, và bước tới cửa hông. Một nhân viên nhà ga vừa đóng cửa, quay vào thấy hỏi luôn.

      - Chú này đi đâu?

      Chàng trai đáp bằng tiếng sơn cước:

      - Đi tàu hỏa! Phải cái tàu hỏa đi lên mạn ngược?

      - Ồ! Muộn rồi! Tàu vừa chuyển bánh! Không nghe "xíp lê" à? Đi đâu trễ thế, chú mày?

      Chàng trai ghé mắt dòm ra vẻ vội:

      - Trên rặng Ngân Sơn Tam Đảo vừa xuống. Định đi Yên Bái. Mở cửa giúp! Có việc cần, không đợi mãi được!

      Chàng trai này nói trống không, chẳng ra hẳn "dân rừng" cũng chẳng ra xấc xược, nhưng giọng y nói vừa đủ nghe, lại âm vang sang sảng tự như chuông gióng, vừa nói chàng vừa lau bụi đường trên trán, lật nón ra đàng sau, ánh điện vàng khè chiếu vào mặt y, khiến nhân viên nhà ga này vừa định phá lên cười, chợt im bặt, vì bộ mặt người núi này vừa ló ra, lại khác hẳn bộ dạng nghèo của y, làm nhân viên này phải sửng sốt. Đó là một khuôn mặt rất điển trai, đặc vẻ thư sinh, dẫu trai sang thành phố, hoặc con cái tiểu vương lãnh chúa cũng khó có kẻ sánh kịp! Nhưng lại là một dung mạo điển rất lạ tuy sáng như trăng rằm, nhưng lại phảng phất nét buồn sâu thăm thẳm, một thứ buồn cô độc, u uẩn mang mang, cộng thêm nét đặc biệt của người thâm sơn quen sống với đèo cao dốc vát, thác gầm, thú sống, khiến khuôn mặt chàng trai này như tẩm tráng một lớp băng lạnh khô, coi lầm lì, gan góc, khắc khổ, đơn côi bi thẳm và "bí ẩn rừng rú" lạ!

      Kẻ tinh mắt còn có thể thấu được trong cái vẻ điển rừng thiêng u uẩn vẫn toát ra nét bình nguyên chập chờn ẩn hiện như từ tiềm thức ánh lên mắt khiến ai trông thấy cũng chột dạ, nể ngay!

      Nhân viên nhà ga liền mỉm cười dịu dàng bảo:

      - Tàu chạy kia rồi! Đành đợi chuyến sau vậy thôi! Tiếc quá!

      Chàng trai nhìn ra. Tàu hỏa sình sịch rời sân ga giữa hồi còi rú.

      - Thôi! Kiếm nhà trọ vậy! Giờ thì có ngựa xích thố cũng không kịp nữa!

      Ông ta thân mật vỗ vai chàng trai, bỗng giật thót mình, chợt thấy chàng trai rút ra một đồng bạc "xòe" dúi vào tay ông ta. Và nắm "y môn" mở giật cửa. Quả nắm tụt luôn ra, y đẩy nhẹ một cái "xoảng". Cửa bung sàn xi măng, chàng trai chạy thốc ra khiến mấy người nhà ga trố mắt, há hốc mồm, chạy khỏi sân ga năm bảy chục thước, khi chàng trai chạy ra tới ngoài chỉ còn thấy tàn than tới tấp bay lại, đuôi tàu đã vụt xa. Trong vùng sáng tối nham nhở, mọi người còn thấy bóng chàng trai kia xách dù, đeo giỏ chạy theo, thoắt, chợt thấy, tít xa, cái bóng vọt lên nóc toa như con chim cắt.

      Có nhiều tiếng người kêu kinh ngạc. Con quái vật thở phì phì, mất dạng trong trăng sương tàn than đỏ bay lả tả.

      Chàng trai đã đứng trên nóc toa cuối, xốc lại giỏ, lật nón úp lên, chàng trai sơn cước này chống dù, đi lên phía toa hành khách, như đi trên đường. Chừng lần đầu đáp xe hỏa, chàng trai rừng có vẻ thích thú lắm, nhưng cũng không có vẻ ngơ ngác lạ lùng nhiều, chừng cũng hiểu qua "con quái vật thời đại" này trước khi xuống núi.

      Mấy phút sau, chàng trai lần xuống một toa ít hành khách. Đây là toa hạng ba sát toa hạng tư lố nhố đầy người. Trong toa chỉ độ hơn chục người, phần nhiều khách Tây, đầm Tàu, Ta, Ấn lẫn lộn, thấy chàng Thổ áo rách vào, tất cả đều ngó ra chỗ y ngồi, nhưng cứ mặc.

      Chàng trai không nhìn ai, kiếm một góc, bên cửa sổ, nhìn ra.

      Nhưng chỉ vài ga, y đã quay vào, ngồi bâng khuâng, mắt mở trừng, như nhìn vào cõi xa xăm nào. Rồi khép mắt lại, cái giỏ vẫn đeo lưng, lại lấy nón đội sụp mặt.

      Đêm vào khuya dần. Tàu qua Việt Trì, chạy xuyên rừng Phú Thọ. Bỗng một bọn năm người lực lưỡng từ bên toa hạng tư chuyển sang ngồi một góc. Bọn này mặt mày dữ tợn, khiến đám hành khách Tây, ta phát rợn.

      Riêng chàng trai vẫn nhắm mắt ngủ rồi, không buồn để ý đến ai. Bọn lạ kia toàn mặc quần áo đen, thỉnh thoảng lại kín đáo dòm hành khách sang trọng đeo đầy nữ trang.

      Trăng soi vằng vặc nóc tàu. Đường sắt chạy giữa vùng đồi núi điệp trùng, tiếng bánh sắt lăn cành cạch, đơn diệu, ru ngủ. Rừng cây chạy lùi lại cửa sổ. Một người Tây thấy lành lạnh, đứng lên vừa định kéo cửa, chợt một tên mặt sẹo bỗng đến đứng bên, lôi ra một chiếc đèn bấm "tách" thò hẳn tay ra khoa tròn. Người Tây này lấy làm lạ hỏi, hắn không đáp, bèn bước vào.

      Một người soát vé bước vào trong toa, tiến lại hỏi vé chàng áo rách cùng bọn áo đen.

      Tên mặt sẹo xòe tay chặt một nhát vào gáy người soát vé, anh gục luôn xuống.

      - Ngồi im! Hauts les mains - Ngồi im!

      Bọn lạ cùng đứng vụt lên, chĩa súng vào hành khách. Tất cả thất kinh, biến sắc, tên mặt sẹo rút trong mình ra một chiếc roi da, một người Tây vừa rút súng trong túi ra, đã bị hắn quất véo rớt liền.

      - Muốn sống ngồi im! Cựa quậy tao bắn vỡ sọ! Đứa nào có đồ nữ trang, vàng ngọc cởi mau!

      Có mấy phát súng nổ giữa tàu:

      - Cướp tàu! Cướp tàu!

      Hành khách sợ hết hồn, nhốn nháo kêu la inh ỏi, toa nào cũng có một hai tên dữ tợn đứng xổ lên, chĩa súng lột hành khách.

      Chàng trai mở mắt ra nhìn, trong toa, đám hành khách sang líu ríu trút hết đồ nữ trang bỏ vào chiếc mũ da cũ của tên sẹo mặt. Đồng bọn hắn có hai tên vọt toa khác, còn ba tên. Bỗng tên sẹo mặt quơ mớ nữ trang sức vàng bạc ném vào mặt hành khách quát:

      - Vòng ngọc thạch! Dây chuyền đồng tiền vàng! Tao cần hai món đó! Đứa nào có tháo nộp mau!

      Đám hành khách đàn bà chỉ có ba người đeo vòng ngọc xanh, nhưng chỉ có một người đeo đồng tiền trắng, cuống cuồng tháo nộp liền. Nhưng một người đàn bà Tàu mập, vòng đeo từ nhỏ tháo mãi không được, tên mặt sẹo hất hàm lạnh nhạt như đồng:

      - Tháo giúp! Cái bàn tay!

      Vừa truyền, hắn vừa xòe bàn tay hộ pháp ra hiệu chợt lập tức một tên đồng bọn sấn tới, rút soạt trong mình ra một cây đoản đao, túm tay người đàn bà chặt nghiến.

      Hành khách hết vía, trợn xanh mắt, rú lên, chỉ thấy ánh thép nhấp nhoáng trốc đầu tên áo đen, giữa tiếng hét ghê rợn, ai nấy dòm vào đã thấy một bàn tay rụng dưới sàn toa, giẫy đành đạch như đuôi con thạch sùng! Máu tóe phọt, người đàn bà khách đứng há hốc mồm, trố mắt, dòm tay mụ còn nguyên mới hoàn hồn.

      Tên áo đen rú nhào và đoản đao văng mất, tên mặt sẹo trợn mắt sững sờ dòm quanh, không biết ai chặt vì không ai lại gần tên kia.

      Ngồi một xó bên cửa sổ, chàng trai hỏi:

      - Sao không cướp vàng bạc, đồ dùng, kim cương, chỉ đòi lấy vòng ngọc, dây đồng tiền?

      Tên sẹo hét:

      - Đứa nào chém? Dân rừng! Câm họng! Không phải việc mày hỏi?

      Chàng trai hỏi đến lần thứ hai, chợt phất vụt tay áo một cái. Dưới ánh điện đục ngầu, chỉ thấy loáng một luồng sáng đảo vòng cầu, cây súng của hai tên kia đã bị dứt đôi. Lẹ như chớp chàng trai vọt lại dí dao liễu vào hỏi chìm:

      - Nói tao biết... sao chỉ cướp hai thứ đó? Ai sai bọn mi đi vét vòng ngọc, dây đồng tiền trên tàu?

      Hai tên lực lưỡng không ngờ chàng trai áo rách kia lại có bản lĩnh ghê đến thế, hai tên chưa ra nổi một đòn đã bị khóa cứng, tên sẹo căm giận mắng:

      - Dân rừng! Đừng hỏi phí lời! Bọn tao có biết cũng không nói đâu!

      Không nói thêm, chàng trai rừng túm ngực quăng cả hai tên ra ngoài cửa sổ!

      Hành khách trố mắt, vừa mừng vừa kinh dị, chàng trai sang toa khác. Mười phút sau nghe có mấy tiếng súng nổ, nhiều bóng đen vọt tuôn xuống hai bên đường sắt giữa đám tàn than bay lập lòe.

      Rồi đoàn tàu hết nhốn nháo kinh hoàng. Toa nào hành khách cũng xúm nhau bàn tán về đám cướp lạ đời chỉ đòi lấy hai thứ và ai nấy còn chưa dứt sững sờ kháo nhau về chàng trai thiểu số phi thường một tay đánh ra bọn cướp dữ mang đầy súng ống rồi biến mất như cơn gió thoảng. Có kẻ mê tín nhất định cho là sơn thần hiện về cứu nhân gian.

      Riêng toa hạng ba vẫn còn bàn tay tên cướp để lại. Hành khách lè lưỡi dòm phát khiếp, xôn xao đi kiếm chàng trai người dân tộc.

      Không ai ngờ chàng trai kỳ lạ này vẫn còn trên tàu. Y ngồi thu mình trong toa hàng hóa vẻ mặt vẫn buồn lạnh như lúc mới lên ga Vĩnh Yên. Xem chừng y lại buồn hơn nữa. Y ngồi nhìn ra rừng khuya trên ngọn đồi đỉnh núi mờ trăng sương.

      - Sao chỉ cướp vòng xanh, tiền vàng? Sao thiên hạ nhiều kẻ quyết tìm đoạt vòng xanh, tiền vàng? Thứ của ta có quan hệ gì đến dĩ vãng không? Dĩ vãng? Hừ! Không dĩ vãng, con người sống nổi chẳng? Mới lọt lòng đã xa mẹ lìa cha... xa cội nguồn...

      Y giơ cánh tay trước ánh trăng mờ, lẳng lặng vén tay áo chàm rộng. Cổ tay y có đeo một chiếc vòng xanh điểm huyết kín đầy!

      Y nhìn giây lâu, đoạn lặng lẽ buông tay áo xuống, ngồi nhìn vầng trăng vun vút trôi theo con tàu đêm coi cùng mang mang u uẩn lạ.

      Bỗng con quái vật dừng lại, thở phì phì phun khói đục dưới ánh điện ngầu đục. Chợt có một bọn phu khuân vác lên toa, dỡ hàng, y liền hỏi:

      - Sắp tới Yên Bái chưa?

      - Mê ngủ à? Yên Bái đây chớ đâu? Phải chú mình "lậu"?

      Bọn phu cười hô hố. Chàng trai mắt sáng hẳn lên xách dù xuống đi vào ga.

      Khách ra vào mãi chen chúc, tay xách nách mang, không ai kịp lưu ý tới. Nhưng khi chàng trai lạ lùng này ra đến chỗ buồng bán vé, đám hành khách cùng xuống đứng lại nói chuyện với đám thân nhân ra đón, ai nấy chưa hết kinh hoàng, trầm trồ kể lại vụ cướp tàu. Có mấy người thấy chàng trai nhận ra ngay, giật mình sửng sốt kêu lên.

      Chàng trai nhìn cảnh thân nhân đưa đón nhau đầm ấm, đang ngậm ngùi nghĩ đến cảnh cô độc của mình bỗng lại bị thiên hạ đổ dồn mắt nhìn, chàng có dáng không vui vội bỏ đi vào phố. Vừa đi vừa đưa mắt nhìn cảnh phố xá Yên Bái về khuya nằm bằn bặt dưới ánh đèn diện vàng hoe mang trên thân dáng cả đường nét quạnh hiu cảm khái của trị trấn sơn cước.

      Miền quê cha đất tổ đây... Biết đâu mẹ ta không đẻ ta tại nhà thương Yên Bái này? Biết đâu đây chẳng phải là nơi chôn rau cắt rốn ta? Vì như lời ân sư dặn, đồn điền nhà ta chỉ cách Yên Bái năm, bảy cây chi đó, không dám để lỡ kỳ duyên, vừa đẻ xong, cha mẹ ta phải vội trao nhờ ân sư nuôi dưỡng mười bảy năm qua... Chẳng biết giờ đấng sinh thành ra sao? Còn sống hay đã mất, anh em trai gái thế nào?

      Mà lạ thật! Sao ân sư không hé răng cho ta rõ về thân thế? Suốt mười bảy năm ròng, ta tưởng "người" là cha, ngày chia tay cuối cùng, "người" mới cho hay! Người họ Võ, đồn điền họ Võ trên đường Yên Bái, Lục Yên Châu, Tuyên Quang... Mà ta là Kinh hay dân tộc?

      Nao nao, háo hức, khắc khoải, lo lắng, cô đơn. Chàng trai cứ lùi lũi đi trên vỉa hè loang lổ kiếm người hỏi thăm.

      Chợt thấy một hàng "cà phê gánh" góc phố khuất, chàng ghé luôn vào gọi một ly, ngồi uống vẻ tự nhiên như tay vẫn sống dưới phố phường. Người bán cà phê là dân Kinh, trung niên, nước da sốt rét rừng, thấy chàng trai lạ uống cà phê, anh ta có vẻ cao hứng, vừa pha vừa hỏi:

      - Chú đâu tới? Chà chà! Cà phê tay này pha, Tây đầm phải khen à! Chú hay uống không?

      Nón vẫn đội sụp, chàng trai không đáp, chợt hỏi bất ngờ bằng tiếng Kinh:

      - Bác ở tỉnh Yên Bái này, có biết đồn điền họ Võ không? Trên đường đi Lục Yên, Tuyên Quang!

      Người lạ mặt nói đặc tiếng Kinh, âm sảng như chuông đồng khiến người bán cà phê sửng sốt ngó chòng chọc, nhưng mặt chàng khách khuất mờ sau vành nón loang lổ, người này tò mò hỏi:

      - Chú kiếm việc! Ồ! Ở Yên Bái này mấy ai không biết đồn điền cụ Võ? Mới tháng trước, cụ còn cưỡi ngựa ra đây, ghé uống cà phê tay này mà!

      Cả mừng, chàng trai vội hỏi dồn, người bán cà phê cũng tò mò hỏi lại:

      - Chú đâu tới, chú hỏi có việc chi?

      Chàng thật thà nói luôn:

      - Tôi đi học xa về! Tôi là con! Tôi rời nhà từ lúc mới đẻ!

      Vừa đáp vừa lột nón úp sau lưng, nhìn người bán cà phê, người này thấy bộ mặt điển trai, vùng kêu sửng sốt, vui vẻ hết sức:

      - Trời! Thế ra cậu là Võ Minh Thần đây ư? Chà chà! Coi giống cụ như đúc à! Tưởng ai? Ôi chao! Cụ nhớ cậu quá chừng, cụ có nói với tôi mà! Nội trong đồn điền, ai cũng ra uống cà phê tôi à! Cả tỉnh này ai cũng quý cụ nhà!

      Rồi y nói một tràng, đầy cao hứng, không khác người thân y mới về, khiến cho chàng trai kỳ lạ cũng vui lây. Hỏi được tin nhà sau mười bảy năm xa cách, chàng coi cũng đỡ cô đơn, nhưng có lẽ vì sống từ nhỏ tại cô sơn, chàng ta chỉ hơi nhếch mép cười vội hỏi thăm đường về đồn điền, đoạn cám ơn, trả tiền đi ngay, định về ngay. Nhưng vừa được tin nhà, chàng mừng rỡ vô hạn, lại thấy đêm khuya, nên kiếm nhà trọ nghỉ ngơi đã.

      Sớm mai, mới tảng sáng, đã thấy chàng trai kỳ lạ này xách dù đứng ngay đầu đường đi Tuyên Quang. Con đường này nối liền Yên Bái - Lục Yên Châu - Tuyên Quang, nên khách Kinh, Thổ, Tàu thường qua lại, từ Yên Bái đổ vào, dọc đường từ cây số một, hai trở đi, có nhiều đồn điền, nên khách qua lại tấp nập, kẻ bộ, người ngựa, có nhiều loại xe ngựa, có loại bánh bơm chạy độc mã, song mã, hoặc loại xe ngựa chở hàng, rất thuận tiện, bánh gỗ vành sắt lót cao su đặc, là loại mã xa rất nhiều trên đường ngược.

      Chàng trai lên một cái xe độc mã ngồi với mấy khách Kinh, Tàu, Mán. Ánh bình minh đỏ rực mái đồi, báo hiệu một buổi thu đẹp trời. Đường Yên Bái - Tuyên Quang từ tỉnh lỵ đi sâu mười lăm, hai chục cây số, đồi núi trập trùng khai phá trồng trọt nhiều, nhất đồi trà, nhấp nhô như đàn rùa phục vọng, coi đẹp phong quang thơ mộng hết sức. Đồn điền nối tiếp, giữa đồi cây như cam, quýt, kỳ đà phật thủ, chuối, dứa, suối nước uốn quanh, rải rác nhô cao những tà áo màu thành thị, bóng gái, trai cưỡi ngựa thấp thoáng giữa nền lá xanh, coi như những bức tranh chấm phá tươi mát như trong mơ.

      Chàng trai bâng khuâng nhìn cảnh vật hai bên đường, tâm hồn như tận đâu đâu.

      Xe ngựa qua khu đồn điền trà Đồng Lương, chừng hai cây, vừa lên một trái đồi đất đỏ, giữa một vùng đầy hoa lá xanh mướt, chợt thấy một bóng cưỡi ngựa từ dãy đồi tít trong phi rất nhanh về phía đường đá. Tới gần, mới rõ ra là một cô gái mặc sơ mi trắng, quần kaki cứt ngựa, khuôn mặt xinh đẹp nghịch ngợm hết sức. Nàng ta cắp một cây súng săn hai nòng vừa phóng ngựa, vừa cất tiếng hát véo von như tiếng chim oanh, dáng thanh tú như cánh bướm xuân vờn hoa vẻ rất yêu đời khiến cả hành khách lẫn chú xà ích cũng phải bật khen rối rít.

      Chợt một con chim ngói bay vụt qua, nàng ta cắp súng vẫy một phát "đoàng", con chim sa xuống, làm mấy cô thôn nữ đang hái búp lá, cùng reo lên. Cô gái áo trắng cười khanh khách, lướt đến nhặt con gáy, tiếp tục tế ngựa bạch về phía đường cái. Thoắt nàng đã tới ngọn đồi, xế bên tả, đồi cao ngựa đang lên dốc quanh co. Có con suối chạy giữa kẽ đồi. Cô gái vừa lên đồi, lại bắn luôn con trĩ bay qua rớt xuống suối.

      - Chà! Cô bắn giỏi dữ! Bắn được chim bay!

      Chú xà ích reo lớn, cô gái gò cương, cho ngựa xuống suối, nhặt con trĩ. Ngựa vừa xuống đến nơi, cô gái vừa sà cúi thò tay toan nhặt con chim đuôi dài, bỗng từ trong lùm cây gần đấy lao vụt ra một bóng nhân mã xẹt xếch trước đầu ngựa bạch, bắn tóe nước, sà xuống nhón luôn con trĩ, vọt chếch chân đồi. Bất ngờ bị cướp mất chim, lại bị bắn nước vào mình, cô gái áo trắng cả giận, vùng ngoắt ngồi lên yên, giật ngựa rượt theo, vừa nạp đạn, vừa quát:

      - Trả trĩ đây, không ta bắn!

      Được mấy bước, vừa giơ súng, bỗng có một bóng nữa vọt ra, quăng vèo một sợi dây thòng lọng chụp nghiến ngang mình cô gái, siết lại cả hai tay. Bóng này rập dừng giữa suối, giật mạnh lôi nàng lại. Nhưng cô gái đã kịp xoay người lại, túm được sợi dây căng, níu cứng, khiến tên kia không bắt được. Nhưng tên cướp trĩ đã lộn phát ngược lại, định tóm, chỉ còn cách mấy sải, chợt có tên khác xông ra trợ lực.

      Cô gái chừng có võ, nhưng ba tên kia không vừa, giằng co lúng túng, chỉ vài sải nữa là bị tóm trên đường đá, xe vừa tới ngọn dốc, mọi người kêu lên "cô kia bị bắt đến nơi" bỗng chàng trai hơi cau mày, vẻ khó chịu. Thấy ba tên lực lưỡng áp bức một cô gái, chàng thò tay phẩy một cái, hành khách nghe "véo" tiếng vút gió như xé lụa dưới suối, dây thừng đứt "phựt".

      Cô gái tung luôn thòng lọng, vọt tới cầm tay súng quật liền, hai tên kia đang lôi bị đứt dây chúi hẳn người đã nghe "soạt" mảng vải trùm mặt bị liếm mất mảng lớn, thất kinh giạt cả ra ngơ ngác, suýt bị ăn báng súng, cả ba rút dao rừng xúm đánh cô gái, cô gái lồng ngựa múa súng săn chống cự; nào dè từ trong bụi, chợt có bốn tên nữa xông ra, quay thòng lọng chụp bắt, cô gái xẹt chạy ngoắt về phía đường cái.

      Bọn kia bảy tên rượt theo. Cô gái chạy băng qua suối lao về nẻo có cây cầu sắt nhỏ bắc qua suối, nào ngờ, cách cầu chừng vài bộ, bỗng từ trên tàn cây có một tấm lưới tung xòe chụp xuống đầu mình, xiết chặt lôi lên, con ngựa cứ vọt lên đường, cô gái bị rút treo lơ lửng dưới tàn cây còn đang vùng vẫy thì bảy tên kia vọt tới, một hình thù giống dã nhân, đười ươi chi đó từ trên cây lao xuống cắp cả cô gái lẫn lưới vèo cái nó đã hạ chân đứng sau tên đi đầu, cả lũ cứ thế lao đi băng qua đầu cầu suối chạy như gió vào cánh đồng, đồi nương bên kia chân dốc. Đúng lúc chiếc xe ngựa đang đổ dốc, hành khách trố mắt kinh dị, cùng xà ích la lên, con ngựa bạch lúc đó đứng bên đường chồm hí, chàng trai giật roi xà ích, quất con ngựa kéo xe lao gấp xuống, làm hành khách sợ hãi kêu inh ỏi. Khi xe còn cách con ngựa bạch vài mươi bộ, chàng trai quăng vút người vọt khỏi xe hạ dính trên yên ngựa bạch thúc gót, rượt theo bọn bắt cóc. Xe ngựa hoảng dừng lại bên cầu, mọi người sửng sốt, nơm nớp.

      Nhưng không tới năm phút sau, chẳng hiểu đánh đấm cách nào, chàng trai kia đã lộn ngựa lại, mang theo cô gái còn bị trùm kín trong lưới, dừng bên suối. Chàng ta tháo lưới, dúi vào tay cô gái, nói tiếng Kinh điềm đạm như không:

      - Thôi! Giờ cô có thể về nhà! Bọn nó chạy hết rồi! Chắc nó rình bắt cô từ trước. Từ nay cô nên cẩn thận, chớ đi một mình vào rừng! Cô cầm tấm lưới này về chơi.

      Dứt lời nhảy xuống đất, đi về phía xe ngựa, cô gái chưa dứt bàng hoàng đuổi theo, cám ơn rối rít, dòm tấm lưới trên tay, vẻ ngạc nhiên thấy kẻ cứu mình là một chàng trai nói thạo tiếng Kinh. Nàng cố gặng hỏi, chàng trai đã lên xe, dịu dàng bảo:

      - Tôi có việc gấp, xin kiếu từ. Tôi phải tới đồn điền họ Võ ngay!

      - A, đồn điền họ Võ? Cách đây mấy cây số nữa thôi. Ông tới có việc gì ạ!

      - Về thăm nhà! Mười bảy năm nay, tôi mới về!

      Xe ngựa chạy lộc cộc, cô gái còn nhìn theo, mãi mới bỏ đi.

      Hành khách cùng ngồi xe ngựa thấy đều kinh ngạc, ngó trộm chàng trai kỳ lạ nhưng chàng ta lại thản nhiên ngồi như có vẻ không để ý nhiều đến chuyện cô gái bị bắt cóc vừa qua.

      Xe ngựa chạy qua những vùng đồi nương thật đẹp, qua vùng đồn điền chợt chú xà ích quay lại hỏi:

      - Tới đồn điền họ Võ rồi, có ông bà nào xuống đây không?

      Chàng trai cả mừng bảo xe ngừng, trả tiền đoạn xách dù, theo lời chú xà ích chỉ dẫn, chàng ta rẽ vào một con đường đất đỏ khá rộng, hai bên trồng toàn trầu, đi khoảng trăm thước, chàng dừng chân bên một cầu gỗ, đưa mắt nhìn quanh.

      Nương đồi trùng điệp, quang đãng, cây cỏ tốt tươi, ngay trước có một cái cổng gạch, xa trong đường đỏ quanh co, ẩn hiện nhiều tòa ngang dãy dọc, dãy lợp lá, tường xây gạch, bóng người, bóng ngựa, bò, trâu, gà, vịt thấp thoáng, nhác coi rõ một trang trại sầm uất nhất nhì trong miền.

      Chợt có một tốp năm, sáu người mặc quần áo nâu, quần áo chàm từ trong đi ra, tay cầm dao quắm, cào, cuốc... đi làm rẫy, người nào cũng khỏe mạnh rắn rỏi, chàng trai vội đón lại hỏi:

      - Phải đây đồn điền họ Võ không các bác?

      Một người nhiều tuổi, ngó chàng chòng chọc, vẻ ngạc nhiên:

      - Chú đâu tới? Vâng! Đây đó! Chú không thấy chữ trên cổng kia sao? Chú hỏi ai trong đồn điền?

      - Tôi hỏi cụ chủ họ Võ, cha tôi! Tôi đi học mười bảy năm nay mới về!

      Cả bọn tá điền sửng sốt ngó nhau, cùng kêu lên, người đứng tuổi mở to mắt, vẻ kinh sững:

      - Trời! Phải chú... Cậu hai nhà đây ư? Cậu Võ Minh Thần? Trời! Cả nhà đợi cậu mười bảy năm rồi! Cậu về chắc cụ mừng lắm! Cụ không được mạnh hơn tháng nay... Mà sao câu lại ăn mặc... Lạ vậy?

      - Tôi ở núi!

      Người đứng tuổi lập tức cùng bọn lực điền dẫn chàng trai có cái tên chính chàng cũng chưa hay, lộn vào trại. Quanh co đi sâu, cuối cùng băng qua một khu vườn rộng, lên một trái đồi có căn nhà gạch hai tầng ngang sườn ngoảnh mặt hướng Đông. Đồn điền khá nhiều người, đàn ông đàn bà đều dồn mắt ngó chàng.

      Trước thềm có cái vườn hoa đẹp, có một ông lão Tàu râu quai nón đang ngồi ngậm một cái ống điếu dài bên ngọn giả sơn, vẻ trầm tư.

      - Kia... chú Trưởng Sềnh! Tay chân thân tín của cụ nhà, làm quản lý cho cụ đấy! Mấy năm nay, tự nhiên lòa mắt, thường chỉ quanh quẩn hầu cụ! Chú giỏi lắm, một mình chú có lần đánh tan cả bọn cướp rừng!

      Chàng trai theo người đàn ông ra chỗ lão Tàu. Lưng xoay lại, chợt lão hỏi:

      - Ai đó? Tư Cán!

      Chàng trai chịu lão thính tai, người có tên Cán vừa rảo bước lại nói to:

      - Chú Trưởng à! Có cậu Hai mới về! Cậu Võ Minh Thần đó! Mười bảy năm...

      Không hiểu sao, tự nhiên lão khách giật bắn người lên, đánh rớt cả ống điếu, quay mặt lại đứng sững, mở to cặp mắt nhìn, thân thể lão run bắn lên, vẻ xúc động mãnh liệt, lắp bắp kêu giật bằng tiếng Quảng Đông:

      - Đâu? Cậu Võ...? Mười bảy năm... Cậu bé đã về! Trời! Thật ư?

      Chàng trai thấy lão khách rớt ống điếu vội bước lại, cúi nhặt đưa cho lão, dòm kỹ mới rõ mắt lão lòa thật, mắt có màng trắng che phủ, có lẽ chỉ hơi thấy hình dạng, lão sờ soạng đỡ ống điếu quơ nắm lấy hai vai chàng trai năn nắn, sờ sờ, miệng lắp bắp như nói một mình:

      - Cậu... cậu Võ... Mười bảy năm mới tìm về đây. Nếu đúng, cậu phải có đeo cái vòng, sợi dây tiền gẫy.

      Chàng trai cầm tay lão để vào cổ mình và trên cổ ngực, hai chỗ đeo vòng xanh và sợi dây nửa tiền vàng. Lão khách sờ thấy, vùng ôm lấy chàng, rung động:

      - Đúng rồi! Đúng cậu! Mười bảy năm mới về! Trời còn thương người lành!

      Vào đây mau! Cụ đợi mười bảy năm rồi! Thôi! Tư Cán xuống bảo giết lợn gà vịt làm mừng cậu về... mau! Cho anh em nghỉ việc ngày hôm nay!

      Tư Cán hớn hở cùng bọn lực điền xuống đồi, lão khách dắt chàng vào nhà, lão có vẻ mừng cuống đưa chàng trai lên thẳng cầu thang gác. Chàng trai nhìn quanh thấy bày biện rất cổ kính, với những tủ kính sập gụ, hoành phi câu đối, ghế đá... có cả đồ "bát bửu", trên tường treo nhiều kiểu khí giới cổ kim coi rất nghiêm trang. Có hai, ba người trung niên vừa ta vừa Tàu, dân tộc qua lại, thấy chàng trai lạ, đều cúi đầu chào lễ phép, lão khách đẩy cửa một căn phòng im vắng, đưa chàng trai vào.

      Phòng ít ánh sáng, có một ông già nằm rên, sập lót da báo, ngửa mặt trông trần nhà vẻ trầm tư. Ánh sáng yếu ớt chiếu vào bộ mặt già nua, hom hem, nhưng vẫn phảng phất nét quắc thước của kẻ từng xông pha lăn lộn. Thấy động, ông già này ngoảnh mặt ra, không chậm nửa khắc, lão khách dắt tay chàng trai vào, nói luôn:

      - Cụ chủ à! Cậu nhà đã về đây! Cậu mười bảy năm xưa, cậu đeo vòng tiền gãy... ngày xưa trên biên giới.

      Đang thở mệt nhọc, như có mãnh lực dị thường xô đẩy, hai con mắt mở to vừa mừng vừa sững sờ cực độ, hai tay chới với, kêu run.

      - Trời! Con đấy ư? Con... theo thầy học võ... mười bảy năm đã về đấy ư? Ôi trời còn tựa người oan khuất! Còn cho ta được thấy đứa nhỏ ngày xưa.

      Lão khách bảo khẽ "cụ nhà đấy", chàng trai ngó sững và lao mình vào, một già một trẻ ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi, tự nhiên mắt già mắt trẻ cùng ứa lệ ròng ròng.

      - Con... cha đợi con suốt mười bảy năm dài... chỉ lo chết đi không được gặp lại.

      - Cha... mười bảy năm liền con vẫn tưởng ân sư là cha đẻ, hôm chia tay cuối cùng, người nói cho con hay...! Ngày xuống núi con chỉ lo không còn thấy cha mẹ...

      Chàng trai dìu cha cùng ngồi bên mép sập, hai người nhìn nhau qua màn lệ, như muốn ngắm kỹ diện mạo nhau sau mười bảy năm xa cách, chàng trai rung lời:

      - Khi ân sư cho biết, con lo nghĩ vẩn vơ, ngờ có chuyện bí ẩn khác thường, nay gặp cha con mới yên tâm! Suốt mười bảy năm "người" chỉ lo dạy bảo, đến buổi chia tay "người" chỉ bảo: Ta không phải cha ruột con đâu! Hãy về tìm cha tại vùng Yên Bái, đồn điền họ Võ trên đường đi Lục Yên Châu! Cha con đang đợi! Thế thôi! Hỏi gì thêm "người" cũng không nói, làm cho con càng lo sợ vẩn vơ! Mẹ con đâu?

      Tự nhiên, ông già bảy mươi họ Võ giật mình chớp mắt, từ từ buông chàng trai ra, mặt trầm hẳn lại, đưa mắt nhìn lão khách vẫn đứng giữa cửa, đang chấm nước mắt.

      Chàng trai nhìn ông già. Bộ mặt lão vụt thay đổi hẳn như vừa có một đám mây mờ dĩ vãng kéo về coi cực kỳ thê lương. Lão ngó lão khách rồi đưa mắt nhìn qua khung cửa kính xa xa in hình rặng núi xanh đẫm ánh nắng sớm thu, như chìm về tận cõi xa xăm cách mười mấy mùa lá rụng.

      Chợt lão rùng mình liền mấy cái, đưa tay ôm lấy mặt, thở dài, khá lâu mới mở ra, nhìn chàng trai, đưa bàn tay nhăn nheo nắm lấy bờ vai, hai con mắt bỗng trở nên sâu thăm thẳm như đáy huyệt chứa đựng cả cái bí mật thảm thê oan khổ tưởng đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian.

      Giọng chìm buồn mênh mang, lão run run lẩm bẩm như nói để mình nghe:

      - Mẹ con chết rồi... còn đâu! Chết mười bảy năm rồi... hồi con mới lên hai!

      Chàng trai thở dài buồn bã:

      - Cha còn ảnh mẹ con chứ? Mà sao cha xanh xám thế? Phải mẹ con chết... thảm khốc lắm không?

      Ông già họ Võ có vẻ đắn đo, chừng đang coi có nên cho chàng trai biết ngay câu chuyện gớm ghê, lão đã chờ mười bảy năm để nói không. Chợt lão khách nói vọng:

      - Cụ chủ à! Cậu hai nhà mới về, đừng để cậu buồn!

      Ông già lấy lại bình tĩnh, bảo:

      - Chuyện nhà, cha sẽ kể con rõ, mai kia không muộn! Con về kịp cha chưa chết, là Trời Phật còn thương nhiều! Mười bảy năm nay cha chỉ lo không được gặp, gia tài này chẳng biết ký thác cho ai! Chú Sềnh cũng già rồi!

      Chàng trai ngơ ngác:

      - Cha... thế còn anh chị em con?

      - Có ai đâu? Mười bảy năm này, cha nằm đợi con về! A! Còn có Cả Hổ ở với cha mười lăm năm, coi như con nuôi, năm nay ngót bốn mươi rồi! Hình như nó đi đâu sớm, chưa về! Lát con sẽ gặp! Chú Sềnh à! Đưa cậu hai đi tắm rửa, thay quần áo! bảo chúng làm tiệc mau! Nhớ con là Võ Minh Thần!

      Lão khách vẫy gọi, nhưng chàng trai vẫn ngồi bên mép sập, chưa đi vội, chừng bị dồn nén quá lâu, không chịu nổi, chàng trai cất tiếng hỏi:

      - Cha... không nên dấu con! Ân sư con bảo về tìm cha, con linh cảm có chuyện chi bí ẩn ghê gớm, nên... mới phải phiêu bạt lạc lõng ngoài ngàn dặm từ khi còn trứng nước! Ân sư có lúc đưa con lên tận ngọn Thái Hành Sơn, có hồi sang tận miền sa mạc Gô Bi, ngược tận Bắc phương, đi dọc theo lưu vực Hắc Long Giang từ Mãn Châu sang Mông Cổ! Xem chừng "người" mới gặp cha lần đầu và có lẽ chính cha cũng không biết "người" là ai? Từ đâu tới? Mà vẫn trao con cho "người"! Mười bảy năm dài khổ luyện, giờ con đã đủ sức nghe câu chuyện nhà xin cha cứ nói! Con không sống nổi nếu chưa biết rõ nguồn gốc!

      Ông già nghe chàng trai nói, như sực nhớ, vùng hỏi:

      - Mười bảy năm theo thầy đi khắp thiên sơn vạn thủy, con đã học được tới đâu? Liệu hai cánh tay con có mang nổi... gốc nguồn quá khứ không? Phải! Con đoán đúng! Quá khứ đè nặng lên vai cha mười bảy năm rồi nếu con mang nổi...!

      Hiểu ý, chàng trẻ tuổi đứng lên kính cẩn:

      - Xin cha truyền!

      Ông già họ Võ đứng lên, tinh thần chợt phấn khởi, như vơi đi quá nửa phần bệnh, bước ra, vịn vai lão khách, rời buồng, dẫn chàng trai ra phía ban công sau hồi. Lưng đồi cỏ xanh um, vắng vẻ, lão dòm quanh, chợt thấy một con chó lớn đang chạy tung tăng dưới vườn, cách khá xa, lão trỏ xuống bảo:

      - Này Minh Thần con! Nếu gặp một con thú dữ cách hai, ba chục thước như con chó kia, con có thể giết nó mà không cần dùng súng bắn chăng?

      Chàng trai thưa:

      - Xa hơn mười bộ nữa cũng được! Không những thế con có thể hạ một mục tiêu di động như một con chim cắt đang bay chẳng hạn.

      Vẻ ngạc nhiên, ông già nhìn con, chàng trai ngó quanh chợt trỏ một con chim nhạn vừa từ phía trước lao tới cách khoảng bốn mươi bộ cao chếch, chàng trai đánh vụt tay ra.

      "Véo"! Tiếng xé gió muốn rách không gian từ tay áo chàng trai bay ra một vật sáng bạch, coi như một cái mồng trắng, con nhạn sa ngay xuống. Nháng cầu vồng trước mắt ông già ngó lại, tay chàng trai đã cầm một thanh liễu đao nhỏ bằng ngón tay, dài hơn gang, sắc như nước. Lão bật kêu lên mừng rỡ:

      - Trời! Con biết phép phi đao? Con có thể lấy đầu người nhanh như tia chớp!

      Chàng trai giơ ống tay áo cho cha thấy mỗi tay có gài một ngọn liễu đao:

      - Không phải phép phi đao đâu cha! Có hai cách phóng khí giới, một ném đi không trở lui, người thường dùng, hai ném đi dùng nhân điện tụ công điều động lưỡi dao xa gần tùy sức, với một lưỡi dao có thể chém liền hai nhát, cũng như người ta dùng một bộ máy phát điện điều khiển một phi đạn ngoài xa vậy! Ân sư đã truyền cho con luyện tập riêng môn này tới mười năm mới phát điện trong mình điều động được! Dùng phép này rất hao chân khí, lúc cần lắm, mới ra tay!

      Ông già họ Võ mừng hết sức, khen:

      - Ân sư con quả là bậc phi phàm! Cha đã thấy mười bảy năm xưa. Nhưng nếu cùng một lúc có hàng trăm, mấy trăm con thú xông lại vồ như rươi, dao này chém sao kịp? Lúc đó, con làm cách nào?

      Từ tốn chàng trai đáp:

      - Lúc đó chắc phải dùng phản phong quét chúng hoặc sử dụng mê công! Ân sư có dạy con thuật tẩm luyện thuốc mê, đánh ra, mũi và lỗ chân lông vật nào hít phải cũng lăn!

      - À hay lắm! Nhưng nếu dùng tà thuật độc khí, con tính sao?

      - Lúc đó, hoặc ra đòn trước, hoặc bế hết yếu huyệt, lỗ chân lông, tà phong tà khí không xâm tạng phủ được! Trừ phi... kẻ địch thượng thừa phi thường như... ân sư con chẳng hạn, lúc đó, dĩ nhiên không còn phép chống nào hiệu nghiệm!

      Ông già cảm động ôm chầm lấy con, nước mắt lại chảy ròng, quay sang bảo lão khách đứng gần:

      - A Sềnh à! Lập bàn hương án, đóng hết cửa lại, bảo chúng nó xuống hết dưới, mình chú ở lại thôi! Đã đến lúc ta phải kể rõ nguồn cơn cho "nó"... dĩ vãng đè nặng hồn ta quá lâu rồi, phải kể lại cho hết! Ta phải cáo hồn oan mẹ nó!

      Lão khách có cái tên Sềnh, bỏ ra liền. Tuy lòa mắt, nhưng lão còn đi lại như thường, chừng đã thuộc hết đường lối trong trang trại. Chỉ vài phút sau, cả mấy dãy buồng, tầng lầu đã im ắng không một bóng gia nhân.

      Lão Sềnh tự tay lúi húi một mình thiết lập, xong hương án gióng lên một hồi khánh, đoạn chắp tay đứng bên, vẻ buồn rầu thành kính hết sức.

      Chàng trai mới biết tên mình là Võ Minh Thần, thấy mặt cha cùng người lão bộc thân tín đầy vẻ nghiêm trọng lạ thường, lại hiện rõ nét buồn kỳ dị, chàng trai họ Võ linh cảm ngay trong gia đình ắt xảy ra chuyện thê thảm khác thường, tim bỗng đập mạnh, hồi hộp hết sức. Bèn đặt giỏ mây xuống nhìn hai ông già.

      Lão chủ đồn điền họ Võ dáng người mệt nhọc vì đang nằm bệnh, nhưng con mắt chợt sáng long lanh u ẩn, lão đưa mắt nhìn quanh, cảnh buồng tranh tối tranh sáng,chỉ có một khung cửa sổ mở chớp, cửa kính đóng, nắng thu sớm chiều xế góc buồng.

      Lão bước lại trước bàn thờ, chợt ngó ra phía cửa ra vào trầm giọng:

      - A Sềnh à! Có lẽ nên khép cửa, chú đứng đó cũng được! Không nên để kẻ nào nghe thấy.

      Hiểu ý, lão khách làm theo lệnh chủ và đứng tựa bên cửa. Lão chủ đồn điền họ Võ thắp hương lâm râm khấn khứa to nhỏ, dưới ánh nến trắng vật vờ, bộ mặt già nua càng trở nên thê lương hết sức, như ẩn hiện cả nỗi buồn thương dĩ vãng mười bảy năm dài dằng dặc đè nặng tâm hồn cô đơn của người đàn ông luống tuổi phong trần. Chàng trai đứng chắp tay bên bàn hương án, lòng xao xuyến, nơm nớp, chưa chi đã thấy xót xa, nhìn hai giòng lệ từ từ lăn trên lưỡng quyền ông già. Chợt im, lão nhắm hai mắt lại. Cả căn buồng càng rơi vào im lặng, có tiếng gà gáy khe khẽ từ dưới chân đồi vọng lên.

      Bỗng ông già họ Võ ôm lấy mặt, run giọng lẩm bẩm như nói với... dĩ vãng xa xưa, tiếng nghe âm u tưởng từ thế giới nào vọng về:

      - Ghê khiếp quá! Kinh sợ quá! Ác mộng cũng không kinh bằng! Cái xác... Trời ơi! Cái xác người đàn bà bị con quỷ nhả ra... Trời! Cái túi da người treo lủng lẳng! Đứa con nít lên hai mồ côi giữa đàn quỷ... biên thùy hoang vu lởm chởm đầy nanh vuốt... Cái túi da là mẹ con, đứa con nít chính là con...

      Giọng ông già họ Võ chìm dần, run run, kinh hoàng. Lão khách đứng tựa cửa, vùng thở mạnh, rên khẽ, tiếng nói như mê:

      - Ngộ cũng thấy! Ma quỷ... Hầy! Nó đớp cả cái gót chân ngộ... Ngộ đi với cụ chủ... Ghê dữ à!

      Ông gia họ Võ chợt buông tay, lau nước mắt, lấy giọng điềm tĩnh, đặt lên vai chàng trai mới về, lúc này mặt vừa thoáng biến sắc, mạch lạc, nhưng cũng đã vẽ lên mấy nét quá khứ bi thảm đến rởn ốc!

      - Đáng lẽ cha chưa cho con biết ngay chuyện ghê gớm này. Cha định để con vui đoàn tụ vài ngày, làm đủ giấy tờ trao gia tài cho con và chia cho Cả Hổ, chú Sềnh cùng đám tay chân thuộc hạ mỗi người một số ruộng, tiền lập nghiệp xong xuôi đâu đấy, cha mới nói rõ gốc nguồn thân thế cho con hay. Nhưng tuổi già như đèn trước gió, cha chỉ sợ bất ưng có thể lìa trần, gánh nặng tang thương đau khổ bí mật mang nặng trong đầu mười bảy năm liền, lỡ xảy chi không kịp cho con biết, chắc cha chết đi cũng không nhắm mắt nổi!

      Lão ngừng lại, ho sù sụ. Chàng trai vọt tới bên sập rót nước dâng. Lão uống mấy hớp, thở phào một hơi cố trấn tĩnh, như chưa biết vào chuyện sao cho gọn.

      - Mười bảy năm rồi! Phải! Chuyện xảy ra chiều hôm đó, cha còn nhớ như in, nơi biên giới Việt - Trung, một chiều muộn, sắp hoàng hôn, gió hắt hiu... Chiều hôm đó...

      Giọng lão chìm dần như chỉ sợ tiếng nói to sẽ làm xao động cả chiều vàng bên cảnh xưa... Ánh nến vật vờ rung rung loang lổ hắt từng vũng sáng, tối trên bộ mặt gồ ghề như con đường đèo xuyên biên. Nhưng chợt lão hắng giọng bằng một tiếng đanh, vùng cao giọng:

      - À quên! Cha là Võ Minh Phong, hồi đó đã ngoại năm mươi. Trước nhất, con cũng cần biết rõ cha đây thực ra không phải cha đẻ của con! Cha chỉ nhận con làm dưỡng tử, còn cha ruột của con thực ra...

      Chàng trai vừa nghe ông già họ Võ thổ lộ, không kém nỗi kinh ngạc, sững sờ, vùng choàng lấy hai vai lão bật kêu "trời" sửng sốt, toàn thân chấn động, một hơi gió lùa khe cửa khép hờ, ánh nến trắng lảo đảo. Thình lình nghe có tiếng súng nổ "đoàng", tiếp liền tiếng lão khách Sềnh la lớn. Rầm! Cánh cửa mở toang, thân hình cao lớn của lão Sềnh loạng choạng đổ dụi theo cánh cửa.

      Giật mình, cả hai người cùng ngoảnh trông ra, vừa trông ra, vừa thấy dáng lão thuộc hạ thân tín ngã nhào, ông già họ Võ vùng lảo đảo hấp tấp chạy ra, miệng hỏi vọt "A Sềnh sao thế"?

      Chàng tuổi trẻ đứng ngơ ngác mấy giây, nhưng vốn nhạy phản ứng của nhà võ, thấy ông già vùng chạy ra, chàng trai vùng vươn tay nắm lại, gọi giật giọng:

      - Cha! Chớ ra!

      Miệng quát, chân vụt đuổi theo, nhưng hơi muộn. Cách vài thước, ông già quá xúc động trước cảnh người thuộc hạ rất thân ngã dụi, lão chỉ vùng một, hai bước đã tới, cúi xuống đỡ lão Sềnh, không hề để ý đến chuyện đã vô tình đứng giữa khung cửa vừa mở ngoác. Và đúng lúc lão chạy ra giơ hai tay chưa kịp ngồi xuống ôm lão Sềnh lên, thì "đoàng" phát súng nửa nổ chát chúa, lẫn tiếng xoảng khô dòn, ông già họ Võ rú lên, bật ngửa người, ôm ngực, trợn mắt trừng trừng, đổ xuống như cây chuối bị đẵn gốc.

      Đáo sự mới biết chàng trai này nhanh hết sức, vừa bật kêu lên vừa lao vụt qua khung cửa trống, khom mình ghé vai vừa đỡ vừa đội luôn ông già vào chỗ khuất, "đoàng" phát thứ ba "chíu" trốc đầu chàng trai, xói phăng một mảnh bàn thờ, đạn xé ngang. Lẹ như chớp, chàng trai đặt ông già, đánh vụt bàn tay ra chiều ngược đạn đạo khoắng loằng ngoằng. Từ ống tay bay vút ra ngọn liễu đao bắn "véo" chếch qua góc hành lang, tít cuối phía hậu, nơi có dựng một tấm gương lớn sát "ban công".

      Xoảng! Xoảng! Tiếp liền tiếng rú nhọn, cụt. Như kẻ làm quỷ thuật, chàng trai rê vụt bàn tay trái về phía trước cửa, như rờ rẫm không khí, bàn tay chợt đỏ rực như tắm ánh bình minh. Nhưng nếu có kẻ thượng võ mới thấy kinh, vì đó là "bàn tay điện" tập trung nhân điện kỳ công đang rê tìm luồng nhân điện bên ngoài.

      Nếu ngoài có người ẩn náu sẽ toát hồi nhân điện, nhân khí ra, chạm luồng điện công, lập tức có phản chấn dội lại, biết liền. Quả nhiên, vừa khoa một vòng, chàng trai đã chém xả tay phải ra, tít xa, xế sau "ban công" có tiếng rào rào rắc rắc, "phập" ngọt như không, từ trên cành cây um tùm vừa gãy, bỗng phát ra một tiếng rú lê thê, một cánh tay cầm súng rụng xuống vườn.

      Trong cả phản ứng bất thần, chàng trai nghe tiếng rú vùng đảo tay toan chém với theo, nhưng sực nghĩ ra, chàng ta nâng vụt lên, rào rắc ngọn cây, chàng ta toan phóng mình ra, bỗng nghe dưới vọng lên tiếng người kêu lớn "súng nổ trên nhà", "lên coi mau", sau lưng chàng, ông già chợt rên lên phều phào:

      - Chết mất... con!

      Lo mạng ông già, chàng trai vội thu liễu đao khép sập cánh cửa, quay vào xốc ông già, trong khi lão Sềnh vừa kêu, vừa đang cố ngồi dậy:

      - Coi chừng... nó bắn nữa! Mặc ngộ... ngộ bị vào đùi... Cứu cụ nhà...

      Quả nhiên đùi trên lão đẫm máu, lão ôm vết thương cắn răng ngó chủ, chàng trai ôm ông già xem ngực, ngực đầm đìa máu đỏ lòm như đổ cả bát phẩm điều, lão mím môi, quằn quại ngửa cổ, cố gượng đau, nói gì, bỗng nghe lào phào yếu ớt, tiếng chìm biến trong hơi thở hổn hển:

      - Chết... mất Võ... Thần con... bí mật đời... con... hỏi lão... Sềnh...

      Môi mấp máy, lão rướn cong mình quằn quại hai con mắt mở trừng trừng, ứa lệ thở phào, rồi ngoẹo đầu sang bên... đi vào cõi tịch mịch muôn đời! Chàng trai vùng reo tên, lay gọi, nhưng vô ích! Ông già cô đơn cõi lòng, đã chết, khi chưa kịp thổ lộ điều bí mật cho người trai lưu lạc, viên đạn bắn cạnh tim, gặp xương phá vỡ!

      Chàng trai hét lên, run tay vuốt mắt cho ông già, nước mắt chảy ròng rỏ cả xuống bộ mặt phong trần quắc thước.

      Ngay khi đó, năm sáu người nhà tay súng, tay dao rầm rập chạy lên, xô rầm cửa, kinh hoàng trợn mắt, chàng trai trỏ vụt về phía mình vừa chém:

      - Có đứa bắn trộm! Có đứa bị thương! Chớ để nó trốn! Bắt sống lấy! Mau!

      Bọn gia nhân thuộc hạ nhất loạt vọt đi đuổi sục.

      Lão Sềnh ôm đùi, nhịn đau lê lại gần chỗ ông già họ Võ, chàng trai ngó thấy mặt lão xanh xám, vùng đưa tay đỡ, miệng hỏi:

      - Chú sao không? Để tôi gắp đạn ra! Chắc cắm trong đùi! Chuyện năm xưa chú biết chú cho biết... mau! Điều bí ẩn... về thân thế tôi... mẹ tôi sao? Sao lại "túi da", con quỷ? Sao lại "vòng xanh"? Trời ơi! Tôi phát điên mất! Mười bảy năm chờ đợi... tôi vừa về "người" lại bị bắn trộm chết...

      Chàng trai vừa hỏi, vừa bồng ông già họ Võ lên đặt nằm ngửa trên sập, kéo lấy mảnh khăn trắng phủ lên mặt ông già bất hạnh.

      Lão Sềnh chừng thấy mình bị đạn phá nát xương đùi trên, đau hết sức, lại sợ xảy chuyện chẳng may, vùng gọi:

      - Cậu hai! Cậu... nghe tôi kể... đã!

      Đang cúi phủ vải trắng lên mặt ông già họ Võ, nghe gọi, chàng trai vội ngẩng quay ra, bất ngờ nghe "xoảng" tiếng kính vỡ tan dòn, chàng trai giật mình ngó vụt về phía có tiếng động, toàn thân lao xuống xô lão Sềnh.

      Nhưng chỉ kịp thấy một bàn "tay" lông lá đen thui vừa đấm vỡ kính vừa thò vào, phóng vút cái, rụt luôn ra, nhanh như chớp. Đến độ chàng trai chưa kịp mó vào mình lão Sềnh, lão khách lòa lúc đó nghe tiếng xoảng, vụt ngoảnh trông về góc buồng hồi, chân đau, chưa kịp phản ứng, thì một lưỡi dao lá đã bay vút vào, cắm trúng cổ họng lão khách lòa! Phập!

      Vừa thấy lão la lên, ôm cổ lòi chuôi dao nhỏ, chàng trai dậm phắt chân, vừa nhảy vọt về phía cửa sổ, vừa thả "vèo" lưỡi liễu đao. Xoảng xoảng! Chát chát! Ánh thép thần tốc phá vỡ tan ô kính, chặt đứt trấn song sắt, có tiếng ré kéo dài hút, chàng trai dòm qua khung cửa sổ mờ có thoáng thấy một bóng con nít đen đang đeo đu vút từ phía khung cửa sổ ra lùm cây xế bên hồi, vừa nắm được cành cây bỗng rời ra một bàn chân đen thui, bóng con nít này sa luôn xuống vườn.

      Chàng trai nổi giận, vừa nắm trấn song định bẻ nhẩy qua vườn, bỗng nghe lão khách gọi cứng:

      - Vào... mau... dao độc...

      Giật mình, chàng trai vội đảo lại, vừa kịp đỡ lão khách dụi xuống, hai tay run bần bật, lưỡi dao cắm ngang nơi cổ họng, máu đen sì, mắt lão trợn ngược, cả kinh, chàng bật gọi:

      - Chú Sềnh! Trời! Dao tẩm nhựa "sui"? Chú... sao... bí mật năm xưa? Sao? Mẹ tôi... cha tôi là ai? Ai giết? Sao lại "quỷ"? Ai giết?

      Vô ích! Thuốc độc đã ngấm vào mạch máu, tạng phủ, thứ nhựa "sui" ngâm mũi tên chỉ bắn sướt da rớm máu, lợn lòi to bằng con trâu, nháy mắt đã chết rồi!

      Vừa lay gọi, chàng trai vừa ngó mắt lão khách, mắt đã lạc thần, hơi đưa đi đưa lại, chàng trai vội cúi sát xuống, lão khách run bắn lên dãy chết, môi mấp máy, cố thu hết tàn lực, nhưng lưỡi đã líu lại. Phào theo hơi thở đứt, phều phều mấy tiếng "tìm... Chúa núi Đầu Ngựa". Rồi lão ngoẹo cổ "đi" luôn.

      - Chú Sềnh! Chúa núi Đầu Ngựa là kẻ thù hay người ân? Tìm hỏi nguồn cơn hay báo oán? Cõi nào?

      Cũng như ông già quắc thước họ Võ, suốt mười bảy năm ngậm miệng, chôn giấu chuyện thảm thê bí ẩn trong lòng, đợi "đứa nhỏ năm xưa" trở về, nhưng mới nói được một, hai điều, đã ra người thiên cổ đem theo bí ẩn xuống tuyền đài!

      Mười bảy năm chờ đợi, cả hai cùng bị chết giữa phút trùng phùng! Kẻ nào giết? Kẻ nào? Hy vọng gốc nguồn thân thế vừa chớm lóe, đã tắt ngang... Giờ chỉ còn mình ta cô độc chơ vơ không nguồn gốc trên cõi đời oan khổ ác độc này!

      Chàng trai đặt người khách già lên sập, và ôm cả hai cái xác thân yêu, vật mình khóc rất thảm thiết.

      Cả trang trại náo động, gia nhân tá điền, đàn ông, đàn bà, gọi nhau inh ỏi, đám kéo lên lầu, đám rượt tìm quân gian, đồn điền loạn cả lên, nhiều người tưởng cướp.

      Chúng xô cửa, thấy chàng tuổi trẻ mặc áo rách vai đang ôm hai cái thây chủ đồn điền, lão bộc khóc thê thảm, ai nấy đều kinh dị, nhiều kẻ khóc òa.

      Bọn gia nhân thủ túc vệ sĩ vừa đổ đi rượt hung thủ, bắt được một cánh tay, một ống chân người và một bàn chân vượn thú cùng hai khẩu súng trận, loại mút Đông Dương.

      - Tụi này lợi hại không vừa! Bọn tôi chạy ra còn thấy bóng què chân chạy, có một tên khác trong bụi nhảy ra dắt, phóng về nẻo đường hậu mất dạng, bọn tôi chỉ bắn theo được một, hai phát. Đảo sang hồi bên này, nhặt được một bàn chân thú coi đúng chân vượn. Cả nhà có sao không... cậu hai!

      - Trời! Cả cụ lẫn chú Trưởng Sềnh đều bị hại!

      Bọn thuộc hạ vệ sĩ nhào vào kinh sững, kẻ nghiến răng trợn mắt chửi rủa, người cúi đầu ứa nước mắt, tất cả xúm lại an ủi chàng tuổi trẻ, một người Kinh trạc tứ tuần, vẻ khá giỏi võ, hai tay hai khẩu S.Etienne cối to, dắt vào bụng lễ phép bảo chàng trai:

      - Chắc chúng nó theo dõi lâu rồi! Ngót mười năm nay không lúc nào bọn tôi rời cụ nửa bước! Cụ vẫn ngại có kẻ thù bí mật ám hại. Tôi là Kình, hồi trước đã đi lính đóng quản nên thường gọi Quản Kình. Tôi theo cụ hơn mười năm rồi, trước hồi cụ làm quan Châu. Cụ rất có lượng thương người, ai cũng kính mến. Cụ lặn lội suốt đời, không ngờ về già lại bị ám hại!

      Chàng trai gạt nước mắt, ngó xác ông già:

      - Cha tôi có làm quan Châu?

      - Dạ, cụ nhà chỉ nhậm chức mấy năm, rồi thôi! Cụ ưa hoạt động. Chỉ thích mở đồn điền, buôn lậu!

      - Nhưng cụ bỏ nghề này đúng mười bảy năm rồi từ ngày gửi cậu hai đi học xa.

      Chàng trai thấy Quản Kình cùng bọn thuộc hạ dưỡng phụ mặt mày trông gan góc, có người đầy sẹo coi dữ tợn, nhưng xem vẻ trung thành có nghĩa, bèn nắm tay Quản Kình cùng đám thuộc hạ, ngậm ngùi bảo:

      - Tôi mới về, lâu nay ở núi, chưa hiểu chuyện chi nay chẳng may cụ cha tôi cùng chú Sềnh thác oan, phiền mấy chú liệu việc ma chay tống táng giúp cho! Tôi quyết không để cụ và chú Sềnh ngậm hờn dưới mộ! Tôi phải tìm ra hung thủ!

      Bọn Quản Kình nhất loạt đáp:

      - Đó là bổn phận bọn tôi, cậu hai khỏi lo! Còn mọi việc đã có cậu cả lo liệu! Cậu cả đi từ sáng sớm chắc cũng sắp về!

      Dứt lời, Quản Kình lập tức cùng đám gia nhân, tá điền lo việc tẩm liệm ma chay, người người đều bi lụy.

      Chàng trẻ tuổi Võ Minh Thần lòng buồn vô hạn ngồi ủ rũ bên xác hai ông già, cắn răng chịu đựng, tâm hồn tan nát vừa thương người cha nuôi, nghĩa bộc bất hạnh, vừa xót xa thân thế mịt mờ cội nguồn dĩ vãng, từ nay lại một bóng cô đơn đi trong lớp lớp sương mù dày đặc, lần mò tìm gốc rễ tang thương huyết thống, kẻ thù không đội trời chung.

      Đến lúc khiêng mấy cái thây lạ đi chôn trước, cả đồn điền xúm lại nhận diện, thấy một cái thây hoàn toàn xa lạ, xác bị chém "ngọt" hết sức, Quản Kình sực hỏi:

      - Phải cậu hai chém nó? Hình như lúc đó cậu vẫn ngồi trong buồng cụ mà?

      - Tôi có lối chém... riêng! Tiếc lúc đó cụ gọi, không kịp đuổi theo bắt được chúng? Sợ cụ trối trăng gì cần kíp, nhưng không kịp!

      Quản Kình vẫn chưa hiểu rõ, nhưng cũng yên tâm, được biết tiểu chủ là tay giỏi võ.

      Vừa lau chùi xong hai cỗ quan tài chạm trổ khá tinh vi, nhà khá giả đương thời vẫn có tục sắm sẵn quan tài để trong nhà, khi về già, gần đất xa trời, bỗng có tin Cả Hổ về.

      Cả Hổ trạc ba mươi lăm, ba mươi sáu, người vạm vỡ khỏe mạnh, vẻ hoạt động gan dạ, đi với năm, sáu thuộc hạ, đều cao lớn lực lưỡng vừa Thổ vừa Kinh, đi bên Hổ, là người phó vẻ lai Kinh Mán, cao gầy đanh, mắt sáng quắc coi vẻ giỏi võ. Cả Hổ cùng bọn thuộc hạ chạy ngựa lên thẳng căn nhà ông già họ Võ, thấy gia nhân đang khiêng lên hai cỗ quan tài, cả bọn giật mình, chưa kịp hỏi, Quản Kình từ trên xuống, nói ngay:

      - Cậu cả! Cậu về muộn mất rồi. Cụ nhà và chú Trưởng Sềnh vừa bị quân gian bắn trộm chết, khi đang nói chuyện với cậu hai ở trong buồng! Cả Hổ kêu lên, nhảy luôn xuống, cùng đám thuộc hạ chạy vụt lên lầu, Quản Kình đi theo.

      Võ Minh Thần đang ngồi ủ rũ, thấy bọn Hổ ùa vào, còn ngơ ngác, Quản Kình đã nói lớn giới thiệu hai người với nhau. Cả Hổ nhào tới ôm thây họ Võ, lão Sềnh, xem xét vết thương, khóc thảm, rồi mới quay sang nhìn chàng trai mới về, không chớp mắt, miệng hỏi:

      - Võ Minh Thần...

      Chàng trai gạt lệ, ngó Hổ, buồn bã:

      - Em vừa về được giây lát. Đang thưa chuyện với cha... Người mới nhắc đến anh!

      Cả Hổ lẳng lặng tiến lại gần, vòng ra đằng sau Võ Minh Thần, xong lại đảo ra trước, vùng tay chụp lấy cánh tay chàng trai. Võ thấy lạ nhưng cứ để nguyên. Bỗng Cả Hổ buông tay, giang cánh ôm chầm lấy Võ, giọng xúc động kêu:

      - Đúng Minh Thần rồi! Cha có dặn tôi phòng ngộ nạn bất thần, nếu chú về, còn biết mà nhận! "Người" có dặn trên đời này chỉ có chú mới mang mấy thứ đó thôi! Mười bảy năm nay, "người" nhắc đến chú ngày đêm, "người" bảo sinh chú trên biên giới!

      Chàng trai biết dưỡng phụ giấu nguồn gốc mình, nên cũng không tiện nói rõ, lại thấy Cả Hổ đối với mình tuy không cùng máu, nhưng tỏ vẻ thân thiết hết sức, nên một lòng quý mến, coi như anh ruột. Buông nhau, Cả Hổ hỏi lại chuyện vừa xảy ra, vừa kinh ngạc, vừa phẫn uất, bảo Minh Thần:

      - Từ nay, phải canh phòng cẩn mật mới được! Bọn khốn có thể ám hại cả chú và tôi nữa. Chú mới về, chắc mệt, nên nằm nghỉ, mọi việc đã có tôi! À chú cũng nên biết qua người trong đồn điền này vì từ nay, chú là chủ tất cả!

      Đoạn, lập tức giới thiệu Minh Thần cho mọi người rõ, lại trỏ từng người giới thiệu với chàng. Xong lại trỏ riêng Quản Kình và người Mán lai Kinh bảo:

      - Trong trại, hai chú này giỏi võ nhất! Chú Quản vẫn theo bên phụ thân. Còn đây chú Khìn Lồi, thường phụ bên tôi! Từ nay, chú Quản hãy ở sát bên cậu hai! Nay phụ thân và chú Sềnh chẳng may đã mất chúng ta hãy lo chuyện ma chay, rồi sẽ tính chuyện báo thù! Chú Quản hãy đưa cậu hai đi tắm rửa, thay y phục.

      Đó rồi, cả đồn điền nghỉ việc, lo đám tang. Võ Minh Thần theo Quản Kình sang phòng tắm xong, thay quần áo, mặc tang phục trắng cùng Cả Hổ đem xác cha già cùng xác lão Sềnh quàn đặt giữa phòng khách dưới nhà.

      Bình sinh ông già họ Võ đối với người rất có lượng, ai cũng cảm phục, hay tin dữ, cả miền kéo đến phúng viếng, ai cũng buồn, nguyền rủa quân sát nhân.

      Đêm đó, Cả Hổ truyền Khìn Lồi đốc tráng đinh, thủ hạ bí mật thay phiên canh gác tuần phòng quanh trang trại, còn bọn Quản Kình ngót chục tay chiến khác bí mật phục trấn quanh căn nhà chính lưng đồi.

      Đêm vào khuya dần, thoắt đến canh ba giờ Tý. Đồn điền rừng gió đêm hiu hắt, chàng tuổi trẻ họ Võ ngồi bên quan tài, lòng buồn mênh mang nghe tiếng động đêm rừng khuya.

      Trong đồn điền mọi người đã thiếp ngủ, mai còn lo đám tang.

      Không gian chìm sâu vào im ắng, bâng khuâng tiếng chim khảm khắc từ hai bên đầu núi kêu thương rớt xuống, rã rượi... Có tiếng hoẵng kêu ngơ ngác xa xôi vọng về... bơ vơ... Võ Minh Thần ngồi trên một cái ghế gụ kê góc phòng khách, xế đầu quan tài, gần khung cửa sổ hiên tiền. Ngoài thềm có một tay súng phục trong xó tối, Quản Kình thủ cây Saint Etiene, sườn mang dao quắm, ngực áo cắm một hàng đao lá lan, thu mình trong bóng cửa sau. Cây nến trắng, quả trứng đặt nắp ván thiên, coi càng hiu hắt trong đêm, đổ cái bóng quan tài xuống nền nhà đen thui.

      Bốn bề quạnh vắng, tiếng trùng đêm rên rỉ từ vườn hậu đưa vào, đơn điệu, thê lương, chàng tuổi trẻ ngồi nhìn ngọn nến, lòng như tê dại dần trong cảnh nhà tang, chợt một cơn gió hắt hiu lùa vào phòng khách, chàng trai rùng mình một cái gai gốc mọc lởm chởm, ruột gan như cuộn hẳn lên, vùng đưa tay trái lên "đánh" một quẻ Trương Lương độn toán, bật kêu "à" một tiếng. Vội đứng lên, khẽ gọi Quản Kình lại gần bảo nhỏ:

      - Đêm nay có kẻ đến hành thích hai người trong nhà này! Chắc tôi và anh cả! Chú khá đi mời anh cả tôi đến đây mau! Kín!

      Quản Kình vụt xuống đồi, phút sau Cả Hổ theo vào, ngạc nhiên.

      - Chú... có chuyện chi cần tôi?

      Võ kéo người anh nuôi xuống, nói nhỏ:

      - Sắp có kẻ tới ám sát chúng ta! Anh khá bảo người nhà quanh quẩn tít dưới, không ai được tới khu đồi này. Còn chú Quản mau ra hiệu cho các chú phục vào cả trong này... ngồi đánh bạc buồng bên!

      Cả Hổ, Quản Kình cùng ngạc nhiên, Hổ ngơ ngác hỏi:

      - Sao chú biết? Nếu quả có kẻ đột nhập ta phải tăng cường nhiều tay súng gác quanh đây chứ?

      - Không sao! Gác thế, nó có bản lãnh vẫn vào được, chết uổng người gác. Vả mình cần nó vào để bắt sống, nếu có người mình, sợ lẫn trong đêm tối!

      Đoạn chàng trai ghé sát, thì thào dặn kế, Quản Kình và Cả Hổ lập tức bỏ ra ngoài, lát sau hai người trở vào, Quản Kình dẫn theo chín, mười người lực lưỡng, võ trang, kéo nhau sang căn buồng bên, ngồi xúm nhau rút "bất" đánh "xì", dưới ngọn đèn đất, có kẻ ngồi uống rượu.

      Cả Hổ kê thêm một cái ghế lớn bên cạnh chỗ Võ Minh Thần, hai anh em ngồi trò chuyện, giục nhau ngủ, Quản Kình lúi húi pha trà, được một, hai tuần, chợt một trận gió thổi rào cả hai ngọn nến đầu quan tài tắt phụt. Quản Kình gọi đàn em lấy diêm châm nến. Châm xong, ngó lại, hai anh em ngủ gục, tay khoanh thành ghế, đội nguyên cả mũ rơm, mặc tang phục thùng thình.

      Quản Kình ngó, vẻ ái ngại bảo tay em:

      - Tội nghiệp cậu cả, cậu hai, lo buồn mệt quá, thôi cứ để hai cậu thiếp đi một lát, bọn ta sang bên!

      Hai người bỏ đi. Đồn điền hoàn toàn im ắng. Buồng bên bọn Quản Kình vùi đầu vào canh bạc, thì thào như tằm ăn dâu. Căn phòng khách rộng thênh thang, hai thoi nến trên ván thiên đã hao mòn quá nửa, vật vờ theo hơi gió. Hai anh em Võ Minh Thần vẫn ngủ vùi trên ghế.

      Ngoài trời trăng mờ lạnh lẽo, đồi cây vườn trước vườn sau loang lổ đen ngòm từng khoảng lớn. Gió thổi rì rào.

      Bỗng có một bóng con nít từ trên cây đu xuống cành rủ lòa xòa xế cửa hậu trông ra hiên sau. Chừng đã vượt êm vòng ngoài, kiểm soát kỹ vòng trong, nó móc chân trên cành, dốc đầu xuống, ẩn giữa tàn lá um, theo lối "đoạn quyền tiềm" của Sài Khánh xưa đu ngược dòm vào nhà khách nham nhở tranh tối tranh sáng.

      Mấy phút sau, bóng con nít đu vườn sát góc cửa sổ đóng chớp, cầm một cái ống nhỏ như ống địch thổi nhè nhẹ vào phòng. Từ ống trúc, bay ra một luồng khói xám cuồn cuộn rót qua khe cửa, tuôn vút tận chỗ có hai anh em họ Võ đang ngồi ngủ gục.

      Giây phút, cả căn buồng đã mù mịt đầy khói xám, bỗng nghe tiếng hai anh em họ Võ nhẹ thở phì cái, im bặt. Mùi thơm ngào ngạt, mê hồn hương đã vùi vào giấc ngủ mê man.

      Rắc! Rắc! Bóng con nít bẻ nghiến mấy hàng chớp, ghé mắt dòm vào. Ánh nến hắt soi hai con mắt đỏ khé như mắt thú ăn đèn săn. Nó đã dòm thấy bóng hai người ngồi ngủ gục.

      Bỗng có bàn tay đen thui thò vào khoảng chớp gẫy. Hai người vẫn ngủ yên. Vút vút, liền hai luồng thép sáng quắc bay vào, cắm phập giữa gáy hai người, ngập lút cán, trúng huyệt độc!

      Hai người ngủ vùi bỗng giật rung đầu rồi lại im ngay... hồn lìa khỏi xác. Buồng bên đang mê cuộc đỏ đen, chợt liền mấy kẻ hắt hơi, ôm mặt lảo đảo. Quản Kình la lên:

      - Lạ dữ à! Có chú nào ngửi thấy mùi thơm không? Ôi chao! Sao mi mắt tao cứ dính chặt vào nhau thế này?

      Cả lũ xôn xao, theo Quản Kình gục xuống ngủ như chết.

      Im lặng mênh mông, mười khắc sau, bỗng từ nẻo hoa viên trước nhà, vụt hiện ra một bóng lạ, lắc mình cái đã đứng bên khung cửa khép.

      Nó thò tay vặn quả nắm sứ, mở cửa ken két. Rào cơn gió lùa, bóng này đã đứng xế đầu quan tài. Quần áo đen thui, trùm mặt, hở hai con mắt, bóng dị đảo mắt nhìn quanh, nhỡn tuyến dừng trên người hai anh em họ Võ, ngó hai cán dao bóng loáng cắm nơi gáy nạn nhân, phát tiếng khô chìm:

      - Hai đứa tới số, hà hà! Về hưởng gia tài... cho hai đứa chết chôn chung một mồ với tên già, thằng khách!

      Soạt! Bóng lạ rút thanh gươm sáng, vọt tới chém vụt một phát. Phập phập! Hai cái đầu văng rụng xuống nền đá hoa, cái bóng bỗng giật thót mình, ngã vật mình xuống, miệng kêu "trời đầu quả gáo"!

      Có tiếng phát âm u phía quan tài:

      - Đứng lại! Ta đây! Mi còn chạy đâu thoát!

      Theo tiếng hô trầm, một sợi thòng lọng quăng vút qua, chụp nghiến lấy bóng lạ, y nhanh nhẹn ngã vật xuống. Hắn lăn một, hai vòng, bị thòng lọng xiết chặt lôi về phía quan tài, nhưng bóng này cao bản lãnh hết sức, đã quay luôn mũi kiếm sóc đứt phựt vòng dây, chồm lên, vọt ra ngoài như chiếc cầu vồng.

      Vải rũ gần quan tài tốc lên, bóng chàng trai họ Võ nhô ra, đánh vụt tay theo. Ánh thép loáng dưới nến vật vờ, vút ra chém "phập" tiếng ngay khi còn lơ lửng giữa không mờ ánh trăng một bàn chân rụng xuống "huỵch". Lẹ như chớp chàng họ Võ bắn vọt từ trong chỗ gần quan tài ra, Cả Hổ vọt theo. Minh Thần vừa vọt, vừa quát:

      - Còn tên kia đứng lại, không ta chém!

      Bóng cụt bàn chân sa xuống, máu tóe, lăn lộn, cố chồm lên, chàng trai xốc tới, đá lia một ngọn cước, trúng huyệt, nằm im, một bóng khác vừa tới bên thềm, thấy động, phóng vèo ra phía hoa viên. Võ đứng đầu thềm, chém lia lịa quát giật, rắc rắc rào rào chát chát, đường thép xả vòng chỗ bóng kia mới nhảy lẫn vào, loang loáng rất uy tợn.

      - Đứng lại.

      Cành gãy, mỏm đá rụng, bắn tả tơi, thoáng có bóng trong vùng tranh sáng, Võ lắc mình theo đường kiếm, bắn vọt qua ngọn giả sơn, thò tay túm luôn được gáy cái bóng này.

      Trong lúc đó Quản Kình cùng bọn tay em đã chồm dậy, tông cửa hỏi, vọt ra phía sau cửa phòng khách, vừa kịp thấy bóng con nít từ sau cửa đu vút ra xa, bỏ chạy. Kình lẩy luôn một phát trúng cẳng, bóng này sa xuống tàn cây dưới, chỗ sáng trăng. Kình nổ luôn phát nữa, sa "bịch" đất. Chạy ù ra vồ, mới hay đó chỉ là một con vượn khoang mặc quần áo đen.

      Tay con quái thú còn nắm chặt ống trúc đựng đầy mê hương. Quản Kình xách xác con vượn, chạy vòng ra đằng trước. Ngoài hoa viện chàng trai Võ Minh Thần đã túm được bóng lạ thứ hai quật sóng soài bên hòn giả sơn. Cả Hổ chạy theo sau thấy Minh Thần vừa bắn người ra đã túm quật ngã được hung thủ, Hổ vùng hỏi lớn:

      - Nó sống hay chết?

      Chàng trai dậm chân lên lưng bóng lạ cao giọng:

      - Còn sống! Tiếc quá tay chém chết tên kia! Còn một đứa xông hương mê cửa sau!

      - Cậu hai! Không phải người! Con vượn!

      Quản Kình cùng bọn đàn em vọt ra, Kình túm cẳng con thú dốc ngược trước mặt hai anh họ Võ. Cả Hổ hô lớn:

      - Lùng xem còn đứa nào nữa không? Chà! Chú nhanh như cắt, mẹo hay dữ à? Nào đem tất cả vào nhà!

      Bóng lạ mặt trùm kín, bị điểm huyệt, nằm như khúc gỗ. Cả Hổ cúi xuống định lôi y, nhưng Quản Kình đã nhanh nhẹn sà xuống xốc luôn lên vai xăm xăm đi vào nhà khách, ném bịch cả người, thú xuống đất đá hoa. Bọn tay em chạy các nơi, chiếu đèn bấm, lục soát.

      Võ Minh Thần phẩy tay xua nốt hương mê còn phảng phất trong phòng, bảo Quản Kình:

      - Lột vải trùm coi!

      Quản Kình ngồi xuống, lật ngửa bóng lạ, thò tay cởi nút buộc, giật soạt cái. Bộ mặt bóng lạ vụt lộ dưới ánh nến vật vờ, khiến cả ba người đều giật mình kinh ngạc, trố cả mắt. Vì... bóng lạ không ai khác... Khìn Lồi người Mán lai Kinh, bộ hạ rất đắc lực trong gia đình họ Võ! Người vùng này còn gọi y là chú "Lồi Mán Kinh."

      - Kìa chú Khìn Lồi... sao lại thế này? Hắn là kẻ trung thành vào đồn điền mấy năm rồi mà...?

      Võ Minh Thần, Quản Kình ngơ ngác nhìn nhau, chàng trai hơi nhíu mày, lẩm bẩm:

      - Tôi đuổi theo chân tên kia rớt từ cao xuống, thấy bóng này vọt ra phía ngọn giả sơn, tôi nhảy ra chặn! Lẽ nào lầm được! Y cũng bịt mặt! Thử ra coi tên kia!

      Quản Kình chạy ra túm lấy thủ cấp tên hung thủ vừa chém lầm phải hai hình nhân giả, bước vào. Đường thép lia "ngọt" đầu lâu còn trùm nguyên vải bịt đen tẩm máu. Quản Kình xách thủ cấp đứng quan tài lột phắt vải trùm. Nhưng chỉ là một tên hoàn toàn xa lạ, mặt mày dữ tợn, hai con mắt mở trừng trừng, không phải người đồn điền, cũng không phải dân quanh miền.

      Quản Kình ném bịch đầu lâu xuống đất, đầu lâu lăn lông lốc nằm bên chỗ Khìn Lồi. Cả Hổ bảo Minh Thần:

      - Thằng này không phải người địa phương mấy hạt châu Yên Bái này! Lạ thật! Chú thử giải huyệt cho nó coi! Chắc có chi bất thường đây!

      Võ Minh Thần búng tay một cái, Khìn Lồi thở phì, bò nhỏm dậy, la lên:

      - Trời! Suýt cậu hai chém chết Lồi à? Cậu hai giỏi võ dữ. Lồi thấy cậu hai chém rụng cái đầu thằng này!

      Cả Hổ cau mày hỏi lớn:

      - Chú Lồi! Cậu hai đuổi chém thằng này thấy chú núp hiên chạy ra vườn hoa. Chú theo hung thủ, phản thầy?

      Khìn Lồi trợn ngược mắt vẻ kinh ngạc, vò đầu kêu:

      - Cậu cả bảo Lồi cùng bọn quân gian? Lồi theo nó giết cụ nhà, giết hai cậu? Trời! Chém chết Lồi còn hơn à. Lồi lên đồi nghe động chạy lên thấy cậu hai đuổi nó trong thềm ra. Lồi chạy tới, chận bắt sống, bị đòn cậu hai mà! Tiếc dữ! Nó chạy ra, nó lao sà sau hòn núi giả, Lồi sắp túm được nó!

      Cả ba ngơ ngác nhìn nhau, Hổ hỏi Minh Thần:

      - Hay ngoài đó tranh tối tranh sáng, tên kia vừa lăn nhào ngoắt sau ngọn giả sơn thì Khìn Lồi vừa lao tới!

      Võ Minh Thần nheo mắt nghĩ lại, bán tín bán nghi, bảo:

      - Kể ra lúc chém tên kia, xác y rụng xuống, cái bóng thứ hai chạy ra, lúc đó có thể lầm lắm! Nhưng sao chú cũng bịt mặt như bọn gian?

      Người Mán lai lễ phép:

      - Lồi ẩn trên cây, thấy một đứa vọt qua, liền lên đồi, có lúc nó ló đầu giữa ánh trăng, tới chân đồi lại thấy tên nữa sịch tới, bàn gì với nhau, rồi vượt lên. Lồi thấy nó bịt mặt. Lồi cũng lấy vải bịt đi theo, phòng gặp đứa nào, nó tưởng cùng tụi. Lồi nghe trên nhà im ắng. Lồi lo hai cậu không hay biết chúng nó tới!

      Hai anh em họ Võ ngó nhau. Minh Thần nghiêm mặt bảo:

      - Từ nay nếu không gọi, chớ đến, có lần chết oan! Tôi đã dặn đừng ai tới khu đồi này, là sợ đêm tối chém lầm đó! Thôi! Hãy đem xác chúng đi chôn cho rồi!

      Khìn Lồi theo lệnh chủ, vác luôn hai cái xác xách đầu lâu xuống đồi.

      Cả Hổ vẫn ngờ vực, khẽ hỏi:

      - Chú tin chú bắt lầm?

      Minh Thần lắc đầu, thấp giọng:

      - Lầm thế nào được! Mắt có thể lầm nhưng tay không lầm được! Tay em có thể sờ thấy hơi nóng sinh vật trong vòng năm mươi bộ, nằm dưới gầm quan tài, đã phát giác được có ba sinh vật. Phía trước chỉ có hai luồng nhân điện toát ra làm gì có luồng nào nữa! Chính nó đồng bọn với hung thủ.

      Cả Hổ, Quản Kình ngơ ngác:

      - Nhưng sao mãi hôm nay, nó mới xuống tay?

      - Có lẽ chúng đợi em về để nhổ tận gốc. Nhưng không ngại! Em quyết làm vong hồn phụ thân được yên giấc! Chúng sẽ phải ra tay lần nữa trước ngày em đi!

      Đoạn chàng trai ghé tai Cả Hổ, Quản Kình nói nhỏ. Giây lát sau đám thuộc hạ kéo lên cho hay không thấy dấu vết nào khác. Võ Minh Thần bảo mọi người đi ngủ. Từ đó đến sáng, đồn điền yên tĩnh hoàn toàn.

      Sớm mai, người xung quanh miền đến viếng thêm đông, có nhiều người ngoại tỉnh vào, ai nấy đều ngậm ngùi thương tiếc ông già họ Võ.

      Võ Minh Thần đang cùng Cả Hổ trả lễ khách vái trước linh sàng, chợt có Quản Kình vào báo:

      - Có một cô gái nhà quan tới viếng hỏi cậu hai!

      Ngạc nhiên, Võ Minh Thần bước vội ra, thấy một người mặc áo dài trắng, quần trắng, khăn "voan" trắng, cưỡi con ngựa trắng, vắt hai chân sang bên, coi đẹp lộng lẫy trong nắng sớm, phía sau có năm, sáu người lính "sà cạp trắng" theo hộ tống, cùng hai gái hầu.

      Cả Hổ theo đứng sau Minh Thần che mày nhìn, khẽ bảo:

      - A con gái quan tuần phủ Yên Bái! Cô Thủy Tiên!

      Toán người lên đồi, Võ Minh Thần, Cả Hổ cùng tiến ra đón, tới gần xế vườn hoa, chàng trai ngó cô gái ngờ ngợ như gặp đâu rồi, hai bên chào nhau, cô gái xuống ngựa uyển chuyển tiến lại, cất giọng thánh thót:

      - Thân phụ em mắc bệnh, em phải đi thay, ngoài Yên Bái được tin đồn điền nhà có chuyện chẳng lành, ai cũng buồn! Em xin có lời chia buồn cùng hai anh!

      Cả Hổ nói lời cảm tạ, đưa cô gái cùng bọn lính vào thẳng nhà khách, cô gái thấy Võ Minh Thần có dáng ngờ ngợ, nàng thỏ thẻ:

      - Kìa! Anh Thần! Anh không nhận được em! Trời! Sao anh lơ đãng thế? Mới sáng qua anh cứu em ngoài cây số bốn, năm mà!

      Chàng trai "à" nhỏ, mãi mới nhận ra chính cô gái bị bọn lạ mặt bắt cóc, bữa nay nàng mặc quần áo thướt tha coi đẹp lộng hẳn lên khác hẳn cô gái mặc "quần ngựa" bắn chim bay sáng qua.

      Lòng đang chất nặng ưu tư, lại thường ở núi cao rừng thẳm, ít khi gần phụ nữ. Võ Minh Thần thấy cô gái nhà quan này xinh đẹp, hồn nhiên thẳng thắn, chàng trai cũng thấy tâm hồn đỡ hiu hắt đôi chút, nhưng vẫn nói rất ít.

      Còn nàng Thủy Tiên lại có vẻ thích thú gặp lại chàng trai ân nhân, nàng nói chuyện rất duyên dáng, mấy lần suýt cất tiếng cười khanh khách, phải cố nén, sực nhớ chàng trai ân nhân đang mắc đại tang. Thủy Tiên theo bọn Cả Hổ vào, đặt đồ phúng điếu, lễ trước linh sàng xong, thấy Thần mặt mày ủ dột, cô gái cố lựa lời an ủi cho khuây khỏa.

      Trò chuyện qua lại, Võ Minh Thần mới hay cụ Tuần họ Phạm, cha nàng vốn là chỗ quen biết từ trước ngày ông già họ Võ ra làm quan Châu, hai người khá tương đắc tuy ông già họ Võ nhiều tuổi hơn ông họ Phạm.

      Cô gái còn ở lại giúp gia đình họ Võ trong việc tiếp khách, ma chay, khách khứa, gia nhân ai cũng quý mến.

      Ngay chiều đó, anh em họ Võ làm lễ an táng ông già họ Võ cùng lão bộc Sềnh tại nghĩa địa riêng của đồn điền phía sau trại, chàng trai vật mình khóc thảm thiết, người người đều rơi lụy. Chôn cất xong, Võ Minh Thần đứng ra nói lời cảm tạ, và xin từ biệt, sớm mai ra đi có việc cần kíp.

      Mọi người đều ngạc nhiên, cố giữ lại, nhưng Võ Minh Thần nhất định sẽ ra đi khiến mọi người đều quyến luyến. Riêng Cả Hổ, Quản Kình biết rõ kế của Minh Thần. Chàng trai định đánh nước cờ quan trọng, nhử "kẻ thù bí mật" tới đồn điền.

      Đêm đó, người trong trại đều đi ngủ sớm. Ai cũng mệt mỏi vì cuộc ma chay, mới mười giờ đêm, đồn điền đã im lặng như tờ, chỉ còn vài ba gia đinh thay phiên canh gác, tuần phòng quanh trại.

      Võ Minh Thần cùng Cả Hổ nằm trong buồng Cả Hổ, đêm khuya lạnh, đắp chăn tới cổ, tới mười hai giờ, cả hai lại lăn xuống nằm dưới gầm giường, áp dụng mẹo trước, nhưng lần này, Võ Minh Thần đã bí mật tạc được hai cái đầu gỗ, giống hệt như hai anh em, sơn phết rất khéo lắp vào hình nhân, đắp chăn tới cổ, lại để một ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ đặt trên bàn đem kê đầu giường, ánh sáng hắt qua bức màn tiêu soi vào mặt giả coi như thật.

      Quả nhiên, khoảng giữa giờ Tý, có ba bóng bí mật đột nhập đồn điền. Cả ba có nghề dạ hành, vượt vào lúc nào không hay, thoáng đã đứng sững bên tòa biệt thự hai tầng trên đồi. Cả ba đảo một vòng nghe động tĩnh, áp cả tai xuống đất, mười phút sau, cả ba tiến đến một gốc cây lớn xế sau phòng Cả Hổ, vọt lên lùm cây rậm, êm như không, chừng năm phút sau, bỗng thấy một bóng đu mình vun vút trên ngọn cây, thoắt đã tới một cây xoài bên cửa sổ hậu, êm như không tiếng động, ngoài một vài tiếng lá cọ nhau xào xạc trong gió thoảng. Thì ra bóng con nít nhỏ là một con vượn mặc quần áo như người. Con quái này đu mình vào hành lang, phun hương mê vào buồng rồi lại đi buồng khác.

      Căn biệt thự này kiến trúc có hành lang chạy quanh, phong lan cây cảnh, hoa leo chăng đầy, lát sau, con quái đã phun hết các buồng, cả căn biệt thự đã chìm trong làn hương mê hồn ngào ngạt. Hương mê này thuộc lại đặc biệt của giới đạo tặc thượng thặng, nín hơi không hít, nhưng lỗ chân lông hấp thụ phải sẽ mê liền.

      Riêng với tay theo thầy học thuật thượng thừa trên cao sơn như Võ Minh Thần, hương mê này không tấn công tạng phủ nổi, Thần lại có thuốc trừ cho Cả Hổ, Quản Kình uống nên hai anh em cứ năm yên dưới gầm giường, chờ đợi. Xông xong, con vượn quái vật vọt ra lùm cây, hai bóng bí mật kia cùng con quái quăng mình vào hành lang, tài nghệ lợi hại hết sức, tiếng bứt cành đu chỉ rào thoảng nhẹ.

      Một bóng cao, một bóng lùn, bàn tán chi với nhau, rồi bóng cao lại bên cửa sổ, bóng lùn lại bên cửa hông, cùng bẻ cửa, dòm vào, con vượn tuần đảo quanh. Bóng cao chỉ thò ngón tay vào móc nhẹ, cửa chớp cửa kính đã vụn thủng, êm ru, bóng này ghé mắt dòm vào. Ánh đèn Hoa Kỳ chiếu qua bức màn lan tiêu trắng, soi hai bóng đắp chăn nằm trong, tuy mờ mờ nhưng cũng đủ rõ nét mặt anh em họ Võ nằm ngủ say như chết.

      Bên cửa sổ, bóng lùn cũng vừa bẻ được cửa nhìn vào, cả mừng vọt ra phía sau, gặp bóng cao.

      - Anh em nó tới giờ tận số rồi! Thằng nằm ngoài là đứa mới về đó! Thằng này lợi hại lắm! Coi chừng nó lại dùng mẹo trước.

      - Chắc không! Ma chay bận rộn, chúng ngủ như chết, coi mặt mày chúng còn ngờ gì nữa! Vào thôi.

      - Khoan! Để cho mỗi đứa một mũi đã! Cùng ra tay!

      Dưới gầm tối, qua làn hương mê, anh em Võ Minh Thần vẫn nằm theo dõi từng cử động của mấy bóng bí mật bên ngoài.

      - Hai đứa đều giỏi võ còn hơn tụi trước! Anh cứ nằm yên chớ xuất đầu, để mình em đối phó! Lần này phải bắt sống mới ra manh mối!

      Võ Minh Thần vừa ghé tai Cả Hổ thì thào, bỗng nghe "véo" "véo" liền mấy tiếng xé gió, màn lan tiêu động đậy, tiếp liền mấy tiếng "thụt" "cục" hai cái đầu trong giường đã bị mấy mũi đinh nhọn đóng ngập cổ, sọ.

      Minh Thần khôn ngoan đã lót một lần thịt sụn quanh cổ, sọ, trước khi đính tóc giả, khi nghe kẻ lạ phóng đinh, Thần lại thò tay lên lắc cả đầu mình hai hình nhân, làm như thể dãy chết.

      Quả nhiên, phóng đinh xong, thấy hai người quằn quại, hai kẻ bí mật mắt sáng hẳn lên, bóng cao vọt ra liền, gặp bóng lùn, rồi cả hai tiến lại trước cửa buồng, vặn ổ khóa vào trong. Gió lùa khe cửa, ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét chập chờn, vụt, hai cái bóng đen đã đứng sững bên giường, bóng cao thò tay vén cửa màn, dòm rõ hai bộ mặt im lìm, phát ra tiếng cười âm u:

      - Hà hà! Nhổ tận gốc giòng họ Võ! Mày giỏi lắm, nhưng mày chưa đủ trí khôn. Tao chặt đầu hai đứa! Tao chiếm hết!

      Soạt, bóng cao rút ra một lưỡi đoản đao, tay trái vén màn, tay phải chém phập xuống cổ họng hình nhân Võ Minh Thần nằm phía ngoài. Lưỡi thép sáng hạ gần tới thình lình Võ Minh Thần thò vụt tay lên nắm nghiến lấy cổ tay bóng lạ.

      "Bạch" tay đao chém dính luôn vào tay Thần, bóng dị giật nảy mình, bật kêu "trời" dùng hết sức mạnh định vùng giật lùi lại, nhưng không kịp nữa. Võ Minh Thần đã bóp trúng mạch môn, miệng thổi phù một cái, bóng lạ bủn rủn tứ chi, tối tăm mặt mày, Võ theo đà bật dậy như chiếc lò xo, vừa đẩy "huỵch" bóng cao xuống đất, vừa vươn tay chụp bóng lùn đứng gần đấy vừa bước tới, vén rộng màn, định ghé dòm. Nhưng vừa thoáng thấy Võ nhỏm dậy, y đã nhanh nhẹn kịp lùi lại đã xa hai, ba bộ, giơ tay rút đinh phóng vào Võ. Thủ pháp tên này lẹ khác thường, nhưng Võ Minh Thần còn lẹ hơn, tay phải vừa chụp hụt, tay trái đã đánh vụt ra như chớp, "véo" từ ống tay áo bay vút ra một lưỡi liễu đao nháng sáng dưới ánh đèn Hoa Kỳ, đã nghe bóng lùn kêu rú lên, lảo đảo, ngã lùi loạng choạng dựa rầm vào cánh cửa khép, máu phun phì phì. Cả bàn tay cầm đinh đã rụng "độp" xuống nền đá hoa, chiếc đinh kêu "keng" tiếng dòn vang.

      - Đứng im!

      Ánh thép đảo trốc đầu bóng lùn, Võ Minh Thần vừa quát vừa xẹt tới định bắt sống, không ngờ bóng này tuy bị cụt bàn tay, vẫn còn hăng tiết, lấy lại thăng bằng, tay kia rút súng chĩa vẫy. Chát! Liễu đao chém bay cây súng. Võ Minh Thần xẹt tới, xòe bàn tay trái phạt ngang cổ họng, đúng lúc Cả Hổ từ trong gầm giường khom mình vọt ra định phụ em, bắt sống tên lùn. Thần vừa chặt vừa thấy bóng Cả Hổ, thất kinh thu lưỡi đao, dừng tay chặt, miệng kêu giật:

      - Coi chừng... anh!

      Thì Cả Hổ vừa lao vọt ra, bị bóng lùn đá trúng kheo chân, ngã lộn nhào, bóng lùn thừa cơ Võ thu đao, liền dừng đà lách mình vụt ra ngoài. Thoáng thấy Cả Hổ bị đá ngã, bóng lùn lách ra, chàng trai buộc lòng phải chém vút tay trái theo. Chát! Ngoài mép cửa, trúng luôn bả vai bóng lùn, bóng này ngã huỵch ngoài hành lang, vừa lúc con vượn lùn từ đâu đu vào, tay cầm con dao ném vào trong bị lưỡi đao lướt thích trúng tay, con quái vùng bỏ chạy, miệng nó hú một tràng lanh lảnh, cùng lúc bóng lùn thu hết tàn lực, la lên một tiếng lớn. Võ Minh Thần vọt ra, thấy bóng lùn đã tắt thở, máu hộc hành lang, chàng trai đưa tay rà theo con đường cung, chém rụng luôn con vượn vừa thót lên một tàn cây xế trước hành lang.

      Chàng trai vọt ra, thấy con vượn dãy chết, quay luôn vào, hỏi lớn:

      - Anh có sao không?

      - Không hề gì! Tên này cũng chết rồi!

      Cả Hổ vừa ra đứng bên xác bóng lùn, ngồi xuống lật vải trùm mặt. Một tên lạ.

      Hai anh em vừa định vào nhà. Bỗng nghe phía dưới, súng nổ đì độp lẫn tiếng reo hò vang dậy, Quản Kình từ chân đồi vọt lên gọi lớn:

      - Quân giặc đánh vào đồn điền... đông lắm! Hằng trăm đứa, vừa súng, vừa cung nỏ!

      Cả Hổ quơ cây súng kẹt tủ, hỏi nhanh:

      - Chúng vào mấy phía?

      Quản Kình cùng một toán bảy, tám thủ hạ xách khí giới ùa lên.

      - Chúng tràn hai mặt tiền hậu, nhưng mặt tiền nhiều súng!

      Cả Hổ vùng hô:

      - Chú lo trên cây cao này, để bọn tôi xuống coi!

      - Nhà có hỏa pháo không?

      - Có đấy! Quanh trại có nhiều đồ dẫn hỏa để sẵn!

      Cả Hổ mở tủ lấy một mớ hỏa pháo, cùng bọn Quản Kình chạy xuống dưới.

      Tiếng súng nổ, người la inh ỏi, cả trại náo động trong đêm mờ.

      Võ Minh Thần khêu to ngọn đèn, đốt thêm cặp nến lớn, túm tên cao lớn lên, gỡ soạt vải trùm, dưới đèn, chỉ là một tên lạ, mặt mày dữ tợn, coi vẻ người thâm sơn. Giải huyệt, điểm triệt võ công. Thần dịu dàng hỏi:

      - Ngươi đâu tới? Phải người trên biên thùy? Coi lạ mặt, có thù oán gì lại muốn hại người họ Võ?

      Tên lạ ngó lừ lừ, không nói nửa lời. Bị gặng hỏi mãi, hắn mới phá giọng chìm âm tiếng Mán hơi khó nghe:

      - Mày giỏi! Tao thua mày! Giờ bắt được tao cứ giết! Đừng hỏi lôi thôi!

      Võ Minh Thần vẫn đấu dịu bảo:

      - Ta có cách làm ngươi phải nói! Nhưng ta không muốn. Ngươi sợ chi phải giấu? Sợ đồng bọn hại? Biết vật này không?

      Vừa hỏi, chàng trai vừa chìa cổ tay, cho tên này coi chiếc vòng ngọc, mắt ngó hắn không chớp. Nhưng hắn cứ điềm nhiên như không, nhếch mép khô giọng:

      - Trại chúng mày sắp ra tro! Không giữ nổi đâu!

      Võ Minh Thần bực mình, đang định dùng võ thuật, bắt hắn phải khai, chợt thấy cả khu trại sáng rực ánh hỏa pháo, tiếng súng nổ quân hò dữ dội, đạn "chíu" cả lên đồi, Quản Kình chạy lên báo:

      - Quân giặc đông hơn ta nhiều! Chúng đã lọt sau cổng trại!

      - Còn mặt sau?

      - Mặt sau, ta giữ được, chúng chỉ có ít tay súng nỏ, súng hỏa mai phía đó!

      Mạnh nhất mặt tiền! Còn Khìn Lồi cùng hai, ba tên người Mán biến mất! Tình thế gấp!

      Võ Minh Thần điểm cứng tên cao lớn, ném hắn vào một xó, khóa cửa lại, đoạn cùng Quản Kình lao xuống dưới.

      Khi Võ Minh Thần xuống dưới khu trại dưới, thì quân giặc đã tràn vào trong, chiếm hẳn dãy đồi che chếch Đông Bắc, đánh dập xuống khu tá điền, xưởng trà, nhà kho, khí thế rất hung. Mặt này, giặc có khoảng hơn năm mươi tay súng, lẫn nhiều hỏa mai, cùng toán cung nỏ, nhưng có hai khẩu trung liên rất lợi hại, quét trúng hết sức, mở đường cho toàn đội.

      Bên trại, tráng đinh, tá điền, thủ hạ họ Võ khoảng năm sáu chục tay chiến, nhưng chỉ có độ bốn mươi tay súng, vừa hỏa mai, súng "mút", với một cây trung liên độc nhất. Hỏa lực của trại hơi yếu hơn giặc, lại phải rải quân bảo vệ khu cơ xưởng, gia cư rộng, nên càng mỏng, có vẻ núng trận.

      Cả Hổ đang đứng sau một căn nhà gạch đốc chiến, Võ Minh Thần chống cái dù trắng, cùng Quản Kình lao tới, hỏi:

      - Quân giặc đánh hung lắm! Hình như chúng đã biết mật hiệu hai tên đột nhập hành thích bị bắt thì phải! Trại không còn cây liên thanh nào nữa?

      Cả Hổ lau mồ hôi rớm trán, đáp nhanh:

      - Trước phụ thân còn buôn lậu, bao giờ cũng thừa súng đạn. Nhưng từ ngày làm Tri châu về, giải nghệ luôn, chuyên về khai phá đồn điền, "người" cho bán hết, chỉ để lại ít khẩu giữ trại, có khai báo với Nhà nước! Nhưng "người" còn giữ kín một cây trung liên để dưới hầm nhà hai tầng!

      - Còn đạn?

      - Đạn còn nhiều! Nhưng chỉ có một cái nòng dự trữ!

      Võ Minh Thần giục Cả Hổ, Quản Kình đi lấy đạn xong. Chàng trai trao cây súng cho Quản Kình, còn chàng quơ mấy băng, dặn dò kế chiến chưa kịp vọt đi, chợt thấy quân giặc ngừng bắn trên, ngọn đồi thấp thoáng có bóng một tên cao lớn trùm mặt ló sau thân cây lớn, quát lớn:

      - Anh em họ Võ! Nếu chịu trả người vừa bị bắt, chúng ta sẽ rút quân ngày! Nếu không, ta quyết đốt trại này ra tro!

      Võ Minh Thần nhìn lên, quay bảo Cả Hổ, Quản Kình:

      - Coi dáng giống Khìn Lồi quá! Lồi đâu?

      - Nó biến mất ngay khi tôi chạy lên đồi! Đúng nó rồi! Nếu vậy, chắc trong hai tên kia, phải có một tên đầu đảng, nên thằng Lồi thấy lộ, phải ra.

      Võ Minh Thần vội truyền người trong trại ngừng bắn, đoạn khum tay quanh miệng, gọi lớn tiếng như chuông đồng:

      - Khìn Lồi! Ta đã biết ngươi từ đêm qua!Không cần dấu mặt! Muốn ta tha nó, phải nói rõ lý lịch, nguyên do vụ giết trộm hèn hạ! Nếu không, bọn người đừng mong ra khỏi trại này!

      Tên trùm mặt cười thét lên, dữ tợn:

      - Nhỏ con! Xuống âm phủ hỏi cha mi sẽ rõ! Ta chỉ cần hỏi có chịu thả không?

      Võ Minh Thần không đáp, giơ tay ra lệnh cho bọn Cả Hổ, Quản Kình:

      - Cứ luồn đánh tập hậu, để mặt này trống. Tôi sẽ bắt sống nó!

      Bọn Cả Hổ không khỏi ngạc nhiên nhưng tin tài Thần, cả bọn vùng xách súng vọt đi họp quân nhưng mới bước bỗng nghe tiếng reo hò ầm ĩ phía cổng trại rồi một toán lạ mặt toàn thổ dân mặc quần áo Chàm kỵ, bộ lố nhố độ bốn, năm mươi tay súng hỏa mai nam nữ, ùa vào tiếp ứng cho bọn giặc, lập tức tên trùm mặt hét nổ súng cả dải đồi đạn vãi xuống như mưa, quân giặc có quân tiếp ứng càng trở nên hung hãn, vừa hò reo lao xuống đồi.

      Bọn Võ Minh Thần đành phải nổ súng chặn lại. Đang cơn hỗn loạn, thình lình nghe tiếng kèn tây thổi vang rền, tiếp liền hàng chục trái hỏa pháo bay "bóp" lên trời, soi sáng cục trường, theo nhịp kèn xung phong, từ phía cổng trại vụt hiện ra một đội quân mạnh phi vào như gió, dẫn đầu là một người cưỡi ngựa tây cao lớn, cổ ngựa cắm một lá cờ hiệu thêu kim tuyến. Và ngay dưới lá cờ hiệu, có một toán lực lưỡng phò một cô gái mặc quần áo trận, múa tít cây súng dài, rạp mình hét lanh lảnh, hô binh nhập trận.

      Bọn giặc nhiều tên đã xuống đến chân đồi, đồi lượn cung không thấy, nhưng có toán còn ở vòng ngoài trấn cao điểm, vùng ngó ra, thấy rõ cánh quân mạnh cờ hiệu, quần áo hiện dưới ánh hỏa pháo, nhiều tên xôn xao bật kêu:

      - Lính nhà nước! Lính tỉnh vào!

      - Khố xanh, lính dõng!

      Rất nhịp nhàng, khi phóng vào gần tầm súng, cánh quân lập tức chạy dạt ra theo hình cánh cung dương, phi tới đâu thả lính bộ trên lưng ngựa xuống, súng đánh tập hậu, ngang sườn quân giặc, thế mạnh như vũ bão.

      Cô gái cầm đầu cùng đám chỉ huy vừa phi vừa thỉnh thoảng lại thả "bóp" một trái hỏa pháo, nhờ ánh sáng rực, quan sát rõ, cô gái thấy bóng ngựa quân giặc thả lố nhố dưới chân đồi, còn quân giặc chỉ còn số ít trên ngọn, cô gái cả mừng thét lớn:

      - Bộ binh đánh thốc lên đồi! Bắt lấy ngựa không để con nào lọt tay giặc! Lính bộ được lệnh vừa bắn vừa tiến ào ào, quân giặc một số trên ngọn đồi bắn tràn nhưng không kịp! Bao nhiêu ngựa của chúng đều bị xua lại sau hết, cho một toán thâu góp lại, thừa kế ngọn đồi, đánh dồn quân giặc xuống thung trại.

      Dưới trại, thấy có lính nhà nước đánh tập hậu, Võ Minh Thần cả mừng hô gia đinh thủ hạ đánh dập tới, thành thử, quân giặc giây lát đã bị đẩy vào một cái túi bầu dục, tứ diện thọ địch.

      Bóng cô gái vọt hiện trên đồi, quát vọng:

      - Bọn mi không ném súng hàng, còn đợi chi nữa? Định chết cả lũ ư?

      Võ Minh Thần dòm lên, lúc đó mới nhận ra chính Thủy Tiên, cô gái quan tuần phủ Yên Bái! Chàng trai gọi lớn:

      - Thủy Tiên tiểu thư! Cám ơn đã cứu viện! Quân giặc bị vây rồi, xin nương tay, chớ sát hại nhiều! Cứ án ngữ, để mỗ đây bắt tên đầu đảng, tên cao lớn trùm mặt!

      Dứt lời, Võ truyền bọn Quản Kình nương gốc cây, gò rãnh, tiến lên phía trên, Thủy Tiên không chịu án binh, cũng xua quân đánh xuống. Tình thế nguy cấp, quân giặc vỡ tan, không tên giặc nào còn ham chiến nữa.

      Gã trùm mặt biết nguy cơ đã tới, vùng khoa súng hét như sấm:

      - Đánh thốc vào phía Tây! Đánh giáp phá vây! Ngựa đã bị đoạt hết, không liều, chết hết! Theo ta!

      Hắn vừa hét, vừa lao, ngoái bắn, nhưng chỉ có hơn chục thủ hạ dám liều băng theo, còn bọn kia do dự, bắn cầm chừng, dáo dác. Vốn có đức hiếu sinh, Võ Minh Thần tuy trong lòng đau thù thân thế dưỡng phụ chết thảm, vẫn còn bình tâm để thấy bọn giặc phần đông chỉ là thủ hạ, theo chủ, chàng trai vùng hô lớn cả tiếng Kinh lẫn tiếng Mán:

      - Mở cho chúng một cửa sống phía Bắc! Bọn ngươi chỉ là kẻ theo lệnh chủ, ta tha cho về làm ăn hối cải, không được dự vào việc riêng của người nữa! Cứ chạy phía Bắc cổng trại, sẽ toàn mạng.

      Tên trùm mặt hét:

      - Chớ có nghe nó lừa! Đứa nào chạy ngả đó, sẽ bị nó tỉa chết! Theo tao! Mau!

      Súng nổ đì đẹt! Tuyến chiến gần lại, cuối cùng mỗi phía chỉ còn cách sáu bảy mươi bộ, bọn Quản Kình chiếm được một cái rãnh dẫn thủy chừng giữa thung, chạy vòng quanh gia cư cơ xưởng.

      Võ Minh Thần án ngay điểm tựa đắc địa này, cứ tên nào ló tới bắn liền:

      - Đường sống phía Bắc! Ta tha cho! Chậm chân, lính Nhà nước ập tới, bọn mi sẽ chết trong túi!

      Đàn giặc nam nữ, trước còn do dự, sợ hãi, sau nguy quá, một tốp phụ nữ liều quăng súng, bỏ chạy, lũ khác thấy tốp này không việc gì, lập tức rùng rùng bỏ chạy theo.

      Tên cao lớn dòm quanh, thấy còn hơn hai mươi thủ hạ giữ tuyến, nổi giận xả súng bắn theo, hét:

      - Quân chó chết hèn hạ bỏ chủ động! Bắn chết chúng cho tao!

      Hơn chục mũi súng chĩa theo nhả đạn, ba bốn bóng ngã nhào, đợi cho đám rút chạy đã xa cách quãng ngắn, Võ Minh Thần hô to:

      - Vây bọn còn lại! Bắn què! Tên đầu đảng để mặc mỗ liệu!

      Quân trại lập tức tập trung súng bắn ào. Vài tên ngã nhào, vài tên dạt xa, bỏ chạy theo bọn trước.

      Một tên nấp sát tên trùm mặt, vùng bảo:

      - Tình thế hỏng rồi! Chủ mau thay hình đổi dạng, trốn mau mới kịp!

      Tên trùm mặt xua tay, múa súng hét:

      - Anh tao bị bắt rồi! Phải liều bắt một đứa đổi mạng! Theo tao! Chết còn hơn chạy như con cáo, con chồn!

      Theo tiếng quát, tên trùm mặt cùng hơn chục thủ hạ sót lại vừa lao chồm sấp vừa nhả đạn. Chúng còn hai cây trung liên.

      Võ Minh Thần hô:

      - Anh em trại án binh bất động! Để chúng đấy cho mỗ!

      Dứt lời, chàng trai vẫy lia cây dù trắng. Cứ mỗi phát lại nổ bập bập, một, hai tên bay súng, khi tên trùm mặt cùng thủ hạ lao được tới một cái hố, cách khoảng năm mươi bộ, chỉ còn năm, sáu tay súng, thảy đều kinh ngạc, lúc đó mới hay cây dù lạ của chàng trai còn là một cây trung liên ngầm trong nữa. Bọn kia chiếm được cái hố, chĩa súng lên, cho là đắc địa nhất, tên trùm mặt cười gai rợn:

      - Bọn tao còn nhiều đạn. Bắt được tao, chúng mày còn mất mạng nhiều!

      Cô gái Thủy Tiên đứng xa, thấy thế xua lính ào tới, nhưng Võ Minh Thần đã hiệu cho tất cả bất động, đoạn móc cây dù bên mình, quát vọng:

      - Ta không cần súng cũng bắt sống được mi! Nhưng mi có gan đánh tay đôi không?

      Không ai hiểu ý Minh Thần, tưởng chàng tính hiếu dũng. Thực ra, chàng chỉ ngại tên kia cùng đường, tự sát mất. Hắn cũng không nghĩ ra, lớn tiếng mắng chàng trai thách thức. Võ hô lớn:

      - Mấy tên kia vô can, hãy lui xa, ta tha mạng đó! Nếu ngu muội chớ trách!

      Không tên nào nghe lời, Võ quát:

      - Coi đây!

      Lời buông, chàng thả vụt tay phải "vèo" bay vút ra một lưỡi liễu đao sáng loáng, vọt xé gió theo đường cung chém xả xuống hố, "vèo" tay trái, lại một lưỡi thứ hai, chát chát! Liền hai cây súng bị chém đứt đôi!

      Bọn giặc thất kinh, hụp đầu xuống, ngó lên, Võ đảo lia hai tay, thép liếm tróc đầu chúng, sợ chém trúng, chàng vọt lên bờ rãnh, nhờ ánh hỏa pháo, thấy rõ, chàng mới hạ xuống, chém rụng cây súng trên tay tên trùm mặt, hắn giật cây khác, ló đầu lên, định bắn, lại bị chém đứt, cứ thế, cuối cùng chỉ còn một cây. Võ hô:

      - Tha cho bọn vô can một lần chót đó! Chạy đi không uổng mạng!

      Thép lóe trốc hố, ba bốn tên dáo dác nhảy vèo lên chạy, tên trùm mặt chĩa súng bắn, Võ thừa cơ chém sả một nhát rụng liền. Cuối cùng chỉ còn ba tên dưới hố.

      Võ Minh Thần đứng thẳng người hô:

      - Ta tới bắt mi!

      Lời vừa buông, chàng trai đã lắc mình vọt tới, đứng sững sau một cây trẩu lớn, cách hố hơn mười bộ. Tên kia nhô lên, vẫy súng, bị chém bay mất. Xế bên hữu cách dăm bước lại có cây trẩu, Võ xẹt luôn tới búng liền mấy nhát chỉ phong cách không điểm huyệt.

      Hai tên thủ hạ đứng đỡ tên trùm mặt tránh thoát, hắn thò tay rút con dao găm nhảy vọt lên, đứng sau một cây trẩu cách cây Võ nấp chừng năm thước. Sợ có người nổ súng, Võ hô lớn:

      - Chớ ai động tay cò! Để mỗ nói chuyện! Khìn Lồi! Đến nước này vẫn chưa chịu ra hàng ư?

      Tên trùm mặt nghiến răng ken két mắng lớn, Võ quát trầm:

      - Tên ngu xuẩn! Mi còn đợi dao kề cổ!

      Dứt lời, chàng vụt rời điểm tựa, xẹt ngang lên, chém chát một nhát, đứt đôi dao quắm tới chuôi. Tên này liền nhảy ra, ném chuôi dao vào Võ, vừa thò tay rút dao găm bên sườn, đã bị Võ đánh một nhát phản phong ngã huỵch, Võ vọt lại dằn luôn chân lên huyệt, hắn cứng đờ như khúc gỗ.

      Thấy Võ Minh Thần hạ bọn đầu đảng hết sức tài tình, chúng gia đinh thuộc hạ, nhất loạt reo hò ầm ĩ, nhiều kẻ định đuổi theo bọn đang ra cổng. Võ Minh Thần xua tay ngăn lại, Thủy Tiên, Cả Hổ, Quản Kình cùng đám thuộc hạ đổ tới, Võ Minh Thần cúi xuống giật soạt vải trùm mặt. Quả như dự đoán, chính Khìn Lồi, tên Mán vẫn được coi là bộ hạ đắc lực của Cả Hổ.

      Ai nấy đều kinh ngạc. Nhất Cả Hổ, từ trước vẫn coi Quản Kình, Khìn Lồi là những tay thuộc hạ thân tín nhất của gia đình họ Võ. Cả Hổ trợn mắt, định quát hỏi, nhưng Võ Minh Thần đã bảo Quản Kình:

      - Đem hắn lên nhà trên! Còn tất cả hãy thu dọn xác chết! Liệu cơm nước đãi khách!

      Cả Hổ vội truyền quản gia, Quản Kình cúi vác luôn Khìn Lồi lên vai theo anh em họ Võ lên đồi, Thủy Tiên cũng theo lên. Gã cao lớn vẫn nằm nguyên đó như khúc gỗ. Võ Minh Thần lập tức giải huyệt cho y, nhưng vẫn triệt võ công, vỗ vai hỏi:

      - Bọn ngươi bại trận hoàn toàn rồi! Ta đã lấy đức hiếu sinh tha cho toàn mạng đám thủ hạ ngươi! Còn ngươi, ta vẫn chưa rõ nguyên nhân. Cứ khai rõ! Ta thề nếu hành động ngươi chính đáng ta sẽ tha liền!

      Gã cao đưa mắt ngó Khìn Lồi, vẻ căm giận ngùn ngụt, hắn vùng cất tiếng cười ngạo nghễ trỏ mặt Võ:

      - Mày giỏi! Tao thua. Tao không giết được cả nhà mày. Nhưng giết được cha mày cũng đủ rồi! Nay bắt được cứ giết đừng hỏi nhiều lời vô ích!

      Cả Hổ nổi giận cầm báng súng định quật nhưng Võ Minh Thần ngăn lại, ấn hắn ngồi xuống ghế, dịu dàng bảo:

      - Coi ngươi cũng là kẻ can đảm, tại sao không dám nói nguyên do? Kẻ gian tà mới phải dấu? Ngươi mưu hại cha ta vì lẽ gì?

      Tên này một mực không thèm nói, Thần cố gắng hỏi, y vùng quát:

      - Đừng nhiều lời vô ích! Chỉ cần biết tao đã thề giết hết giòng giống Võ, tao làm thế thôi! Tao không khai gì cả!

      Võ Minh Thần cau mày, khô giọng:

      - Nếu ngươi bướng mãi, buộc ta phải dùng độc thủ! Ngươi đã học võ, liệu cưỡng nổi chăng?

      Tên này dòm lừ lừ, bất thần nhảy chồm tới chỗ Khìn Lồi nằm, bóp cổ. Nhưng Quản Kình đá lia một phát bắn y lộn lại. Y bò dậy, câm nín, bỗng chép miệng:

      - Được! Muốn biết tao sẽ nói! Cho bát nước!

      Quản Kình theo lệnh Thần rót một bát nước chè tươi đưa y. Bát gỗ tiện, y đỡ lấy, ngồi uống từng ngụm, ung dung, rồi ngả lưng, ngửa cổ cười sằng sặc. Bỗng tiếng cười như nghẹn, y ngoẹo cổ, im luôn. Mấy người xô lại, y đã chết, mắt trợn ngược, máu mép chép chảy giòng, mặt xám ngoét.

      Võ Minh Thần cạy miệng coi, kêu lên:

      - Nó tự tử? Nó có cái răng giả chứa sẵn thuốc độc. Dẫn Khìn Lồi lại đây!

      Quản Kình xốc Khìn Lồi lên, Minh Thần giải huyệt cho ngồi, dịu dàng bảo:

      - Ta mới về, được biết chú rất trung thành, bỗng dưng theo giặc phản chủ, tất phải có nguyên nhân! Ta coi chú đâu phải kẻ sợ chết, ham tiền bạc xấu xa phản phúc nay lại dự vào vụ này, thật lạ. Ta cần biết tại sao chú lại dự vào việc ám sát cha ta? "Người" có làm chú thù hận chi? "Người" ác nghiệt với chú? Phải có nguyên nhân chứ? Trượng phu dám làm dám chịu, cứ nói ra đây? Nếu chú làm phải, ta sẽ tha? Phụ thân ta đối xấu với chú chăng?

      Khìn Lồi, máu lai Kinh, vốn có máu người miền núi, cương ngạnh, sẵn sàng chịu chết, nhưng trước thái độ hòa dịu và lời lẽ ngọt ngào của Võ Minh Thần, Khìn Lồi thấy xúc động, thở dài, ôm mặt, lắc đầu lia lịa:

      - Không, không! Ông chủ tốt lắm, ông chủ không làm gì xấu. Khìn Lồi không thù oán nhà họ Võ... nhưng Khìn Lồi theo lời thề. Khìn Lồi phải trả thù... hãy giết Khìn Lồi đi? Lồi không phải người nhà họ Võ, là kẻ thù, giả vào ở để báo thù... Trời! Để anh em giết ông chủ, Lồi buồn, nhưng còn lời thề trên rừng... Lồi muốn chết! Anh em Lồi chết hết rồi...

      Tuy y không nói gọn ghẽ mạch lạc, nhưng mọi người cũng hiểu qua tình ý, Võ Minh Thần nghe hai tiếng "trên rừng" trống ngực đập mạnh, mừng rỡ hết sức, chìa cổ tay đeo vòng trước mặt y, hỏi:

      - Khìn Lồi! Biết món này chứ? Vật này dính đến chuyện trên biên giới đây!

      Nhưng Khìn Lồi mở to mắt, ngơ ngác, lẩm bẩm:

      - Cái này là vòng ngọc thạch... để làm gì? Đàn bà Kinh, Tàu hay thích đeo!

      Minh Thần lại chìa nửa đồng tiền, y vẫn lắc đầu. Chàng trai lạ lùng, gặng hỏi mãi, Khìn Lồi bèn kể qua chuyện ám sát ông già họ Võ. Nguyên nhân mối thù truyền tử, chỉ vì chuyện buôn lậu ngược xuôi va chạm.

      Hồi đó, có mấy đám buôn lậu lớn, Kinh, Mán, Tàu, Tây... xuôi ngược, từ mạn đồng bằng Hà Nội lên biên giới, đường ai nấy đi, mối ai nấy bán. Nhưng vì giới buôn lậu đủ hạng tứ chiếng, anh hùng có, tiểu nhân có, nên thường xuyên xảy chuyện chặn cướp hàng nhau, tố giác với lính Đoan, khố xanh tuần cảnh.

      Con đường và vùng hoạt động của phe nhóm ông già Võ Minh Phong vẫn là đường Hà Nội, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng hoặc Hà Nội - Lạng Sơn, sang bên Quảng Tây, Quảng Đông. Nhưng năm đó, con đường này "động" mạnh, lính đoan, lính khố xanh khắp mấy vùng thượng du rình rập, phục bắt gắt, đã xảy ra một, hai vụ chạm súng.

      Vì cần giao hàng đúng hẹn, Võ Minh Phong buộc lòng phải kiếm con đường khác và lão chọn con đường Hồ Kiều - Lào Cai, Yên Bái, nửa chừng lái chuyển Lục Yên Châu, mới đổ xuôi... Vùng này thuộc khu "hùng cứ" của tù trưởng Mán Khìn Lầm, một tay chúa tể rừng già Lục Yên Châu chuyên giao thiệp với người Tàu, cầm đầu các cuộc buôn lậu vùng đó. Đoàn buôn lậu tải hàng đến gần vùng Lục Yên Châu, Võ Minh Phong bèn cùng một số thủ hạ vào tận động Mán gặp Khìn Lầm, để "mượn đường" theo đúng phép xã giao của các tay giang hồ tứ chiếng.

      Tới nơi, được Khìn Lầm đón tiếp rất nồng hậu, lại bày cuộc vui đãi khách, gọi vợ ra chào. Vợ Khìn là người Kinh theo cha mẹ phiêu dạt lên mạn Tuyên Quang buôn bán, rồi lấy Khìn Lầm, chẳng may trước dưới xuôi, lại là người tình của Võ Minh Phong. Gặp nhau, cả hai cùng sửng sốt, vẻ lúng túng của nàng lọt vào cặp mắt Khìn Lầm.

      Khìn hỏi, nàng cứ thật tỏ bày, gã khách thương Ả Lường, một trùm buôn lậu, biết chuyện, âm mưu xúi Minh Phong rủ vợ Khìn bỏ trốn, Minh Phong cùng thủ hạ tìm kế rút khỏi động về trại giữa rừng, bị tù trưởng Khìn Lầm cùng Ả Lường đem tay chân, thổ dân đến đánh trại.

      Nhưng Minh Phong đã kịp đề phòng, dùng kế "không thành" rút cả lên đồi, để trại không, Khìn Lầm, Ả Lường xua quân vào, bị chặn đánh tan. Ả Lường vỡ đầu chết, Khìn Lầm bị một phát đạn vào bụng được hai người con phò chạy về động, đạn trúng ngay mép giây súng, cưỡi ngựa nhấp nhổm, giây da bịt lấy máu, về xuống ngựa cởi giây lưng, máu ộc ra, chết liền. Trước khi nhắm mắt, viên tù trưởng còn trối lại cho bốn người con phải báo thù họ Võ.

      Nhưng rồi một kẻ ốm chết, còn ba người kia, có hai người bị Võ Minh Thần bắn hạ, tự sát, còn Khìn Lồi bị bắt sống.

      Lồi mắt đỏ hoe run giọng:

      - Khìn Lồi vào đồn điền để báo tin cho động. Lồi biết đã ở với người, mà lợi dụng lòng tin hại người là bất nhân, bất nghĩa, nhưng vì cha vì anh sai bảo. Giờ cha anh chết hết rồi, hãy giết Khìn Lồi này đi! Đừng hỏi nữa! Cho Lồi đi theo cha anh!

      Người con tù trưởng Mán Lục Yên Châu ôm lấy mặt, không dám nhìn anh em họ Võ cùng bọn Quản Kình, Võ Minh Thần nghe qua chuyện thù xưa, lòng buồn hiu hắt, biết dĩ vãng thân thế mình không dính dấp gì tới câu chuyện Lục Yên Châu. Bèn thở dài, kéo Cả Hổ vào chỗ bàn bạc, đoạn quay bảo Khìn Lồi:

      - Chuyện thời xưa, chính lỗi tại cha chú đã nghe lời tên khách Lường, chuốc họa vào thân, còn buộc con trả thù khốc hại là quá lắm! Để cha ta phải thác giữa buổi gặp con, tội đáng tru diệt. Nhưng nghĩ thương chú cũng là hiếu tử, nay cha, anh đã chết, giòng họ Khìn chỉ còn mình chú, vậy anh em tôi nghĩ tình tha cho về mà hương khói cha, anh nối giòng tù trưởng Lục Yên Châu! Khìn Lồi! Chú hãy vào lễ vong hồn cha ta cùng lão Sềnh, rồi trở về động cũ, chớ nán lại đây mà mang họa!

      Khìn Lồi cảm động rống lên, định đập đầu tự sát, bọn Quản Kình phải ngăn lại, khuyên nhủ mãi Lồi mới chịu sang sụp lạy trước bàn thờ ông già họ Võ, lão Trưởng Sềnh. Lại sụp lạy anh em Võ Minh Thần, cáo biệt bọn Quản Kình và ngay đêm đó xin thồ hết thương binh, xác chết về thẳng miệt Lục Yên Châu. Võ Minh Thần lại nói với Thủy Tiên trả lại một số ngựa thồ, đoạn làm tiệc khao quân.

      Định lưu lại đồn điền Yên Bái hết tuần tứ cửu nhưng lòng đau thân thế dĩ vãng dày vò nóng như lửa đốt, chàng trai họ Võ chỉ ở lại thêm một hai bữa không sao chịu nổi phải từ biệt Cả Hổ cùng đoàn gia nhân thuộc hạ lên đường. Tất cả cố lưu lại không được, Quản Kình ngậm ngùi bảo:

      - Nay cậu hai quyết đi ngay, đường xa thăm thẳm phải có người hầu, cậu hai cho Kình này đi theo mới được! Kình biết rõ cả miền thượng du, biên giới có thể giúp cậu hai nhiều việc.

      Võ Minh Thần không muốn vì mình, y chịu cực nhọc nguy hiểm nhưng Quản Kình quyết theo, chàng phải cho theo. Cả Hổ làm tiệc tiễn hành, sửa soạn hành trang, tiền lộ phí, chọn hai con ngựa khỏe cho hai thầy trò, buổi ra đi đầy nước mắt. Cả Hổ dẫn người nhà đưa tiễn tận Yên Bái, lại gặp Thủy Tiên chạy theo đưa, hết lời căn dặn, quyến luyến khôn cùng.

      Hỏi thăm chẳng ai biết núi Đầu Ngựa phương nào, Quản Kình bàn:

      - Xưa cụ nhà thường ngược đường Đông Bắc biên giới nhất vào khoảng mười bảy, mười tám năm trước, vậy giờ ta cứ đi xuyên Yên Bái - Tuyên Quang sang Thái Nguyên rồi ngược đường Bắc Kạn - Cao Bằng tới đấy rồi sẽ liệu.

      Võ Minh Thần khen phải, lập tức cùng Quản Kình, hai người hai ngựa xuyên sơn nhằm hướng Đông Bắc đi miết.

      * * * Thượng du đất Bắc từ Vĩnh Phú đổ lên đều là những miền núi đồi trùng điệp, người ở Kinh thường ở các vùng sơn trấn lớn nhỏ và các phố rừng, đồn trại bên sông dọc các đường giao thông. Những rặng đồi cao vợi, mờ sương sau các dãy núi đá ngửa trời đều là giang sơn của các sắc dân tộc sơn cước như Mán, Thổ, Thái, Trại, Nùng, Dao, Hmông, Lô Lô, Khạ, Nhắng, Mèo, v.v...

      Riêng bộ tộc Mường, một sắc tộc hiện còn mang nhiều sắc thái Văn Lang Giao Chỉ nhất trong phong tục, ngôn ngữ, phả hệ thì ở hẳn miệt Tây Bắc từ cuối Hắc Giang lưu vực sông bờ Hòa Bình, tiếp giáp Thượng Lào đổ xuống Ngũ Châu Thanh Hóa xuyên Đông qua Kim Tân, Thạch Thành...

      Vì không có đích tới nhất định, Võ Minh Thần cùng Quản Kình cứ noi theo con đường xuyên sơn qua Tuyên Quang sang Thái Nguyên nhiều khi lần cả vào những động Mán, Mèo thâm sơn hỏi thăm nhưng trăm người như một đều lắc đầu không ai biết núi "Đầu Ngựa" phương nào cả, cứ thế đường trường rong ruổi ngày đi đêm nghỉ, những lúc nhàn rỗi Võ Minh Thần lại đem võ nghệ bí truyền dạy thêm Quản Kình, nhờ vậy Quản Kình võ nghệ tiến bộ vượt bậc, hai người ngày thêm tương đắc. Thấm thoát đã hết tháng tám ta, hai người tới trấn Cao Bằng trọ lại một ngày nghe giới khách thương kháo nhau dạo này vùng biên giới nhiều thổ phỉ, đạo tặc hoành hành thường chạm súng với lính Nhà nước. Võ Minh Thần bàn với Quản Kình rồi hai người lên ngựa ngược đường biên thùy ngang chếch miền Trùng Khánh Phủ, chiều kia khoảng ba, bốn giờ vó ngựa xuyên sơn dừng tại vùng biên địa cách lãnh địa tàu chừng năm, bảy dặm giữa một miền sơn kỳ thủy tú dưới chân một con thác đổ.

      Lối mòn xuyên sơn này trước là lối đi của thổ dân sau giới buôn lậu dùng để xuyên biên, bọn giặc cỏ cũng thường lai vãng nên vẫn xảy ra những vụ chạm súng, không mấy ai dám qua lại một, hai người. Chặn cướp, giết người sau chỉ chừng trăm thước là lạc lối mây ngàn, trăm tay súng không làm gì nổi. Quản Kình bảo:

      - Đây đi chừng hai dãy núi rẽ tay trái vài dặm tới một bản Mèo trên ngọn đồi biên, tới đó có thể thấy đất Tàu. Nhưng đường đi nhiều bất trắc, ta có thể xuyên qua phía Đông chừng mười dặm cũng có bản Nùng!

      - Nghỉ đây lát sẽ liệu! Quái! Sao bữa nay đường này vắng vẻ thế?

      Hai người xuống ngựa thả hai con vật gặm cỏ, uống nước bên dòng và rủ nhau xuống nhảy ra một tấm thạch bàn cách chỗ thả ngựa chừng vài chục thước.

      Võ Minh Thần ngắm cảnh rừng chiều mươi giây vừa cúi xuống cùng Quản Kình vốc nước rửa mặt, thình lình nghe tiếng ngựa ré lên một tiếng, cả hai ngoảnh nhìn lại thấy một con cọp xám ba chân từ khe núi nhảy chồm ra vồ con ngựa hồng của Võ Minh Thần, con ngựa kia hoảng lồng hí mạnh!

      Lẹ như chớp, Võ Minh Thần vừa đứng thẳng người lên, vừa thả vụt tay ra "véo" ngọn liễu đao bay vút tới như giải lụa bạch nhưng con cọp xám này nhanh hết sức, nó đã vồ được con ngựa nhảy lộn vào khe núi, liễu dao chém hụt được cái chòm đuôi, nó đã tha ngựa mất dạng.

      - Chà con quái này gớm thật!

      Chàng trai lắc mình vọt theo tiếng quát nhưng khi hạ chân chỗ ngựa bị vồ, con cọp đã lẩn mình vào bụi rậm chân núi. Minh Thần chợt nghe tiếng ngựa kêu lập tức chém "véo véo" cả hai tay vào bụi rậm xế tay tả vài chục bộ. Rào rào rắc rắc! cành lá đứt bay lả tả, vọng có tiếng cọp rống rồi im. Võ Minh Thần thu dao chạy tới thấy con ngựa đang nằm dãy chết, cổ bị cắn, mình mẩy đầy vết vuốt nhọn cắn cào, cách đó vài bộ, con cọp xám nằm vắt mình trên một phiến đá, chân sau đứt lìa rụng bên một gốc cây cụt, gáy nó bị liễu đao chém gần bay, đầu đầy máu vung vãi, nó nằm sấp, hai mắt còn trợn ngược thở khò khè.

      Quản Kình chạy tới, con ngựa hồng chết hẳn. Hai người còn đang đứng nhìn con ngựa tiếc vật đỡ chân bỗng nghe tiếng chó sủa ran rồi từ phía đường mòn cách độ vài trượng bốn, năm con chó lớn chạy xộc vào vây lấy hai người, chờn vờn gừ gừ rất dữ, có con nhảy lại cắn con cọp tha đi nhưng không nổi. Quản Kình nổi giận lia chân đá bịch một ngọn cước bắn tung luôn một con vừa chồm chân y. Võ Minh Thần xua tay đuổi đàn chó:

      - Đừng đánh! Hình như chó có chủ! Chắc chó săn?

      Quả chàng đoán không sai, ngay khi đó bỗng nghe tiếng vó câu rầm rập, lẫn tiếng quát lanh lảnh, rồi một bầy sáu, bảy bóng gái rừng phi ngựa tới như con lốc.

      Ngựa dừng rập, sáu nàng xinh xắn, mặc quần áo chàm, tay cầm súng, sườn đeo dao quắm phò một nàng rất đẹp, mày xếch, mắt phụng trạc mười bảy, mười tám coi thông minh, ngược ngạo hết sức, nhưng trên khuôn mặt dáng dấp vẫn toát nét quý tộc của các giòng tiên vương sơn cước.

      Nàng mặc quần áo giống gái Thái đen, áo bó, phá lảnh bó đầu bằng satanh huyền, cạp, gấu, chần thủy ba kim tuyến, chân đi hài sảo, ngoài còn khoác một cái áo choàng quá gối cũng màu đen viền kim tuyến, như lối gái Mường Tây Bắc, chỉ khác chút Mường chuyện khoác áo trắng.

      Tay nàng cầm một cái lưới thép nhuyễn, vừa phi vừa quay xòa lưới, thấy bóng người dừng lại, thu lưới, đưa mắt ngó cọp. Võ Minh Thần, Quản Kình, con chó bị đa đang kêu ăng ẳng, vùng cất giọng thánh thót nói:

      - Ai vừa đá con chó săn? Ai chém con cọp ba chân này? Tôi đuổi nó từ cánh rừng bên?

      Tiếng Thổ, giọng ngạc nhiên hơi gay gắt nhưng véo von như tiếng chim rất dễ nghe, Võ Minh Thần đáp luôn:

      - Con cọp này vừa vồ mất ngựa! Tôi chém nó, không cứu được ngựa. Con quái này gớm thật! Bị săn đuổi vẫn vồ mồi! Còn con chó này tôi đá vì nó chồm cắn chân, lúc vội tưởng chó rừng!

      Cô gái cau mày liễu, quát lên một tiếng rất lạ tai, con chó bị đá chạy lại nằm soài trước đầu ngựa của cô gái, nàng này rút luôn cây roi da quất đen đét, con chó rên ư ử, tỏ vẻ khiếp sợ hết sức, nàng mắng lớn:

      - Cẩu trệ! Dạy mãi vẫn còn vô phép! Chưa có lệnh sao dám cắn người? Về, tao treo mày lên một ngày nữa!

      Võ Minh Thần thấy cô gái sơn cước này trị tội chó như người, xem chừng con chó rất khôn, biết tội nằm chịu đòn, chàng trai ái ngại vội tiến lại, từ tốn:

      - Thôi cô nương nên tha cho nó! Có lẽ nó cắn vì nó giữ con mồi cho chủ đó! Nó bực bọn mỗ sao dám giết mất con vật chủ đang săn đuổi!

      Cô gái nghe lời, bèn tha cho con chó, nàng quát lên một tiếng, con chó tỏ vẻ mừng rỡ, ve vẩy đuôi, chạy ngay lại trước hai người, gục gục đầu kêu, hí hí, rồi quỵ luôn hai chân trước xuống. Võ Minh Thần vội ra hiệu cho con vật đứng lên đoạn quay bảo cô gái rừng:

      - Cô nương luyện được bầy súc vật khôn dữ á? Không thua chó phường xiếc!

      Cô gái hình như chẳng hiểu "phường xiếc" là gì, nhưng cũng nhoẻn miệng cười, hỏi:

      - Ông lên biên giới... có việc chi?

      Sực nhớ ra, Minh Thần điềm đạm:

      - Cô nương chắc ở miền này, có biết núi "Đầu Ngựa" phương nào chăng?

      Cô gái quay nhìn đám gái tùy tùng nói líu lo với nhau đoạn hỏi:

      - "Núi Đầu Ngựa" phải Mã Đầu Sơn không? Tôi nghe nói tới Mã Đầu Sơn, Ngưu Đầu, nhưng hình như không phải bên Nam này! Có lẽ bên đất Tàu thì phải! Nghe nói bên đó có núi Mã Đầu!

      Cả mừng, Võ lễ phép:

      - Cám ơn cô nương nhưng chẳng hay núi đó thuộc vùng nào?

      Cô gái lắc đầu:

      - Chính chị em tôi cũng chỉ được nghe qua thôi! Hình như bên Quảng Tây? Mà ông hỏi làm gì?

      - Tôi có việc cần gặp chúa núi "Đầu Ngựa".

      - À! Nếu vậy ông nên cẩn thận! Tôi nghe thiên hạ đồn Chúa núi "Mã Đầu" dữ tợn như cọp đó! Y bắn Pạc Hoọc như sấm sét, con ruồi bay cũng trúng à!

      Hai bên trao đổi vài lời rồi cô gái chào Võ, Quản, bọn tùy tùng, chó săn phóng ngược lên biên giới. Võ Minh Thần cùng Quản Kình đứng lại bàn nhau tháo cả yên cương hành lý chất sang con ngựa còn lại, đoạn cả hai hì hục đào lỗ chôn con ngựa bị cọp táp chết. Quản Kình thấy chủ khát lại đốt đèn cồn, nấu nước pha trà uống rồi mới lên đường!

      Đang lúi húi sửa soạn, chợt thấy sau lưng hai người có tiếng động lạ, cả hai vội ngoảnh lại giật mình ngạc nhiên thấy một con quái thú dị hình cổ kim không có từ sau mành thác xé nước chồm ra như tên bắn. Con ngựa giật cương, hoảng hồn, Minh Thần thấy con thú sán tới, lập tức nhảy vọt ra chặn lối.

      - Con quái kia đứng lại!

      Con thú cứ phóng, chàng trai vung tay đánh vụt một nhát phản phong.

      Bùng! Kình phong trúng con thú, con thú bắn lùi mấy thước, nhưng gượng được ngay, nó rống lên, nổi hung phóng tới. Chát! Quản Kình phóng tiếp liền một lưỡi đao, xuyên lớp rêu cỏ, đứt bay khóm hoa lan, con thú dùng đầu, bắn tung dao lên trời, nó xé nước chồm tới chỗ Võ Minh Thần, chàng trai đánh "bùng" một nhát phản phong nữa, con thú bật nhào xuống suối, hoa cỏ vỡ tung từng mảng, nhưng nó mạnh tợn hết sức, rống chồm luôn dậy.

      Quản Kình chụp cây súng trường, Minh Thần nhác thấy quát:

      - Chớ bắn! Lạ dữ! Con thú này mình đồng da sắt... coi như con Long Mã, để bắt sống!

      Con thú xé ngang bờ tây, định phóng vào cánh rừng bên, Minh Thần vụt chặn đường, hét:

      - Quái vật! Chạy đâu thoát! Xem mi chịu nổi đòn này không?

      Chỉ nghe "véo" tiếng như xé lụa, rêu cỏ hoa lá trên mình con thú bay xoay tít như gặp cơn lốc, nhưng lạ thay con thú vẫn không hề gì, chỉ thấy nó chồm dựng hai chân sau thở phì một hơi mạnh, vùng đầu, ngoắt quay chạy về phía Quản Kình. Quản Kình áp lại định chém, nhưng Võ Minh Thần vùng hô lớn:

      - Khoan! Đừng đâm chém nữa, tốn sức! Không loại gươm giáo nào chém nổi nó đâu! Đúng là con "Mạc" rồi!

      Ngạc nhiên, Quản Kình hỏi:

      - Con "Mạc" là con chi! Cậu hai sao biết?

      Võ từ tốn:

      - Con Mạc thú này không có cha mẹ, không thai sinh, nó chính là giống khí sinh. Nó thọ chất kim khí dưới đất mà sinh ra, bản chất nó là kim khí nên kim khí không phạm tới được! Miền Trùng Khánh phủ này vốn là vùng có nhiều mỏ, kim khí kết tụ tinh chất thành Mạc thú! Xưa nay hãn hữu, chỉ có về đời Đông Châu có lần xuất hiện!

      Nói xong, bằng tay không, Minh Thần tiến lại, mắt liếc con dị thú. Lạ thay! Con thú này không bỏ chạy, nó cứ giương mắt dòm, nhãn tuyến nó đỏ khé như con mặt cọp ăn đèn săn.

      Lẹ như tên, chàng trai vọt lên lưng, bóp chặt cổ, con Mạc thú ằng ặc ngạt thở, nằm lăn xuống dãy đành đạch, chết liền.

      - Hảo thần lực! Con quái vật tắt thở rồi!

      Quản Kình la to, chạy lại.

      Thấy con thú đã chết hẳn, Quản Kình bèn lập tức nhóm lửa đốt da nó cho mềm ra, xong hai thầy trò lội da, lóc thịt lấy mớ xương lớn rửa sạch bó lại, rồi hai người dắt ngựa, tiếp tục lên đường theo lối mòn xuyên sơn nhằm biên thùy đi miết.

      Rừng già quạnh quẽ, mặt trời đã xuống gần rặng núi phía Tây, cảnh lâm tuyền đang chuyển sang màu đỏ úa, sương lam bắt đầu chặn ngang đèo. Vài tiếng gà rừng eo óe gáy cuối thung... buồn tênh.

      Vượt qua hai cánh rừng, đường mòn xuyên qua một hẻm núi đá, hai người vừa vào đầu hẻm, bỗng nghe có tiếng chó sủa nẻo trước, tiếng rống lên chợt tắt như nức nghẹn.

      Đi mười thước, lại nghe có tiếng người rú, giọng kim nhọn hoắt, như con heo bị thọc huyết, cũng vút cao, rồi chợt tắt, cảnh rừng chiều lại im lìm đến rợn người.

      Võ Minh Thần hơi nhíu mày lẩm bẩm:

      - Tiếng xa lắm! Có lẽ bên kia hẻm núi! Chắc có kẻ bị nạn?

      Quản Kình nhìn quanh bảo:

      - Nẻo trước có một con đèo hiểm trở, năm nào cũng có người ngã xuống vực!

      Hai thầy trò rảo bước qua hẻm núi, vừa sang đầu bên kia, chợt thấy một con ngựa nằm chết dưới chân núi, ngay cửa hẻm. Hai người lại gần, càng ngạc nhiên thấy mõm con ngựa bị bửa đôi, như bửa gáo dừa, ngoác tận cổ họng, máu me bê bết, dòm kỹ, cả bộ óc ngựa biến sạch, chỉ còn cái sọ rỗng.

      Dòm xuống bụng con vật khốn nạn, chỗ ngực bị thủng lỗ lớn, vừa bàn tay người, một dãy mỡ bầy nhầy bê bết máu vắt vung vãi.

      Đi thêm mười bộ nữa, ngay cửa rừng lại một con vật nữa, nhưng là một con chó lớn lông vàng, cũng bị phanh như con ngựa. Hai người ngó quanh. Rừng chiều im lìm, chợt Quản Kình gọi giật khẽ:

      - Kìa cậu Hai!

      Võ nhìn theo tay Kình trỏ, thấy một chiếc hài sảo vắt trên cành cây lòa xòa. Cả hai tiến lại, cây cối um tùm, gió thổi rào cành lá. Quản Kình dắt ngựa đi sau chủ, bỗng giật mình, thoáng bị một bàn chân trên cao thò xuống khều trúng trán, Kình vốn tay gan lỳ, phải kêu "rú" lùi phắt lại, rút dao quắm.

      Võ ngoái lại, cũng giật mình, thấy rõ bàn chân người đu đưa vắt vẻo khều khều. Kình định chém, Võ kịp xua tay, vì trên bàn chân, không có gì cả. Ngó kỹ, thì ra đó chỉ là một bàn chân người đứt tận háng nằm vắt trên mớ giây leo, gió đưa võng, coi không khác người núp trên thò xuống khều.

      Quản Kình trợn mắt thờ phì, thò tay nắm ống cẳng người lôi xuống. Ống chân đàn bà còn nguyên ống quần chẽn đẫm máu, giầy văng đâu mất, sờ cẳng chân còn nóng hổi, đúng vừa lìa khỏi thân thể!

      Võ Minh Thần bảo Quản Kình:

      - Bọn gái đó chắc bị nạn dữ rồi! Nhưng sao không nghe súng nổ, người kêu đầu hẻm? Chỉ có tiếng rú tít xa...? Không lẽ thổ phỉ? Cô gái áo đen võ nghệ cũng khá, nếu gặp thổ phỉ sao không bắn kịp một phát súng?

      Cả hai đều cho quái gỡ, Quản Kình nhìn vết thương đứt nham nhở như bị hàm răng nhọn sắc gặm cắn, người đàn ông tứ chiếng này bỗng nắm lấy vạt áo tiểu chủ, kêu thì thào:

      - Cậu Hai! Không phải giặc cỏ! Trời! Nếu vậy đúng "nó" rồi! "nó"... con quỷ rừng chuyên ăn tim óc mật người ta, ăn cả tim óc loài vật!

      Ngạc nhiên, Võ hỏi dồn:

      - Chú bảo sao? Nó... con quỷ rừng? Chú đã thấy nó?

      Mặt Quản Kình chợt hiện nét kinh hoàng:

      - Chưa cậu! Hai năm trước, tôi có việc đi Hà Giang, thoáng thấy "nó" moi tim một cô gái Mèo... coi hình thù con quỷ rừng đó giống con đười ươi cực lớn, cái đầu nó to bằng cái thúng! Suýt tôi bị nó thấy. Thổ dân bảo con quỷ này biến hiện như cơn gió thoảng, bắt gặp ai, kẻ đó khó thoát. Nó thích nhất đàn bà con gái!

      Câu nói của Quản Kình khiến Võ Minh Thần nghĩ ngay tới vụ bắt cóc Thủy Tiên trên đường Yên Bái Tuyên Quang, chàng trai vùng bảo:

      - Nếu vậy bọn cô gái lạ nguy rồi! Ta thử lên đèo coi! Chú đi sau!

      Dứt lời, chàng lập tức dùng thuật khinh công, phóng qua thung lũng, lên đèo. Nhưng được chừng một trăm thước, lại gặp một cái thây nữ bị xé rách xiêm, đầu bửa đôi, chỉ còn sọ rỗng, người cũng bị khoét thủng lỗ lớn, mất hết tim gan mật, máu me đầm đìa, thây còn nóng hổi, coi hết sức thê thảm! Chàng trai dòm dưới đất thấy nhiều dấu chân lớn gấp rưỡi chân người in nhầu mặt cỏ, cau mày lẩm bẩm:

      - Chân người không to thế này! Đúng dấu đười ươi dã nhân chi đó!

      Bèn vọt đi ngay, tới giữa thung lũng, bỗng nghe có tiếng chó sủa rộ, phía trước, Võ Minh Thần tiến về hướng phát âm, gặp một con suối chảy ngang, chàng trai ẩn sau một thân cây lớn thấy một con chó săn chạy chếch về nẻo Tây, vừa chạy vừa ngoái cổ hếch mỏm sủa, vụt từ sau một lùm cây có một hình thù quái dị bắn ra, rượt bắt con chó.

      Hình này cao độ thước bẩy, giống hình người, hai tay hai chân, lưng bằng cái phản, to trùng trục, đầu gần bằng cái thúng, trán dồ, mắt lồi, mồm rộng ngoác như chậu máu, hai nanh chìa trắng ởn, khắp mình lông lá xồm xoàm, kẻ bạo gan ngó thấy cũng phát ớn.

      - Đười ươi! Con này còn lớn hơn con bắt Thủy Tiên! Có lẽ con "quỷ đười ươi" Quản Kình vừa kể chăng?

      Võ Minh Thần lẩm bẩm. Con quái vật này thân xác to lớn, nhưng chạy nhanh dị thường, loáng cái nó đã đuổi sát con chó săn. Con chó vừa chạy tới gần bờ suối lập tức co cẳng nhảy vọt ra. Không dè con quái vật kia lẹ đến thế, chỉ thấy nó chúi nửa mình, thò vụt bàn tay lông lá ra, đã vồ được ngay cẳng sau con chó, lúc con chó còn lơ lửng trên cao.

      Con chó dãy dụa, kêu ẳng ẳng, con đười ươi to đầu cầm dốc ngược con chó, nó đứng bờ suối, nhe răng cười ré lên, ngoảnh mặt dòm mặt trời đang lặn phương Tây, qua màn sương lam, to như chiếc mâm đồng nung đỏ. Con chó kinh hoàng dãy đành đạch, cố ngoái cổ lên cắn tay đười ươi, con đười ươi thò tay kia vỗ vào mõm chó làm nó khiếp sợ kêu ẳng ẳng.

      Võ Minh Thần thấy con đười ươi cầm con chó lớn như bêu con ngóe, không khỏi phát gớm, nghĩ thầm:

      - Người ta vẫn bảo giống đười ươi thường vồ con mồi, đứng dòm mặt trời lặn mới ăn thịt, nay thấy quả không sai, xem chừng nó chạy nhanh như gió, chẳng biết bọn cô gái kia có người nào thoạt nạn? Nếu thoát, sao không nghe tiếng súng nổ?

      Bèn vận điện công, toan nhảy lại chém con đười ươi quỷ, nhưng Võ vừa chuyển mình sắp phóng ra, xịch nghe tiếng động, từ phía mặt trời lặn vọt ra một con thú dị bốn chân, rêu phong hoa cỏ giây leo đầy mình.

      Trong bụi vọt ra, nó hùng hục nhảy vụt qua suối, đâm thẳng về phía con đười ươi đứng cách năm, sáu sải, nó chồm đứng hai chân sau, rống lên dữ dội, con quỷ sống dòm ra, thấy con thú bốn chân, nó lập tức nhe răng nanh cười ré lên khủng khiếp, tay bêu con chó, đưa ngay lên miệng cắn "bốp" cái, bửa đôi đầu con chó, nó thò tay kia khoắng óc, bóp óc bỏ tộp mồm nhai nhồm nhoàm, lại đưa gáo dừa lên húp chùn chụt, óc trắng bã dính máu be bết hai bên mép, nó lại móc ngực con chó, moi tim gan mật ra, lòng thòng cả ruột non ruột già, nó nuốt chửng tim gan, con chó đánh đu trước bụng nó cắn đứt "phựt" bộ lòng cùng con chó ngã rớt bịch xuống đất, còn dãy đành đạch như đỉa phải vôi!

      Con quỷ sống bửa sọ hút óc moi tim, nuốt chửng, cử động thần tốc, chỉ mất mấy giây, gọn như người ta móc túi lấy kẹo bóc ăn, khiến Võ Minh Thần cũng phải ghê, con thú dị hình long mã xông luôn vào húc, đá, "bịch bịch" trúng bụng con đười ươi, con quỷ sống này nổi giận xông vào, vồ "chát" vào cổ con thú, hai con quái vật cùng vật nhau kêu rống vang động lâm tuyền, con thú dị táo tợn hết sức, húc đầu vào ngực con đười ươi.

      Con đười ươi vừa bóp cổ vừa nhe răng táp ngoạm "chát" trúng mõm con thú vẫn không đứt, nhưng có vẻ đau, nó rống lên vùng đẩy mạnh đười ươi, con thú bắn dội tới hai thước, ngã huỵch, lẹ như chớp, con đười ươi nhảy chồm lại đè lên con thú, con thú chồm dậy, đội cả con đười ươi lên, nhưng con đười ươi cứ kẹp cứng hai bên hông, nhe răng cười ré, bóp cổ.

      Võ Minh Thần đứng coi, chứng kiến con quỷ sống bửa đầu hút óc con chó, đánh với con thú kia, xem chừng thắng thế, chàng trai nhảy vọt lại, quát lớn:

      - Con quỷ đười ươi! Không được làm dữ! Tao chém mày, trừ hại cho dân biên thùy! Thú bốn chân không sợ! Tao giúp mày!

      Đang bóp cổ, con quỷ sống to đầu, nhác thấy bóng người, nó có vẻ thích trí quay dòm, hai con mắt ốc nhồi sáng đỏ tựa đèn pha, nó cười ré lên quái gở, Võ Minh Thần đã xẹt tới đến bên này suối vụt chém tay ra.

      "Véo" soạt tiếng xé lụa liễu đao nhoáng vòng cầu, chém xả xuống đầu con đười ươi nhanh như làn chớp lóe.

      Đang cười ré, con quỷ im bặt, nó vung luôn tay ra gạt luồng sáng bạc, không dè luồng thép mạnh kinh người, "phựt" trúng tay con quỷ đứt luôn hai, ba đốt, ánh thép bổ xuống, con quỷ giật bắn mình cúi vội, thép liếm xoẹt mảng thịt vai sau khi phạt đứt phăng mảng lông tóc bù xù.

      Con đười ươi rống lên, chừng lúc này đã hiểu sức mạnh lạ thường của luồng thép nhoáng, nó vùng bỏ con thú dị, nhảy vút vào bụi rậm gần đấy. Võ chém với liền mấy đường, rào cành lá bờ bụi đứt bay xơ xác, sau mớ lá cành lả tả, chàng trai thoáng thấy bóng con đười ươi chạy biến về hướng Đông.

      Không chậm trễ, Võ nhảy vọt qua suối băng trước đầu con đười ươi dị thú, nhưng đến được chỗ bụi rậm, dòm chẳng thấy dáng con quỷ sống đâu nữa. Chàng trai cứ cắm cổ lao về hướng đó. Được quãng ngắn bỗng nghe tiếng rống sau lưng, chàng vội ngoảnh lại mới hay con dị thú đang hùng hục đuổi theo như gió.

      Chàng trai vùng quát:

      - À con quái này! Mi còn muốn làm dữ với ta sao?

      Con thú chạy xé lên. Võ chạy chậm chân, con thú xẹt vòng qua chàng, nó rống lên dựng chồm cách năm, ba bộ, khiến Võ phải đứng lại, định chém. Lạ thay! Bỗng thấy nó vụt tới trước mặt Võ, rống một hồi rồi nó phủ phục luôn xuống gật gật cái đầu, hai chân trước quỵ. Kinh ngạc, Võ Minh Thần trố mắt nhìn, quát:

      - Quái thú! Mi phục trước mặt ta, có ý chi? Mi không muốn ta rượt giết con quỷ đười ươi đanh ác kia?

      Rất lạ, con dị thú lắc đầu nhai khan, gầm gừ, Võ ngó thẳng mặt nó, hai con mắt sáng quắc xếch nhọn ẩn giữa lớp rong rêu cành là rườm rà, quát:

      - Vậy mi muốn ta đuổi theo con quỷ?

      Như hiểu tiếng người, con thú này gật đầu, phát ra những tiếng "hích, hích", ra vẻ mừng rỡ hết sức.

      Càng lấy làm lạ, Võ Minh Thần đăm đăm ngó con thú, vẫn chẳng hiểu nó là loài gì, nhưng vốn sống từ nhỏ tại sơn lâm, chàng trai đã rõ tính linh mẫn của nhiều giống vật, nên lập tức bước lại thử cưỡi lên lưng nó.

      Rất nhanh, con dị thú này kêu lên mấy tiếng chồm luôn dậy hếch mõm, quay đầu về phía Bắc chạy nhanh như tên bắn. Bình sinh, Võ chỉ thấy con lừa ốm của sư phụ là chạy mau nhất, không ngờ con dị thú này sức phóng không thua, bên tai gió thổi vù vù, chàng trai dòm quanh, chẳng thấy bóng quỷ đười ươi đâu, thung lũng rừng cây quạnh vắng, ánh chiều xiên khoai, đang ngả màu đỏ úa, thỉnh thoảng một vài con gà rừng bay xào xạc, chàng trai càng lạ khi thấy con thú không chạy về hướng Đông là hướng con đười ươi vừa lùi, mà lại đưa về hướng Bắc.

      Thoáng đã vượt khỏi thung lũng tới một rặng núi đá, có con đèo nguy hiểm Quản Kình cho hay. Con dị thú chạy thốc lên đèo. Đường đèo quanh co gập ghềnh khúc khuỷu rất khó đi, thường người ngựa phải đi từng bước, nhưng con thú có tài vượt núi đá giỏi như sơn dương, giây lát đã lên tới ngọn.

      Võ Minh Thần ngồi nhấp nhổm trên lưng con thú, thấy lưng nó nhô như bướu lạc đà. Chưa hiểu nó tới đây làm gì, chợt con thú đi ngừng lại. Rồi nó đi chầm chậm, rón gót, hình như tránh gây tiếng động. Được quãng ngắn, bỗng nó đứng yên, đảo dòm quanh, kêu "hích, hích" nho nhỏ, rồi nó quỵ hai chân trước. Hiểu ý, Võ đưa mắt nhìn quanh.

      Ngọn đèo cao chót vót, bốn bề quạnh quẽ đìu hiu, ngay bên phải là vực sâu hun hút, xa xa rừng già đồi núi điệp trùng chạy tít qua biên địa mờ sương, bên trái, vách đá chập chùng, cây cỏ đá phiến rong rêu, nước chảy róc rách, buồn tênh.

      Bỗng chàng trai giật mình thấy một xác con chó mực nằm chết quắp dưới chân một khóm hoa dại lá rũ xanh um, Võ tiến lại coi, mới rõ con chó này cũng bị bửa đầu, moi tim như mấy con trước. Võ nhìn quanh, ngọn đèo cao u tịch, hoang vu, đang quan sat, bỗng nghe mơ hồ có tiếng đàn bà kêu rú đâu đây, vẳng chìm khuất không khác gì con heo bị chọc tiết.

      Rồi lại có tiếng cười chờn vờn, ma âm như từ ruột núi gió đèo "ảm" ra. Võ dòm chỗ con chó nằm chết, thấy có vết cỏ dập bèn thử rẽ vào, qua một phiến đá, chợt thấy một chiếc hài sảo vương bên kẹt, chàng nghĩ thầm:

      - Chắc con quỷ đười ươi bắt người vào đây? Lạ thật! Không thấy vết máu!

      Bèn lẳng lặng vượt qua, chỗ này ngọn đèo đá mọc nhấp nhô, cây cối rườm rà, rêu trơn trượt, Võ leo lên tụt xuống, nhắm hướng Tây ngọn đèo vượt, rặng núi này rất lớn, chạy xa tít, nhưng Võ vượt được năm, bảy chục bộ thì hết lối, trước mặt là một cái vực sâu hút, mù cát bụi, rộng đến hơn hai mươi bộ, bên kia là một ngọn núi còn cao hơn bên này chút. Võ men theo dọc bờ vực, chừng vài mươi bước, vực thắt hẹp lại năm, sáu bộ, bên kia vực có một khóm cây xòa cành hoang dại, không một dấu người qua lại.

      Đang tần ngần, bỗng lại nghe tiếng đàn bà rú lê thê mơ hồ hư thực, nhưng hai tai thính của Võ đã định được hướng phát ra, xế bên "kia ngọn núi đá". Bèn nhảy vèo sang, vượt chếch lên đá phiến chập chùng, cách ngọn chừng năm, sáu thước cao, sức nghe rõ tiếng đàn bà rên rỉ, tiếng khóc tỉ tê, giọng sơn cước líu lô thống thiết đứt quãng!

      - Chúa... sài quẩy... ăn thịt... sợ...

      Lại có tiếng ré lên cười ma âm, giọng chờn vờn như cào mang tai, rõ tiếng Thổ nói Quan Hoa:

      - Ha há há! Sài quẩy cho đi thiên thai... Cây cao bóng mát đời đời...

      Giọng lơ lớ rất khó nghe, âm phát giữa khu cao sơn hoang tịch, tưởng không phải cõi dương, khiến Võ Minh Thần càng lấy làm lạ. Võ bíu mỏm đá, leo lên ngọn núi, vừa nhô đầu ghé mắt dòm qua kẻ lá, chàng trai bỗng giật mình ghê tởm trước một cảnh tượng gớm ghiếc vừa đập vào mắt.

      Bên kia mỏm đá là một khu lòng chảo rộng hơn một thước vuông hình cổ chày thắt, cây nhỏ giây leo hoa dị mọc đầy kẹt đá, hai, ba phía vách dựng thẳng về nẻo cuối lòng chảo có ba, bốn cô gái đứng ngồi không cử động như mấy pho tượng, xiêm y rách bươm, mắt mở to còn in rõ nét khiếp sợ khác thường.

      Xế trước mặt bọn này, có một cô gái đứng co ro, thân hình gần như lõa thể, vẻ sợ cực độ, hai tay chới với, đối diện cô gái này, có một hình thù gì đó, nhưng hình này bị vách đá lưng chừng che khuất, bỗng cô gái này lùi nửa bộ, từ sau thò ra một bàn tay gầy guộc như xương xẩu, đỏ khé chẳng khác bàn tay sơn son.

      Lộ thêm một quãng ống tay cũng gầy đét như ống sậy, coi giống bàn tay người, khác năm đầu ngón đều có vuốt dài cong vút nhọn tựa năm mũi dùi, bàn tay sơn này túm nghiến lấy ngực áo cô gái kia kéo "soạt" cái, rách bung, vuốt tay cào cào nhẹ từ trên mặt cô nàng xuống lòng ngực căng phây, rồi một bàn tay nữa, hai bàn tay vuốt vuốt quều quào trên làn da mịn, làm cô gái nạn nhân teo dúm người lại cuống cuồng đưa tay gỡ, miệng kêu líu lô, chợt năm ngón tay nhọn cào cào vào chỗ tam tinh, năm ngón cào ngay khoảng tim dưới gầm nhũ.

      Cô gái không bị điểm huyệt, bị móng vuốt cào tam tinh, nàng cúi dòm, sợ run bắn người lên có lẽ đã hiểu rõ số phận sẽ dành cho, nàng liền hất hai bàn tay đó ra vùng chạy. Nhưng bàn tay này lẹ như chớp, chỉ vờn cái đã túm được búi tóc cô gái kia. Vì nàng chạy mạnh búi tóc sổ tung thành dòng móc ngay đầu vuốt.

      Nó kéo riết nàng lại, xoay mặt, vuốt vai, giữ cứng, mười móng tay ấn tam tinh, lồng ngực, cô gái dãy lên đành đạch, kêu ré. Võ Minh Thần tưởng nó xuyên thủng ngực, nhưng không, móng vuốt chỉ cắm nhẹ vào da thịt, cô gái này chỉ kêu ré lên tiếng rồi im, thân hình cũng bất động, chỉ thở dốc, hai con mắt mở to, tay buông thõng. Có tiếng khó chịu gay gay phát ra:

      - Chúa sài quẩy ban ân lên non Bồng, hưởng lạc đời kiếp trên núi Vu! Tu ngàn năm chưa đến được Bồng Lai! Nhìn mắt chúa sài quẩy, nàng sẽ thấy cửa non Bồng, núi Vu!

      Cô gái bỗng nhếch miệng cười đê mê, kiếng chân, rón gót, rướn cong mình, đưa hai bàn tay lên vuốt vuốt nhẹ bàn tay đỏ, lồng ngực phập phồng, rùng mình liên hồi, vẻ đê mê quải gỡ pha trộn lẫn đau đớn, cô gái kêu lên khe khẽ, suýt xoa, nhưng ánh mắt càng đờ ra như đã mất tinh lạc, nàng từ từ bước tới, bàn tay đỏ cầm tam tinh gần nhũ cũng chầm chậm khuất dần, khuất dần, nháy mắt, chỉ còn thấy giòng tóc cô gái sơn cước bay lộng lấp ló, giữa những tiếng rên rỉ nho nhỏ, đứt quãng, không hẳn vì đau đớn, cũng không hẳn mê cuồng.

      Võ Minh Thần lấy làm quái gỡ, nhoài hẳn lên, dòm sang, nhưng vách thắt cổ chày che khuất hẳn, chỉ còn thấy mấy cô gái kia đứng ngồi như tượng, thân không cử động, nhưng hai con mắt vẫn liến láo dòm xem cảnh tượng đang diễn ra, vẻ kinh hoàng hết sức.

      Thình lình, từ sau vách khuất, có tiếng ré ma âm nhọn hoắt đến rợn ốc, nghe giống hệt tiếng Võ vừa nghe từ cuối thung lũng, tiếp liền có tiếng đàn bà rú kinh hồn, kéo lê thê chẳng khác con heo bị chọc huyết, rõ ràng kẻ rú đang chịu đau buốt cực độ!

      Chưa hiểu chuyện chi, Võ Minh Thần nghĩ thầm:

      - Đúng nó moi tim cô gái rồi! Lạ thật! Sao không thấy cô gái chủ kia đâu? Hay đã bị hại?

      Bèn vận hết nhân điện, vận khinh công nhảy vọt qua lòng khu chảo, bíu lưng chừng vách thắt nương cành lá lòa xòa, ghé mắt dòm. Cảnh tượng phía trong đập vào mắt. Chàng trai xuýt bật kêu lên kinh hoàng vì cảnh tai quái lạ lùng chưa hề thấy.

      Cuối lòng chảo, dưới tàn cây xòa, cô gái nạn nhân người uốn cong bán nguyệt đang dãy đành đạch như con thạch sùng bị chặt đứt, và ngay vách đá rêu phong xanh mướt, tranh tối tranh sáng, có một hình thù cao ngót hai thước Tây, coi rất quái dị, hình thù này đỏ hỏn như đứa bé mới đẻ, gầy guộc xương xẩu, chân tay quều quào lêu nghêu như ống sậy, đặc biệt hai bàn tay đỏ mọng, coi giống con muỗi, vừa uống máu no soi trước ánh đèn.

      Quái nhân gầy, đỏ này đầu tóc bù xù như tổ quạ, kỳ dị nữa là râu tóc, lông ngực trắng phơ rõ đang chuyển sang màu đỏ mọng râu ngô, dòm kỹ càng cổ quái. Hình thù này, mũi quặp như mỏ con vẹt, mồm nhọn, trán đồ, hai con mắt đã mù một, mắt còn lại tròn xoe trố đỏ như tiết lộ hung quang, nó nhe hàm tăng trắng nhởn kêu ré, hệt con thù đói vớ được mồi ngon, nhác coi rõ hình thù ma quỷ mang lốt người.

      Võ Minh Thần vụt hiểu nó đang làm gì, chàng trai nghĩ thầm:

      - Con quỷ đỏ hỏn này với con đười ươi có liên hệ với nhau chăng? Coi hình như nó đang dùi xương tủy nạn nhân. Nó hút tủy não, hay nó hấp luyện yêu công? Nghe tôn sư dạy: Trong thiên hạ có mấy phái ma giáo ma quỷ vẫn chuyên phép "hấp tinh đạo khí" người ta để hoàn nguyên tinh lực, kéo dài cuộc sống, con quỷ mỏ vẹt này thuộc loại đó chăng? Phải cứu mạng mấy cô gái xấu số này ngay mới được.

      Bèn vận điện công, thò tay định chém, nhưng đã muộn, một cô gái đã ré lên tiếng cụt, thân hình chợt bắn vọt sang bên kia, giáng "bịch" vào vách đá nằm rũ gục, mặt mày da thịt xám ngoét, từ tam tinh tuệ nhãn, trái tim, máu rỉ, tím xỉn chết tươi.

      Tự nhiên, mạch máu sôi sục, Võ Minh Thần suýt chém vụt tay, nhưng kịp thời kìm lại. Óc tò mò thôi thúc, chàng trai cố nén để coi con quái mũi vẹt dở trò gì nữa.

      Đã thấy nó lè lưỡi liếm tận chỏm mũi mồm nhai khan chóp chép, con mắt sòng sọc tia đỏ khé, nó cười thé nhọn, dòm mấy cô gái đứng ngồi lố nhố trước mặt:

      - Hé hé "gái rừng" tinh lực khỏe hơn đàn ông. Một trăm đồng nữ, chúa sài quẩy hoàn nguyên, một trăm đồng nữ chúa sống bằng quy tượng.

      Nó lắc lư quều quào đi một, hai bước nghiêng ngó quét lia nhãn tuyến một vòng, thò bàn tay gầy guộc vẫy vẫy cô gái trẻ đứng sững xế bên. Rào cơn gió thoảng, tự nhiên cô gái này vùng cử động. Nàng dáo dác chực chạy nhưng vừa ngoảnh mình đã như bị một sức vô hình kéo nghiến lại, quái nhân mũi vẹt túm lấy bờ vai, dòm tận mặt bỗng ngay khi đó, có tiếng hú quái đản vọng lại, quái nhân cười ré lên, ngửa mặt hú một tràng, đẩy thốc cô gái trẻ về chỗ cũ.

      Tiếng quái đản vọng quay van vát, rõ ràng theo vật chạy từ dưới thấp lên cao, ập tới xế sau lưng Võ Minh Thần. Chàng trai vội rời chỗ vọt ẩn sang bên, sau một lùm cây rậm, bỗng nghe rào cành lá, tiếng chân thình thịch đổ tới rất mau, rồi một hình thù quái hiện sừng sững trên mỏm đá phía Đông. Con quỷ đười ươi vừa nãy, mép còn đỏ lòm máu tươi. Nó nhảy xuống lòng chảo, chạy vù vào chỗ quái nhân mũi vẹt, kêu "hích hích" tay chỉ trỏ, làm điệu bộ, chợt nghe quái nhân cười, phát tiếng nhọn hoắt:

      - Ánh sáng chém mày đứt ngón tay? Gặp chúa, chúa sài quẩy bắt cả ánh sáng. Phần mày kìa.

      Con quỷ đười ươi ngoái dòm, thấy cái thây ma đàn bà, nó nhe răng cười rú, nhảy sổ tới liền.

      Rồi hình như nó không hài lòng ngon miệng thấy cái thây này "nhạt, ươn" vì mất hết tinh huyết, nó quay dòm mấy cô gái "tươi" kia mồm chóp chép, bất thần nhảy sổ tới thò bàn tay lông lá vồ luôn cô gái vừa bị đẩy ra, cô gái khẽ rú lên khủng khiếp vùng vẫy kêu la. "Bịch" quái nhân thò tay túm lấy vai con đười ươi đẩy nó vào vách, quát:

      - Chưa đến lượt mày. Chúa sài quẩy chưa ăn. Vào lôi gái chủ ra đây.

      Con đười ươi đập đầu trúng vào vách, nó xoa đầu, thở phì phì lừ đừ đi vòng sau mấy cô gái. Nó nghiêng ngó dòm, đưa tay bẻ rắc cành xòa đi vào. Mới hay chỗ này có một cái hốc, cành lá che khuất, thoắt con đười ươi đã bước ra, lôi theo một cô gái trẻ đẹp hết sức.

      Chừng đã triệt công, á khẩu, cô gái bị con đười ươi lôi ra trước quái nhân không chống nổi. Quái nhân phất tay một cái, cô gái vùng chớp mắt, dòm con đười ươi, miệng hét lớn, chửi rủa om xòm.

      - Hà hú... gái rừng đẹp thơm lắm! Ngoan, chúa sài quẩy ban ân cho nàng! Hà hà!

      Quái nhân kéo cô gái chủ lại, móng vuốt lướt nhanh dọc thân áo chẽn, bung luôn hàng khuy nút, để lộ lồng ngực trắng ngà căng phây nét nhũ, phập phồng sau mảnh lụa nịt đen mong manh. Cô gái công lực chẳng còn, phản ứng của nàng chừng càng khiến quái nhân thích thú, rộ lên tràng cười the thé ma quái.

      Nấp ngoài, Võ Minh Thần chứng kiến từ nãy giờ cảnh quái nhân mũi vẹt "hấp sát" nạn nhân, vụt tưởng lại lời nghĩa phụ kể chưa trọn vẹn về cái chết thảm thê của mẹ, lòng chàng sôi sục mối căm phẫn, bi thương, xen lẫn cả nghi vấn. Thấy cô gái chủ sắp bị hại đến nơi, Võ quyết định ra tay, quát lớn:

      - Không được hại người!

      Cùng lúc quăng mình xuống, tay thả luôn ngọn phi đao liếm "xoẹt" trốc đầu quái nhân, tay kia đánh ra một nhát phản phong hất bắn con đười ươi vào vách đá, đổ dụi.

      Đang say mồi ngon, thình lình bị phá đám, quái nhân vội đảo tránh lưỡi thép, một tay ôm chặt cô gái sơn cước, tay kia múa tít một sợi xích có gắn lưỡi thép hình trăng khuyết đánh trả.

      "Chát!", phi đao quật trúng mảnh trăng khuyết tóe lửa, quái nhân tê chồn tay, sợi xích văng mất, y lật đật buông cô gái vận công đánh ra một phát phản phong. "Bùng!" cái nữa, ngón đòn gió chạm phải kình lực phóng ra của Võ Minh Thần, sức phản chấn khiến quái nhân bật lùi mấy bộ, cảm thấy khí huyết nhộn nhạo, choáng váng muốn sụm xuống.

      - Hừ! Chúa Sài quẩy moi tim óc, ăn thịt ngươi... Hà hú!

      Quái nhân hú lên man rợ, vuốt chờn vờn như sắp xông tới, song y chỉ dọa dẫm, làm điệu bộ. Minh Thần thu liễu đao, quát chìm:

      - Ngươi là ai, sao dám bắt gái luyện tà công, làm điều xấu xa bại hoại?

      Miệng nói, tay Võ phát nhẹ một luồng kình phong đẩy cô gái chủ lui ra sau lưng đề phòng quỷ mũi vẹt giở trò, quả nhiên y chợt chúm mồm thổi "phù" một hơi dài, tay vuốt thả "bóp" một trái khói mù nhân tạo, nhảy vọt chếch sang bên hữu, nháy mắt cả khu lòng chảo đã bị mờ mịt khói, chẳng thấy gì. Sợ cô gái bị hại, Võ vừa bế huyệt chống độc khí, kéo luôn nàng ấn ngồi xuống sau một mô đá, tay kia thả vụt liễu đao chém nhầu theo địch thủ.

      - Hà hú! Muốn tìm ta hãy đến Mã Đầm Sơn... Hà hà! Chúa Sài quẩy sẽ đợi mi ở đó! Hà hú!

      Tiếng hú lê thê, kéo dài hút chìm sau vách đá. Minh Thần dùng phản phong xua khói, khí độc tanh khẳm rồi co chân nhảy vọt lên mỏm núi đảo mắt dòm quanh. Bóng quái nhân đã mất dạng, ngó lại, cả con quỷ đười ươi cũng trốn đâu mất. Không còn dưới lòng chảo.

      Võ nhảy xuống chỗ có mấy cô gái sơn cước đứng ngồi, chỉ còn thấy ba nàng trơ như gỗ, còn một nàng trẻ nhất đã biến theo quái nhân mũi vẹt. Võ xua nốt tà khí, giải huyệt cho ba nàng, chợt cô gái chủ chạy tới thỏ thẻ:

      - Con quỷ son... trốn mất rồi! Trời ghê gớm quá. Quỷ két, quỷ đười ươi... nanh ác.

      Chàng trai vội giải huyệt, quy hoàn võ công cho cô gái lạ, cả bọn còn bốn nàng chưa dứt kinh sợ, cùng chấp tay tạ ơn cứu mạng. Hỏi mới hay cả bọn đang rượt con dị thú tới đầu thung, bỗng thấy con quỷ đười ươi nhảy ra vồ, chưa kịp nổ súng bỗng nghe "bóp bóp" từ trong làn bụi khói đỏ bay ra, tới đâu hít phải tứ chi bủn rủn, mắt hoa, đầu váng, rớt hết súng dao, ngựa chạy tán loạn, người ngất đi chừng tỉnh đã thấy nằm trong lòng chảo này, trước mặt con quỷ hai chân mõm két, một mắt, cũng không biết có kẻ nào chạy thoát chăng? Cô gái lạ cùng mấy nàng tùy tòng kể qua tai nạn, lòng vẫn bàng hoàng chưa hết kinh dị, cảm tạ chàng Võ hết sức. Võ cũng kể cho mấy nàng nghe chuyện con dị thú, ai nấy càng cho là lạ. Võ Minh Thần thấy mặt trời sắp gác núi, bèn từ tốn bảo:

      - Nay con quỷ mũi vẹt và con quỷ đười ươi đã chạy xa, cô nương mau xuống đèo, còn rời khỏi vùng này trước khi trời tối, chớ nán lại có khi mang họa vào thân.

      Đoạn cùng nhau đi thu nhặt xác chết, kiếm quanh khu lòng chảo được hai, ba cái thây nữ trần xám ngoét, tim óc đều mất, coi cực kỳ thê thảm. Xong đưa nhau ra đường mòn lần xuống chân đèo Nam, lên tiếng hú gọi vang động rừng chiều.

      Bỗng thấy hai nàng hầu gái sống sót cưỡi hai con ngựa chạy tới rồi lại thêm hai con chó săn nữa, Quản Kình từ phía thung lũng dắt ngựa tới chừng hay chuyện mừng hết sức, lập tức giục lên đường. Cô gái lạ cùng gái tùy đào hố chôn xác người bất hạnh, xong vòng tay, thánh thót bảo:

      - Vùng thiếp ở cách đây vài giờ ngựa, nay trời đã về chiều, xin thỉnh ân nhân quá bộ tới chơi, cho thiếp được tạ ân sâu.

      Võ Minh Thần chắp tay từ tạ, dịu dàng:

      - Cứu nhau lúc hoạn nạn là việc thường của kẻ xuôi ngược rừng núi, cô nương bất tất phải bận tâm. Tôi rất muốn đưa cô nương về tận nhà, tiếc tôi đang có việc phải đi luôn, không thể trì hoãn được, dám xin miễn thứ. Mời đôi ba lần không được, cô gái lạ cùng mấy cô gái tùy sống sót đành chấp tay bái biệt, lưu luyến chẳng muốn rời, hỏi họ tên, Võ khiêm tốn không cho biết.

      Võ cùng Quản Kình đưa mấy nàng xuôi hết con thung, mới chia tay, đoạn hai thầy trò dắt con ngựa độc nhất, nhắm mạn Bắc biên thùy đi miết.

      Hoàng hôn đổ xuống biên địa rất mau, đồi điệp trùng, rừng già rậm rạp tứ bề hoang dã không một bóng người qua. Lối mòn xuyên sơn, cỏ mọc tới đầu người có lẽ từ nhiều tháng nay, không mấy ai đặt chân tới.

      Thỉnh thoảng lại có tiếng gà gáy chiều eo óc buồn tênh càng thêm đậm nỗi sầu lữ thứ, nghĩ lại chuyện quái ác vừa xảy ra, cả hai thầy trò đều tiếc không triệt được hai con quỷ sống, nhưng lại mừng biết được con quỷ mũi vẹt có dính dấp tới "Núi Đầu Ngựa".

      - Không ngờ gì nữa, chú Sềnh chỉ trối được mấy tiếng đó, chẳng rõ chú bảo tìm Chúa Đầu Ngựa để làm gì? Ân nhân hay thù địch? Nay con quỷ mũi vẹt nanh ác tàn khốc, lại cũng ở núi Đầu Ngựa, vậy chắc Chúa Đầu Ngựa là phường quỷ quái ma đầu đã giết hại song thân ta rồi. Cứ lời cha ta thốt trước khi bị bắn trộm, lối sát hại mẹ ta phải chịu, cũng tựa cảnh ta vừa thấy trên ngọn đèo, rõ ràng cũng bầy quỷ rừng đồng tông. Vái trời cho sớm gặp cừu nhân, tìm được nguồn gốc cũ.

      Mải suy nghĩ, trời sầm tối lúc nào không biết, trông xuống chân, ngọn cỏ phân mao đã nhòa trong bóng dạ thần, Quản Kình kiếm lối xuyên Tây, đưa tiểu chủ tới bản Mèo trên núi.

      Vừa tới đầu bản nghe "tách" một phát tên nỏ bay vút bên tai cắm phập vào thân cây, cả hai giật mình lùi lại, Quản Kình nói lớn:

      - Ai bắn đó? Khách vượt biên tới trọ nhờ đây! Quản Kình Yên Bái đây.

      - A, cái ông Quản đồn điền!

      Có tiếng bật kêu mừng rỡ, rồi hai, ba người Mèo lực lưỡng xách súng hỏa mai, cung nỏ chạy ra, thắp lên một ngọn đuốc lớn. Ba người đàn ông Mèo lực lưỡng, dẫn đầu là một chàng trai vạm vỡ cúi chào lễ phép, Quản Kình ngạc nhiên hỏi ngay:

      - Sao dạo này canh gác dữ thế? Thổ phỉ bên Tàu sang?

      Chàng trai lắc đầu:

      - Cái ông Quản không biết mà. Hai tối liền, quỷ núi hiện về bắt đàn bà cô gái ăn thịt mà. Nó bắt năm, sáu người cô gái rồi.

      Quản Kình quay nhìn chủ, bảo chàng trai Mèo:

      - Đây là cậu hai chủ tôi. Ông Phìa có nhà chớ?

      - Dạ!

      Chàng trai lập tức cầm đuốc đưa thầy trò Võ Minh Thần vào bản đến một căn nhà dài, lố nhố có nhiều người, chừng đang họp bàn chi đó. Một ông già Mèo trạc lục tuần, mặc chiếc áo dạ cứt ngựa, chít khăn rế, coi quắc thước, ra đón, thấy Quản Kình lão có vẻ mừng hết sức, Quản Kình giới thiệu tiểu chủ, lão Mèo rước vào trà nước, truyền người nhà sửa soạn ngay cơm rượu đãi khách. Thấy dân bản tụ đông, vẻ lo buồn hết sức, Võ Minh Thần vội bảo Quản Kình trấn an, đoạn bảo ông già Phìa - đứng đầu địa phương:

      - Bản đèo heo hút, cây rậm tối tăm, nhà ở cách nhau, rất khó canh giữ.

      Con quỷ này nhanh như cắt, ẩn hiện khôn lường, tráng đinh có canh quanh bản, cũng không ngăn nổi, mà có thể chết như chơi. Tốt nhất cứ cho tạm tập trung lại quanh một, hai nhà dễ bảo vệ hơn. Tiện đây, Quản Kình sẽ giúp một tay.

      Ông Phìa khen phải, lập tức bảo người hang động kéo tới quan nhà lão ngủ tạm phòng bất trắc, dắt luôn cả gia súc theo. Dân tuân lệnh, chỉ hơn nửa giờ sau đã tập trung đầy mấy căn nhà khu ông Phìa ở, nhà ông Phìa có hai cô cô gái chưa chồng, ông Phìa cho cô gái hang động đến cả đây cho tiện. Quản Kình giúp cắt đặt trai tráng thay phiên gác bí mật mấy phía bản quanh mấy căn nhà, còn tất cả đóng cửa để trống.

      Đêm đó, trăng lên vàng bệch. Sương chăng quanh đồi núi như dải "voan" mờ xám, biên thùy lạnh ngắt. Bốn bề quạnh quẽ, vài tiếng hoẵng kêu ngơ ngác dưới thung lũng, buồn xa xăm.

      Võ Minh Thần qua nhiều cuộc hành trình chiến đấu, cơm no, rượu say, đắp chăn nằm bên mâm đèn ngủ vùi lúc nào không biết. Quản Kình bị chủ nhân ép hút mấy khói, nằm một góc, gãi rồi cũng chợp mắt mất.

      Dân hang động hầu hết đã ngủ thiếp, bọn gái Mèo cũng vậy, nhà chỉ còn mấy chàng trai canh gác cũng gục nốt, sau mấy canh yên ổn, ai cũng cho là quỷ đã đi miền khác.

      Chỉ còn ông Phìa già nằm thao thức bên ngọn đèn dầu, vừa tiêm vừa kéo liên miên.

      Lão vẫn chưa hết kinh dị về mấy cái thây nữ quăng ngoài máng nước cuối đông, mấy cái thây nát bấy, bị gặm nham nhở, đứt cả nhũ hoa, coi phát sợ.

      - Tai họa! Tai họa! Cổ kim hãn hữu, quỷ về bắt gái, lạy trời nó đi phương khác!

      Bỗng một cơn gió lùa kẽ liếp mang theo một mùi hôi thối lẫn hương hoa rừng đêm. Một thứ mùi khăm khẳm như mùi phân cọp tạt vào mũi làm ông Phìa nghĩ ngay tới chuyện "ông Ba mươi" rình bắt heo dưới sàn, vẫn nằm, lão nhè nhẹ ngóc cổ lên dòm.

      Người Mèo chuyên ở trên đồi cao, tạo riêng "một thế giới trên mây mù" cách biệt với các sắc dân khác, nên nhà cửa cũng không giống dân Mán, Thổ, Mường... Các sắc dân này ở từ sườn đồi xuống thung lũng, nhà sàn hai tầng cao lớn như nhà lầu dưới xuôi, gia súc dưới gầm sàn.

      Còn nhà Mèo lại từa tựa như người Kinh dưới xuôi vách đất, đắp "bờ bò" đất dày, nhà Mèo cũng thấp, vách cũng đắp đất dưới chân để chống khí núi gió lạnh sương mù, sàn nhà chỉ cao hơn thước, làm chuồng nuôi heo, gà vịt... cửa sổ có chỗ đan mắt cáo, có chỗ để trống dùng liếp che mùa lạnh đêm sương sa.

      Cửa sổ quanh buồng ông Phìa đều đóng kín mít, nhưng từ trong nhìn qua cửa thông, thấy khu cửa sổ hậu, xế giữa, có một cái cửa rộng che liếp. Lúc này, trăng đã lên mờ bệch, bỗng ông Phìa rởn gáy, thấy rõ một cánh tay lông lá to như một cái cột thò vào nhấc liếp để sang bên. Rồi một cái đầu thò vào.

      Một cái đầu to như cái thúng, trán dô, mồm ngoác, hai con mắt lồi sáng tựa đèn pha láo liên dòm vào nhà, thấy trong nhà người người ngủ kỹ, đàn bà con gái nằm mấy dãy bên bếp than hồng suốt từ đầu buồng bên kia ra đến ngoài, nó nhe răng cười nhăn nhở. Sương mờ tẩm trăng lờn vờn táp vào cái mặt quái đản coi càng phát gớm, ông Phìa lạnh xương sống, quơ vội cây nỏ tạ treo đầu ván, bắn "tách" phát, "phập" trúng mặt quái.

      Nó quay mặt dòm vào buồng, tay rút mũi tên, răng nhe trắng nhởn, hai con mắt chiếu chung quanh. Ông Phìa này vốn có võ, bắn nỏ liên châu, giương bằng khuỷu tay, vẫn ngồi trên ván thả liền hai, ba mũi tên cắm trúng mặt, cổ con quái, chân khều mạnh Quản Kình.

      Kình vùng mở mắt thấy ông Phìa bắn nỏ, biết có biến, lăn ào xuống sàn dòm ra và chỉ thoáng thấy cái đầu to loáng hiện giữa khung cửa, đã nghe tiếng đàn bà con gái ré lên khủng khiếp nhà ngoài.

      Võ Minh Thần bò nhổm dậy, phẩy tắt ngọn đèn ẩn góc buồng. Quản Kình, ông Phìa quơ súng vọt ra ngoài, bọn đàn ông gác đàn bà con gái choàng dậy la hoảng nhốn nháo rầm rập:

      - Có bàn tay lông lá vồ người, nó chụp qua vai tôi...

      - Quỷ đười ươi! Con quỷ đười ươi! Tôi thấy thoáng bóng nó nhảy vào.

      Cả nhà xôn xao, nhưng chẳng còn hình thù nào, cửa sổ vẫn mở toang, ngoài kia sương trắng mịt mùng cành lá. Quản Kình cùng bọn ông Phìa vọt ra, chỉ dòm thấy bốn bề vắng lặng như tờ, vài tiếng hoẵng ngơ ngác từ cuối thung lũng xa sâu dâng lên mơ hồ.

      Kiểm điểm lại, ai nấy thất kinh, thấy mất cô gái Mèo mười sáu tuổi, mặt ai nấy tái xanh. Ông Phìa trợn tròn mắt, vừa định hô tráng đinh xuống vườn nương sục sạo, bất thần nghe có tiếng khàn rè chờn vờn hắt vào:

      - Phìa! Phìa! Phìa Mèo khôn, gom đàn bà con gái lại, không thoát nổi đâu. Đêm nay Chúa Sài Quẩy đến bắt con gái Phìa, đem nộp một đứa, Chúa Sài Quẩy đi động khác, không nộp, Chúa cho quỷ đười ươi bắt hết con gái động ăn thịt.

      Tiếng quái gở chẳng rõ âm hướng nào, Quản Kình ra hiệu dụi lửa, chỉ còn ánh than hồng, Kình rón rén lần quanh nhà dòm ra, không thấy gì, các chàng trai tráng chia nhau phục chĩa súng hỏa mai, cung nỏ ra, bỗng rào một cơn gió thốc lại, mùi hôi hám sực mũi, nghe tiếng con gái rú lên khủng khiếp sau nhà rồi im lìm đến rợn người, ai nấy nhìn nhau xanh mặt.

      Hàng trăm cô gái sợ hết hồn, chúi cả vào buồng của ông Phìa, ông Phìa thủ tên nỏ canh chừng, không ai lên tiếng, chỉ đợi quỷ ló dạng là bắn, chợt nghe tiếng quát lại cất lên, lần này nhọn hoắt như dùi tai người:

      - À, tại thằng Phìa này dám trái lệnh Chúa Sài Quẩy! Tao sẽ cho bắt hết gái động này!

      Lời vừa dứt, bỗng từ trong trăng sương mù mịt, có một bóng mặc váy lao vọt qua khung cửa sổ trống nằm sóng soài cạnh bếp lửa. Lẹ như chớp, Quản Kình bắn luôn một phát về phía đó. Lập tức có tiếng rú xa xa. Kình nổ phát nữa, bảo mọi người:

      - Con quỷ trúng đạn rồi, cứ nấp kỹ, thấy bóng bắn liền. Nhớ truyền nhà nào ở nhà đó, không ai được rời chỗ.

      Ông Phìa lôi cái thây vào xó khuất, xúm coi. Cái thây nữ, xiêm y rách bươm, đầu bửa đôi, ngực thủng, rỗng tuếch, tim óc mất hết. Chính cô gái Mèo vừa bị mất tích. Ai nấy rởn óc, Quản Kình nổi giận quát chửi inh ỏi, thách con quỷ. Có tiếng chờn vờn:

      - Hé hé...é. Tao vào đấy bắt hết đàn bà. Bọn mi tưởng súng ống cung tên ngăn nổi Chúa Sài Quẩy một mắt?

      Lời dứt, bỗng nghe tiếng "vút" một vật to như trái cầu bay vào, ông Phìa cùng hai, ba trai tráng trương luôn hỏa mai, nỏ bắn luôn. Đoàng! Tách! Vật lạ vỡ tan rớt xuống bếp than hồng, "bùng" lên một cụm khói lớn, rào cơn gió khuya, mùi thơm hắc, mùi tanh hôi lan sực căn nhà, Quản Kình thất kinh định quát, bỗng đầu choáng váng, mắt hoa, cả mấy gian nhà đàn ông, đàn bà hắt hơi, ngã huỳnh huỵch nằm bất tỉnh.

      Quản Kình, ông Phìa, trai tráng, đàn bà, con gái, trẻ con, ông già, bà lão không kẻ nào thoát khỏi, có mấy người nhanh chân chạy vù ra phía cửa trước, cũng vẫn bị luồng khói mê cực mạnh táp vào mũi, ngã nhào xuống cầu thang. Chỉ trong nháy mắt, cả căn nhà sàn dài lúc nhúc người, vụt trở nên im lìm, sầu thảm, thứ im lìm rờn rợn như trong quan tài, khiến những kẻ tập trung trong nhà bên đều kinh sợ, không hiểu chuyện chi đã xảy ra.

      Có kẻ bạo dạn định kéo sang, nhưng có kẻ khác ngăn lại, vì nghiêm lệnh của ông Phìa. Giữa cảnh im rợn bỗng có tiếng cười gai gai nhọn hoắt phía sau nhà ông Phìa:

      - Há há...á Thằng Phìa cùng bọn đàn ông ngủ hết rồi. Trong nhà này, có hàng trăm đứa gái tơ. Quỷ đười ươi vào bắt hai đứa con gái thằng Phìa cho Chúa Sài Quẩy, bắt thêm tám đứa gái nữa đem về động, còn bao nhiêu cho mi cả. Muốn ăn đứa nào tha hồ. Thằng Phìa Mèo dám trái ý Chúa Sài Quẩy, Chúa Sài Quẩy trừng phạt cả động nó. Đứa nào chạy sang, quỷ đười ươi hút óc moi tim.

      Trong đêm sương trăng mờ ảo, tiếng quái gở chờn vờn xoáy vào tai, vang âm rợn óc, khiến ai nấy xanh mặt, đứng im thít, lấm lét dòm sang căn nhà Phìa vắng ngắt. Không ngờ trong xó buồng ông Phìa, vẫn còn chàng khách Kinh chưa ngất, Võ Minh Thần tính nước cờ tối hậu, mặc cho con quỷ sống hoành hành xông khói mê, chàng trai cứ bế huyệt ngồi kẹt trong tối đợi.

      Quả nhiên, tiếng quát vừa dứt, bỗng có tiếng quái vật hú vang động, rồi từ trong lùm cây ậm sau nhà Phìa, vụt hiện ra hình thù con quái đầu to bằng cái thúng, mắt sáng tựa đèn pha, nó lắc mình mấy cái đã đứng sững bên khung cửa sổ hậu.

      Vai nó bị một phát đạn, còn nhỏ máu long tong, sức nó mạnh tợn, như không biết đau, nó thò đầu to vào, trố mắt lồi đèn pha dòm quanh nhà, ghé mõm loa thổi phì phì, ngọn lửa bếp than hồng cháy bùng lên, soi rõ bóng người nằm ngổn ngang.

      Ánh lửa vờn trên thân thể bọn gái mèo nằm nghiêng nằm ngửa từ trong buồng con gái Phìa ra khu bếp thứ hai, ngực căng phồng, nhiều nàng mép "phá" hoảng hốt cuộn quá đầu gối để lộ cặp đùi thuôn lẳn phốp pháp, con đười ươi quái thấy quá nhiều mồi ngon, nó dòm hau háu, ré lên từng tiếng rắn, sắc, răng nhe trắng nhởn, nó bíu thành cửa đu vọt qua nhanh như vượn, đứng lù lù trong nhà, nó lắc lư tiến về phía bọn gái Mèo nằm lũ lượt, mỗi bước đi thình thịch lún cả sàn, gia súc bên dưới phá chuồng chạy tán loạn kêu inh ỏi.

      Võ Minh Thần ngó ra, thấy rõ con đười ươi tiến vào, chàng trai muốn chém lại tiếc con quỷ mũi vẹt, cố nín thở đợi. May sao ngay khi đó, sực có tiếng con quỷ mũi vẹt ban chiều hắt vào, nghe đã gần:

      - Vào buồng đó! Hai đứa con gái Phìa nằm trong đó! Nó đeo đầy vòng tay vòng chân vòng cổ, nó nằm trên phản!

      Tiếng nói như "đi" lại gần cửa sổ. Võ Minh Thần rón rén men ra gần cửa buồng, dán vào vách dòm qua kẻ hở thấy chỗ lùm cây cách cửa sổ chừng mười sải, thấp thoáng có một hình thù động đậy lá cành cách mặt đất chừng hai thước.

      Nhưng gió khuya lay động, chưa dám chắc. Chàng trẻ tuổi phân vân, trong khi đó, con quỷ đười ươi to phàm đã bước vào chỗ gái Mèo nằm, nó đứng cách chỗ Quản Kình, ông Phìa gục độ năm, sáu bộ, nó cúi dòm đám con gái, nàng mặc quần sà cạp, nàng mặc váy, dưới lửa hồng, toàn những con mồi ngon lành đang độ thanh xuân tràn đầy sinh lực, con đười ươi tuy thành quái vật tinh khôn như người, nhưng chỉ là giống thú, thấy mồi ngon, thơm, nó nổi luôn tính thú, đang tiến vào buồng, nó dừng ngay lại, cúi xuống túm luôn một cổ chân cô mèo mặc váy dốc ngược lên, nó rít lên "hí hí", vẻ thích chí cuống cuồng, nó thò luôn vuốt nhọn, xé "xoạc xoạc" hai, ba cái đã rách bung cả xiêm cô gái này. Khăn sổ tung, tóc chảy dài, con quỷ sống giật nốt ít vải lót, dưới vùng sáng lửa chập chờn, nạn nhân bị dốc ngược trắng nhễ nhãi như con ếch lột da, coi gớm ghiếc hết sức.

      Con quỷ thấy mồi trần, nó bêu cao, dí tận mũi hít lia lịa, không khác con cọp đói thấy mùi thịt hươu tơ, nó cuống cuồng lè lưỡi liếm quèn quẹt, nhe răng cười nhởn nhơ, quờ quạng bàn tay lông lá tìm tim móc. Võ Minh Thần ghé mắt trong ra thấy con quỷ đang hít con mồi, biết nó sắp moi tim, chàng trai lập tức vận điện công, toan vọt ra chém, bỗng lại nghe tiếng quát nhọn hoắt:

      - À, con quỷ đười ươi kia không tuân lệnh Chúa Sài Quẩy! Tao chặt đầu! Bỏ đấy! Vào bắt hai đứa gái nhà Phìa!

      Con đười ươi ngoái cổ lại dòm, vẻ sợ sệt, dáo dác, nhưng có lẽ nó thèm quá, nó hồng hộc, nhai khan nhồm nhoàm, nó xách luôn cả con mồi, bước vào phía buồng hồi đằng kia, dẫm bừa trên đám phụ nữ nằm ngổn ngang chồng chất, vừa bước đi vừa trượt, hình thù nó lắc lư coi như tên say rượu.

      Biết nó xách vào chỗ khuất ăn vụng, Võ Minh Thần buộc lòng phải tính xuất thủ, rồi sẽ liệu, may sao đúng lúc đó, Quản Kình nhè nhẹ bò nhỏm dậy. Thì ra Quản Kình đã dược Võ cho uống thuốc chống thuốc mê, y chỉ ngộp chút, đã tỉnh dậy, thấy con đười ươi xách cô gái Mèo đi vào phía buồng, y chồm nhẹ dậy, giương súng bắn liền.

      Nào dè, đúng lúc đó, từ ngoài cửa sổ bay vụt vào một vật sáng loáng lẫn tiếng hú gai nhọn lao thốc vào Quản Kình, may sao Quản Kình đã chồm sau cây cột sàn lớn, "phập" luồng sáng liếm phăng mảnh gỗ lớn như búa đẽo, giữa tiếng "vút, xoảng" xé gió con đười ươi xoay người lại kịp thấy có người chĩa súng, nó nhảy vọt ra, "đoàng", đạn trúng bả vai bên tay xách cô gái Mèo, nó quăng bịch xuống, ẩn ngay sau cây cột gần đấy. Quản Kình nghe tiếng xé gió, giật mình, xoay nhìn ra, luồng sáng đẽo mảnh cột xong bay xoẹt sát vai Quản Kình liếm phăng mảnh áo lạnh như băng, rồi loằng ngoằng đảo vụt lại.

      Thất kinh, định bắn phát nữa, không kịp, vội hụp đầu tránh, nhưng luồng sáng xẹt vòng cầu thấp, Kình phải liều vung súng đỡ quật mạnh. Keng chát! Kình bị nó xô dúi vào chân cột, ngọn súng bị tiện đứt đôi, văng ra xa, tay y tê chồn, nhưng luồng sáng cũng bật ngược lên cao hơn sải, loạng choạng, hiện rõ hình là một mảnh thép hình dạng trăng khuyết, có sợi xích buộc dài vài gang tay. Nhưng mảnh thép lại chỉ sa xuống lảo đảo chút, đã xé lên rồi chém xả xuống, mạnh hết sức, con đười ươi nhác thấy Quản Kình bị tiện mất súng, lập tức rời cột nấp, phóng tới chụp.

      Tình thế rất nguy cho Kình, Võ Minh Thần không thể chần chờ nữa, vùng giơ tay phải chém vụt ra một ngọn liễu diệp đao. Sức điện công của chàng trai uy mãnh hơn người, chỉ nghe "vèo" soạt như xé lụa, ngọn liễu đao đã nhắm trốc đầu Quản Kình bắn tới, đánh trúng mặt nguyệt khuyết đến "keng" tiếng dội vang ra tận mặt tiền.

      Quản Kình vùng cuộn dây, rút được con dao lan dắt vành khăn, thì con đười ươi vừa xông tới, nhưng nhác thấy luồng sáng trong buồng vọt ra quật bắn mặt nguyệt khuyết, nó có vẻ sợ hãi như con chim bị tên sợ cây cong, nó dừng phắt lại, xé chạy ra phía hậu. Kình lẹ tay thả "phập" trúng mõm con đười ươi, nó hung tợn đợp "cạch" ngậm cả dao chạy.Quản Kình vừa toan rượt theo, vụt nghe tiếng Võ quát:

      - Cứ đứng yên!

      Kình khựng lại dòm, vừa kịp thấy luồng liễu diệp đao chém "chát" nhát nữa, bắn dúi luôn mặt nguyệt khuyết ra ngoài cửa sổ đứt đôi, luồng đao liễu liền xẹt ngược lại, chém "phập" lướt sau gáy cạo mảng lông, bay mảng thịt vai, con quỷ sống, rú lên khom mình, bắn qua cửa sổ, Võ Minh Thần chém vắt theo, trúng bắp đùi con quái, con quái sa huỵch xuống bụi rậm ngoài xa ngót tám thước Tây. Và ngay lúc chém, Võ xoay mặt theo, rẽ luồng nhãn tuyến, thoáng thấy lùm cây gần đấy lay động lấp loáng như có bóng vật chi, Võ chém luôn tay trái. Lưỡi đao liễu phạt rào xả vào lùm cây, rụng lả tả. Võ vọt ra đứng bên cửa khuất xỉa "véo véo" hai ngọn liễu đao miệng quát:

      - Quỷ mũi vẹt! Tác hại người lành, mi trốn như chồn cáo, sao không dám ra mặt?

      Bỗng có tiếng thé nhọn:

      - Thằng con nít mày học nghề đứa nào, chặt nổi cặp liễu dao? Có phen, tao mổ bụng mày, moi tim, hút óc!

      Nghĩ thoáng giây, Võ vừa xỉa vừa quăng mình ra chỗ con đười ươi vừa ra, nhưng bóng lá loang lổ, mở trăng sương, chỉ thấy một, hai vũng máu đọng trên mặt cỏ, kéo lết lỗ chỗ hơn thước, cỏ dập nát, rất nhanh, Võ thu về một đao xòe tay ra trước mặt, kình điện phát ra có thể kiểm soát hàng vài mươi bộ, bỗng chạm luồng điện lạ, chàng phóng luôn dao theo.

      "Thụt!" Dao xuyên qua bờ bụi, tỉa một hàng lá rơi đứt lả tả, cắm mạnh vào một vật gì, sâu lút cán, chàng trai thấy rúng động cả cánh tay, kình điện như bị tảng núi chắn hút lấy, không hút ra được. Lạ lùng, Võ xẹt lên ba thước, vận dụng lực kình, giật mạnh hai cái mới rút ra được. Bèn vọt tới, mới hay đã đến ngọn đồi, lưỡi dao đã cắm vào một thân cây lớn lút cán, loại cây có nhiều nhựa, gần gốc cây, có mảng thịt dính da thú như cánh bướm đậu ngọn cỏ rây máu.

      Võ nhìn quanh, ngọn đồi đầy nương sắn, bắp, rau cải, có những tàn cổ thụ vươn cao, um tùm, úp dưới là cánh rừng sâu chạy tới rặng núi đá nhấp nhô và chàng trai cả mừng, chợt thấy hai bóng dị dìu nhau chạy lao vùn vụt dưới tàn cây sương trắng trăng mờ, cách sáu bảy chục thước. Chàng trai hét lớn:

      - Quỷ mũi vẹt! Đứng lại! Ta có điều muốn nói! Chịu trả lời, ta thề không hại đâu!

      Hai bóng cứ chạy tiếng cười thé hắt lại:

      - Thằng con nít Thổ rừng! Có ngày Chúa Sài Quẩy mổ bụng mi! Mi phá hỏng việc Chúa Sài Quẩy hai phen rồi!

      Võ vận sức quăng mình đuổi nhanh như gió nhưng khi tới cách khoảng năm mươi bộ, bỗng nghe "bục" tiếng khá lớn, khói mù tỏa rộng như tạc đạn khói, chừng Võ xẹt vòng tới, lại nghe "bục" hai, ba tiếng nữa, khói mù tỏa một hình cung, xóa mờ hết cả cây cối bờ bụi, Võ Minh Thần quát lớn:

      - Quỷ mũi vẹt! Có giỏi nói rõ nơi hang ổ, ta sẽ tìm tới... trừ hại cho người lành!

      - Hé he é é! Con nít to gan! Mi đến sao nổi động chúa núi Mã Đầu? Há há á! Anh em tao sẽ đón moi tim mày nhấm rượu! Chúa Mã Đầu chỉ thích ăn gan uống mật trai tơ như mày, không như tao chỉ thích gái tơ! Mã Đầu, hà hà, bên kia biên thùy phân mao không xa đâu, cứ đến nộp mạng!

      Tiếng cười quái gở nanh ác, vờn xoáy vào tai, Võ Minh Thần chạy vòng phía Bắc, chặn ngang, nhưng chỉ thấy rừng khuya quạnh quẽ, gió thổi rì rào, côn trùng rên rỉ, bóng hai con quỷ sống đã nương khói mù, biến vào đêm dày, mất dạng. Ồn ào, có nhiều tiếng quát gọi ời ời, ba, bốn bón thổ dân từ phía đó chạy ra ngơ ngác, hỏi chẳng ai thấy bóng quái chạy ngã nhào, nhưng mấy kẻ mặt mày còn nhớn nhác vì nghe tiếng súng nổ phía bản trong.

      Võ Minh Thần đành cùng bọn này quay vội về nhà ông Phìa. Đã thấy Quản Kình cùng đám dân Mèo đang xúm nhau, dấp nước, lay gọi bọn người bị mê, thấy Võ về, xúm hỏi. Võ bèn phụ với bọn Quản Kình, thổ dân, đem thuốc riêng cứu tỉnh mọi người dậy.

      Phút chốc cả nhà ông Phìa cùng bọn gái Mèo, trai tráng tỉnh dậy, bàng hoàng, người người chưa hết kinh sợ, dáo dác dòm quanh. Võ Minh Thần phải lên tiếng an ủi cho biết rõ hai con quái đều bị thương khá nặng tuy chưa vong mạng, nhưng chắc không dám lần tới ngay.

      Ông Phìa cùng hang động cảm tạ thầy trò chàng vô cùng, coi không khác thần nhân giáng hạ xuống cứu dân bản. Ông Phìa xin hai thầy trò ở nán lại ít hôm, cứu nạn, nhưng Võ cố từ tạ, nói phải đi có việc cần kíp, sau thấy hành động khẩn khoản quá, chàng đành cho biết, sẽ tới thẳng hang ổ con quái để trừ diệt!

      Sáng sau, Võ Minh Thần, Quản Kình từ giã bản Mèo trên núi cao, lên đường. Ông Phìa sai vật heo làm gà tiễn khách, nhất định tặng con ngựa khỏe, không chịu lấy tiền. Lại kéo cả động đưa khách xuống núi lưu luyến không muốn rời.

      Võ Minh Thần, Quản Kình nhắm biên thùy phân mao ra roi, bỏ vùng đất Việt, vượt ranh, sang thẳng nước Tàu. Dọc đường không xảy chuyện chi bất trắc, nhưng tới địa phận Trung Hoa, vào mấy bản xạ phang đều thấy nhà nhà đóng kín canh phòng cẩn thận, không khí chết chóc bao trùm, hỏi ra mới hay, vùng này mới bị quỷ đười ươi lần tới bắt dàn bà con gái ăn thịt gieo khủng khiếp khắp nơi, có nhà phải di tản.

      Hai người đi sâu vào nội địa, gặp đâu hỏi thăm đấy, lẩn quẩn khắp miền, chỉ được biết Quảng tây có ngọn Mã Đầu Sơn nhưng không hiểu ở chỗ nào. Mãi hai, ba hôm sau, một bữa cả hai vừa đi tới một cánh rừng kia, về nẻo Đông Bắc biên, ngựa vừa xuống chân đèo, bỗng gặp một cuộc chạm súng ngay dưới thung lũng.

      Đứng trên trông xuống, thấy một toán nhân mã năm, bảy bóng lực lưỡng mang cây cờ hiệu nhỏ đi nước kiệu băm ngang qua thung lũng, bỗng có một bọn vài chục tay súng trong từng vọt ra chặn lối, quát tháo chửi mắng nhau inh ỏi, Pạc Hoọc nổ dòn tan nửa phút, chợt chỉ còn nổ lác đác, có tiếng quát như sấm phía bọn người mang cờ hiệu:

      - Tỉu nà! Mày là quân chó đói nào dám chặn đường gây sự? Không thấy cờ hiệu à?

      Có tiếng cười thét:

      - Đừng trương cờ hiệu cho bẩn mắt thiên hạ, về bảo chủ tướng mày trương cái quần đàn bà còn hơn! Tỉu nà! Thổ phỉ, hiếp dâm, ăn thịt người, nạt đàn bà con gái!

      Hai bên "tỉu" inh ỏi, không bắn nhau nữa, bỗng Võ Minh Thần dột lòng, lắng tai nghe, tiếng tên khách mang cờ hiệu hét:

      - Tỉu nà! Tao đi thu thuế dọc biên cho chủ tướng à! Cả năm nay, người Mã Đầu mới đến vùng này, mày là thằng nào dám nói càn, làm bậy à!

      - Hà hà, tao cũng ăn cướp như chúng mày, nhưng tao không cướp giật của đồng nghiệp, không bắt vợ con thiên hạ! Tao có việc qua miền này, tụi mày bắt vợ con tao, tao phải giết hết tụi Mã Đầu! Tỉu nà! Mã Đầu cẩu quẩy! Tao không thèm ỷ đông, có giỏi đánh tay đôi với tao?

      - Tỉu nà! Thằng điên cuồng không biết phải trái! Đầu lĩnh Mã Đầu cũng đập chết được Tài Wang núi khác à!

      Hai bên hét thủ hạ dạt xa, đoạn lập tức vọt ngựa chếch tới ngay chân đèo Võ đứng, chỗ có một khoảng trống bên con suối khá rộng. Thầy trò Võ thấy rõ tên khách cầm cờ hiệu trạc hơn ba mươi, râu ria xồm xoàm, đeo Pạc Hoọc, mã tấu, tay cầm đầu đám hơn ba mươi thủ hạ kia cũng là tên khách Quảng Tây lực lượng, râu quai nón, trạc tứ tuần, cả hai đều mặt mày coi táo tợn, đúng hàng lục lâm thổ phỉ biên giới!

      Tên khách tứ tuần này cầm một quả chùy gai xông tới, đập liền, hai tên quần thảo, búa, chùy quật nhau chan chát, rất hăng, mãi chưa phân thắng bại. Võ Minh Thần sốt ruột quay bảo Quản Kình:

      - Coi hai tên thổ phỉ cũng khỏe đó, nhưng có lẽ đồng sức, đánh đến tối chưa xong. Chú xuống can chúng, làm quen với tên người Mã Đầu đi!

      Hiểu ý chủ, Quản Kình sốc áo bảo:

      - Làm quen không bằng làm thân! Dầu có bắt sống nó, nó cũng chẳng chịu khai sào huyệt. Chi bằng bênh nó... Như thế... Như thế...!

      Võ gật đầu, Quản Kình vọt luôn xuống, xông vào can, quả nhiên gã khách tứ tuần râu quai nón mê trận, nạt lui liền, Kình cả giận mắng lớn:

      - Tỉu nà "nị"? "Úa" thấy đánh lộn, tốn cơm, "úa" can, sao dám hỗn! "Ní" đón đường gây sự, còn không biết lỗi à?

      Tên khách kia vác chùy xông tới đập luôn, miệng chửi như điên:

      - Mày là đứa nào? Mày đồng đảng với tụi bắt vợ con tao?

      - Tao không quen! Nhưng mày không thấy chữ đề trên cờ hiệu ư? Mã Đầu Sơn danh lừng biên giới, bên Nam tao cũng nghe tiếng, mày dân Tàu không biết sao? Thôi bỏ!

      Tên khách giận trợn ngược mắt, lăn vào, tên kia thấy thế có cảm tình liền sấn tới đỡ cho Kình hét lớn:

      - Thằng điên này không biết phải trái à! Người bạn nước Nam giang ra, để ngộ cho nó mấy búa!

      Quản Kình rút mã tấu gạt y ra, đánh với tên kia. Kình còn lẹ hơn một bực, qua mấy đường đã cho luôn hai nhát nhưng chém bằng sống mã tấu. Tên kia tức quá, hét như sấm, đám thủ hạ từ đàng xa reo hò múa súng kéo tới, tên Mã Đầu giật mình kêu lên:

      - Nó đông dữ à! Coi chừng!

      Nhưng Quản Kình cứ đánh dồn tên kia lui mãi, khi đám thủ hạ đã tới gần, Kình nhè quay sống mã tấu nện một cái vào cườm tay, rớt luôn chùy, Kình vọt sang điểm huyệt, ra hiệu cho tên Mã Đầu, hét:

      - Đứng lại! Đứa nào lại gần tao cho nó xuống âm ty! Hầy à! Rút nhanh, tao tha cho nó!

      Bọn này đông nhưng thấy chủ tướng đã bị tóm đành chửi thề, uất ức dạt ra xa, bọn thủ hạ Mã Đầu kéo tới xua bạt ra, tên khách đầu lĩnh cười ha hả vẻ khoái chí hết sức.

      Quản Kình đứng sau thân cây lớn, giải huyệt á khẩu cho tên khách cầm chùy gai, vỗ đốp vai khô giọng:

      - Đuổi tụi nó đi xa cho rồi! Ngộ sẽ thả chú mày sau!

      Tên này giận xung thiên, bị kẹp cứng, túng thế, đành chịu phép, vừa đuổi thủ hạ đi.

      Quản Kình nhặt cây chùy gai, vẫy gọi Võ Minh Thần xuống, đoạn ra hiệu cho bọn Mã Đầu Sơn cùng phi ngựa về phía Bắc, xế tới một rặng núi đá chờn vờn tạt vào chân núi, Quản Kình vờ hỏi tên cầm chùy:

      - Nguội chưa? Giờ ngộ thả nị nhé? Chuyện mất vợ mất con bỏ, đi kiếm lỗ phồ khác!

      Tên khách này hét:

      - Tỉu nà! Vợ con tao đẹp nhất nước Tàu không kiếm đâu được à! Còn sống ngày nào, tao quyết báo thù, tao đốt hết núi Mã Đầu, bắt hết vợ con tụi nó bán cho nhà thổ à! Mày bên Nam sang, mày bênh nó, tao bắt cả vợ mày!

      Quản Kình cười khà:

      - Vị này nóng như Trương Phi, thôi chịu khó ngồi xem khỉ vượn giây lát, tụi ngộ có lời chào!

      Dứt lời, Quản Kình lấy dây thừng trói y ngồi trên lưng ngựa, buộc chặt vào một thân cây lớn, cắm chùy gai trước mặt, vỗ vai y nói lớn:

      - Chịu khó lăn cán chùy mà cứa dây thừng à! Hơi lâu đó, nhưng không hề gì? Nước chảy đá mòn, cứa lâu dây đứt! "Chẩu" à?

      Nói xong, cùng mọi người bỏ đi sau khi giải huyệt cho y. Tên khách vùng vẫy, tỉu inh ỏi, làm con ngựa y phát hoảng, chạy lồng đi, thành y bị treo lơ lửng vào thân cây, cách mặt đất hơn thước, tên đầu lĩnh Mã Đầu ngoái dòm lại, cười hô hố, ra phần hứng chí, vừa chạy ngựa ra đường mòn, vừa hỏi Quản Kình :

      - Hầy à! Người bạn bên Nam phạt tội nó ngộ dữ à! Mà sao người bạn lại bênh ngộ? Hẩu lớ! Hẩu lớ!

      Quản Kình nói luôn:

      - Ngộ cùng cậu chủ đây nghe tiếng Mã Đầu Sơn từ bên Nam, bọn ngộ rất thích nghề lạc thảo, bọn ngộ muốn nhập bọn à?

      Tên khách nghe nói thế, càng khoái, y ngó Võ Minh Thần, hơi ngạc nhiên vì vẻ dáng thư sinh, lại đeo cái dù sau lưng, y cười ngất:

      - Này! Cậu học trò này cũng thích nghề không vốn? Ngộ dữ à! Tưởng gì, muốn nhập bọn, có ngộ nói, chủ tướng ngộ nhận ngay à! Chủ tướng ngộ thích người giỏi võ, nị giỏi võ, được làm tùy tướng ngay!

      Thầy trò Quản Kình hết sức mừng thầm, vội lên tiếng nhờ cậy. Tên đầu lĩnh rút trong túi một tấm thẻ đồng tròn như đồng bạc, đưa cho Quản Kình.

      - Ngộ còn phải đi thu thuế, nửa tháng nữa mới về! Nị cứ đến Mã Đầu Sơn nộp cái thẻ bài này cho đồn ngoại phòng, sẽ được lên núi à! Nhưng phải cẩn thận chủ tướng ngộ tính nóng như lửa, khéo mất đầu à?

      Thầy trò Quản Kình nhìn tấm thẻ, thấy khắc hình cờ đầu con ngựa, dưới có ghi số hiệu, tên tuổi, cấp bậc mới hay tên y là Tchang Xây, đầu lĩnh biệt phái doanh quân lương thuộc hàng cao trong đoàn quân thu thuế. Tchang Xây lại chỉ cả đường nước tới núi Mã Đầu không hề ngờ vực, vì thấy Quản Kình bênh vực y rất nồng nhiệt.

      Biết rõ nơi sào huyệt Mã Đầu rồi, Võ Minh Thần, Quản Kình lập tức từ giã viên đầu lĩnh Tchang Xây, hai bên chia tay, đi hai ngả, lòng mừng rỡ không ngờ việc giữa đường

      Biên địa Tàu, Quảng Tây tiếp giáp Cao Bắc Lạng hầu hết là những vùng núi đèo hiểm trở, nhiều chỗ còn hoang vu hơn cả bên đất Việt, xưa nay vốn là đất dung thân của giặc cỏ nên rất khó đi.

      Ngoại trừ một vài con đường vẫn được dùng làm các trục giao thông của quan binh Tàu, khách thương dân chúng, nhưng đương thời không khí "ngoài vòng pháp luật" vẫn bao trùm, thổ phỉ như rươi, dựa vào địa thế thiên hiểm hoành hành, khách đi xuyên sơn thường bị cướp đoạt, mất mạng, nhưng vùng nào có tay thổ phỉ mạnh còn đỡ, tay lạc thảo nào quét hết giặc cỏ tạp nham, thu thuế, thu tiền mãi lộ, nghiễm nhiên thành một thứ "Tài Wang" nhất thống, đặt ra luật lệ riêng, dân chúng, khách thương tuy khổ, nhưng còn đỡ hơn chịu cảnh thổ phỉ như rươi, đại vương nhiều hơn chó đá, nơm nớp sợ mất của mất đầu như chơi. Nhất gặp được tay "Tài Wang" nào có đầu óc tổ chức, biết cai trị, biết nuôi dân để dân nuôi lại, ai cũng vui lòng.

      Hai thầy trò Võ Minh Thần cứ noi theo các sơn lộ, đi qua các khu rừng rậm, bản dân, phần lớn là dân xạ phang thổ phỉ sắc dân lai Thổ, Nùng, Tàu... thường gặp tại biên giới, giống người dữ tợn, ít học, hay đi ăn cướp, giết người nên người ta quen gọi giặc cướp biên giới là thổ phỉ, tuy thổ phỉ mạn Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang cũng nhiều rồi đến dân Tàu.

      Hai thầy trò lấy làm lạ, đi quanh co ngót hai ngày, không gặp thổ phỉ gì cả, mà gặp mấy trạm thu tiền mãi lộ, toàn của Mã Đầu Sơn, chỗ nào, khách vãng lai cũng nộp nườm nượp, đi bộ một mức, cưỡi ngựa một mức, tải hàng hóa một mức... đâu vào đấy. Đặc biệt có một trạm còn thấy cả một tốp quan quân vùng nào đó đi qua cũng vào nộp, nhưng bọn đứng trạm không lấy. Thầy trò Võ vào, đưa tấm thẻ của Tchang Xây, bọn này cũng miễn thuế. Nhưng tới một cánh rừng rậm kia, bỗng gặp một bọn hơn mười tên ra đòi tiền mãi lộ, khách ngược xuôi buôn bán cho biết đường này nộp rồi, bọn kia "tỉu" inh ỏi, bảo chúng không biết Mã Đầu Sơn và toan cướp đoạt của cải hàng hóa, thầy trò Võ phải ra tay đánh đuổi, bắt sống tên đầu đảng, tra vấn mới hay, Chúng là quân Mã Đầu Sơn, nhưng thuộc núi Ngưu Đầu sát nhập, nhân có việc qua đây, bàn nhau "ăn mảnh" một chuyến. Chúng van lạy như tế sao, khiến Võ động lòng, tha cho, đoạn tiếp tục lên đường. Lòng ngạc nhiên bảo Quản Kình:

      - Lạ thật! Xem chừng cả miền thiên địa này, đều nằm trong vòng thế lực của Mã Đầu Sơn có vẻ yên ổn hết sức không như miệt giáp Trùng Khánh phủ Cao Bằng ta. Có lẽ vùng đó chưa vào vòng kiểm soát của chúng. Nếu vậy tên chúa đảng Mã Đầu Sơn này rất lợi hại, vừa tàn ác vừa khôn quỷ, ta phải cẩn thận mới được.

      Thực ra, chính Quản Kình cũng chưa rõ tiểu chủ y tìm đến sào huyệt núi Đầu Ngựa làm gì?Y chỉ đoán phải có chuyện quan hệ lắm nhưng không bao giờ hỏi. Nay nhân tiện Võ bàn, Quản Kình bèn góp theo mới hỏi cho biết. Võ Minh Thần không biết bày tỏ nhiều, khi tất cả còn mờ mịt. Võ chỉ bảo:

      - Việc này dính dấp đến mẫu thân tôi. Người bị chết thảm, sau khi sinh tôi, phụ thân chưa kịp tiết lộ, thì bị giết, chú Sềnh dặn "đi tìm chúa Đầu Ngựa". Khi tôi hỏi đến kẻ đại thù!

      Quản Kình khẽ thở dài, thương tiểu chủ hết sức.

      Chiều đó vào khoảng gần năm giờ, hai người tới vùng núi Đầu Ngựa. Một vùng thâm sơn cùng cốc, núi cao, rừng rậm, hoang vu, cô tịch, chỉ thấy chim kêu, vượn hú chon von, bốn bề không một bóng nhà thổ dân.

      Theo đúng lời chỉ dẫn, hai người đứng trên đèo cao nhìn về phương Đông Bắc quả nhiên thấy một ngọn núi cao chót vót giống hệt một cái đầu ngựa khổng lồ, in vào nền trời như đang đớp mây bay, coi rất hùng vĩ.

      Bèn cho ngựa nghỉ ngơi giây lát, đoạn lóc cóc xuống đèo, đi vào một con thung lọt thỏm giữa mấy rặng núi đá dựng thành. Nhìn địa thế hiểm trở, hoang dã, Võ Minh Thần bảo Quản Kình:

      - Nay đi vào sào huyệt Mã Đầu đầy thổ phỉ, cạm bẫy, vào sinh ra tử, tôi định gặp tên chúa Mã Đầu, rồi sẽ tùy cơ ứng biến. Vạn nhất, nếu rõ chuyện năm xưa rồi, tôi sẽ bắt sống nó, vừa tế vong hồn mẹ tôi vừa để ra khỏi sào huyệt của nó cho dễ, hoặc sẽ lâm nguy, sẽ rút theo đường núi, nếu chú cùng đi, sẽ bất lợi mà lại nguy hiểm nữa. Vậy chú nên đợi tôi ở bên ngoài, nội đêm này sẽ gặp nhau!

      Quản Kình không chịu, quyết đòi theo, khẳng khái bảo:

      - Tôi là kẻ theo cụ nhà đã lâu, mối thù của cậu hai là mối thù của tôi, nếu không được chia sẻ, mai sau tôi còn mặt mũi nào ngó hai cụ dưới suối vàng! Tôi tuy võ nghệ kém nhưng cũng đã phụ cậu hai nhiều thứ, cậu hai cứ cho tôi đi. Phàm vào nơi ổ giặc, dàn mặt sợ nhất nó bắn trộm, có tôi không phải thừa đâu!

      Võ Minh Thần đành chịu. Hai người cho ngựa bước một tiến vào thung lũng. Đường mòn chạy qua một bên núi dài, quanh co, chớn chở, càng vào càng thắt lại, hai bên núi cây cối rườm rà, địa thế hiểm trở.

      Lóc cóc! Lóc cóc! Vó ngựa nổi khua mặt đá gập ghềnh vang âm, sạo gợn mặt trời mùa thu lạnh đã hạ gần ngọn núi Tây, qua sương chiều, ánh sáng úa thoi thóp đổ xuống hẻm, mỗi bước đi như có tử thần rình rập, không khác Bàng Thống qua Lạc Phụng Ba! Hai người vừa chậm bước lỏng buông tay khấu vừa liếc mắt nhìn quanh, tuy chí báo thù sôi sục, lòng uất thầm lo con quỷ mũi vẹt đã kịp mò về trước, đang nấp sau đá rình "đón tiếp".

      Quản Kình cầm tấm thẻ bài giơ trốc đầu, khoa nhẹ, ngựa mới vào được non một trăm bộ, bỗng nghe "đoàng đoàng" hai tiếng Pạc Hoọc nổ dòn đạn "chíu chíu" trước mũi. Cả hai cứ tiến, vừa tới một chỗ hình thước thợ quanh bỗng lại có hai phát tên nữa bay qua, cắm chéo hai bên cây rồi từ đâu một cây giáo dài phóng ra, "phập" chắn ngang trước đầu ngựa.

      Rồi từ trên mỏm đá cao hơn mười thước, nhô ra một tên khách cao lớn dữ tợn, cầm một lá cờ đuôi nheo đỏ phất tía, quát như sấm:

      - Hầy à! Hai người kia đi đâu? Không biết đây vào đất Tài Wang Chúa Mã Đầu à? Đứng im!

      Hai thầy trò nhìn quanh, thấy súng ống chĩa xuống tua tủa khắp trước sau, Quản Kình khoa thẻ bài nói lớn:

      - Có việc vào gặp Chúa Mã Đầu! Ngộ có bài hiệu của Tchang Xây đây!

      Lập tức tên khách phất lia cờ, từ hai bên núi, hơn chục tên thổ phỉ kéo xuống, hỏi qua, rồi tên khách cầm cờ sai khua một tràng thanh la, ít phút sau một toán bảy tên cưỡi ngựa, đội mũ rộng vành, xách súng chạy ra, Quản Kình đưa thẻ bài bảo:

      - Tchang Xây trỏ đường cho bọn ngộ tới! Bọn ngộ có việc cần gặp Chúa núi!

      Gã đầu mục nhìn chòng chọc, hỏi:

      - Hai "sếnh sáng" gặp có việc gì?

      Võ Minh Thần từ tốn bảo:

      - Mỗ có việc quan hệ, nị cứ đưa mỗ vào!

      Gã đầu mục nhe răng cười khẽ:

      - Tài Wang lo việc lớn, còn các việc thường thường, đầu lĩnh đầu mục lo lấy, Tài Wang ngộ bận luyện võ à!

      Thầy trò Võ đành tỏ ý muốn nhập bọn, gã đầu mục cười bảo:

      - Hầy! Vậy phó tướng ngộ cũng định được rồi!

      Giật mình, Quản Kình hỏi vội:

      - Phải phó soái mũi vẹt, một mắt?

      Gã đầu mục thoáng ngơ ngác, lắc đầu:

      - Mã Đầu ngộ có hai, ba ông phó! Có một ông một mắt thứ hai, nhưng có cái mũi cũng cong cong à! Nhưng ông phó nhất khác!

      Hai người không nói nữa. Lập tức gã đầu mục dẫn hai người vào núi. Đi hết đường hẻm qua một con thung hiểm, đã thấy doanh trại san sát tựa vào răng núi lớn, có cả bãi tập bắn giáo trường, khe suối quanh co, đồn binh rải rác, cờ hiệu bay phấp phới, coi ngăn nắp, chỉnh tề lắm. Thổ phỉ đi qua lại tấp nập, hai người lấy làm lạ, thấy cả đàn bà, trẻ con, chừng vợ con tụi chúng.

      Thấy tên đầu mục dẫn hai người mặc quần áo Thổ đi qua, ai nấy trố mắt dòm, tên đầu mục đưa thẳng vào chân núi, tới một căn nhà rộng, trước cửa có ba bốn chục tên đang đấu võ, đấu mã tấu, reo hò inh ỏi. Có hai, ba gã đừng trên thềm coi, thỉnh thoảng chỉ trỏ, cổ võ, tên đầu mục đưa thẳng tới, nói líu lo, một gã dáng đầu lĩnh nhìn tấm thẻ bài ngắm hai người, hỏi vài câu, đoạn gãi râu bảo:

      - Hai sếnh sáng muốn lên trại gặp phó tướng hãy để súng lại đây!

      Không do dự, thầy trò Võ làm theo, Quản Kình rút cây súng trận, súng cối, cùng khẩu súng mười hai của Võ trao cho chúng, trao luôn cả mã tấu. Gã đầu lĩnh vẫy tay cho tụi đầu mục trở ra, đoạn sai lấy ngựa đưa hai thầy trò lên núi.

      Đường lên quanh co khúc khuỷu, hệt đường đèo, còn qua hai trạm gác nữa mới tới lưng chừng núi. Mới hay trên núi còn mấy khu dinh trại rải rác quanh sườn, coi như các vị trí cố thủ phòng bị tấn công.

      Gã đầu lĩnh xuống ngựa, ra hiệu cho hai người buộc trước trạm, cho bộ hạ giữ, đoạn dẫn hai người qua một lối đá, đi vòng ra phía sau. Thấy một khu lòng chảo khá bằng, có mấy căn nhà nho nhỏ dựa ghềnh, thấp thoáng có bóng người qua lại. Y đưa vào một cán, đầy giây leo, phong lan, có hai tên vạm vỡ dữ tợn, đứng coi một tên gầy đét cao lêu nghêu, mặt mũi xanh rờn đang ngồi chuốt một bàn tay thép.

      Tên này cụt tay mặt có lắp bàn tay thép vào, giống hệt bàn tay năm ngón, nhưng ngón nào cũng nhọn hoắt sắc như dao, xòe úp xuôi đều, thành năm mũi giáo, hai bên là hai lưỡi đao.

      - Thiết Thủ Đại Vương phó tướng đó!

      Thấy động, cả mấy gã ngoảnh trông ra, viên phó tướng Mã Đầu vừa hỏi lớn vừa xỉa vụt bàn tay về phía cuối nhà, "soạt" tiếng, cả bàn tay sắt đã bay vút ra, "phập, phập" đứt lìa phăng hai cái tai pho tượng gỗ lắc lư khật khưỡng nhe "ông lật đật", cách khoảng mười lăm bộ, chỉ thấy nháng sáng, hai cái tai rụng xuống, y đưa tay lên gãi ria mép, tay y đã lắp nguyên bàn tay thép như cũ.

      - Việc gì đó? A Hếch? Khách à?

      Tên đầu lĩnh tiến vào, lễ phép trao tấm thẻ bài Tchang Xây, nói líu lo một hồi, viên phó tướng ngó hai thầy trò Võ cười lớn:

      - Hầy à! Chú kia coi được còn chú học trò xách ô kia cũng thích hành nghề lạc thảo? Ngộ dữ à! Có ngón gì hay góp với tụi ngộ?

      Vừa dứt lời, lẹ như chớp, viên phó tướng Mã Đầu Sơn xoay nghiêng người, xỉa vụt ra chỗ thầy trò Võ Minh Thần.

      Lúc đó cả hai còn đứng giữa khung cửa, thủ pháp hắn nhanh hết sức, lại nhằm Quản Kình tuy cũng có bản lĩnh, nhưng chỉ đủ sức đỡ gạt ra thôi, may Võ Minh Thần đã vận công sẵn lập tức phất "soạt" tay, điện kình bay ra vừa chặn vừa hút luôn bàn tay thép, Võ đảo nhẹ cái bàn tay thép đã lắp luôn vào đầu ngón tay chàng, êm như không.

      Cả mấy tên đầu lĩnh cũng tròn xoe mắt, viên phó tướng có tên Thiết Thủ Đại Vương giật mình ngơ ngác, lặng đi mười khắc trước thủ pháp lợi hại phi thường của chàng thư sinh coi vẻ trói gà không chặt. Vẫn thản nhiên như không, Võ Minh Thần đưa tay gại gại lưỡi thép, khen:

      - Hầy! Bàn tay này sắc dữ à! Xỉa trâu cũng chết, chắc cứa cổ nhiều người rồi! Trả "Tài Wang"!

      Dứt lời, Võ lẳng nhẹ cái, bàn tay sắt bay vụt tới viên phó tướng Mã Đầu. Hắn có thể xỉa đứt tay tượng gỗ, nhưng lại chưa đủ sức điện công để thu bàn tay từ tay kẻ khác phóng ra, nên hắn giật mình hụp luôn đầu xuống tránh. Bàn tay xé gió vút tới, nhưng bất thần ngừng lại ngay chốc đầu hắn, hắn thấy im lặng, lom khom ngửa lên trông, càng kinh, thấy bàn tay đậu lơ lửng chao qua chao lại, rồi sà xuống trước mặt hắn. Võ chìa tay như trao vật gì, điềm đạm bảo:

      - Kìa mỗ trả lại Tài Wang mà! Cầm lấy chứ!

      Viên phó tướng Mã Đầu lùi một bước, đứng lên, bàn tay cũng dâng lên chao qua lại, như có bàn tay vô hình phất phất, tung êm ru, hắn cũng phát ghê uy lực, vì điều khiển được vật cách không êm và chậm, phải là tay có sức điện kinh người, Võ giục đến lần thứ ba, hắn mới thò tay chụp lấy bàn tay thép, giật mình suýt buông rời vì bàn tay nóng như nung ở lò lửa vậy! Bao nhiêu vẻ oai vệ biến mất, viên phó tướng Mã Đầu thở phì, vùng hỏi:

      - Nị sếnh sáng học trò giỏi hơn cả thầy ngộ... lại đến nhập bọn lạc thảo? Giỏi dữ sao không làm Chúa núi một mình?

      Võ Minh Thần từ tốn:

      - Mỗ mới học hạ sơn, chưa ra đời bao giờ, mỗ nghe tiếng Chúa núi Đầu Ngựa, mỗ thích, tìm tới! Hãy cho bọn ngộ được gặp!

      Viên phó tướng này qua phút kinh hãi, đâm ngờ, hắn lắc đầu nghi hoặc:

      - Không phải đến nhập bọn! Có chuyện khác à! Người như sếnh sáng, không phải hạng thích nghề ăn cướp!

      Võ Minh Thần cố giải thích, hắn cứ hỏi vặn, chàng trai đành bước vào, nào dè hắn càng sinh nghi lùi lại bất thần hắn quơ tay vào vách từ trên trần, bỗng vụt xuống một tấm lưới thép chụp nghiến lấy chàng trai. Quản Kình la lên, cả ba tên đầu lĩnh vùng chỉa súng nhưng đáo sự mới hay bản lãnh Võ Minh Thần đã luyện tới mức siêu việt, ứng phó rất tinh khôn, không phí một giây, thấy lưới chụp xuống, trái với người khác thường tính ngay chuyện tung lưới thoát, Võ không thế, chàng phản ứng ngược lại, cứ đứng yên, thò vụt chỉ thủ điểm thốc vào tên phó tướng Mã Đầu, xoay nửa bộ điểm luôn ba tên đầu lĩnh đứng lố nhố quanh, Võ xuất chỉ phong điểm cách không đúng lúc lưới chụp xuống lẹ và bất ngờ đến nỗi cả bốn đều là tay có nghề cũng không kịp trở tay, trúng đòn, gục hết.

      Quản Kình đứng ngoài phải sững sờ trước sự nhanh tay nhanh trí của tiểu chủ, Kình vọt vào, lúc này chàng trai Võ mới ung dung lia dao khoét lưới, bước ra.

      Đến nước này không thể trá nhập được nữa, Võ Minh Thần ra hiệu cho Quản Kình trấn cửa đoạn túm viên phó tướng Thiết Thủ lôi dậy giải huyệt, hỏi:

      - Chủ tướng mi đâu? Nói mau! Đừng để mỗ phải nặng tay khảo!

      Thiết Thủ Đại Vương lừ lừ nhìn Võ, vẻ giận xung thiên:

      - Muốn gặp chủ tướng ta làm gì? Báo thù hay chiếm núi?

      Võ khẽ tiếng:

      - Không phải việc nị? Cứ đưa mỗ tới gặp sẽ biết! Tên phó tướng quỷ mũi vẹt về đây chưa?

      Thiết Thủ ngó sững:

      - Mới về! Ngươi cũng có thù với y?

      Võ Minh Thần lại hỏi:

      - Phải y có một mắt?

      - Chính thế! Y bị móc mắt đã mười năm! Mười năm nay y luyện võ để trả thù!

      Võ thở phào, nhẹ nhõm, quay bảo Quản Kình:

      - Không còn ngờ gì nữa! Con quỷ mũi vẹt một mắt đúng quỷ tặc trên núi Đầu Ngựa này! Thiết Thủ! Chịu dẫn chứ?

      Viên này thất thế, mắt nảy lửa, cười gằn:

      - Được! Ta dẫn tới! Nhưng mi đừng hòng thoát khỏi Mã Đầu Sơn!

      Quản Kình xách ba gã đầu lĩnh đặt ngồi mấy phía, đoạn thủ luôn cây súng ngắn dắt kín trong mình, cùng Võ Minh Thần áp điệu Thiết Thủ Đại Vương ra ngoài.

      Hắn bị triệt võ công đi trước, Quản Kình bám sát, đường lên núi quanh co khúc khuỷu rải rác phía trên và có một vài khu nhà nửa chừng của bọn phó tướng đầu lĩnh với một ít lâu la trực hầu canh gác. Thỉnh thoảng có một, hai tên khách từ trên đi xuống, chào hỏi Thiết Thủ đều bị Võ điểm huyệt gục bất thần, giấu vào kẹt đá bụi rậm.

      Chừng nửa giờ sau, mới lên tới đỉnh núi, ngọn "Đầu Ngựa" sừng sững đớp trời, còn le lói ánh nắng thu tàn. Sương lam khí đá đùn chăng vơ vẩn, ngay dưới cổ ngựa là một khu lòng chảo khá bằng phẳng, coi như cái đài sen loe, tòa ngang dãy dọc ngổn ngang, rải rác bóng người ngựa qua lại, nhưng không đông mấy, có lẽ chỉ là một số tùy thuộc viên chủ tướng, thấy cả bóng đàn bà thấp thoáng.

      Thiết Thủ đưa hai người qua lòng chảo, trại doanh trung ương, bọn giặc thấy chào rất lễ phép. Đi đến chân cổ ngựa, chợt thấy một cô gái Tàu đi ra, Thiết Thủ hỏi luôn:

      - Chủ tướng đang làm gì đó, A Múi!

      Cô gái chào, ngó bọn Minh Thần, líu lô:

      - Tài Wang sếnh sáng đang tập võ! Có cả Tài Wang bên núi Đầu Trâu! Em xuống sửa soạn tiệc rượu à!

      Mắt Thiết Thủ sáng hẳn lên nhưng không dám khác ý vì Quản Kình đã vượt lên một bước, dòm chừng. Hai bên chia tay, đi vòng sang bên kia cổ ngựa, vụt hiện ra một khu rất u nhã.

      Cây cối mọc kẹt đá xanh um, hoa nở tốt tươi coi vẻ hoa viên, dưới tàn cây có hai, ba căn nhà xinh xắn, dựa cổ ngựa là một căn nhà gỗ hai tầng, kiểu nhà sàn, dưới vách trống, hoa leo mọc dày che kín cột, đàng gian đầu là tàu ngựa, gà vịt, chim câu hàng đàn. Giữa vườn hoa, có một con hổ vằn đang uống nước coi vẻ cọp nuôi làm cảnh.

      Đoán chắc có cạm bẫy, Võ Minh Thần nắm tay Thiết Thủ, trầm giọng:

      - Việc mỗ tới đây là chỉ cần gặp chủ núi, mỗ không muốn nị chết oan! Phải căn nhà sàn kia?

      Thiết Thủ gật đầu, dẫn thẳng tới, y men sát vách đá, vòng ra phía trước, đứng trước một chiếc thang mây vắt chếch lên thềm lầu. Con hổ vằn thấy người, lững thững bước tới hít ống quần, Thiết Thủ đưa hai người lên thang mây, lại thấy một con báo gầm đi tới, Võ Minh Thần liếc thấy hiên dài chừng hơn ba mươi thước, gian đầu vắng không, chỉ có một tên đầu lĩnh to lớn bắc ghế ngồi đó.

      Vừa thấy bọn Thiết Thủ, y đứng lên chào, định bỏ đi luôn, Võ Minh Thần lẹ tay búng véo một cái, tay kia thọc luôn vào sườn Thiết Thủ, Quản Kình đỡ tên đầu lĩnh, Võ đỡ Thiết Thủ, vác vào đặt xó buồng. Đoạn nhẹ gót xuyên cửa thông sang buồng bên, đây là một căn rộng dáng phòng khách, bầy biện rất nhã.

      Qua buồng khách, tới đầu bên kia, sau rèm cửa thông, thấp thoáng hai, ba bóng nam nữ, nấu nước, pha trà, gọt trái rót rượu...ra vào căn buồng phía sau sát vách đá. Đợi chút hai ả vào, còn một, Võ dặn Quản Kình trấn ngoài, đoạn rón rén nương đồ vật tiến vào, hạ luôn một gã khách lớn vừa đi ra. Nhờ có ngón điểm cách không á khẩu, Võ đột nhập êm ru ngồi thụp, vén rèm, dòm vào.

      Buồng trong, cửa đóng kín, khói um, mùi thơm ngầy ngật tỏa ngào ngạt, một cảnh huyền ảo hiện ra, lặng lẽ như trên màn ảnh câm. Xế cuối buồng, xa xa có một cái sạp rộng, có hai tên khách nằm hút thuốc phiện, dưới chân, một ả tàu đang ngồi tiêm thoăn thoắt luôn tay. Hai ả hầu vặt gần đấy. Ánh đèn dầu lạc lung linh hắt lên người, vật quyện khói thuốc lờ mờ, cả hai đều mặt xường xám chấm gót, lưng quay vào trong, mặt hướng ra ngoài, một tên gầy gò coi ốm yếu như que củi, trạc hơn bốn mươi lăm, bốn mươi sáu, để ria dài, không cân, mặt coi đanh thép phong trần, còn tên kia trái lại to như con trâu mộng, cụt một chân, lắp chân gỗ, râu quai nón xồm bàn chải, cằm bạnh, mắt diều hâu, vừa oai vừa dữ hết sức!

      Nhìn kỹ, mới hay chỉ có tên khách ốm nằm hút liên miên không ngớt, còn tên kia nằm không, cả hai đều nhắm mắt. Để ý, còn thấy bên kia đầu tên khách ốm có đặt một khẩu "moóc chê tám mươi mốt" bên một sợi dây lưng to bản, dắt đạn tám mươi mốt nằm một hàng như đàn lợn con.

      Võ Minh Thần ngạc nhiên, nghĩ thầm:

      - Quái nó nằm hút thuốc phiện, sao con hầu lại bảo nó luyện võ? Hay nó luyện bí kíp? Phù Dung Công? Mà tên nào là Chúa Mã Đầu? tên gầy hay tên to lớn kia? Chưa rõ nó lợi hại đến mức nào? Tình thế này, kéo dài bất lợi, thủ hạ nó đổ tới, sẽ ngay?

      Phải nhân bất ngờ đột nhập, giải nhập là hơn!

      Bèn vén rèm xẹt luôn vào, đứng tựa lưng vào vách, nhanh như chớp búng lia mấy nhát chỉ phong vào mấy kẻ hầu gục ngã, quát chìm:

      - Nằm nguyên! Ta có chuyện muốn nói!

      Lời vừa dứt, dù đã cắp nách, chĩa vào sập, tay phải xòe cong, trong tư thế sẵn sàng chụp. Võ Minh Thần chiếu cặp mắt điện vào hai tên khách. Đang nằm nhắm mắt hút, sực nghe động âm, tiếng quát, cả hai tên khách cùng mở choàng mắt ra nhưng có điều hơi lạ là cả hai đều không ai giật nẩy mình, cứ nằm yên, đủ tỏ cả hai đều cao tay bản lĩnh. Vừa mở mắt trông ra, thấy một chàng trai điển đứng sững dưới ánh đèn dầu vàng sệt, mặt lạnh như băng, nách lại cặp một cái dù trắng, coi rất ngộ, tên khách to lớn vùng cất giọng lệnh vỡ hỏi gọn lớn:

      - Nị là ai?

      Dằn nhẹ bàn tay xòe trảo, Võ Minh Thần hất hàm, khẽ tiếng Quảng Đông:

      - Trong hai người, ai là Chúa núi Mã Đầu?

      Hai tên nhìn nhau, tên gầy ốm nhếch mép cười lạnh lẽo:

      - Hỏi Chúa Mã Đầu có chuyện gì? Coi sát khí đầy mặt, phải đến báo thù?

      Cách sáu, bảy bộ, Võ Minh Thần tiến thêm một bước dài, dằn giọng:

      - Muốn hỏi ai là Chúa Mã Đầu?

      Viên khách ốm vẫn không nhúc nhích:

      - Ta đây! Nhưng ta rất ghét kẻ ăn nói khiếm nhã! Muốn hỏi gì cũng phải cho lễ độ chứ? Chú mày còn trẻ tuổi, tưởng có tài lên được tới đây, là muốn sao cũng được à?

      Cảnh tượng con quỷ mũi vẹt sát hại gái tơ trên ngọn đèo hiện trong óc, Võ cười khinh nhạo:

      - Lễ độ? Hừ! Ngươi nói nghe tử tế lắm nhưng có thể nào lễ độ với tụi moi tim, moi óc, hút tủy, hiếp sát gái tơ chăng?

      Tên khách ốm quắc mắt:

      - Ngươi từ đâu đến, có thể nhục mạ Mã Đầu Sơn đến thế ư? Hãy thận trọng, ta không quen giết người khi chưa rõ bạn, thù! Nhưng lệ đó có thể phá bỏ nếu ngươi dám lăng mạ oai danh Mã Đầu?

      Võ Minh Thần cười nhạt hất hàm:

      - Ngươi không dám nhận chuyện ghê tởm. Hừ! Ta tới đây cũng vì chuyện đó? Giờ hãy ngồi lên, ta hỏi? Còn người kia vô can, cứ nằm nguyên! Chớ quên ta có thể xuống tay, nếu cưỡng động!

      - A Lìn! Tiêm! Tao không quen nói chuyện với kẻ khiếm nhã!

      Viên chủ núi Mã Đầu hất hà ra hiệu cho ả ngồi tiêm, ả này nhấc luôn cái dọc lớn "múa đao liền".

      - Bỏ xuống! ta cần nói với chủ ả!

      "Véo" từ lòng tay Võ vụt ra một luồng thép sáng chặt "chát" cái, đứt phăng cây dọc, một khúc rụng xoảng xuống mâm đèn. Ả giật nảy mình, dáo dác, chưa kịp ngoái lại đã bị một bàn tay vô hình túm lưng áo lôi phăng xuống đẩy dụi góc buồng.

      Cặp mắt hai tên khách thoáng long lên, tên gầy ốm đánh vụt tay ra lẹ như chớp. Tưởng y đả kình, nhưng chẳng thấy gì cả, y đưa tay xuống gãi đùi. Nào dè từ tay y đã phát ra một luồng độc khí mê hồn bay vút vào mặt Võ, mùi thuốc phiện thơm lừng.

      Chính đòn "Phù Dung Công" hấp luyện tới mức cao, kẻ khác ngất mê luôn, nhưng Võ đã bế huyệt, vận công ngầm sẵn cứ đứng trơ trơ, tuy cũng hơi choáng váng chút. Tên khách kêu "hầy" sửng sốt, Võ vừa toan xẹt tới, bỗng nghe "sầm" cả xó buồng đen rầm lại, sập mâm đèn hai tên khách biến mất, một tấm sắt dày đã ập xuống kín mít.

      Nhanh đến nỗi Võ chỉ thấy trước mặt vụt tối thui không kịp trở tay, nhưng chàng trai kịp phản ứng nhảy vọt lên kèo nhà sát vách, dòm xuống dưới ánh trời chiều hắt soi mờ mờ, chỗ chàng đứng cũng tụt luôn sàn sâu thăm thẳm qua cả nền nhà dưới, vút vút, năm sáu sợi dây xích từ mấy phía quất lia ra xiết xoắn lấy chỗ đó vừa tầm người riết lại thành một nút bòng bong.

      Lập tức có tiếng cười ngạo nghễ hắt ra:

      - Chú mày giỏi! Còn đấy chứ? Hà hà! Thoát được Phù Dung Công cũng đã tay điêu luyện đó! Ta còn ngờ nên mới bắt sống, nếu không chú mày nát thây rồi!

      Võ cứ đậu trên, không lên tiếng. Chợt lại nghe rõ tiếng lệnh vỡ, chắc tên khách lớn chủ núi Đầu Ngựa:

      - Chưa chắc đâu! Coi hắn lợi hại dữ à? Nhưng hắn sỉ nhục đại huynh moi tim moi óc là thế nào? Hay có tên Mã Đầu nào làm bậy?

      Nghe tiếng, Võ chợt thấy ngạc nhiên hết sức, xem bề ngoài bọn chúng có vẻ thận trọng ung dung không quái đản như chàng tưởng, khi gặp tên phó tướng quỷ mũi vẹt. Chàng trai nhíu mày, đảo mắt sực nghe tiếng vọng ra, lần này dõng dạc và nghiêm:

      - Chú áo chàm còn đấy chứ?

      - Tất nhiên! Ta vượt biên thùy đi ngàn dặm tìm núi Đầu Ngựa, đâu lại vào cạm bẫy dễ thế? Nếu cần ta có thể chém nát tấm thép chắn của ngươi! Lánh mặt ư! Coi đây!

      Lời dứt, tay chém xả liễu đao, "chát" tóe lửa. Tấm thép này dày tới nửa đốt tay, liễu đao của Võ vốn loại cổ truyền không kém loại kiếm "Ngư Trường" của Hạp Lư xưa, vừa chạm tấm thép, cả tấm rung chuyển ầm ầm, thủng luôn một đường dài ngót gang tay, xuyên tận bên kia, phóng nhát thứ hai đã khoét một lỗ hổng tam giác bằng bàn tay. Bỗng có tiếng hô giật:

      - Khoan! Ta có nhiều nghi vấn! Đấu chiến sau cũng được! Ngươi là ai? Tới Mã Đầu Sơn làm gì? Cho ta rõ vì lẽ gì?

      Võ nghĩ thầm:

      - Nói chuyện cho ra lẽ, rồi báo cừu sau cũng được! Ngoài cừu hận, ta còn phải truy tìm thân thế nữa! Như lời chú Sềnh trối trăng Chúa Đầu Ngựa biết rõ! Bèn nghiêm giọng nói lớn:

      - Ta là giọt máu thừa mười bảy năm xưa đấy! Đứa bé bất hạnh, mẹ nó chết thê thảm trên biên địa phân mao, chiều hôm đó. Ngươi là kẻ ta tìm khắp thiên sơn, ngươi có mặt chiều đó, bàn tay ác độc thủ phạm... ngươi đã nhớ ra chớ?

      Bỗng nghe tiếng bật kêu sửng sốt:

      - A... đứa bé, mười bảy năm trước, miền biên giới phải vùng có cỏ phân mao thuộc đất Cao Bằng?

      Nín thở, Võ đáp nhanh:

      - Đúng! Chiều hôm đó. Một linh hồn đã phải lìa khỏi xác, vì sa tay quỷ sứ biên thùy! Chúa núi Đầu Ngựa, con quỷ nanh ác biến người đàn bà đó thành "cái túi da"... mẹ ta... trời ơi! mẹ ta chết thê thảm dưới nanh vuốt quỷ... Ngươi nhớ chứ? Nhớ chú khách Tắc Sềnh, nhớ ông già họ Võ chứ?

      Giọng chàng rung mãnh liệt, nghẹn nức, Võ cắn chặt răng, cảnh tượng ghê gớm chờn vờn, bỗng nghe tiếng hai tên khách líu lo toàn tiếng lóng giang hồ, rồi tiếng tên gầy ốm bật cao:

      - Hầy! Ngộ nhớ rồi! Trời mười bảy năm... mười bảy năm... còn sống lần về... Ngộ nhớ rồi... ngộ không phải Chúa Mã Đầu! Ai bảo nị tới đây?

      Lạnh lùng Võ buông gọn:

      - Tắc Sềnh và cha ta, hai người sống sót!

      Vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng Quản Kình hú báo động, rồi có nhiều tiếng quát tháo líu lô, súng lên đạn cành cạch, có tiếng quát như sấm:

      - Tài Wang? Tài Wang? Có hai đứa lạ bắt mất Thiết Thủ phó tướng à! Nó vừa lẻn lên đây! Nó kìa!

      Đoàng đoàng! Súng nổ đì đẹt, tiếng Quản Kình hét:

      - Đứng dưới! Thằng nào mò lên, tao nổ vỡ sọ?

      - Trở ra! Xông lên! Nó không bắn kịp!

      Võ Minh Thần giật mình, biết đã lộ. Chàng trai chưa kịp tính đối phó cách nào bỗng giữa cảnh rầm rập náo loạn, có tiếng tên khách quát vọng ra:

      - Ngừng bắn! Không được bắn càn! Khách Tài Wang Chúa soái à!

      Lập tức súng im, tiếng kia lại hắt ra:

      - Cứ đứng đó! Ngộ ra đây!

      Tấm sắt từ từ chạy lên cao, mâm đèn, mọi thứ lại như cũ. Thì ra vách núi có hang sập lọt vào tấm cửa sắt là đóng.

      Hai tên khách ngồi sập, vẫy gọi Võ Minh Thần, đã sẵn chủ ý, Võ nhảy xuống liền. Tên khách cười vuốt ria trỏ tên râu xồm:

      - Bạn ngộ bên núi Ngưu Đầu, Thiết Mộc Đại Vương, còn ngộ Thần Pháo Tài Wang, tụi nó quen gọi "sếnh sáng" à! Ngộ là chủ tướng núi Mã Đầu này, còn chủ soái Đại Vương ngộ đi Vân Nam mấy năm chưa về, Chúa soái ngộ có ba núi à!

      Đoạn viên chủ tướng núi "Đầu Ngựa" mời chàng trai họ Võ ngồi tạm, y bước ra ngoài thềm quát lớn:

      - Hai sếnh sáng là khách quý của Tài Wang Chúa, anh em Mã Đầu đâu về đó, không được kinh động nữa!

      Võ Minh Thần theo ra, thấy quân tướng Đầu Ngựa lũ lượt xách súng, tản đi hết, chàng bèn gọi Quản Kình hạ súng, cùng theo vào. Lại giải huyệt đạo cho Thiết Thủ Đại Vương cùng mấy thủ hạ nam nữ của viên chủ tướng, nói lời xin lỗi, đoạn bảo y:

      - Mỗ tên Minh Thần, còn người này là quản gia thân thuộc! Bọn mỗ vì đau thù bậc sinh thành, cam thất lễ, dám mong sếnh sáng bỏ qua và xin cho rõ đầu đuôi, ơn rất trọng!

      Thần Pháo Đại Vương cười bảo:

      - Cũng may, ngộ ngờ ngay vì câu mắng nhiếc của công tử à! Từ mấy năm nay, theo lệnh chủ soái, cả ba núi Mã Đầu, Ngưu Đầu, Kê Đầu đã bỏ cướp khắp vùng biên địa, chỉ đánh thuê, buôn lậu, làm nghề bảo tiêu, lấy quân lương sống. Mỗi năm lại xuất sơn, đi "đánh mướn" cho quân phiệt các nơi, một hai chuyến cũng dư tiền sống, nên nghe công tử mắng, bọn ngộ sinh nghi à! Xin cho ngộ rõ!

      Thầy trò Võ nghe qua, nhìn nhau, cũng lấy làm lạ vì gặp bọn đại vương thổ phỉ lại không làm nghề ăn cướp. Nhưng hai người tin ngay, vì đương thời bên Tàu đất rộng người đông, giặc giã như ong, mấy nghề đó bọn "anh hùng thảo dã" làm ăn rất phát đạt, và rất đắc dụng.

      Thiên hạ đánh nhau loạn xa, nhất nghề buôn lậu, đánh giặc mướn, bảo tiêu, càng vượng vì các ông tướng quân phiệt lớn nhỏ vẫn đánh lẫn nhau, ai cũng cần tay súng giỏi, quan đi làm lạc thảo cũng lắm, lạc thảo ra mà quan cũng nhiều.

      Nhưng giữ nguyên "thế lạc thảo hùng cứ dải rừng xanh" để đánh thuê, thu thuế, không đầu ai, chẳng phải tay nào cũng làm nổi! Nhớ đến tên phó soái mũi vẹt, Võ ngó Thần Pháo, Thiết Mộc hỏi:

      - Trên đường đi kiếm Mã Đầu sơn, mỗ có gặp chuyện lạ rất tàn khốc. Có một quỷ nhân mũi vẹt một mắt phá phách khắp một dải biên thùy khu giáp phủ Cao Bằng, nó bắt gái tơ hãm hiếp, luyện ma công, rồi cho quỷ đười ươi móc tim, hút óc, coi rất ghê sợ. Hiện có nhiều bản Tàu mới bị tan hoang, Tchang Xây đi thu thuế bị chặn đánh cũng vì thế. Mỗ tình cờ gặp chém hụt nó, nó xưng là phó soái Mã Đầu Sơn thách mỗ tới. Mỗ tới, mới hỏi qua, quả có chủ soái mũi vẹt, một mắt là thế nào?

      Thần Pháo, Thiết Mộc cùng trợn mắt nói lớn:

      - Hầy à! Con quỷ mạo danh! Mã Đầu có người mũi vẹt, chột mắt thường gọi là Độc Nhãn Đại Vương, nó nóng như lửa, nhưng không làm chuyện ma quái! Con quỷ kia có lẽ là Độc Nhãn Tinh rồi! Năm trước nó bị bọn ngộ đánh suýt chết, nó thù đi luyện võ độc, mạo danh bôi xấu, tích oán cho thiên hạ thù ghét đánh phá bọn ngộ đó!

      Võ hỏi:

      - Nghe nói y đi vắng chưa về.

      - Vừa về đây! Thiết Thủ à! Bảo nó kiếm Độc Nhãn lên đây!

      Thiết Thủ quay đi, chủ khách chưa uống xong tuần trà, đã thấy y dẫn lên một tên khách hình dung cổ quái, da đỏ, mũi vẹt, chột mắt, bụng còn giắt một lưỡi bán nguyệt có giây xích, coi giống con quỷ rừng hết sức.

      Nhưng Võ nhìn kỹ, quả nhiên không phải! Viên này mập hơn chút, mũi không quắp nhiều bằng, rõ nhất là chẳng có dấu chém mới nào. Võ nói luôn:

      - À con quỷ kia đội lốt bôi xấu tiếng Mã Đầu! Mỗ cam thất lễ, xin sếnh sáng cho biết chuyện năm xưa! Mỗ lòng như lửa đốt.

      Thần Pháo nhắp trà, nhìn ra xa, vẻ mơ màng, trầm hẳn mặt:

      - Rất tiếc ngộ không được biết đầu đuôi nguyên ủy! Vì Chúa soái không hề cho biết kỹ, nhất là ngộ, mới về núi này được mấy năm. Nhưng trước kia vốn là chỗ quen biết nhau và ngộ từng giúp chủ soái sang đánh thành Hà Giang bên Nam. Mười bảy năm xưa, tình cờ ngộ tới núi này chơi vào dịp chủ soái ngộ mới sang Nam về.

      Người có vẻ buồn rầu, sai đóng một cỗ áo quan thật đẹp, đặt trước một bàn thờ, ngày đêm đèn nhang khấn vái. Chẳng biết trong đựng gì, ngộ hỏi, người không nói. Bữa kia, nhân lúc vắng, ngộ lẻn vào buồng, mở nắp ván coi, thấy một cái xác người khô đét coi dễ sợ. Người vừa sịch vào, rầu rĩ bảo:

      - Người đàn bà này là một bậc quốc sắc, mắt ta thấy, chỉ mấy phút sau, thành cái túi da vì con quỷ bốn chân ngoài biên thùy. Ta cũng bị nó vồ, tha khắp rừng, may thoát, vì người bôi đất, rắc thuốc độc. Ta chứng kiến nó ép nàng làm vợ không được, nó biến thành nàng cái túi da, coi kinh khiếp cực kỳ.

      Con quỷ bốn chân này oai lực gớm ghê, nó theo vồ bắt đứa con nít con nàng, không gặp dị nhân cứu, chắc bị tay nó chết rồi. Ta ướp xác này, đợi đứa nhỏ lớn lên gặp, ta sẽ cho xem cái di tích thảm thê này! Chú đừng hỏi nữa! Và hãy quên đi! Nếu đến tai con quỷ, chắc không thoát được! Vỏn vẹn, mỗ chỉ biết thế! À! người còn nói, đứa nhỏ vòng xanh!

      Võ chìa tay đeo vòng hỏi:

      - Giờ người hiện ở đâu? Và xin cho rõ tên người?

      - Chủ soái ngộ tên Thoòng Mềnh, thiên hạ vẫn gọi là Pạc Hoọc Đại

      Vương, vì bắn "Pạc Hoọc" hay nhất nước Tàu. Hiện người đi theo Chúa tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn!

      Hơi ngạc nhiên, Võ Minh Thần từ tốn hỏi:

      - Thoòng lão tiên sinh trong tay có quân gia đông mạnh, sao không ở nhà, làm chúa tướng lại đến tận Vân Nam tôn phò người khác?

      Thần Pháo, Thiết Mộc, Thiết Thủ, Độc Nhãn nhìn nhau cùng cười lớn, chủ tướng núi Mã Đầu vuốt ria bảo:

      - Công tử chưa biết rõ ẩn tình đó thôi! Chúa Thập Vạn Đại Sơn oai võ như thần, thông suốt thập bát ban võ nghệ, nội ngoại thần công, nhâm cầm độn toán kỳ môn dị pháp ngoại thuật thôi miên lục thao tam lược, bắn súng như máy, vẩy tắt đom đóm ban đêm, bố trận bày binh, hành quân tác chiến, trên nước, dưới bộ, không món nào không giỏi, thiên hạ đương thời liệt vào hàng thượng thừa bá chủ. Tính lại quang minh chính đại, nghiêm như thần, đức dung người như biển, quan chức mấy cõi Tây Tàu cũng phải trọng, huống chi bọn ngộ? Được theo hầu là may à! Nguyên năm bảy năm trước, chủ soái bọn ngộ mấy lần đối địch bị thua được người tha mạng sau lại giúp ngón võ nước Nam bí truyền, khiến chủ soái ngộ báo được mối thù sát hại toàn gia, hạ được hai anh em Kiệt, Trụ hết sức lợi hại à, mới thu gồm hai núi Ngưu, Kê Đầu vào cùng Mã Đầu nên chủ soái bọn ngộ mới quyết xin theo hầu Chúa tướng Thập Vạn Đại Sơn! Hiểu tử thương hiếu tử, nên chủ soái ngộ mới cố đem xác về Tàu, cất giữ, cố đợi may ra gặp lại con nạn nhân chăng? Nay công tử đã trưởng thành, chủ soái ngộ gặp chắc vui dữ à!

      Võ Minh Thần nghe qua, lòng bồi hồi cảm động, khẽ thở dài, rung giọng:

      - Chẳng hay sếnh sáng có rõ hiện di hài người mẹ oan thác của kẻ này quản giữ tại đâu chăng?

      Thần Pháo Đại Vương đáp:

      - Hồi ngộ đến chơi, xác được để trong hốc tả ngọn núi, ngay sau căn nhà này! Nay chẳng hiểu còn đấy không, vì từ đó, không ai được nhắc tới, sợ lậu ra, thấu tai con quỷ dữ! Thử vào coi! A Lìn! Kiếm cây đuốc!

      Cô gái hầu chặt ra đem vào. Bó đuốc thông cháy lép bép. Thần Pháo cùng mấy viên khách lục lâm kia đưa thầy trò Võ vào trong, tít sau có một cái hang ngách, cửa đóng im ỉm. Thần Pháo mở cửa đầy bụi, coi đuốc, đưa Võ vào lòng hang, quả nhiên thấy có cái bàn độc đặt đó đóng lớp bụi đá dày, ngoài đồ thờ, còn có một cái bài vị sơn son hệt lối bài vị bên Nam.

      Không khí âm u lạ, nhưng tìm quanh chẳng thấy quan tài xác đâu. Thất vọng, Võ cùng bọn Đại Vương Mã Đầu soi đuốc, thấy trên bài vị có đề mấy hàng chữ:

      "Vô danh nữ

      Mệnh phụ quốc sắc

      Vị tiết vong thân đại thảm khốc cận giới tuyến phân mao thảo Nam bang chi địa đích do quỷ chúa sài lang tứ túc Hồng Cẩu Quẩy bạo hành hiếp sát, Thoòng Mềnh lạc thảo Mã Đầu sơn đồng lâm nạn thị kiến nhãn tiền. Khắc đỏ hoàng hôn hạ tuần bát nguyệt đệ... niên"


      Vừa đọc xong mấy hàng chữ trên mặt bài vị tự nhiên nước mắt chàng tuổi trẻ mồ côi chí hiếu chảy ròng ròng, lòng đau như cắt, rung động kêu lên thống thiết:

      - Mẹ, mẹ! Giọt máu thừa của mẹ mười bảy năm xưa đã về đây! Con mẹ lạc loài sống sót về đây... mà xác mẹ, hồn mẹ đâu rồi! Con đây! Đứa bé mồ côi không biết cha, biết mẹ, không biết cội nguồn gốc rễ, nhờ ân tôn sư dưỡng phụ nó đã sống tìm về cố quốc, quyết tìm thù báo oán, mà chẳng rõ nguồn cơn, gốc rễ! Thiên địa mịt mù oan thù mờ mịt, thân thế mơ hồ, cha con là ai? Còn sống hay chết? Con quỷ Hồng Cầu Quẩy là gì? Ở đâu? Hồn mẹ khôn thiêng hãy phù hộ cho con tìm được cội nguồn, kẻ đại thù hiếp sát! Một giọt máu thừa này, con xin dâng cho thù hận, giọt máu mẹ đẻ ra đây sẽ rửa sạch nhục thù cho mẹ được nằm yên trong cõi u minh!

      Than xong, lại thắp hương, phục xuống trước bàn thờ, khấn vái, khóc rất thảm thiết. Quản Kình cũng phục sau, lễ bái, cầu vọng oan hồn người đàn bà chết thảm về phù hộ cho hiếu tử phục thù. Mãi lúc đó, Quản Kình mới hay Võ Minh Thần là dưỡng tử của ông già chủ y nhưng lòng không thay đổi vì cảm nghĩa họ Võ.

      Thấy hai người khách Nam than khóc, đám đại vương lạc thảo hết sức ngậm ngùi, đứng im lặng, tỏ dấu kính trọng chàng hiểu tử và nghĩa bộc. Mươi phút sau, thầy trò Võ theo bọn Thần Pháo ra ngoài. Chàng trai hỏi thăm đường tới Thập Vạn Đại sơn, Thần Pháo lấy trong tủ ra một tấm bản đồ có vẽ đường vào miền Mười Vạn Núi, trỏ dặn kỹ, đoạn bảo:

      - Miền Đại Sơn, núi non trùng điệp cực kỳ thiên hiểm, kiếm được bản doanh chúa tướng Thần xạ không phải dễ, xưa nay chưa có kẻ nào vào tới nếu không có phép "người"... Dùng võ thuật lẩn vào rất nguy. Nhưng công tử không ngại, chủ soái ngộ có để lại một cây lệnh tiễn, tới ngoại vi căn cứ bắn sẽ có người đưa vào.

      Dứt lời, với ống bương bên vách, rút ra một cây tên tặng Võ. Võ đỡ coi, thấy dài hơn ba gang, nơi cánh tên có ghép mấy ống trúc tựa sáo diều, chế tạo rất khéo, thân tên có khắc mấy chữ Hán: "Thập Vạn Đại Sơn", Võ Minh Thần nhận lấy, cảm tạ, xin từ giã. Viên chủ tướng Mã Đầu lưu lại khuyên:

      - Thù như lửa đốt, nhưng chưa phải quá gấp! Đường Vân Nam còn dài, công tử nên nán lại, mai đi là hơn! Xin hãy bình tâm, chớ nóng quá, dễ sinh ám trí à!

      Võ đành nghe theo. Đêm đó, hai thầy trò Võ ăn uống xong, lưu lại ngủ trên ngọn Mã Đầu sơn ngay tại tư dinh Thần Pháo Đại Vương. Sớm mai, đám tướng lạc thảo đặt tiệc tiễn hành rất trọng thể.

      Thần Pháo lại sai thủ hạ lo sẵn lương khô, vật dụng, chọn hai con ngựa rất khỏe tặng hai người, thay ngựa cũ.

      Bọn Thần Pháo tiễn ra tận trại ngoài mới trở về, không quên biếu hai cây súng trường, hai cây cung phòng dụng tới. Lòng phơi phới, hai thầy trò cứ theo lộ trình dặn sẵn lóc cóc xuyên Quảng Tây, nhằm lãnh địa Vân Nam đi miết, vừa đi vừa hỏi thăm thổ dân, đêm nghỉ ngày đi, đường xuyên sơn quanh co bất trắc, phải đánh nhau với thổ phỉ hai, ba trận, qua không biết bao nhiêu dải núi cao rừng rậm, mặt thư sinh đầy bụi viễn hành.

      Rồi một bữa kia, hai người đã đến vùng hùng cứ của Chúa tướng Thần Xạ. Tính sơ lại, đã bỏ lại sau lưng ngựa không biết mấy vạn ngọn núi lớn nhỏ, đứng trên đèo cao nhìn về mạn Bắc, chỉ thấy vực thẳm, rừng sâu, núi ngửa trời, chẳng biết bao nhiêu đợt nữa. Quả là một miền địa hình địa vật trời dành sẵn cho các tay anh hùng thảo dã có chí dọc ngang ngoài vòng pháp luật.

      Comment


      • #4
        Hồi Thứ Tư



        Chúa Tể Mười Vạn Núi



        Quan sát giây lâu, lôi bản đồ ra coi lại, Võ Minh Thần tấm tắc bảo Quản Kình:

        - Thập Vạn Đại Sơn quả là vùng cứ hiểm đắc địa, đúng như thiên hạ đồn. Chiếm nơi này hàng ngàn vạn quân cũng bó tay. Theo lời Thần Pháo, từ vùng này vào tới bản doanh cũng còn cả trăm cây số, quân tuần tiễu qua lại, nhưng phải đi sâu chừng hai ba chục cây số nữa mới đến tiền đồn tiền trại. Nay mới giữa trưa, ta nên đi ngay cho sớm gặp quân tuần càng hay.

        Quản Kình khen phải, thầy trò giục ngựa đi miết. Đường này là đường giao thông qua các vùng rải rác sơn thôn. Đường xuyên sơn hiểm trở gập ghềnh, nhiều chỗ chạy qua những hẻm núi hai bên dựng như thành, không khác Lạc Phụng Ba, Hoa Dung Đạo. Lại có nhiều khúc tưởng không có đường phải đi qua núi đèo khe thác, hoặc cầu treo, không khác sơn đạo của Ba Thục xưa.

        Có khúc sơn đạo dài cả chục cây số, chênh vênh trên mây, coi vừa hùng vĩ vừa nguy hiểm đến chóng mặt. Mỗi khu có sơn thôn lại có đường mòn khác rẽ vào, tuy hiếm nhưng nương đồi san sát, coi rất sầm uất, khoảng ba giờ chiều vừa đi hết một khúc sơn đạo, tới một con thung rất phong quang, bỗng Quản Kình gọi giật:

        - Cậu hai à! Có đoàn nhân mã sau ta!

        Võ dòm lại, ẩn hiện sau cành lá, quả có một toán hơn chục người ngựa rầm rập chạy xa xa khúc sơn đạo vòng thúng, đang đi tới.

        Chưa rõ bọn nào, hai thầy trò bàn nhau vọt xuống thung lũng, ẩn tạm sau lùm cây rậm.

        Thoắt trông lên, chẳng thấy đâu nữa, chỉ có hai bóng mặc lối xạ phang chạy thẳng xuống chân đồi, lẩn đâu mất dạng.

        Tưởng có lối khác, hai thầy trò vừa định đi liền, bỗng nghe tiếng chó sủa ran, rồi thấy hai con cọp vằn to lớn từ nẻo rừng Bắc vọt chồm ra, có một đàn hơn mười con chó săn đuổi theo cắn chân, khiến hai con cọp nổi giận, quay lại tát. Nhưng chó rất khôn, cứ con cọp dừng, chúng lại lảng liền, thình lình nghe tiếng quát lanh lảnh, rồi một con ngựa bạch từ sau bóng cây lá vọt ra, mang trên lưng một thiếu phụ đẹp tuyệt trần trạc hai mươi bảy, hai mươi tám, mặc toàn quần áo trắng, choàng áo trắng, trước mặt nàng lại có một chú bé độ năm, sáu tuổi mặc quần áo vóc đại hồng, đầu lại chít khăn nhiễu, coi rất ngộ nghĩnh, thông minh. Chú bé chỉ trỏ, reo hò, nhấp nhổm, thiếu phụ vừa tế ngựa, vừa cúi mặt như dặn bảo chi.

        Bỗng nàng ngẩng lên, quát lảnh, giọng thánh thót như tiếng đàn:

        - Hồ vằn! Mi còn định chạy đi đâu? Chưa chịu theo đầu phục?

        Lời vừa dứt, đã thấy nàng thả vút ra một sợi giây xích sáng loáng, chỉ nhỏ như sợi giây gai, cách đến sáu mươi bộ ngoài, thòng lọng chụp trúng cổ con cọp, lôi nghiến lại. Con cọp rống lên, lồng đảo giằng co phá chạy, thiếu phụ nhảy vèo xuống đất, lôi con cọp dữ lại, gọi lớn:

        - Kiệt nhi! Thử bắt con kia, mẹ coi được chưa?

        Ngựa vẫn chạy, chú bé áo vóc "dạ" lớn, rượt theo con thú dữ. Chú bé này vẻ thích chí hết sức, vừa nhấp nhổm vừa vỗ luôn tay, thân hình bé nhỏ như dính chỏm yên tưởng sắp bắn văng theo đà ngựa phi nước đại.

        Con bạch mã này đúng loại Thiên Lý Long câu, chạy như gió thoảng, thoáng đã cách con cọp chừng bốn mươi bộ ngoài, chú bé cũng thả vút ra một sợi xích thòng lọng nhỏ, bọn Võ Minh Thần chỉ thấy nháng loằng ngoằng cái, con cọp đã bị thòng lọng xiết cổ, kêu rống lên, đúng lúc nó định vọt lên đồi.

        Chú bé cười khanh khách, thiếu phụ vừa lần dây xích vừa reo lên khen con, chú bé lập tức quất ngựa chạy vòng lại, lôi con cọp theo, con cọp giằng co phá chạy không nổi, bị lôi sềnh xệch. Thầy trò Võ Minh Thần đứng chỗ khuất bên đồi coi không khỏi phục thầm chú bé. Nào dè mới lôi được mười thước, thình lình trong bụi có một bóng người chạy ngựa vọt ra, ré lên:

        - Hầy à! Thằng bé này sao dám bắt cọp tao nuôi! Trả tao, mày!

        Lời dứt, y đã sấn tới gần con cọp, thò tay túm lấy dây xích ngót hai thước móc vào dây quăng, y giật tháo phăng ra, dắt luôn con cọp chạy lên đồi. Tên này coi vẻ lợi hại hết sức, con cọp bị lôi đi rống lên vang động, nhảy chồm tát với theo, tên này ngoái lại chụp luôn lấy cổ con mãnh thú, điểm huyệt con thú cứng đờ, y vác luôn lên vai, cứ thế phóng.

        Chú bé la lớn, rượt theo, lúc đó thiếu phụ cũng vừa lôi con thú lại, tháo xích, sực thấy kẻ lạ cướp cọp của con mình, nàng lật đật bỏ con thú nằm quay đấy, chạy vọt theo, gọi lảnh:

        - Kiệt nhi! Kiệt nhi! Đứng lại! Để đó mẹ! Chú kia đâu tới làm ngang dữ vậy? Lãnh thổ này thuộc ai, chú không biết sao, dám bảo cọp chú nuôi?

        Thoáng tên kia đã chạy lên đồi. Bạch mã thấy y cướp cọp ngang xương, cứ sải vó lên đồi, tên kia chạy vọt vào sơn đạo, chú bé vừa hét đòi, vừa tóm "cổ chó" thòng lọng lao chồm theo, không chịu bỏ, thiếu phụ ngước trông lên, giật mình réo gọi lanh lảnh:

        - Kiệt! Quay lại con! Không được đuổi theo!

        Lần này nàng gọi lối "truyền thanh vạn lý" rót vào tai, mãnh liệt, chú bé gò rập ngựa. Lúc này đã lao vào sơn đạo năm sáu chục thước, ngựa vừa dừng đứng chân sau, quay lại, bất thần... "rầm". Cả một khúc sơn đạo dài gãy rắc chân ngựa, hiện ra vực thẳm phía dưới, nguy là khúc sơn đạo này như một cầu treo chênh vênh trên hai chỏm đầu đồi, không còn ngả thoát xuống nổi!

        Thiếu phụ nhác thấy biết ngay "có biến" vừa giật mình kinh sợ ngó quanh, bỗng nghe có tiếng người quát nhọn hoắt:

        - Người đẹp đứng lại! Ta không hại nó đâu! Chỉ muốn nói với nàng câu chuyện!

        Lúc này nàng đã tới lưng đồi, nghe quát lập tức xẹt sau một thân cây đảo mắt trông quanh! Chỉ thấy trên cao, sơn đạo chênh vênh chạy vào rặng núi đá, bị cắt đứt một khúc dài, phía ngọn đồi, chú bé đứng ngựa quay đầu sơn đạo gãy, ngựa hí vang lừng, đầu này bầy chó hếch mõm sủa ran. Trên sơn đạo, thấy triệt lối về, chú bé vùng cất tiếng gọi mẹ và thò tay tý hon rút phắt cây trung liên cắm bên ngựa, khệ nệ chĩa theo tên cướp cọp bắn một tràng. Tuy chú ta có sức nhưng nhỏ con, khệ nệ bắn cây súng lớn, coi rất ngộ nghĩnh, khiến bọn Võ Minh Thần muốn phì cười khen thầm:

        - Chà! Chú bé con nhà ai coi can đảm dữ à, bị chặt cầu mất lối vẫn không sợ! Lạ thật! Tụi nào định dở trò gì đây? Ta phải kiếm cách cứu chú bé mới được!

        Bỗng nghe có tiếng cười thét:

        - Người đẹp! Con vịt dại dột bắn càn, sao không bảo nó đứng yên cho người lớn nói chuyện? Muốn nó bị bắn què tay?

        Thấy con đứng lộ thiên, lại sợ nó nổi nóng, xông bừa vào vách núi, thiếu phụ hết sức lo cho con nhỏ, vùng gọi lớn:

        - Kiệt nhi! Sao không xuống ngựa... ngồi chênh vênh thế ngã sao?

        Nàng muốn nói ý cho nó biết nấp vào sau con ngựa, nào dè tiếng la vụt truyền:

        - Không được xuống ngựa! Bảo nó cứ ngồi nguyên và ném cây súng xuống chân! Người đẹp khôn hơn mỗ gia rồi!

        Thiếu phụ bực tức, cố nén gọi con, đứa bé ức quá, phải tuân lời, ném cây súng xuống chân ngựa.

        Thiếu phụ lảnh giọng:

        - Bọn mi to gan, mất trí khôn, dám bức ta! Muốn gì sao chưa ra mặt?

        Tiếng cười ngạo vang lên:

        - He hé! Dọa mỗ gia ư? Giao Long cái ra khỏi vực. Giao Long con đứng trước mũi súng mỗ gia, hé hé! Mỗ gia rình cả tuần rồi! Chịu nói chuyện tức thời với mỗ gia hay đứng đó xem Giao Long con nhảy xuống vực chơi?

        Dứt lời bỗng nghe "đoàng" tiếng súng, trên sơn đạo chú bé giật mình, dáo dác sờ lên đầu. "Đoàng" phát nữa bay luôn nếp khăn trên đầu, giải khăn bị đạn xói vút tung bay phất phơ rớt là là xuống vực.

        Rồi bỗng nghe tiếng súng một nổ đì đẹt, con ngựa cứ lồng đảo xẹt ngang lùi ngược, co chân, múa vó, chừng bị đạn xói mặt sơn đạo liếm sát móng, thoắt đã kề mép sơn đạo cụt, chú bé cứ dáo dác dòm quanh, chỉ sợ sẩy vó rớt xuống vực như bỡn. Tình mẫu tử vô biên, thiếu phụ nhác cảnh nguy hiểm, không nhịn nổi vùng thét lớn:

        - Dừng lại! Ác nhân! Mi hết lương tri sao đem con nít ra đùa hả! Muốn gì cứ nói với ta đây! Để nó yên!

        Tiếng lạ ré lên xao gợn:

        - Mỗ gia không đùa! Mỗ gia sẽ làm thật, nếu người đẹp không biết điều! Nhớ kỹ nó đứng trước mũi súng! Giờ nghe rõ đây, người đẹp hãy giơ hai tay lên trời, tiến lên mười bước!...

        Thiếu phụ cau mày hỏi lớn:

        - Muốn gì nói rõ.

        - Muốn người đẹp theo mỗ gia về động.

        Như bị điện giật, thiếu phụ vùng hét:

        - Súc sinh! Dám phạm đến ta thế sao? Mi là đứa khốn khiếp nào dám bắt ta theo?

        Tiếng lạ từ trên núi đá hắt xuống lạnh như tiền đồng:

        - Mỗ gia là đứa đang chĩa súng vào mẹ con nàng và hiện mạnh hơn cả ngàn vạn binh hùng tướng mạnh nàng đã gặp! Ta cũng là đứa ra điều kiện cho nàng, giơ tay, tiến ra và ngủ tạm một giấc, để rời khỏi miền này không còn tiếc nữa!

        Thiếu phụ giận xung thiên quát lên mắng không tiếc lời, bỗng nghe súng nổ đì đẹt, ngựa bạch trên sơn đạo bị xói dồn lùi tới miệng vực, thiếu phụ tuy can trường nhưng trước tình thế bất lợi hoàn toàn đành thúc thủ, vì mạng sống của con dại, nàng thở phì một cái mạnh như trút hết uất ức, vùng quát:

        - Thôi đủ rồi! Bỏ trò đó đi! Ta thuận đi nhưng còn con ta, ta phải thấy nó thoát ra về mới được.

        Tiếng lạ vọng xuống lạnh lẽo:

        - Mỗ gia hứa, sẽ để nó về, không sai! Nhưng mỗ gia ra điều kiện. Không phải nàng! Giơ tay, tiến ra! Mỗ gia nóng ruột rồi đó!

        Thiếu phụ mím môi, suy nghĩ, lại quát:

        - Được! Ta cũng đành tin! Nhưng ít nhất ta cũng phải thấy rõ mi là tên khốn nào lại mất công đến tận xó rừng này rình chực chứ?

        - Hé, hé! Được! Nhưng nàng không bắn được đâu! Tầm súng không tới đâu!

        Lời dứt, từ sau ghềnh núi sơn đạo, lừ lừ tiến ra một bóng nhân ma quái kỳ dị lạ lùng. Người quần áo đen thui, ngựa cũng trùm vải đen, mặt người ngựa đều bịt kín, chỉ hở hai con mắt, cao lênh khênh, tay trái cầm một khẩu súng, tay phải cầm một cuộn dây thừng đen sì, đầu có móc sắt. Bóng quái dị nói lớn:

        - Ta sẽ kéo sơn đạo gãy kia lên cho thằng nhỏ về nhà! Còn nàng chớ nhiều lời, hãy sửa soạn ngủ một giấc mau!

        Y hất hàm, thiếu phụ đảo óc tính, tất cả đều muộn rồi, mắt nhìn quanh, chợt lúc đó mới phát giác một bóng đứng chỗ khuất xế sau nàng, chĩa họng súng ra:

        - Hạ tên này không khó, nhưng còn con dại trên kia? Tên quái dị coi nanh ác không vừa, nó dám bắn thằng nhỏ như chơi! Trời, ức thật! Cá chuối đắm đuối vì con cảnh này đây! Dẫu có bắt tên kia cũng chẳng ích chi, nó chỉ là con cờ tốt thí mạng!

        Đầu óc muốn phát điên vì giận, thiếu phụ sa cơ từ từ giơ tay lên, tiến ra chỗ trống, tên quái dị áo đen cười the thé, tiến ra gần chỗ chú bé dưới này, tên đồng đảng chĩa súng cũng lừ lừ bước tới gần thiếu phụ xế ngang sườn.

        Thiếu phụ đảo nhìn theo hình bán nguyệt bỗng giật mình, sực thấy sau lưng tên đồng đảng có một bóng lực lưỡng vọt ra, quất một báng súng vào đầu tên này sụm liền. Có tiếng quát vọng lên sơn đạo:

        - Đứng lại! Gã trùm mặt! Người bị súng chĩa vào đầu rồi!

        Tên quái dị giật mình dằn tay súng, y đứng chênh vênh trên sơn đạo, cách chú bé chừng mười sải, dòm xuống thét:

        - Còn thằng nào nữa đó? Muốn đứa nhỏ này xuống vực ư?

        - Hà hà! Nó xuống vực, ngươi cũng xuống vực, nó chết, ngươi cũng chết theo! Ngươi có giỏi cứ cho nó xuống vực đi sẽ thấy! Ta cũng rình đây lâu rồi, ta muốn nó chết vì tay mi, còn mi, mi mất mạng về ta! Hà hà!

        Từ sau lùm cây, một chàng tuổi trẻ lừ lừ tiến ra, đứng bên sườn đồi, chĩa ngọn súng trường lên sơn đạo:

        - Đứng lại! Nếu mi nhúc nhích, ta hạ liền!

        Tên quái dị tay vẫn chĩa súng vào chú bé, ngoái dòm xuống thấy chàng trai áo chàm lạ đứng lù lù, y phát tiếng cười thé nhọn, bất thần chĩa luôn súng về phía chàng. Đoàng! Tiếng nổ dòn tan, đạn xói tung khẩu súng y, ném văng xuống vực, muốn tê bại cả tay!

        - Lần sau ta sẽ bắn thẳng vào đầu! Giơ tay lên! Đừng hy vọng tên thủ hạ dưới này! Ta cho nó "ngủ" rồi!

        Bất thần, chàng nhích về phía núi đá xế sau y, nổ một phát. Trên sơn đạo cao chót vót ngay sau ghềnh, một tên vừa thò cổ ra định bắn trộm, rú lên quăng súng ngã lộn xuống vực.

        Gã quái dị ngó lại giận hết sức, nhưng lúc đó đã lượng rõ nghề bắn của chàng trai áo chàm, y phải đưa hai tay lên hét:

        - Mày muốn gì lại can thiệp vào việc chúng tao!

        - Ta muốn cả mi và đứa bé xuống vực chơi! Nhưng nếu mi không thích đổi mạng thì cút đi cho mẹ con người ta về! Tùy mi chọn! Còn tụi thủ hạ sau ghềnh, đuổi chúng cút trước đi cho khuất.

        Thấy chạm phải tay cứng cựa, gã quái dị áo đen có vẻ xuống nước hét:

        - Thằng ngu! Mạng tao lớn tuổi đổi mạng con nít sao? Mày muốn nó chết cứ giết! Tao không cần đứa nhỏ, tao cần mẹ nó!

        - Vậy để khi khác! Giờ hãy cút đi!

        Dứt lời, chàng trai hú lên một tiếng, Quản Kình vọt lại, vẫy thiếu phụ:

        - Bà! Ta lên cứu em bé mau.

        Thiếu phụ cả mừng, cùng Quản Kình vọt lên đồi. Kình không quên sốc tên kia nằm lên yên ngựa, dắt lên theo. Chàng trai chính là Võ Minh Thần, cứ hờm súng, quét nhãn tuyến dọc từ chỗ gã quái dị vào ghềnh đá chỉ chực một chút khác ý, nổ liền, hô vang:

        - Em bé sao không xuống ngựa?

        Chú nhỏ mừng rỡ, định nhảy xuống, vồ cây trung liên, nhưng quái nhân kia đã hét:

        - Cứ ngồi đó! Hai bên lùi dần về! Chớ quên thủ hạ tao vẫn chĩa vào nó! Không được nhảy xuống! Không được nhặt cây súng! Con nít hay bắn càn! Võ Minh Thần biết ý không để y bị bức quá nên cũng phải nhượng bộ, không tiện đẩy vào chân tường!

        Thiếu phụ cùng Quản Kình vọt lên ngọn đồi phục ngay chỗ đầu sơn đạo. Khúc sơn đạo bằng gỗ còn nằm dọc sườn đồi thành dựng. Quản Kình chưa kịp cử động thì thiếu phụ đã thò bàn tay ngà ra cầm một đầu nâng lên. Sức nàng mạnh dị thường, coi như nâng cái thang bấc, Quản Kình thấy đầu kia bị gãy, khẽ bàn:

        - Bà gọi em bé buộc lại cẩn thận!

        - Khỏi cần! Chú cứ gọi giùm nó đi, tôi cần ẩn mặt!

        Quản Kình gọi lớn, thiếu phụ chợt phát ra một tràng tiếng rúc chi rất lạ tai, lập tức con ngựa ngoái cổ ngoạm luôn cây trung liên, hí một tràng, nhấc vó định vọt. Quản Kình dòm ra phát ớn, thấy sơn đạo bị gãy khúc hơn sải, thiếu phụ nâng lên, chẳng có gì móc nối, ngoài bàn tay nâng tận đằng này, đang nặng bỗng nhẹ tếch, nào dè con bạch mã vừa hí xong, vụt nhảy liền, "rập!" Nhân mã hạ xuống êm ru, đầu sơn đạo vẫn không nhúc nhích! Ngoài kia gã quái dị cũng quay ngựa, đi vào.

        Từng bước, ngựa bạch đi hết đoạn sơn đạo gãy nhảy vọt xuống đồi. Quản Kình cùng thiếu phụ lăn vào bên chân ngựa sau mô đất, quơ cây súng, đúng lúc gã quái dị lao vọt vào ghềnh đá, nổ đẹt đẹt... "chíu" đầu cầu. Thiếu phụ nổi giận xả súng bắn "tặc tặc", chú bé nhảy xuống, phục bên mẹ, Võ Minh Thần lúc này đã ẩn sau điểm tựa gọi lớn. Quản Kình cùng mẹ con thiếu phụ mới ngưng bắn xuống thung, bỏ mặc tên đồng đảng nằm mọp rũ trên lưng ngựa, vì không may đạn trúng chỗ phạm y đã chết ngay.

        Thiếu phụ nghiêng mình chào, cám ơn hết sức, thánh thót như chim oanh:

        - Không được tiên sinh cứu giúp, bữa nay mẹ con tôi đã bị nó bức nguy rồi! Chẳng hay tiên sinh tới miền này có chuyện chi?

        Võ Minh Thần thấy thiếu phụ nói năng dịu dàng, tuổi lại lớn hơn mình nhiều, nên lễ phép thưa:

        - Em bên Nam sang, tới miền Thập Vạn này tìm bản doanh Chúa núi!

        Vẻ ngạc nhiên hết sức, thiếu phụ nhướng cao mày liễu, dịu dàng.

        - Tiên sinh tới bản doanh Thập Vạn Đại Sơn... có chuyện chi đó?

        Võ Minh Thần lễ phép:

        - Dạ có chút việc riêng... quan hệ! Bà ở miền này có biết chỗ ở của vị Chúa soái Thập Vạn?

        Thiếu phụ mỉm cười không đáp, nàng có dáng tò mò, hỏi:

        - Chẳng hay tiên sinh có thể cho biết được việc gì chăng? Tiên sinh tìm chúa Thập Vạn?

        Võ Minh Thần thấy mẹ con thiếu phụ nói năng hòa dịu, vẻ đẹp tuyệt trần, cao quý rõ người mệnh phụ chinh đính, có ý quý nể, thật thà đáp:

        - Chẳng giấu chi bà, em bên Nam sang lần đầu đặt chân tới miền núi hiểm nay. Em có ý sang bản doanh Chúa Thập Vạn, để kiếm một người... có biết rõ cái chết thê thảm của mẹ cha em, người này là vị tướng lạc thảo Tàu, Chúa núi Mã Đầu bên Quảng Tây, họ Thoòng tên Mềnh.

        Vừa nghe đến đấy, chú bé áo vóc đại hồng vùng reo lên:

        - À! Chú Thoòng! Pạc Hoọc Đại Vương râu Trương Phi!

        Thiếu phụ trừng mắt mắng nhẹ, vẻ sửng sốt, hỏi vội:

        - Tìm Thoòng Mềnh núi Mã Đầu để trả thù? Hay...

        - Dạ không! Chúa Mã Đầu là người đã chứng kiến cái chết của mẹ cha em, lúc em còn nhỏ! Thưa, bà có biết Thoòng tiên sinh?

        Thiếu phụ nghe Võ nói, lộ hẳn vẻ mừng rỡ, khi được hay Võ tìm không phải vì thù, lại thấy Võ Minh Thần tỏ vẻ thành thật lạ lùng, nàng càng thêm quý mến, mỉm cười bảo:

        - Thoòng tiên sinh hiện là cánh tay mặt của Chúa Soái Thập Vạn Đại Sơn, người Vân Nam ai không biết? À tiên sinh nói bên Nam sang, phải tiên sinh là người Việt?

        Võ Minh Thần vừa gật đầu, bỗng thiếu phụ sáng hẳn mắt, nói luôn một tràng tiếng ta thánh thót:

        - À thế ra ta người cùng xứ! Đúng duyên kỳ ngộ giữa đường! Gái này cũng người bên đó đây... mấy năm nay rồi chưa có dịp về nước! Nào! Ta cùng đi cho vui!

        Thầy trò Minh Thần gặp người bản quốc tình cờ giữa rừng núi Vân Nam cũng mừng khôn tả. Từ đó nói với nhau toàn bằng tiếng Việt, thiếu phụ dắt con nhảy lên lưng bạch mã giục thầy trò Võ lên yên, dắt theo cả con cọp vừa bắt sống. Võ nghĩ thầm:

        - Người này võ nghệ cao cường, chắc cùng chồng ở ẩn vùng này! Bèn hỏi:

        - Thưa bà ở cách đây bao xa? Em có nghe người Mã Đầu Sơn dặn, từ đây tới bản doanh Thập Vạn cũng ngót trăm dặm, liệu đi đến tới kịp chăng? Thiếu phụ dịu dàng:

        - Nhà tôi với người trong doanh Thập Vạn thân nhau như một. Đường vào đó nguy hiểm hết sức, cạm bẫy địa lôi phục rất nhiều. Tiện đây, để mẹ con tôi dẫn nhị vị đi lối tắt, gần lắm!

        Thầy trò Võ mừng hết sức, nhưng chàng trai vẫn áy náy chỉ sợ làm phiền thiếu phụ. Sau thấy nàng tuy xinh đẹp đài các mà lại tỏ ra thoát sáo, lịch lãm giang hồ hết sức, thầy trò cũng đỡ ngại.

        Đi chừng mười dặm nữa, thầy trò Võ càng lấy làm ghê thầm sức thiên hiểm lạ thường của Thập Vạn Đại Sơn. Đèo núi leo tới mây xanh, thung lũng đổ từng lòng chảo sâu hun hút, chỗ nào cũng đầy hiểm trở, đường mòn, sơn đạo, cầu treo, cầu ngầm trùng trùng điệp điệp, tới một rặng núi đá sừng sững mấy người đang đi bỗng nghe tiếng tù và rúc vang động, từ trong núi vụt phi ra một đội giáp kỵ đông đảo, toàn quân khách mạnh, súng ống, mã tấu tua tủa, dẫn đầu là một viên tướng râu xồm mắt quạ, coi vừa oai vừa dữ như cọp xám, mặc quần đen súng đeo trễ sườn, tay cầm một cây trung liên bánh xe, coi không khác Hứa Chử tái sinh.

        Viên khách này đi dưới một cây cờ đuôi nheo lớn, đầu súng cũng buộc một lá cờ đuôi nheo nhỏ, vừa nhác thấy người viên khách râu xồm hô lên mấy tiếng, lập tức cả cánh quân mạnh dừng cả lại, dàn ngang lối mòn.

        Võ Minh Thần, Quản Kình nhìn thiếu phụ vẫn tươi cười, nàng dịu dàng bảo:

        - Không hề gì! Quân giáp kỵ tuần sát đó thôi!

        Đoạn đưa tay làm hiệu bảo hai người đi theo. Viên tướng xồm râu kia cũng tiến lên, hô lên một tiếng, cả cánh quân bồng súng chào, nàng nói lớn:

        - A Voòng! Cách đây chừng mươi dặm, có một khúc sơn đạo gãy, coi chừng có tụi nguy hiểm lẩn quanh đó! Chú Voòng khá cẩn thận! Nó vừa phục lừa bắt sống Hồng Kiệt bên sơn đạo gãy, may có tiên sinh đây giải cứu! Tiên sinh có việc đến bản doanh trung ương!

        Viên khách râu xồm chào thầy trò Võ, định hỏi chi, nhác thấy thiếu phụ đưa mắt, y thôi ngay, nói lớn:

        - Hầy! Vậy bọn ngộ phải ra ngoài "quét dọn"! Hầy tụi nào to gan à!

        Dứt lời chào, hô giáp kỵ bỏ đi như gió cuốn. Võ Minh Thần thấy thiếu phụ có vẻ quen thuộc đám lạc thảo Thập Vạn lòng thêm mừng rỡ, Võ ngó theo khen

        - Em vẫn được nghe thiên hạ đồn quân tướng Thập Vạn là quân tỳ hổ, giờ thấy quả không ngoa!

        Thiếu phụ đưa hai người vào thẳng chân núi bỏ lối mòn.

        Có con suối chạy bên ghềnh, nàng đưa hai người lội ngược giòng một quãng, dừng trước một vách đá cheo leo lởm chởm ngay lợi nước. Nàng rút cây súng bên sườn, đưa lên miệng thổi một tràng âm thép đập vào vách núi nghe như vũ bão, khiến thầy trò Võ ghê thầm! Nàng trỏ bảo:

        - Cửa vào căn cứ địa! Đường tắt này là ngả bí mật. Chỉ dùng tới khi cần thiết!

        Thầy trò Võ nhìn, chỉ thấy vách đá lởm chởm, cây cối rườm mà, còn đang ngơ ngác, bỗng thấy tảng đá trước mặt sịch đổ từ từ xuống thành một cái cầu bắc qua suối, để lộ một cửa hang tối om, ẩn hiện bóng người cầm đuốc lập lòe.

        Thiếu phụ vẫy hai người vào hang, ngựa khua vó trên mặt đá lóc cóc, thầy trò Võ đưa mắt nhìn, thấy hang sâu hun hút rộng hơn thước, có ánh đuốc cắm rải rác, năm, bảy bóng lực lưỡng câm nín đứng hai bên, cạnh cần trục cúi chào, thiếu phụ dẫn hai người đi thẳng, chừng trăm bộ mới hết con đường bí mật đục thông ruột núi.

        Trước mặt hai người hiện ra cảnh lâm tuyền thiên hiểm vô cùng, trèo đèo lội suối băng rừng, chênh vênh, sơn đạo, càng đi càng hiểm hóc, có chỗ phải dùng thang dây rút người ngựa lên, lại có đường sơn đạo bắc trên dây cáp từ ngọn núi này sang ngọn núi kia, chơi vơi lưng trời coi không khác đường cáp tàu điện Âu Mỹ tại các vùng mỏ, vùng trượt tuyết vậy.

        Khiến thầy trò chàng trai nom thấy lạ hết sức, càng phục thầm công trình kiến tạo con đường xuyên sơn của người Thập Vạn. Quản Kình lè lưỡi bảo chủ:

        - Hiểm hóc thế này còn ai phạm nổi! Địa thế này còn ghê hơn cả Ba Thục, trách nào Chúa Thập Vạn hùng cứ một phương ai cũng phải sợ!

        Đồn ải rải rác, trại quân từng dãy, hết ngoại vi đến nội vi, gặp nhiều quân kỵ, bộ xuôi ngược cùng các tốp quân tuần, lính canh, tất cả đều chào thiếu phụ rất kính cẩn. Vào lúc xế chiều đã tới một vùng sơn kỳ thủy tú tuy vẫn thiên hiểm nhưng phong quang lạ thường vì những mái nhà gỗ, nhà gạch dọc ngang san sát khắp dưới thung, trên đồi núi, tứ bề cỏ hoa tươi tốt, tùng bách xum xuê, một con đường hai bên trồng toàn liễu rũ chạy bên một con suối trong veo, ngựa chưa thắng yên cương thả đầy đàn, có nhiều con đứng gặm cỏ bên dòng bóng lồng đáy nước, coi như lạc vào vùng sơn thôn, đại trại thời xưa khiến thầy trò Võ Minh Thần ngổn ngang trăm mối, thù nhà canh cánh, cũng thấy như vơi dịu, lâng lâng thanh thoát lạ. Bất giác chàng trai khen tấm tắc:

        - Đẹp như tranh thủy mạc Tàu... Chủ nhân Thập Vạn Đại sơn hùng cứ một miền sơn lâm hiểm hóc, oai mãnh khác người, không ngờ lại có cả tâm hồn cao đẹp, phải là bậc có tâm hồn ấy mới biến nơi doanh trại đằng đằng sát khí thành một vùng kỳ tú đến thế này. Lạ thay! Lạ thay! Chốn đầy súng ống bom đạn, tứ chiếng lạc thảo, mà lại lâng lâng thanh khí ngút ngàn!

        Đang tiến ngựa lóc cóc xế trước, nghe Võ kêu, thiếu phụ bỗng ngoảnh vụt lại, mở to mắt nhìn Võ không giấu nổi vẻ sửng sốt, lấy làm lạ về sức liên cảm kỳ diệu của chàng tuổi trẻ hai mươi.

        Quân khách qua lại tấp nập, xa xa chỗ tập bắn, đấu võ, chỗ quần ngựa, nấu ăn sinh hoạt nhộn nhịp. Lối liễu quanh co, uốn éo giữa khu đồi núi trập trùng, rất nhiều đường đi lại chằng chịt, thiếu phụ đưa hai người lên một trái núi rất đẹp, vào lúc hoàng hôn.

        Lưng chừng núi có nhiều nhà cửa lớn nhỏ, nằm san sát, lố nhố đầy quân tướng, chú bé nhảy tót xuống, giắt con cọp chạy tung tăng, có mấy gã khách lực lưỡng ra chào, nắm tay nói chuyện cười đùa với chú bé, thiếu phụ lững thững đi ngựa dẫn khách qua khu sơn trại tấp nập vòng ra hồi núi ngoảnh về phía Đông Nam.

        Thầy trò Võ chợt nhận ra khu núi này kẽ đá mọc rất nhiều bàng coi không khác cánh rừng con lại còn đầy hoa cỏ, rất nhiều phong lan đặc biệt nhất là có một khu nhà xinh xắn, nền đá cao, nhưng làm toàn tre nứa, lợp gồi, vách nứa đất lối "tooc xi" hình chữ "u" có đủ sân hoa viên, ao thả sen, và hiên nhà nào cũng có giàn thiên lý, đậu ván coi hệt cảnh nhà bên Nam!

        Vừa qua cổng tre, vào sân bỗng chợt thấy có mấy cô gái trẻ thoăn thoắt đi ra, một nàng reo lên bằng tiếng ta:

        - A, phu nhân đã về!

        Thiếu phụ cùng bọn Võ Minh Thần xuống trao cương mấy nàng, Quản Kình tháo hành trang vác vai, nghe mấy cô gái gọi "phu nhân" hai thầy trò thoáng ngơ ngác, Võ lễ phép hỏi:

        - Đây là đâu? Thưa phải chỗ Thòong tiên sinh...?

        Không đáp vội, thiếu phụ hỏi mấy cô gái kia:

        - Soái gia có nhà chứ?

        - Dạ! Người vừa xuống trại dưới mới về đang uống trà!

        Thiếu phụ tươi nét mặt, dẫn hai người băng qua sàn, vào thẳng căn nhà chính giữa, ẩn hiện dưới giàn hoa thiên lý xanh um, nhà làm lối nhà bên Việt, dài, chia từng gian trong bằng cột, sáng sủa, ngoài căn buồng hội, mấy gian thông nhau, tới bên thềm, đã ngửi thấy mùi thiên lý thơm ngát, gợi mùi cố quốc, hai thầy trò nhác thấy một bóng người đang ngồi trên một cái chõng tre, lúi húi quạt hỏa lò, tàn than đã bay như hoa bụi. Nghe động, người này ngẩng nhìn ra. Qua hàng trấn song thưa, thầy trò Võ Minh Thần nhận ra đó là một người đàn ông trẻ tuổi, chỉ trạc ba mươi, mặc quần áo chàm Thổ như Võ, chỉ khác vành khăn nhiễu Tam Giang chít chữ "nhân" trên đầu, mặt quắc thước như đá tạc, hai mắt xếch sáng như điện, vành môi đỏ hơi cúp mép coi hơi ngạo nghễ, có phần coi oai võ, nhất khi người này đưa mắt trông ra, hai con mắt xanh biếc uy nghi khiến kẻ táo gan nhất cũng phải chờn chợn nể vì.

        Nhưng rất lạ, là vẻ mặt uy mãnh nghiêm thần vụt biến sạch cả, khi người này chợt nhận ra thiếu phụ liền cười khanh khách nói vọng ra:

        - Hai mẹ con đã trở về đấy ư? Thằng Kiệt đâu? Tưởng đã bị nó lừa bắt cả hai mẹ con đem sang Nam mất rồi?

        Thầy trò Võ Minh Thần lúc đó đã vào cách thềm bảy, tám bộ, bỗng giật mình vì tiếng cười này sang sảng như chuông đồng, muốn vỡ màng tai. Quản Kình chịu không nổi, đứng lùi lại, cả thiếu phụ cũng thoáng vẻ sững sờ, nhưng chợt nhoẻn cười, chưa kịp lên tiếng, bỗng người này lại hỏi vọng:

        - Phải người bạn trẻ cứu nạn đấy không?

        - Dạ

        Thiếu phụ vẫy hai người tiến vào. Võ Minh Thần vừa hỏi "ai đó bà" bỗng giật mình thấy trong nhà, người trẻ tuổi quắc thước quạt than phành phạch, chợt như vô ý trượt hỏa lò, từ chiếc quạt giấy mỏng manh, vụt phát ra một luồng kình phong như sấm nổ đánh thốc vào ngực Võ Minh Thần.

        Võ được thọ giáo danh sư kỳ bí, phản ứng rất bén nhạy, lúc nào hành sự cũng ngầm sẵn điện công, vừa nhác chiều quạt đánh ra, chàng trai đã kịp tiện tay cầm dù, chĩa về phía trước giương liền, ngầm phát kình phong.

        Quản Kình đứng bên nghe "bùng" một tiếng như điện trời tức khí cọ nhau, Võ Minh Thần theo chiếc dù lạng lui một bộ, trong nhà hàng trấn song bỗng cong veo, chiếc hỏa lò trôi mấy gang, nhưng người quạt vẫn không nhúc nhích.

        Từ ngày hạ sơn, Võ Minh Thần đã mấy phen thử sức, kể cả với con quỷ mũi vẹt giả xưng phó soái Mã Đầu, kình lực Võ toàn đè bẹp đối thủ, đây là lần đầu bị thối lui một bộ, chấn động châu thân lòng riêng không khỏi kính phục.

        Tiếp luôn, người trẻ kia cất tiếng cười khanh khách:

        - Giỏi lắm! Giỏi lắm! Người bạn trẻ giỏi hơn đệ nhất Ma Đầu Tây Tạng Nhũ Hoa Vương rồi đó! Rất may thê tử mỗ ngộ nạn bất ngờ đúng lúc đó có người bạn trẻ! Xưa ta chỉ đánh một nhát "Khẩu phong lôi" Cầm Phi Hổ đã bắn lộn từ trên ngọn Si Công Lĩnh xuống vực!

        Tiếng cười ầm rền như sấm ran sét đánh, Võ Minh Thần vừa nghe tiếng "Khẩu phong lôi" bỗng giật mình kinh dị vì theo lời tôn sư căn dặn, sau này hạ sơn nếu gặp kẻ nào đánh "Khẩu phong lôi" phải cố xin học cho kỳ được. Vì "Khẩu phong lôi" vốn là môn kỳ công thượng thừa của Đảo chủ Thần tiên miền Nam Cực, không những mạnh hơn đánh tay mà còn xua tan được tất cả các môn "công phù", "mê chưởng" "mê phong" v...v là các ngón tụ thổi độc khí vào thất khiếu tạng phủ địch thủ.

        Bởi khi luyện được "Khẩu phong lôi", mặc nhiên chỉ định thần là các khiếu, lỗ chân lông bế hết rồi, dẫu bị "công phù", cũng không sao, cũng như "Khẩu phong lôi" luyện thuần thanh khí, hùng khí, có thể chống bạt mọi thứ độc công hắc đạo chuyên luyện bằng hắc khí, độc khí, độc dược... mà kẻ thù ghê gớm của Võ lại là "loài ma quỷ" chuyên về độc khí, tà khí.

        Đang nghĩ, lại nghe tiếng cười uy mãnh bay ra, chàng trai lật đật ngầm vận điện công chống đỡ, lại sợ cho Quản Kình định đưa tay kéo sát lưng, nhưng tiếng cười chỉ rót vào Võ, tuy vận công chống đỡ thần kinh hệ vẫn rúng động lạ thường, nghĩ thầm:

        - "Tiếu thần công" của người này quả đến mức thượng thừa, thế mới hay võ học vô cùng cũng như văn học, chẳng rõ ai đây nghe cách nói không là chồng cũng là người thân thích của thiếu phụ áo trắng.

        Đã nghe thiếu phụ cất tiếng cười khanh khách, tiếng nàng dòn như pha lê vỡ, nhưng không kém phần uy mãnh quyện lấy tiếng người kia rồi cả hai chợt im, người kia quơ tay vẫy:

        - Vào! Người bạn trẻ hãy vào đây dùng chén trà đạm bạc. Người bạn tới đây, có gì muốn dạy bảo Thập Vạn Đại Sơn chăng?

        Hai thầy trò theo thiếu phụ vào cúi đầu làm lễ, thiếu phụ tươi cười:

        - Đây nhà tôi Hồng Lĩnh cha bé Kiệt đó. Người thiên hạ quen gọi Đại Sơn Vương.

        Cả hai thầy trò cùng giật mình ngó sững vì không ai ngờ một nhân vật khét tiếng thiên hạ, để lại trên giang hồ rất nhiều giai thoại thần sầu quỷ khiếp, chúng đạo tặc ma đầu, quái khách, quan binh mấy cõi phải kinh tâm khiếp vía, oai danh bá chủ thần xạ vô địch, rất nhiều kỳ môn dị thuật pháp ngoại đã lẫy lừng từ lâu lắm rồi lại có thể là một người còn trẻ trai chỉ hơn Võ chừng mười tuổi. Bất giác chàng trai họ Võ buột miệng kêu khẽ:

        - Trời! Chúa soái Thập Vạn Đại Sơn danh vang thần võ vào hàng tiền bối đây sao? Kẻ hậu sinh này thật không ngờ, không ngờ! Dám xin bậc tiền bối mở lượng khoan dung cho kẻ mắt thịt khốn khổ này!

        Dứt lời, Võ Minh Thần cùng Quản Kình phục luôn xuống, vẻ kính cẩn hết sức, nhưng vừa sụp, người đàn ông trẻ áo chàm khăn nhiễu đã đứng phắt lên, thò hai tay nắm lấy hai người nâng đứng dậy, dịu dàng bảo:

        - Mỗ mới hơn ba mươi tuổi, xin chớ quá thủ lễ làm mỗ đây giảm thọ. Tiện nội thọ ơn cứu nạn chưa kịp tạ, người bạn chớ khiêm tốn quá lễ, mất vui! Nếu chẳng khinh, cứ coi mỗ như anh được rồi!

        Nói xong, thân mật mời cả hai ngồi xuống chõng tre, nhưng Võ chỉ dám ghé xuống, còn Quản Kình nhất định đứng hầu một bên.

        Võ Minh Thần đang định lựa lời hỏi thăm viên chúa núi Mã Đầu, nhưng thấy Chúa soái Thập Vạn Đại Sơn mải pha trà, lại cố nén. Thiếu phụ bỏ đi về phía cuối buồng không nói câu nào. Võ Minh Thần, Quản Kình đều lấy làm lạ không hiểu sao Chúa Thập Vạn đã biết vợ con gặp nạn, bỗng thấy người chúa lạc thảo trẻ, cầm ly nước mời Võ, Kình, ngó đăm đăm Võ, chợt hỏi:

        - Người bạn đâu tới? Xin cho biết quý danh. Chắc đến hỏi về cái chết mờ ám của bậc sinh thành chăng?

        Võ, Kình kinh dị đến rung động thân thể, vùng kêu khẽ:

        - Sao "người" biết?

        - Có gì lạ đâu! Trên mặt người bạn phương xa có dấu bậc sinh thành thảm tử, có cả dấu hiệu mồ côi từ nhỏ nữa, muôn dặm lần tới chắc không ngoài chuyện đó?

        Thầy trò Võ Minh Thần nghe qua lời Chúa soái Thập Vạn Đại Sơn, cả hai đều giật mình kính phục, chàng trai vùng chắp tay, đứng phắt dậy, cúi đầu vái rạp mà rằng:

        - Bậc tiền bối quả mắt thần chẳng kém, thấy rõ dấu thâm thù trên mặt. Kẻ hậu sinh này lưu lạc cha mẹ, anh em, tên họ, quê hương, lang thang đi tìm thù như bóng oan hồn vật vờ trong sương mờ đêm tối. Kẻ mồ côi này chỉ mới biết được bậc sinh thành đã chết thảm dưới móng vuốt một loài quỷ quái ghê gớm mười bảy năm về trước. Nay đường đột tìm tới núi bậc tiền bối, mong tiền bối mở lòng nhân giúp cho.

        Chúa Thập Vạn hơi nhướng cao mày, ngạc nhiên, kéo Võ ngồi xuống, dịu dàng hỏi:

        - Cha mẹ thác vì loài quỷ quái, mười bảy năm xưa? Nhưng nó là giống chi? Quái nhân, quái vật hay ma quỷ? Người bạn trẻ hãy cạn chén trà, bình tĩnh cho mỗ biết qua.

        Võ Minh Thần thấy Chúa Thập Vạn mười phần uy võ, lại đầy vẻ khiêm tốn, bao dung, trong lòng hết sức cảm động bèn lĩnh ý uống cạn chén trà, ngậm ngùi nói luôn:

        - Theo lời trối của nghĩa phụ, nghĩa bộc, kẻ mồ côi này chỉ được biết là bị hại về loài quỷ quái tại vùng biên giới phân mao, nhưng không hiểu nó là giống gì? Yêu tinh, tinh ma hay quái nhân, quái vật? Nghĩa phụ, nghĩa bộc chết thình lình ngay khi bắt đầu kể chuyện. Nhưng có dặn được mấy tiếng "đi tìm Chúa núi Đầu Ngựa". Kẻ này tới Mã Đầu Sơn, được biết Chúa Mã Đầu tiên sinh đã theo hầu bên Thập Vạn Đại Sơn. Thưa, mười bảy năm xưa, lúc xảy ra cuộc thảm sát, lão tiên sinh Mã Đầu có chứng kiến. Kẻ mồ côi này đã được xem tấm bài vị lão tiên sinh để trên Mã Đầu Sơn.

        Nói xong, nước mắt đầm đìa. Viên Chúa núi Thập Vạn vùng bật giọng:

        - À, Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng. Vậy người bạn cứ ngồi đợi đây, để mỗ gọi coi Thoòng còn trên này không?

        Dứt lời, Chúa núi Thập Vạn rút cây súng cối treo trên vách, đưa lên miệng thổi.

        Tiếng thép bay ra ngoài tỏa rộng khắp cao sơn, lan xa đến mười dặm, nghe muốn vỡ màng tai. Dứt hồi, chợt nghe tít dưới thung lũng, vọng lên mấy tiếng tù và chờn vờn. Chúa Thập Vạn treo súng, quay bảo Võ:

        - Thoòng Mềnh đi tuần sát mạn Bắc chưa về.

        Đoạn, lại tự tay pha trà, tiếp tục đối ẩm với Võ Minh Thần. Quản Kình, vẻ ông ta coi ung dung không khác một tay ẩn sĩ cao sơn. Thiếu phụ đã thay y phục uyển chuyển đi ra, nàng mặc chiếc áo choàng rộng, nửa giống "Kimono" nửa giống áo Tàu cổ, màu trắng, đẹp cao quý như hoa lan rừng mọc bên suối. Nàng kéo cái ghế mây ngồi bên giường, vừa quạt hỏa lò giúp chồng, vừa kể chuyện vừa qua cho chồng nghe rõ đầu đuôi. Lúc đó, thầy trò Võ Minh Thần mới hay, khi xảy nạn trên sơn đạo, Chúa soái Thập Vạn Đại Sơn bỗng thấy máu thịt chột lòng, vùng đánh quẻ lục nhâm, lấy ngựa xuống núi liền, nhưng chưa đi tới suối liễu trại dưới, ông ta lại quay về ngay, vì độn ứng quẻ cát.

        Võ Minh Thần thọ giáo dị nhân, cũng được coi qua phép độn Trương Lương nên thấy rõ sức hiểm hóc, nhiệm màu của độn toán dịch lý, nhân bàn về độn, càng kính phục độn toán luận giải như thần của Chúa tể Thập Vạn. Cặp vợ chồng này đầy vẻ tương đắc, tuy cười cười tự nhiên, mà vẫn ngụ ý kính nể nhau hết sức. Chỉ lát sau, cả hai đã coi Võ như người em nhỏ, thân mật khác thường.

        Nhân lúc vui chuyện, hỏi nhau về danh tính, Minh Thần, Quản Kình lại thêm sửng sốt, khi được biết thiếu phụ chính là một trang nữ kiệt khét danh trong thiên hạ ngót mười năm nay mà tôn sư chàng từng nhắc tới.

        Bạch y nương Trần Phượng Kiều, ngang dọc một thời khắp mấy dải biên thùy Tàu, Việt, nữ soái Liễu thôn miền thác Lũng Khầy Yên Bái, từng mở hội tuyển phu, bắt sống rất nhiều tay sơn tặc, quái nhân, ma đầu, thổ phỉ, nhốt treo cành liễu.

        Và trước ngày sánh duyên cùng Chúa núi Thập Vạn, nàng đã từng bắn rụng súng Chúa tướng Thần xạ vô địch này, khiến chàng soái uy võ này phải lên ngọn Tây Côn Lĩnh luyện thêm bí pháp tác xạ hàng nhiều tháng để lấy lại tiếng "bắn nhanh nhất thiên hạ" đã bị nàng đoạt mất!

        Và đồng thời nàng là học trò bậc nhất của vị Đảo chủ Đảo Thần Tiên Nam Cực, trước ngày lấy nhau nàng với Thần Xạ đã từng trải qua một cuộc "tình duyên oan trái thê thảm" vì cả hai đều mang nặng thù nhà, nghi án. Hiểu tử thương hiếu tử, anh hùng trọng anh hùng, khi biết Võ Minh Thần có cha mẹ bị chết thê thảm, mồ côi, không thân thế, hai vợ chồng Chúa tể Thập Vạn Đại Sơn đều có lòng thương mến vô cùng, tuy vậy hai vợ chồng không hỏi thêm về việc riêng Võ chừng muốn đợi Thoòng về định đoạt.

        Lát sau, trời vừa tối, gái hầu dọn tiệc lên. Chú bé Hồng Kiệt cũng quay về. Vợ chồng Chúa Thập Vạn mời khách dùng chén tẩy trần. Quản Kình giữ lễ không chịu ngồi cùng nhưng Chúa Thập Vạn cứ kéo ấn xuống, nghiêm nghị bảo:

        - Giữ ý cũng phải, nhưng lễ ngoài không bằng lễ trong. Ở đây trên dưới lấy lòng với nhau tùy tiện không câu chấp! Chú bất tất phải bận tâm!

        Chủ khách ngồi ăn uống rất tự nhiên, chuyện trò thân mật.

        Võ Minh Thần thấy vợ chồng Chúa Núi Thập Vạn có lòng thương mến thành thật, lòng cũng vơi nhiều buồn tủi.

        Cơm nước xong, chủ nhân thân cầm đèn đưa khách xuống dãy nhà ngang, dẫn vào một căn buồng rất yên tĩnh, bầy biện trang nhã, có sẵn giường màn, các món tạp dụng, căn dặn vài điều lặt vặt, rồi mới chia tay cho khách ngủ sớm. Tuy hành trình vất vả, nhưng Võ Minh Thần nóng lòng gặp viên Chúa núi Đầu Ngựa nên khắc khoải không sao ngủ ngay nổi. Võ ngồi nghĩ miên man cùng Quản Kình nấu nước uống đến mấy tuần trà, cà phê, quá nửa đêm mới chợp mắt.

        Sáng ra hai người thức giấc, đã nghe chim kêu vượn hú đầu ghềnh, kèn vang, tù và rúc khắp mấy vùng doanh trại. Thập Vạn Đại Sơn dậy tiếng ngựa hí quân reo. Hai thầy trò vừa rửa mặt xong, bỗng có nàng gái hầu mời lên dùng trà với chủ nhân.

        Hai mẹ con Bạch Y Nương chừng đã xuống núi dợt ngựa, chỉ thấy viên Chúa Soái Thần xạ ngồi trên chõng tre đang quạt hỏa lò, nước đã réo sôi. Vẫn phong thái ung dung như ẩn sĩ, Viện Chúa tướng lạc thảo miền Mười Vạn núi cười hỏi:

        - Tối qua chắc hơi khó ngủ? Yên tĩnh chứ?

        - Dạ yên tĩnh hết sức. Hương hoa đâu thoang thoảng có lúc kẻ này lại tưởng nằm trong thảo lư nơi núi cao xưa. Thưa "người" ngủ ngon?

        Chủ khách vừa uống xong một tuần trà, bỗng nghe tiếng vó câu lóc cóc rồi thấy một người lực lưỡng cưỡi con ngựa ô tiến vào sân.

        Viên Chúa núi Thập Vạn ngoảnh trông ra, bật giọng vui:

        - Kìa Vua Pạc Hoọc Quảng Tây đã về.

        Thầy trò Võ nghe bất giác cùng giật mình, mừng rỡ tự nhiên trống ngựa đập mạnh quay vụt ra.

        Qua chiếc sân khá rộng, người cưỡi ngựa ô cũng vừa vào khỏi độ mười thước, dừng cạnh một góc bàn, nhỏm mông nhìn vào nhà. Đó là một viên khách mình to như tấm phản, vai rộng, mặc quần áo đen bó lấy người, ngực nở tay săn cuộn thừng chảo, đi giày vải đen Tàu, cằm vuông, râu ria xồm xoàm như Trương Phi đời Tam Quốc, mắt diều hâu, mặt mày coi hết sức uy tợn, tuổi trạc tứ, ngũ tuần, mặt cô hồn con nít đang khóc ngó thấy nín thít.

        Ngay khi đó có hai, ba gái Tàu từ dãy tả thoăn thoắt đi ra phía cổng cúi chào viên khách, viên khách giơ tay chào lừ đừ xuống ngựa buộc gốc cây. Chúa Thập Vạn gọi lớn:

        - A Thoòng! Về đó à? Vào đây uống trà! Chú có khách bên Nam sang đó! Viên khách râu Dực Đức nhướng cặp mày rậm vẻ ngạc nhiên, dạ lớn lật đật tháo chiếc "xắc" bên yên, rút cả cây trung liên có buộc lá cờ đuôi nheo nhỏ vác vai tiến vào. Tuy đã tứ ngũ tuần, dáng đi vẫn mạnh như trai trẻ, thân hình tấm phản lắc lư tựa con cọp xám vờn.

        Chừng viên khách to lớn vào tới thềm, thầy trò Võ Minh Thần nhìn rõ mặt thêm, mặt viên Chúa núi Đầu Ngựa tuy dữ tợn lầm lỳ, rõ hạng cả đời chỉ quen ngửi mùi thuốc súng, coi binh lửa như trò chơi con ít, nhưng vẻ dữ tợn lại phảng phất nét oai trung hậu đường đường của tay can trường đa cảm ngầm chứ không phải thứ dữ tợn tàn ác của hạng ác nhân ác đức gian tà.

        Chúa núi Đầu Ngựa Pạc Hoọc Đại Vương vừa bước vào nhà, thầy trò Võ Minh Thần đã đứng vụt dậy như hai cái lò xo. Viên khách đi qua cửa từ sau lưng Võ, đứng khựng lại, thầy trò Võ kính cẩn dạt sang bên, chừng quá xúc động, chàng trai ngó sững, Chúa Thập Vạn trỏ nói luôn:

        - Khách bên Nam mới sang tối quá! Cậu bé lên hai của mười bảy năm xưa mẹ bị nạn ngoài biên giới phân mao đó!

        Giật nảy mình, viên Chúa núi Đầu Ngựa đánh rơi "bịch" xắc, dựng cây súng vào cột, súng ngả theo. Chúa Đầu Ngựa trợn mắt dòm Võ Minh Thần, vẻ xúc động sững sờ cực độ kêu lên giọng Quảng:

        - Hầy! Đứa bé năm xưa... Mẹ bị nạn quỷ bốn chân... Đây ư? Mười bảy năm còn sống... giờ lớn... trở về...

        Trống ngực đập mạnh, chàng tuổi trẻ rung giọng:

        - Dạ... Chính cháu đây! Đứa bé lên hai, mẹ bị nạn quỷ biên thùy nhét túi da thả ngựa chạy, chính cháu đây, đứa bé mười bảy năm về trước... Nhờ trời cao còn tựa, mới sống đi tìm bác đây!

        Chúa Đầu Ngựa thở dốc, nén xúc cảm đột khởi tràn ngập tâm hồn vùng hỏi:

        - Đứa nhỏ mười bảy năm về trước... Vùng biên giới giáp Quảng Tây, ngược Nước Hai lên... nếu đúng đứa nhỏ con người đàn bà chết thảm đó phải có di vật gì mẹ nó để lại trước khi sa vuốt quỷ?

        Nghe Chúa Đầu Ngựa hỏi. Võ Minh Thần vén vội tay áo trái lên chìa chiếc vòng xanh điểm huyết lại cởi từ cổ lôi chiếc "lắc" vàng có buộc nửa đồng tiền gãy ra, tiến lại trước mặt Chúa Đầu Ngựa lễ phép hỏi:

        - Bác! Phải di vật này không? Hai món này, con đeo từ nhỏ, tôn sư có dặn của mẹ con đeo cho trước giờ mắc nạn.

        Viên Chúa Đầu Ngựa thò tay xoay chiếc vòng, "lắc" coi chợt buông ra, mắt sáng rực kêu lên:

        - Đúng à! Hầy! Đứa bé mười bảy năm trước đây rồi! Đứa bé nằm trong túi da, chính ngộ cùng lão Võ Yên Bái bồng chạy trốn bầy quỷ bốn chân suốt một đêm, một ngày, mấy phen suýt bị con quỷ chúa vồ được... Hầy à! Không ngờ giọt máu oan đó còn sống tìm về! Đứa "con nít vòng xanh" con quỷ cố lùng bắt đây.

        Viên khách Mã Đầu Sơn vừa kêu dứt, tự nhiên chới với, hai tay, Võ Minh Thần lao bổ vào ôm chồm lấy lão như đứa bé con, nước mắt chàng tuổi trẻ chảy dòng dòng. Chúa Mã Đầu cũng ôm lấy chàng, không ngăn được xúc cảm, nước mắt viên tướng lạc thảo cũng ứa ra, chảy dầm dề khuôn mặt phong trần quắc thước lầm lỳ như không còn cảm xúc nữa! Võ rung giọng, nghẹn ngào: - Bác ơi! Tất cả người thân năm ấy đã lìa cõi thế... Nay trên đời chỉ còn mình bác mà thôi! Trời còn thương cho cháu gặp bác hôm nay.

        Viên tướng lạc thảo Quảng Tây giật mình hỏi:

        - Cháu vừa nói sao? Người xưa chết hết? Cháu nói ai?

        - Nghĩa phụ cháu, nghĩa bộc... Chú Tắc Sềnh! Mới chết ít ngày, đúng hôm cháu tìm về đồn điền Yên Bái. Cả hai bị bắn chết giữa lúc sắp kể chuyện năm xưa.

        Khá lâu, hai người mới buông nhau, cả hai cùng mừng mừng tủi tủi, lau nước mắt. Chúa Đầu Ngựa mãi lúc đó mới chú mục ngắm kỹ "đứa con nít vòng xanh" ông ta từng ẵm chạy trốn quỷ tinh mười bảy năm xưa, giờ thời gian thấm thoát trôi qua, đứa bé lên hai đã thành một chàng trai khôi vĩ, đẹp tựa Tử Đô nước Trịnh thời Đông Châu, còn ông ta tuổi cũng xế chiều, râu tóc đã hoa râm. Da trắng, mày xanh, mắt sáng như điện, môi đỏ tựa son, chàng trai nét mặt phảng phất giống mẹ xưa, tuy vẫn tráng một lớp men lành lạnh lạ thường, như bao phủ cả nỗi đau thương xót xa số kiếp.

        Thấy hai người đã nhận được nhau, viên Chúa Thập Vạn đứng lên với cây súng choàng quanh bụng cười khoan dung:

        - Cứ ngồi hàn huyên, mỗ xuống coi luyện tập! A Thoòng! Mọi việc đã có bọn Voòng lo, chú cứ an lòng, khỏi bận trí tới!

        Dứt lời bỏ đi liền.

        Còn lại ba người, Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng Mềnh nắm tay Võ Minh Thần kéo ngồi xuống chõng thở phào một hơi dài như muốn trút cả "mười bảy năm chồng chất mong chờ nặng chịch":

        - Ngồi đây! Ngồi đây! Hầy! Bao nhiêu năm tháng dài dặc... Tưởng không còn có ngày gặp lại! Ngồi đây! Rồi kể cho ngộ nghe... Hà hà! Mười bảy năm qua, giờ coi "đứa nhỏ vòng xanh" thế nào?

        Nói đoạn, viên Chúa núi Đầu Ngựa ngồi đối diện Võ, mắt ngó chòng chọc tỉ mỉ từ mặt, vạch tai, đôi mắt và như không ngăn nổi cảm động, viên tướng lạc thảo Quảng Tây lại cất tiếng cười ha hả trong khi nước mắt vẫn chầm chậm ứa ra:

        - Đứa nhỏ vòng xanh, a ha! Đứa nhỏ năm xưa, ngộ cùng ông già buôn lậu bồng chạy nạn quỷ bốn chân rồi trao cho ông cụ Quy Võng Lạng cưỡi thần lư. Nay đã thành tay võ dũng, đẹp trai tựa Tống Ngọc, Tử Đô. Ha ha! Vô danh nữ chết thiêng, lòng trời còn tựa, lưu lại giọt máu oan rửa thù báo oán đây! Nhưng mặt lạnh như nước đá, tội cho hiếu tử, cây con mới mọc, cành đã già cằn!

        Chàng trai thấy Chúa Mã Đầu quá xúc động, nên càng nghẹn ngào, nước mắt chảy quanh, kính cẩn hết sức nói:

        - Bá phụ mắt thấy cảnh mẹ cháu chết oan, chết ức dưới tay loài ác quỷ, lại bồng trẻ thơ chạy trốn suốt ngày đêm, ân trọng như trời bể, cháu được sống đến ngày nay nhờ ơn tái tạo của người. Xin coi đứa nhỏ mồ côi này như con cháu và cho đứa cháu bạc số này được lấy lễ con cái ra mắt đấng từ tâm đã thi ân tái tạo!

        Dứt lời, Võ Minh Thần nhảy luôn xuống nền nhà phục dưới chân viên Chúa núi Mã Đầu lễ liền ba lạy vô cùng cung kính.

        Pạc Hoọc Đại Vương tuy làm nghề lạc thảo lâu năm, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng nho giáo từ nhỏ, nhiều lòng nghĩa hiệp, ân oán phân minh, tuy coi chuyện của đứa nhỏ năm xưa như con gió thoảng, dĩ nhiên của kẻ bắn súng. Nhưng thấy đứa nhỏ năm xưa lớn lên, coi nặng ân tình "vua Pạc Hoọc" không khỏi mừng thầm trong dạ như cất được cả ngọn Thái Hằng mười bảy năm đè nặng tâm tư! Vì xưa nay vẫn có rất nhiều vụ cha mẹ bị thảm tử oan uổng, con cái lớn lên lại chẳng nghĩ gì đến chuyện cha mẹ thọ tử, có kẻ lại phò cả kẻ thù, nhởn nhơ ngồi hưởng phú quý mà chẳng phải vì đại nghĩa chi cả.

        Trong vụ thảm sát xưa, Chúa Mã Đầu động lòng "khóc mướn thương vay" lắm phen chỉ chực đem thân thanh toán, phải cố nén đợi "đứa bé vòng xanh" nhưng không khỏi lo âu, không rõ lòng hiếu tử, ông ta rất vui dạ bèn nhảy xuống đỡ lên, giọng khẩn thiết bảo:

        - Xưa Chu Hợi thường khuyên Tín Lăng Quân Vô Kỵ: "Ơn mình nên quên, ơn người nên nhớ!" Ngộ vẫn lấy đó làm răn, cháu chớ nặng lời ngộ đây thêm ngượng. Mười bảy năm chờ đợi, nay thấy cháu lớn khôn, lặn lội tìm khắp năm non bảy núi, nặng nghĩa sinh thành là ngộ mừng, mẹ cháu dưới suối vàng chắc cũng đỡ tủi! Nào hãy kể ngộ nghe từ hồi sống với ông cụ Quy Võng Lạng!

        Võ Minh Thần vẫn giữ lễ không dám ngồi đối diện, bị ép quá, đành kiếm cái ghế ngồi kế bên chõng, ngạc nhiên hỏi:

        - Chẳng hay Quy Võng Lạng là gì? Xin bá phụ cho cháu được rõ?

        Đoạn bằng giọng trầm buồn nhiều lúc đượm xúc động dạt dào, chàng trai mồ côi từ tốn kể lại cho viên chúa núi Mã Đầu Quảng Tây nghe hết quãng đời thơ ấu theo thầy học thuật.

        Mới hay ông già áo trắng không ở chỗ nào nhất định, suốt mười bảy năm trường, lão chở chàng trai trên lưng thần lư, lần đi khắp thiên sơn vạn thủy, dọc từ biên giới Việt Tàu qua Vân Nam, Quý Châu, có hồi lưu lại miền Tân Cương sống với dân Hồi giáo v.v... dạy dỗ chàng cả văn lẫn võ trên lưng lừa, núi cao rừng rậm, tuyết trắng, sa mạc nắng cháy. Lại dùng dược thủ thuật kỳ hoa dị thảo, nước lạ trái quý bồi dưỡng tẩm luyện thân xác cho chàng tùy theo thời kỳ học võ, khi bắt ăn chạy khi ăn mặn, lúc chỉ dùng trái cây nước quý hấp thụ như khi học khinh công thuật.

        Có hồi ở vùng Thanh Hải "biển xanh bất tận" nơi không có cây lớn, chỉ ăn toàn kê, đào đất ở, cho mãi tới mười lăm tuổi, ông già kỳ dị đến miền Sáp Cáp Nhĩ, đưa chàng xuống biển ngược xuôi khắp đại dương, hải đảo dạy quen nghề dưới nước, đổ dần về vịnh Bắc Kỳ, trở lại cố hương, ở trên rặng núi Tam Đảo ít lâu, trước khi chia tay hai ngả, chàng trai đáp tàu về Võ gia trang Yên Bái!

        Nghe xong, Chúa núi Đầu Ngựa mặt hiện đầy nét hoan kính, vung tay trước trán, nói lớn:

        - Ôi chao! Một lời hứa ngắn tưởng thoáng như mây mà sâu hơn dao chém đá, một lời hứa ngắn mười bảy năm trời đằng đẵng công dưỡng dục nặng quá cù lao, cao hơn núi Thái, mười bảy năm dạy văn luyện võ rèn đức hạnh, Ôi!

        Ông già Quy Võng quả bậc thần nhân siêu đẳng, không sai lời ước hẹn một ly, nay ông già họ Võ thác rồi, ngộ Thoòng xin bái tạ ân sâu công khó phi thường! Phục thay! Phục thay! Mà ngộ chắc ngoài việc dãy dỗ, ông cụ dị chủng phi phàm này không nói chuyện gì cho cháu rõ? Kể cả họ tên "người"? Ngạc nhiên, Minh Thần lễ phép:

        - Dạ sao bá phụ biết? Quả ngoài việc chuyên tâm dạy dỗ, tôn sư chẳng hề tiết lộ điều chi nữa. Họ tên người, họ tên cháu, nguồn gốc thân thế cả thầy trò đến buổi chia tay, cháu vẫn mịt mờ như đứng giữa sa mù... Không biết sau ngày bái biệt, thần lư hiện đi phương nào? Mà sao bá phụ mãi nói Quy Võng Lạng... Phải biệt danh tôn sư?

        Chúa Mã Đầu lim dim, hồi tưởng chiều gặp gỡ lão dị nhân áo trắng trên cầu treo cận vùng Nước Hai. Mười bảy năm xưa, lão dị nhân cưỡi thần lư có bộ mặt thê lương kỳ lạ, khi cười lại đầy vẻ tinh nghịch hồn nhiên như con nít, lão dị như từ thế giới nào hiện lên, cứu thu đứa bé lâm nạn đem đi dạy dỗ... Rồi lại về cõi cũ, sau mười bảy năm, bí mật vẫn bao trùm.

        - Một nhân vật phi phàm, cốt cách thần tiên! Không tên, không tuổi, không quê hương, bản quán, đến như cơn mây tụ khí, rồi đi như đám mây qua... Vậy thôi! Tôn sư có sức mạnh phi phàm, ma quỷ phải kinh. Quy Võng Lạng chỉ là dưỡng nghĩa phụ, cháu ước đoán ngài là nhân vật khí sinh, thọ khí hạo niên trong trời đất, hấp thụ khí lâm tuyền âm dương tụ kết mà thành! Theo sự nghiên cứu của ông thánh bác vật Khổng Khâu linh khí núi khe, cây cỏ, cùng chất thổ địa, kim khí có thể tụ kết thành động vật, như dưới đất sâu nước hồ, xưa người Quý Ấp từng đào được con Phần Dương, không ra đực, không ra cái, chỉ có hình con dê. Còn miền thịnh khí lưỡng nghi lắm núi non khe thác, có thể phát sinh chủng loại Quy Võng Lạng, mặt mày thê lương, hay mặc đồ trắng, tính ưa làm phúc, cốt cách địa tiên nên có lẽ tôn sư cháu thuộc loại Quy Võng không phải người ta.

        Võ Minh Thần, Quản Kình bàng hoàng như mơ ngủ, nghe Chúa Mã Đầu nói về nguồn gốc dị tôn sư, chàng trai bán tín bán nghi, vội kêu khẽ:

        - Chẳng rõ tôn sư cháu là "địa tiên Quy Võng" hay bậc cao sĩ kỳ nhân đau xót về thân phận con người nên lánh đời, tu luyện phiêu du, vì cháu thấy cả thần lư cũng có được tôn sư dạy phép trường sinh, vô bệnh, linh mẫn hơn người... Nhưng ngày nọ, qua vùng Trùng Khánh - Cao Bằng, chúng cháu có hạ được con Mạc thú cũng thọ kim khí ra, nó ăn sắt như bùn, không gươm giáo nào phạm nổi! Nghe nói con Mạc này ngàn vạn năm mới có xương đặc không có tủy, da nó trừ được lam sơn chướng khí, để cháu xin dâng bá phụ cùng Soái gia Thần Xạ làm kỷ niệm.

        Dứt lời, chàng lấy xương, da con Mạc ra tặng, viên Chúa Mã đầu "Vua Pạc Hoọc" cầm xem, hết lời khen ngợi, bảo:

        - Ngộ có nghe người trên giang hồ còn đồn: Con Mạc này xương da nó quý vô cùng, còn có thể dùng vào việc chi quan hệ lắm, cháu nên giữ lấy phòng thân, có lòng cho ngộ cùng soái gia chút ít là đủ! Hầy! Có lẽ may mũ, làm gậy tốt dữ à!

        Bèn để bó xương, da con Mạc sang một bên, chăm chú nhìn Võ Minh Thần vẻ suy tư, chàng trai kính cẩn:

        - Xin bá phụ cho cháu biết nguồn gốc, thân thể, nhất vụ thảm sát biên thùy phân mao ngày nào... Từ núi xuống, lòng cháu như lửa đốt.

        Chúa Mã đầu vuốt râu, vẻ đắn đo, chợt lẩm bẩm:

        - Cháu thọ giáo dị nhân "nghề" tất điêu luyện hơn người. Nhưng con quỷ tinh bốn chân này lợi hại ghê gớm, sức ngộ đây, nó chỉ thổi phù cái đã gục! Nó lại có một bầy hàng trăm, hàng ngàn quỷ tứ túc, lại thêm bọn quỷ nhân ám trợ, liệu đã nên biết chuyện thảm chưa?

        Võ Minh Thần cố khẩn nài, Chúa Mã Đầu đứng lên, đi đi lại lại, cúi đầu vẻ vẫn nhiều lo ngại, bất thần giữa lúc Minh Thần không để ý, tướng lạc thảo Quảng Tây xoay vụt lại, rút cây pạc hoọc vẩy luôn vào ngực chàng trai khiến Quản Kình giật mình la lên hoảng hốt, tưởng tiểu chủ gục liền.

        Nào dè Võ Minh Thần lẹ như chớp vẫn ngồi nguyên vừa nhác thấy "Vua Pạc Hoọc" động vai, chàng trai đã chụp luôn cây dù dựng bên chõng tre rẽ vụt về phía "Vua Pạc Hoọc" đúng lúc cây Pạc Hoọc vừa ra khỏi vỏ "bập bập"! Dù khạc đạn, bắn tung ngay cây súng lục!

        Chúa Mã Đầu giật mình, tê dại cả bàn tay, nhưng mắt thoáng rực tia mừng, nhe răng cười khen lớn:

        - Lẹ dữ a! Bắn rụng được súng "Vua Pạc Hoọc", học trò Quy Võng địa tiên giỏi a! Phải cháu mới nhận một đòn "Khẩu phong lôi" của Soái gia? Hay đó. Nhưng con quỷ bốn chân có sức phi phàm, nó thổi độc khí, mê hồn!

        - Bẩm, bá phụ yên lòng, tôn sư đã dạy con, đủ sức đối phó với loài quỷ quái yêu ma.

        Chúa Mã Đầu bước lại, đặt tay lên tay Võ, vụt nghiêm sắc mặt:

        - Minh Thần! Chuyện mẹ cháu, chú là kẻ bàng quang, còn bị ám ảnh suốt mười bảy năm ghê gớm, lắm đêm muốn đau đầu, cháu là con hiếu, liệu đủ sức bình tâm, không loạn trí phát cuồng?

        - Bá phụ an lòng. Đứa cháu mồ côi này chịu khổ đã quen, trên đời này, còn cõi khổ nào hơn nữa. Quản Kình người thân thuộc, xin bá phụ cứ coi như cháu.

        - Nghe thì được, nhưng chẳng nên nhìn. Chớ nên để thêm kẻ nào chịu nữa.

        Dứt lời. Chúa Mã Đầu vẫy tay, đưa Võ Minh Thần ra ngoài.

        Đoán có điều không tiện, Quản Kình chỉ theo ra ngoài hiên, rồi quay vào uống trà một mình.

        Qua sân, Pạc Hoọc Đại Vương đưa Võ ra cổng, vòng sang phía hữu, tiến về mạn sườn núi hậu, không nói một lời. Quanh co chừng năm sáu chục thước, chợt gặp một cái viễn vọng đài chót vót có một toán đầu mục trấn thủ. Cả bọn chào kính cẩn.

        - Bó đuốc! A Tam!

        Một tên khách lực lưỡng chạy ra trao một thước đuốc củi thông tẩm nhựa trám. Chúa Mã Đầu lại dẫn Võ đi nữa, mười phút sau, tới một vùng hết sức hiểm trở, vách nhọn tai mèo dựng thành, hạng kém khinh công khó lòng vượt nổi. Hai người leo lên tận ngọn. Nắng sớm chan hòa, đứng trên ngó suốt một vùng doanh trại núi đồi san sát, rải rác, xa xa về phía nam, khói nắng lóa mờ, hun hút.

        Đứng trước một vách núi rườm rà cây cỏ hoa leo, chúa tướng lạc thảo Quảng Tây chợt nói giọng ngậm ngùi:

        - Nơi này có thể nhìn về bên Nam xa cách quan san. Chú kiếm chỗ này là để mẹ cháu trông về cố quốc.

        Vừa nói, vừa vần tảng đá sang bên, để lộ một cái hang đen ngòm. Hai người bước vào. Chúa Mã Đầu thắp đuốc giơ cao, đi trước, hai cái bóng đổ lắc lư trên vách coi như bóng oan hồn, câm nín. Quanh co, khúc khuỷu, càng vào cảnh im lìm càng bủa vây linh hồn già trẻ.

        Mùi rêu ẩm mốc phả vào mũi, Võ vụt có cảm giác linh thiêng như đang chui qua khoảng không gian im lìm để lần sâu vào dĩ vãng. Tự nhiên chàng trai thấy hồi hộp lạ. Ngoặt khúc thước thợ, sịch tới khoảng loe khá rộng, có một bức màn đỏ chắn ngang. Vén màn, hai người chui vào, rồi dừng lại. Một chiếc bàn độc hiện ra dưới ánh đuốc thông nhựa trám. Mùi nhựa thông bỗng như mùi cổ xưa "ảm" về. Trên bàn độc, có đủ đồ thờ bát hương, bài vị. Và ngay trước bàn độc, có đặt một cỗ quan tài sơn "then". Đầu quan tài hướng về phía Nam, có một cành tùng nhỏ, trên cành có treo một bộ xiêm y lối Thái, Thổ.

        Cuối quan tài có một bộ quần áo khách đàn ông đen sì lấm bê bết đất bùn đã khô cứng mốc treo trên vách, ngay đấy còn treo hai cây súng cong queo, một, hai bộ yên ngựa rách nát và một chiếc hòm vuông.

        Giơ cao cây đuốc, tướng giặc khách quay bảo Võ, giọng khô khan êm:

        - Xiêm y này là của mẹ cháu đó! Còn các món kia là những món quỷ tứ túc biên thùy nhả ra. Bộ quần áo đen chú mặc, bôi bùn kín hơi để lần đến chỗ mẹ cháu ngộ nạn. Cháu nhìn rõ dấu nanh nhọn hoắt chứ? Chú vào cứu, bị nó ngoạm tha quanh, may thoát vì quần áo rắc đầy thuốc độc, đàn quỷ tứ túc không ăn! Con quỷ chúa thuộc giống "Hồng Cẩu Quẩy" thành tinh, nói được cả tiếng người.

        Kinh ngạc, Võ Minh Thần chưa kịp đáp, Chúa Mã Đầu đã tiếp luôn:

        - Quỷ mắt đỏ, con tinh chúa cực kỳ quái gở! Mẹ con nằm trong quan tài đúng mười bảy năm rồi đó.

        Tim đập mạnh, chàng trai xồ tới, chụp lấy mép ván thiên, định mở ngay, nhưng viên tướng giặc Khách đã ngăn lại, thắp nến, châm hương, kéo chàng trai đứng trước bàn độc, khấn:

        - Vô danh nữ mệnh phụ phu nhân! Ngộ, Thoòng Mềnh thề giữ thi hài kỷ vật thâm thù, đợi con bà lớn khôn tìm về! Nay trời run rủi nó đã về đây, vô danh có khôn thiêng hãy về chứng giám. Ngộ Thoòng cho nó xem thi hài, di vật! Chớ làm nó sợ!

        Đoạn lui ra bên, chàng trai run run đưa tay nắm mép ván thiên, run giọng:

        - Mẹ... Mẹ ơi! Mười bảy năm... con đã về đây...

        Hàng đinh lớn ngậm mép quan từ từ sút ra, phát tiếng khô âm, chàng trai lật vụt ván thiên.

        Viên chúa núi Mã Đầu đứng xế bên, yên lặng. Ván thiên vừa bật, bỗng thấy chàng tuổi trẻ giật bắn mình như chạm phải điện, kêu rú lên "Trời!" rất lớn, kéo dài như bốc thấu mây xanh, lạc giọng về cuối như tiếng con heo bị chọc tiết, khiến "vua Pạc Hoọc" nghe cũng phải giật thót mình, cây đuốc trên tay giãy mấy cái, rạp hẳn ngọn, loằng ngoằng kêu lép bép.

        Dứt tiếng kêu, hai tay chàng vẫn giơ cao nóc quan tài, mình cúi lom khom, toàn thân run bần bật không khác dây thép bị bão đổ giật, hai con mắt chàng mở trợn trừng trừng dòm vào lòng quan, vẻ kinh khiếp cực độ đến nỗi kêu rú xong, hai mắt chàng như xuất hẳn tinh lực, làm viên chúa núi Mã Đầu càng kinh sợ, lật đật bước lại bên, đưa tay nắm bờ vai run dữ dội của chàng trai, lo lắng, ái ngại kêu:

        - Bình tĩnh cháu! Không nên quá xúc động, hại tâm thần...

        Nhưng Võ Minh Thần không còn nghe thấy gì nữa, mắt vẫn ngó trừng trừng, chàng trai vừa hạ chìm giọng lắp bắp nói một mình:

        - Mẹ! Mẹ ta đây sao? Sao lại thế này? Sao không còn nhân dạng? Trên đời này, lại có cái chết gớm ghê thế này sao? Mẹ ta đây ư? Người mẹ banh da xẻ thịt đẻ ra ta, nuôi dưỡng ta, rồi... chết thảm thế này ư? Trời!

        Chàng trai lại hét lên khủng khiếp, thân hình rung động, miệng lại lắp bắp "cái túi da... cái túi da người" rồi từ từ đổ người xuống nằm phục vắt ngang lên quan tài, miệng vẫn nói những gì không rõ.

        Viên chúa núi Mã Đầu vẫn đứng lặng phía bên này, định thò tay lên giật, nghĩ sao lại thôi, cứ đứng giơ cao ngọn đuốc trên đầu, vẻ thương hại hết sức, khẽ tặc lưỡi... chừng cũng hiểu rõ chàng trai mồ côi phải chịu đựng cảnh gặp mẹ đau đớn như thế, không cách nào hơn. Chúa Mã Đầu hết nhìn chàng trai lại buồn bã nhìn vào lòng quan tài.

        Ánh đuốc lao đao, vật vờ, trong lòng quan, có đặt nằm thẳng một cái thây ma trắng rợn người, đã khô đét, một cái xác đàn bà ướp "phoóc môn", mái tóc dài chảy dọc trước bụng che kín cả hạ bộ.

        Nhưng nếu nhìn kỹ chút, sẽ thấy đó cũng chẳng thể gọi là một cái xác ướp khô, đúng là một cái túi da mang hình người đàn bà mới đúng.

        Vì cái thây nữ này không còn thịt, gân, cả đến lục phủ ngũ tạng cũng biến tiêu, chỉ còn lại mớ xương lổn nhổn bọc da. Nhờ chúa núi Mã Đầu sắp xếp phẳng phiu, lần lượt đặt các ống xương nào vào chỗ đó, nên mới rõ hình người, coi như hình nhân bằng cao su nằm xẹp hơi.

        Thân thể đã ghê, nhìn đến mặt mũi càng phát gớm, vì tất cả chỉ còn là cái đầu sọ sống, bao nhiêu óc thịt tiêu hết, da bọc xương, mũi, môi, lợi, tai cũng tiêu hết gân thịt, chỉ còn lần da dính ngoài, nhe cả hàm răng, mũi thành hai cái lỗ, đến hai con mắt, con ngươi mất tiêu, chỉ còn hai cái lỗ huyệt sau hoắm, đen ngòm. Nhìn "cái túi da người này" kẻ bạo gan mấy cũng phải rùng mình, sởn gáy, tưởng trên cõi thế gian này không còn cái chết biến hình nao lại coi dễ sợ đến thế.

        Điều kỳ quái nhất, là tuy đã bị quỷ hấp sát tại miền giới tuyến phân mao, ròng rã mười bảy năm trời, cái thây được ướp hóa chất, theo lẽ thường thì dầu con người, con vật nào tiêu ướp sau cũng khô đét như que củi, hết mùi, nhưng cái thây nữ này chẳng hiểu sao vẫn phảng phất nguyên mùi mười bảy năm về trước, tanh khắm lạ lùng, không giống bất cứ mùi hủy thể thối rữa nào. Có điều đặc biệt là phải ngửi gần mới thấy, vì mùi thối khắm cóc chết này không tỏa rộng như hồi xưa nữa.

        Võ Minh Thần vốn là trai chí hiếu, từ nhỏ đã xa lìa cha mẹ, trí khôn cũng chẳng nhớ nổi chuyện xảy ra ngày xưa. Nhưng tình máu mủ ruột thịt vẫn có một mối dây vô hình thiêng liêng ràng buộc. Tuy không nhớ mặt mẹ xưa nhưng có lẽ do tiềm thức, đứa nhỏ năm nào sống dậy, chàng trai như linh cảm hình dung từ mẫu qua lớp sa mù dĩ vãng, tuy chẳng rõ rệt, nên khi thấy "túi da hình người mẹ" gớm ghiếc nằm trong quan tài, chàng như bị sét đánh nằm gục xuống ôm lấy quan tài, chịu một sức đau xót ghê gớm dùi vào linh hồn, rất lâu, rất lâu. Và trong những phút đau khổ, chàng trai bỗng nhiên như bị một thứ lửa hận cừu nung nấu, vụt thấy như linh hồn đổi khác, chai rắn lại không sao phân tách nổi. Mãi, chàng tuổi trẻ mồ côi mới phát giọng nghẹn ngào, mình vẫn nằm vắt ngang quan tài:

        - Xác mẹ cháu đây sao... bá phụ! Thây xác người mà bác bảo là mệnh phụ quốc sắc... coi ghê gớm đến thế này sao?

        Chúa Mã Đầu buồn rầu đáp:

        - Phải! Chính mẹ cháu đó! Sau khi bị quỷ tứ túc hấp, bầy Hồng Cẩu Quẩy xúm lại định xé xác ăn, nhưng chúng không ăn nổi vì chỉ còn xương da lại tanh khắm kinh người, may sao đúng lúc đó, viên chính giám binh Cao Bằng hành binh tiễu phỉ, đón chú về tỉnh ăn tiệc, chợt gặp bầy quỷ này, bèn cho lính tháo chạy về phía biên giới Tàu, tha theo cả xác mẹ cháu, "xác" chú. Súng bắn như mưa, mấy con thú trúng đạn, bỏ xác chú lại. Ngay sau đó, chú cùng giám binh Tây đốt đuốc đi tìm, may sao thấy xác mẹ cháu vắt trên dây leo, chừng bầy quỷ tha nhằn chạy văng bắn lên đấy. Mười bảy năm rồi, chú vẫn bị xác này ám ảnh... Cháu à! Nếu cháu còn nhớ mặt mẹ! Ôi chao! Mẹ cháu lúc đó tuổi mới hơn hai mươi, mẹ cháu là một trang quốc sắc, đẹp không kém bà chúa soái Thập Vạn hiện giờ. Nếu cháu nhìn kỹ lông mày, hàm răng sẽ thấy.

        Dứt lời, Chúa Mã Đầu cúi xuống, đỡ nhẹ Võ Minh Thần, tay kia soi đuốc. Võ theo đà nhỏm dậy, nước mắt đầm đìa, dòm sững xuống lòng quan. Quả nhiên ngoài "cái túi da người" gớm ghiếc vì tiêu gân thịt, những thứ không bị tiêu vẫn còn giữ nguyên vẻ đẹp dị thường.

        Lông mày thiếu phụ dài như lá liễu, hàng mi cong vút, miệng tuy chết nhăn răng gớm ghiếc mất cả lợi, nhưng vẫn còn lộ hai hàm răng trắng ngà, đều như ngọc vụn, mớ tóc dài chấm gót tuy màu mun đã khô xác, vẫn còn phảng phất nét mây tuôn óng ả.

        Võ Minh Thần run giọng kêu gọi "mẹ, mẹ ơi", mà không ngăn nổi xúc cảm đột dậy mãnh liệt trong lòng hiếu tử, Võ vung tay nhào luôn xuống, ôm luôn lấy thây mẹ, bế xốc lên như bế một người còn sống.

        "Rục! Rục! Lục cục! Lạo sạo!"

        Chàng trai vừa ôm xốc lên, bỗng thấy cái thây phát âm khô rợn, cốt đổ dồn xuống bụng, nặng trĩu khúc giữa, suýt rơi, khiến Võ giật mình xốc vội lại cho khỏi tuột tay, mắt trợn trừng ngó xuống, thấy cái bụng vụt nổi cuộn phình lởm chởm đáy xương nhấp nhô một khối lù lù, khiến Võ bật kêu lên:

        - Trời! Sao thế này?

        - Trong lòng rỗng, hai bên xương đổ dồn vào giữa bụng đó thôi!

        Võ Minh Thần dòm cái thây, và ôm ghì lấy khóc thảm thê.

        Thoạt đầu, bỗng thấy người mẹ năm xưa đã biến thành một cái túi da cực kỳ gớm ghiếc, chàng trai bị xúc động cực độ vì sự phi phàm quái đản, nhưng liền sau đó, khi được biết rõ đó là thân xác chết oan của mẹ đã sinh ra mình, lạ thay, tình mẫu tử thiêng liêng, chàng trai không thấy ghê gớm nữa, mà chỉ thấy đau thương uất hận căm thù nổi lên ngùn ngụt trong linh hồn, cảm giác hỗn loạn thiết tha dâng lên tỏa rộng, dìm cả thân xác linh hồn người con hiếu vào trong đó, giằng xé, tung lên quật xuống, trùng trùng tứ diện bủa vây như không còn lối nào thoát ra nữa.

        Rất nhanh, chàng tuổi trẻ rơi vào trạng thái đau đớn xót xa đến hôn mê, ôm lấy "cái túi da", tất cả những thứ gì còn sót lại trên hình hài của một người đàn bà tiết liệt đã chịu chết thảm thê, khóc lóc kêu gào lăn lộn cả xuống nền hang, miệng gọi: "mẹ ơi! con đây... con về đây..." không ngớt.

        Chàng trai chí hiếu lang thang đi tìm nguồn gốc, thân thế, lần đầu tìm được gốc thây, chàng trai khóc thương người từ mẫu đã chịu nhận lấy cái chết cực kỳ thê thảm, quái gở chỉ vì không chịu khuất thân, bỏ chồng con, nhân tính, nhân phẩm làm vợ loài quỷ tinh nanh ác.

        Viên tướng lạc thảo Quảng Tây đứng nhìn lặng lẽ, không khuyên can, an ủi, cặp mắt diều hâu dữ tợn tối hẳn đi vì ái ngại, thỉnh thoảng ông ta lại đưa mắt vơ vẩn nhìn các món di vật quanh lòng hang đá, các vật kỷ niệm buổi chiều vượt biên giới sa vào móng vuốt loài ác quỷ bốn chân mười bảy năm rồi, nhìn đã quen mắt, nhưng lần nào nhìn, cảnh hoàng hôn đỏ khé năm xưa lại hiện về ám ảnh tâm tư như vừa mới xảy ra.

        Nên ông ta cố ý cứ để mặc cho chàng trai khóc thảm cho dịu bớt thương đau u uất, chỉ lắc đầu chép miệng thương hại hết sức. Nhưng đứng mãi, thấy chàng tuổi trẻ vẫn ôm thây mẹ lăn lộn kêu gào khản cả tiếng, ông ta bất đắc dĩ phải cất giọng trầm u khẽ gọi:

        - Võ Minh Thần à! Cái chết của mẹ cháu năm xưa, đến khách qua đường như chú còn phải động lòng rơi lệ, mười bảy năm không hết xót thương, huống chi cháu là con, người trong cảnh. Nhưng chuyện đã xảy ra, giờ có khóc thảm mấy, cũng không làm mẹ cháu sống dậy à! Cháu là đàn ông con trai, cũng chẳng nên quá bi lụy như đàn bà con gái, phải bình tâm tĩnh trí tính kế báo thù rửa nhục, họa may mẹ cháu mới được mát mẻ dưới suối vàng à!

        Tuy sầu thảm như mê loạn, Võ Minh Thần vẫn chưa sảng trí. Nghe lời viên chúa núi Mã Đầu, chàng trai vội cắn răng, nén lòng đau, không khóc nữa, ôm thây mẹ đứng lên, lảo đảo muốn ngã. Ái ngại, chúa Mã Đầu bước lại, nắm lấy cánh tay đỡ, dịu dàng bảo:

        - Xác mẹ cháu bị con quỷ chúa hấp sát, chẳng hiểu sao mười mấy năm rồi, tiêm ướp cẩn thận, vẫn còn nặc mùi tử khí. Cháu không nên để nhiễm mùi thây... có hại à!

        Võ Minh Thần nghe chúa Mã Đầu nói, lúc đó mới kịp lưu ý, hít hơi, kinh ngạc kêu lên:

        - Trời! Nặc mùi quá! Trách nào nãy giờ cháu cứ thấy thoang thoảng, lại tưởng mùi xác thú vật nào rữa đâu đây. Lạ thật! Mười bảy năm ướp khô không thối rữa, sao vẫn còn mùi?

        - Hầy! Có lẽ tại do quỷ hấp, ám hơi quỷ chi đó. Cháu chưa biết, đêm hôm xảy ra tai nạn quái ác, chú cùng quan giám binh Cao Bằng đem lính đi tìm thấy, quấn chặt, thồ lưng ngựa có một đêm, con ngựa đó về đến Cao Bằng, lăn ra chết. Còn người lính giữ xác cũng ốm hàng tháng, suýt chết à!

        Võ Minh Thần bồng xác mẹ đặt vào lòng quan tài. Viên chúa núi Mã Đầu phụ một tay lần xếp lại các ống xương lổn nhổn trong "túi da". Chàng trai càng nhìn càng ứa nước mắt thương bậc sinh thành. Rất lâu, mới quay ra, cầm mớ xiêm y xem xét, lại coi cả bộ quần áo của viên chúa Đầu Ngựa cùng mớ di vật như bộ yên cương ngựa, mấy khúc xương người... Viên chúa Đầu Ngựa đưa Võ lại cuối quan tài, thò tay mở một cái rương khá lớn.

        Võ Minh Thần dòm vào, giật thót mình vì bên trong có ba, bốn cái đầu người nham nhở toàn vết nanh nhọn sắc gặm dở, có cái đã bửa đôi, mất hết cả thịt, phần nhiều còn tóc, nhe răng há miệng coi gớm ghiếc.

        - Trời! Còn đầu lâu những ai đây, bá phụ?

        Chúa Mã Đầu Sơn khẽ thở dài:

        - Đầu những kẻ ngộ nạn cùng chiều đó! Chú cùng mấy thủ hại tới đèo gặp đoàn buôn lậu của nghĩa phụ cháu. Hai đám đổ đường đèo, vượt vùng đất phân mao thì gặp mẹ cháu bồng cháu từ cánh rừng Nam bị đàn "quỷ mắt đỏ" đuổi theo đông như kiến. Mẹ cháu nhảy xuống đất, thả ngựa mang cháu chạy biến, còn bà đứng bắn chặn. Chú cùng nghĩa phụ cháu hô thủ hạ tràn xuống cứu nhưng bắn không xuể. Bầy quỷ tràn đi như thác lũ, cả đoàn võ trang tan tác, vào bụng quỷ, may chỉ có vài người thoát. Thường nó vừa tha đi vừa xúm gặm, nuốt cả xương. Mấy cái đầu này còn sót lại là nhờ có cánh lính khố xanh Cao Bằng kéo tới, có nhiều súng cối xay kích phác, chúng phải bỏ chạy.

        Võ Minh Thần thắp hương khấn vái hương hồn người mẹ xấu số cùng mấy cái đầu người ngộ nạn, đoạn lấy mớ xiêm y sơn cước mặc vào cho di hài mẹ, đứng im lặng giây lát cố trấn tĩnh tinh thần, nhưng cứ cảm thấy cả thân thể mình muốn nổ tung vì thương đau uất ức, tủi hờn, kinh hoàng.

        Và trong giây phút lặng lẽ như chiêu niệm oan hồn người thân thích, một cảm giác kỳ dị bỗng từ đâu kéo đến xâm chiếm tâm hồn, thoáng đã đóng trọn như không bao giờ thoát ra nữa: căm thù! Võ Minh Thần cảm thấy như mình đổi khác, một ngọn lửa oán hờn khủng khiếp cháy bỏng trong huyết quản, chàng tuổi trẻ thở một hơi dài, quay nhìn chúa núi Mã Đầu. Ánh lửa vật vờ hắt lên khuôn mặt điển trai rừng rực, viên tướng lạc thảo già đất Quảng Tây chợt lùi nửa bước, trợn trừng mắt nhìn chàng tuổi trẻ mồ côi, vùng hỏi lớn:

        - Võ Minh Thần! Cháu... sao thế? Cháu có việc gì không?

        Chàng trai lắc đầu, "Vua Pạc Hoọc" kêu:

        - Hầy! Cái mặt lạnh như xác chết! Vì tử khí bốc lên đầy mặt mũi, coi chừng loạn trí loạn thần à. Cẩn thận. Sự đau khổ hận cuồng quá đỗi hay làm người ta loạn dây thần kinh, mê tâm, cuồng trí, tuyệt cả lòng nhân à. Nghe lời viên tướng lạc thảo khuyên, chàng trai vùng lau nước mắt, thở dài đáp:

        - Có lẽ cháu quá xúc động trước di hài mẹ cháu nên biến sắc bất ngờ đó chăng. Bác nghĩ coi, cháu mới lọt lòng đã chịu cảnh mồ côi, đủ điều oan khổ, cha mẹ cháu tội gì mà phải chịu tử ly thảm khốc, nghĩa phụ cháu vừa gặp cũng chết thảm cùng nghĩa bộc. Thế gian đầy thảm cảnh oan khiên, bốn phương đầy lang sói ác nhân, quỷ quái... May ngày khôn lớn về tìm nguồn gốc còn có bá phụ trên đời. Mong ân bá phụ dạy bảo, cháu xin gắng mình. Nhưng thù này bất cộng đới thiên, dẫu phải xuống đến âm cung, cháu cũng rửa thù báo hận, tận diệt hết loài quỷ dữ bốn chân cho oan hồn mẹ cháu được siêu sinh.

        Nói xong nước mắt lại ròng ròng. Tướng lạc thảo Tàu cũng ứa lệ, nắm tay chàng trai, lựa lời an ủi. Một già một trẻ đứng bên quan tài xác, lòng sầu hận mang mang. Võ Minh Thần nghẹn hỏi:

        - Bá phụ! Sao không thấy bá phụ nhắc đến cha cháu?

        - Chú nào biết! Chỉ là một lần gặp gỡ giữa đường thôi. Chiều đó chỉ có mẹ cháu bồng cháu chạy lên biên thùy. Sau này, chú có ý tìm cha cháu, nhưng không gặp. Suốt mười bảy năm, có mấy người đi tìm "đứa bé vòng xanh", chú có liên lạc nhưng không gặp vì không ai chịu ra mặt. Khoảng năm, bảy năm, chuyện này như chìm vào dĩ vãng, không nghe ai nhắc tới nữa.

        Chàng trai mồ côi lại càng thấy bí mật bao trùm dày đặc, đứng im nhìn xác mẹ, chợt hỏi:

        - Phải mẹ cháu là người miền Bắc Việt Nam?

        Tướng núi Mã Đầu nheo mắt:

        - Quần áo này chính là quần áo đàn bà Thổ, Thái, Lào vẫn mặc, cái "phá" thủy ba kim tuyến quét gót. Nhưng mẹ cháu nói tiếng Tàu, tiếng Thổ, tiếng Việt đều thông thạo. Chú cứ ngỡ là người Thái, người Thổ lai Kinh chi đó. Võ Minh Thần cầm áo mẹ lên quan sát giây khắc, ngậm ngùi:

        - Giờ xin bá phụ cho cháu được biết đầu đuôi... về cái chết thảm khốc của mẹ cháu. Bá phụ có được nhìn rõ phút mẹ cháu bị hại? Có nhìn rõ con quỷ bốn chân?

        - Chú nhìn tường tận, chú đứng cách đó năm, bảy thước, lại có ống dòm. Chú còn nghe rõ từng lời mẹ cháu, lời con quỷ chúa dọa nạt dụ dỗ, áp bức mẹ cháu. Chú lại xông vào cứu, bị nó vồ ném cho bầy quỷ ăn thịt. Chú còn được nhìn rõ lúc nó hành hạ mẹ cháu và biến thành "cái túi da". Ghê dữ à! Còn ghê hơn ác mộng.

        Vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, chàng trai hỏi vội:

        - Nó không phải giống người mà nói được tiếng người?

        - Phải. Đó là một con tinh chúa đầu đàn Hồng Cẩu Quẩy biết nói tiếng người, lại nói được nhiều thứ tiếng, âm lúc khàn rè, lúc nhọn sắc, vang vang như từ dưới đất vọng lên.

        Võ hơi nhíu mày suy nghĩ, lẩm bẩm:

        - Quái gở! Phi phàm! Hay nó chỉ là người chó sói? Hoặc ác nhân đội lốt sói?

        Tướng lạc thảo Quảng Tây nhếch mép cười khô:

        - Chính chú, quan giám binh đã có lúc nghĩ thế. Nhưng cuối cùng, vẫn không biết được. Không có con sơn cẩu nào cao ngót hai thước tây để người đội lốt. Nó đi hai chân, nói tiếng người, và đuổi theo bắt bọn chú, "đứa bé vòng xanh"... như ma xó. Trốn lẩn đi đâu nó cũng biết, chỉ có loài tinh quỷ mới ghê thế. Nó thổi một hơi, mê liền. Chú bắn mấy phát "Pạc Hoọc" vào ngực, vào mặt, vẫn trơ trơ.

        Võ Minh Thần lại càng khó hiểu, cảm giác như đi vào cõi sa mù. Chàng trai chỉ kêu "lạ, lạ", viên chúa Mã Đầu ném luôn ngọn đuốc ngay đầu quan tài, đứng dựa vào thành "áo", ra hiệu cho Võ lại gần. Ông ta nghiêng nhìn vào lòng quan tài, đoạn quay ngó ngọn đuốc vật vờ, bộ mặt phong trần rắn rỏi trầm hẳn xuống, đường mạch máu thái dương nổi hằn, nếp nhăn chìm sâu như vết dao dĩ vãng chém còn lưu dấu, hai con mắt diều hâu vụt bâng khuâng mơ màng, giọng ồm ồm nói vừa cất lên đã trầm hẳn xuống, bỗng trở nên xa xăm mang mang như tiếng dĩ vãng mười bảy năm xưa ảm vọng về còn nguyên hình ảnh hơi hướm buổi hoàng hôn ma quái ngoài cõi biên thùy phân mao.

        - Chiều hôm đó...! Buổi chiều nhạt nắng... ánh hoàng hôn đổ xuống biên địa Việt -Trung. Còn nhớ rõ hôm đó trời bỗng nổi cơn gió vàng hiu hắt, sương lam dâng lên, "con quạ lửa" lừ lừ hạ xuống ngọn núi phía Tây, coi như cái mâm đồng nung đỏ treo trên biên thùy hoang vu. Phải. Còn nhớ như in, rừng biên nhuộm ánh hoàng hôn đỏ khé coi không khác một cảnh hoàng hôn trong ác mộng từ đời hồng hoang hỗn mang chi sơ nào...

        Võ trang đầy mình, đoàn lạc thảo, buôn lậu tứ chiếng quất ngựa đổ đèo vượt biên địa sang Nam...

        Comment


        • #5
          Hồi Thứ Năm



          Bóng Quỷ Trong Sa Mù



          Giọng nói của viên chúa núi Mã Đầu Quảng Tây chầm chậm vang lên giữa lòng hang lạnh, im không tiếng động, chỉ nghe có tiếng củi thông cháy lép bép, xông mùi thơm khét, thỉnh thoảng có một cơn gió từ ngoài triền núi cao lùa vào, thổi rạp thoi lửa đuốc, gió chạy trốc quan tài nghe cũng xa xăm mơ hồ lạ.

          Viên tướng lạc thảo Tàu nói tiếng Quảng Đông, thỉnh thoảng lại nói một tràng tiếng Quan Hỏa pha một vài tiếng Kinh lơ lớ, chàng trai Việt lặng lẽ đứng nghe, không nói thêm lời nào. Lúc đầu, chúa Mã Đầu còn nói giọng điệu nhu hòa, điềm tĩnh, sau tới những đoạn ghê gớm quái gở ông ta không nén được, giọng trở nên hầm hập, mặt mày biến đổi theo chuyện kể, sống động hết sức.

          Thỉnh thoảng ông ta ngừng lại thở, nén cảm xúc, ngó Võ như dò phản ứng. Ông ta kể tỉ mỉ, từng động tác, cố nhớ từng câu nói, từng cử chỉ của các nhân vật liên hệ.

          Từ lúc gặp quỷ bốn chân rượt thiếu phụ, đến khi quỷ chúa tứ túc hấp thiếu phụ thành cái túi da gớm ghiếc, lúc mấy người thoát nạn, chạy tới động Mèo trên núi, bị quỷ tinh theo bắt, tới chiều hôm sau, suýt rơi vào vuốt quỷ tại vùng Cầu Mây miệt Nước Hai, may được lão dị nhân Quy Võng Lạng giải cứu đem "đứa bé vòng xanh" về nuôi dạy... Nhất nhất ông ta đều kể rõ, đặc biệt là tiếng kêu thống thiết của thiếu phụ trẻ đẹp trước giờ lâm chung...

          Mãi hai tiếng đồng hồ sau, chúa núi Đầu Ngựa mới ngừng lại, đưa tay lau mồ hôi trán, thở phào một hơi như muốn trút được cả mười bảy năm ôm ấp nấu nung cảnh chết chóc quái gở của người đàn bà bạc mệnh đã cam lòng thảm tử cực kỳ ghê rợn, còn hơn chịu theo về động làm vợ quỷ để phải giao hoan với con tinh chúa bốn chân Hồng Cẩu Quẩy nanh ác.

          Chàng tuổi trẻ mồ côi đứng nghe như uống từng lời huyết hận, hai hàm răng cắn chặt vào nhau, thân hình rung động, đến khi tướng lạc thảo già ngừng kể thì bộ mặt điển trai đã ướt đẫm nước mắt đau thương...

          Một cơn gió lùa hang đá, ngọn đuốc rạp kéo dài kêu lép bép, tướng lạc thảo thở phì, tay vẫn ôm mặt, khẽ hỏi:

          - Minh Thần! Cháu... chịu đựng được chứ? Tưởng không nên biết tỉ mỉ.

          - Cháu chịu được! Chú cứ cho cháu biết từng ly từng tý... bí mật thường nhỏ như sợi tóc...

          - Vậy... mẹ cháu đã chịu nhận một cái chết khổ nhục nhất thế gian, nhưng người đàn bà đó đáng cho đàn bà trong thiên hạ phải noi gương, đàn ông phải cúi đầu kính phục. Bà đã chết can đảm, khí tiết chống cự đến cùng trước khi bị yêu khí hành hạ. Võ Minh Thần hỏi thêm từng chi tiết, chúa Mã Đầu kể hết, đoạn chậm chạp vuốt mặt, thở dài, quay nhìn Võ:

          - Tới nay đã mười bảy năm, bí mật vẫn bao trùm quanh vụ thảm sát, mẹ cháu vẫn là Vô danh nữ, không ai biết họ tên, quê quán, dòng dõi. Con tinh chúa tứ túc Hồng Cẩu Quẩy, không ai biết nó ở đâu, đường trần hay... âm phủ.

          Nén xúc động dữ dội, Võ cúi nhìn cái xác người mẹ bất hạnh, lẩm bẩm nói một mình:

          - Còn cha cháu... cũng không nhắc tới?

          - Không hiểu cha cháu có biết mẹ cháu bị thảm sát không? Nhưng tất cả đầu mối có lẽ là ở chiếc "vòng xanh" và dây chuyền vàng. Có điều lạ lùng là mười bảy năm nay có nhiều kẻ đi tìm cái "vòng xanh", biết đâu không có cha cháu trong đó. Con tinh chúa, ngay đêm đó, nó cũng đi sục tìm "đứa con nít vòng xanh", chừng cái "vòng xanh" cháu đeo phải ẩn chứa điều gì bí mật đặc biệt.

          Võ nhìn ngọn lửa:

          - Con tinh chúa biết nói tiếng người... có thể nó là người mang lốt sài tinh? Hay là loài âm vật?

          Chúa núi Đầu Ngựa trầm ngâm gãi râu:

          - Bí mật này chưa khám phá nổi, cứ như những điều chứng kiến nhãn tiền lại càng khó quyết đoán. Tinh chúa nói tiếng người, trí xảo còn hơn người, nhưng súng đạn bắn không chết. Nó lại linh mẫn như quỷ, biết cả đường đi nước bước của người ta để phục bắt. Còn chuyện sài kíu độc biết nói tiếng người cũng chẳng có gì lạ. Con sáo, con yểng, con két, lưỡi cứng còn nói được, huống con sói lưỡi mềm như lưỡi người.

          Võ Minh Thần nát óc suy nghĩ không sao đoán nổi. Chàng trai đưa vòng xanh điểm huyết, dây chuyền nửa đồng tiền ra ngắm nghía, tưởng đến thân thế mờ mịt, càng điên đầu. Chợt viên tướng lạc thảo Quảng Tây bật giọng:

          - Hầy! Còn điều này, chú quên khuấy! Còn nhớ lúc bị nó ép đứng bên gốc cây tùng, có lần mẹ cháu rú lên, vẻ kinh khiếp hết sức, gọi nó là "con quỷ tiền kiếp". Lại bảo nó "theo ám hại không buông tha", "thà chết còn hơn làm vợ loài yêu ma nanh ác"... Xem thế, đủ biết trước ngày ngộ nạn mẹ cháu đã bị nó theo đuổi dọa nạt, có lẽ quá sợ hãi, mẹ cháu phải đem cháu trốn lên biên giới định sang Tàu nương náu, chẳng may con tinh chúa lại biết trước, đón đuổi. Giờ cháu tính sao... về di hài mẹ cháu? Chú nghĩ cháu nên làm lễ mai táng cho mẹ cháu được an nghỉ chốn suối vàng.

          Võ Minh Thần run lời, mắt sáng dị thường:

          - Mười bảy năm cách biệt, mẫu tử chia lìa, nay vừa thấy mặt, nếu táng ngay, chắc cháu buồn ghê gớm. Và cháu muốn có một ngày mẹ cháu chứng kiến cảnh loài quỷ ác bị phanh thây xẻ thịt, cho vong hồn người được mát mẻ. Vậy cháu xin chú cho cháu đem di hài mẹ trên bước đường tầm thù báo oán, để mẹ con sớm tối có nhau.

          Tướng lạc thảo Quảng Tây trợn mắt:

          - Hầy! Cháu điên sao? Đem xác theo, sao tiện. Cồng kềnh, nặng nề, bất tiện trong việc xông pha chiến đầu, lỡ mất xác thì sao? Vả lại xác bị con tinh hấp sát, liễm yêu khí mười bảy năm vẫn còn nặng mùi, đem bên mình, hơi xông ra, không được.

          Võ điềm tĩnh:

          - Mười bảy năm chưa mai táng, thêm ít tháng nữa cũng được. Cháu muốn nhìn thấy di hài mẹ cháu hàng ngày. Cháu sẽ có cách làm mùi không tiết ra. Cháu sẽ gói vào một bọc nhỏ, bỏ giỏ mây coi như hành lý, không ai biết đâu. Và có khi nhờ di hài mang theo, cháu càng dễ tìm ra tung tích con tinh chúa.

          Thấy chàng trai có vẻ quyết ý, chúa Mã Đầu không ngăn nữa, bảo:

          - Tùy ý cháu. Nhưng phải làm lễ cầu hồn. Mà cháu định bao giờ đi?

          - Xin chú cho cháu đi ngay. Lòng nóng như lửa đốt, cháu quyết tìm cho được quỷ thù, coi là giống chi mà lại tàn ác vô lương đến thế. Đồng thời cháu phải tìm cho ra cha cháu, cùng dòng họ nguồn gốc.

          Chúa núi Đầu Ngựa đặt tay lên vai chàng trai, ngậm ngùi:

          - Cháu hết lòng nghĩ đến thù nhà, thật không phụ công chú đợi chờ bấy lâu. Cháu đi vào sương mù, tìm thù báo oán, chú dẫn cháu đến nơi xảy ra cuộc thảm sát.

          Võ Minh Thần khẳng khái:

          - Chẳng dám làm nhọc lòng chú, cháu đi với Quản Kình được rồi. Xin cho cháu được tự tay báo thù cho mẹ cháu và rửa hận cho những người chết oan ức chiều đó. Chú cho cháu rõ địa điểm cũng đủ. Chẳng hay chú có biết quan năm giám binh hồi đó nay còn sống không? Và hiện ở đâu?

          - Ông ta về hưu khá lâu rồi. Có hồi về Tây mấy năm, sau có sang Cao Bằng chơi, năm năm nay không được tin. Nếu cháu muốn đi một mình, phải cẩn thận lắm à. Chưa biết chừng chú cũng sang Nam có việc.

          Hai người nói chuyện giây lát xong, Võ Minh Thần thắp tuần hương nữa khấn vái hương hồn người mẹ xấu số, đoạn đậy nắp ván thiên lại, hai người đưa nhau rời khỏi hang đá. Ra tới triền ngoài, chàng tuổi trẻ nước mắt vẫn chảy ròng ròng, tưởng như "vừa từ dĩ vãng đau thương trở về".

          Không ai nói nửa lời. Tang tóc quá khứ đè nặng trĩu tâm hồn. Trời vẫn cao lồng lộng, nắng sáng rực rỡ, gió mát rượi, nhưng chàng trai mồ côi vụt thấy lòng mình đã đổi khác. Xưa ngọn lửa cô đơn nung nấu, nay lại thêm ngọn lửa căm hờn ngùn ngụt.

          Quản Kình ngồi đợi trong căn nhà viên chúa soái Thập Vạn Đại Sơn, vừa thấy mặt hai người, đã hiểu ngay tiểu chủ đang cơn đau đớn vô cùng. Y chỉ kín đáo thở dài ái ngại, không dám hỏi. Nhưng Võ Minh Thần đã nói luôn:

          - Chú kiếm giúp ngũ vị hương, sáp ong, sửa soạn tẩm liệm, bọc di hài đem về Nam. Nhưng chú chẳng nên ngó thấy. Di hài bị hấp sát coi ghê gớm lắm, chú thấy sẽ bị ám ảnh suốt đời.

          Quản Kình tuân lời, nhờ viên chúa núi Mã Đầu sai viên đầu lãnh thân tín phụ lực, chỉ lát sau đã kiếm được các đồ tẩm liệm.

          Cả bọn lại đưa nhau tới hang đá triền sau, nhưng đem vào hang đặt đó, bỏ ra liền, chỉ còn Võ Minh Thần cùng viên chúa Mã Đầu. Võ tự tay dùng nước ngũ vị hương tắm rửa di hài mẹ, tiêm thêm mấy ống "phoóc môn". Ướp xong, nấu lỏng sáp ong, phết bọc kín di hài thật dày, kín cho mùi xú khí khỏi xông ra. Lát sau di hài người bạc mệnh đã thành một pho tượng sáp ong, không ai ngờ là xác người. Thận trọng, Võ cùng chúa Mã Đầu mặc xiên y sạch cho "pho tượng sáp" và nhè nhẹ bẻ gập bụng, gập đôi lại, dùng lụa bọc kỹ, rồi mới cho vào một cái túi thổ cẩm, thắt kín lại, bỏ vào giỏ mây. Còn mớ đầu lâu, xương xẩu của nạn nhân khác, Võ đề nghị cứ để nguyên trong hòm.

          Rồi ngay đêm đó, Võ Minh Thần kín đáo làm lễ cầu hồn, chỉ có chúa Mã Đầu, Quản Kình dự. Trong hang đá chàng trai vật mình khóc thảm thê, khiến người ngoài cũng phải sa nước mắt, an ủi hết lời.

          Những tưởng chàng trai mồ côi sẽ rầu rĩ ủ ê, nhưng sau tuần cầu hồn, khóc mẹ, Võ Minh Thần lau luôn nước mắt, mặt trở nên lạnh lẽo lạ thường, phủ phục thề sẽ tận diệt giống thù, rửa hờn cốt nhục. Xong, nửa đêm, đeo giỏ đựng xác mẹ sau lưng, chàng trai liền cũng chúa Mã Đầu, Quản Kình đóng cửa hang, về trại soái.

          Ngay sáng sau, chàng trai tuổi trẻ bái biệt vợ chồng chúa soái Thập Vạn Đại Sơn, xin phép "Vua Pạc Hoọc" lên đường. Nàng nữ soái Liễu Thôn miệt Lùng Phầy dịu dàng bảo:

          - Biên giới Việt - Trung này rất nhiều quái vật quái nhân, thù giết mẹ hiền đệ không phải ma nhân tinh quái cũng là độc vật yêu quỷ, tài nghệ lợi hại lại sẵn ma thuật phi phàm, sức người không địch nổi. Nó lại cực hung hiểm, quỷ trá khôn lường. Hiền đệ về Nam phải cẩn trọng lắm mới được. Nếu hiền đệ chẳng khách tính, vợ chồng ta rất yên lòng được giúp hiền đệ điều hữu ích.

          Võ Minh Thần lễ phép thưa:

          - Chỉ sợ nhọc lòng bậc danh giá, kẻ mồ côi này lúc nào cũng chỉ mong được lời chỉ dạy.

          Bạch Y Nương Phượng Kiều mỉm cười:

          - Chớ quên hiền đệ đã cứu mẹ con ta. Nay hiền đệ đã thọ giáo danh sư, bản lãnh đã cao, vợ chồng ta muốn truyền thêm cho hiền đệ một vài bí thuật cần thiết sau này.

          Võ cúi đầu bái lãnh. Chúa tướng Thập Vạn Đại Sơn giọng chuông đồng:

          - Xông pha độc hành, ra vào sào huyệt đối đầu địch nhân quái vật, không gì bằng biết thôi miên thuật. Ta sẽ truyền dạy hiền đệ về phép thôi miên. Đáo sự gặp quái vật quái nhân dùng đòn mê, phun khí độc, nhất chúng thường phun lúc bất ngờ, kín đáo hoặc gặp bất kể loại chưởng kình độc hại nào, chống lại không gì bằng "Khẩu phong lôi", vì học được môn phản phong này, các yếu huyệt mặc nhiên bế kín thường trực, khỏi sợ bị đánh ngầm. Đã thế, "Khẩu phong lôi" đánh ra như sấm nổ, mạnh hơn đánh bằng tay, phá giải được nhiều môn độc công hiện nay. Ta sẽ truyền "Khẩu phong lôi" cho hiền đệ. Ra giữa thiên binh cận chiến, nhất gặp sài lang tứ túc Hồng Cẩu Quẩy thường kéo tràn cả trăm ngàn con một lúc, chống lại không gì bằng "vanh khiên", bí thuật trấn quốc của nước Nam từ thiên cổ. Hiền đệ sẽ được học khiên.

          Bạch Y Nương tiếp:

          - Không đeo súng mà lúc nào cũng có súng bắn. Khi chĩa nổ, bao giờ cũng nhanh hơn kẻ địch ba giây, dầu kẻ địch là... Thần Xạ Đại Sơn Vương vô địch, bất ngờ cũng bị luôn. Bí pháp tốc xạ này là của tôn sư đảo chủ Thần Tiên đảo Nam Cực truyền. Ta sẽ luyện cho hiền đệ phép "nhả đạn trong tay áo".

          - Hai tay hai súng, dẫu nhanh mấy cũng chỉ bắn được hai kẻ địch một loạt, lỡ rơi vào chỗ trống, bốn kẻ địch xông vào một lúc, hoặc đối đầu không cần dùng tay cũng được, không gì hơn bắn bằng... chân. Ta sẽ bảo hiền đệ phép "bắn bằng chân". Ta sẽ bảo hiền đệ thuật phóng giáo, bắn súng bằng chân.

          - Còn nhiều thuật quan hệ khác cho kẻ dọc ngang như "cánh không phi", "đạp vật thủy thượng phiêu", gồng ngải, độn toán, y học giải phẫu, trị độc thương, phép sai khiến ma xó, sai âm binh, điều quân khiển tướng, sai khiến loài thú điểu... Còn hàng trăm phép cần yếu khác, vợ chồng ta sẽ tùy tiện bảo dần, rồi hiền đệ còn phải luyện sau này nữa. Có điều chú ý: Cứ như loài quỷ mắt đỏ tứ túc kia rất nhiều ma thuật, lắm ngón phi phàm, mấy thứ chúng ta không chuyên luyện, ta sẽ giới thiệu hiền đệ tới cho bạn ta truyền bí thuật. Về các pháp môn đó, không ai sánh nổi nữ chúa động Thanh Âm bên lãnh địa Cao Bằng, miệt giữa Sóc Giang Đồng Văn.

          - Tiếc lòng hiền đệ như lửa đốt, chẳng lưu lại Vân Nam này vài năm, nhưng ít nhất cũng phải một, hai mùa. Với tài nghệ hiền đệ, ta tin mọi việc luyện sẽ chóng thành. Nhân dịp ta sẽ dượt lại các món võ thuật cho hiền đệ. Vậy hãy gác thù sâu, chuyên luyện ít lâu đã.

          "Vua Pạc Hoọc" chêm vào:

          - Quản Kình đi theo sát, cũng nên học thêm cho giỏi. Ta cùng Voòng huynh sẽ truyền dạy nội công ngoại khoa cho.

          Thầy trò Võ Minh Thần mừng khôn xiết, xin đồng lãnh giáo.

          Từ đó hai người lưu lại miền Thập Vạn Đại Sơn, học thêm bí pháp, dị thuật, pháp môn. Vốn giàu nhân điện, quen khổ hạnh, lại nuôi chí báo cừu giải oan hồn cho từ mẫu, chàng tuổi trẻ mồ côi dốc lòng khổ luyện. Nhờ siêng năng, mạnh ý chí, sẵn có bản lãnh, lại được vợ chồng viên chúa soái Thập Vạn Đại Sơn hết lòng truyền dạy bí pháp, thay nhau tập dượt, rèn luyện, chàng trai tiến lên vượt bậc.

          Ngoài ra, nhờ sống gần chúa Thần Xạ, vốn bực ngang dọc xông pha vào sinh ra tử rất nhiều, trải trăm ngàn cuộc chiến kỳ hiểm phi thường, rất giàu kinh nghiệm sống về mọi mặt, khi tửu hậu lúc trà dư, thường đem ra truyền giảng, lại cho biết sâu rộng về các nhân vật võ lâm đương thời, từ tài nghệ, bản lãnh, sở trường sở đoản... lại nói cặn kẽ về địa hình miền biên địa Trung - Việt, vùng thượng du đất Bắc, mấy dải sơn lâm Vân Nam, Lưỡng Quảng, mấy miệt duyên hải vịnh Bắc Kỳ, các hải đảo, quần đảo Hạ Long, Bái Tử Long, sang tận Hải Nam, Quảng Châu, nhất nhất có gì đặc biệt đều nói rõ, kể cả phong tục tập quán...

          Càng ở bên hai vợ chồng chúa Thập Vạn cùng viên chúa Mã Đầu, thầy trò Võ Minh Thần càng kinh ngạc bái phục, không thể ngờ hai người lại đều tài giỏi, từng trải hơn cả người sống trăm tuổi.

          Chúa Thập Vạn vốn kẻ sống rất nghiêm minh trung thực, ân oán phân minh, vừa gặp Minh Thần đã yêu thương ngay, lại thêm chuyện chàng trai tình cờ cứu được hai mẹ con Phượng Kiều thoát nạn bất ngờ, nên cố sức truyền dạy cặn kẽ, không tiếc một môn bí mật nào. Còn Quản Kình được hai viên chúa tướng lạc thảo Tàu dạy hết lòng, võ nghệ, tài thuật cũng tiến rất mau.

          Thấm thoát đã hết thu sang đông, rồi gần hết xuân sắp sang hè, thầy trò Võ Minh Thần bản lãnh đã vượt hẳn, tính ra đã lưu lại Vân Nam bảy, tám tháng trường. Một đêm nằm nghe gió thổi mặt triền khuya, tự nhiên lòng miên man dậy niềm u uất, nhớ thù mẹ thác oan, tủi nhục tràn đầy khóe mắt. Chàng trai đem xác mẹ ra thắp hương khấn vái, và ngay sáng sau lên xin phép ra đi tìm thù.

          Vợ chồng chúa Thập Vạn cùng Mã Đầu Pạc Hoọc, Voòng Hải Sơn Vương nắm tay căn dặn hết lời, lại đem tặng thầy trò các mọi thứ cần dùng khi về nước, đặc biệt có hai bộ giáp trận và hai cái khiên kép chế tạo rất tinh vi.

          Giáp bằng mây đen kép, giữa lót cao su dày hơn lốp xe, kẹp thép dày, trước ngực, bụng còn đắp thêm hai mảnh mica loại kính chiến xa, có cả mũ trụ dính liền sau gáy, toàn khối ghép từng phần có bản lề, lò xo, có thể gập vào thành khối nhỏ.

          Khiên, một cái thành hai úp lấy nhau, cũng lát các thứ như giáp, cần có thể tháo làm hai. Khiên giáp đều bọc vải chàm, có phết một thứ nhựa thuốc kỵ thủy, kỵ hỏa, đi mưa không ướt. Trong khiên trụ ghép một khoảng rỗng, nếu cần có thể đổ cát hoặc chì thêm cũng được.

          Bình nhật khiên dùng thay mũ nón, coi đúng mũ rộng vành. Lại tặng thêm hai đôi giày vải Tàu, trong có sẵn bộ phận gài súng bên mắt cá rất kín, tặng thêm hai mảnh vải chàm rộng cũng ngâm nhựa thuốc, có thể dùng làm "tăng", áo đi mưa, chăn đắp.

          Không quên tặng thêm hai con giáp mã khỏe, nòi ngựa chiến quen đi núi. Quản Kình to con, đồ dùng toàn khổ lớn như của "Vua Pạc Hoọc". Võ Minh Thần chẳng có chi tặng lại, chỉ biết dâng mấy mảnh da, xương Mạc thú làm kỷ vật tạ từ.

          Vợ chồng chúa soái Thập Vạn Đại Sơn cùng chú bé Hồng Kiệt, chúa Mã Đầu, các cận tướng thủ túc đưa hai thầy trò Võ Minh Thần xuống núi, tiễn mấy dặm đường, Võ xuống ngựa, kính cẩn:

          - Nay kẻ mồ côi này về Nam tìm cừu báo oán, bốn phía mịt mù tăm hơi, đường đời ẩn trắc, thực hư, bạn thù lẫn lộn, chẳng khác kẻ đi tìm bóng chim tăm cá. Dám xin bậc phụ huynh ban cho vài lời tiên tri, chẳng hay chuyến đi này có tìm đặng quân thù, nguồn gốc mẹ cha chăng?

          Chúa Thập Vạn nhảy xuống đưa tay trái đánh một quẻ độn Lục Nhâm, Trần phu nhân Bạch Y nương tử cũng đánh Lục Nhâm, hai vợ chồng cùng giơ tay cho nhau coi. Chúa núi Mã Đầu Pạc Hoọc đại vương liếc coi kinh ngạc, thấy hai ngón tay trỏ lần cung cùng ngưng một chỗ giống nhau như rập khuôn. Hai vợ chồng chúa soái Thập Vạn ghé sát nhau, lẩm bẩm, cả hai thoáng cau mày, nhìn nhau.

          Chúa Thập Vạn rút cây súng, lật lấy một viên, quay bảo đám cận tướng:

          - Viên mã tử!

          Voòng Lầu lấy một viên cắm vào. Chúa Thập Vạn xòe tay xoay tít cối đạn, quay mấy vòng trên ngón trỏ, bắn chỉ thiên. Tách! Đạn thối. Lật cối xem đúng viên mã tử mặt đỏ. Thoáng sợi mây bâng khuâng, chúa Mười Vạn Núi cắm súng nhìn Võ mấy giây, vỗ nhẹ vai, cao giọng:

          - Chuyến này về nước gặp kỳ duyên nhưng phải coi chừng nghiệp sát. Phải quay súng bảy vòng trước khi nổ, quay ngoảnh mặt bảy lần trước khi nhìn, nhất nhất phải cẩn trọng. Ta có mấy câu tặng hiền đệ, hãy nhớ kỹ: "Đồng bất đồng, bất đồng thị đồng. Khai bất khai, bất khai thị khai. Khai đồng nghịch lý, càn khôn ngộ càn khôn, cát hung khả đáo".

          Võ cúi đầu lãnh giáo, khẽ hỏi:

          - Chẳng hay quân thù hấp sát có phải đích tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy?

          Chúa Thập Vạn trầm mặt:

          - Quỷ tứ túc không ra quỷ, người không ra người, bán âm bán dương, bán phàm bán tục. Trong thân có lẫn nhân khí, yêu khí, hình như ở mấy chủng loại. Ta có ý nghĩ: Nhân vật phi nhân phi thú phi quỷ phi tinh này đang ở vào độ hóa hình như một vài giống hãn hữu xưa nay, vì một phép tu luyện ngược lại các định luật thông thường về vật lý. Mười bảy năm qua, tất còn lợi hại hơn xưa nhiều. Ta e kẻ nào lọt vào tay sẽ chỉ còn mớ da không. Phải cẩn thận hết sức.

          Thầy trò Võ sụp vái giã biệt. Súng nổ tiễn chân đì đẹt, hai thầy trò giật ngựa đi như gió, phút chốc đã chìm khuất sau các núi đèo trùng điệp.

          Nhìn theo bóng dáng người tuổi trẻ đeo di hài mẹ sau lưng, nhấp nhô phai chìm cuối dặm dài quan san, viên chúa Thập Vạn Đại Sơn không nói nửa lời, khá lâu chợt chép miệng, lẩm bẩm:

          - Nghiệt số gớm ghê! Cầu trời cho hắn đủ sức vượt qua biển gió cuồng.

          Viên tướng lạc thảo Mã Đầu gãi râu, lo lắng khẽ hỏi:

          - Chủ soái à! Nó về Nam chuyến này... có gì xảy ra...?

          - Bí mật lạ lùng! Quẻ độn ứng càng khó giải! Toàn hư hư thực thực, có có không không! Hừ! Nếu không dành cho hiếu tử báo cừu, ta cũng thấy tò mò hết sức, chỉ muốn xuống núi một phen! Yên lòng! Kẻ sinh ra dưới một ngôi sao dị kỳ như thế không dễ gì được trốn nợ đời đâu! Ta về thôi!

          Chúa Thập Vạn cùng vợ nhảy lên ngựa, bọn cận tướng tài danh lẳng lặng lên theo, lóc cóc trở về đại trại, bộ mặt phong trần đanh thép vẫn còn in đậm nét ngậm ngùi, bâng khuâng...

          * * *

          Ngay sau khi bái biệt vợ chồng vị chúa tể Thập Vạn cùng "Vua Pạc Hoọc" Voòng, thầy trò Minh Thần cứ mải miết ra roi đi miết, hai ngày sau đã ra khỏi trấn sơn hùng cứ của chúa tể rừng già Vân Nam. Ngày đi đêm nghỉ, nhờ theo lộ trình của vị chúa tể Mười Vạn núi chỉ vạch, chẳng mấy bữa đã bắt vào con đường xe lửa, lóc cóc xuôi nửa buổi đã tới biên giới.

          Dừng ngựa trên đèo cao, trông xuống, thấy một vùng biên trấn cư dân trù mật, mái ngói rực đỏ dưới ánh nắng chiều trọng xuân, cắt ngang bởi một dòng sông xanh lặng lờ chảy quanh co, đổ tới ngã ba, giữa cảnh sơn lâm kỳ thú, xa tít về phía Nam, bên kia đất Việt, trấn biên nhà ngói như bát úp, có cây cầu sắt bắc qua sông rừng ngăn đôi lãnh thổ Tàu, ta.

          - Hồ Kiều kia rồi! Cầu Trấn Phòng! Bên kia là Lào Cai. Nước Nam kia rồi. Tôi còn nhớ ngót mười năm trước, tôn sư có cho theo về nước một lần, đi qua vùng biên này đây. À! Cảnh vật vẫn không đổi thay bao nhiêu. Vùng này, chú thường qua lại?

          - Da có đến năm, sáu bận. Nhất hồi cụ nhà về ở hẳn đồn điền Yên Bái, tôi thường cùng chú Trưởng Sềnh qua đây. Trước còn vắng hơn giờ, ngay bên Hồ Kiều cũng có rạp hát tuồng Tàu, quán ăn, hiệu buôn đủ thứ. Vì là ga địa đầu, dân Hồ Kiều Lào Cai qua lại buôn bán như đi chợ à. Giờ chiều rồi, ta xuống phố nghỉ ngơi, mai sang bên kia cũng sớm chán. Mà... cậu hai à, cậu tính về qua Yên Bái ít bữa, hay... đi đâu?

          Võ Minh Thần đăm đăm nhìn xuống mấy miền trấn biên, bâng khuâng:

          - Đi tìm con quỷ ác trong sa mù, có chỗ nào định sở hẳn đâu? Nhưng tôi tính thẳng tới biên giới Cao Bằng, vùng Sóc Giang bên trên Nước Hai, coi lại nơi mẹ tôi bị con quỷ bắt giết, nhân thể tìm kiếm động Thanh Âm. Dạo này chẳng hiểu qua cầu Trấn Phòng có dễ không. Phía quân Tàu không ngại, hơi ngại lính nhà nước Đông Dương gác cầu Trấn Phòng.

          - Không hề gì, cậu hai. Dọc đường xe lửa Hà Nội - Côn Minh tôi quen nhiều, nếu lạ, ta đãi vài đồng "xòe" là xuôi. Dân Lào Cai Hồ Kiều vẫn qua lại rầm rập mà.

          Hai thầy trò Võ lóc cóc tế ngựa xuống thị trấn Hồ Kiều. Đến nơi mới bốn giờ chiều, vẫn còn vài tia nắng hoe đẹp trời, chậm sương mù, khí đá.

          Hồ Kiều vốn là ải địa đầu Trung Hoa trông sang Lào Cai, chỉ cách một cây cầu Trấn Phòng, biên trấn này thuộc lãnh địa Vân Nam hiểm trở, cách thủ phủ Côn Minh hàng trăm cây số, nhờ con đường xe lửa Hà Nội - Côn Minh, việc buôn bán được mở mang qua nhiều miền sơn lâm hiểm trở, đặc biệt là giao thương với Đông Dương, Hồ Kiều cùng nhiều vùng xa xôi sống nhờ các hàng hóa vật dụng bên Nam tải qua cầu nhiều hơn nhờ thủ phủ Côn Minh, nên quan chức Tàu đương thời từ hồi Đường Nghiêu tới Long Vân vẫn cho qua lại dễ dàng.

          Còn bên Việt Nam, nhà nước cũng cho qua lại dễ dàng, người bên Lào Cai sang Hồ Kiều xem tuồng Tàu đêm về là thường, cũng như người bên Hồ Kiều sang Lào Cai đánh bạc như đi chợ vậy. Bình thường chỉ có một chú lính Trung Hoa gác đầu cầu, bên kia Lào Cai cũng vậy.

          Nhưng khi thầy trò Võ Minh Thần vào trấn Hồ Kiều, hồi này lại thấy lính Tàu rầm rập qua lại, kỵ bộ lố nhố mới kéo về. Hỏi dân đầu trấn mới hay mấy hôm trước vừa xảy ra liền hai, ba vụ cướp tàu hết sức táo bạo ngay khi chuyến tàu đêm Hà Nội - Côn Minh đang chạy qua cầu Trấn Phòng.

          Quân cướp chặn tàu, "ăn hàng" xong, nhảy xuống xuồng độc mộc biến mất, nhanh như cơn lốc và đặc biệt nhất là cả mấy vụ chúng toàn cướp đoạt... vòng ngọc thạch xanh điểm huyết, điểm vàng, không lấy tiền bạc, hàng hóa chi cả. Người kể là một chú khách chuyên buôn đường Côn Minh - Lào Cai, còn cho biết cả mười mấy năm rồi, thỉnh thoảng lại xảy ra một vài vụ cướp kỳ lạ như thế, và những tiệm kim hoàn thường bị cướp tới thăm, nhưng cũng lấy vòng xanh thôi.

          - Vòng ngọc xanh? Tại sao chỉ cướp vòng ngọc xanh? Bọn bí mật nào muốn thu hết vòng ngọc thiên hạ làm gì? Có liên hệ chi tới cái vòng ta đeo không? Mà một bọn, hay nhiều bọn? Đêm Trung thu, từ Tam Đảo xuống Vĩnh Yên đón tàu ngược Yên Bái, cũng gặp một đám cướp vòng xanh. Lạ thật. Rất tiếc đêm năm ngoái không bắt một tên cầm đầu tra hỏi.

          Quản Kình bảo:

          - Cậu hai có cái vòng xanh kỷ vật, cũng nên cẩn thận. Chớ nên đeo lộ, chúng dám theo dõi hạ thủ đoạt lấy. Bọc kín là hơn.

          Võ Minh Thần cười, nói nhỏ:

          - Có lúc nên giấu, có lúc nên đeo ra ngoài cho nó bu lại. Tôi có cảm tưởng rõ rệt chuyện cướp vòng ít nhiều đều có liên hệ tới chiếc vòng mẹ tôi để lại, vì con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy cũng đi tìm bắt "đứa bé vòng xanh", chắc nó bắt để lấy chiếc vòng này. Ta có thể dùng làm mồi nhử chúng trong bóng tối chường mặt ra.

          - Mẹo này cũng được, nhưng nếu tôi để chúng chú ý vào tôi, cậu hai đứng ngoài dễ bề hành động hơn. Tay tôi to lắm, chắc khó vừa.

          - Vừa! Vòng này ngoại khổ, loại vòng gia truyền từ nhiều thế kỷ, cổ nhân xưa to xương, vòng ngọc càng lâu năm càng điểm huyết nhiều. Nhưng giờ ta có mang cả trung liên, nhập trấn sao tiện? Nên tránh xung đột với quan binh.

          Quản Kình gãi râu, chợt bảo:

          - Cậu hai! Ta cứ đi như dân thường, chỉ việc dấu súng đi cho tiện. Còn nếu họ đòi khám, cậu hai đã quên lá cờ ông chúa Thập Vạn trao cho rồi ư?

          - À! Nhưng cờ đó chỉ để qua lại vùng giang sơn Thập Vạn, đâu phải cờ tổng đốc, toàn quyền mà hòng đắc dụng đất này?

          Quản Kình gật gù:

          - Không phải cờ tổng đốc, toàn quyền nhưng là cờ hiệu chúa tể Mười Vạn Núi, từ tổng đốc Vân Nam đến toàn quyền Đông Dương đều phải nể vì chúa Thập Vạn, tuy chỉ là tay lạc thảo rừng xanh nhưng lại là lạc thảo anh hùng trong đời dọc ngang, việc đó ai cũng biết. Nên lính Tàu, lính Tây, ta, không ai muốn gây sự với người Thập Vạn đâu. Cậu hai cứ đưa lá cờ đây.

          Võ Minh Thần rút luôn lá cờ hiệu đuôi nheo trong giỏ trao cho Quản Kình. Cờ nền đỏ đậm, thêu hình quần sơn nhấp nhô với hình chim đại bàng kim tuyến vàng, mắt đỏ khé, xòe cánh trên ngọn Thập Vạn, xung quanh có tua vàng, chỗ nền quần sơn còn có thêm một hình tròn kim tuyến có hình đại bàng nhỏ giữa chữ "Soái" vòng ở chữ "Thập Vạn Đại Sơn Vân Nam".

          Quản Kình cắm luôn bên cổ ngựa, cùng Võ Minh Thần vào thẳng trấn Hồ Kiều, trung liên đeo vai, súng trễ sườn, đội mũ khiên rộng vành, mặc giáp ngầm coi hết sức oai vĩ, đúng tay thảo dã giang hồ.

          Dân trấn Hồ Kiều lẫn lộn Tàu, ta, Xạ Phang, Dao, trông thấy hai người đi dọc đường tàu vào, thảy đều nhìn theo, chỉ trỏ, tránh dạt nhường lối. Bỗng gặp một đám lố nhố lính Tàu xách súng chạy ra, một viên quan võ trẻ quát hỏi:

          - Hầy à! Hai người kia mang súng vào trấn có việc gì à? Coi giấy!

          Quản Kình đi trước chưa kịp đáp, chợt có một viên quan tư trạc ngoại tứ tuần, râu quai nón, mạnh khỏe từ trong căn nhà gần đấy đi ra, vừa thấy bóng cờ đuôi nheo cắm bên cổ ngựa, y vùng trợn mắt nạt đám thuộc hạ:

          - Hầy à! Lui ra cho sếnh sáng đi! Không thấy cây cờ hiệu kia sao? Hầy, một con đại bàng mắt đỏ trên chỏm núi, cờ hiệu ông chúa tướng Thập Vạn Đại Sơn, bạn thân quan Tổng đốc Đại tướng Tài Nhân à!

          Đám lính Tàu dạt ra, viên quan tư hỏi:

          - Nhị sếnh sáng về Nam?

          Quản Kình đưa tay chào, gật đầu:

          - Ngộ phò "Công tử Đại vương" sang Nam có chút việc. Công tử đây là... em chúa tướng Thần Xạ. Dạo này sao Hồ Kiều canh phòng cẩn thận dữ à?

          Viên quan Tàu vò râu than:

          - Hầy à! Dạo này có tụi thổ phỉ bạo gan cướp tàu hỏa ngay giữa cầu à! Bên sở hỏa xa Vân Nam kêu, ông tướng ngộ mới sai về đây bắt cướp.

          - Hà hà! Nhân dịp sang Nam để ngộ nói với "Công tử Đại vương" ngộ bắt giúp một tay à.

          Viên tướng Tàu cười ha hả, xua lính dạt ra, vẻ lễ độ hết sức. Võ Minh Thần cũng mỉm cười chào, cùng Quản Kình giục ngựa qua nghiễm nhiên vào thẳng trấn. Mãi lúc đó, chàng trai mới hiểu rõ oai danh vị chúa tể Mười Vạn Núi lan rộng khắp mấy cõi, đến quan quân cũng phải kính phục. Hai thầy trò lần vào một tửu quán ngay khu đông đúc, nghỉ ngơi.

          Đoán có thể có tai mắt "bọn bí mật" cướp vòng tại Hồ Kiều, Quản Kình bảo Võ Minh Thần chuyền chiếc vòng xanh cho y đeo, giấu hết súng lớn nhỏ trước khi vào quán. Quán khá đông đúc, khách thương, dân hào phú các vùng lần tới, sang Lào Cai đánh tài xỉu, hành khách Tàu, lính tráng quan chức... ra vào tấp nập, xen lẫn thổ dân, giang hồ tứ chiếng.

          Hai người buộc ngựa gốc cây, lên kiếm được cái bàn kê gần cửa sổ "ban công", có thể nhìn xuống dưới được. Đoạn gọi tửu bảo đem thịt tới, ngồi ăn uống. Thực khách khá đông, cười nói líu lô, khạc nhổ bừa bãi, đúng không khí quán Tàu. Võ Minh Thần không quen uống rượu, nhưng cũng ngồi đối ẩm với Quản Kình cho khuây khỏa.

          Rượu được một tuần, chợt nghe có tiếng người cười vang từ dưới cầu thang nhấp nhô đi lên, tiếng cười nghe như chiêng khánh, lệnh vỡ khua, khiến thực khách muốn vỡ màng tai, nhiều kẻ phải bịt vội tai tru tréo. Chỉ có hai người khách trung niên mặt mũi lạnh như tiền cứ ngồi ăn uống, không buồn lưu ý.

          - Hà hà! Khát cháy cổ rồi. Bồi bếp, chủ quán đâu? Có rượu hảo hạng mau đem vài hũ. Quả nhân thưởng tiền. Thật ngon nghe. Ngự tửu quả nhân đem theo gần hết à! Hỏa tốc! Hỏa tốc!

          Một bóng người theo tiếng hô rượu bước lên gác, đứng ngay đầu cầu thang đưa mắt ngó kiếm bàn trống.

          - Của trời cho... nửa cái càn khôn, tử công phu mới vớ được đó. Ma Khách. Bữa đó hình như ngươi cũng có mặt, ngươi bịt mặt, rượt theo "nàng công chúa" ở hồ Ba Bể liền mấy ngày đêm, mấy phen bắt hụt, người lại xua quân đuổi theo quả nhân thì phải. Nay lại gặp quả nhân... Hà hà...

          Lạnh lẽo, người trung niên nhún vai, khô giọng: "Trùng rượu! Ta lại phải đánh lừa ngươi ư" và bỏ về chỗ ngồi.

          - Khoan! Trẫm nói cho vui! Cứ xem chơi càn khôn luyện đây.

          Vẫn không nhìn lại, người áo đoạn vén luôn tay áo, giơ tay trái lên khỏi đầu.

          Võ Minh Thần nghe hai khách dị này đối đáp với nhau bỗng giật hẳn tim nghe mấy tiếng "nàng công chúa", "hồ Ba Bể", "rượt mấy ngày đêm, mấy phen bắt hụt". Võ nghĩ thầm:

          - Bọn này có liên hệ gì tới vụ thảm sát mẹ ta chăng? Hay dữ. Không ngờ vừa về đến đất Hồ Kiều đã gặp may.

          Bèn cứ làm mặt điềm nhiên cứ ngồi ăn uống với Quản Kình, theo dõi từng cử chỉ, chợt thấy người khách trung niên "Ma Khách" bước sau lưng người áo đoạn phương phi giơ kính lúp soi sát chiếc vòng trên tay người này.

          Hai con mắt sáng hẳn lên, hắn giơ tay vẫy người đồng ẩm lại, trao kính lúp cho gã, gã này cũng mặc xườn xám, cũng gầy nhom, gã cúi lom khom soi lúp, dòm kỹ hơn, nghiêng ngó. Bỗng gã vùng đứng thẳng người,vẻ chán nản thất vọng, nói gọn lỏn:

          - Không phải "nó"!

          Người áo đoạn giật thót mình, co tay nhổm bật dậy như cái lò xo, lần này mới xoay người lại trợn ngược mắt, hỏi giật giọng:

          - Sao? Không phải "nó"? Ma Kinh! Ngươi bảo không phải nửa cái càn khôn?

          Cả hai gã trung niên mặt lạnh cùng cúi dòm lần chót, cùng nhún vai lắc đầu, lẩm bẩm "vòng giả, vòng giả". Người có hiệu "Ma Kinh" ngửa mặt lên trần, thở phì chán chường:

          - Của vất đi! Toi công của, toi nhân mạng, phí mười bảy năm tìm kiếm. Sâu rượu! Giữ lấy của quý mà chơi. Không ai ăn cướp đâu.

          Dứt lời, cả hai cùng trở về chỗ cũ. Người áo đoạn cũng lôi kính hiển vi ra soi, hết soi lại dòm hai gã kia như muốn dò hư thực, chợt vùng quay sang vẫy gọi:

          - A! Ma Khách, Ma Kinh! Còn của các người... sao không đưa trẫm coi thử?

          Hai gã này ngó nhau, gã Ma Kinh lôi trong bọc ra môt cái túi thổ cẩm lớn, đứng lên, tiến lại cầm dốc ngược, "xoảng xoảng, lạch cạch" hàng bốn năm chục cái vòng xanh điểm huyết vung vãi khắp mặt bàn; ném cả cái túi không xuống, lạnh như tiền:

          - Mười bảy năm mồ hôi xương máu, mấy mươi vạn cây số lang thang... biếu nhà ngươi đó. Cất đi, về làm "sưu tầm vòng ngọc" chơi, cũng có giá đấy.

          Nói đoạn bỏ về chỗ, người áo đoạn chụp lấy soi lúp, dòm từng cái. Thầy trò Võ liếc sang thấy mỗi cái vòng này sàn sàn cùng cỡ, khổ đều giống cái vòng Võ đeo, tuy nhiều cái điểm huyết ít hơn.

          Võ Minh Thần thấy cả bọn họ đều nhắc đến vòng xanh, cho là có liên hệ bí mật tới thân thế mình, Võ khẽ bảo Quản Kình:

          - Cơ hội rồi! Phải ra mặt thôi.

          Quản Kình đưa mắt quan sát một vòng, khẽ bảo:

          - Bọn này toàn hạng ma nhân quái gở, cao bản lãnh, nếu ra mặt, chúng xúm cả lại, ta bất lợi. Ta nên trì hoãn, tốt hơn.

          Võ Minh Thần nóng lòng, nhíu mày ngẫm nghĩ, nhìn quanh lầu, thấy phòng hẹp, đông khách, xảy cuộc chiến sẽ nhiều người chết oan, lại chưa lượng rõ được bản lãnh địch thủ, chàng trai chợt nghĩ ra một kế, tặc lưỡi bảo Quản Kình:

          - Trì hoãn, chúng bỏ đi hết, biết theo tụi nào? Chi bằng, có cách này... như thế... như thế...

          Quản Kình tán đồng, Võ Minh Thần đứng luôn dậy tiến lại chỗ bọn Song Ma, nghiêng mình, cất giọng lễ phép hỏi:

          - Kẻ hậu sinh này xin có lời chào liệt vị tiền bối.

          - Muốn gì? Muốn vuốt râu...?

          Vẫn điềm nhiên, Võ Minh Thần đưa mắt nhìn cả Song Ma, Tửu Chúa, cao giọng:

          - Kẻ hậu sinh này ngồi ăn, vừa thấy liệt vị tiền bối cãi nhau về cái vòng. Kẻ hậu sinh này tình cờ thấy có người đeo cái vòng điểm huyết lớn, muốn mách bậc tiền bối, nhưng nếu bậc tiền bối không thích, kẻ hậu sinh xin lỗi đã làm rộn tai.

          Dứt lời, Võ chào quay đi, ngay lúc đó, người áo đoạn có hiệu Tửu Chúa đứng sổ lên vẫy gọi lớn:

          - À à! Chú em Thổ Quảng Tây hay Thổ ta, Thổ phỉ chi đó... sang đây nhậu chơi với quả nhân. Lại đây! Lại đây!

          Võ Minh Thần cố đợi cho cả ba lão nôn nóng mới từ tốn lên tiếng:

          - Thưa liệt vị tiền bối! Kẻ hậu sinh này vừa thấy một người đeo một cái vòng xanh điểm huyết rất lạ. Cái vòng này cỡ to, tay mập cũng đeo được, mình nó to gần bằng ngón tay trỏ. Về điểm, thì nó điểm gần hết, có lẽ chưa thấy cái vòng nào lại khác đời đến thế. Thưa chẳng hay có phải...?

          Vừa nghe đến đấy, Song Ma vỗ đùi hét inh ỏi:

          - Đúng! Đúng rồi! Đúng "nó" rồi! Ôi chao! Cứu tinh! Hiền đệ cứu tinh! Nói mau! Gặp nó ở đâu? Chỗ nào? Đứa nào đeo? Nói mau! Bọn tao đi ngay!

          Tửu Chúa cũng giục, nhưng lại vuốt râu, đưa mắt ra hiệu cho Võ chớ nói ngay, để nói riêng cho y biết. Tương kế tựu kế, Võ Minh Thần làm mặt ngây ngô hỏi:

          - Nhưng chẳng hay vì sao mà cả mấy vị tiền bối đây đều có vẻ chú ý đến nó? Chẳng hay nó có gì đặc biệt?

          Cả ba lão liếc nhìn nhau như ngầm dò ý, cả ba ngó Võ chòng chọc. Một lão vuốt râu, cười hè hè, gật gù:

          - Hà hà! Cái vòng điểm huyết, hà hà! Nó là cái vòng điểm huyết, có vậy thôi. Mà chú em để ý làm quái gì cho mệt óc. Quan hệ hay không để mặc mấy thằng già này lo liệu. Chú em gặp nó ở đâu? Nói nghe chơi.

          Võ tỏ vẻ băn khoăn lo ngại, từ tốn bảo:

          - Kẻ hậu sinh này tình cờ thấy, cũng chỉ cho là lạ mắt chút thôi, nhưng vừa nghe chư vị nói tới, kẻ này mới lạ nữa, không thể không muốn biết. Chắc phải có gì hệ trọng, chưa rõ đã nói ra, nhỡ chư vị đâm chém nhau giành giật nó, gây án mạng, kẻ này hóa mang tội, xin chư vị hiểu cho.

          Cả mấy lão đều nóng ruột, vò đầu bứt tai, nhăn mặt, cứ dỗ dành chàng trai nói, chàng trai lại cứ đòi phải biết rõ về lai lịch cái vòng mới nói. Cuối cùng lão Ma Khách kêu lớn:

          - Ôi chao! Chú nhỏ này muốn về âm phủ hay sao cứ nằng nặc đòi biết nó! Vậy tao nói qua cho biết, rồi trỏ chỗ mau, nghe: Cái vòng đó không phải vòng thường, nó là một trong ba cái vòng càn khôn. Mỗi cái có một phép lạ, ghép lại sẽ đảo quyền thiên hạ, đảo lộn càn khôn, kẻ làm chủ càn khôn lúc đó sẽ sống lâu bằng ông Bành Tổ... Bọn tao đi kiếm khắp năm châu bốn biển. Mười bảy năm trước cướp hụt của "nàng công chúa" bồng con nít, cả lũ phờ râu, suýt chết. Mười bảy năm đi kiếm lại đây. Vậy đó! Quý vậy đó! Nói đi!

          Biết qua được tia sáng bí ẩn, Võ mừng thầm, lại hỏi:

          - Chắc còn nhiều điều khác lạ nữa. Xin tiền bối cho hay. "Nàng công chúa" bồng đứa nhỏ... rồi ra sao? Tại sao lại có?

          Không đợi chàng nói hết, lão Ma Kinh vùng cười thét:

          - Dài dòng! Dài dòng! Biết thế đủ rồi, còn đòi gì nữa? Mấy điều đó đánh đổi ở chuyện chú mày đủ rồi. Chớ tham lam hỏi nữa, rước vạ vào thân. Nói mau! À hay... hay chú mày cũng muốn giật vòng càn khôn? Chú mày bịa chuyện lừa mấy thằng già này?

          Võ Minh Thần lắc đầu:

          - Kẻ hậu sinh này đang chán đời, chẳng dại gì lại thích sống lâu như ông Bành Tổ rước thêm khổ vào thân. Nhưng kẻ này chỉ sợ các vị cùng tìm tới giết nhau, kẻ này thật có tội lớn. Nhất nói ra, chỉ đến tối các vị sẽ gặp ngay người mang vòng, vậy xin tiền bối tha lỗi cho, kẻ này xin ra một điều kiện nhỏ: Sẽ nói cho vị nào cho biết thêm một vài điều về cái vòng. Chẳng hạn như "nàng công chúa bồng đứa con nít" là ai? Chồng nàng là ai?

          Cả ba cùng dòm chòng chọc, thoáng nghi ngờ, rồi vùng cười lớn:

          - Không xong! Không xong! Nhỏ con, ngươi đánh lừa chúng ta để dò la tin tức phải không? À! Hậu sinh lếu láo lừa bịp cả tiền bối. Nói mau! Mấy thằng già này ngứa tay rồi đây!

          Tất cả đều lừ lừ, coi bắt đầu nổi nóng. Võ Minh Thần nhác qua sắc diện, hoàn cảnh, biết mấy lão cáo già này không chịu nói thêm nữa, làm găng sẽ thành cuộc xung đột ngay, chàng trai bèn mỉm cười bảo:

          - Chư vị chớ lầm. Kẻ này chẳng có ẩn ý gì đâu. Nhưng chỉ ngại chư vị huyết chiến...

          - Ôi chao! Khỏi lo chuyện đó! Việc riêng của mấy thằng già. Việc của chú mày là cứ nói. Nói mau nghe!

          Tuy nói thế, nhưng Song Ma cũng nhất loạt vươn mình ghé sát tai vào mặt Võ Minh Thần, Tửu Chúa cũng ghé luôn. Võ Minh Thần vụt nghĩ ra một mẹo, ghé sát Song Ma, thì thào bằng tiếng Quan Hỏa:

          - Kẻ đeo cái vòng đó từ trong rừng ra đón tàu sang Nam, hắn mặc quần áo chàm, đội nón sụp trán. Nghe hắn bàn với tên đồng hành sẽ đi chuyến tàu đêm nay.

          Xong ghé tai Tửu Chúa dùng tiếng ta thì thầm:

          - Hắn đi hai người, mặc xườn xám. Họ bàn nhau sẽ vượt qua cầu Trấn Phòng, trên toa súc vật hàng hóa chi đó để tránh lính Đông Dương dòm ngó.

          Dứt lời, Võ Minh Thần điềm nhiên xốc hành trang, bảo Quản Kình tính tiền trả, định bỏ đi luôn.

          Cả ba lão dòm nhau, tia mắt hớn hở thoáng nghi hoặc. Lão Ma Khách vùng quát:

          - Khoan, hỏi đã. Chú mày không đánh lừa bọn tao chứ?

          Võ Minh Thần nhướng mày nhìn cả ba lão dõng dạc:

          - Lừa mấy vị tiền bối để làm gì chứ? Chẳng qua tình cờ thấy mấy vị định đánh nhau không đâu, kẻ này mới mách giúp đấy thôi. Nhưng xin chớ tiết lộ.

          Mấy lão lẩm bẩm: "Ờ, nó vô can, lừa làm gì nhỉ". Võ Minh Thần lại bồi thêm búa nữa:

          - Tối nay bọn tôi cũng đợi tàu đêm qua Lào Cai, nếu tiện thấy, xin mách ngầm tiền bối.

          Nói đoạn, hai thầy trò chào ba lão, rời khỏi quán. Cả mấy lão như mấy con thú biết đường đi của con mồi non, mừng thầm hết sức.

          Ra đến ngoài, thầy trò Võ Minh Thần bàn nhau tới ngay ga địa đầu Hồ Kiều hỏi thăm giờ tàu từ Côn Minh đến. Và để tránh bị đám quái lão theo sát, hai thầy trò lập tức ra khỏi Hồ Kiều, tế ngựa ngược đường sắt, đến ga khác chờ tàu.

          Nhưng đêm đó trục trặc, mãi nửa đêm tàu Côn Minh mới chạy tới. Thầy trò Võ mua sẵn vé, cho ngựa chạy lên toa súc vật, toa này cũng có mấy con ngựa, hai thầy trò kiếm luôn chỗ khuất, ngồi thay y phục, giả làm hai chú khách buôn mặc xườn xám. Lại đội mũ che sụp trán, lấy hai cái mặt nạ da người đeo, ngồi vấn thuốc lá sừng bò hút phì phèo, đợi... cá cắn câu. Chàng trai đã chọn Tửu Chúa để nói chuyện.

          Chuyến tàu đêm chạy qua miền sơn lâm hiểm trở, núi đồi trùng trùng nằm bằn bặt dưới trăng sương. Lát sau đã tới Hồ Kiều.

          Hồ Kiều trấn địa đầu cũng nằm giữa núi đồi hùng vĩ, xe lửa lắm lúc bò lên núi như con mãng xà đêm, khạc tàn than bay tung như hoa đỏ khé. Khi tàu thét còi vào ga, Võ Minh Thần để Quản Kình ngồi gần cửa, còn chàng trai vào một xó khuất sau mấy con ngựa. Toa súc vật, hàng hóa tận cuối, ngồi cửa toa có thể trông suốt lên mạn đầu tàu. Quản Kình kéo cửa chỉ để khe nhỏ. Hành khách lên xuống tấp nập, phần đông là Tàu, ít viên chức... Vì mới xảy ra vụ cướp, có cả bóng lính Tàu, phần nhiều chỉ có dãy toa hành khách là nhộn nhịp, dãy toa cuối vắng hoe.

          Hai thầy trò Võ đang sốt ruột chưa thấy Tửu Chúa, bất thần nghe "cạch" một tiếng, cánh cửa phía bên kia sịch mở, Quản Kình dòm lại đã thấy một cái bóng đen đen trắng trắng đứng sững ngay khung cửa tối mò.

          Nhờ khung cửa in trên trời mờ, không cần phải chú ý nhìn kỹ, cũng nhận ra chính người áo đoạn ban chiều trong tửu quán. Lão quét lia cặp nhãn tuyến đỏ khé như mắt thú tìm mồi, nhận ngay bóng Quản Kình ngồi bên kia cửa. Thân pháp dị thường, lão chỉ động nhẹ cây batoong đã xẹt qua sườn mấy con ngựa, đừng xế bên Quản Kình.

          Tia mắt thoáng sáng rực, dòm từ đầu tới chân Quản Kình đúng dáng kẻ Võ tả, y phát tiếng cười khô, hỏi bằng tiếng Quan Hỏa:

          - Sếnh sáng ngồi... ngắm cảnh?

          Vẫn tựa lưng cạnh cửa, Quản Kình ngước nhìn lên, nhe răng cười lạnh lùng:

          - Ngộ ngồi đây coi ngựa! Nị không có ngựa, xuống toa này làm gì?

          Quản Kình nói xong cứ điềm nhiên nhìn ra ngoài trời, con tàu đêm vẫn chạy qua Hồ Kiều hướng về phía cầu Trấn Phòng. Tửu Chúa dòm chòng chọc vào cổ tay Quản Kình, Quản Kình giật nhẹ tay nắm lấy đầu gậy vùng hỏi:

          - Hầy à! Nị muốn gì?

          - À! Quả nhân muốn xem cái vòng nị đeo... coi có phải "vòng càn khôn" không? Có người bảo nị, xườn xám đeo.

          Vừa nói, Tửu Chúa vừa dằn mạnh tay Quản Kình. Dùng đầu gậy hất cổ tay lên, Quản Kình mắng:

          - Muốn coi ngộ cho coi, làm gì như kẻ cướp thế?

          Dứt lời, Quản Kình gạt gậy ra, vén luôn cổ tay áo giơ cao.

          Tửu Chúa rút đèn bấm chiếu soi, kêu:

          - Đúng "nó" rồi! Hà hà! "Vòng càn khôn", tìm kiếm cả đời người! Nị có tài cán gì dám giữ "của giết người" này? Thôi! Biếu quả nhân, quả nhân biếu lại mấy chục cái vòng khác. Quản Kình trợn mắt:

          - Mậu hẩu! Mậu hẩu! Đồ gia bảo của nhà ngộ, không đổi! Mà nị thích cái vòng này vì lẽ gì à?

          Tửu Chúa vuốt râu:

          - Còn vì lẽ gì? Vòng càn khôn, nị đổi cho quả nhân.

          Quản Kình nói lớn:

          - Ngộ chỉ biết vật gia bảo ông cha để lại. Vật thiêng liêng, không đổi.

          Tửu Chúa trợn mắt:

          - À nói vậy không phải cái vòng của nàng công chúa bị con quái vật đuổi bắt sao? Hà hà! "Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn, biến vi càn; càn khôn, càn khôn, nhập càn khôn, hóa vi khôn; càn khôn hữu chủ". Ôi chao! Tính quả nhân đổi chác phân minh, không ưa cướp giật, ăn quịt, nhưng cái món này, nếu nị không đổi, quả nhân đành mượn đỡ vậy, nếu không đứa khác nó thấy cũng ăn cướp mất, phí của quý đi.

          Võ Minh Thần ngồi thu mình một xó, nghe y nói đến câu "nàng công chúa lúc bị con quái đuổi bắt", bỗng giật hẳn tim, mừng khôn xiết vừa toan lên tiếng, đã thấy Tửu Chúa đưa đầu gậy thọc vụt vào ngực Quản Kình.

          Thủ pháp y lẹ như chớp, nhưng Quản Kình lúc này bản lĩnh đã cao đưa tay gạt "bịch" đầu gậy sang bên, nào dè y đã sà vụt xuống túm ngay lấy cổ tay Quản Kình, Quản Kình tay nắm gậy tay kia đảo nửa vòng túm lại cổ tay y. Tửu Chúa vận sức, túm ngược lại, cười khà:

          - Nị này có "nghệ" à! Nhưng chú mày không địch nổi quả nhân đâu, để quả nhân "tia rượu mời", nị có thể bán thân bất toại à! Chớ có dại à!

          Quản Kình phóng chân đá, Tửu Chúa vừa ấn tay gậy cản, Võ Minh Thần đã từ xó tối toa xẹt tới sau lưng, thọc vụt đầu ô vào gáy, quát:

          - Khoan! Đứng im! Huyệt này đường máu chạy lên đầu, ấn nhẹ đứt mạch máu liền. Tửu Chúa giật mình, đứng lom khom, hét chìm:

          - À giỏi! Chú nào bế điện lừa quả nhân, giỏi à! Muốn gì?

          Khô giọng, vẫn dằn lời:

          - Muốn hỏi về con quái đuổi bắt người đàn bà... mười bảy năm xưa rồi hạ sát người ấy vô cùng thê thảm.

          Tửu Chúa vẫn ghìm Quản Kình, cao giọng:

          - Mi là thằng nào dám lừa thọc gáy bậc đế vương tửu! Đồng bọn với chú khách này? Nên nhớ: Quả nhân đổi chác phân minh, ân oán sòng phẳng, quả nhân cứu mụ công chúa đổi cái vòng, mụ lại lừa quả nhân, đưa vòng giả! Đáng đời, mụ bị con quái bắt đi.

          Võ Minh Thần nghĩ thầm:

          - Xem thế này, ông già sâu rượu không phải thủ phạm, ta nên thủ lễ, chẳng nên gây chuyện đánh nhau.

          Bèn dịu giọng dùng tiếng Kinh bảo:

          - Mỗ đây là con người đàn bà đó. Mười bảy năm lưu lạc mới về, muốn tìm lại kẻ thù, xin tiền bối miễn thứ, cho mỗ hỏi vài điểu!

          Tửu Chúa bỗng cười thét:

          - Nói láo! Nàng công chúa bụng to vượt cạn chạy trốn, đẻ rơi bên Hồ Ba Bể đẻ đứa thị mẹt, chú mày giọng Thổ ồ ồ, giống đực, dám nhận càn, bịp quả nhân sao?

          Võ Minh Thần sững sờ, ngơ ngác, "à" một tiếng, thu luôn dù về, khẽ thở dài:

          - Nếu vậy, không phải vụ thảm sát trên biên thùy rồi. Khi xảy ra tai nạn, kẻ này đã lên hai mươi mốt. Xin tiền bối miễn trách.

          Tửu Chúa nhổm xẹt vụt sang bên, quay dòm Võ chòng chọc. Quản Kình cũng đứng lên. Tửu Chúa trợn mắt hỏi:

          - Mà nị là đứa nào mới được chứ! Ôi chao! Chí ngu! Chí ngu! Hai đứa mày chính là hai chú Thổ Quảng Tây Cao Bằng Thổ Tàu Thổ ta hồi chiều trong quán rượu. Quả nhân già đời bị bọn mi lừa rồi.

          Võ Minh Thần chắp tay tạ lỗi, hỏi chuyện "con quái đuổi nàng công chúa", lão vua rượu kể qua vụ Giao Long Chúa bắt người đàn bà họ Bạc, đi với chồng, lúc đó chàng trai mới biết có sự trùng hợp về nạn quỷ, cùng "xảy trong" năm đó, nhưng nhân vật, địa danh khác hẳn. Mẹ chàng bị nạn trên biên giới phân mao, hung thủ là con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, còn người công chúa họ Bạc Tây Bắc kia bị nạ Giao Long Chúa dưới Hồ Ba Bể.

          Nhưng có một điểm trùng hợp rất đáng chú ý là cả hai con quái tinh đều rượt bắt, ép duyên hai người đàn bà tuyệt sắc, cả hai đều mặc xiêm y miền núi, một người mặc lối Thái trắng, một người mặc lối Thái đen, và đặc biệt nhất là cả hai người bất hạnh đều có con nít, mang một chiếc vòng ngọc xanh điểm huyết!

          Võ Minh Thần còn đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy Tửu Chúa nói lớn:

          - Hai con quái đuổi bắt hai nàng có hai cái vòng ngọc xanh, nếu vậy đúng hai cái càn khôn rồi! Chú nhỏ mau đưa quả nhân cái vòng kia, quả nhân sẽ giúp một tay đi tìm con quỷ bốn chân cho.

          Võ Minh Thần từ tốn:

          - Vòng kia dính liền đến thân thế kẻ này, rất tiếc chưa thể biếu tiền bối được. Tửu Chúa trợn mắt

          - Ồ... quả nhân đã kể cho chú mày nghe chuyện quỷ ngàn vàng rồi quả nhân không tiếc, chú mày lại tiếc cái vòng ư? Đổi chác phải sòng phẳng chứ.

          Võ nghiêm mặt:

          - Kẻ này chỉ còn cài vòng này để đi tìm nguồn gốc, dẫu thác chẳng dám rời tay, xin tiền bối hiểu cho.

          Tửu Chúa cứ nhất định đòi vòng, bất thần vung tay chụp Quản Kình, chưa tuột lấy vòng, Võ Minh Thần xẹt lại chặn ngang. Cả bốn cánh tay dính vào nhau, Tửu Chúa cười thét:

          - Hà hà! Chịu biếu vòng xanh hay "uống rượu tía"?

          Không nao núng, Võ lạnh lùng:

          - Vô thù vô oán, mỗ đây chẳng muốn hại người! Nhưng nếu tiền bối dùng đòn độc tia rượu, mỗ cũng buộc phải dùng đến "Khẩu phong lôi".

          Quản Kình rút cổ vào, khép thêm cánh cửa. Tửu Chúa đi vô không nổi, lại không dám dùng đòn độc, lão đâm cáu, dọa:

          - Ngốc tử! Không cho trẫm mượn, trẫm gọi hai ma vào... chia! Nó đánh đòn hội chợ, thầy trò nhà ngươi mất mạng à!

          - Không sao! Tiền bối cứ gọi vào đây! Mỗ chỉ kêu lên một tiếng, hai ma sẽ xúm lại đòi tiền bối cái vòng vừa đoạt.

          Lão sâu rượu nổi giận vùng lấy tận lực áp đảo Võ, miệng hét, nhưng vẫn không dám hét to, chỉ chực lôi Võ vào xó tối:

          - Loạn ngôn! Sao dám đặt điều vu cáo? Trẫm còn đang vật lộn với ngươi, chưa sờ được cái vòng, giữ hồi nào, dám láo.

          Võ Minh Thần chợt nảy ra một kế, vùng ra hiệu cho Quản Kình. Quản Kình rút phăng cây súng Saint Etienne trong mình ra, giơ cao, tiến lại gần Tửu Chúa, khẽ giọng:

          - Nếu không chịu bỏ tham vọng, mỗ cho "chó lửa" này cắn liền, chớ trách.

          Hai tay còn mắc dính tay Võ, lão vua rượu phát hoảng lùi lại mắng. Quản Kình sấn tới định nện báng súng, Võ cố đẩy ra bên cửa.

          Tửu Chúa rít trong cổ họng:

          - Thằng ngốc! Đóng hết cửa lại cho trẫm.

          Võ Minh Thần nãy giờ vẫn nhè cơ hội chợt thấy lão vua rượu nghiêng nghiêng dòm ra, chàng trai thừa cơ lão mải lùi sợ Quản Kình nện báng súng, bất thần hét một tiếng to như sấm cốt để "đoạt khí" địch thủ theo lối võ sĩ đạo Phù Tang, và chàng trai dùng luôn một thế võ "Judo" Nhật pha cả thế võ đô vật Việt Nam gánh phăng lão vua rượu lên vai, lưng, quăng nghiến ra ngoài cửa toa.

          Bị cú "xin âm dương" quá bất ngờ, lão vua rượu không kịp đề phòng, hóa giải, Võ lại xoay đòn nhanh như chớp, lão chỉ kịp kêu "ối" một tiếng, cả thân hình đã bị ném bổng ra ngoài, lúc này xe lửa lại đang bò qua cầu, cầu Trấn Phong cũng hẹp, Võ lại dùng tận lực, sợ lão bị quật vào thành cầu, nên lão bắn vòng cầu hàng mấy thước, vọt qua thành cầu hổng, rớt xuống sông vun vút, coi không khác tay lực sĩ từ trong toa nhảy ra theo lối "pê - ri - lơ Thụy Điển".

          Rất nhanh, Quản Kình nhảy vọt ra chảy đuổi theo bám thành cầu, tru tréo líu lo tiếng Quảng Đông:

          - Thổ phỉ! Thổ phỉ ăn cướp! Nó cướp cái vòng ngọc của ngộ! Tỉu nà thằng ăn cướp.

          Trên toa súc vật, Võ Minh Thần cũng nhảy xuống theo, Quản Kình làm bộ tiếc của định nhảy xuống sông, Võ giữ lại, tàu chạy chầm chậm, hai người vừa chỉ trỏ, chạy dọc thành cầu. Quả nhiên, trên nóc toa có tiếng hét:

          - À! Sâu rượu! Sâu rượu nhảy xuống sông? Nó vớ được vòng rồi!

          Song Ma nhất tề nhảy vèo xuống như con cắt, kẻ bíu thành cầu dòm xuống sông, kẻ túm vai thầy trò Võ, hét:

          - Đứa nào đó?

          - Hầy à! Ngộ đang ngồi ngủ gật, nó qua làm quen, nó tuốt cái vòng ngộ đeo, nó nhanh như con cáo! Cái vòng gia bảo... ngộ... ngộ phải đi trình các quan Tây quan Tàu...

          - Tỉu nà cái nị! Sao không lên toa hành khách... để nó cướp giật? Tỉu nà!

          Dưới sông trăng, cái bóng đen, trắng đã rớt "tõm" giữa vùng nước đầy hơi trắng. Tửu Chúa quả tay cao nghệ đã kịp giang tay hạ xuống đứng lên chùm bầu vẫn đeo lủng lẳng.

          Song Ma càng tin Tửu Chúa đã đoạt vòng "chẩu", lẹ như chớp cả hai nhảy véo véo xuống sông như bầy chim bói cá. Hành khách trên các toa thò cả đầu ra, dòm, kêu, chỉ trỏ, cho là ma quái, lính gác cầu cũng sổ ra dòm, tàu chạy xình xịch, thầy trò Võ Minh Thần thở phào, trút được gánh nặng, leo lên toa cùng đứng nhìn sông núi Hồ Kiều biên địa lùi dần trong trăng sương. Tiếng còi xe lửa vang vọng đêm biên thùy, phút chốc đã vượt khỏi cầu Trấn Phong, chạy sang đất Lào Cai.

          Đoán chắc đám quái nhân kia thế nào cũng lên bờ đuổi theo Tàu, Võ Minh Thần, Quản Kình nhân khi xe lửa chạy qua ga Lào Cai, hai thầy trò cõng cả ngựa, nhảy luôn xuống đất, ung dung kiếm quán nghỉ ngơi qua đêm...

          Ngay sáng sau, hai người rơi Lào Cai, dùng thượng đạo xuyên sơn qua Hà Giang vượt mấy rặng Si Công Linh, Pi A Ya, sang đất Cao Bằng tìm đến vùng xảy ra cuộc thảm sát mười bảy năm xưa.

          Vùng người mẹ Võ Minh Thần bị nạn quỷ tinh nằm giữa vùng Trùng Khánh Sóc Giang, tận biên phận phân mao hoang dã, hai người theo lời Chúa núi Mã Đầu căn dặn, tìm được tới chỗ gốc cây tùng xưa, gần con suối cũ. Mười bảy năm qua, rừng núi biên thùy như cũng già đi, nơi gốc tùng, cỏ mọc xanh um, bờ suối cũng đầy hoa dại, đặc biệt con đường mòn xuyên sơn hình như lâu lắm không có người qua lại, cỏ mọc cao bằng đầu.

          Suối tuôn lơ lửng, vô tình, bốn bề quạnh quẽ vắng lặng, chỉ có tiếng gió rào cành lá, chim kêu vượn hú, gà gáy hoẵng than, ngơ ngác, miền biên giới đìu hiu cô tịch hoang liêu... chẳng thấy bóng quỷ sứ biên thùy đâu, cũng chẳng còn lấy chút di tích của người xưa lưu lại. Tất cả như đã bị thời gian vùi xóa, thời gian xóa hết, chỉ còn niềm đau vô cùng trong tim chàng trai hiếu mồ côi.

          Thấy cảnh cũ Võ Minh Thần càng động lòng sa nước mắt. Quản Kình gan góc, thấy tiểu chủ khóc cũng ứa lệ theo.

          Võ Minh Thần đem xác ướp mẹ ra đặt ngay dưới gốc cây tùng, thắp hương khấn vái, cầu oan hồn từ mẫu dun rủi cho tìm thấy gốc nguồn, kiếm được quân thù báo oán.

          - Con quyết rửa nhục hờn cho mẹ! Thân xác này của mẹ sinh ra, con xin dâng báo cừu đem máu tẩy oan, con sẽ giết loài ác quỷ bắt con tinh chúa cáo tế vong hồn mẹ.

          Khấn xong, lại bỏ xác vào khăn gói đeo lưng, Võ Minh Thần cùng Quản Kình lần khắp mấy dải rừng thung biên địa, lưu lại biên giới suốt hai đêm đi lang thang vẫn chẳng thấy gì lạ.

          Hai thầy trò bèn bàn nhau lần về chốn cũ Cao Bằng, tìm viên giám binh xưa, không thấy, hai người liền xuống thẳng Bắc Kạn. Ngày kia! Buổi chiều xuân trọng đìu hiu, hơi rừng thượng du đất Bắc còn vương cái lạnh cuối mùa, hai người dừng cương bên bờ Hồ Ba Bể.

          Hồ Ba Bể vốn là thắng cảnh Việt Nam, thường hàng năm lôi cuốn rất nhiều du khách tới, nhưng chỉ hay ngắm cảnh về mùa hè. Dạo này, mới là độ trọng xuân, vùng hồ chiều vắng vẻ người qua lại.

          Thầy trò Võ Minh Thần tới bên hồ thấy cảnh sơn kỳ thủy tú muôn hoa đua nở trong lòng cũng thư thái nhiều phần. Bèn cho ngựa lững thững bước một quanh hồ, nhìn khắp nơi không thấy một bóng thổ dân nào, hai người cứ tiếp tục đi sát bờ nước, dừng lại bên phía nam hồ, đưa mắt ngắm trời nước mênh mông.

          Bỗng có tiếng ai gọi líu lo phía sau:

          - Hai ông cưỡi ngựa kia!

          Hai người ngoái dòm lại, thấy một lão Mán cưỡi một con ngựa thồ nhỏ bé dừng ngoài đường mòn vẫy, hai người bèn tiến ngựa ra, ngạc nhiên chưa kịp hỏi, lão Mán trợn mắt nói luôn:

          - Hai ông khách chắc mới Cao Bằng xuống? Chiều sắp tối rồi, đứng ở bờ hồ này nguy hiểm! Con ma con quái nó nhảy lên lôi xuống hồ ăn thịt cả người ngựa.

          Hai người vội hỏi, lão Mán tiến lại gần vẻ dáo dác sợ sệt cho hay: Cách đây khoảng mười bảy, mười tám năm trước bỗng có nhiều giống người giống quái kéo tới Hồ Ba Bể làm kinh thiên đảo địa rồi biến đâu mất. Từ đó thỉnh thoảng lại có một vài người đi chơi hồ mất tích, đêm đêm lại có bóng ma bóng quái dị hình dị thú lượn khắp trên bờ dưới nước khiến du khách không dám đến xem thắng cảnh, cả thổ dân quanh miền cũng chẳng dám tới gần.

          Như thế đến hai, ba năm, lâu rồi không xảy chi lại, thiên hạ lại tới Hồ Ba Bể đông như cũ, suốt mười mấy năm không thấy chuyện gì. Nhưng cách đây hơn tháng, bỗng khắp miền thường xảy ra những vụ mất tích lạ lùng, phần nhiều là đàn bà con gái mạnh khỏe, có lần một bọn gái Mán đi Bắc Kạn về qua hồ lúc xẩm tối. Bỗng nghe tiếng hú rợn óc, từ dưới hồ vọt lên hai, ba hình thù quái đản vồ nghiến mấy cô gái trẻ đẹp nhất bọn, nhảy xuống hồ mất dạng. Có người thoáng nhìn được hình thù quái, nhận ra nó dài lê thê coi tựa con rồng, con rắn chi đó, đoán là giống thuồng luồng.

          Có một lần, mới cách nửa tuần trăng, chính lão có việc về qua, khoảng tám giờ đêm trăng thượng tuần, cũng vừa đến khu rừng nãy, chính tai lão nghe văng vẳng có tiếng đàn sao dưới hồ đưa lên, tưởng du khách, lão rón rén lần ra sát lợi nước, thấy một con thuyền độc mộc mũi cong sơn son thếp vàng từ phía con bơn ngoài kia nhấp nhô lướt trên mặt nước, vẻ như đi thuyền chơi đêm trăng. Khi chiếc thuyền độc mộc kỳ lạ lướt qua chỗ lão nấp, lão bỗng dựng hết tóc gáy lên khi thấy hàng chục bóng chèo thuyền toàn dị thù dị dạng không phải người chèo đò, mà là một giống quái thú. Lúc đó lão mới hay đó là con thuyền ma quái, lão sợ toát mồ hôi chạy mất.

          Tiếng đồn về tận Bắc Kạn, lính khố xanh có phái đội tuần tiễu tới cắm trại ngay bờ hồ để trấn êm, dò la, nhưng chỉ một đêm, cả một đội hơn bốn chục tay súng bị mất tích gần hết, còn vài kẻ sống sót chạy luôn về tỉnh.

          Từ ngày đó, không ai dám bén mảng tới khu hồ này, đến nỗi mấy cái quán bán nước cho du khách quanh vùng phải đóng cửa gần hết, một hai quán chỉ bán tới ba, bốn giờ chiều, cứ từ hoàng hôn đến sáng hôm sau, cả đến dân Kinh, Thổ quanh miền cũng chẳng ai dám tới. Lão Mán này ở xế Tây Nam hồ, có việc đi Bắc Kạn về qua thấy bóng người, đoán khách phương xa, nên mau miệng gọi bảo cho biết hầu tránh tai nạn bất ngờ.

          Nghe qua chuyện lão Mán, Võ Minh Thần nhớ ngay tới chuyện lão Tửu Chúa mới kể nghe trên chuyến tàu qua Hồ Kiều, chàng trai không khỏi lấy làm lạ, bèn mở lời cảm ơn lão Mán, hỏi thêm vài điều. Lão Mán vừa lên tiếng, bất thần giữa cảnh hồ chiều vắng lặng vùng nổi lên từng tràng cười the thé nhọn hoắt rồi lại đến tiếng kêu rú lê thê chẳng khác gì tiếng ma quỷ rên rỉ dưới mộ địa, âm dị từ phía Tây Bắc xế vọng đưa lên khi gần khi xa, nổi chìm đứt nối cực kỳ quái gở, mặt vùng thất sắc như gà cắt tiết, lão Mán rung giọng kêu líu lưỡi:

          - Đúng "nó"!... À đúng "ngài" rồi! Cái ngài quái Hồ Ba Bể hiện về rồi...chết hết, chạy ngay không chết hết... ngài hay về lúc hoàng hôn.

          Dứt lời, lão giật ngựa thồ bỏ chạy luôn như bị ma đuổi, không dám quay dòm lại. Thầy trò Võ Minh Thần không chút sợ sệt bị óc tò mò thôi thúc, lập tức vọt lại sát lợi nước, đứng chỗ khuất, nhìn ra mạn Tây Bắc hồ. Nhưng chẳng thấy chi.

          Tiếng kỳ dị vẫn vang lên chời vờn, lúc này sương mờ đã dâng nhiều, vài tia nắng quái trọng xuân còn thoi thóp trên núi cao. Bỗng từ nẻo Đông Bắc hồ, vụt hiện ra một bóng nhân mã xé nước chồm lồng lộn một vùng hồ, tới đâu nổi sóng cuồn cuộn tới đó, coi rất hung hăng.

          Thoáng bóng nhân mã đã lồng tới con bơn, vọt lên mất dạng, chỉ còn nghe vẳng tiếng kêu thét dữ dội đưa lên, chừng năm phút sau, chợt lại nghe náo động cả con bơn như có một cuộc huyết chiến, chỉ một lát đã im bặt. Chỉ còn tiếng than khóc nỉ non thê lương nghe hết sức kỳ dị, rồi từ phía con bơn, bóng nhân mã lại lồng xé nước bơi về phía Đông Bắc, hình như lôi theo một vật gì nâu nâu, xám xám.

          Lạ lùng Võ Minh Thần bảo Quản Kình:

          - Bóng nhân mã kia làm gì lạ dữ! Ta đến đó xem sao!

          Quản Kình, Võ Minh Thần vỗ ngựa lao tới thật nhanh. Nhưng đến nơi chẳng thấy bóng nhân mã kia đâu nữa. Tìm khắp nơi thấy có dấu chân ngựa ướt, cùng dấu một vật gì kéo lê mặt đất vào nẻo rừng gần đấy, nhưng chỉ năm, bảy phút đã mất dấu. Hoàng hôn đổ xuống hồ Ba Bể vắng lặng, đìu hiu. Cảnh vừa xảy ra đã thoáng như trong mơ.

          Đoán có chuyện chi, Võ Minh Thần cùng Quản Kình bèn lộn lại đường Bắc Kạn kiếm chỗ tạm nghỉ ngơi, ăn uống. Rồi ngay đêm đó, hai thầy trò lại lên ngựa lóc cóc đảo lại khu hồ Ba Bể.

          Vào khoảng mười giờ đêm, gió lạnh, trăng mờ. Hồ Ba Bể im vắng như trong tranh vẽ, chỉ có vài tiếng cú rúc mơ hồ, lẫn tiếng côn trùng rên rỉ, nghe càng thê lương ma quái. Hai người bàn nhau, buộc ngựa vào chỗ kín, rồi đảo quannh hồ quan sát, nghe ngóng. Nhưng chẳng thấy chi lạ, đến nửa đêm tới gần chỗ Đông hồ, nơi có núi đá nhấp nhô, bỗng cả hai ngơ ngác, giật mình, nghe mơ hồ rõ tiếng người đang khóc đâu đây, hệt tiếng quỷ khóc đêm trăng.

          Lắng tai nghe, Võ Minh Thần khẽ bảo Quản Kình:

          - Tiếng ma kêu quỷ khóc này giống tiếng ban chiều lắm! Lạ thật! Người hay ma quái, lại kêu khóc giữa rừng khuya hồ vắng thế này? Thử lần đến xem!

          Hai người nương bóng cây loang lổ xuyên giữ khu cây cối rậm rạp men bờ mò về phía Đông hồ. Sương đêm xam xám từng dải chăng khắp trên ngàn dưới nước, tiếng côn trùng rên rỉ, quyện vào tiếng gió rì rào sóng xô bờ lau lách, khô ẩm đơn điệu, hai người đi được một quãng bỗng nghe tiếng dị vụt im, hồ khuya chìm trong quạnh vắng sâu thăm thẳm. Đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy một bóng sinh vật, hai người còn đang bàn tán thì thầm, bỗng lại nghe tiếng quái gở nổi lên, nhưng lần này chờn vờn tỏa rộng chừng xa xăm lắm, nhưng không sao lượng được hướng phát âm.

          Mơ hồ chìm nổi, có lúc như từ trên cao vọng xuống, có lúc như bên kia núi, có hồi như từ dưới hồ vọng lên, tiếng dị nhiều khi âm âm như dưới đất dâng lên theo tiếng trùng đêm. Võ Minh Thần bất giác ghé tai Quản Kình thì thào:

          - Vừa gần đây đã xa hút, âm quái này nếu của người trần phải là hạng có tài đi nhanh ghê gớm. Ngựa nào mà mau lẹ như gió thế! Chẳng lẽ loài âm...?

          Võ vừa dứt lời bỗng tiếng dị lại cất lên, lần này nghe rất rõ, hướng từ triền núi Đông Bắc chạy xuống phía Nam, phía hai người đứng.

          Vừa nghe lọt âm dị vọng tới, Quản Kình chợt thấy choáng váng. Võ Minh Thần vùng bảo:

          - Âm thanh công kích! À không phải ma kêu quỷ hờn, đêm trăng "nó" dùng tiếng kêu khóc tấn công? Không hiểu "nó" đánh chúng ta, hay đánh vật chi dưới hồ... Nhưng chú mau vận kình lực đề phòng, đóng tai, đóng yếu huyệt, lỗ chân lông lại! Chớ tiến gần lại nữa! Quản Kình lập tức ngồi khoanh chân, như kẻ ngồi tham thiền. Nhưng âm dị chạy tới khoảng sáu, bảy mươi bộ, lại đảo ngược lên triền núi, tuy tiếng vẫn vọng tỏa dùi tai. Võ Minh Thần ghé sát bờ nước, dòm về phía đó.

          Mặt hồ đang gợn lăn tăn như mảng chỉ thếp vàng dưới trăng khuya, bỗng xao động từng cơn rồi từ dưới hồ nổi lên rất nhiều cá, con lớn con nhỏ giãy giụa lập lờ, con nào cũng bơi được một chút rồi nằm ngửa phơi bụng lên mặt nước, coi không khác những con cá bị tức hơi mìn dưới đáy hồ nổi lên. Trong khoảng dài dọc bờ hồ hàng hai, ba trăm sải, rộng ra ngoài vài mươi bộ, cá nổi bụng trắng hếu ngất ngư giãy chết, coi rất lạ.

          Tiếng dị càng lớn, vang âm phóng xuống hồ, Võ Minh Thần tò mò không hiểu giống phát âm là người hay quái, lập tức bảo Quản Kình nấp đợi, đoạn rón rén nương bóng tối, hướng theo hướng âm dị lần riết tới. Chàng trai đang tìm tòi từng bụi cây, ghềnh đá, bỗng âm dị ập tới, rồi từ sau triền, vụt hiện ra một hình đen ngòm vừa lướt dọc bờ vừa cúi dòm xuống nước kêu khóc thê lương quái gở, kẻ bạo gan cũng muốn nổi da gà.

          Nó vừa quay hẳn mặt, bụng về phía hồ, đi xẹt ngang lẹ như chớp, đến nỗi Võ vừa thoáng thấy dạng, nó đã chập chờn lừ lừ như trôi lại gần chỗ Võ ẩn, cách chỉ độ ba bốn chục thước, âm phát ra càng chối.

          Võ Minh Thần trợn nhãn quan dòm, thoạt đầu hết sức lạ lùng thấy hình thù nửa thú nửa người, đen thui, có bốn chân, hai đầu, mãi lúc nó dừng lại, mới hay đó là một bóng hình người cưỡi một con thú đen, giống beo đen lớn. Bóng người quái gở này ngồi xếp bằng tròn trên lưng thú, trên tay cầm một lá cờ cũng màu đen nốt, thỉnh thoảng lại phất một cái, trải rộng hình cờ đuôi nheo.

          Nhưng vì bóng dị đứng quay ra hồ, Võ không thấy rõ mặt, đầu nó lại đính một chiếc khăn phất phơ như con bướm đậu, vai khoác vải rộng lòa xòa.

          Mỗi lần bóng dị phất lá cờ, lại phát ra những tiếng "bùng bùng", "lõm bõm" dưới nước, tuy vậy mặt nước vẫn không nổi sóng, khiến Võ không khỏi phục thầm, nghĩ:

          - Bóng dị bản lĩnh lợi hại hết sức, xem chừng rất thạo về chuyện đánh dưới nước! Y phất lá cờ phát âm "bùng, bõm" như bắn súng xuống đáy nước, mà vẫn không cuộn sóng, biết đòn đánh gọn lắm! Không hiểu y tìm đánh vào vật chi dưới hồ?

          Đang thắc mắc, bỗng lại thấy bóng kia lừ đừ đứng lên, không phất cờ, không kêu khóc nữa. Nó chậm chạp quay mặt về phía Võ.

          Nhờ ánh trăng soi, lúc đó chàng mới nhìn thấy mặt nó, phát ớn. Vì tuy là hình người hai chân hai tay, đứng trên lưng beo đen, nhưng cái mặt thì bất thành nhân dạng, đó là một cái mặt coi gớm ghiếc. Hai con mắt xếch ngược, nhọn, xanh biếc, mặt dài, mồm rộng, da mặt đen, đầy sẹo, lại có hai cái răng nanh chìa hai bên mép rõ là quỷ nữ, không phải giống đực.

          Từ khi ra đời, có lẽ chưa bao giờ thấy một cái mặt gớm ghiếc đến thế, chàng trai liền rón rén men lại gần thêm, để dòm cho kỹ xem có phải đeo mặt nạ không, nhưng chỉ được mươi bộ lại tới chỗ trống nhìn lên, bóng dị nhân đứng trên lưng thú, nó lại dòm xuống hồ như xem đàn cá đủ loại sặc nước nổi lềnh bềnh, vùng phát tiếng khóc, cười quái gở:

          - Mới thấy cá tôm, chưa thấy loài thủy quái. Mày trốn dưới đáy hồ đáy biển, chui vào hang hốc nào không dám lên? Mày xưng thần hồ, tài cao phép lạ sao không lên đây? Tao lột da, rút gân, uống máu, ăn sống nuốt tươi mày. Mày trốn xuống âm, tao cũng tìm cho ra.

          Tiếng nó chờn vờn nghe gai sắc như tiếng nạo mặt nứa, vừa dứt, bất thần nó vùng hét lên vang động canh trường từng tiếng kéo lê thê nhọn hoắt dùi xuống đáy hồ, dùi cả vào tai Võ Minh Thần, rồi bất ngờ nó nhảy tót xuống mặt ghềnh, xẹt Bắc, xẹt Nam dọc theo bờ hồ hét lên một tiếng, lại đánh xốc lá cờ đuôi nheo xuống nước.

          Lần này không ẩn chìm như lần trước, mỗi cái phất cờ lại phát kình phong đánh xốc dọc bờ nước ùm ùm, sóng dâng cao, nước tung tóe, không khác bị cuồng phong, đến nỗi Võ nấp tít đằng này, cũng bị sóng xô bờ bắn nước lên mình. Bóng dị lúc này như phát cuồng, cứ vừa rít, rú, vừa đánh, miệng nguyền rủa, lồng lộn không khác con quỷ thèm ăn thịt đang sục mồi.

          Sức kình đánh dữ dội đến độ tôm cá theo nước bắn tung lên lấp loáng vẩy bạc dưới trăng, sương đêm, hơi nước dạt cả ra xa tan loãng.

          Võ Minh Thần thấy quỷ nữ nổi hung, còn đang lấy làm lạ, thình lình có một con sóng dội cao vọt cách chỗ quỷ nữ vài chục sải rồi từ đáy hồ bắn vọt lên một hình thù quái đản, hình quái này dội nước bắn lên như pháo thăng thiên, cất đầu khỏi mặt hồ ba, bốn thước mà còn dìm nửa mình dưới nước, cái đuôi quẫy ùm ùm làm nước bắn tung tóe, sóng xô bờ thật mạnh tràn cả lên mặt ghềnh, lau sậy ngã quật vào nhau răng rắc.

          Theo hướng chếch bốn mươi lăm độ, hình thù chỉ cách chỗ Võ ẩn chừng ba mươi thước, nhờ ánh trăng mờ soi, chàng trai nhìn thấy rõ: Đó là một con thủy quái coi từa tựa như con rồng, đầu to, mõm đỏ như chậu máu, hai con mắt lồi đỏ khé, nanh chìa coi mười phần dữ tợn.

          - Giống con rồng, con răn lại có chân... à! Con Giao Long! Thuồng luồng! Giống thủy quái này dữ nhất trong các loài thủy quái.

          Chàng trai còn đang nín thở, ngạc nhiên trước hình thù lớn quá khổ của con quái vừa đội nước vọt lên, bỗng lại một phen sửng sốt nghe con quái phát âm như tiếng người lơ lớ gai gai thét:

          - Đứa nào to gan dám đến hồ này làm loạn giết tôm cá của Chúa hồ?

          Tiếng con Giao Long quái hét, giọng nghe rất lạ tai, vang âm không giống tiếng người ta quát, cứng như tiếng "nói bằng bụng" của một tay phường xiếc, khiến Võ Minh Thần lấy làm quái gở hết sức, chàng trai vội nằm rạp xuống sau một mỏm đá đầy hoa cỏ ven bờ, giương cặp mắt dòm không chớp.

          Hét xong, con thủy quái lắc cái đầu một cái quẫy "ùm" đuôi, cuốn lên một cơn sóng lớn dềnh dội cả hình thù của nó quăng vào hàng mấy sải, nó thở phì phì phun nước lên như vòi rồng. Trên bờ bóng quỷ nữ chợt thấy con thủy quái dưới nước nhô lên, lập tức ngừng phất cờ, kêu hú, nó xẹt ra sát mỏm ghềnh trỏ vụt tay xuống, phát một chuỗi cười nhọn hoắt tựa tiếng dùi đâm quát tiếng Thổ:

          - Hà há! Tao thèm ăn thịt thuồng luồng! Tao kiếm khắp sơn cùng thủy tận vụng sâu hang thẳm tìm con thuồng luồng tinh biết nói tiếng người để bắt mổ bụng ăn thịt! Mày biết nói tiếng người, mày phải con tinh hồ này? Nói mau!

          Dưới hồ, con thuồng luồng lớn lắc lư cái đầu, trợn trừng hai con mắt nhé nhìn lên quất đuôi vờn sóng, hét âm ầm ĩ:

          - Con quỷ cái! Mày to gan lớn mật, dám xúc phạm đến thủy thần. Giao Long thần hồ Ba Bể là chúa các loài thủy tộc mấy cõi sông hồ Lĩnh Nam ngự trong đền đài động phủ, tao là tướng trấn hồ! Quỷ cái canh khuya đến gây chiến? Mày muốn gì?

          Quỷ nữ hét:

          - Tao muốn căng thây lột xác chúa thuồng luồng hồ Ba Bể! Nó nấp đâu? Về gọi nó ra đây! Mày là quân nô dịch, chớ nhiều lời! Tao không thừa tay đánh giết mày! Về báo ngay!

          Con Giao Long dưới hồ cười ré lên, đảo đầu đớp nước phun phì phì:

          - Giao Long Chúa không gặp loài quỷ cái! Mày phạm đến hồ này, tao trừng trị. A, nhưng tao muốn biết tại sao vô cớ mày lại tới đây gây sự?

          - Thuồng luồng nô dịch! Tao muốn ăn thịt con tinh chúa, ăn thịt hết giống thuồng luồng mồm đỏ.

          Quỷ nữ quát dứt, con Giao Long biết nói tiếng người nổi hung, kêu ré lên, vùng mạnh, bắn mình lộn khỏi ngọn sóng, phun phì phì một cầu vồng nước mạnh hết sức, nhằm quỷ nữ bắn vọt lên. Mãi lúc này, Võ Minh Thần mới nhìn thấy được cả mình mẩy của con thủy quái lớn như cột nhà cháy. Dưới ánh trăng mờ, cái mõm há hốc phát âm phun nước ào ào, cỏ hoa lau sậy bên bờ ngã gục, nhưng quỷ nữ có nanh chìa này xem chừng oai lực không thường, nó hú lên từng chuỗi ngắn nhọn muốn thủng màng tai, tay nó phất vụt lá cờ đen đuôi nheo một cái. Nghe "bùng" tiếng lớn, lập tức kình phong đánh vệt cầu vồng nước dội ngược về phía con Giao Long. Con quái ngã lội nhào xuống hồ.

          Con Giao Long rống lên, vùng lồng lộn, vươn cổ há mõm, quất đuôi, quơ chân vuốt, quỷ nữ xẹt ngang dọc, phát tiếng cười cười khóc khóc nghe rởn ốc, quái quỷ quật xoắn lấy nhau, bỗng con Giao Long hú lên một tiếng cực lớn, từ dưới bắn vọt lên ba, bốn cầu vồng nước mạnh hết sức chụp lên đầu, quỷ nữ cười rú, phất vụt lá cờ đen, kình phong đánh trúng mấy cầu nước "bùng bùng" nước bắn tung tóe, bắn lộn xuống, con Giao Long cũng bắn nhào chìm nghỉm.

          Tưởng nó bị thương, bất thần ngay sát bờ chỗ quỷ nữ đứng chợt nhô lên một con sóng cao ngất, chân sóng tỏa hàng mấy sải đường kính. Con Giao Long đội sóng vọt hẳn lên khỏi mặt nước, dùng cả hình thù lẫn con sóng chụp quỷ nữ định rút xuống hồ, nhưng quỷ nữ nhanh như con cáo đã nhảy vọt lên cao quất "bùng" lá cờ xuống mặt nước. Võ Minh Thần nấp đằng kia chỉ thấy một vùng nước tóe vung tàn tán, tiếp theo có tiếng rú gai nhọn, dòm kỹ, đã thấy bóng tan, con Giao Long ngã lộn "bạch" xuống hồ, cái đầu lắc nghẹo sang bên, thở hộc, coi có vẻ bị thấm đòn kiệt lực. Quỷ nữ hạ chân xuống giơ cao cây cờ định phất nữa, chợt dừng, trỏ tay quát ầm ầm:

          - Tao tha cho một mạng, mau về báo con tinh thuồng luồng: có mụ chờ trên bờ lột da căng thây xẻo thịt nó ăn cho bổ! Hà há! Thịt thuồng luồng thành tinh ngon hơn thịt dê non! Hà há!

          Con Giao Long rống lên, lật lờ lặn hụp xuống nước, cảnh tượng vụt trở nên im lặng mênh mông. Quỷ nữ vừa nhảy tót lên lưng con beo đen, bất thần như từ cõi xa xăm nào, bỗng nổi lên một thứ tiếng âm u văng vẳng chờn vờn trầm rợn ma quái hệt từ dưới đáy hồ dâng vút nhưng rõ mồn một, đến Võ Minh Thần và Quản Kình nấp tít xa cũng nghe rõ:

          - Không phải báo! Có Giao Long Thần chúa hồ Ba Bể đây! Chúa thủy thần muốn biết mi là con nào bỗng dưng đến xâm phạm bờ cõi nước của thần hồ, giết hại quân tướng trên sông hồ?

          - Phải chính mi, con tinh thuồng luồng chúa hồ biết nói tiếng người ta? Tao đợi ăn thịt mi đây! Tao kiếm mi cả chục tháng trường rồi!

          Tiếng ma âm lại nổi lên, vẫn chưa rõ hướng nào:

          - Con quỷ cái! Không được mạn thượng! Tài nghệ mi được bao nhiêu, dám tới đây ngạo mạn? Không biết chúa hồ quyền lực phi phàm? Muốn gặp chúa hồ, mau khai rõ! Thực ra, mi muốn gì lại đi kiếm ta?

          Giọng âm trầm vang vang điềm tĩnh, chứng tỏ kẻ phát âm là tay có uy lực dị thường. Tự tin vào uy lực của mình, quỷ nữ cười thét:

          - Tao muốn ăn thịt thuồng luồng tinh! Tao muốn rút gân mày treo lên ngọn cây! Mày sẽ được biết lúc nào sắp bị rút gân làm vật tế lễ oan hồn uổng tử!

          Im mươi giây, tiếng xa xăm lại cất lên, tiếp theo một chuỗi cười sắc như răng cưa:

          - À! Con quỷ cái này tới số! Đêm nay ta mới đi du thủy phương xa về, không thích sát sinh, quỷ cái lại muốn dâng thân xác! Ta cho gặp! Nhưng chớ mừng! Xưa nay chưa đứa nào gặp được thủy thần Giao Long mà được toàn thây!

          - Ha ha! Còn tao cả chục năm nay chưa con thuồng luồng nào gặp tao mà không bị tao ăn thịt.

          Quỷ nữ vừa dứt lời, bỗng nghiêng tai nghe. Thầy trò Võ Minh Thần cũng ẩn kín, lắng nghe. Giữa vùng không gian khuya khoắt, im sâu thẳm vừa có tiếng đàn sáo nổi lên, âm thanh bổng trầm réo rắt tấu một bản rất lạ, một bản sáo đàn bát âm hình như chưa bao giờ thầy trò Võ được nghe, cung âm véo von rõ cả tiếng "sênh tiền" nhịp nhàng uyển chuyển như dòng thủy lưu theo nhịp "đăng đàn cung" từ thời xa xưa nào "ảm" về dương gian, khiến chàng trai họ Võ lấy làm lạ hết sức, cảm giác mơ hồ bàng bạc như rơi hồn vào một "thế giới âm thanh phi phàm nào bên kia cuộc sống"! Còn quỷ nữ sau khi nghe âm dị nổi, quỷ nữ có vẻ sốt ruột, nhảy tót xuống xua con beo vào sau mỏm đá và quỷ nữ cứ vọt ngược vọt xuôi dọc bờ.

          Tiếng đàn sáo véo von càng lúc càng thêm rõ rệt đến khi tiếng "sênh tiền" vừa ập bên tai, thì từ sau làn sương trắng mỏng vụt hiện ra một con thuyền dài, từ màu sắc đến hình thù coi hết sức phi phàm.

          Con thuyền đi vùn vụt trên mặt hồ, thoáng đã sừng sững ngay trước mắt, mũi thuyền đuôi thuyền cong vút, chạm trổ sơn son thếp vàng, dọc hai bên mạn có hai hàng bơi chèo khua nước, với hai dãy thủy thủ dị hình nhô lên nửa mình, rõ hình quái thú, không phải người, coi cũng tựa con thuyền, thuyền rồng nhưng chẳng phải thuyền rồng, giống thuyền bơi chải, lại không phải loại thuyền này.

          Mui thuyền khoang căng gấm vóc có rèm tua, cửa sổ, mỗi nhịp chèo thuyền chập chờn chồm đi, tua rèm bay phần phật. Từ khi ra đời, theo tôn sư đi khắp lục địa Á Châu, chưa bao giờ Võ Minh Thần được trông thấy một con thuyền kỳ dị với những bóng thủy thủ quái đản như thế, chàng trai mở mắt nhìn sững không chớp, cảm giác bàng bạc, nghĩ luôn tới "con thuyền bát nhã", những con thuyền của cõi âm, thờ trong các điện phủ, mang trên nó đường nét kỷ hà phi phàm cả màu sắc thanh hương vị, khăn chầu áo ngự, nón giấy đồ thờ son vàng của cái thế giới "ngàn bà, ngàn núi, ngàn mẹ... cô bơi thuyền rồng...".

          Không phải loại thuyền trên trần! Coi đúng thuyền cõi âm! Thủy thủ dị hình giống con thuyền, không phải thuyền rồng. À! Thuyền Giao Long, thuyền ma thuyền quái hay thuyền Thần hồ Ba Bể...? Lạ dữ chưa? Quỷ nữ, Giao Long, trăng khuya, sương mờ... Ta đang chứng kiến cảnh cõi âm chăng?

          Võ Minh Thần ngẫm nghĩ loanh quanh tiếng đàn sáo, tiếng bát âm, sênh tiền nổi chìm vụt tắt, con thuyền lướt tới còn cách ba, bốn chục sải bỗng vòng cung hạ tốc lực dập dờn nhấp nhô sóng xô bờ róc rách lẹ như bóng ma. Quỷ nữ xẹt luôn vào sau một ghềnh đá quát: - Thuồng luồng tinh sao chưa xuất hiện?

          Giữa cảnh hồ khuya quạnh vắng, chợt từ dưới thuyền, tiếng dị âm hắt lên chìm gai phi phàm, giọng của một loài không phải người nói tiếng Thổ:

          - Sao ẩn núp?

          Quỷ nữ cười thét:

          - Sao chưa ra mặt? Ta phơi người cho ngươi bắn trộm?

          Tiếng dị vọng lên oai nghiêm cao ngạo hết sức:

          - Không được hỗn! Chúa hồ Ba Bể quyền phép nhiệm màu, không hề ám toán! Nhưng ta chưa cho mi thấy mặt, nếu chưa biết mi muốn gì.

          Quỷ nữ ré lên khủng khiếp:

          - Tao muốn căng xác mày, làm đồ tế oan hồn, tế xong ăn thịt mày không sót một cái xương! Tao căm thù loài thủy quái, tao rửa hờn cho những oan hồn uổng tử vì mi, con quái vật giả xưng Thần hồ! Tao sẽ giết không còn một mống!

          Lời dứt, bỗng dưới thuyền hắt lên một chuỗi cười nhọn hoắt ma âm:

          - À mi trả thù cho những oan hồn? Giao Long Chúa ăn thịt người cũng nhiều như giống người ăn thịt heo thịt bò, nhớ sao nổi! Phải mi là con cái chúng nó?

          Quỷ nữ nghiến răng hét:

          - Nhiều lời! Trước giờ chết, mi sẽ rõ! Giờ có giỏi hãy ra mặt "nói chuyện" với ta, hay phải đợi ta nhảy xuống thuyền cho đàn quái nó đánh giúp!

          Im mười giây. Im đến rợn người. Thầy trò Võ Minh Thần nghe tỏ cả tiếng chim khoảnh khắc "loọng sôi". Hai bên đỉnh núi cao mờ khắc khoải. Rồi bỗng có tiếng cười rú khủng khiếp thẳng lên như từng tràng sấm nổ màng tai, nhưng lạ nhất là Võ nấp xế xa chỉ nghe bình thường như tiếng hét vậy thôi.

          Nhưng từ Giao Long thuyền chạy thẳng lên chỗ quỷ nữ đứng một luồng kình âm mạnh kinh người đánh thốc vào toàn thân quỷ nữ, như sấm nổ. Võ Minh Thần không thấy âm kình phạm tới mình, biết ngay "quái vật dưới thuyền ma" đã ra đòn cực hại, nhưng quỷ nữ không phải tay vừa, lập tức khóc rống thê thảm vô cùng, tiếng cười quật vào tiếng khóc, ngay trên mặt nước, gần bờ, khiến lau sậy hoa lá dập tơi bời, mặt nước nổi sóng tóe cao như bị vật chi đánh xuống.

          Giao Long thuyền dừng lại, cách bờ khoảng chín mươi bộ, dập dềnh trên mặt sông, tuy cách Võ Minh Thần xa chếch hơn, nhưng nhờ ánh trăng Võ trông rất rõ hình tựa thuyền rồng chạm trổ đầu con Giao Long nhe nanh múa vuốt, sơn son phết vàng làm chàng trai cho là lạ, cảm tưởng đó là một cái thuyền cõi âm vừa "hiện" lên với đám thủy thủ âm vật quái gở, óc tò mò thôi thúc, chàng trai chỉ muốn tìm cách nhảy lên thuyền âm xem sao.

          - Con quỷ cái kia! Mi tài sức bao nhiêu, dám phạm đến vùng nước thiêng của Thủy Thần, đem mạng đổi lấy miếng thịt, cuồng nữ?

          - Mi bắt người ăn thịt, ta thèm thịt thuồng luồng, bắt con thuồng luồng tinh xả thịt, moi gan há sợ loài mi sao? Nghiệt súc! Có giỏi cứ đánh tay đôi với ta!

          - Đánh tay đôi? Hà há! Khắp cõi dương gian này, chưa đứa nào đánh nhau với Thủy Thần hồ Ba Bể mà không bị ăn thịt. Nhưng Thủy Thần hồ không thích ăn thứ thịt hôi hám xấu xí như mi! Mặt mũi quỷ cái xấu xa, Chúa hồ nhìn không thấy đói!

          Tiếng cười hét hắt lên như trăm ngàn vuốt nhọn cào xé màng tai da thịt, lần này phát từng chuỗi ngắn, mạnh gấp đôi trước, quỷ nữ không nao núng lập tức khóc rống lên thảm khốc, âm kình xoắn lấy nhau, cả một khu bờ, nước ầm ầm như nổi cuồng phong sấm sét, lau dập, lá bay, sóng dờn nước sôi sục, trong canh khuya thanh vắng, tiếng cười rú, tiếng khóc gào tỏa rộng chờn vờn khắp hồ Ba Bể hoang sơ, nghe như đang có cuộc quần ma tụ hội cười khóc đảo điên, gào mưa trút gió gọi hồn người về cõi âm ty khiến kẻ bạo gan cũng phát ớn. Quản Kình nấp tít xa dòm tới, tuy thuộc loại lỳ còn thấy tóc gáy muốn dựng lên trước cảnh tượng quái gở. Lần này tiếng cười, khóc hết sức dữ dội, Võ phải ngầm vận điện công bế huyệt đạo phòng hờ, nhìn xuống hồ, sóng nổi dồn dập mà Giao Long thuyền vẫn đứng yên, thậm chí hai hàng thủy thủ bàn tay chèo cũng trơ như tranh vẽ, khiến chàng trai ghê thay sức phi phàm của "quái vật Chúa hồ". Cứ thế cảnh loạn cuồng cười khóc diễn ra đến hơn phút thình lình im bặt, từ Giao Long thuyền tiếng dị hắt lên vang động:

          - À con quỷ cái này kêu khóc thảm thê nghe khác thường! Nghe Thần hồ cười không chết, đáng được tha tội! Mau rời khỏi vùng đất cấm cho toàn mạng! Binh tướng đâu! Về động!

          Tiếng truyền vừa dứt, lập tức lại nghe tiếng đàn sáo bát âm nổi lên véo von lồng lộng muốn bốc tận mây mờ, tiếng sênh tiền soang xoảng vừa cất nhịp, hơn hai chục bơi chèo nhất loạt khua nước, Giao Long thuyền nhấp nhô lướt đi, trên bờ quỷ nữ vùng trỏ xuống hét lanh lảnh giòn như thủy tinh vỡ:

          - Nghiệt súc thuồng luồng tinh! Mi định bỏ chạy sao? Dừng lại! Đừng để ta phải theo mi về tận hang ổ! Mi bắt người ăn thịt, ta xả thịt moi gan mi sợ ư? Nghiệt súc! Tội mi chồng chất, đêm nay gặp ta, mi phải đền tội! Chạy xuống âm ty, cũng đừng hòng thoát khỏi!

          Giao Long thuyền theo nhịp đàn sáo véo von uyển chuyển đã lướt đi vài chục sải, bỗng có tiếng âm vang, đàn sáo, sênh tiền, "thuyền âm" đảo xẹt vòng thúng lại lao qua chỗ Võ Minh Thần nấp khiến chàng trai lật đật nằm dán mình xuống như con rắn, may chỗ này có hoa lá rườm rà, chàng trai lại được dịp nhìn sát hơn, có lúc mạn thuyền chỉ cách vài sải trông tỏ mồn một từng đường chạm trổ, từng mái chèo sơn son, từng hình thù thủy thủ quái, đúng giống thuồng luồng đứng chân sau, chèo bằng chân trước, con nào mắt cũng giương thao láo, há mõm nhe nanh, càng nhìn gần càng quái gở.

          Và kỳ dị nữa là ngay chỗ mũi thuyền gần thuyền căng mui gấm vóc, còn có một bầy Giao Long khác ngồi dọc mạn đang tấu nhạc, con cầm đàn, cầm nhị, con sênh tiền, sáo... như người ta. Thuyền lướt qua, đảo chếch mũi ra, đuôi hướng về chỗ Võ nấp, chàng trai bỗng chột lòng, thoáng thấy khoang lái che gấm mỏng có ánh lửa vật vờ bên trong hình như ánh lạp, nhựa trám, và trên nền vách gấm có in rõ mấy bóng trong khoang, đường nét linh hoạt rõ bóng người ta, mà lại bóng nữ thì phải. Bất giác chàng trai sực nhớ lại lời Tửu Chúa trên Hồ Kiều. Cứ lời lão, con tinh Giao Long hồ Ba Bể rượt thiếu phụ bắt làm vợ, à, nếu vậy bóng đàn bà trong kia có thể là thê thiếp nó! Xem ra giống quái vật thích lấy vợ người này, dạo rừng thiêng mới phát sinh, như con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy hấp sát mẹ ta xưa cũng vì mẹ ta không chịu làm vợ nó! Làm cách nào lần xuống thuyền?

          Thuyền lướt qua, mùi thơm hăng hắc thoáng tạt lên mũi Võ, chàng trai đang ngạc nhiên sực nghe tiếng dị âm vang trong khoang gấm vọng ra:

          - Con quỷ cái! Chúa hồ Ba Bể đi du thủy về không muốn sát sinh, tha mạng cho mi, mi tưởng quyền lực Chúa hồ có thế thôi ư? Hừ hu...u... hú! Coi đây Chúa hồ bắt sống mi!

          Lời dứt, Giao Long thuyền dừng lừ lừ trôi giữa khoảng Võ, quỷ nữ đứng cách bờ tám, chín sải ngang, dưới trăng, vụt thò ra một bàn chân thuồng luồng to như bát đấu, vuốt cong nhọn hoắt, dài nghêu sáng quắc mà lại đỏ như máu, bàn chân vuốt này từ trong rèm vóc tua vừa thò ra đã thấy nó kéo dài ngoằng đến mấy sải, nhằm quỷ nữ chụp tới coi hết sức quái gở.

          Vẫn đứng sau mỏm đá với con beo đen, quỷ nữ ré lên một tiếng ngắn sắc, vung luôn lá cờ đuôi nheo phất vụt cái thật mạnh. Trong trăng, lá cờ dị cũng như kéo dài ra, cách mặt chừng mấy thước, quất trúng bàn chân quái phát ra một tiếng "bùng" lớn, tối sầm một khoảng, cả hai vụt biến. Võ Minh Thần chú mục dòm thoáng thấy tay cờ quỷ nữ run mạnh liền mấy cái, quỷ nữ lùi một bộ hét:

          - Thuồng luồng! Nấp mãi dưới thuyền, nghiệt súc sao chưa ló mặt? Đợi tao đốt thuyền ma?

          Tiếng dị dưới thuyền hắt lên:

          - Lửa nào đốt nổi thuyền Giao Long thần? Mi sắp chết thui, mau khai nguồn gốc. Con cái đứa nào? Đâu tới?

          - Đợi khi thấy xác mi căng trước bàn thờ tế oan hồn, mi sẽ biết! Ló mặt mau!

          Chỉ nghe tiếng thét vang âm, bất thần "bùng phù" từ trong khoang thuyền gấm, vụt bay thốc ra một khối lửa lớn, bắn thẳng lên quỷ nữ, bay xé không khí nhanh như viên đạn lửa, kéo dài vút mạnh kinh người.

          Lần này quỷ nữ cũng phất vụt lá cờ, nghe "bốp" một tiếng, bắn ra một khối lửa, hai khối quật vào nhau phát tiếng nổ như tạc đạn, lập tức tan ra thành hàng trăm khối lửa nhỏ, kình phong ào ào thổi vù vào quỷ nữ, quỷ nữ phất cờ, bắn dạt ra được một sồ còn một số vẫn táp vào ngực, nghe "sèo sèo" tắt liền, phất nhát nữa, một mớ lửa bay xuống thuyền cũng bị đánh bạt tung rớt xuống nước sèo sèo. Quỷ nữ lúc này nổi hung phất lia lịa, hét:

          - Mày không ra tao đốt thuyền!

          Bùng bùng bùng ba thoi lửa bắn thốc khắp thuyền như ba viên đạn lửa. Từ trong bỗng thò ra một bàn chân quái xòe vuốt chụp thoi lửa ném "bõm" xuống hồ, nhưng một khối chạy vòng cung thoát được ra khỏi sức vuốt kình bắn trúng mạn vách gấm.

          Lập tức thoi lửa phát nổ "oàng" bục qua làn gấm bắn tóe vải, bắn vào khoang. Võ Minh Thần nấp xế xa, thấy rõ lòng khoang sáng lóa ra, văng vẳng tiếng thét giật giọng âm âm:

          - Gia nô! Tội mi đáng cho thuồng luồng ăn thịt, sao dám hạ mạng Giao Long kim thần xuống?

          - Không hề chi! Tha cho! Tha cho! Về phủ thôi.

          Tiếng thánh thót như giọng chim oanh, thỏ thẻ vọng từ khoang gấm ra, trong vắt, rõ tiếng đàn bà cõi trần, văng vẳng lại có tiếng xiềng khóa loảng xoảng, khiến Võ càng cho là lạ.

          Phía mỏm đá kia quỷ nữ cũng nghe thấy, không hiểu sao, đang ngửa mặt cười the thé, quỷ nữ vụt dừng tay phất cờ đen, quát giật giọng:

          - Tiếng đàn bà dưới thuyền tinh, phải bà công chúa Tây Bắc? Bà chúa nàng Tây Bắc?

          Lập tức có tiếng hú nhọn, tiếng bát âm sênh tiền cất lên vang lừng, mơ hồ như có tiếng nữ nhân kêu thánh thót trong khoang, hàng chèo khua nước tóe, thuyền chồm chồm, tiếng dị hét lớn:

          - À con quỷ cái này tận số! Dám làm lộng thuyền linh! Dải nô! Dải nô! Hầu chúa! Dải nô! Lui cho Chúa bà an nghỉ!

          Lời buông, trên bờ lúc này hình như quỷ nữ đã nổi cơn mê chiến, bất chấp nguy hiểm, quỷ nữ kêu rống lên "phải bà chúa Bạc" và nhảy tót lên lưng con beo đen, xông vụt ra lồng đảo dọc bờ. Võ Minh Thần thấy quỷ nữ nhảy ra, lù lù trên ghềnh trống, chàng trai vừa lẩm bẩm bốn tiếng "nguy cho mụ rồi", quả nhiên từ dưới thuyền vụt bắn vút lên liền ba, bốn mũi tên nỏ liên châu cắm "phập phập" cả vào ngực quỷ nữ không hề phòng bị.

          Suýt Võ bật kêu vì đoán chắc đó phải là loại tên cực độc hại, nào dè quỷ nữ thấy bị tên, đưa luôn tay nhổ phăng ra thảy xuống hồ, phất lia lá cờ đuôi nheo "phập phập" cắm vào mạn thuyền son thét:

          - Nghiệt súc hôi tanh bắn trộm! Coi tao đây!

          Dứt lời quỷ nữ phất lia lá cờ đuôi nheo, hầm hầm định giục thú nhảy xuống hồ. Ngay khi đó, kình phong từ dưới thuyền quái phát ra ào ào, lẫn tiếng hét vang âm:

          - Không đứa nào được động thủ! Dải hầu đâu? Giao Long chúa ra bắt sống con quỷ cái lộng hành!

          Trong thuyền âm, lửa quỷ nữ đã bị dập tắt ngấm, con thuyền bỗng lùi phắt lại đảo ra xa vài chục sải, quỷ nữ nghe tiếng hét nhảy luôn lại, con beo đen rống lên. Võ Minh Thần giương mắt trừng trừng nhìn xuống Giao Long thuyền giữa cảnh hồ lặng nước yên, thình lình sóng nổi cuồn cuộn rồi từ dưới chân một con sóng lớn bắn vọt lên một con thủy quái to tròn như cái bánh xe bò, hình thù nó cất lên khỏi mặt nước đến hai, ba gang đeo theo một khối nước lớn, theo đà bắn nó còn lướt đi đến mấy sải mới hạ xuống mặt nước, cứ thế chạy vòng xoe xóe trước Giao Long thuyền, vanh đến đâu nước tóe ra hai bên coi cực kỳ hung mãnh.

          - Con dải khổng lồ! Ồ... vùng hồ Ba Bể này lại có con thủy quái to lớn đến như thế! Không trách dân quanh miền hồi này không ai dám bén mảng tới.

          Võ Minh Thần chú mục nhìn con quỷ dưới trăng thấy rõ cả hai con mắt nó đỏ khé, cái mồm há rộng ngoác đỏ như chậu máu, sức vanh của con dải mạnh đến nỗi, khi nó không nhảy vọt, thân hình cũng cất chênh vênh lên khỏi mặt hồ chỉ còn dính hồ một khoảng đằng đuôi.

          Nhanh như mảnh sành thảy chạy là là trên mặt nước, con thủy quái này há ngoác cái mõm phun nước phì phì tựa vòi rồng phát ra những tiếng kêu rất lạ tai, nó xẹt đảo vòng thúng vào sát bờ, liệng qua chỗ quỷ nữ đứng.

          Cả quỷ nữ lẫn con beo đen đều dòm xuống hồ, thủy quái xuất hiện, con beo lồng lộn rống lên chực nhảy táp nhưng quỷ nữ vẻ thoáng ngạc nhiên trỏ tay quát:

          - Con tinh thuồng luồng sao hình thù lại như cái bánh xe?

          Lập tức có tiếng hú ma âm vang động canh trường:

          - Con quỷ cái! Giao Long thủy thần sẽ cho nó ăn thịt mi! Dải hầu! Chủ thần hồ cho ngươi cả hai con thịt đó.

          Thủy quái rít lên một tràng, xẹt đảo về phía Giao Long thuyền, khi con dải khổng lồ vừa vanh tới gần thuyền, bỗng nghe phát một tiếng "bùng" như nổ ống lệnh, rồi ngay trước mũi thuyền nổi lên một cuộn khói đen xì như mực Tàu, cột khói tỏa rộng đặc sệt thoáng đã xóa nhòa hết bóng thuyền kia. Con dải vanh xoe xóe vào vùng khói đen cũng mất dạng luôn.

          Võ Minh Thần dòm ra chỉ thấy mặt hồ cuộn sóng, bất thần từ trong đám khói mù, phát ra một chuỗi cười thé nhọn ma âm rờn rợn chờn vờn bốc thấu trời mây. Tiếng cười nghe phi thú phi nhân, hết sức quái gở, tỏa rộng cào màng tai người, vật, khiến Võ Minh Thần muốn chói tai, con beo đen này xem chừng không phải beo thường, cũng rống lên như giận dữ, con quỷ nữ lập tức hét lên mấy tiếng thật lớn, thổ âm sơn cước:

          - Bà chúa họ Bạc có dưới không? Sao không lên tiếng?

          Im lìm, tiếng cười lại nổi lên, đổ xuống mặt hồ, đổ mãi, như chìm hẳn, làn khói đen cũng mỏng dần, "bùng" một tiếng như ống lệnh nổ, khói lại đặc sệt, tỏa ngút một khu bờ hồ, từ trong làn khói bỗng bắn vọt ra một hình thù cực kỳ quái đản coi tựa con rồng, hai con mắt đỏ khé sáng rỡ như hai ngọn đèn pha.

          Một con thuồng luồng cực to lớn cưỡi trên lưng con "dải quái bánh xe" nhe nanh múa vuốt, mồm ngoác như chậu máu phát ra từng chuỗi cười rú vang động núi non canh trường khuya khoắt, làm kẻ bạo gan cũng phải dựng tóc gáy trước sự xuất hiện thình lình của loài bán âm bán dương gớm ghiếc.

          Cái đầu ngóc cao lắc lư, đuôi quẫy đập nước tung tóe, con thuồng luồng biết nói tiếng người cưỡi xẹt vòng thúng ra rồi lại xẹt vào khói mù, hét vang âm:

          - Tận số! Tận số! Đứa nào thấy Giao Long Thần là đến giờ tận số! Quỷ cái! Mi tài lực bao nhiêu mà dám phạm đến thủy thần?

          Võ nín thở hồi hộp đợi. Quỷ nữ gò thú, hai con mắt sáng rực vẻ mừng rỡ trước sự xuất hiện của Giao Long chúa, quỷ nữ rống lên như sấm:

          - Con tinh thuồng luồng! Thuồng luồng! Phải chính mày... mày bắt đàn bà đẹp về làm vợ! Tao kiếm mày khắp mấy miền sông hồ hang vụng đêm nay mới gặp.

          Giao Long chúa cưỡi dải xẹt ra, lao thốc tới chỗ quỷ nữ đứng, lẹ như chớp, nó ngửa mặt thổi "phù" một cái vào mặt quỷ nữ.

          Tuy đứng xa vài mươi sải Võ Minh Thần cũng thoáng thấy từ miệng con Giao Long chúa phun ra một cầu vồng khối đỏ như máu hết sức quái đản.

          Không chút sợ hãi, quỷ nữ cầm lá cờ đuôi nheo phất "bùng" một nhát, đẩy luôn cầu vồng đỏ bạt lại, thò tay lên vai, rút soạt ra một thanh bảo kiếm.

          Cách khoảng mươi sải, quỷ nữ vừa rút kiếm, Giao Long chúa cười ré lên, phát tiếng âm u:

          - À quỷ cái có thanh kiếm báu! Cho mi chém ba nhát thử coi trước khi dải ăn thịt.

          Dưới trăng, lưỡi kiếm sáng loáng, nhác coi cũng biết loại kiếm quý, quỷ nữ chẳng nói chẳng rằng, múa một đường tròn. Chém "véo" cái. Lưỡi kiếm lập tức rời tay quỷ nữ, thành một luồng sáng cầu vồng trắng xóa bay vút từ trên ghềnh xuống xả trúng đỉnh đầu Giao Long. Lạ thay! Giao Long chúa không đỡ, không tránh giục luôn dải lên giơ đầu đỡ nhát kiếm xung thiên tưởng chừng sắt đá cũng bửa đôi. Nào dè chỉ nghe "chát" tiếng, tóe lửa. Thanh kiếm bắn dội lại hàng sải tay, quỷ nữ giật mình rúng động tâm thần, vội thu kiếm về. Dòm lưỡi thép nhờ loại kiếm quý may chưa mẻ, quỷ nữ thở phào, nghĩ thầm:

          - Con tinh chúa thuồng luồng này nói được tiếng người ta không phải là thường vật nên kiếm không phạm nổi! Phải thư phù như chém hồ ly yêu nghiệt mới xong.

          Bèn giục beo đen lùi mấy bộ, giơ lưỡi kiếm ngang mày làm như thủ thế, cắn chặt lưỡi, đọc chú phun phì vào lưỡi thép. Quỷ nữ làm rất kín, nào ngờ Giao Long chúa đã cười thét lên, gai rợn:

          - Quỷ cái định thư phù chém quỷ thần như chém loài yêu quái? Hà hà! Chúa Giao Long hồ Ba Bể là bậc thần linh, không phải ma tà yêu quái, cho mi mượn được cả "trảm yêu kiếm" chém Phạm Nhan, Nguyễn Bá Linh thời xưa về cũng vô dụng. Cứ đọc chú đi! Mi còn chém được hai nhát nữa.

          Lời vừa dứt, quỷ nữ đã hét lên lanh lảnh:

          - Thuồng luồng tinh! Mày ăn thịt người, hãm hiếp đàn bà, sát phu hiếp phụ. Trời đất tru diệt, này coi đây, tao báo oán cho người chết oan.

          Lời buông, tay kiếm đã buông mạnh, nghe "soạt" tiếng, mũi thép bay vụt xuống nhanh như điện, phóng trúng cổ họng Giao Long chúa, lần này không chém mà đâm xuyên mạnh như giáo đâm.

          Ngờ đâu lần này Giao Long chúa cũng không tránh đỡ, chỉ hất đầu vươn cổ, đã nghe "chát" tiếng. Võ Minh Thần thấy nháng sáng mấy khối trước mặt, Giao Long quơ "xoảng" cái đã nắm gọn ba khúc kiếm gãy. Trên bờ, quỷ nữ chúi đầu suýt lộn xuống hồ, vội lấy thăng bằng trố mắt dòm Giao Long miệng lắp bắp gì không rõ. Giao Long cười sằng sặc, thả lõm bõm ba khúc kiếm gãy xuống hồ thét chìm:

          - Mi còn chém được nhát nào nữa?

          Chém hai lần trúng Giao Long đều vô ích, quỷ nữ vừa kinh vừa giận kêu rống lên cực kỳ thống thiết vỗ "đốp" vào con beo đen, con beo này cũng rống lên một tràng vang động, nhảy chồm xuống hồ.

          Võ Minh Thần dòm theo không khỏi ngạc nhiên thấy con beo này bơi lội dưới nước như loài hà mã nhô hẳn cả người lên, bốn chân, đuôi guồng nước bắn đi vùn vụt cực kỳ hung mãnh, lao thẳng lại chỗ Giao Long chúa lúc này chỉ cưỡi lưng con dải lập lờ không di động. Vừa xốc tới, quỷ nữ vừa rống lên cực kỳ bi phẫn:

          - Oan hồn cõi thế! Hãy phù hộ cho ta đánh chết con tinh báo thù cho người thân thích.

          Lời dứt, quỷ nữ phất vụt lá cờ đuôi nheo đen vào Giao Long. Từ trong lá cờ phát ra liền hai, ba khối lửa lẫn kình phong ào ào, kình phong quạt lửa thốc mạnh hết sức. Giao Long giơ chân trước phẩy một cái, kình phong quật ngược lại, phát nổ lốp bốp thành nhiều khối lửa đỏ rơi lả tả xuống nước, quỷ nữ phất vù lại từ trong lá cờ bắn ra mống khí đen đánh thốc vào mặt Giao Long. Giao Long chúa ré lên "à khói độc, khói mê" há mõm đớp phăng cả hai mống.

          Võ Minh Thần nấp gần đấy theo dõi cuộc chiến, không khỏi lấy làm lạ về cây cờ đen của quỷ nữ, chàng trai phỏng đoán đó là một lá cờ đặc biệt được chế tạo rất công phu, trong có cài nhiều bộ phận bắn lửa khói độc, nào dè cờ dữ cũng không làm gì nổi Giao Long chúa. Chàng trai lúc đó mới lường được sức lợi hại phi phàm của quái vật xưng quỷ thần.

          Đang quan sát, đã thấy quỷ nữ phất nhát thứ ba, giữa đêm thanh, chợt phát liền hai tiếng "đoàng, đoàng" đúng tiếng súng nổ, trông ra Giao Long chúa bật ngửa về phía sau nhưng chỉ lạng đi chút lại như thường, lập tức rúc lên một tràng ngắn thổi phù một cái, từ mõm Giao Long bắn ra một luồng nhiệt khí bắn trúng lá cờ, cờ bốc khói, bùng cháy rực, quỷ nữ thất kinh vừa ngồi xuống, nhúng lá cờ xuống nước, Giao Long đã giơ vuốt chụp.

          Từ trong chân vuốt Giao Long bay ra một luồng huyết khí đỏ chói giống hệt chân vuốt kéo dài vồ lấy quỷ nữ, quỷ nữ nhổm lên vung tay đẩy ra một đường kình phong, chạm hình huyết khí, kình phong tiêu biến, luồng huyết khí Giao Long đánh chụp trúng mình quỷ nữ, tự nhiên quỷ nữ rú lên, ôm ngực lảo đảo muốn gục, cây cờ rớt luôn xuống nước, Giao Long ré lên khủng khiếp:

          - Quỷ cái! Mày vào bụng dải!

          Lập tức con dải xé nước vanh tới, con beo đen thấy nguy, rống lên, vùng bỏ chạy, quỷ nữ bị luồng huyết khí lảo đảo, vẻ kiệt sức, mặc con thú dại, kêu rống lên cực thảm:

          - Mười mấy năm tu luyện, không trả được thù sâu... Ôi! Cha đâu? Mẹ đâu? Sức con đã kiệt rồi còn đâu?

          Tiếng kêu thống thiết động đến tai chàng họ Võ, làm Võ rúng động tâm gan, bỗng thấy thương bóng quỷ nữ kia vô cùng.

          - Ôi! Gái quỷ kia kiệt sức lắm rồi! Ngoài kình phong hình như nàng ta còn bị liễm cả yêu khí nữa. Luồng huyết khí hình chân vuốt Giao Long vô cùng lợi hại, sức người chịu đựng không phải dễ. Gái quỷ, Giao Long kia là hắc ám vật hay giống quái nhân quái vật, chưa rõ, nhưng cứ nghe tiếng gái quỷ kêu rống rõ ràng nàng ta có cha mẹ thân nhân bị chết dưới vuốt Giao Long chúa! Cha mẹ mình cũng thác oan vì loài tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, đồng bệnh tương lân, nay gái kia sắp bị con quái ăn thịt, lẽ nào mình chỉ nấp nhìn? Nhưng còn chiếc Giao Long thuyền kia, bên trong rõ có bóng người. Lạ thật! Làm cách nào lần tới coi mới được.

          Đang nghĩ ngợi phân vân, nửa muốn nhảy xuống cứu nữ quỷ, nửa lại muốn mò tới cạnh Giao Long thuyền thám thính, Võ Minh Thần sực nhớ tới Quản Kình vẫn nấp đợi xa xa.

          Vốn có sức hơn người, nhờ viên chúa Mã Đầu Sơn cùng Voòng luân phiên rèn luyện, truyền bí thuật, Quản Kình ngày nay tài nghệ đã vượt khác xưa, có thể lãnh việc thám thính được.

          Cả mừng, Võ Minh Thần vừa quay lại định giả cú mèo rúc gọi, vừa may Quản Kình đã bị óc tò mò thôi thúc, đang nương bóng tối men lại.

          - Lạ dữ à! Con tinh thuồng luồng thần hồ Ba Bể yêu thuật gớm ghê, súng bắn không chết! Gái quỷ kia sắp bị nó ăn thịt rồi! Cậu hai!

          Võ quài tay nắm Quản Kình kéo nằm xuống "xuỵt" trỏ xuống hồ thì thào:

          - Chiếc thuyền ma quái vừa giờ vẫn đậu trong đám khói mù. Trong thuyền chắc có nhiều cái lạ, Vậy khi tôi nhảy ra đánh với con thuồng luồng tinh, chú mau tìm cách lặn lại gần chiếc thuyền quái xem sao.

          - Cậu hai định liều mạng? Chà, phải cẩn thận! Con tinh thuồng luồng quyền lực phi phàm.

          - Biết! Nhưng gái quỷ kia sắp nguy rồi, không thể đứng nhìn người bị nạn mà không cứu.

          - Chắc nàng ta có phải người không? Cậu hai không thấy mặt mũi nàng ta sao? Hai cái nanh chìa... coi dễ sợ...

          Quản Kình vừa dứt lời, đằng ghềnh đá, con beo đen đã cất mình nhảy vọt lên bờ, nào dè Giao Long chúa quả lợi hại phi thường, không chút vội vã, Giao Long chúa cười ré khủng khiếp, thò chân trước chụp một cái. Nghe "bùng" một tiếng, thầy trò Võ Minh Thần nhìn lại đã thấy cả quỷ nữ lẫn con beo cùng rống lên, quỷ nữ bắn lộn xuống nước cách bờ chừng hai sải, con beo đen theo đà chồm mạnh sa "huỵch" xuống nền ghềnh đá.

          Cả hai cùng bị đòn kình, nhưng xem chừng con thú nhẹ hơn, vừa rớt xuống, nó lăn đi mấy vòng, chồm luôn dậy, nhảy sổ lại gần bờ nước, kêu rống lên lồng lộn kiếm chủ.

          Quỷ nữ rớt "bõm" xuống hồ nước, thu hết toàn lực quẫy nước bắn mình lên nhưng đầu choáng mắt hoa, sức suy kiệt, nàng ta chỉ chồm lên khỏi mặt nước vài gang lại sa xuống, thở hộc, nghiến răng ken két trỏ mắng Giao Long phều phào, con beo đen nhảy tót xuống cõng chủ lên lưng. Giao Long chúa cười the thé:

          - Quỷ cái! Mị chịu sao nổi đòn bản mệnh Giao Long chúa? Đêm nay chính mi tới nộp mạng, mặt mày xấu xí, Giao Long chúa không dùng được. Dải nô! Thưởng cho mi con mồi cái đó! Con beo đen bắt về chúa nuôi có việc.

          Lạ thay! Con dải khổng lồ dưới chân Giao Long chúa nghe chủ truyền, nó như hiểu rõ, lập tức phát ra một tràng rít âm quái dị gai gai, nó lừ lừ bơi tới rất ung dung, há hốc cái mõm ngoác đỏ lòm phun nước phì phì, thoắt đã trôi lại gần quỷ nữ, con beo đen cõng chủ vùng chồm nước lên bờ nhưng Giao Long chúa chỉ thò chân trước véo một cái, cả người, vật đã bị một sức mạnh vô hình lôi nghiến lại.

          Dưới trăng, con dải vụt trở nên hung tợn khác thường, nó vùng cất ngóc cả thân hình bánh xe lên khỏi mặt nước, lắc lư phì phì mép dải mồm loa coi giống con rắn hổ mang bành sắp đớp ngóe. Chỉ một tíc tắc, quỷ nữ sẽ vào bụng quái, bất thần từ phía tả, có một bóng người bắn vụt lại như con chim cắt theo tiếng quát sang sảng tựa chuông đồng:

          - Yêu quái nghiệt súc kia không được hại người.

          Tiếng quát kéo lê vút trong không khí, tiếp theo liền một tiếng "soạt" mạnh như xé lụa, từ phía bóng kia bay vụt ra một luồng sáng bạch cầu vồng sáng chụp xuống mõm con dải quái, ngay khi bóng kia còn lơ lửng trên cao.

          Phập! Chát! Nhanh như điện, luồng sáng cầu vồng chém trúng mõm, răng con dải, phạt bay luôn một mảng răng lợi mép, khiến con quái khổng lồ rú lên vang động, ngậm luôn mõm lại, máu phun phì phì. Con dải đau quá từ từ chìm xuống, rất tinh khôn, con beo đen xé nước chạy. Sự việc xảy ra nhanh như cơn lốc, đến nỗi Giao Long đang ngồi lưng dải cười the thé vừa nghe tiếng quát, dòm xuống, dải đã bị thương gục mõm, nỗi giận xung thiên, Giao Long chúa vùng múa vuốt, đảo đầu, quét lia nhãn tuyến hét như sấm:

          - Đứa nào dám chém dải nô của chúa thần hồ?

          Véo! Luồng sáng bay sạt đầu Giao Long, vụt tắt, bóng người hạ xuống ghềnh, hiện ra một chàng trai mặt đẹp như trăng rằm, lạnh như nước đá, hai con mắt xanh biếc, mày xếch ngược mười phần uy vũ, trên tay còn kẹp một thanh liễu diệp đao sáng rỡ: Võ Minh Thần! Chàng trai trẻ tuổi hô lớn:

          - Cô... quỷ áo đen! Cứ rút khỏi vùng tử địa, đã có mỗ chặn con tinh thuồng luồng!

          Giao Long chúa hú lên dữ tợn, giục dải rượt theo quỷ nữ:

          - Quỷ cái! Mi trốn đâu thoát? Thằng con nít kia, mày tới số, dám chọc giận thần hồ!

          Không chút nao núng, Võ Minh Thần trỏ quát:

          - Dừng lại! Không ta chém!

          Con dải phì phì, nhưng lúc này nó có vẻ thấm đòn, lướt đi đã nặng, Võ Minh Thần nghĩ thầm:

          - Tiên hạ thủ vi cường! Giờ nó còn cách ba mươi bộ, chém vừa "đẹp"!

          Véo, liễu diệp đao xả vụt xuống, phạt dọc mõm dải cách mấy bộ, bỗng thấy Giao Long chúa thò vụt chân vuốt ra vồ đao nhanh như cắt. Keng! Liễu đao chém trúng luồng huyết khí, phát tiếng khô giòn, bật dội lại đến hai sải. Võ Minh Thần thấy toàn thân rúng động, Giao Long chúa cũng rút tay về, luồng huyết khí hình chân vuốt cũng biến mất.

          Nhanh như điện, chàng trai họ Võ thả luôn tay trái, tay phải đảo phóng vụt dưới bụng, Giao Long chúa cũng lại thò hai chân vồ lẹ ghê gớm.

          Nào ngờ quỷ nữ đã vung tay gạt phắt tay Võ ra, nhảy xuống ghềnh đá, lảo đảo, thở dốc, trợn trừng hai con mắt, mắng lớn:

          - Tên nhóc con! Sao dám sờ vào vai ta? Ai khiến mi xem vào việc riêng của ta? Mi giống đực hôi thối, mó vào đàn bà không biết xấu hổ ư? Tên đực khốn kiếp này! Bị mắng, chàng trai thất kinh trố mắt dòm quỷ nữ, ngơ ngác như vừa trên cung trăng rơi xuống, chàng trợn mắt kêu ấp úng:

          - Ơ...ơ... cô... cô... quỷ sao thế? Mỗ đây lòng thành cứu cô quỷ bị nạn mà...

          Quỷ nữ rít lên, giận dữ:

          - Ta khinh tởm mi, giống đực khốn kiếp! Đứa nào cũng dâm ô bẩn thỉu, thấy giống cái như mèo thấy mỡ. Giống đực người, giống đực vật, giống nào cũng vậy! Ta đã thề moi gan mổ ruột cắt giống bọn mi!

          Võ Minh Thần hết sức kinh dị, cho là gái quỷ phát điên, chàng trai trố mắt dòm gái quỷ, lúc này đứng gần mới trông thấy rõ mặt, môi bầu nanh chìa, sẹo bóng, coi càng phát gớm.

          Thông thường, người ta dễ có thiện cảm với người dị tính đẹp và cử chỉ tử tế, hy sinh nhiều khi cũng bắt nguồn phần lớn từ đó, vì xưa nay, người càng văn minh càng ưa cái đẹp, hiếu sắc. Nhưng Võ Minh Thần từ nhỏ toàn sống với rừng thiêng nước độc, nghiệt số biến chàng trai thành cô độc, từ hạ sơn, đầu óc chỉ nghĩ đến nguồn gốc thân thế, thù nhà, nên khi thấy một kẻ ôm nặng thù nhà, chỉ thiết lấy gan báo oán cho phụ mẫu, chàng trai chỉ thông cảm chuyện đó thôi, không hề để ý tới dung mạo, dị tính, đồng tính chi cả. Nhất người đồng cảnh, lại sắp nguy dưới móng vuốt loài tinh chúa cũng giống yêu quái như con tinh Hồng Cẩu Quẩy hại cha mẹ chàng, nên Võ nhảy ra xả thân cứu nạn không quản hiểm nguy trước Giao Long chúa cực lợi hại này. Chẳng ngờ vừa rớt dưới nước lên lại bị gái quỷ sỉ vả thậm tệ. Chàng trai thu hồi liễu dao, liếc xuống hồ thấy Giao Long cưỡi dải đang lắc lư trôi lại, chàng trai lật đật phất tay ra hiệu, giục:

          - Kìa cô... cô quỷ... À! Cô nương, cô nương mau rút khỏi nơi này không nguy mạng! Cô nương bị hơi độc tà khí liễm nặng rồi! Mà cô nương vẫn còn tỉnh trí chứ?

          Quỷ nữ loạng choạng vịn vào mỏm đá, quắc mắt hét qua hơi thở dốc:

          - Ai khiến đến ngươi? Tên mặt người dạ thú thối tha! Ta còn lạ gì lũ giống đực các ngươi? Hừ! Lũ các ngươi khác gì con tinh đực thuồng luồng kia! Cút ngay! Sống chết, được thua mặc ta, ai khiến ngươi xen vào! Thuồng luồng tinh! Tao còn thở được, còn tử chiến với mi!

          Dứt lời, quỷ nữ lảo đảo loạng choạng lao ra phía ngoài, lăm le nhảy xuống. Võ Minh Thần thất kinh, quài luôn tay túm được cổ tay quỷ nữ lôi nghiến lại:

          - Cô nương... điên rồi sao? Sao lại nhảy vào miệng dải?

          Giao Long chúa cười thét, trỏ tay lên:

          - Thằng mặt trắng! À mi không quen con quỷ cái, sao liều mạng uổng đời? Ha há! Chúa Giao Long không vội! Mi còn dịp lánh mình! Chúa Giao Long không dùng giống đực làm gì.

          Võ Minh Thần chỉ định cứu cô gái quỷ, thấy Giao Long chúa làm dữ, chàng trai lôi phăng gái quỷ vào ghềnh trong, giục chạy, nào dè quỷ nữ lớn tiếng la hét inh ỏi, giằng tay không nổi, nàng ta cúi luôn định ghé miệng cắn, làm Võ cả kinh buông vội ra, đinh ninh gái quỷ bị đòn quái, phát cuồng, chàng trai moi trong túi áo ra một viên thuốc trao cho nàng, gái quỷ vồ nghiến lấy vứt phăng đi, hét the thé:

          - Tên con trai khốn kiếp này! Sao mãi bức ta? Ai khiến mi? Ai thèm dùng thuốc cao đơn hoàn tán ba xu của mi? Chính mi mới là thằng điên, không quen thuộc từ đâu nhảy vào làm mặt nhân nghĩa, cứ tưởng ta cần mi cứu sao?

          Dứt lời, quỷ nữ lùi mấy bước lảo đảo chạy ra nhảy ùm ngay xuống hồ. Lúc này Võ Minh Thần đang ngơ ngác không hiểu sao nổi tính nết gái quỷ, chàng trai chợt thấy, với tay nắm lại, hụt, thất kinh rún mình nhảy véo theo, vừa hạ chân, cô gái dị này đã lao xuống nước bắn tung tóe.

          Đúng lúc quỷ nữ mới kịp nhô cái đầu lên, Giao Long chúa đã cưỡi dải lướt vào gần bờ, thò tay vồ, cách nàng còn hai sải, con tinh vuốt Giao Long đã móc nghiến lấy búi tó quỷ nữ, lôi lên. Võ Minh Thần tuy bị quỷ nữ mắng chửi, chàng trai vẫn không giận, chỉ đoán chừng nàng ta quá đau đớn xui nên, chàng trai chỉ có độc ý nghĩ không thể để nạn nhân vào miệng quái nên lập tức vươn tay chặt "véo" ngọn liễu đao vào chân vuốt Giao Long, tay kia thò túm lấy vai quỷ nữ níu lại. "Chát", liễu đao chém trúng chân vuốt Giao Long tóe lửa, chân quái không nổi, nhưng có lẽ khi thò vồ búi tó quỷ nữ, Giao Long chúa không vận nhiều tinh lực, chân bị sức chém mạnh đè chúi xuống, tê chồn, cái tinh vuốt đỏ co ngay lại, nhờ thế, Võ Minh Thần lôi giật được quỷ nữ lên bờ chuyến nữa.

          Quỷ nữ ướt như chuột, nhưng nàng ta mặc quần áo có chất kỵ nước nên nước trôi tuột như đầu vịt, lá khoai, chỉ ướt đầu mặt, quỷ nữ vừa vùng vẫy gỡ tay ra, vừa hét inh ỏi. Võ Minh Thần sợ bỏ ra, nàng ta lại nhảy xuống, nên cứ nắm chặt. Ngay khi đó, con beo đen chồm tới, Võ nghĩ ra một cách, xốc quỷ nữ đặt phăng lên lưng con thú tinh khôn, hô nhỏ:

          - Chủ nữ kiệt sức rồi! Mang chủ chạy cho ta!

          Kèm theo một cái vỗ nhẹ, quỷ nữ nằm mọp trên lưng, con beo đen ngoái mõm ngoạm vai áo chủ chạy liền.

          Võ Minh Thần cả mừng, định vọt theo, nhưng chợt nhớ tới Quản Kình, chàng trai vùng hú lên một tràng gọi hiệu.

          Bỗng nghe dưới hồ có nhiều tiếng hú ma âm vang vọng rõ tiếng Giao Long chúa hét nhọn:

          - À thằng khốn nào lớn mật dám lần vào khói mù xem trộm thuyền linh? Bắt sống nó cho ta!

          - Tâu chúa... thằng người to lớn mắc vào thủy võng... giao long, dải tướng đang câu móc nó...

          Võ Minh Thần nghe qua, rúng động tâm thần lao vụt ra sát bờ dòm xuống hồ chỉ thấy ngoài xa, một vùng khói mù dày đặc vẫn lan rộng, Giao Long chúa biến đâu mất, cả con dải cũng lặn nghỉm... nhanh như ảo mộng.

          - Quản Kình thám hiểm mắc bẫy thủy quái rồi! Phải xuống ngay mới được.

          Bèn thúc tràng nữa gọi, không thấy đáp hiệu chỉ nghe thấy trong đám khói mù đen vọng lên nhiều tiếng kêu rống quát tháo phi thú phi nhân, lơ lớ âm lạ tai. Lại nghe tiếng người quát như sấm, tiếp liền mấy tiếng Pạc Hoọc nổ đoàng đoàng, vẳng có tiếng quái gở kêu:

          - Thằng người trâu mộng thoát "thủy võng" rồi! Nó "nổ"! Phun khói mê mau! Nó lặn xuống nước rồi!

          Võ Minh Thần nghe rõ tiếng vọng dưới đám khói mù, chàng trai cả mừng, vọt đại mấy bộ, hú, đang bồn chồn, bỗng nghe xa xa bật lên một tràng hú hiệu, tiếp liền tiếng Quản Kình gọi theo phép "Vạn lý truyền thanh" rót vào tai:

          - Cậu hai! Cậu hai! Về chỗ đó rút mau không nguy mạng! Yêu quái ghê dữ à! Đừng lo cho tôi! Tôi thoát được rồi! Coi chừng con tinh! Về "chỗ đó"!

          "Chỗ đó" là chỗ buộc ngựa. Võ Minh Thần cả mừng, cũng dùng phép truyền thanh gọi:

          - Chú Quản Kình! Cơ hội tốt, bỏ qua uổng! Chú cứ rút trước đi!

          - Cậu hai! Chớ! Rút khỏi tầm mắt nó, rồi theo hút... là hơn.

          Chàng trai sực hiểu lập tức lao thốc về phía con beo đen vừa mang quỷ nữ chạy đi.

          Nào ngờ mới được năm bảy chục thước, bất thần thấy con beo nâng quỷ nữ từ trong hàng cây trắng loáng vọt chồm ra, hoảng hồn hết sức. Giật mình, Võ Minh Thần đảo mắt trừng nhìn, chưa hiểu chuyện chi, bỗng thấy trong trăng mờ bật lên một chuỗi cười muốn xé màng tai:

          - Thằng nhỏ mặt trắng kia! Mi định chạy đâu? Hà há, theo phò con quỷ cái, lủi vào xó tối, rồi mò theo hút Giao Long thần! Hà hà! Ngốc tử! Mi con cái nhà ai tới hồ Ba Bể này rình mò, không biết Giao Long thần quyền phép nhiệm màu, chợt ẩn chợt hiện, xưa nay chưa có đứa nào theo về đền đài thần hồ nổi... Hà hà!

          Con beo đen tinh khôn lạ thường, chừng nó cũng biết Võ Minh Thần không có ác ý với nữ chủ nó, nên vừa thấy bóng chàng trai vọt lại nó tạt phăng tới như muốn nhờ sự che chở của chàng trai lạ. Võ Minh Thần vẫy tay, xẹt lên chắn lấy con thú, nói nhanh tuy chẳng biết nó có hiểu tiếng người không:

          - Chủ mi bị ta điểm huyệt, nằm nghỉ càng mau hồi sức! Mi nên kiếm chỗ ẩn kín, nhớ quanh quẩn gần ta, ta sẽ đánh đuổi con tinh độc cho.

          Con beo đen phát mấy tiếng hí ngắn, như mừng rỡ, nó vọt luôn vào sàn ghềnh đá tán cây. Võ Minh Thần cũng chiếm luôn một điểm tựa, trừng nhìn, chẳng thấy gì ngoài bóng cây đá lởm chởm, chàng trai quát chìm:

          - Giao Long tinh! Ta đợi mi đây! Đường đường nam tử, ta há sợ loài yêu quái sao? Ra đây! Ta không đi đâu!

          Tiếng quái ré vang âm:

          - Đi sao nổi! Mi còn phải trả Giao Long chúa mấy nhát dao vừa rồi! Ta bắt mi như trở bàn tay, nhưng ta muốn thử coi ngươi tài đến bực nào! Xưa nay, chưa có đứa nào thoát khỏi Giao Long thần! Coi đây!

          Một tràng hú ma âm nổi lên trong sương trắng, lập tức từ mạn hồ Ba Bể có rất nhiều tiếng quái hú vọng lên, ngân dài trong đêm không khác tiếng hồn ma bóng quỷ tận cõi âm "ảm" về.

          Không chút nao núng, Võ Minh Thần chỉ thầm lo cho mạng Quản Kình và quỷ nữ, nhưng chẳng khỏi kinh dị về sự xuất hiện kỳ ảo của Giao Long. Rõ ràng, chàng trấn trên bờ, nhãn tuyến dàn quét dọc ngang, mà con thủy quái khổng lồ này vọt lên rừng lúc nào, chặn ngay sau lưng chàng, quả nhiên tài lực nó đã tới độ siêu thần nhập hóa. Đầu óc Võ lóe ý nghĩ:

          - Ta đi tìm con tinh bốn chân Hồng Cẩu Quẩy, nhưng chưa rõ tài thuật nó đến mức nào. Nay tình cờ lại gặp con tinh Giao Long, âu cũng là dịp tốt để thử sức với loài tinh quái. Miễn nó đừng vội kéo cả bầy làm dữ ngay.

          Bèn vận sức, bế tất cả huyệt đạo, quát:

          - Giao Long to gan lên cạn tới số! Sao chưa ra?

          Tiếng cười ré lên quái gở:

          - Ngốc tử! Mi không có mắt sao? Chúa Giao Long đứng trước mặt mi từ lâu rồi, không thấy ư? Hà hà!

          Giọng cười âm u chờn vờn như vuốt cào màng tai, Võ trừng mắt rê theo hình cung dương, bỗng giật thót người, thấy giữa những thân cây bên triền núi có một cây hơi động đậy, cách Võ chừng hơn ba mươi sải. Mãi khắc đó, chàng mới nhận ra hình thù mình con thuồng luồng, nó đứng bằng đuôi thẳng cứng như thân cây, bờ bụi, tán lá lòa xòa che phủ từng khúc, thoạt coi, không nhận ra, nếu chẳng dòm ngược lên tàn cây bên xòa sang, sực thấy hai con mắt quái đỏ như than tàu dòm hau háu.

          Lúc đó Giao Long mới khom cong mình xuống lắc một cái, quẫy đuôi, đã xẹt mấy sải chập chờn. Không sợ, Võ Minh Thần cũng xẹt ra mấy thước, người quái cùng đừng giữa khoảng trống bóng cây vật vờ lay động. Giao Long chúa phát âm lơ lớ bằng tiếng Thổ:

          - Mặt trắng! Mi bạo lắm! Thổ? Kinh? Tàu? Mán?...

          Lạnh lùng, Võ hất hàm:

          - Thuồng luồng! Mi bí ẩn lắm! Quái vật thành tinh? Thuồng luồng nói tiếng người? Người hóa thuồng luồng?

          Giao Long cười thét:

          - Con nít! Mi sợ chi không nói?

          - Thủy quái! Mi sợ chi không khai?

          Giao Long tiến lên mấy sải, Võ Minh Thần cũng tiến lên, cứ thế, thoắt cả hai chỉ còn cách nhau khoảng mười thước.

          Giao Long chúa đứng lại, cao lênh khênh, cái đuôi ve vẩy, hoa cỏ tan tác bay bổng quay tròn như bị lốc xoáy. Võ Minh Thần cũng đứng sững, buông thõng hai tay, mười ngón ve vẩy bên cặp báng súng Colt 12 Chúa Mười Vạn Núi tặng, vai vẫn đeo cây dù, chiếc khiên lật úp lên giỏ sắc hành lý.

          Bốn con mắt nhìn nhau. Cảnh hồ Ba Bể bỗng rơi vào im lặng đến rợn người, bên tai Võ văng vẳng tiếng chim khắc khảm từ hai bên đỉnh núi rớt xuống bờ hồ... nghe bâng khuâng xa xăm như trong cơn mộng ác hồng hoang. Chàng trai biết rõ đã đến phút sinh tử, chỉ một cơn gió thoảng qua cũng đủ mất mạng rồi.

          Bế huyệt, vận nội công, mắt nhìn không chớp, bỗng Võ Minh Thần chợt thấy như có lửa táp vào mặt, rồi hai mi mắt chàng vụt nặng trĩu, nặng mãi, như có một sức quái gở khép dần vành mi lại. Cảnh hồ khuya bỗng trở nên bàng bạc, huyền ảo như trong tranh, dây thần kinh, thớ thịt, đường gân chàng như đang tê dại vì sức im lìm xâm chiếm linh hồn.

          Trước mặt Võ, cây cối rừng già, triền núi, cả hình thù Giao Long như không có nữa, trong đêm trăng mờ, chỉ còn hai mắt đỏ khé than tàu bốc cháy, chiếu tia bỏng, tiếng Giao Long vụt nổi lên chờn vờn chìm như rót vào tai êm đến nổi da gà:

          - Mặt trắng! Mi đứng trước mặt Giao Long thần, mi không chém, không bắn, mi giương mắt nhìn Giao Long thần... À, mi cứ nhìn cho kỹ Giao Long chúa đưa mi vào thế giới phi phàm! Mi tiến lại đây! Tiến lại.

          Không hiểu sao, giọng nói Giao Long như ve vuốt tận linh hồn, tự nhiên mí mắt Võ nặng ghê gớm, chàng trai lừ đừ tiến lên giữa tiếng ma quái thúc giục.

          Đầu óc vẫn tỉnh táo, bỗng rào một cơn gió thổi vào mặt, Võ Minh Thần liếc xuống chợt nhận ra mình vừa cử động hai chân mà không hay. Trong khoảnh khắc, nhanh như tia chớp lóe, lời dặn của viên chúa tể Mười Vạn Núi bên Vân Nam bỗng vang lên trong óc:

          - Nay mai, khi lặn lội giang hồ, nếu có lúc nào đối diện ma nhân, quái vật, dị khách thấy hai con mắt nó đỏ rực lên nóng bỏng phải coi chừng luồng nhãn tuyến đó có thể đưa hiền đệ vào "giấc ngủ thôi miên" trong nháy mắt. Vì đó là cặp mắt thôi miên! Chỉ cần mấy giây nặng mí mắt, phân tâm, bất định là đã đủ lãnh một viên đạn vào tim rồi! Phải vận dụng ngay điện lực thôi miên chống! Nếu yếu điện hơn, phải ra tay lập tức.

          Thất kinh, Võ Minh Thần sực hiểu, thì ra Giao Long đã vận dụng luồng ma tuyến thôi miên chàng, vô tình, chàng không để ý, lại chỉ vận công lực châu thân đề phòng. Không phí nửa giây, Võ Minh Thần vận luôn điện lực tập trung vào hai con mắt, ngầm chống lại.

          Nhờ đã được chúa Thập Vạn Vân Nam truyền dạy về thôi miên thuật, lại giàu nhân điện, nháy mắt, Võ đã hoàn toàn tự chủ, trở về trạng thái bình thường. Thở một hơi nhẹ nhõm, Võ trừng mắt nhìn thẳng vào đôi mắt khé Giao Long, vụt cái, cặp mắt Võ đang hiền lãnh bỗng trở nên dữ tợn, hai luồng nhãn tuyến đỏ rực xói thốc vào mắt địch, hừng hực muốn cháy mắt Giao Long.

          Giao Long chúa đang đắc ý thấy chàng trai bị rơi vào vòng hút của nhãn tuyến, bỗng lại thấy mắt chàng trai rực ánh điện uy mãnh, Giao Long bất giác phát tiếng cười âm âm rờn rợn:

          - À, mặt trắng này lại biết cả thôi miên thuật, dám cự lại cả mắt thần Giao Long? Được lắm! Con cái nhà ai mới chừng hai mươi tuổi đời, đã cao bản lãnh. Giao Long chúa có lời khen.

          Dứt lời, Giao Long tinh lắc lư tiến lên một bộ, trợn ngược xếch hai con mắt quái như hai ngọn đèn ma khé chiếu áp đảo luồng nhãn tuyến của Võ Minh Thần. Chàng trai vận nhân điện thôi miên chống lai, vừa cầm cự vừa dùng điện tấn công.

          Trong đêm khuya, bóng người, bóng quái đứng sững như hai pho tượng, không tiếng quát, không kình phong, bề ngoài coi như hai cái bóng đứng dòm nhau chơi, nhưng nếu có kẻ ngoài ngó thấy hai cặp nhãn tuyến, chắc chắn sẽ phát rợn người vì chạm luồng điện giữa "luồng điện thôi miên" vô cùng lợi hại có thể giết người trong nháy mắt. Càng lúc, người, quái càng tập trung điện lực giao chiến, quyết đưa nhau vào giấc ngủ thôi miên. Võ Minh Thần vừa vận điện, vừa nghĩ thầm:

          - Theo chúa Thập Vạn dạy, về thôi miên thuật dùng nhãn tuyến ru ngủ, sai khiến người ta, còn là trung đẳng. Kẻ luyện thôi miên đến mức thượng đẳng, có thể nhìn suốt mọi vật, nâng xác thân lên cao, dùng điện nhãn tuyến giết người trong nháy mắt...

          Vì đến độ cao, tay thôi miên thần diệu có thể tập trung điện lực vào hai con mắt và có thể phát luồng điện bay ra khỏi mắt tấn công vào huyệt đạo thân xác người ta, không khác các nhà khoa học phát minh ra một bộ máy bắn một tia sáng cực mạnh đốt cháy tiêu mọi vật gọi là "tia la-de", "tia sáng tử thần".

          Chẳng rõ con tinh chúa Giao Long này đang dùng âm tuyến ma hay dương tuyến thôi miên, có tới bậc ghê gớm đến thế không? Nếu nó có thể phát được nhãn điện thoát khỏi mắt, chắc chắn ta phải mạng vong chốn này. Nhưng theo chúa Thập Vạn, hiện chưa có nhân vật nào luyện thôi miên thuật đạt tới mức đó.

          Chàng trai chắp hai bàn tay vào nhau, nghĩ thoáng, thình lình thấy Giao Long chúa tiến lên hai bước nữa chỉ còn cách chàng năm thước tây, miệng nói phát ra một thứ âm hết sức quái gở, nghe không khác lưỡi dao nạo mặt nứa muốn ớn người.

          Càng nhích gần, Võ càng thấy rõ từng làn da cái vuốt, chàng trai thấy lồng ngực bụng con tinh phập phồng to như cái thúng cái, coi rất lạ, vụt cái ngực bụng nó lại lép xẹp tưởng chỉ còn da bọc xương, rồi... bỗng Võ kinh ngạc thấy rõ cái đầu nó to phình như cái bong bóng thổi phình hơi.

          Cái mõm ngoác từ từ ngậm lại, rồi phần dưới, phần trên cái mặt chợt lại lép xẹp, trước mặt Võ, lúc này chỉ còn khu ngang mắt căng phồng, phập phà phập phồng, hai con mắt như muốn lồi ra, hai luồng nhãn tuyến sáng lóe lên kỳ dị, và Võ Minh Thần bỗng rúng động tâm thần, thấy rõ hai luồng nhãn tuyến chập chờn như hai đốm than tàu sắp nhảy ra ngoài. Trong mấy khắc bàng hoàng, Võ vùng nghĩ:

          - Quái đản! Quái đản! Rõ ràng Giao Long tinh đang vận dụng ma thuật thôi miên cho luồng điện nhãn thoát ra ngoài như lời chúa Thập Vạn Vân Nam từng nói đến! Ôi chao! Nếu nó cao thuật tới độ đó, chắc chắn mạng ta khó toàn.

          Vì rúng động, tâm thần chàng phân tâm, điện yếu hẳn, vùng thấy mặt nóng ran, hai con mắt đau nhói một cái như người bị chứng phong thấp "cắn" nhanh, đầu óc choáng váng, chàng trai lật đật định thần, quắc trừng cặp mắt, phát thêm nhãn điện chống lại.

          Hai luồng nhãn tuyến Giao Long chập chờn chực thoát bay ra khoảng mươi khắc, Võ Minh Thần đã toan xuất thủ đánh phủ đầu, phòng bất trắc, bỗng nghe Giao Long chúa rú lên một tiếng dài lê thê, hai con mắt thoáng nguội hẳn nhãn tuyến, đứng im. Giao Long phì một cái lảo đảo ngã nghiêng thân hình vào một thân cây gần đấy, cái đuôi quất rào hoa lá.

          Cả mừng, Võ định mím môi ra tay, nhưng chàng trai cũng chẳng hơn gì, sau phút đấu tuyến điện nhãn, vừa dứt, chàng trai cũng choáng váng lảo đảo, phải vịn vào thân cây, đứng hoành thân... thở mạnh phào.

          Mãi mươi giây mới hồi sức thì Giao Long chúa cũng như thường, con tinh nước phát giọng trầm u:

          - Con nít kia! Mi chống nổi mắt thần, giỏi lắm! May cho mi, chúa thần hồ Ba Bể chưa bắn được tuyến nhãn thần ra khỏi mắt! Hừ! Bao năm tu luyện chưa thành được "tia sáng giết người nhìn đâu cháy đó"

          Hàm răng con quái nghiến ken két như mọt nghiến gỗ. Giao Long chúa ré khàn:

          - Giờ theo ta về động! Ta muốn biết nguồn gốc mi!

          Lời vừa dứt, nó hé miệng thổi "phù" một cái, nghe vút tiếng như có vật xé không khí, Võ Minh Thần đã thấy từ miệng nó bay ra một cái mống đỏ chót, "phì" cái nữa, hai lỗ mũi lại vút ra hai luồng hắc khí, bạch khí, cả ba luồng như ba ánh chớp chụp xuống người Võ.

          Đã dự phòng, Võ cứ đứng nguyên, thổi "phù" một hơi, phát ra một tiếng "bùng" như sấm nguồn, một luồng kình khí quật hút ba cái mống yêu, phát ra một tiếng nổ mạnh. Giao Long chúa bật lui hai bộ, còn Võ Minh Thần bị áp khí đẩy lùi đến ba bộ, tuy huyệt đạo đã bế, mũi chàng vẫn ngửi thấy một mùi tanh nồng như máu tươi tạt thốc vào, muốn nôn mửa, choáng váng cả người.

          Giao Long hét chíu:

          - Con nít kia! Mi biết đánh cả "Khẩu phong lôi"? Mi là học trò lão chủ đảo Thần Tiên hay chúa Thập Vạn? Nói mau!

          Lúc này Võ Minh Thần đã phát rợn, thấy dùng đến "Khẩu phong lôi" vẫn chưa áp đảo được Giao Long, chàng trai lúc đó mới lượng rõ sức phi phàm của con tinh nước.

          - Không ngờ con quái này mạnh tợn đến thế! Chém, đâm không chết, điện kình không đổ, giờ không nhanh tay nhanh chân, sẽ nguy với nó, gái quỷ kia cũng nguy theo.

          Nghĩ làm liền, Võ Minh Thần chẳng nói chẳng rằng, đánh vụt hai tay xuống sườn, rút cặp súng cối vẩy liền. Đoàng, đoàng. Hai phát trúng ngực tim Giao Long, con quái giật mình về phía sau, lắc cái đầu, ré lên, bắn vụt mình tới như tên lao. Thấy bắn không làm gì được, Võ cầm súng vọt nhảy lùi năm, sáu bộ, nghe con tinh hét:

          - Mặt trắng dám bắn trộm! Mi sẽ chết... chết!

          Giao Long hạ chân sau xuống một mỏm đá, Võ Minh Thần quài tay giật phăng cây dù, cắp nách vẩy một tràng "tặc tặc" trúng ngực con tinh, cây dù này thuộc loại súng cối xay ngụy trang, bắn rất mạnh, con tinh bị một tràng năm bảy phát lập tức bắn lộn lại hai, ba thước.

          Tưởng nát ngực, nào dè nó mình đồng da sắt, nhảy chồm lên, lồng lộn, hai con mắt đỏ khé, vẻ giận dữ điên cuồng không còn ung dung như trước nữa, nó cười thét nghe gai rợn:

          - À con nít! Mi tưởng Giao Long thần không biết dùng súng bắn?

          Lời vừa dứt, nó đã thu cả hai chân trước vào bụng, vẩy lia, Võ vừa nhác thấy, lập tức vừa bắn vừa nhảy vào sau mỏm đá, nào dè nó vẩy ngay lúc Võ còn lơ lửng trên cao "đoàng đoàng" liền hai phát đạn lớn bắn trúng ngực Võ đúng vị trí tim, mạnh đến nỗi chàng trai sa luôn xuống, rất may trong mình chàng đang mặc mấy lần giáp chúa Thập Vạn tặng nên không hề gì, chỉ thủng lần vải ngoài.

          Nhưng trước ngực cũng bị chấn động như bị chày vồ nện vì hai viên xói thẳng không trườn trượt chi cả. Chàng trai lao vào điểm tựa, đảo mắt xem xét địa thế, được mặt trước lại trống mặt sau, sực nghe tiếng Giao Long chúa hét ầm ầm:

          - Dải nô đâu! Sao chưa chăng lưới bắt sống chúng nó! Con quỷ cái vẫn trốn quanh đây.

          Nhất hô bá ứng, lập tức từ nẻo hồ Ba Bể đột dậy nhiều tiếng hú, hét vang động, rồi khắp mấy phía bỗng xuất hiện hàng mấy chục hình thù thủy quái từ dưới hồ vọt lên như tôm cá nhảy, ào ào vây phủ.

          Biết tình thế đã cấp bách, Võ Minh Thần vùng hú:

          - Beo đen, beo đen, mi thoát được chưa?

          Có tiếng rống trong kẹt đá gần bờ nước phía tả, rồi thấy con beo cõng quỷ nữ nhảy ra. Lúc đó mới hay bầy thủy quái đã vây kín mấy mặt, con beo đành nấp đợi Võ.

          Rất nhanh, Võ khom mình lao tới, thò tay giải huyệt cho quỷ nữ. Nhờ được dưỡng sức giây phút, quỷ nữ đã hơi hồi sức, tuy vẫn thấm đòn tinh, vừa cử động được, nàng ta đã lớn tiếng chửi Võ thậm tệ, Võ giật mụ trụ sau gáy úp chụp lên đầu, tháo khiên trao cho cô gái quỷ, nhăn nhó:

          - Cô... cô nương bình tâm nào! Có mắng mỏ, để thoát khỏi chốn này đã! Cô nương không thấy loài thủy quái vây kín đầy đàn kia sao? Cô nương mau mau che kín người, để mỗ mở vòng vây.

          Nào dè vừa đưa khiên, cô gái quỷ xấu xí này quăng xoảng xuống triền đá, vùng vằng trèo lên lưng con beo đen, nhưng còn mệt, lúng túng ngã chúi:

          - Mặt trắng bất cố liêm sỉ? Ai quen thuộc nhà mi cứ đeo sát ta làm gì? Tưởng ta kiệt sức cần mi cứu lắm sao?

          Tình thế đã ngặt nghèo cực độ, lại gặp cô gái quỷ dở dở ương ương đã không chịu để cứu lại còn nặng lời chửi mắng thậm tệ, Võ Minh Thần chỉ còn biết trố mắt nhìn gái quỷ, không sao hiểu nổi cử chỉ ngược đời của nàng ta.

          Nhưng chàng trai mặt lạnh không hề giận, chỉ nghĩ thầm vẩn vơ cho cô quỷ này có thể là một nhân vật phi phàm nên mới có phản ứng kỳ quặc "khác hẳn tâm lý người ta" như thế. Lúng túng khó xử, chàng trai vội cúi nhặt tấm khiên lên nhăn nhó nói bừa bằng tiếng Thổ:

          - Cô nương không nên thế! Cô nương không thấy lũ âm binh quái vật vây kín tứ phía kia sao? Cô nương không cho mỗ cứu, cô nương liều chịu chết liệu còn ai báo thù cho cha mẹ?

          Dứt lời, chàng trai thò tay định đỡ quỷ nữ lên lưng con beo đen, quỷ nữ loạng choạng gạt phắt tay ra chống vào đầu con thú và vừa thở vừa mắng:

          - Tên đàn ông hôi thối này! Tay dơ bẩn sao dám mó vào người ta? Cút mau cho khuất!

          Ta đây dẫu có muốn thoát chết còn rửa thù phụ mẫu cũng không cần đến thứ giống đực tiện nhân như người cứu mạng đâu! Đường ai nấy đi, việc ai nấy làm! Ôi! Sức ta đã mệt... không nói với ngươi được nữa.

          Miệng nói, tay xua, mắt quắc, cô gái quỷ gắng gượng trèo lên lưng beo đen, vọt chồm đi, ngay lúc đó, bỗng có tiếng Giao Long chúa hét ầm ầm gai rợn:

          - Vây cho chặt! Chúng chạy vào đầu khu núi kia! Chúa cần bắt sống cả hai! Cứ bắn què.

          Võ Minh Thần nách cắp cây dù, vừa đưa mắt ngó theo bóng beo đen bỗng lại nghe "vút vút" nhiều tiếng vật nhọn xé không khí, một mũi tên cắm phập ngay bắp đùi quỷ nữ, mũi nữa trúng chân con beo, con thú khuỵu xuống, quỷ nữ ngã văng sang bên chúi kẹt đó, tên bay loang loáng trốc đầu, tên cắm xoang xoảng vào tấm khiên trên như mưa rào.

          Giật mình, Võ Minh Thần cúi rạp mình dòm mấy phía, thấy lố nhố nhấp nhô đầy hình thù Giao Long lớn nhỏ vừa nhoài tới xạ tiễn, có lũ chỉ cách bốn, năm chục thước. Chàng trai xốc khiên văng tới kẽ đá, bảo gái quỷ:

          - Việc nguy cấp lắm rồi! Phải thoát mau không bị nó bắt sống đến nơi!

          Lúc này quỷ nữ ngã văng xuống kẹt đá, nhờ thế, không bị tên bắn, gái quỷ nhòm lên, thấy Võ Minh Thần ngồi lom khom, quỷ nữ lại trợn mắt mắng như tát nước:

          - Tên đàn ông thối tha này! Sao ngươi cứ theo ta như loài ma quái! Để mặc ta với con tinh, ai khiến ngươi cứu, ai cần ngươi lo cho ta? Tên ma dục này!

          Lo lắng cứu người bị nạn, lại bị sỉ vả là dâm tà, Võ Minh Thần trố mắt dòm quỷ nữ, dưới trăng mờ, bộ mặt nàng ta coi càng phát gớm, da đen đầy sẹo, mồm méo, nanh chìa, chàng trai không nén nổi thở phào kêu lên:

          - Ôi chao! Cô nương này ăn nói hồ đồ chẳng hiểu gì cả! Mỗ đây, chỉ vì cũng có cha mẹ chết oan chết ức vì loài tinh quỷ, tình cờ qua đây thấy cô cùng cảnh, có cha mẹ bị nạn tinh lại sắp bị Giao Long ăn thịt, mồ côi xót mồ côi. Mỗ đây liều thân cứu nạn chớ đâu phải vì thấy cô là gái thiên kiều bá mị, muốn gần? Ôi! Cô... cô không biết mặt mũi cô như...

          Chàng định nói Chung Vô Diệm, nhưng thấy tiếng này rõ nghĩa lại e gái quỷ tủi thân, nào dè cô gái quỷ này kỳ quặc hết sức. Vừa nghe Võ nói đến đấy, cô gái quỷ lập tức ré lên cười khinh bỉ mỉa mai:

          - Há há! Sao ngươi không nói ta xấu như Chung Vô Diệm? Ồ! Ta còn lạ gì lũ đàn ông các ngươi, xưa nay kể gì xấu đẹp! Xấu cũng gái, đẹp cũng gái, đàn ông các người lắm gã làm đến hoàng đế còn thờ vợ xấu hơn ta. Tề Tuyên Vương có đủ tam cung lục viện, lại rước Chung Vô Diệm làm chính cung hoàng hậu... Đẹp xấu xá chi, miễn thấy gái là các ngươi xum xoe như mèo thấy mỡ, chỉ chực thừa cơ ve vãn không từ! Cút mau, sống chết mặc ta, không khiến ngươi lo đến.

          Dứt lời nàng lại cố trèo lên lưng beo vừa tập tễnh chạy lại, Võ Minh Thần nghe qua lời quỷ nữ chỉ còn biết trợn tròn xoe mắt than thầm:

          - Ôi chao! Cô gái quỷ này ăn nói thật quái gở, cứ như đấm đá vào tai người ta thế này! Mặt mũi xấu như quỷ Dạ xoa còn cứ sợ đàn ông ve vãn! Vô phúc cho thiên hạ gái này mà lại có nhan sắc, chắc đi tới đâu. Chửi rủa người ta tới đó đến chết mới thôi! Cứ mở miệng ra nghe như bò đá, chịu hết nổi!

          Tề Tuyên Vương xưa phong Ly Xuân gái trán dồ, mắt lồi nanh chìa làm hoàng hậu vì cảm phục nàng Ly Xuân vào cung ra hiệu can vua, khuyên làm lành lánh dữ. Tề Tuyên trọng gái xấu mà có nhân cách, đâu phải cứ thấy xấu cũng mê? Tình thế hiểm nghèo này thủy quái vây tứ phía, không lẽ lại đứng đây cãi vã với nàng à?

          Bèn xông tới, cản ngay đầu hốc đá, cắp dù súng rê bắn đì đẹt tứ phía bắt thủy quái phải vọt ẩn núp hết, quay bảo quỷ nữ:

          - Cô nương hóa điên rồi, sắp chết đến nơi còn nói dở hơi, bất luận phải trái. Mỗ đây là con nhà võ, thấy đàn bà bị nạn, phải cứu cho kỳ được. Cô bị yêu khí Giao Long kiệt lực, mỗ còn viên thuốc này kỵ tà khí, trị được các thứ độc, cô nương uống mau cho lại sức chút, còn thoát khỏi chốn này.

          Miệng nói thò tay vào túi, lấy đưa viên thuốc của tôn sư cho khi hạ sơn cho cô gái quỷ, gái quỷ trợn mắt xua tay mắng không thèm nhận giục con beo nhảy lên. Con beo đau chân chưa vọt qua đầu Võ. Võ đang khuyên thấy cô gái quỷ mắng, miệng há rộng, chàng trai búng "véo" viên linh đơn lọt thỏm ngay vào cuống họng quỷ nữ, chui luôn vô bụng. Quỷ nữ giật mình lui lại, khạc nhổ không ra, quỷ nữ hét:

          - Tên mặt vôi tường, nước đá này... khốn kiếp! Sao dám lừa nhét viên thuốc hòn đất thó vào bụng ta! Tên khốn.

          Khạc nhổ không ra, gái quỷ thò tay móc họng cũng không ra. Gái quỷ nổi giận xông lên đánh Võ, bầy Giao Long nấp xa, nhô lên bắn tên vun vút, Võ phải ấn quỷ nữ xuống, bắn vãi lại, dịu dàng bảo nàng ta:

          - Thuốc hay lắm, vào bụng tan ngay, cô cứ nghỉ mấy ngày sẽ lại sức nhiều. Kẹt đá kín ba mặt, chúng chưa làm gì được đâu!

          Bỗng nghe tiếng Giao Long chúa cười thét:

          - Thằng trai mặt đẹp ngu dữ à! Cứ lăn lưng cứu con dạ xoa, chịu nghe chửi như tát nước! Quỷ cái xấu xa chó không buồn nhìn thằng đẹp trai ngu hơn chó! Tên lửa! Khói mê!

          Dứt lời, lập tức từ mấy phía, tên lửa tới tấp bay vùn vụt tới như đan phên, cũng may kẹt đá này có mỏm nhô mấy phía, tên chỉ sạt trốc đầu quỷ nữ, còn hở mặt trông ra phía Nam xế, Võ Minh Thần che khiên ngồi án ngữ, tên bắn soang xoảng vào khiên như mưa rào, lửa rớt từng mớ quanh mình.

          Võ Minh Thần dắt dù ghé mắt dòm ra, bỗng thấy giữa những đường tên lửa vun vút, có bốn, năm khối tròn đo đỏ to như quả trứng gà bắn vút tới. Đoán khói mê khói độc, Võ thò tay quơ bắt ném lại, nào dè vừa chạm tay, nó nổ "bốp" liền, phát ra một làn khói đỏ như máu. Võ Minh Thần lật đật phất tay nổi gió kình xua tay gạt đi, giật giọng bảo quỷ nữ:

          - Đứng mãi đây nguy dữ à! Cô nương lại sức chút nào chưa? Ta rút thôi!

          Quỷ nữ thở phào một hơi, vung thử tay, trợn mắt kêu phẫn nộ:

          - Ôi chao! Thuốc viên thuốc hòn của ngươi công hiệu rồi, mười phần sức ta đã lại được năm, sáu. Ngươi hại ta, bắt ta phải tỉnh sức vì thuốc yêu thuốc quái của ngươi! Dang ra! Tưởng ta cần hồi phục nhờ tay ngươi ử? Ma dục!

          Vừa nói, nàng ta vừa đứng sổ lên, vỗ vào lưng con beo, định cùng thú nhảy lên. Võ Minh Thần thò tay đẩy con beo lại, vừa toan đẩy quỷ nữ, bỗng thấy liền hai, ba trái đỏ vút tới, lần này từ trên cao rớt thẳng xuống, chàng trai phất kình đánh bạt ra xa, bỗng có một trái rớt ngay xuống đầu quỷ nữ, quỷ nữ thò luôn tay vồ.

          Bóp! Trái đó vỡ tan tỏa, khói đỏ tỏa rộng trên đầu, Võ Minh Thần nhác thấy, vội quạt tay ào ào, nhưng cô gái quỷ đã hít vào, hoa cả mắt, cũng may lúc này nàng ta lại chút sức điều công được, vừa quát Võ dang ra, vừa nín thở trèo lên lưng beo vỗ đét, con thú sợ chủ, rống lên, nhảy vọt qua đầu Võ Minh Thần bất chấp tên lửa bay tua tủa như mưa đạn. Cấp kỳ, Võ nghĩ thầm:

          - Gái quỷ này lạ thật! Ương không chịu nổi, xem chừng nhất định không cho mình cứu, chẳng hiểu người hay ma lại quái gở thế này? Quái vật mấy mặt, ra thế nào cũng bị rơi vòng quái, sao mình không cho nàng ta ngủ một giấc cho tiện? Cứu xong, cho nàng ta sỉ vả, đã sao chưa?

          Bèn thò tay túm luôn chân sau con beo lôi giật lại. Đang lơ lửng, con beo ngã sa xuống, quỷ nữ lảo đảo suýt ngã lộn, nhờ đã khá mạnh, nàng ta nhảy được xuống, vừa may thoát được một loạt tên lửa bay soạt đầu.

          - Tên mặt tường vôi này, sao ngươi cứ bức cứu ta! Thuồng luồng tinh khốn kiếp không đuổi nổi hắn ư?

          Vừa hét quỷ nữ vừa nhảy chồm cử quyền đấm Võ như điên, lẹ như chớp Võ túm lấy cổ tay nàng ta nói nhanh:

          - Tình thế nguy lắm rồi! Cảm phiền... mỗ phải để cô nằm nghỉ giây lát. Dứt lời, Võ ấn mạnh vào mạch môn, gái quỷ rùng mình, tay kia đấm túi bụi vào ngực Võ, hét:

          - Tên khốn này! Mi định giở trò đốn mạt gì... lại điểm huyệt ta?

          Võ Minh Thần bấm cái nữa, vẫn không thấy quỷ nữ ngất, chàng trai không khỏi ngạc nhiên nghĩ thầm:

          - Lạ dữ chưa? Sao điểm lại trơ trơ thế này. Chẳng lẽ gái quỷ là loài âm vật, không phải người ta? Vô lý! Rõ ràng là da thịt người dương thế mà! À thôi! Có lẽ nàng này học võ đặc biệt chi, đã bế kín huyệt ngoài rồi chăng?

          Bèn vung tay thọc luôn mấy yếu huyệt nữa, nào dè quỷ nữ vẫn như không, khác hẳn lúc nãy, chỉ ấn nhẹ cái, nàng ta xỉu liền. Đang lúng túng, chẳng lẽ cứu người lại đánh cho gái ngất, bất ngờ bị quỷ nữ tung chân đá luôn ra một ngọn cước trúng bụng. Giày da thú của nàng hình như lót sắt, quỷ nữ lúc này đã hồi sức bảy, tám phần, ngọn cước mạnh như trời giáng. "Chát", "hự" Võ bật ngửa ra sau, tưởng đến nát bụng, chàng trai lạng người kêu "Ô" đã thấy gái quỷ ngã ngồi phệt xuống mỏm đá, kêu lớn:

          - Ôi chao! Tên mặt trắng này mình đồng da sắt... Làm sai khớp, bong gân ta rồi. Võ Minh Thần sực nhớ mình có mang giáp sắt mấy lần, lật đật buông vội quỷ nữ ra, khẽ hỏi:

          - Cô nương có sao không? Khổ chưa! Sao cô lại đá mỗ? Mỗ có ý hại cô đâu.

          - Hừ! Sao mi điểm huyệt ta? Cút mau!

          Quỷ nữ ôm chân kêu khóc, suýt xoa, giây khắc nàng ta lại đứng sổ lên giục con beo vọt khỏi hốc đá. Võ Minh Thần còn đang tính kế, bỗng nghe Giao Long chúa quát quái gở:

          - Lưới thần đâu?

          Tiếng quát vang âm chờn vờn dõng dạc, không chút hấp tấp, chứng tỏ Giao Long đã tin chắc sẽ tóm được mấy con mồi giữa vòng vây. Tên lửa khói mê ngưng bắn vào. Võ Minh Thần đảo mắt dòm một vòng, chỉ thấy cây, đá lố nhố, bầy quái đã ẩn kín, hai tiếng "lưới thần" khiến chàng trai không khỏi chột dạ, nghĩ thầm:

          - Thuồng luồng tinh lợi hại khôn lường, hồ Ba Bể này là sào huyệt hang động nó, càng dài thời gian càng nguy với nó. "Lưới thần" tất phải lợi hại hết sức, để chậm, sa bẫy quái như chơi! À ta ngu dữ à! Có lẽ gái quỷ này còn có thứ thuốc, hay vật chi che phủ huyệt đạo, chắc nàng ta mới dùng tới, chưa kịp bế các huyệt kín, ta cứ thử xem sao!

          Đúng lúc quỷ nữ trèo lên lưng thú vọt lên, Võ Minh Thần búng "véo" một nhát chỉ phong điểm cách không điểm phăng vào huyệt nách. Quả nhiên vô tình quỷ nữ trúng nhát điểm này, cứng đờ người ra. Lẹ như chớp Võ Minh Thần chụp luôn con beo, lôi lại, vừa đỡ quỷ nữ, vừa nói đại:

          - Beo đen! Ta đem chủ mi ra khỏi vùng tử địa! Mi mau theo sát sau lưng ta may thoát! Ra tới bờ hồ, mi cứ nhảy xuống nước chạy đi ngả khác! Chúng rượt ta, mi mới thoát nổi! Cái này chỉ che nổi chủ mi! Theo ta!

          Lời vừa dứt, bỗng thấy hàng chục khối lửa bay vun vút lên trước hốc đá, là là rơi xuống chiếu sáng rực một khu hố rộng. Võ Minh Thần lật phăng tấm khiên kép thành hai cái, tay trái khoác khiên, xốc luôn quỷ nữ lên ngang nách, tay phải khoác cái khiên thứ ngồi ngửa cho chân nàng co lên, ẩn sau cặp khiên, nách cắp dù súng đảo lia mắt quan sát địa hình địa vật.

          Bỗng nghe "loong coong coong coong" có tiếng nhạc đồng khua vang trong vùng lửa sáng chập chờn, từ nẻo sau ghềnh triền Đông, bắn xoảng lên một vật đỏ chót như son loằng ngoằng như con trăn gió quăng khúc, "con trăn đỏ" bay vun vút thẳng trốc đầu bọn Võ Minh Thần, phát ra tiếng "loong coong" lạ tai, âm dị to dần, không chậm nửa khắc, Võ Minh Thần ôm quỷ nữ, dùng lực khinh thân, bắn vụt mình ra khỏi kẹt đá, phóng về hướng Tây Nam hồ.

          Thân hình chàng trai vừa bắn vọt lên, hai chân đã co rút lại, hai tấm khiên úp chụp lấy người Võ và quỷ nữ, mép dính kín phía trước, mở hé sau lưng, cứ thế vừa đi vừa bắn xoe xóe quay tít như chong chóng, coi không khác con sò quăng trong không khí. Nhanh như tên, con beo đen cũng nhảy chồm theo sát Võ.

          Người vật vừa bắn vọt ra, thì "con trăn đỏ" phát ra một tiếng "xoảng" dòn tan, vụt loe rộng thành một tấm lưới đỏ chụp xuống, đường kính rộng hàng chục thước. Từ trên miệng lưới có treo hàng chục ngàn cái nhạc quái dị, vừa lắc rung loong coong. vừa bắn vọt ra những luồng khói đỏ như máu tươi, sức phát nhanh như tên, phọt chếch, tạo thành một vòng tròn đường kính rộng hơn miệng lưới hàng mấy chục thước mỗi bên, màng "lưới khói đỏ" chụp xuống ngay khi miệng lưới vừa loe rộng như cái nơm úp chụp nhanh hết sức. Màng lưới khói này chính là khói thuốc tê, thuốc độc, thuốc mê đủ thứ, người vật chạm phải, ngất liền, không cần hít phải, chất tê, mê này công kích ngay vào tim gan tạng như qua lỗ chân lông, khiến lá gan khép lại...

          Rất may cho Võ Minh Thần, nhờ sức bắn mình nhanh, nên vừa vọt chếch dưới, thì màng lưới khói bắn xong vừa tới, sạt trốc đầu, mấy vệt trúng mặt khiên cháy thốc, con beo đen lơ lửng dưới chân Võ, cùng thoát khỏi.

          Màng lưới chụp xuống hốc đá không. Có tiếng Giao Long thét:

          - Bắn!

          Lập tức hàng loạt tên lửa bắn xé không gian, kẻ từng vệt sáng vù vù trong gió, ngay khi Võ Minh Thần lạng vun vút hạ xuống. Võ Minh Thần còn lao đi quãng nữa mới hạ xuống, lẹ chân vừa hạ, lại một tấm lưới khác quăng chụp. Lẹ như con cắt, Võ Minh Thần đã vọt cái nữa, lần này chàng trai cũng lao khỏi tầm lưới, nhưng không quay tròn nữa, chàng xoay nghiêng về phía hồ, hé mở mặt trước, khép mặt sau, chĩa mũi dù súng ra bắn "tặc tặc" ngay khi còn lơ lửng trên không.

          Ánh lửa vật vờ soi thoáng mấy bóng thủy quái ngã vật xuống, "chát chát" hàng mớ tên lửa vãi trúng vỏ sò, có mũi trúng kẽ sau cắm vào lưng Võ, cháy ngùn ngụt, khiến chàng trai phải vùng mình đẩy rụng, nhờ giáp dày không hề chi.

          Như con diều hâu, Võ ôm quỷ nữ hạ chân xuống chỗ mấy con quái vừa ngã, lập tức ngồi thụp xuống, rê mũi súng dù theo hình cung giương, lại hạ luôn mấy bóng nữa. Giao Long chúa từ sau mỏm đá vọt đuổi theo tung lưới không ngờ Võ lại bắn nhanh đến thế, nó vừa vọt ra đã bị luôn một phát trúng, bật ngửa ra đằng sau, choáng váng, nhưng da dày như mặt giáp, không thủng.

          - À, tên mặt trắng giỏi! Gia nô đâu! Chớ để nó thoát, vòng thứ hai đâu, khép lại!

          Con beo đen vừa chồm tới đã bị một mũi tên lửa sượt mông sau, cháy ít lông, may không sâu. Võ Minh Thần lúc đó đã chọc thủng vòng vây, cả mừng phất tay ra hiệu cho con beo rống lên, phóng xẹt ngang ra bờ hồ, vừa gặp mặt con Giao Long nhảy lên, con beo gầm lên phóng tới tát, cắn đẩy thốc con quái lăn tòm xuống hang.

          Thấy beo đen đã xuống hồ, Võ Minh Thần yên tâm chút, vừa phóng được mấy thước bỗng nghe "đùng" tiếng nổ như ống lệnh, nhìn mấy phía đã thấy lố nhố bóng quái, ngay trước mặt lại một hàng Giao Long mồm ngậm đuốc tay cầm cung tên giáo mác nhúng lửa bắn tới tấp như người bắn. Xa xa lại có hàng bầy quái thú vừa từ dưới hồ vọt lên, kêu hú vang âm, hàng loạt xông tới hung dữ hết sức.

          Võ Minh Thần rúng động tâm thần, ngạc nhiên lẩm bẩm:

          - Ôi lạ dữ chưa? Thủy quái ở đâu hiện lên nhiều thế này? Vừa giờ hồ nước vắng vẻ, chỉ có Giao Long thuyền tinh chúa, sao nay lố nhố như rươi? Con tinh này có tài "rắc đậu thành binh" chắc? Bực thật, phải chi cô gái quỷ này đừng ương gàn, chịu để ta cõng lên vai, "vanh" khiên được, có ngại gì lũ quái đông đàn? Phải vượt mau, không cho nó khép vòng vây lại mới được.

          Bèn khoác khiên kép, xốc quỷ nữ chạy vụt về nẻo bờ Nam hồ. Khu rừng này thưa, gò đống bờ bụi rải rác, bỗng nghe tiếng Giao Long chúa hét lê thê:

          - Chớ để nó chạy thoát! Bắt sống!

          Bầy Giao Long lớn nhỏ vừa bắn tên lửa, vừa quăng khúc rượt theo, phía trước, bầy quái xông tới dưới ánh lửa chập chờn, cảnh tượng coi hết sức quái đản.

          Thình lình giữa đêm rừng khuya, có tiếng cười the thé ma âm, tiếng tựa dùi xiên lỗ tai người vật:

          - Hà! Hú hú...! Con thuồng luồng tinh đây rồi! Hà hú! Mười bảy năm liền, mi chui rúc hang ổ vũng nước sông hồ nào, cô tìm không thấy! Hà hà!

          Tiếng cười cực kỳ quái gở, rõ tiếng đàn bà, khiến Võ Minh Thần không khỏi ngạc nhiên, vội đảo mắt nhìn quanh, bỗng giật mình thấy một hình thù quái đản cao như cây nêu lơ lửng đi giữa hồ, hình thù in trên nền trời trăng mờ, hai cái cẳng lêu nghêu như hai cây sào, phần trên coi như bướm trắng to đậu chập chờn, theo tiếng hét lê thê, hình thù phi phàm đi vào bờ đông, mỗi bước chân dài hàng chục thước, loáng cái nó đã đứng lù lù cách bờ chừng vài sải sau lưng bầy thủy quái đang chặn bắn Võ Minh Thần. Lúc này, Võ đã đi khỏi khu ghềnh triền xế ngang chỗ gặp Giao Long thuyền hơn trăm thước, chàng trai vừa tới ngọn gò, thì hình thù quái gở sịch tới, cách gò khoảng vài mươi bộ, ánh lửa đuốc soi bắt nham nhở, chàng trai chỉ thấy hai ống cẳng hình thù kia là hai ống xương trắng hếu, còn cái mình vẫn chưa nhận ra giống gì, chỉ thấy phất phới như vật chi đang vỗ cánh.

          Chợt nghe hình thù phát ra một tràng hú vang âm, Võ đứng khựng lại, hé mép khiên dòm chừng, bỗng lúc này mới để ý thấy trốc đầu hình thù có một đàn dơi bay rợp trời như một vầng mây đặc, có con to như con heo giống, cánh giang rộng như cái chiếu manh, dài hơn thước, nanh nhe trắng, mắt đỏ khé coi dễ sợ. Bốn con ngậm một mảnh lụa trắng như cái tàn che cho hình thù.

          Võ Minh Thần còn đang kinh dị chưa rõ giống quái chi, bỗng lại thấy hình bướm kia vùng một cái cất vụt mình lên, hai ống cẳng thu ngắn lại bằng hai thước, mãi lúc đó, Võ mới trông rõ hình thù.

          Đó là một bóng đàn bà đứng trên hai ổng cẳng xương trắng hếu, xiêm y phất phới lòa xòa như cô tiên nhưng ngó qua bộ mặt người bạo gan cũng phát rùng mình, vì... mớ tóc dài lê thê bay phần phật như đợt sóng sau lưng, có khi bay cả về đằng trước xoắn mấy vòng quanh mình như con trăn gió, cái mặt đàn bà đẹp dị thường, mày xếch, mắt dài như lưỡi kiếm, mũi dọc dừa, môi đỏ chót như máu, hàm răng đều như ngọc vụn, da ngà, cổ cao ba ngấn...! Thiếu phụ coi trạc ba mươi tuổi chập chờn nhan sắc hồ ly dưới vùng sáng lửa vật vờ hồ sương, coi trắng đẹp đến rởn óc.

          Từ hình thù dị nữ phát ra một luồng gió lạ như xoáy trôn ốc quanh mình.

          Chàng tuổi trẻ còn đang ngạc nhiên chưa biết hình âm nữ hay quái nữ đã thấy đàn dơi phát kêu chí chóe nhất loạt sà xuống cắn táp lũ Giao Long. Dị nữ khua cẳng xương, lêu nghêu, bầy Giao Long trấn dọc bờ hồ này quay lại bắn dị nữ cùng đàn dơi, dị nữ cười ré lên, thò tay vừa gạt tên lửa, vừa đá lia ống cẳng, từ dưới hồ bỗng thấy nước bắn tung tóe, hàng trăm ngàn con rắn phóng ào lên hai ống cẳng xương, có hai con rắn quấn khúc bắn mình phun phì, phồng mang mổ. Dị nữ sịch tới bên bờ, bầy Giao Long kia vụt chạy tứ tán, gạt mấy phía, dị nữ lắc mình một cái đã bước vụt lên bờ, đứng sừng sững, cao như con sào gạt ngang ngọn gò. Thấy hình thù quái nữ ngất nghểu, Võ nhè nhẹ lùi ẩn sau tàn cây, kiếm đường rút, sực thấy quái nữ dòm thẳng ngọn gò cười the thé:

          - À có "con sò" bị con tinh đuổi bắt! Sò đực sò cái? Hè hè! Con tinh thuồng luồng vây bắt, chắc phải sò huyết ngon... lại cô xem! Lại cô xem!

          Quái nữ đưa tay vẫy. Lúc này đàn dơi đã đánh lũ Giao Long chạy dạt khá xa, ánh lửa mờ nhiều. Giữa vùng trăng mờ, hai con mắt quái nữ xanh biếc long lanh coi càng ghê, Võ Minh Thần thấy lộ, chưa kịp cử động, đã thấy quái nữ lắc mình một cái, bước vụt lên gò, mỗi bước dài năm, bảy bộ. Quái nữ khom mình vẫy, dòm cười ré:

          - Sò huyết! Mở coi! Mở cô coi! Hé hé!

          Võ hé mép khiên, rào cơn gió, mùi thơm hăng hắc như hắc hương phả vào mũi Võ, khiến chàng trai muốn mọc ốc vì sức cuốn hút phi phàm. Võ buông quỷ nữ lùi lại, phóng vụt xuống chân gò Tây Nam.

          Nào dè vừa tới chân gò, đã thấy quái nữ sịch chặn ngay trước mặt. Đang tháo vây, lại bị gái ám, Võ Minh Thần cả giận, mở rộng mép khiên quát:

          - Người đàn bà ma quái này! Sao cứ cản đường người ta? Dang ra, không mỗ bắn à! Quái nữ cười ré lên như thủy tinh vỡ:

          - À! Tiếng Thổ như chuông đồng! Điêu thử! Hầu lửa nương nương!

          Võ Minh Thần ngơ ngác chưa biết người đàn bà quái định làm gì bỗng thấy mấy con dơi kêu chí chóe từ trên không bay sà xuống mấy phía quắp tha luôn mấy bó đuốc Giao Long đánh rớt còn cháy lập lòe bay vù cả lên gò. Cứ hai con ngậm một cây đuốc, thay phiên nhau lượn trốc đầu Võ như đèn cù.

          Con nào cũng to như con heo giống, quạt cánh phành phạch, ngọn lửa vù vù kéo dài chập chờn hắt xuống chỗ Minh Thần. Tưởng chúng định mổ, Võ toan bắn, nhưng chúng chỉ tha lửa bay lượn lại thôi, nhất thời chẳng hiểu chi, Võ mở hé mép khiên, dòm quái nữ, dòm Giao Long chúa phía sau, chẳng thấy đâu, bỗng nghe quái nữ cười thé lảnh:

          - Hà há! Trai điển! Trai điển bế con gái xấu như quỷ! Không bế gái đẹp! Trai điển!

          Ném con gái xấu xí đó cho thuồng luồng ăn thịt, về động chơi với ta! Hé hé! Quăng nó đi lại bồng ta, ta bồng...!

          Dơi bay qua, ánh lửa hắt soi vào mặt sáng rực, lúc đó chàng trai mới hay nó ngậm đuốc chiếu mặt mình cho quái nữ dòm.

          - Người đàn bà đẹp như yêu tinh, nhất định chẳng phải gái thiện lương, phía này bầy quái nước đã tứ tán, ta nên thừa cơ đem cô gái quỷ này thoát khỏi là hơn.

          Bèn khép luôn mép khiên lao xéo về phía Nam, nơi không thấy bóng Giao Long. Nào dè, mấy con dơi lớn vẫn tha đuốc bay vù trốc đầu, xuyên dưới tàn cây, được vài mươi bộ, Võ Minh Thần ngoái cổ lại dòm không thấy bóng quái nữ cả mừng lại băng người đi.

          Bỗng "cạch", "hé" có tiếng cười thé nhọn trước mặt, Võ trông ra đã thấy người đàn bà quái đứng lêu nghêu chạm tàn cây cao, cách chàng chừng mươi lăm bộ, quanh mình đầy dơi, ánh đuốc bay vù vù trước mặt.

          - Trai điển đi đâu? Đứng ta hỏi đã, khỏi sợ Giao Long nó đuổi! Hà hà! Bế con nhỏ nào đó? Vợ?

          Võ Minh Thần đảo mắt nhìn khắp vùng hồ Ba Bể, canh khuya yên lặng, lúc này bỗng bầy Giao Long vụt biến đâu, ánh lửa cũng tắt ngấm. Chàng trai không muốn gây chiến vô ích, vội bảo quái nữ:

          - Người này bị yếm khí Giao Long, mỗ đi qua cứu nàng! Chẳng phải vợ con gì đâu! Nàng bị tà khí, cần phải chạy chữa!

          Dứt lời, vọt đi luôn chếch hướng Đông Nam, nào ngờ quái nữ chỉ lắc mình nhẹ cái khua ống cẳng xương xẩu đã vượt hàng chục thước, hạ thấp càng vài sải khom mình dòm Võ cười the thé, đàn dơi bay ào ào quanh mình, lửa kéo dài ngoằng.

          Nhờ quái nữ đứng gần, lúc này Võ mới thấy rõ hẳn đó là một thiếu phụ, khoác áo lòa xòa, hai ống cẳng chính là cặp "cà kheo" bằng ống xương người ghép từng đoạn, có thể kéo dài, thu ngắn nhanh như chớp, quái nữ đi "cà kheo" tự nhiên như đi giày vậy. Và càng nhìn gần, càng thấy rõ diện mạo, khuôn dáng, hai con mắt xanh biếc, cặp môi đỏ mọng như nhuộm máu tươi, quái nữ tiết ra thứ mùi da thịt có sức quyến rũ đến nổi da gà.

          - Trai điển đi đâu vội? Giao Long nó sợ cô, trốn xuống đáy hồ rồi. Trai điển về động với cô! Hé hé! Cô chưa gặp đứa con trai nào đẹp như chàng.

          Võ Minh Thần thu mình bồng quỷ nữ trong lòng khiên kép, chưa kịp phát cử động nào bỗng thấy đàn dơi kêu chí chóe, quái nữ phất tay hú lên mấy tiếng, ngang sườn tả chợt có tiếng âm trầm rờn rợn vang lên:

          - Con đàn bà Hấp Huyết quỷ kia! Tưởng mi đã trốn tận xó rừng nào, kiếm ăn phương khác, sao còn dám lần mò đến đây nữa! Trận đòn suýt chết năm xưa trên hồ Ba Bể này, mi đã quên sao? Quỷ cà kheo!

          Võ Minh Thần giật mình ngoảnh trông sang hơn ba mươi sải, Giao Long chúa đứng lù lù, hai con mắt chiếu tia đỏ khé, xế hai bên phía sau, có hai con Giao Long cầm hai cái đinh ba sáng quắc coi như hai cái chĩa, mỗi con mồm ngậm hai cây đuốc lập lòe, nhưng ngọn lửa này xanh lè tựa lân tinh.

          Ba tiếng "Hấp huyết quỷ" khiến Võ động lòng sực nhớ, khi rời Mười Vạn Núi Vân Nam, chúa lạc thảo Thần Xạ có cho biết qua một số cao thủ ma nữ quái nhân quái đản, có nhắc đến tên quái nữ này, người đàn bà chuyên hút máu người máu dơi, thú điểu, bản lãnh lợi hại, lại có ma thuật khôn lường, đặc biệt thích nhất con trai con gái đẹp, đàn bà chửa con so! Trai thanh gái lịch gặp nàng là một tai họa.

          Võ hoành thân, nhìn Hấp Huyết quỷ nương, người đàn bà cười thét:

          - Con tinh thuồng luồng! Ta tìm mi đúng một con giáp rưỡi rồi, đêm nay mới gặp. Năm xưa con thuồng luồng ỷ đông đầy tớ, một con giáp rưỡi rồi, quyền phép cô không như xưa, cô tưởng thuồng luồng chết dưới vụng nước nào rồi.

          Giao Long chúa lắc lư cái đầu phát âm:

          - Quỷ cà kheo uống máu tu luyện, Giao Long thần trải xuân thu nhật nguyệt, không linh hiển thêm sao? Tìm chúa hồ làm gì?

          - Báo trận năm xưa, đòi lại cái vòng xanh lọt vào tay mi và mời trai điển kia về động Thượng Lào!

          Võ Minh Thần lại một phen giật mình nghĩ thầm:

          - Lại cũng cái vòng xanh! Lạ thật! Thiên hạ võ lâm quái khách đi tranh kiếm vòng xanh, yêu nữ, thuồng luồng tinh cũng kiếm vòng! Chẳng rõ nó chứa đựng điều chi kỳ bí quan hệ mà cả thiên hạ người vật và yêu đều để ý đến thế? Tức thật! Không mắc cứu gái quỷ, ta quyết tìm cho ra lẽ.

          Đang ngẫm nghĩ, sực nghĩ tới Quản Kình, Võ vội hú lên một tràng vang động vùng hồ nước, bỗng nghe văng vẳng có tiếng hú đáp vọng mơ hồ xa xôi tít nẻo Tây Nam hồ, nhưng cả phía đó bị Hập huyết cà kheo đứng án ngữ, phía tả, đông lại mắc Giao Long. Võ Minh Thần chưa tính vọt ngả nào cho tiện, sực nghe Giao Long chúa quát trầm:

          - Mi muốn vòng, đi kiếm mụ Mán Tiền năm đó! Muốn nộp mình, đợi chúa hồ bắt hai đứa nhỏ kia đã! Hai con mồi này chúa hồ đang săn đuổi!

          Dứt lời, lẹ như chớp, Giao Long chúa lắc xẹt mình tới, còn cách hơn mười thước, nó quay vòng chân trước, Võ thoáng thấy vật loằng ngoằng đỏ, biết ngay nó sắp quăng "lưới thần" lập tức khép khiên, chạy vụt trở lại hướng Bắc.

          Võ vừa chuyển dịch, quỷ cà kheo đã bước vụt xẹt tới trước chàng chặn Giao Long, tranh mồi:

          - Trai điển của cô! Tinh thuồng luồng không được động tới!

          Giao Long chúa nổi giận tiện tay quăng vút tấm lưới đỏ, Võ Minh Thần vọt đi mười sải ngoái lại dòm thấy dưới vùng lửa biếc, tấm lưới chụp nghiến lấy quỷ cà kheo. Quỷ nương cười ré lên, cứ đứng cho lưới chụp. Chàng trai lại phóng đi, được một quãng bỗng nghe tiếng gọi the thé, âm âm:

          - Trai điển chạy đâu?

          - Mặt trắng! Vòng vây còn đó, mi muốn trốn sao thoát! Hà hà!

          Võ ngoái trông lại, thấy quỷ nương đi cà kheo tha cả tấm lưới đỏ, rượt theo. Giao Long chúa vọt sau, tay giật lưới, coi quái gở hết sức.

          "Bùng" tiếng như ống lệnh, trông ra vòng vây quái đã lù lù, lửa cháy lập lòe, Giao Long lố nhố dàn bốn phía. Thực ra, nếu độc hành với khiên kép, Võ bất chấp quân đông, bắn túa, nhưng giờ mắc bồng quỷ nữ không "vanh" khiên được, phải lao chạy, Võ nghĩ ngại trúng quỷ nữ, chàng trai phải khép khiên phía trước mặt, dùng thuật khinh thân lướt đi thật nhanh, bất thần, chạy xé về hướng Đông.

          Được một quãng, dòm lại đã thấy Quỷ Nương hất tung được lưới, cười the thé, rượt theo. Xế ngang, lại thêm Giao Long chúa, lắc lư ngất nghểu đi như gió. Võ Minh Thần lại ngoắt về hướng Tây chếch, định ý tới gần bầy quái, sẽ chạy dọc, chọc thẳng, nhảy lên ghềnh Bắc, theo triền chạy.

          Quỷ Nương, Giao Long rượt bén vẫn còn cách hàng bốn mươi, năm mươi bộ, không ngờ khi Võ chạy tới dọc bờ hồ, vọt đi phía Bắc. Quỷ Nương rượt theo trông ngay thấy chiếc bóng Giao Long thuyền lơ lửng ngoài hồ, cách ngót một trăm sải, lúc đó khói mù tan loãng, nét Giao Long thuyền như vẽ vào nền trời nước trăng sương. Quỷ Nương vùng cười ré lên, trỏ ra, hét:

          - Thuyền tình kia rồi! Hé hé! Thì ra đêm nay con tinh cưỡi thuyền tình đi chơi! Hé hé!

          "Công chúa Tây Bắc" có dưới thuyền không?

          Dứt tiếng hét, Quỷ Nương hú một tràng, xua bầy dơi quái, rắn độc ào ào vọt luôn xuống, phóng ra chỗ Giao Long thuyền lơ lửng xa xa, hai cái cà kheo lội nước bì bõm, cứ một bước sâu thêm lại nhô thêm một tấc, thoắt Quỷ Nương đã lần ra khỏi bờ vài mươi sải, bỏ mặc Võ chạy.

          Bỗng có tiếng Giao Long hú, "bùng", "bùng" dưới hồ liền hai tiếng nổ, khói mù lập tức che kín Giao Long thuyền, Võ Minh Thần đã tới trước lũ Giao Long vây, lập tức chĩa súng bắn lia, bầy quái xúm vào xạ tiễn, từ khắp bờ bụi, triền núi, dưới hồ vọt ra rất đông, bao phủ lấy Võ. Phía sau, Giao Long chúa rượt theo bén gót.

          Biết bắn không kịp, Võ Minh Thần khoác luôn dù, dùng tay trái cắp bồng quỷ nữ, tay phải thò ra ngoài vành khiên hé, vận điện công, chém "véo véo" quanh mình, vừa chém vừa nhảy phăng vào đám thủy quái.

          Sức Võ khỏe như con cọp, mỗi đường dao lia, hai, ba con quái nước bị trúng đòn, lìa mình, đứt đầu, tróc da, nhưng bầy quái này hết sức hung tợn, cứ lăn xả vào vồ, bắn "xoang xoảng" cả vào.

          Võ Minh Thần đánh dạt được lớp này, lớp kia đã tới. Kịp khi tới được gần triền núi, trông lại, Giao Long chúa đã vọt tới, song song với người đàn bà đi theo.

          - Nhỏ kia! Đừng hòng thoát khỏi miền sơn thủy này! Vây cho chặt! Chúa hồ bắt sống nó!

          Hình thù quái đản lắc lư lao vùn vụt theo tiếng thét âm âm, coi như mũi dao ma. Võ Minh Thần mấy phía thọ địch, lại mắc bồng cô gái quỷ, xoay trở tung hoành không tiện, trong cơn nguy khốn, chàng trai tựa lưng vào một thân cây khá lớn, đảo mắt nhìn quanh, bỗng thấy trên triền nhô lên hàng bầy quái nước nữa, lòng thêm kinh ngạc, tay trái bồng gái quỷ, tay phải khoa tít ngọn liễu đao, vừa chém tên lửa vừa chém quái, mở đường định nhảy lên triền, may sao phía bờ hồ, chợt có người đàn bà đi theo vùng cười ré lên nhọn sắc, phất "phạch" tay áo đánh ra một ngọn kình phong.

          - Giao Long thuyền... Hà há...! Của quý kia rồi! Thuồng luồng! Cô nhường trai điển cho đó! Cô xuống Giao Long thuyền... Hà há!

          Tiếng cười thủy tinh vỡ bốc cao vờn màng tai. Giao Long chúa vừa đánh bật kình phong đã thấy đàn dơi dơi ào ào đáp xuống như rươi, quái nữ lắc mình một cái, đã bước qua đầu một lũ thủy quái trấn bờ lội tõm xuống hồ, lêu nghêu đi ra phía Giao Long thuyền lơ lửng ngoài xa. Giao Long chúa đảo vụt cái đầu hà mõm đỏ, phun phì ra một luồng huyết khí, đánh bạt dơi rụng lả tả, nó vùng rống lên giận dữ kinh người:

          - Quỷ cà kheo không được phạm thuyền bà chúa! Gia nô! Khói ẩn! Không cho con đàn bà Hấp huyết tới gần thuyền.

          Lời dứt, Giao Long chúa đã quăng mình qua bầy dơi, xua thủy quái ào tới chỗ Võ Minh Thần nhưng chàng trai đã theo đường dao chém cắp cô gái quỷ nhảy vọt lên triền núi, tên bắn loảng xoảng vào mặt khiên, lửa rơi lả tả cháy lá xám cỏ. Hàng chục con quái kéo tới chặn trước mặt bên hông, con dùng giáo con dùng cung tên vuốt sắt, tấn công. Võ Minh Thần xoay một vòng, vừa chém đứt mấy ngọn giáo, cây súng, sấn thốc vào lũ quái, bỗng nghe tiếng "véo" sau lưng, Võ hé khiên, thấy Giao Long chúa vừa vọt lên vừa quăng tấm lưới ma úp chụp, lẹ như chớp, chàng trai nhảy luôn sang một mỏm đá bên hữu cách bảy, tám thước.

          Nào dè, Giao Long chúa chỉ chờ có thế, Võ vừa nhảy vọt ra khỏi miệng lưới nó đã dùng chân kia thảy vút ra một lưỡi tầm sét bằng nửa bàn tay, cán chỉ dài hai gang, đúng lúc Võ đang lơ lửng hạ chân xuống. "Chát"! tiếng, tóe lửa, lưỡi tầm sét quật trúng vành khiên, trườn vào theo ánh lửa nhánh, chém "chát" nhát nữa trúng lưng Võ. Sức búa đi nặng kinh hồn liếm bay miếng mép khiên. Nhờ vậy, sức mạng giảm đi khá nhiều, nhưng chàng trai trẻ tuổi vụt có cảm giác như bị một trái núi quật vào khiên giáp, rúng động châu thân, lưng như bị sức tạ chầy vồ nện "hự" bay đi ngót hai bộ, sa xuống một mỏm đá thấp hơn. May có mặc mấy lấm giáp Thập Vạn Đại Sơn, búa chém không thủng suốt, nhưng chỗ đó cũng bị lõm sát da thịt, chàng trai choáng váng ngồi thụp ngay xuống xoay mình dòm lên, vừa kịp thấy một luồng sáng từ trên xả xuống, chàng trai vội vung khiên hất "chát" lên, bật lưỡi búa lại mấy bộ, cánh tay, vai cũng bị chấn động hẳn. Bất giác giật mình nghĩ thầm:

          - Trời! Không ngờ con thuồng luồng này lại có sức phi phàm ghê gớm đến thế! Mắc cắp cô gái quỷ này, khó bề chiến đấu, không cửa thoát nạn, nguy cả hai như chơi!

          Ý nghĩ vừa dứt, đã nhác thấy bóng Giao Long tay lưới tay búa hạ xuống cách chừng mươi sải, mấy phía quái kéo tới như rươi, Võ chém xả luôn một đường liễu dao về phía Giao Long, Giao Long quăng tầm sét gạt "chát", Võ đã thừa cơ chém nhầu nhát nữa, nhảy vèo xuống chân triền. Giao Long chúa lẹ như chớp chém xả lắc mình vọt theo.

          Võ khép khiên đỡ "chát", chân vừa hạ xuống đất, đã bị Giao Long chúa thò vuốt chụp "véo"! Cách non mươi bộ, từ chân vuốt con tinh vút ra một luồng huyết khí hệt bàn chân vuốt, chụp trúng vành khiên "xoảng", vuốt huyết kéo dài lách qua hai mép khiên úp, vồ "chát" vào lưng Võ Minh Thần. Chàng trai thấy nhói như bị kiến đốt, ong châm, vội xoay mình lại, chém xả một nhát rồi vận sức khinh thân, phóng mình đi như tên bắn.

          Giao Long chúa vừa toan vọt đuổi, bỗng về phía hồ, có nhiều tiếng hú lê thê, tiếp theo hàng loạt tiếng "bùng bùng" như ống lệnh nổ, một vùng hồ nước khói tỏa mù mịt đen ngòm không còn thấy hình Giao Long thuyền đâu nữa, chỉ thấy từng lũ hình thủy quái trong khói mù xông ra vùng vẫy, nước bắn tung tóe, nhất loạt cản người đàn bà đi kheo lại.

          Quỷ Nương Hấp Huyết cười the thé, chỉ thấy mụ quái nữ lắc lư hình thù mấy cái, đã đánh bạt cả bầy thủy quái ra xa, lao vút vào đám khói đang tỏa rộng.

          Hình cà kheo vừa khuất, bầy dơi cũng nhất loạt bay theo vào khói, lập tức, từ trong đám khói đen, chợt có tiếng sáo véo von vọng ra, nổi chìm quái gở nghe không khác tiếng ma kêu quỷ khóc trong sương mờ trăng lạnh. Giao Long thần đảo mắt dòm ra phía khói mù, vừa nghe tiếng sáo nổi, vùng ré lên vang động:

          - Quỷ cà kheo lộng sáo mê hồn! Gia nô đâu! Tấu nhạc! Cà kheo! Không được phạm long thuyền.

          Dứt lời Giao Long chúa xoay mình lao vọt ra ngoài hồ, một bầy thủy quái đổ tới vây Võ Minh Thần. Thấy con tinh lợi hại bỏ đi, Võ không khỏi mừng thầm, lập tức cắp chặt cô gái quỷ đeo khiên kép chạy thẳng về phía Đông Nam sấn vào lũ quái nước chém lia lịa.

          Bầy quái phía này khá đông, nhưng không sao cản nổi, chỉ một loáng mắt, chàng tuổi trẻ đã nương đường dao chém khiên che, vượt qua vùng tên giáo thủy quái, lao như gió ra khỏi "vùng tử địa". Ngoảnh trông lại thấy ánh lửa xa dần, Võ bỗng chột lòng, nghe văng vẳng từ dưới hồ có tiếng âm âm chờn vờn đuổi theo ma quái:

          - Nhỏ con! Mi bị đòn Giao Long chúa rồi...! Hà hà! Không thoát đâu! Mi phải đến nộp mình.... Không ai chữa nổi! Hà hà! Không nộp mình, mi sẽ thành...

          Tiếng xa hút dần, lắng nghe không rõ mấy tiếng cuối là gì, Võ Minh Thần vọt lên một ngọn gò cao dòm lại, chỉ thấy nhiều đốm lửa chập chờn lùi xa hút ra phía hồ nước, dưới trăng sương. Không còn bóng nào đuổi theo nữa, mừng rỡ Võ cắm cổ chạy xuyên thung bờ phóng một mạch về phía Đông Nam hồ, khu có con đường chạy về Bắc Kạn. Gần tới chỗ buộc ngựa,Võ thấy bốn bế im ắng, bèn hú lên mấy tiếng.

          Bỗng nghe có tiếng hú vọng ngoài bờ hồ, sau lưng, rồi Quản Kình từ trong bóng cây vọt ra, quần áo ướt như chuột. Thấy tiểu chủ, Kình nói luôn, mặt chưa dứt vẻ kinh sợ:

          - Cậu hai! Trời! Ghê dữ à! Thuyền ma thuyền quái! Suýt tôi bị mắc lưới! Cậu hai... không sao chớ? Mà...

          - Cô gái quỷ bị đòn tinh! Lấy ngựa mau!


          Hai thầy trò chạy về chỗ buộc ngựa. Nhảy vọt lên yên, Võ Minh Thần hỏi nhanh:

          - Sao... dưới Giao Long thuyền?

          - Im lặng như thuyền ma! Tôi đã vọt được lên mạn, không ngờ bị hất bắn lộn xuống.

          Khói mịt mù chỉ thấy bóng thuồng luồng.

          - Lạ thật! Rõ ràng có tiếng đàn bà thánh thót trong khoang lại có cả tiếng xiềng khua...

          Quỷ nữ cà kheo xông tới con thuyền hình như tìm món chi bí mật? Cơ hội ngàn vàng bỏ qua uổng, chú Quản Kình à! Chú cứ đem cô gái quỷ này về Bắc Kạn trước.

          Dứt lời, không đợi Quản Kình kịp đáp, Võ xẹt tới, trao luôn cô gái quỷ cho y và lập tức giật cương, phi như gió trở lại chỗ gặp Giao Long. Nhưng lạ thay! Bốn bề im vắng hết sức, không tiếng động, không một bóng người vật. Võ Minh Thần vọt lên ngọn gò, đưa mắt dòm tứ phía.

          Chỉ thấy một vùng thung bờ quạnh quẽ cây rừng rủ bóng dưới trăng vơi, sương mù vương vất, côn trùng rền rĩ khóc than, gió thổi rì rào, vài tiếng chim khắc khảm bâng khuâng rã rời từ hai bên ngọn núi rớt xuống buồn tênh, dưới hồ Ba Bể cũng chỉ thấy sương trắng từng dải trôi trên mặt nước lăn tăn, gió đêm lùa lau lách đìu hiu... Không một bóng sinh vật.

          Tất cả như đã rơi vào... ảo giác... Giao Long chúa, bầy thủy quái, người đàn bà đi kheo, Giao Long thuyền... Cảnh hỗn loạn ghê người vừa qua như đã ngấm cả vào trăng sương, không còn chút di tích, kể cả những bóng dơi dơi, thuồng luồng bị chém gục bên những thoi lửa lập lòe giờ vùng biên đâu mất, không khác những hình thù từ cõi âm hiện lên lại về âm mất dạng.

          Nhưng! Mơ hồ trong hơi gió đêm khuya hình như có tiếng véo von nổi chìm chờn vờn, tiếng sáo hồi nãy Võ từng được nghe, âm thanh phi phàm đứt nối, thực hư, tấu lên những cung kỳ lạ chưa hề nghe trên trần. Rõ ràng từ nẻo Tây Bắc vọng sang mà lại xa xăm rõ dị như tận cõi nào "ảm" về tai chàng trai tuổi trẻ.

          Võ Minh Thần nghiêng đầu lắng nghe, mắt nhìn ra mặt hồ trăng vơi, bỗng càng thêm bàng hoàng, nhận rõ âm thanh phi phàm đàn sáo càng lúc càng như dâng lên mãi, bồng bềnh theo hơi sương lên tân trời cao vời vợi, rồi hút chìm. Khiến chàng tuổi trẻ có cảm tưởng như vừa trải qua cơn ảo giác, nhưng khi sờ mó mặt khiên, sờ lưng giáp, vết lửa sém, búa chém, dao đâm, đạm xói vẫn in hằn dấu vết, chàng trai càng thấy lạ, động trí tò mò thêm. Bèn đảo ngựa một vòng tìm kiếm, chẳng thấy gì khác. Võ Minh Thần đành giục ngựa bỏ đi, lần về phía đường Bắc Kạn

          * * *

          Thung lũng đồi núi nằm bằn bặt dưới trăng sương. Bốn bề quạnh vắng, chỉ có tiếng chim khảm khắc bâng khuâng rời ra kêu thương. Võ Minh Thần cho ngựa chạy kiệu băm trên đường quanh co, đưa mắt nhìn quanh không thấy Quản Kình đâu, bèn che khum tay quanh miệng hú lên mấy tiếng.

          Tiếng hú vang âm rừng khuya, nhưng chẳng nghe thấy tiếng hú đáp. Ngạc nhiên, Võ vội gia tăng nước ngựa, vừa vượt qua một khúc quẹo, bỗng nghe tiếng thú dữ gầm gừ lẫn tiếng ngựa hí, người quát, rõ giọng Quản Kình. Cả mừng Võ gọi lớn:

          - Phải chú Quản đó không?

          Có tiếng đáp vọng phía tả đường. Võ vội phóng vào, thấy Quản Kình đang bị con beo đen rượt vồ dưới bóng cây loang lổ. Quản Kình vừa dùng khiên đỡ, vừa nạt, thấy bóng Võ mừng rỡ kêu lên. Võ nhận ra ngay con beo đen của cô gái quỷ, vội xông tới đón đầu quát: - Beo đen! Không được làm dữ, người nhà ta đó!

          Lạ thay, đang nổi hung gầm gừ vồ chụp, sực thấy bóng Võ, nó nhận ra liền, lập tức ve vẩy đuôi đứng yên, kêu khe khẽ, lông còn ướt nước hồ. Quản Kình tiến lại bên chủ thở phào nhăn mặt:

          - Con quái này bị què chân sau còn nhanh dữ à! Nó đi theo tôi từ lúc nào không biết, bất thần nó nhảy từ chạng ba xuống suýt tát trúng mặt tôi! May tôi kịp nhận ra lông ướt, nếu không đã nổ súng rồi.

          Võ Minh Thần giục:

          - Bầy thủy quái biến sạch đâu mất với mụ quái đi theo! Đây còn gần hồ, ta nên vượt thêm quãng nữa rồi sẽ liệu! Beo đen! Theo bọn ta!

          Hai thầy trò giục ngựa phi nhanh, beo đen tập tễnh theo sau, đi được mấy dặm nữa, bống gặp một quán nước bên đường, phên đóng kín, nhưng bên trong có ánh lửa le lói.

          Võ Minh Thần đang định giục ngựa đi chợt một luồng gió đêm thổi vù tới, thấy choáng váng cả mặt mày, trong mình hơi khó chịu khác thường, vội ra hiệu cho Quản Kình tạt vào quán gọi cửa. Người ra mở phên cửa là một lão Kinh lai Mán. Vừa thấy Quản Kình bồng cô gái quỷ vào, đã kêu lên sợ hãi:

          - Ôi chao! Quỷ dạ xoa! Dạ xoa đêm qua đã vào đây!...

          Võ Minh Thần chào lễ phép:

          - Nàng bị nạn, nhờ cụ cho nghỉ giây lát!

          Lão Kinh lai len lén dòm vẻ rờn rợn. Võ bảo Quản Kình đặt quỷ nữ xuống chõng tre. Con beo đen theo vào. Lão quán gây to bếp lửa, ánh sáng hắt soi vào bộ mặt nàng ta coi càng phát gớm, đến nỗi Quản Kình cũng phải nghi hoặc chẳng rõ người hay ma quỷ.

          Võ Minh Thần thọc ngón tay vào huyệt giải. Nhưng cô gái vẫn nằm bằn bặt. Mãi lúc đó Võ mới nhận rõ hình như da dẻ nàng có bọc một lớp chi khô cứng như nhựa sui. Muốn vạch áo coi, nhưng lại hiềm dầu sao nàng cũng là phái nữ. Võ nghĩ thầm:

          - Có lẽ nàng bọc kín huyệt cho khỏi liễm tà khí, độc công đây. Phía tim ăn sâu vào nách chắc vội, nàng quên bôi thuốc nhựa mới được.

          Bèn thọc tay vào yếu huyệt ấn mạnh. Quả nhiên cô gái quỷ thở phào một cái choàng mắt ra quát lớn:

          - Thuồng luồng tinh! Tao ăn thịt cả nòi giống mi, báo thù cho cha mẹ! Lôi phong hỏa kỳ của ta đâu?

          Võ đứng bên chõng dịu dàng dùng tiếng Thổ bảo:

          - Đây không phải hồ Ba Bể! Cô bị nạn Giao Long, cứu thoát tới đây. Giờ cô thấy trong mình ra sao?

          Như bị điện giật, cô gái quỷ bò nhỏm dậy, đảo lia mắt nhìn quanh, thấy ba khuôn mặt đàn ông, nàng ta vùng nhảy xuống đất, đưa tay sờ nắn khắp người, vẻ giận hoảng khác thường:

          - À! Lại tên con trai trắng mặt này! À! Ta nhớ rồi! Ta đang tử chiến với con thuồng luồng tinh, mi lừa điểm huyệt đem đi! Mi... mi đã phạm vào người ta! Tên khốn!

          Võ Minh Thần thấy cô gái quỷ vừa tỉnh đã nổi cơn mắng nhiếc, chàng trai rất lạ, nhưng vốn tốt nhịn, chỉ từ tốn bảo:

          - Cô nương bị con tinh đốt cả cờ, cô kiệt sức sắp bị nó ăn thịt, mỗ không thể đứng nhìn! Bọn mỗ chỉ cắp cô nương ngang nách, lấy khiên che, mở vòng vây, vừa chạy đến đây! Ôi chao! Cô nương biết đâu sau đó thủy quái kéo đến hàng đàn, bắn như mưa, lại có cả mụ quỷ nữ cà kheo xua dơi rắn độc rượt bắt nữa... may lắm mới thoát được đó!

          Cô gái dị nghe Võ bảo cắp nách, vừa đánh nhau vừa chạy tới, có vẻ yên lòng chút, nhưng lại nghe nói "bọn mỗ" nàng quay vụt dòm sang Quản Kình quắc mắt lớn tiếng:

          - Lại cả tên đàn ông thô bỉ này cũng cắp ta nữa sao? Mặt trắng khốn kiếp! Mi phạm người ta chưa đủ còn để cả tên thô bỉ cục cằn kia chạm đến nữa ư? Ai khiến mi? Trời! Đêm nay không giết được con tinh thuồng luồng, ta phải giết bọn mi! Quân đàn ông khốn nạn chỉ thừa nước đục thả câu đàn bà!

          Nàng hét lớn, mắt long sòng sọc khiến lão chủ quán thất kinh lùi vào một xó nhớn nhác. Quản Kình vốn tính trực, bị mắng không chịu nổi cũng trợn mắt nói lớn:

          - Lạ dữ chưa? Kình này sống trải bốn năm mươi tuổi đầu, chưa thấy ai kỳ dị như cô. Bị nạn sắp nguy lại sỉ vả người cứu mạng! Cô... cô là người hay ma?

          Quỷ nữ lúc này coi đã khá mạnh, vỗ khắp mình tìm khí giới, nhưng đã bị gãy tiêu hết vì móng vuốt Giao Long. Cô gái dị ngó quanh thấy trên vách có con dao quắm vùng nhảy lại chụp cầm tay hét:

          - Tên khốn! Ai cho mi chạm tới người ta? Im mồm! Ta chém chết!

          Võ Minh Thần đã biết tính khí khác thường của quỷ nữ, sợ Quản Kình không nhịn, vội bước tới đưa mắt cho y, bảo quỷ nữ:

          - Cô nương bình tâm! Y là người nhà mỗ, một lòng cứu nạn theo lệnh mỗ, cô nương có giận cứ trách mỗ đây! Nhưng hãy nên rời khỏi chốn này, nán lại có thể mang họa đó!

          Quỷ nữ lừ lừ, vùng kêu:

          - À! Mụ đi cà kheo! Đúng con mụ Hấp Huyết quỷ nương! Beo đen! Tới hồ Ba Bể!

          Dứt lời không chào, không cảm ơn, cô gái quỷ nhảy tót lên lưng beo vọt ra. Võ Minh Thần dòm theo bóng cô gái đi khuất sau bụi rậm, Quản Kình lại gần kêu:

          - Lạ dữ chưa! Gái đâu có gái ương gàn, nói nghe tức như bò đá! Mặt mũi xấu như Chung Vô Diệm, động mở mồm, chỉ sợ người ta ve! Bốn năm mươi tuổi, tới nay mới nghe lạ đời!

          - Quái gở! Thôi! Mặc nàng! Bọn ta đi!

          Nói xong chàng trai họ Võ và Kình bước ra khỏi quán. Hai con ngựa phi nước đại xuyên qua cây cối bờ bụi vùn vụt, cánh rừng này khá thưa, lại là khu có thổ dân khai phá rải rác, nên ngựa chạy không bị cây rậm, gai góc cản lối.

          Đi liền hàng chục dặm, nhìn lại phía hồ Ba Bể chỉ thấy một vùng quạnh quẽ đồi núi nằm im trong trăng vơi, hai thầy trò mới hạ nước ngựa chạy kiệu băm.

          Comment


          • #6
            Hồi Thứ Sáu



            Người Đẹp Hồng Cẩu Quẩy



            Đường khuya rong ruổi, lát sau vừa leo lên một ngọn đồi thưa, chợt một cơn gió rừng thổi vù vào mặt, Võ Minh Thần bỗng thấy tối tăm mặt mũi, lảo đảo muốn sụm xuống bờm ngựa. Hai tai ù hẳn, trong một thoáng giây, tiếng động rừng đêm như vụt lùi về cõi xa xăm nào, chàng tuổi trẻ chỉ kịp la lên một tiếng, rồi tứ chi bủn rủn, đồi núi đổ nhào, chàng tuổi trẻ lăn xuống chân ngựa.

            Bỗng nghe bên tai mơ hồ có tiếng ai gọi mình, giọng trong vắt thánh thót như suối đàn, rõ giọng đàn bà Kinh:

            -Minh Thần! Minh Thần! Tỉnh dậy mau! Chàng tuổi trẻ giật mình mở choàng mắt ra ngạc nhiên thấy mình ngồi trên lưng ngựa, trên ngọn đồi gió, dòm trước sau chẳng thấy Quản Kình đâu. Kinh ngạc, chàng trai vừa toan cất tiếng gọi, bỗng thấy từ đâu trôi đến một đám sương mù dày đặc, lơ lửng dừng lại ngay trước đầu ngựa cách khoảng năm, sáu thước. Trong đám sương mù bỗng có tiếng âm trầm phát ra thỏ thẻ như tiếng chim oanh:

            -Minh Thần! Mau tắt rừng đi lên hướng Cao Bằng! Tính mạng đang nguy, chỉ mấy chục giờ nữa sẽ lìa trần! Đi mau! Đi mau! Gần đây có đường xuyên sơn!

            Giật thót mình, chàng trai nghĩ ngay đến câu đe dọa của Giao Long chúa sau khi vồ trúng lưng chàng, chàng trai vùng kêu lên:

            -Bà... là ai... mà lại biết kẻ này lâm nguy?

            Vầng khói mù lừ lừ trôi lại gần thêm, tiếng đàn bà thánh thót vụt trở nên não nùng khôn xiết:

            -Minh Thần con ơi! Mẹ con đây! Mười bảy năm rồi, hồn oan nương theocây cao bóng mát sương gió canh khuya vật vờ trong cõi u minh, nghiệp chướng nặng nề, chưa thể siêu sinh. Mẫu tử tình thâm, thương con côi cút, mẹ dạt về báo tin dữ cho con hay! Mau lên thẳng Cao Bằng may còn cơ sống sót!

            Nghe tiếng dị xưng là mẹ, chàng mồ côi bỗng rúng động tâm thần, mừng mừng tủi tủi, vùng lên kêu:

            -Trời! Mẹ... mẹ ơi! Mẹ! Từ ngày mẹ thác oan, mười bảy năm lưu lạc, lớn lên, con không nhớ mặt mẹ. Trời ơi! Mẹ đâu? Sao mẹ không cho con thấy mặt? Im mấy khắc, rồi tiếng đàn bà lại nổi lên buồn thảm lạ thường:

            -Âm dương cách trở, ngàn đời cách ngăn. Con chớ hỏi gì! Để mẹ chữa tạm cho con "vết thương oan nghiệt" kéo dài mạng sống mong gặp được thầy hay.

            Tiếng nói giọng Kinh êm ái như xoa dịu tận linh hồn cô đơn của chàng tuổi trẻ mồ côi, khiến chàng trai vùng sa nước mắt, chới với hai tay, tiếng nói vừa dứt, bỗng đám sương lừ lừ trôi sát lại đầu ngựa, tan loãng dần, rồi ngay trước mắt Võ Minh Thần, chợt hiện lên một bóng trắng toát như vôi.

            Rào cơn gió nhẹ, cái bóng nổi rõ từng đường nét rồi dưới ánh trăng khuya, sực hiện ra thành một thiếu phụ trẻ đẹp tuyệt trần, tuy khuôn mặt dáng thân vẫn phảng phất có một làn sương mỏng che phủ như tấm "voan" trắng, nhưng Võ cũng cảm thấy rõ ràng đường nét đậm đà: Mắt phượng mày ngài, mũi dọc dừa, môi cong, má lúm đồng tiền, cổ cao thon, mặc xiêm y Thái trắng phá lãnh quét gót, gấu thủy ba kim tuyến vàng óng ánh bó sát thân tròn lẳn, đẹp nghiêm trang phúc hậu khác thường, riêng hai con mắt long lanh sâu thăm thẳm và bí ẩn như dòng sông khiến gỗ đá cũng phải mủi lòng như thấy "cả nỗi buồn số kiếp oan tình thê lương trùm thiên địa khôn nói nên lời".

            Vừa thấy thiếu phụ, Võ Minh Thần chợt mang máng như đã gặp đâu rồi, hình ảnh mười bảy năm xưa in sâu trong tiềm thức đứa bé lên hai vụt dậy. Chàng tuổi trẻ vùng kêu "mẹ, mẹ" vọt luôn ngựa tới, định sà ôm lấy. Thiếu phụ đưa hai tay như đỡ lại, ngựa đã chồm lên đứng hai chân sâu, hạ xuống, mãi khắc đó Võ mới để ý thấy trước mặt chỉ là vực thẳm vì ngựa đứng chênh vênh chỏm núi.

            Chàng trai vừa toan gọi nữa, tự nhiên lưỡi như cứng đơ không sao nói được nữa, toàn thân tê dại, chỉ đứng giương mắt nhìn. Thiếu phụ nhè nhẹ lướt đến bên cổ ngựa, đứng ngó chàng sâu thăm thẳm. Dưới trăng rõ ràng cặp mắt phượng từ từ ứa lệ, thiếu phụ đi ra phía sau lưng chàng.

            Võ cảm rõ có bàn tay mát dịu xoa vào lưng chàng, dưới gáy chừng nửa ngón tay, nhưng không ngoái trông lại nổi. Độ mấy khắc, thiếu phụ lại đi ra phía trước, đứng ngay đầu ngựa, ánh mắt chứa đựng đầy vẻ thương mến khổ đau.

            Võ định gào lên, nhưng không sao mở miệng được. Chàng thấy rõ sương mù bỗng đùn lên đầy dần, thoắt đã xóa nhòa hình bóng thiếu phụ, bên tai mơ hồ có tiếng thánh thót như tiếng chim oanh:

            -Minh Thần! Âm dương cách trở... Mẹ về cõi u minh... con mau đi về hướng tắt Cao Bằng! Đi ngay cho kịp!

            Võ ú ớ, sương mù lùi xa dần, bỗng có một bàn tay đưa ra xô mạnh một cái, cả người ngựa lộn nhào xuống vực.

            Võ Minh Thần kinh sợ la lên tiếng lớn, vùng tỉnh dậy, mới hay như vừa trải giấc chiêm bao. Chàng trai mở mắt ra, thấy mình đang nằm trên mặt cỏ ngọn đồi gió, gối đầu lên đùi Quản Kình.

            Thấy chàng tỉnh, Quản Kình bật reo mừng rỡ, mặt mày chưa dứt vẻ lo sợ:

            -Trời cậu hai sao thế? Cậu hai! Tự nhiên cậu hai la lên ngã lăn xuống, may đỡ kịp! Tưởng trúng phong tôi giật tóc lay gọi, vẫn nằm đờ, tôi sờ lưng thấy vết thương rất lạ đúng năm lỗ đỏ chót như chấm son đã tưởng...

            Võ Minh Thần bàng hoàng hết sức, vội nhỏm dậy, kể qua cho Quản Kình nghe chuyện vừa xảy ra... như trong chiêm bao. Quản Kình cũng cho là lạ, vội vạch áo giáp tiểu chủ, bật đèn bấm soi lại.

            Áo chàm ngoài, áo giáp trong có một vết búa chém trúng sâu, xế dưới gáy, lại có đúng năm lỗ thủng xuyên qua như năm lỗ khoan dùi rất "ngọt" chạm mặt da in lằn năm vết rành rành.

            Nhưng Quản Kình bỗng bật kêu kinh dị, vì năm vết đỏ chót vừa rồi y thấy rõ, giờ chỉ còn là năm vết đỏ rất mờ như năm vết cắn nhẹ, nhìn kỹ mới thấy.

            -Ồ lạ chưa! Vết đỏ mờ gần hết! Thôi đúng vong hồn bà linh thiêng về độ cho cậu hai rồi! Đằng kia, đúng có lối mòn xuyên Cao Bằng, biên giới ta phải đi ngang ngả đó mới được, chớ lấy làm thường.

            Võ thấy đỡ choáng váng, lưng không còn tê như trước, chàng trai tin là hồn oan mẫu thân về chỉ bảo cho con côi, chàng trai phủ phục xuống vọng thinh không, khấn khứa, nước mắt đầm đìa, càng đau nỗi mẹ thác oan.

            Đoạn gạt lệ, lần túi kiếm linh đơn uống, chàng tuổi trẻ cùng Quản Kình nhảy lên lưng ngựa, đi liền.

            Qua mấy cánh thung đồi, vừa tới gần đầu đường mòn, bỗng thấy phía đường Bắc Kạn có một toán nhân mã lố nhố đi tới, ngựa chạy nước kiệu nhỡ, hai người chưa nhìn rõ bọn nào, vội tránh dạt sang vệ đường, cố ý ẩn sau cây rậm cho tiện.

            Nhưng vừa dạt vào thì toán kia cũng vừa sịch tới, mới hay đó là một toán lính nhà nước khoảng hơn ba mươi người, vừa bộ vừa kỵ, vừa võng, tàn che, trống gióng, loa kêu, tiền hô hậu ủng coi rất lạ mắt.

            Đoàn người tiền hô hậu ủng này đi rất nhanh, thoắt đã gần kề. Dưới trăng, dòm kỹ, coi càng lạ vì thấy có bọn mặc áo nâu, đội nón chóp cầm giáo dài, kẻ che tàn vàng tán tía, túi roi tay thước, bắc loa dẹp đường, lố nhố lại có lẫn lính khố xanh, lính dõng, lính khố đỏ, sắc phục đúng lính nhà nước Đông Dương đương thời. Ngạc nhiên, Võ ghé tai Quản Kình thì thào:

            -Sao lại có đám rước giữa rừng khuya thế này? Cả lính, có cả tàn tán... lạthật!

            Quản Kình nghển cổ dòm, chưa kịp nói chi, bỗng thấy tên lính áo nâu đỏ cao lênh khênh chạy bộ, bắc loa hô vang rền:

            -Phủ... u... ủ phụ... u... ục...! Bái! Tiếng loa đồng rên rỉ canh khuya kéo lê thê khắp cánh thung rừng âm chưa tắt hẳn, đoàn nhân mã kỳ dị đã trẩy tới chỗ thầy trò Võ đứng, cứ nghiễm nhiên đi qua, mắt ngó thẳng. Ngay lúc đó, bỗng một tốp kỵ lực xăm xăm đi tới, dừng trước mặt hai người, dẫn đầu là một người to lớn râu ria xồm xoàm mặc lối quan võ cổ, tay xách cây búa to, dòm hai người, trợn mắt hỏi:

            -Không thấy xe giá chúa thượng giáng lâm sao? Triều bái mau! Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Quản Kình buột miệng hỏi:

            -Chúa thượng nào? Mà ngài là ai?

            Viên tướng cổ râu xồm đảo cây búa lớn tiếng hét chìm như sợ kinh động thánh giá:

            -Khắp thiên hạ thượng du này còn ai không biết, các ngươi ở xó rừng nào không hay? Ta là quan Tư Mã Điện Tiền chỉ huy cấm vệ! Quỳ xuống mau! Xe giá tới nơi rồi!

            Càng ngơ ngác, thầy trò Võ Minh Thần đưa mắt dòm ra, thấy một tốp áo nâu bốn người chạy bộ khiêng một cái cáng gấm lớn, bốn người đều cao lêu nghêu, cái cáng còn có khung cao quá đầu, vắt vẻo trên cao coi như cái kiệu, có mui gấm, hai bên có bốn người che tàn vàng tán tía, sát hai bên lại có mấy cô gái xiêm y rực rỡ khiêng đòn gánh chạm trổ, trên treo lủng lẳng đủ thứ.

            Dọc trước sau tả hữu lại có lính khố xanh, dõng, khố đỏ cưỡi ngựa theo "phò", sau cùng còn có một đội mang đủ kèn Tây trống Tây, đi cùng một đội bát âm đàn sáo kèn Tàu như sênh tiền... v. v... coi càng lạ, tài thánh cũng không đoán nổi đám rước thần rước vua hay một đám rước cổ kim hỗn hợp từ cõi âm lên.

            Nên khi đoàn khiêng cáng tới gần, thầy trò Võ vẫn cứ ngồi nguyên trên lưng ngựa lẩm bẩm: "lạ dữ", "người hay ma", "lính trần hay lính âm", "cái cáng sao bảo xe giá"... Viên tướng cổ trợn mắt quát:

            -Khi quân nghịch thượng tội đáng chém đầu!

            Lời dứt búa đã khua tít bổ xuống đầu thầy trò Võ nhanh như chớp. Võ

            Minh Thần giật mình còn ngơ ngác, Quản Kình đã giơ tấm khiên lên đỡ "xoảng" tiếng lớn, lưỡi búa trườn đi, viên tướng mất đà chúi người, Quản Kình rút luôn gậy xương Mạc thú gạt "chát" cái văng ngay lưỡi búa lên cành cây cắm "phập".

            -Lão này là ai dám chém chủ mỗ? Quen thói nạt người!

            Viên tướng cổ bị mất búa suýt ngã, vừa thẹn vừa giận, vùng lui ra, hét:

            -Phạm xe giá, đánh quan Tư Mã! Quân đâu! Bắt lại! Toán lính nhao nhao xông tới, Võ Minh Thần vùng quát lớn:

            -Dang ra! Bọn ta đã tránh bên đường còn muốn gì nữa? Các chú là binh vua lính chúa thật, cũng phải có phép chứ! Cáng vừa tới, bỗng trong cáng có tiếng người cười nói lớn vọng ra:

            -A, người nào ăn nói nghe được lắm, vừa tai trẫm đó! Bay dừng! Bay lui! Tiếng truyền nghe rất tự nhiên, nhưng đầy oai quyền, sĩ tốt dạ ran, lùi dạt cả lại răm rắp. Cáng gấm tàn vàng tán tía dừng xế trước mặt thầy trò Võ. Hai người dòm vào, mui phủ kín chẳng thấy gì cả. Bỗng có tiếng phát ra:

            -Nhà ngươi là ai đêm hôm khuya khoắt còn lang thang trên đường này? Phải mới từ hồ Ba Bể tới không?

            Hai thầy trò Võ Minh Thần liếc nhìn nhau ngạc nhiên vì chợt nhận ra tiếng vừa nói câu trước đúng giọng đàn ông, câu sau lại đúng giọng đàn bà. Võ từ tốn cũng đáp bằng tiếng Thổ:

            -Quả nhiên đúng vậy. Bọn mỗ đang có việc gấp, cần phải đi liền, xin có lời chào quý nhân.

            Dứt lời, hất nhẹ Quản Kình cùng nghiêng chào, giục ngựa đi luôn. Chợt trong cáng tiếng dị lại đưa ra, lần này lại là tiếng trẻ con léo nhéo, hai người lấy làm lạ:

            -Khoan! Chớ vội! Trẫm hỏi đã! Gặp nhau giữa đường, không duyên cũng nợ, nghe khẩu khí rõ khách hào hoa! Bay đâu! Thắp đuốc lên, quả nhân xem mặt xem duyên hay nợ, vợ hay chồng, ông hay cụ, cú chết hay chim sa, mặt xấu như hoa hay đóa hoa vương giả, kết tinh cặn bã hay kết quả tinh hoa, dòng dõi con nhà hay giống mãng phu ngũ đại!

            Tiếng từ trong cáng hắt ra dập dồn như nước chảy, có vần có điệu như đọc vè, cứ mỗi câu, thầy trò Võ lại giật tim một cái vì cứ mỗi câu lại một thứ giọng, đủ giọng nam phụ lão ấu, giọng Kinh giọng Thổ, êm ái, chói tai, ồm ồm lệnh vỡ, nỉ non tiếng đờn v... v và càng nói càng nhanh, cứ mỗi tiếng lại một giọng khiến hai người tưởng chừng có hàng trăm miệng chõ vào lại cùng nói nghe như chiêng khua trống thúc lệnh vỡ chuông rè, như dùi xiên vuốt cào muốn điên đầu nhức óc.

            Quản Kình chợt biến sắc mặt ghé tai chủ thì thầm:

            -Ôi thôi! Đúng "nó" rồi! Tai họa! Tai họa! Hung thần trăm giọng! Phải liệu cách rút mau! Đúng "nó"!

            Võ nghe bốn tiếng "hung thần trăm giọng" giật mình vừa sực nhớ đến lời chúa Thập Vạn kể về một nhân vật quái gở có cả trăm giọng trăm bộ mặt, chưa ai thấy mặt thật, bỗng nghe "xòe xòe" nhiều tiếng điểm đánh, ánh đuốc đã sáng rực khúc đường rừng, bọn vệ tốt cổ kim dàn hàng ngang tiến luôn lại gần hai người, ánh lửa soi bừng lên mặt, rõ từng chân tơ kẽ tóc. Võ Minh Thần, Quản Kình hơi cau mày, nâng luôn vành khiên lên tận cằm phòng hờ, bỗng nghe trong cáng có tiếng cười thét vọng ra:

            -Ha ha! Hảo tướng quân! Hảo tướng quân! Một chủ một tớ, mỗi người một vẻ xứng bậc trượng phu! Chủ đẹp như Công Tôn Ái, Tử Đô, mặt lạnh như nước đá mà gỗ đá phải mê, tớ mặt đen đủi cô hồn gan lì cóc tía, lấy vợ Dạ Xoa, Dạ Xoa phải sợ! Gặp gỡ giữa đường, ngàn năm một thủa, có nợ nhau rồi! Bay đâu! Đình binh! Tiến tửu!

            Võ Minh Thần đang có việc gấp, vội đưa mắt cho Quản Kình, hai người lững thững men dọc đường, toan bỏ đi, nào ngờ sĩ tốt đã nhích lại, dàn ngang trước ngựa, một ả nữ thoăn thoắt tiến lại gần cúi rạp đầu kính cẩn:

            -Thỉnh công tử hạ mã, thiếp dâng ngự tửu! Võ cứ ngồi nói lớn:

            -Cảm ơn! Bọn mỗ có việc, cần gấp không thể trì hoãn! Xin miễn cho... khi khác!

            Mặc! Mấy ả nữ đã lôi bình vàng chén ngọc xuống rót rượu, cầm tiến lại đứng giữa khoảng cáng và bọn Võ. Ả vừa nói với Minh Thần vừa toan giơ tay cầm chén rượu dâng, chợt tiếng dị trong cáng phát ra trầm khô:

            -Cho lui! Khách kỳ ngộ, đối ẩm, quả nhân ban! Tử Đô! Hãy uống cùng ta chén rượu đào!

            Võ nói luôn:

            -Cảm ơn! Mỗ đang bệnh phải cữ!

            -Rượu vua rượu chúa uống vào bá bệnh tiêu trừ! Nào!

            -Mỗ không uống rượu của người ẩn mặt! Mỗ kiếu!

            -Khoan! Phải uống! Ai gặp trẫm cũng phải uống, không được chối! Bay đâu! Đưa "con trùng rượu" ra đây cho khách coi!

            Từ nẻo hậu, có tiếng "dạ" ran, rồi hai tên lực lưỡng khiêng lên một cái cáng phủ vải điều, đứng xế bên cáng gấm. Chợt mảnh vải điều lật cuộn lên, để lộ trong cáng có một người mặc áo đoạn, đội khăn xếp, quần ống sớ, mặt mũi phương phi, nằm ngáy khò khò, mê man như chết.

            -Y xưng Tửu Chúa, đấu rượu với ta mới có hai ngày đêm, uống có mười hũrượu độc đã gục! Ta phải cho khiêng y từ miệt Phổ Lu xuống đây, vẫn chưa tỉnh đó!

            Nhờ ánh đuốc, thầy trò Võ chú mục dòm nhận ngay ra ra chính Tửu Chúa mới gặp bên Hồ Kiều. Tiếng trong cáng gấm hắt ra:

            -Y đấu thua, từ nay làm đầy tớ, quân hầu y cũng thuộc về ta! Nào!

            -Khoan! "Người" là ai? Nếu không nói tên đàng hoàng, mỗ quyết không thèm uống!

            -Hà hà! Cứ cạn ly đầu, sau diện kiến! Ta cùng nhau có nợ, sao nỡ chối từ? Bỗng thấy mép mui tua cuộn lên, rồi một chén đầy rượu lừ lừ dâng lên bay vù lại đầu ngựa Võ.

            Đã vận sẵn điện công, Võ đẩy phắt lại, cứ thế chén rượu nay qua lại đến chục lần, vẫn không đổ, chợt xẹt lại gần một ngọn đuốc, dốc ngược, rượu đổ luôn vào ngọn lửa, "bùng" một tiếng, lửa bốc cao tận tàn cây, cháy không còn một giọt.

            Võ quát:

            -Vô thù vô oán sao đãi rượu độc? "Vạn độc cường toan tửu", tượng sắt uống vào cũng thủng ruột, định hại mỗ sao?

            Tiếng cười ré lên:

            -A! Giỏi! Ngửi qua đã biết! Uống nổi chăng?

            -Sao không? Nhưng ta đang bệnh không thích "đắng cay ngậm bồ hòn"! Vừa nghe Võ nói xong, tiếng cáng cười ré lên, khoái chí:

            -Ông Tử Đô này còn giỏi rượu hơn lão Tửu Chúa kia. Y biết đủ thứ, lại không biết ngậm bồ hòn uống rượu cường toan. Có ngủ không? Sâu rượu! Dậy coi! Dậy coi!

            Lạ thay! Đang gáy gỗ khò khò, vừa dứt tiếng gọi, người nằm võng bò nhỏm dậy ngay như kẻ ngủ vờ. Mắt nhắm mắt mở, kêu lớn:

            -Ôi chao! Buồn ngủ chết thôi! Đứa nào gọi... phá giấc ngủ của trẫm tội khi quân đáng chết.

            Kêu xong, dụi mắt, định lăn ra ngủ tiếp, nhưng vừa ghé xuống lại lật đật chồm dậy, dáo dác nhìn quanh kêu:

            -Bay đâu! Phải chúa thượng gọi ta? Ôi chao! Ta ngủ ai gọi nổi, trừ chúa thượng! Phải chúa thượng gọi trẫm... úy! Gọi hạ thần có chuyện chi?

            -Quả nhân có khách, mời không chịu uống, quả nhân muốn nhà ngươi mời khách thay cho trẫm! Cứ ngồi nguyên trên cáng!

            Võ Minh Thần, Quản Kình nhìn quả Tửu Chúa không sai, nhưng coi lúc này y chẳng còn vẻ chi là oai vệ tuy vẫn xưng mình là bậc đế vương tửu có ngai vàng, mà coi vẻ xun xoe khép nép không khác một viên lý trưởng đang đứng trước quan huyện, lại nghe y "khải chúa thượng", hai thầy trò suýt phì cười, tưởng coi diễn tuồng.

            Tửu Chúa cúi lom khom, liếc dòm sang phía cáng gấm, vừa nghe dứt, y vùng nói lớn "hạ thần xin lĩnh mệnh", và ngẩng mặt lên, đưa cặp mắt còn ngái ngủ dòm về phía trước, miệng cười nhạt dọa dẫm:

            -Người anh em nào đó đêm hôm khuya khoắt đi đâu có phước được gặp "bực đế vương thánh tửu bách diện thiên âm" cho không uống mà lại từ chối? Uống rượu thua còn được ngủ vài ngày, không uống rượu nghe âm nhạc, ngủ giấc nghìn thu đàng nào hơn chú?

            -Nhà ngươi khoe Tửu Chúa không dám uống rượu cường toan, y còn trẻ chỉ ngửi qua đã biết "đắng cay ngậm bồ hòn" uống rượu át xít thành vôi đó.

            Tửu Chúa chói mắt, giơ tay che ngang mày dòm lia, lúc đó thầy trò Võ cố ý đứng khuất xế sau cành cây rủ, thoạt tiên y tưởng quân hộ tống, chợt lại có hai tên cầm hai ngọn đuốc lớn tiến đến y mới sực thấy dáng áo chàm, khiên loe, giật nảy mình trợn mắt vùng kêu lên một tràng như lệnh vỡ:

            -Y a! Tưởng khách nào, hóa "chú Thổ vòng xanh"! Ôi chao! Chính chú Thổ đeo cái vòng càn khôn đây! Đêm nọ đã ném kẻ hạ thần từ trên cầu Trấn Phòng xuống sông, quỷ quái tinh ma, bà già gặp kẻ cắp! Mặt lạnh hơn tiền, lắm mẹo nhiều mưu, Song Ma đều bị lừa đau hơn hoạn! Ha ha! Trấn Hồ Kiều, đường Bắc Kạn hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, chú mày chẳng chịu. Vô duyên đối diện bất tương phùng, không chịu không xuôi!

            Ngay khi đó, trong cáng gấm, tiếng dị vọng ra đầy kẻ cả:

            -Sâu rượu hoa ngôn uống nhiều nói lắm! Thôi! Cho nhà ngươi nằm ngủ thêm vài ngày nữa. Để trẫm đích thân tiếp món khách quý này!

            Đang nói bô bô, Tửu Chúa im luôn nằm lăn ngay xuống, nhưng y vẫn cố ngóc cổ lên "tâu":

            -Khải... Thổ vòng xanh nhiều mẹo, cao tài. Chúa thượng nếu cho "bái yết long nhan" xin cho hạ thần được thức hầu rượu để... để được thấy mặt rồng một phen!

            Tiếng trong cáng hắt ra lạnh lùng:

            -Sâu rượu! Muốn ngủ giấc ngàn thu? Đấu nổi ba ngày ba đêm mới được thấy mặt, đã quên sao? Gáy gỗ!

            Lạ thay! Lời vừa dứt, Tửu Chúa lập tức kêu: "dạ dạ xin tuân lệnh... Gáy gỗ" và nằm thẳng cẳng ra võng, bắt đầu nhắm nghiền mắt ngủ im thin thít, không dám hé, không đầy mười khắc đã nghe tiếng y ngáy khò khò không thua một kẻ vô tư lự nhất đời. Thầy trò Võ Minh Thần bất giác đưa mắt nhìn nhau, càng lấy làm lạ.

            Quái gở! Một kẻ phương phi bệ vệ, cao bản lãnh như Tửu Chúa kia sao có vẻ phục tùng kẻ nằm trong cáng đến thế được, không khác một đứa con nít nghe theo lệnh người lớn vậy, coi chẳng còn gì là thể thống con nhà võ nữa! Chắc kẻ kia phải là tay lợi hại khác thường! Lôi thôi! Làm cách nào rút lui cho êm mới được!

            Đang thì thầm, chợt nghe trong cáng tiếng dị truyền ra:

            -Khiêng xuống phía sau cho ngủ! Quân dạ ran, khiêng luôn cáng Tửu Chúa về nẻo hậu, tiếng khò khò hét chìm. Thầy trò Võ đưa mắt nhìn địa thế, chỗ đứng ngựa là đồi cây rậm, xế phía trước con đường chạy quanh co vào một khu có nương đồi thưa, có thể xuyên được, nhưng bọn này lại cản mất lối vây quanh. Đang tính kế, bỗng lại nghe tiếng dị quát trầm:

            -Đình binh! Kiếm chỗ phong quang sơn thủy! Chúa mời khách uống rượu tương phùng! Lệnh vừa ra, lập tức có tiếng dạ ran, bọn lính cổ lính kim xách súng ống dáo mác chạy như đèn cù quanh chỗ thầy trò Võ đứng.

            Võ tò mò đứng dòm, thấy bọn khiêng cáng cùng đám gái hầu vẫn đứng nguyên, nãy giờ tuy thản nhiên, nhưng Võ vẫn ngầm vận điện công, thình lình thấy nóng mặt khiên, rồi rõ ràng như có một bàn tay vô hình đang trôi trên nền thép "đi" về phía mép khiên, chạm vào khuỷu tay trái. Giật thót người, Võ Minh Thần vội ngầm vận thêm nhân điện, bất thần thấy rõ động ống tay áo, Võ đưa luôn tay phải đẩy vụt một cái, đồng thời đè luôn lên cái vòng đeo tay.

            Bàn tay vô hình rụt ngay lại. Võ đẩy vụt cái nữa, bỗng thấy hết chạm sức nóng, chàng trai liếc nhìn ra cáng gấm, thấy góc mui động nhẹ rõ vừa cuốn hạ xuống. Sực nghe phát một tràng cười lanh lảnh:

            -Sâu rượu nói không ngoa! Đúng khách có vòng xanh! Hà hà! Kỳ ngộ! Khách vòng xanh! Hãy nán uống cùng ta vài hũ rượu, ta có điểm muốn nói cùng khách.

            Ngặt nghèo khó xử. Kẻ bí mật trong càng vừa sờ thấy chiếc vòng tay, giọng người nhu hòa đầy áp lực, bản lãnh y tới mức nào cứ nhìn Tửu Chúa thân bại danh liệt nằm gáy gỗ đủ rõ. Khi theo tôn sư và ngày tới miền Thập Vạn chàng đã được nghe qua một nhân vật thần bí khét tiếng võ lâm nhưng chưa từng thấy mặt.

            Nhân vật này có hàng trăm bộ mặt, nói trăm giọng và bản lãnh cũng lợi hại hàng trăm mặt... Y không tên, không tuổi, thiên hạ không biết gọi bằng gì, chỉ bằng cứ vào "trăm giọng" và lối tự xưng của ý để gọi.

            Nhân vật thần bí này có tính quái gở là rất ghét ai gọi "vương, chúa, đế", ghét luôn kẻ xưng thế, y chỉ thích chữ "quân", xưng "trẫm, quả nhân", nhưng ai muốn gọi chi cũng mặc, không hề nói ra, chỉ biểu lộ bằng hành động.

            Thiên hạ thường gọi y là "ma quân", "thiên diện", "thiên âm" và những kẻ được gọi là "ma quân", "thiên diện"... v. v xưng vương, chúa, đế đều được y mời "uống rượu", không uống, sẽ "nghe nhạc", gục chết như chơi. Ngược lại, nếu gọi đúng ý, dẫu kẻ thù, y cũng đáp lại bằng mấy cử chỉ tốt đó, nếu vô can y lại giúp hết mình. Nhưng rất ít ai biết được ý y.

            Nên giới tứ chiếng coi như một hung thần, thường cứ thấy tàn vàng tán tía nghênh ngang loa dậy là kiếm cách lánh cho xa. Thầy trò Võ Minh Thần không may ngộ hung thần giữa lúc khí lực suy kiệt, tiến thối lưỡng nan, nghe tiếng trong cáng phát ra, lại thấy thủ hạ y chạy như đèn cù, Võ hơi nhíu mày, chưa biết tính cách nào cho ổn, chợt Quản Kình sực nhớ ra điều chi, vùng ghé tai chủ thì thào:

            -Cậu hai à! Nguy dữ! Đúng "hắn" rồi! Sát thần! Bá diên thiên âm quỷ sát ma quân... v. v... lắm tên không kể xiết! Gặp "hắn" là gặp tử thần rồi! Cậu hai đã bị thương, địch sao nổi. Ông Trưởng Sềnh có lần suýt chết về tay hắn đó. Không ai biết hắn là giống gì. Tuy nhiên ông Trưởng Sềnh nhà ta có kể: Hắn có tính lạ hình như không thích người ta gọi "quân" như "ma quân", "tinh quân" là nguy, phải gọi là "thánh quân", "bá diện", "bá âm" đi kèm nữa càng hay.

            Quản Kình vừa dứt, đã nghe tiếng loa rền rĩ không khác tiếng loa đồng dẹp đám rước thần, tiếp theo có tiếng hô "tiến... iến... nhạc... ạc" dõng dạc trịnh trọng không khác quan viên tế đọc "khải trình cô" trước bệ thờ vậy. Tiếng loa rền vừa dứt, chợt "rập"! Người ngựa đứng im phăng phắc, thầy trò Võ nhìn quanh đã thấy ánh đuốc sáng rực cách bên chỗ Võ đứng khoảng bốn năm chục thước, ngay trên một gò đất xế bên hữu đường đi, từ gò đến chỗ cáng đậu, ngựa đứng cũng có lính cầm đuốc, khí giới dàn quanh co như khúc rắn đến tận sau lưng hai người thành hai hàng, chung quanh lại cắm cả cờ coi rất lạ mắt.

            Ngay khi đó, âm nhạc bỗng nổi dậy inh ỏi kèn Tây trống Tây, đàn sáo bát âm, sênh tiền lẫn lộn, trôi theo điệu "Lưu Thủy" nhịp nhàng vang động rừng khuya. Quản Kình xưa từng đi lính nhà nước, nghe buột miệng kêu:

            -Ngộ dữ! Kèn "bú díc" hòa với "bát âm", thổi bài đi tế... cổ kim lẫn lộn. Sực nghe tiếng loa kéo dài, thình lình bọn khiêng cáng nâng vụt cáng lên cao, lừ lừ tiến lại trước mặt Võ Minh Thần, còn cách chừng hai thước tây, chợt mấy ả gái hầu thoăn thoắt bước lại, viên tướng cổ xưng Điện Tiền Tư Mã văng búa vừa nãy cũng dẫn một tốp lính áo nâu nón chóp sấn tới, cùng cúi đầu lễ phép, rồi tốp lính kèm hai bên, cứ thế tiến về phía gò. Cáng đi được hai, ba thước, Võ vẫn đứng yên, chàng trai vụt quát:

            -Khoan! Mỗ muốn hỏi! Đoàn nhân mã dừng lại, tiếng nhạc hạ trầm. Minh Thần nói lớn:

            -Bá Diện Thánh Quân! Mời vào Bát quái Trường xà có ý gì? Nếu không nói rõ, mỗ quyết không vào!

            Im mươi khắc. Bỗng trong cáng gấm tiếng dị vọng ra cao giọng:

            -À khách đeo vòng càn khôn cũng biết ta sao? Hà hà! Khách cưỡi ngựa bắn súng phải lập trận đồ uống rượu mới được chứ! Uống rượu còn nghe nhạc.

            Võ Minh Thần định kiếu bận, nhưng lại thôi, tính cứ thử coi, sẽ tùy cơ ứng biến bèn nói lớn:

            -Bá Diện đã có hậu ý mỗ há phụ lòng! Nào nhập!

            -À có thế! Tiếng nhạc nổi cao, rừng khuya xao động, chim chóc bay tan tác, thầy trò Võ theo cáng tiến lên gò, không khỏi khen thầm tụi phu cáng chạy lên gò nhanh như kiệu bay. Thoắt đã tới đỉnh gò. Đuốc cháy bập bùng, gò khá thưa, đứng trên gò nhìn thấy khu nương đồi nằm dưới trăng vơi, xa xa có ánh lửa nhà sàn le lói trong sương như ngọn đèn ma. Bọn phu đặt cáng xuống dưới một tàn cây, khúc "Trường Xà" đã nhập cả vào bốn "bát quái", lính tráng cổ kim kỵ bộ tràn lố nhố khắp mặt gò, cách Võ khoảng vài mươi bộ. Tên cầm đầu chợt hô:

            -Tiến... tiến... tư... tửu!

            Tiếng nhạc trỗi bài khác, nghe như "đăng đàn cung", mấy ả nữ lăng xăng sửa soạn dâng rượu, Võ thấy tình thế cấp bách vùng nói lớn:

            -Bá Âm thần quân! Nghe tiếng Bá âm Bá diện ai cũng phải sợ! Riêng mỗ hết sức cái "bát quái trận" này! Phải bố trận mới uống rượu với khách sao? Tiếng trong cáng hắt ra âm trầm:

            -Vào bát trận uống cho trọng thể, khách không thích, ta cho triệt sao đâu! Tư Mã! Giải trận! Xuống! Sĩ tốt dạ ran, nháy mắt đã cắp đuốc, kéo nhau xuống chân gò đứng tụ cả một chỗ. Chỉ còn mấy tên khiêng cáng, che tàn, cùng mấy gái hầu. Nhưng lại có tiếng truyền ra, lũ khiêng cáng cũng rập đầu rút đi nốt.

            Gái hầu ôm ra một vò lớn bằng pha lê, trong đựng một thứ rượu đen kịt như mực tàu. Hai nàng khác cầm hai cái ly lớn, bước lại, tiếng dị trong cáng phát ra:

            -Dâng khách vòng xanh ly đầu mừng cuộc gặp gỡ giữa đường! Võ Minh Thần tuy không phải tay chúa rượu, nhưng ở với tôn sư từ nhỏ, tôn sư vốn tay hay rượu nhất thiên hạ, từng dạy chàng đủ thứ, nên Võ có thể chỉ nhìn qua ngửi thoáng, đã phân tách được loại nào. Chàng lại còn học được thuật uống rượu độc bằng cách lọc thải độc tính, nên cũng không ngán mấy, ngặt trong mình lại đang thọ thương nguy hiểm uống vào bất lợi khôn lường, nên vừa nghe dứt chàng trai đã vùng cao giọng:

            -Cám ơn có hậu tình cho mỗ uống "rượu nhựa sui" nguyên chất, rất tiếc mỗ phải cữ lúc này, xin hẹn khi khác.

            Tiếng dị phát trầm âm:

            -Khách vòng xanh biết được tính rượu, phải biết uống! Bay đâu! Tiến tửu! Võ vùng bảo:

            -Khoan! Tiền chủ hậu khách! Không một tiếng đáp, nhưng cặp gái hầu vừa rót đầy hai ly, chợt mép mui phủ cáng hơi cuốn lên mấy phân, rồi cách khoảng thước rưỡi, gái hầu đội khay đứng im, bỗng thấy rượu trong ly xao động, rồi "chót" tiếng, rượu vọt lên thành một luồng nước cầu vồng nhảy tót vào trong cáng không khác con rắn nước trườn quăng, khiến Quản Kình hơi giật mình một cái, dòm vào ly đã cạn sạch không còn một giọt rượu đen nào. Võ nghĩ thầm:

            -À! Y dùng nội lực hút rượu... hay ma thuật nào? Phải "đánh tháo" mới được!

            Bèn vùng nói lớn:

            -Bá Diện Thánh Quân! Hút rượu không thấy người, đổ đi chán chết! Mỗbình sinh chỉ quen đối ẩm nhãn tiền, uống cách bức bách quả tình không thích.

            Tiếng bí ẩn trong cáng vọng ra rất trầm:

            -Sợ ư? Nãy giờ, mỗi lần phát lại một thứ giọng, mỗi giọng một thổ ngữ nghe chẳng khác trong cáng có hàng chục người Thổ Thái Mán Mèo Mường Nhắng

            Tàu... đủ già trẻ lớn bé nam nữ nằm trong cáng khiến thầy trò Võ Minh Thần càng lúc càng ngạc nhiên, trí tò mò bị khích động hết sức, bất giác nghĩ thầm:

            -Chưa kể bản lãnh, cứ nguyên tài nói thạo nhiều thổ ngữ, giả giọng lắm hạng người y hệt, kể cũng... thánh thật! Bất luận chính, tà, thiện, ác, nhân vật thần bí này tất phải là tay trí xảo hơn người, hiểu nhiều biết rộng. Biết đâu y chẳng rõ vụ con tinh hấp sát mẹ ta mười bảy năm trước trên biên thùy phân mao? Đối diện y, may ra dò hỏi được vài tia sáng không chừng! Tiếc thay gặp y đúng lúc vừa thọ thương, nhưng chưa đến nỗi vong mạng ngay, ta phải kiếm cách lân la trò truyện mới được!

            Bèn nghiêm sắc mặt lạnh lùng bảo:

            -Mỗ bình sinh chỉ biết mỗi cái sợ là giết kẻ vô thù hận! Nhưng chưa hềuống rượu với kẻ nào mà không thấy mặt! Đã gọi đối đãi, đối ẩm, đối đầu hay đối địch, đối thủ... chi cũng phải đối diện mới là bực chính đính. Đối mà không thấy mặt, khác nào uống rượu với cái bóng nói chuyện với tiếng vang, ma quái còn thú gì.

            Có tiếng cười thét trong cáng bất ngờ phát ra một tràng tiếng Tây, lần này là giọng đàn bà thánh thót nghe không khác giọng "đầm":

            -Ha ha! Khách vòng xanh có tài biện thuyết, khéo kiếm cớ thoái thác! Nhưng lệ đã đặt không làm khác được! Phải uống ba ngày ba đêm liền, hết các thứ rượu của ta, nghe thêm nhạc, mới được diện kiến! Không nhìn thấy Tửu Chúa ư? Hắn uống có hai ngày hai đêm đã ngủ vùi, cũng chưa được đối diện.

            Võ Minh Thần giật thót mình. Tuy chàng lìa gia đình từ nhỏ, theo tôn sư đi khắp thiên sơn vạn thủy, suốt mười bảy năm ròng thường ở rừng, ít khi ra phố, nhưng tôn sư chàng là bực thông kim quán cổ, đa tài, đa cảm, biết nhiều thứ tiếng, nên có dạy cả tiếng Tây, một dạo còn gửi chàng học tại Quảng Châu mấy năm. Tuy thông minh hiếu học, nhưng cũng chỉ biết qua, lại ít chung đụng với Tây đầm, nên giờ chợt nghe tiếng đầm nói như gió, chàng chỉ lõm bõm đôi ba phần, muốn ngẩn ra, đưa mắt nhìn Quản Kình.

            Rất may Quản Kình lại hiểu tiếng Tây, tuy chẳng giỏi gì hơn tiểu chủ, nhưng nhờ trước từng đi lính sang Tây đóng đến "quản ách", nên chú ta nghe Tây đầm nói đã quen, nhanh mấy cũng hiểu. Thấy Võ ngơ ngác, chú ta ghé sát làm "thông ngôn" liền, Võ Minh Thần vùng lớn tiếng:

            -Lệ đó đâu phải phép vua luật nước, bắt thiên hạ theo? Ngu mỗ đây cũng có lệ riêng, nếu không thích...!

            Lần này Võ nghe tiếng dị vọng ra lạnh lùng, lần này lại léo nhéo y hệt quan viên có giọng kim uống say cãi lý giữa đình:

            -Phép vua thua lệ làng, lệ làng hàng phép thánh, phép thánh cũng tránh luật "quân"! Luật "quân" đã ra, không uống rượu, phải nghe nhạc!

            Tiếng bí ẩn nói một tràng như đọc vè. Võ Minh Thần càng cho là quái gở, óc tò mò nổi lên cực độ, vùng cười lớn:

            -Hay dữ à! Đêm trăng, rừng khuya, gió lộng, gò cao nghe nhạc kể cũng thích. Nhưng tiếng nhạc nổi đêm trường, mà không thấy người tấu nhạc, khác nào nghe đàn ma Sư Diên gảy khúc My My cung âm vong quốc!

            Dứt lời, chàng trai vận điện, tay trái nhẹ nâng khiên lên tận cằm, tay phải chống trên đùi sau vành khiên kín đáo thò ra hai ngón, phát ra hai luồng điện chỉ nhón ngay lấy mép mui phủ cáng, vén phứa lên.

            Ánh đuốc hắt vào lòng cáng lót tía thấy đầu cáng có để một cái gối da sơn son thếp vàng coi như gối thờ, nhưng... chàng trai họ Võ cùng Quản Kình bỗng rởn óc muốn dựng tóc gáy cả lên vì trên lòng cáng trũng vòng cung nông chẳng có người nào nằm cả, chỉ là một cái cáng không.

            Trống trơn, chan hòa ánh hỏa đuốc vật vờ, cũng không thể có người đu bám trần cáng, vì Võ lật soạt lên cao, tia mắt thấy rõ toàn diện. Nói rõ hơn, chỉ có một cái gối sơn son đặt hàng đầu "nhìn" thẳng ra chỗ hai người đứng ngựa, chỉ cách có ba thước, và một chùm vài lá cây in bóng đen ngòm lắc la lắc lư vật vờ trên nền vóc, dưới cái gối son vài gang tay, coi không khác chính mấy cái bóng lá đen thui nằm đó vừa nói chuyện với hai thầy trò, Võ cũng phát ớn!

            Đến hơn phút, Võ sực nhớ, thu điện chỉ, rèm lại phủ xuống như cũ.

            -Sao? Muốn xem mặt thánh quân ư? Đã bảo phải uống rượu, nghe nhạc đã... Hà hà! Khách Thổ vòng xanh sao cứ muốn...

            Tiếng dị lại từ trong cáng vang lên, vẻ cao hứng. Đang khi tiếng vang trăm giọng thao thao bất tuyệt, thình lình Võ xòe luôn trảo kình túm hất "phạch" rèm mui cán thêm lần nữa, rất nhanh.

            Song, rèm cửa vừa hất cao, hai thầy trò nhìn vào trong liền bật kêu lớn, giật nảy mình như chạm phải điện. Vì ngay giữa lòng cáng, một hình thù bốn chân, lông vàng, có bờm đang "nằm khểnh" đầu gối lên một chiếc gối son, hai con mắt đỏ khé dòm chết ra ngoài. Một con Hồng Cẩu quẩy!

            -Tinh sói! Bá Diện Bá Âm... là giống sài lang tứ túc! Hừ, hay nó chính là...

            Vụt tưởng nhớ đến chuyện mẹ hiền sa vào nanh vuốt quỷ dữ bị bức hại thảm tử, Võ Minh Thần xúc động ghê gớm, thở phì liền mấy giây, cố trấn tĩnh tinh thần.

            "Phạch" rèm mui như bị ngọn gió nhẹ hất xuống lại. Võ mím môi, đưa mắt ngó sang Quản Kình, định ngầm hội ý.

            Bộ mặt da nâu đen lỳ hằn nét phong trần chiến đấu của Quản Kình vẫn còn in rõ vẻ kinh hoàng quá sức, có lẽ còn xúc động hơn cả tiểu chủ. Hai con mắt y còn mở trợn ngược như đã mất tinh lạc và dù rèm đã buông kín, mắt y vẫn trừng trừng như tê dại vành mi không chớp được nữa.

            Thì ra Quản Kình kinh dị đến chết lặng người đi, muốn tê cứng cả giác quan và "con tinh sói nằm trong cáng" đã làm y thành pho tượng đất, chừng cũng liên tưởng ngay đến chuyện thảm sát năm xưa. Mãi khắc Võ Minh Thần ngó sang, thích nhẹ vành khiên, Quản Kình mới sực tỉnh cơn kinh sững, ngoảnh sang khều tay tiểu chủ, thì thào:

            -Trời! Ghê dữ a! Con chó sói nằm trong cáng... Vừa giờ cáng trống trơn... Nó nói trăm giọng, biến hiện, con chó sói thành tinh!

            Hai thầy trò nhìn nhau, nhìn cáng rồi như không còn đủ bình tâm tính toán lợi hại, Võ Minh Thần thở phào một hơi, vùng quát chìm, giọng vẫn còn rung mãnh liệt:

            -Tinh sói! Bá Diện Thánh Quân ngươi... ngươi là con chó sói thành tinh? Trong cáng tiếng quái gở phát ra thé nhọn:

            -Khách Thổ vòng xanh lạ lắm sao? Hà hà! Thánh quân trăm giọng trăm mặt có gì là lạ? Sao hai thầy trò vòng xanh mặt ngẩn như chúa Tàu nghe kèn? Giờ nghe "khúc nhạc oan hồn" cho tăng tuổi thọ!

            Võ Minh Thần cắn răng trấn tĩnh tinh thần, quắc mắt hét:

            -Sói tinh! Còn nhớ chuyện trên biên thùy phân mao mười bảy năm về trước? Người đàn bà mặc xiêm y Thái trắng bị sói hấp sát dưới gốc tùng, một chiều thu muộn... còn đứa bé lên hai sống sót, mười bảy năm về trước...?

            Tiếng dị hắt ra:

            -À ta có biết chuyện đó! Nghe đồn người đàn bà ấy là trang quốc sắc, con tinh hồng cẩu quẩy mê say nàng như điếu đổ, đuổi ép làm vợ không được, nó nổi hung giết chết, đi sục tìm đứa bé vòng xanh mười bảy năm liền không ra! Ta có biết! Thôi! Nghe nhạc đã! Võ nghiến răng:

            -Im! Con tinh sói đó lông vàng bờm sư tử biết nói tiếng người, sau khi hấp sát người đàn bà đó, nó dùng đủ thuật ma pháp quái đánh hơi tìm bắt nốt đứa bé vòng xanh. Nhưng lòng trời còn tựa, đứa bé được dị nhân cứu mạng dưỡng dục, đem đi khắp thiên sơn vạn thủy... Mười bảy năm oan khổ trôi qua, nay đứa bé lớn khôn lần về cố quốc tìm thù báo oán. Sói tinh! Đứa bé mồ côi oan khổ đó chính là ta, con con chó sói thành tinh nanh ác đó là... mi!

            Tiếng Võ rung nghẹn, trong phút sôi hận cừu chàng trai quên cả chuyện mình đã mang thương trầm trọng, khí lực giảm nhiều, nói xong chàng từ từ nâng khiên lên sát mi mắt dưới, mắt đảo lia một vòng, không khỏi ngạc nhiên thấy lũ phu cáng gái hầu vẫn đứng im phăng phắc mặt không hề đổi sắc, kẻ đội đèn, ả đội khay, như không hề nghe rõ lời "khách vòng xanh" vừa mắng vị chúa tể của chúng.

            Cáng gấm cũng yên như không, mấy giây, có tiếng cười vọng ra, đượm chút ngạc nhiên:

            -À khách Thổ chính là đứa bé vòng xanh ngày nào đó đấy ư? Ta có lời chia buồn! Chính ta cũng đang tìm "nó"!

            Cau mày, Võ dằn giọng:

            -Sói tinh! Khỏi mất công tìm, "nó" đã đứng trước mặt mi! Tiếng trong cáng vẫn nhu hòa:

            -"Nó"... con tinh tứ túc Hồng Cẩu Quẩy đã giết mẹ nhà ngươi lẩn quất không kém loài ma quỷ, kiếm "nó" như kiếm bóng chim tăm cá!

            Võ Minh Thần muốn thừa cơ xả luôn súng vào cáng gấm, nhưng lại muốn biết rõ ngọn ngành thân thế, đành nén, quát bảo:

            -Sói tinh! Mi chối tội? Tưởng ta hậu sinh không biết rõ hình dung con quái vật giết mẹ ta sao? Bờm sư tử, lông vàng, mắt khé, nói tiếng người, nanh chìa... nó chính là...

            -Hấp sát quỷ tứ túc tinh quân Hồng Cẩu Quẩy Ma Vương Sắc! Nó là con sói chúa đầu đàn, hiểu tiếng loài người, loài vật, khắp mấy cõi người, vật đều sợ hãi, con chó sói tinh chỉ mê nhan sắc đàn bà, nó là Tây Sắc Hấp Tinh quân!

            Chàng trai họ Võ sững sờ liếc nhìn người đồng hành, cau hẳn chân mày, nhớ lại lời căn dặn của viên chúa núi Mã Đầu Quảng Tây cùng vợ chồng chúa tể miền Mười Vạn Núi Vân Nam.

            Khắp lục địa Á châu, hiện có nhiều quái nhân quái thú dị thường, lắm "con" phi nhân phi thú, lẫn lộn với chính nhân hào kiệt! Với những câu truyền tụng lắp thiên hạ, trong đó có câu "Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc Yên, Nam Đổ", câu "Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu"...

            Trong Tứ Hung, Tứ Khoái, Bát Quái, Lục Yêu, Tam Kiều, Ngũ Quỷ, Lưỡng Dị, Nhất Khùng, phương Tây có Ma Vương Sắc bản lãnh cao cường, cứ mỗi năm lại cao một bậc, xuất quỷ nhập thần, chúng nhân đồn "vua nhan sắc" này có hàng trăm vợ đẹp, thuộc nhiều sắc dân, không kể gái hầu mỹ nữ, động vương phủ của y không thua cung Tần Thủy Hoàng ngày xưa hay cung vương Ả Rập bây giờ, đêm ngày phấp phới bóng mỹ nữ yêu kiều.

            Nhưng thực ra có lẽ cũng chưa khi nào vào được tới động của Ma Vương Sắc, chẳng ai biết "động nhan sắc" này ở phương nào. Lòng ngờ vực, Võ Minh Thần vùng cao giọng:

            -Tây Sắc Ma Vương có thể là loài chó sói được ư?

            -Chính thế! Tây Sắc chiếm hàng tứ trụ tứ hung, còn hào hoa phong nhã hơn người, biết thưởng thức sắc đẹp người ta, nhưng người đẹp nào vô phúc lọt vào động nó, không có ngày ra, như nhập lãnh cung!

            Võ Minh Thần dằn giọng:

            -Hư ngôn! Tìm cách đánh lạc hướng thù! Tây Sắc không phải sói tinh! Chính mi là con quỷ chó bốn chân năm xưa đã hấp sát mẹ ta!

            Bất ngờ có tiếng cười ré trong cáng, tiếp liền tiếng quát lanh lảnh, lần này là giọng nữ nhân:

            -Ngốc tử! Ta sợ gì ngươi mà phải nói dối? Ta Bá Diện Bá Âm Thánh quân có cả trăm mặt, ta là Âm Sát Thánh Quân "Đông Âm" sao có thể là Tây Sắc? Dẫu mi có cho hình sói là đích diện Thánh quân, ta cũng không là kẻ hấp sát mẹ ngươi, vì... chỉ là Hồng Cẩu Quẩy nữ!

            Lời nói trong cáng phát ra khiến cả hai thầy trò Minh Thần cùng động lòng, nhìn nhau, Võ nghĩ thầm:

            -À có điều đó ta cũng quên mất! Phải, sói tinh không mặc quần áo, cũng dễ nhận ra đực cái!

            Bèn xuất kỳ bất ý thò luôn chỉ thủ phát điện nhón mép vải phủ cáng soạt lên! Và lại một phen giật thót mình kinh dị, chưng hửng đến ngẩn người ra, vì... trong cáng trống trơn! Con hồng cẩu quẩy lông xồm xoàm vừa rồi như đã biến vào trăng gió rừng già, chỉ còn lại cái gối son.

            Cả hai người đều thuộc hạng lỳ, không hề biết sợ bóng sợ gió là gì, vậy mà cả hai đều giật thót mình trước "cái cáng không người nằm vừa phát âm đủ giọng". Võ buột miệng kêu "ơ", Quản Kình bật "ơ", Võ còn cố nghiêng ngó mấy khắc mới vội buông rèm che xuống, hai thầy trò trợn mắt nhìn nhau, chưa dứt kinh dị. Quản Kình thở phì, lẩm bẩm ghé sát tai chủ:

            -Cáng ma cáng quỷ! Thầy trò ta gặp con yêu rồi! Con yêu trăm giọng! Đúng rồi! Mới léo xéo đây, đã biến đâu mất!

            Võ đảo mắt dòm khắp gò, chỉ thấy lá cây lòa xòa, gió thổi rì rào, chàng trai ngơ ngác, rờn rợn, tuy từ nhỏ chưa biết mọc ốc "sợ ma":

            -Ma! Lạ thật! Thế còn lũ gái đứng kia? Còn đoàn nhân mã? Tửu Chúa nằm kia?

            Đầu óc đảo lộn, hoang mang, nghĩ ngay đến mấy tiếng "ma thiêng nước độc", bỗng nghe tiếng quái gở vừa trở lại từ trong cáng vọng ra:

            -Trai vòng xanh sao dám nhìn trộm? Tội khi quân phạm thượng đáng trừng phạt! Vòng xanh phải nghe một cung âm túc sát! Lời dứt, từ trong "cáng không người" bỗng phát ra mấy tiếng kỳ dị, nghe như tiếng kèn, mỗi tiếng như một nhát búa đóng vào màng tai Võ Minh Thần!

            Rồi như một cơn phong ba, âm thanh vụt hắt ra ầm ầm như sấm sét, chẳng có cung trầm bổng gì cả, toàn một loạt tiếng túc sát lắt léo trúc trắc nặng nề thình thịch không khác tiếng chày vồ, có đoạn lại như dao nạo mặt nứa, cứ thế cuồn cuộn tuôn tràn như thác đổ, sấm rền sét đánh, dùi xiên vuốt cào móc nạo, gió rít mưa gào đạn réo, quật vào màng tai Võ gây một cảm giác đau buốt, ngứa ngáy tê cóng, giá băng nhức nhối, cực kỳ khó chịu, đến ớn da ớn thịt, đảo ruột lộn gan điên đầu nhức óc, loạn thần như đang chứng kiến cảnh tuốt nứa, bị tuốt, lóc thịt, nạo xương, đục tủy, cưa gân, mài óc, làm cho kẻ vững tinh thần mấy cũng phải đảo điên, ớn xương sống.

            Trước còn thấy cung âm túc sát này đi qua thính giác vào người gây cảm giác, sau tiếng nhạc quỷ này trực tiếp như những mũi dùi, răng cưa, lưỡi "lam" xiên nạo thẳng vào tế bào, chui qua lỗ chân lông cào cấu ngũ tạng lục phủ, tưởng kẻ thiếu bản lãnh không chịu nổi giây phút, khiến Võ rúng động tâm thần, không khỏi kinh tâm, nghĩ thầm:

            -Cung âm quái gở này giết người trong nháy mắt! "Âm thanh công" này lợi hại hết sức, quện lẫn điện công, ma quỷ gì lại sử dụng được môn võ công cao siêu của con nhà võ? Sơ ý nguy ngay!

            Bèn ngầm vận điện công bế tỏa huyệt đạo, ngồi im như cây gỗ mặc cho sấm sét nổ bên mình. Lại lo cho Quản Kình và hai con ngựa, nhưng rất may Kình và hai con ngựa vẫn đứng như thường. Nhìn ra, lũ gái hầu, tụi khiêng cáng xế ngoài cũng vậy. Mới rõ "cáng không người" có tài thu gọn âm thanh chỉ hướng độc vào chàng.

            Được một phút, bỗng lại nghe tiếng dị trong cáng vọng ra như đọc một bản án, cứ mười tiếng lại thay một giọng, bảy thứ thổ ngữ, sắc, gai, nhọn, ầm, léo nhéo nhanh vô cùng hòa với tiếng nhạc, trúc trắc the thé, nhức nhối, như có cả một cái chợ người vạn quốc, chõ cả mồm loa mép dải vào lỗ nhĩ chàng mà gào thét, nghe đinh tai nhức óc, đã thế, tiếng vạn quốc Tây Tàu Ta Thổ, v.v... lại cứ vang lên toàn tiếng trúc trắc nghe còn ngứa tai khó đọc hơn nghe hàng ngàn đứa con nít ê a học: "a xê ác, ê xê hát ếch, a xê hát ách, co co, y cờ rét ê y yêu...".

            Biết không phải chuyện chơi, Võ phải vận sức chịu đựng hóa giải có lúc đến chấn động toàn thân, lại không may đang lúc thọ thương sức giảm nhiều, nhưng cũng có cái may là mặc giáp, đỡ được nhiều. Vừa chống, Võ vừa lấy làm lạ hết sức, khó tưởng tượng một người có thể cùng lúc phát ra lắm âm ma tiếng mãnh đến thế.

            Tới phút thứ ba, chàng vừa thấy trong lòng xao xuyến, thì âm quái vụt im, Võ thở phào, lưng ướt đẫm mồ hôi. Sực nghe tiếng kia hắt ra lẫn tiếng cười the thé:

            -Cung phạt túc sát đã hết, giờ canh khuya rừng vắng, vòng xanh nghe khúc "dạ khấp" cho tăng thêm sức khỏe!

            Lần này, tiếng trong cáng giọng lanh lảnh rõ giọng gái còn trẻ, đài các nói. Võ Minh Thần vụt nghĩ:

            -"Y" lợi hại như ma quỷ! Sức ta bị thương, nghe một cung đã mệt, ở đây nghe nữa e nguy hại! Xem ý "y" muốn tấn công dồn dập cho ta gục, chưa thể gợi dò gì được, đành chờ dịp khác! Tức thật! Y làm gì mà như ma xó!

            Nghĩ là làm liền, vừa nghe dứt chàng trai vận sẵn nhân điện, lại thò tay ra, lần này đưa cả trảo thủ chụp mép rèm phủ lật phăng đến "phạch" cái, rung cả cáng, đến độ cáng đu đưa như võng.

            Và, như chạm phải điện, không nén nổi, chàng trai vùng hét lên một tiếng "trời", kinh sững, gai ốc mọc lởm chởm đầy mình, vì dưới vùng sáng đuốc vật vờ trên cáng chỉ thấy một hình thù bốn chân nằm gối đầu lên gối son cực kỳ quái đản: một con sói to như người, mõm nhọn hoắt, hai con mắt đỏ ké dòm ra phát tia nóng bỏng!

            Chỉ suýt nữa, Võ Minh Thần đã kêu thét lên kinh dị vì quá bất ngờ. Nhưng nhờ sống khổ độc gian lao từ nhỏ bên cạnh vị tôn sư kỳ dị mặt lúc nào cũng đầy nét suy tư trầm mặc như buồn thảm "kiếp người mong manh phi lý", hết lòng rèn luyện, lại thường ở rừng sâu cốc thẳm, chàng tuổi trẻ có tình bình tĩnh hết sức, ít khi hoảng động ra mặt, nên lúc thấy hình thù con chó sói to lớn dị thường, chàng trai chỉ giật người một cái đã hãm ngay được tiếng kêu, lặng người đi khá lâu.

            Và cắn chặt hàm răng, nín thở mở trừng hai con mắt dòm chòng chọc, đầu óc bàng hoàng tưởng mê ngủ. Ánh đuốc bập bùng soi tỏ, vẫn chùm lá trên cành hắt bóng đen vật vờ nham nhở vào lòng cáng, lắc la lắc lư trên hình thù quái đản, đúng là một con chó sói, không thể lầm lẫn được. Một con sơn cẩu thuộc giống sài kíu to lớn, hung tợn nhất trong các giống bốn chân hung tợn, nói rõ hơn là một con "Hồng Cẩu Quẩy" lông vàng óng ánh, đầu có lông bờm như bờm sư tử cái, nó nằm nghiêng gác đầu lên cái gối son, mõm ngậm còn chìa ra mấy cái răng nanh dài trắng nhởn như mấy cái dùi nhọn hoắt. Thấy mép rèm vén lên, nó chỉ hơi ngóc đầu lên dòm ra coi dáng điệu như người ta, kẻ bạo gan cũng phát ớn.

            Ngó trừng trừng vào lòng cáng đến bảy, tám giây, chàng trai họ Võ mới rung giọng kêu "trời" rất trầm như phào nhẹ ngoài miệng, buông rèm xuống.

            Choáng váng, kinh hoàng cực độ! Rung động tâm thần vì sự hiện diện của con sài kíu to lớn trong lòng cáng, hình thù chó sói lông bờm, nghĩ ngay tới con chó sói thành tinh đã hấp sát mẹ chàng trên biên thùy phân mao mười bảy năm xưa! Võ Minh Thần liếc mắt nhìn người đồng hành đứng ngựa sát cạnh.

            Quản Kình cũng nhìn thấy rõ vật gì trong cáng, người đàn ông gan lỳ này ngồi im không động đậy trơ như đá, trong dáng của tay bình tĩnh phi thường, nhưng dòm kỹ nét mặt, lại khác hẳn.

            Lần này thì sự kinh dị lên đến cực điểm. Ngọn gò thưa gió thổi rì rào, vài tán lá loang lổ vật vờ lay động ánh đuốc ánh trăng quện giao nhau, cáng gấm hơi đu đưa, lũ phu cáng gái hầu đứng im như tượng gỗ, khung cảnh càng trở nên quái gở. Không còn ngờ vực gì nữa, đúng con tinh mới có thể chợt hiện chợt biến như thế.

            Không hẹn nhau, cả hai thầy trò cũng dằn động vành khiên, đưa mắt lừ lừ nhìn mấy phía cùng có cảm giác như bóng vô hình nanh ác lởn vởn quanh mình, mất thần chụp vuốt xuống. Quản Kình thì thào, tiếng rung mạnh vì xúc động:

            -Nguy rồi! Thì ra "nó" là con tinh, "nó" biết biến hóa. Bá Diện Ma Quân là con tinh quỷ bốn chân! Phải tìm kế rút mau... Cậu hai! Ta chờ dịp khác! Phải có phép phù thủy mới trị nổi nó.

            Võ Minh Thần cũng hiểu hiện hai hai người chưa đủ tài thuật trừ loài yêu quái. Vì loài này thuộc âm, đã thoát khỏi các định luật thông thường về vật lý trên cõi dương trần, súng gươm thường khó phạm nổi. Chàng trai vụt nhớ giấc mơ kỳ lạ vừa nãy trên đồi cao, hồn oan mẹ chàng đã giục đi mau, và hôm rời miền Thập Vạn, vợ chồng chúa soái lạc thảo vô địch có căn dặn phải tìm đến vùng Thanh Âm động học thuật pháp sư rừng của bà Chúa ngàn thiêng, phòng trừ loài yêu nghiệt.

            Thoáng khắc, chàng trai nghĩ ngay tới chuyện bôn tẩu, chờ dịp khác phục thù, nhưng trong lòng mang cừu hận như biển, lại vừa xúc động cảnh mẹ hiền thác oan, hiện về, chàng tuổi trẻ chí hiếu nhịn sao nổi, bèn quắc mắt long sòng sọc, nghiến răng thét:

            -Sói tinh! Chính mi là con "quỷ mắt đỏ" bốn chân đã hấp sát mẹ ta trên biên thùy năm xưa... sao còn dám đổ cho Tây Sắc? Chỉ loài tinh mới biết biến hóa. Mẫu thân! Mẫu thân! Hồn mẹ khôn thiêng hãy về phù hộ cho con tru diệt con tinh, báo cừu tuyệt hận!

            Dứt lời, Võ Minh Thần cắn nghiến chót lưỡi bắn máu tươi giơ luôn tay phải phun phù vào lưỡi dao gài dọc cổ tay, chưa kịp chém xả, bỗng nghe trong cáng có tiếng cười khanh khách ma âm vọng ra:

            -Vòng xanh! Nhà ngươi làm gì thế? Sao lại cắn lưỡi phun máu? À! Phải nhà ngươi định thư phù? Ha ha! Ngốc tử! Bá Diện Thánh Quân có trăm mặt trăm giọng, cứ gì phải Hấp Sát Tinh Quân Tây Sắc mới có tài ẩn hiện?

            Võ Minh Thần không nói nửa lời, đưa mắt nhìn quanh, thấy đám quân mã vẫn tụ cả dưới gò, chàng trai vùng lẩm bẩm "mẫu thân chứng giám hồn thiêng độ trì", bất thần đánh vụt tay phải về phía cáng gấm.

            Từ cổ tay, lưỡi liễu diệp đao sắc như nước vấy máu thâm cừu bay vút ra phát một tiếng "véo" gần như tiếng đạn đi, nháng luồng sáng cầu vồng đâm xuyên qua lần mui rèm che phủ cáng, luồng sáng tắt, bức rèm hơi động chút, tiếp theo tiếng thụt phập rất ngọt, mạnh đến nỗi Võ Minh Thần muốn chồn cả tay.

            Vẫn im phăng phắc! Nhưng khi Võ giật tay di động đường thép, bỗng giật mình kinh hãi thấy rõ lưỡi dao cắm sâu lút cán như bị vật kia hút chặt lấy, không vọt bay đi được. Võ vội vận hết sức kéo mạnh về cố rút dao ra, bỗng nghe tiếng trong cáng phát cười sằng sặc:

            -À! Vòng xanh tài nghệ cao cường, biết cả thuật phi đao! Gan nhà ngươi to lắm! Dám chém Bá Diện Thánh Quân! Nhà ngươi tên họ chi! Ta quên chưa hỏi! Nói mau còn uống rượu nghe nhạc! Đêm này kỳ ngộ, phải cũng ta say một bữa ngả nghiêng.

            Võ Minh Thần phụt luôn dao tay trái, đưa mép khiên lên miệng cắn chặt, nhanh như chớp, phóng vụt lưỡi dao vào chỗ phát âm trong cáng. Véo, phập! Lần này chàng cũng phóng đâm như phóng giáo, mũi thép nháng sáng cái đã xuyên qua lần rèm phủ, và cũng bị vật kia hút thụt, Võ rúng động cả thân hình, tay chồn lại, y hệt nhát chém trước! Cả kinh, chàng trai lật đật vận hết sức lay giật rút ra, chỉ hơi nhúc nhích, vụt nghĩ thầm:

            -Lạ dữ à! Sao quái gở thế này? Từ khi hạ sơn, chưa bao giờ ta phóng dao lại không rút về được, dẫu có cắm vào thân xác, cũng không đến nỗi hút dính thế! Nó có sức phi phàm hút dao kiếm chăng? Bất biết, tình thế khẩn cấp rồi, không làm không xong!

            Bèn quay sang phía Quản Kình, Kình cũng vừa liếc sang ra hiệu, Võ hất hàm, Kình chụp luôn cây súng cối Saint Etienne bên sườn, vẩy "đoàng" một phát vào trong cáng, nào ngờ đạn vừa bắn ra, bỗng "bùng" một tiếng, một luồng kình phong quật trúng mặt khiên đến "xoảng" một cái mạnh như trời giáng, cả thân hình to lớn của Quản Kình lập tức bật ngửa về đằng sau, khoác cả tấm khiên ngã nhào xuống chân ngựa.

            Võ Minh Thần mắc cả hai tay rút dao không đỡ kịp, thấy Kình ngã thất kinh, đang khó nghĩ, đã thấy Quản Kình nhảy vọt lên lưng ngựa, tiếng trong cáng hét ra:

            -Thổ hầu sao dám bắn Thánh quân? Lần sau, ta quật chết! Vòng xanh! Tên họ?

            Nổi giận, Võ vừa rút dao vừa hét:

            -Sói tinh! Chính ta đang định hỏi mi điều đó! Mi còn lạ gì mười bảy năm xưa, chiều đó, ta còn là đứa bé lên hai lên ba!

            Tiếng dị phát âm trầm:

            -À, kẻ không biết cội nguồn! Vậy nhà ngươi đúng đứa bé vòng xanh cả thiên hạ đang đi tìm rồi! Hà hà! Càng phải uống rượu nghe nhạc cùng.

            Võ Minh Thần vẫn đinh ninh "con tinh" sẽ hạ đòn độc, vẫn thấy yên, Võ vừa bực tức vừa cay đắng gặp địch thủ đang lúc thọ thương, vùng quát:

            -Tinh sói! Ta muốn uống máu mi, không uống rượu với sài lang!

            -Không uống rượu nghe âm nhạc ta rộng ban ân, nộp vòng xanh vậy! Để thân lại báo cừu, ta sẽ giúp cho!

            Võ toan mắng, sực nhớ ra "bí ẩn của vòng xanh điểm huyết" đeo tay, chàng trai thở phào dịu hỏi:

            -Tại sao mi cùng cả thiên hạ loài người, loài vật thành tinh đều tìm chiếm đoạt chiếc vòng xanh? Nếu nói rõ, ta tính sau!

            Tiếng trong cáng cười âm âm:

            -À khách vòng xanh lại không biết vòng xanh là gì! Lạ dữ! Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn, càn khôn đảo lộn! Hà hà! Nếu nhà ngươi biết rõ, nhà ngươi sẽ mất mạng, vì nhà ngươi sẽ liều chết giữ lại, mà sức ngươi chưa giữ được đâu. Tốt nhất đưa ta cầm cho!

            -Nếu vậy ta càng cần giữ cái vòng này! Sói tinh! Năm xưa...

            -Ngốc tử! Ta đã bảo con tinh chúa ép mẹ ngươi làm vợ là Ma Vương Sắc Hấp Tinh quân, nó là Tây Sắc, đứng trong hàng Tứ Khoái. Còn ta, ta là Bá Diện Bá Âm Thánh Quân, là Đông Âm, trong Tứ Dị! Nó là con tinh đực, còn ta dẫu có hình diện đồng giống, nhưng giống cái!

            Trong đầu óc Võ vang lên câu truyền tụng về bốn nhân vật dị hình hiện nay: "Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu", chàng vận hết điện lực bất thần giật mạnh hai tay, bật ngửa về đằng sau rút ngay được hai ngọn dao lá liễu.

            Cả mừng, liếc coi, không dính sợi máu nào, chỉ có vết xam xám dính sát chuôi, đưa vội lên mũi ngửi, bật kêu "à". Mãi lúc đó mới hay cả hai lưỡi đã xuyên qua không khí chỗ con tinh nằm, cắm vào thân cây lớn sau cáng còn vấy nhựa tươi, cắm ngập và có lẽ còn bị cả "nó" đè ghìm chặt nữa.

            Không để phí một giây, Võ thò luôn hai ngón tay nhón mép rèm phủ lật phắt lên định xác định rõ vị trí mục tiêu rồi hãy liệu. Nào ngờ rèm phủ vừa vén soạt lên, thầy trò Võ lại thêm một phen kinh ngạc đến giật bắn người như điện giật vì... con Hồng Cẩu Quẩy mõm nhọn mắt khé bờm sư tử, lông vàng đã đâu mất, trong lòng cáng giờ đây lại có một thân người nằm đó, ánh đuốc hắt soi rõ mặt mũi dáng thân, làm hai thầy trò Võ cùng lạnh toát sống lưng, bật kêu "ớ", "trời" lê thê.

            Vì đó là một người đàn bà mặt hoa da phấn, mắt phụng mi tằm, môi cung, mũi thon, ngực phây, bụng thắt, mông bạnh, đùi thuôn, phá lãnh đan bó sát mông hờ nếp thủy ba, người thiếu nữ coi hệt các "bà nàng, bà chúa" rừng thiêng nằm nghiêng chống một tay lên má, nghiêng đầu đăm đăm ngó Võ không hề chớp mắt.

            Hai con mắt nữ lang xanh biếc dưới ánh đuốc chập chờn, nhãn quang phát ra tia lạnh lẽo đầy uy lực, và từ khuôn mặt, dáng thân, ánh mắt toát ra một sức hấp dẫn đến nổi da gà đàn ông.

            Tuy mỗi lần vén rèm phủ lại bị một phen kinh dị, lần này chàng tuổi trẻ họ Võ giật thót mình kinh ngạc như thường, đến lặng hẳn người đi tưởng tê tái cả da thịt, đến mươi khắc vén rèm vẫn giữ nguyên không buông xuống. Choáng váng chạm tia mắt biếc dị, chàng trai thoáng nghĩ thầm:

            -Sắc đẹp hồ ly! Yêu tinh! Nhan sắc phi phàm! Không phải gái trần!

            Trong cáng, nữ lang vẫn nằm chống tay nhìn ra, không nhúc nhích, Võ Minh Thần cũng nhìn vào không động đậy, như bị hai luồng hào quang hút lấy giác quan. Cạnh Võ, Quản Kình vừa nhảy được lên ngựa, tuy không hề gì, thân thể cũng bị đau nhừ vì nhát kình phong quật dồn mặt khiên và người đàn ông gan dạ này cũng lại bị một phen kinh hoàng như chủ. Hình dáng nữ nhân trong cáng làm y giật nảy mình, trố mắt dòm, kêu "ớ", nhưng chỉ năm, bảy giây, ánh mắt nữ nhân không chiếu vào y, y chớp lia lịa, tự nhiên rởn ốc, len lén ngó sang tiểu chủ muốn coi xem mình có ngủ mê hoa mắt chăng.

            Thấy ngay chàng trai ngồi lặng đi trong dáng kinh sững đến ngây đờ vì tia mắt nữ nhân quái đản trong cáng, Quản Kình vội dùng khuỷu tay khoác khiên thích nhẹ liên hai, ba cái, miệng kêu khẽ:

            -Con tinh cái! Cậu hai... Võ hơi giật mình, chớp lia vành mi, mãi khắc đó mới chợt nhận thấy vành mi trên bắt đầu tê nặng như sắp bị đờ ra. Nhớ ngay đến hai con mắt đỏ khé của Giao Long chúa hồ Ba Bê.

            Võ sực tỉnh ngộ liền:

            -À hai luồng hàn quang của nữ nhân kia có sức mạnh thôi miên có thể ru người vào "giấc ngủ thôi miên"! Lần trước cáng không, lần sau con chó sói mắt khé, lần này lại người đàn bà đẹp như bà chúa rừng thiêng... con tinh biến hóa ra chăng? Gươm máu thư phù chém cũng không ăn thua, súng Quản Kình bắn cũng như bắn vào cõi hư không... bất biết "nó" là con quái gì, Bá Diện Đông Âm hay Ma Vương Tây Sắc, cũng nguy rồi! Sức suy lực kiệt, không còn cách trị, giờ lại càng phải bình tĩnh tính kế mới được!

            Bèn quắc mắt vận nhân điện chống chọi lại hai luồng hào quang ma quái của nữ lang có sắc đẹp yêu tinh nằm trong cáng! Và chỉ mươi khắc, chàng trai đã thấy vững chí như thường, bèn liếc mắt trông quanh. Bọn gái hầu phu cáng vẫn đứng im phăng phắc, tất cả đều cúi mặt nhìn xuống, không kẻ nào dám trông lén vào cáng, chừng như sợ phạm nghiêm lệnh mất đầu như chơi. Thoáng cái Võ Minh Thần lại nghĩ:

            -Chó sói nằm, rồi lại nữ nhân... biết đâu chỉ là một hình tượng, "nó" đặt nằm đấy... nãy giờ sao không cử động? Lập tức thò tay lấy đèn bấm, bật "tách" chiếu rõ từ trên tán cây xuống cáng, không chi lạ. Võ lại chiếu đại luôn vào mặt người đàn bà.

            Rào một cơn gió đêm thổi lộng, bao nhiêu cây đuốc cắm quanh cùng rạp ngọn, vật vờ giãy dụa, kéo dài ngoằng, một mùi thơm hăng hắc đượm mùi hoắc hương lan xạ theo chiều gió thổi tạt vào mũi hai thầy trò Võ Minh Thần, đúng mùi da thịt đàn bà ướp đủ kỳ hoa dị thảo có một sức quyến rũ gớm ghê, nữ lang trong cáng bất thần ngồi nhổm dậy cười khanh khách.

            Giữa rừng khuya tiếng cười ròn tan như thủy tinh vụn cất lên chờn vờn dùi vào lỗ tai nghe như tiếng dao nạo mặt nứa, khiến cả hai người đàn ông nghĩ ngay đến mấy tiếng "ma rừng", "giọng cười yêu tinh", tự nhiên Võ Minh Thần buông vụt rèm xuống, trong cáng tiếng người đàn bà lanh lảnh vọng ra theo nhịp cáng đu đưa:

            -Không chịu uống rượu, nghe nhạc, tự tiện vén rèn nhìn trộm, dám chiếu cả đèn điện vào mặt, lại nhất định bảo Thánh quân Đông Âm là Tây Sắc tinh quân... vòng xanh nhiều tội khó dung! Hỏi tên họ cũng không xưng, thấy giá thánh quân không phủ phục, để đầy tớ bắn thánh quân, lại chém làm thủng cả rèm... tội không kể xiết! Khôn hồn thành kính cởi nộp càn khôn điểm huyết, quả nhân tha cho toàn mạng cả hai, bằng cãi lệnh... hà hà! Cãi lệnh thì... thì... cường toan bạch cốt! Hà hà!

            Tiếng đàn bà vãi ra, to dần, tỏa rộng dần, rõ ràng như một tấm lưới vô hình kết bằng âm thanh chụp xuống đầu hai thầy trò Võ Minh Thần, chưa hết một câu, tiếng đàn bà đã chuyển sang tiếng đàn ông, cứ thể đổi giọng, chỉ vài mươi giây, cứ mỗi tiếng một giọng, từ nam phụ lão ấu Tây, Tàu, Ta, Mán, Thổ, Mường, Lô Lô nghe như vỡ chợ, cả một chợ người tạp chủng chõ mồm vào tai hai thầy trò mà hò hét không khác đóng búa vào màng tai, còn gấp mấy lần ban nãy, nhức nhối đầu óc không sao chịu nổi khiến hai người vội vận sức nhân điện chống cự lại, khi tiếng nói vừa dứt, lại vụt chuyển sang tiếng đàn sáo kèn trống ấm ầm như sấm rền sét đánh phong ba xô quật ầm ầm, hai thầy trò Võ Minh Thần tưởng chừng màng tai thành cửa kính bị sấm sét, gió mưa đánh đập vào, làm cho châu thân rúng động, tâm thần choáng váng, không thể nào tưởng tượng chỉ có một cái miệng mà lại có thể phát âm thành một cuộc "đại hòa tấu" thần sầu đến thế.

            Võ Minh Thần lại đang lúc thọ thương trong mình không được mạnh như thường nhật, phải hết sức ngăn chống mới đỡ điên đầu, nhức óc, riêng Quản Kình tuy người to lớn, nhưng về điện công chưa khổ luyện mấy, nên choáng váng cả người.

            Thất kinh, Quản Kình kêu khẽ:

            -Không xong rồi! Chạy mau không vỡ lỗ tai!

            Cả hai tế ngựa như gió, trăm giọng vãi theo, như sấm sét, vẳng tiếng hét the thé:

            -Điện tiền! Bắt lại cho ta!

            Tiếng người thét ngựa phi ầm ầm đuổi theo, vài phút đạn vãi trốc đầu, may vùng đó rừng cây um tùm, lối mòn nhiều, cả hai ngoắt luôn vào rừng, chạy nhanh như gió, quanh co ngang dọc, lúc sau không còn nghe tiếng dữ đuổi theo, hai người mới dám hạ nước ngựa xuống kiệu nhỏ. Lối ngàn khúc khuỷu quanh co hun hút, nào ngờ ngựa vừa lao ra khỏi đoạn thước thợ, bỗng cả hai giật nảy mình thấy trước mặt một đám nhân mã sịch tới, không sao tránh kịp.

            -Ôi chao! Bị chặn đầu rồi! Cậu hai! Quay ngựa mau! Quản Kình bật kêu nhỏ, ngựa chưa kịp lộn lại, đám nhân mã kia đã trôi ập tới, tiếng quát thét lên, muốn vỡ màng tai. Đám người lạ xuất hiện thình lình, chỉ cách có một con suối. Võ Minh Thần, Quản Kình sịch thấy, tưởng đám quân dị của Bá Âm Thánh Quân, cả hai đều giật mình, chừng nghe tiếng người sang sảng như chuông khánh hắt lên, toàn tiếng Kinh, hai thầy trò vội định thần nhìn kỹ, nhờ ánh trăng mờ, lúc đó mới nhận rõ đám đông này vừa cưỡi ngựa vừa đi bộ, nhiều gấp rưỡi bọn Bá Diện Bá Âm ban nãy. Và giống hết một đám rước thần thường thấy tại Việt Nam. Cờ ngũ hành bay phấp phới, tàn tán lọng xanh lọng vàng nhấp nhô như nấm, người cũng mặc quần ào như trong đám rước, tốp mặc áo tứ thân khăn mỏ rìu cầm túi roi, tay thước, mã tấu, dao bảy... Tốp áo nâu đỏ nón chóp vác dáo, khiên. Tốp áo đoạn áo the đen, quần ống sớ. Tốp áo thụng xanh hệt các bô lão quan viên đi tế lễ, có cả phường kèn bát âm, chiêng, trống, thêm một đội kèn tây trống tây như trong đám rước "văn minh" đương thời. Ngoài ra, còn một toán lính hầu lính rước chi đó, mặc áo dài đen, thắt lưng xanh đỏ, đi ủng, vác súng, coi từa tựa lính triều đình thời vua Tự Đức. Nhác coi dáng điệu thảy đều trang trọng hết sức, nếu không nghe tiếng người nói vọng vừa rồi, thầy trò Võ lại tưởng một đám dân địa phương đi tới chỗ tập trung, đình chùa nào đó, để rước sớm. Đang chạy gặp quái nhân, thầy trò Võ lật đật rẽ cương sang phía hữu đi vòng ngang tránh đường. Nhưng mới được vài thước, bỗng nghe phía sau đám rước kia, có tiếng loa vang rền, rồi tiếp liền một hồi chiêng trống nổi lên vang động rừng khuya, đám nhân mã kia đồng loạt chuyển dịch cờ quạt tàn lọng dập dờn, chân người vó ngựa chạy rầm rập thoắt đã dàn ngang bên kia suối đứng nghiêm chỉnh. Thầy trò Võ thử tiến thêm mấy bước, đám người này cũng chuyển dịch theo, hai thầy trò lộn lại phía tả, cũng vậy. Hồi chiêng trống dứt, chợt từ phía sau đám người này bay vụt lên một cây đuốc lớn. Ngọn lửa cháy xèo xèo kéo dài vút thẳng tới đầu ngựa hai người, chiếu sáng rực khu suối. Bực mình, Quản Kình chực chụp bắt ném đi, nhưng ngọn đuốc đã chạy ngang đảo vù trốc đầu hai người như đèn cù, Võ Minh Thần cũng bực mình bỗng dưng bị soi mặt, chàng trai bất thần thò tay vụt thoi đuốc trở lại, dòm theo. Ánh lửa bay qua nhiều đám đông, kẻ một vệt sáng, soi tỏ cây cối bờ bụi, hai thầy trò thấy dưới tán cây có một chiếc kiệu sơn son thếp vàng chạm hình rồng phượng.

            Giống hệt kiệu rước thần, chỉ khác là kiệu này nhỏ hơn, kiệu cao ngất nghểu sát tàn cây do tám lực sĩ cao lớn khiêng, xung quanh có quân hầu mặc áo nâu đỏ che tàn lọng san sát, lại có mấy trai, gái loại đồng nam đồng nữ bưng điếu, tráp, các đồ tạp dụng.

            Khi cây đuốc bay gần cỗ kiệu, chợt thấy bức rèm trước lay động, rồi cây đuốc bay vụt vào trong kiệu, tắt ngấm.

            -Kha! Kha! Một chủ một tớ mặt mũi lạnh như tiền, quần áo Thổ rừng, mặt mày Kinh đặc. Lục lâm tứ chiếng thua lỳ, tay chơi trong mấy cõi Tây Tàu Ta chắc tay nào ăn đứt? Mặt kia mà đánh xì phé, bất xất cẩu, tàu ngầu... khối thằng mất nghiệp! Kha kha! Bán mặt "nàng ta". Ăn chết! Ăn chết! Chơi một canh! Chơi một canh! Xuống ngựa! Xuống chơi với tớ!

            Thầy trò Võ Minh Thần nghe rõ tiếng người từ trong cỗ kiệu sơn son thếp vàng vọng ra nói toàn tiếng sang sảng như chuông lại nghe khen "Mặt mày đánh xì phé ăn chết". Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, Võ Minh Thần càng ngẩn ra chẳng hiểu "chơi một canh" là cái quái gì, nhưng nghe bảo xuống ngựa, Võ cũng nói lớn:

            -Xin có lời chào bậc quý nhân nào đó! Thầy trò mỗ có việc khẩn cấp, chẳng thể dừng chân, xin quý nhân nào đó xá cho.

            Dứt lời định giục ngựa đi, nhưng tiếng lạ lại hắt ra:

            -A! Tớ đoán không sai! Ăn nói văn vẻ lịch sự, đúng là dân có học, con nhà gia giáo "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa"! Ngó qua cái mặt lạnh như tiền, biết ngay chú mày là tay tổ. Thấy mắt tớ có tinh đời không? Chớ chối! Tớ đây nghiện dữ rồi! Ôi chao! Mấy tháng nay đi khắp cõi Đông Dương, đến xó nào chúng nó cũng bảo "vái tớ cả nón", chẳng đứa nào dám "chơi" với tớ! Tỉnh nào chúng nó cũng bầu tớ làm tiên chỉ, vua chúa, tổ sư, không đứa nào chịu chơi với tổ sư! Đứa nào cũng bảo tổ sư bịp! Nó có biết đâu tớ có mắt tinh đời, mắt tháu có thể dòm qua bát! Đêm nay lớ ngớ vớ ngay được chú mày! Lãnh diện tiền! Chơi một canh! Cửu vạn bát sách chi chi thông tâm lèo thập hồng kính cổ, xì tây đầm chức xập, lưỡng phế, mìn sầu, sấp một sấp ba ông cụ tống cửu thập, tài giỏi mấy cũng thua thằng vận đỏ cửu văn rút nửa ly ông cụ, gặp hồi đen, nhị văn tống cửu, kha kha!

            Tiếng cười cất lên hết sức khoái trá. Quản Kình khẽ bảo tiểu chủ:

            -Y rủ đánh bạc! Y bảo cậu hai đánh xì phé giỏi!Võ Minh Thần trợn mắt ngó Kình thở phì, lắc đầu nói lớn:

            -Quý nhân nhầm rồi! Mỗ từ nhỏ đến lớn có biết đánh bài đánh bạc gì đâu!

            Tiếng người cười ré lên:

            -Hí ngôn! Hí ngôn! Lãnh diện tiền đồng! Mặt hai chú mày là mặt dân trùm xì phé, tháu cáy như ma! Tớ đây mài thủng mấy chục cái đũng quần trên chiếu bạc, mất mấy cái cơ nghiệp ông cha nội ngoại để lại, mới học được cái nghề lấy cơ nghiệp thiên hạ nhãn tiền, xem mặt bắt hình dung, sai thế nào được! Hồ lì đâu! Vào cuộc!

            Lập tức từ phía cỗ kiệu lại bay vù ra một cây đuốc, tiếp theo có tiếng gọi:

            -Đốt đèn đuốc lên cho bọn tao làm một canh! Mặt tiền cẩu! Tiền chủ hậu khách, châm lấy khước!

            Theo tiếng hô, ngọn đuốc chạy dọc từ dưới lên, cứ chạy tới đâu, đuốc lại cháy bừng bừng tới đó, đến hàng người đứng ngang suối, cây đuốc chạy hình thước thợ, lại hàng đuốc nữa cháy lên.

            Nhờ ánh lửa rực soi, thầy trò Võ Minh Thần mới nhận ra mỗi người cầm sẵn một cây "hồng".

            -Lại quái nhân dị khách nào đây? Thù hay bạn? Hung hay ác? Khoe mắt tinh đời mà cứ nhất định liệt kẻ không biết đánh bạc vào hàng trùm xì phé... Nhân vật nào đây? Chưa thoát khỏi "đám rước vua" đã tới nạn "đám rước thần"! Phiền thật!

            Đang nghĩ vẩn vơ, cây đuốc đã bay qua suối lao thốc vào mặt, Võ tiện tay kẹp cán lửa, đoán có lẽ y muốn thử mình chăng, chàng trai vận điện công quăng vù cây đuốc, ánh hồng chạy theo hình thước thợ bay vút về phía kiệu son, cả khu suối đã thành hình chữ "T" in kép lửa. Cây hồng đuốc chui tọt vào kiệu, Võ sực hỏi lớn:

            -Quý nhân chưa cho biết tên họ!

            Tiếng cười ha hả vọng lên hồn nhiên hết sức:

            -Ha ha! Vậy ra chú mày vẫn chưa biết tớ là đứa nào ư? Thấy đám rước thần tàn lọng, kiệu sơn son thếp vàng, còn chưa biết ai ngồi trong. Thôi! Đúng chú mày mới ở bên Tàu bên Tây về nước rồi! Tớ là Thần đây mà!

            Ngạc nhiên, Võ buột miệng:

            -Thần? Lạ dữ chưa! Trùng tên với mỗ!

            Lập tức tiếng trong kiệu bốc cao giật giọng:

            -Sao? Chú mày cũng là Thần? Hay dữ a! Thần ngộ Thần! Nhưng chú mày là loại thần gì chứ?

            Ngơ ngác, Võ nhíu mày:

            -Thần là Thần chứ còn gì nữa! Minh Thần! Còn quý nhân...

            -A! Thần Minh Thần! Tớ là thần Đổ! Vẫn ngơ ngác, Võ hỏi:

            -Thần Đổ? Mà sao lại đổ?

            Võ định hỏi "Đổ" gì? Đổ vỏ hay đổ đất đổ cát, lại hãm được. Tiếng trong kiệu quát:

            -Còn đổ gì nữa? Đổ Bác chứ còn gì? Chú mày là dân trùm xì phé, xóc đĩa, không biết Đổ Bác thần này sao?

            Cả Minh Thần, Quản Kình bỗng giật nảy mình, nhìn nhau chột dạ. Mãi khắc đó, hai người mới sực nhớ đến "Tứ Hung Tứ Khoái". Trong thiên hạ có bốn nhân vật khét tiếng được giới giang hồ tứ chiếng Tàu Ta liệt vào hàng chúa tể bốn món khoái hung nhất đời: Tửu, Sắc, Yên, Đổ! Với câu truyền tụng "Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc Yên, Nam Đổ", mỗi vị một phương, bản lãnh cao cường, nghề chơi cũng trác tuyệt, bốn vị hung thần khoái thần này được thiên hạ kể như "bốn món ăn chơi" ai gặp chưa hẳn là có phúc! Vì cả bốn nhân vật này đều là hạng quỷ khốc thần sầu ẩn hiện bất kỳ, tính nết dữ hiền tỉnh say không lượng! Và cùng với tứ dị "Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu" thành bát quái khắp mấy dải Lĩnh Nam, Bắc Quốc ai cũng phải ngán.

            Bất giác, Võ vùng hỏi lớn:

            -Đổ Bác thần... có phải thiên hạ thường gọi Nam Đổ chăng?

            -Còn gì nữa! Nội nước Nam này chỉ có một tên trùm Đổ Bác, đánh bạc như thần, vơ tiền như chớp, thóc đụn tiền kho, đứa nào không biết! Hồ lì đâu? Giải chiếu! Đánh ngay trên suối cho mát mẻ!

            Thuộc hạ dạ ran, người ngựa chợt di động như đèn cù, từ dưới, một người cao lêu nghêu mặc áo the, thắt lưng đỏ, chít khăn, tay cầm loa đi một cặp cà kheo lênh khênh gần chạm ngọn cây, bước lên đứng giữa suối, gọi loa rền rĩ, bọn cầm túi roi tay thước chạy lăng xăng dẹp đám, mấy tên vạm vỡ khiêng lên một bộ ghế ngựa đặt phăng giữa suối thành một cái sập rông, một tên gầy gò áo the rộng lùng nhùng trải một chiếc chiếu hoa cạp điều, vẻ rất thạo, quát một tên đàn em đội ra một cái rương đặt phịch góc sập. Bọn chúng làm rất nhanh, gọn, bọn hồ lì quen giải chiếu mời khách đến độ "đồng thuộc".

            Thầy trò Võ Minh Thần ngó đám người chạy lăng xăng thoắt đã thấy giữa một vòng nhân mã, đuốc sáng rực như hồi nãy trên gò, bỗng thấy một đám tàn lọng cờ quạt nhấp nhô tiến tới, bọn khiêng kiệu đặt phịch xuống đất, kiệu vẫn còn cao đến gần tám thước tây, một bọn cầm cờ quạt cắm lia lịa quanh khu kiệu, sập, tàn lọng che nghiêng cả về trước cỗ kiệu. Bọn đồng nam đồng nữ thoăn thoắt trèo lên kiệu, chợt bốn tên cầm lọng xanh lội sang suối che luôn trốc đầu hai thầy trò Võ, chàng trai ngơ ngác lúng túng chưa biết tính sao, vùng hướng sang cỗ kiệu nói lớn:

            -Đổ Bác Thần! Mỗ xin khất tuần sau! Thú thực mỗ bị trọng thương, đang chạy kẻ thù nguy hiểm, trong mình khó chịu không thức chơi được!

            Tiếng trong kiệu hắt xuống:

            -Chơi một canh! Tớ ghiền lắm rồi; gặp thần đổ bác, không làm một canh sao được! Bị thương? À! Không sao, tớ có món thuốc bổ âm như thần uống một viên thức hàng tuần vẫn tỉnh như con sáo à! Sao? Chú mày chạy kẻ thù à? Không hề gì! Cứ ngồi chơi, nó đến, tớ bắt đánh một canh được rồi!

            Võ Minh Thần, Quản Kình hết sức khổ tâm bực mình bối rối, muốn bỏ đi xem chừng rất khó, phải hạ hết mới đi nổi. Đang nát óc, dòm lại, bất thình lình sực thấy ánh đuốc hiện chập chờn trên ngọn đồi sau lưng, Quản Kình bật kêu:

            -Nó kia rồi! Nó đuổi tới... phải đi mau!

            Minh Thần chưa kịp đáp, tiếng trong kiệu đã vọng ra:

            -Phải lũ đuổi chú mày? À! Cứ đứng chơi! Bay đâu! Đón mời đám khách mới! Hồ lì! "Đèn thần" đâu sao chưa đưa ra? Đánh bạc phải chơi đèn mới phải phép chứ!

            Thầy trò Võ nóng lòng như lửa đốt, chợt thấy gã hồ lì trưởng tốp khệ nệ bưng ra một cây đèn đặt giữa sập. Phải gọi là cây đèn quái mới đúng vì tuy chỉ là một cây đèn thắp bằng dầu hôi, nhưng cả đời hai người chưa thấy cây đèn nào vĩ đại đến thế. Đèn cao viễn chiếu, nguyên chiều cao của nó đúng bằng một người cao nhất, chân đèn to như cột đình, còn cái phao còn quá cỡ, chu vi đúng bằng cái nia đường kính tới thước rưỡi tây, không biết đổ mấy thùng dầu mới đầy. Cái bóng đèn bằng pha lê còn to gấp mấy cái chân, nguyên ngọn đèn mỗi bấc cũng hơn ba gang tay đường kính. Thấy hai người trố mắt dòm cây đèn quái gở, nhân vật trong kiệu nói vọng ra:

            -Cây đèn thần này phải "thửa" mấy hãng mới được đó. Tớ đã "thửa" một cây đèn "măng xông" tận bên Tây chưa thấy gửi sang!

            Võ ngoảnh nhìn ánh lửa sau lưng rõ dần, vùng nói lớn:

            -Đổ Bác Thần! Để mỗ đi cho tiện! Bọn chúng lợi hại vô cùng, mỗ không biết đánh bạc, trong túi chỉ còn ít đồng "xòe"! Vừa dứt lời bỗng cả hai cùng giật mình một cái nghe tiếng cười hắt xuống:

            -Không sao! Tớ có vàng bạc, chú mày có vòng ngọc điểm huyết, đủ rồi! Chớ ngại! Đổ Bác Thần chơi rất đường hoàng, được ăn thua chịu, không bịp đâu!

            Minh Thần động tâm, vùng hỏi:

            -Sao biết có vòng xanh?

            -Kha kha! Đổ Bác Thần tinh mắt, chú mày đeo vòng xanh lè đỏ khé trong ống tay áo lại không thấy ư?

            Hai người dòm xuống, lúc đó quả chiếc vòng bị ánh lửa phản chiếu phát sáng xanh, đỏ rực như dạ minh châu, đến nỗi chỉ nhìn xuống suối cũng thấy ánh dị lấp lánh.

            Còn đang túng xử, đã thấy gã hồ lì cầm đuốc thắp đèn, ánh sáng bừng lên, khói lửa vĩ đại chiếu sáng rực cả khu chiếu bạc. Bọn đồng nam đồng nữ khiêng từ trên kiệu xuống mấy cái rương, mở ra, đầy ắp bạc "xòe", bạc giấy, vàng lá, vàng thoi sáng chói.

            Quản Kình buột miệng bảo Minh Thần:

            -Thần Đổ Bác giàu dữ à! Không thua Thạch Sùng, Mao Diên Thọ, đi chơi còn đem theo hàng mớ chắc ở nhà đầy kho!

            Kình thì thào ghé sát tai chủ, nào dè vừa dứt lời bỗng nghe tiếng quát từ trong kiệu hắt xuống:

            -Nói càn! Phỉ thui! Oải đen! Đóng cái miệng lại! Thiên hạ đông tây nhiều đứa còn máu mê cờ bác, của cải cơ nghiệp nhà nó là của tao, vàng bạc châu báu thiếu chi, nhà băng còn chưa ăn đứt tao, sao ví với mấy thằng đó! Vương Khải tiền phúc hậu bần, hạng ngu dốt, ngáp phải ruồi, có ít của, hết vận may sạt nghiệp chết hóa con thạch sùng tiếc của tặc lưỡi nghe ngứa cả tai. Còn lão Mao Diên Thọ là hạng gian thần mãi quốc, thừa cơ ăn hối lộ, tích của ngồi dòm, của cũng hết mà đầu cũng đứt. Còn như lão Quách Khai nước Triệu, cực phẩm đại thần mà còn tham của địch Tần. Vàng tích mấy mươi xe, khi Triệu mất, vàng, đầu cũng mất. Còn tao đây Đổ Bác Thần làm giàu chính đại, được ăn thua chịu lầm thua dốt nát mất tiền, giỏi cứ việc vơ tiền thiên hạ giàu có cả đời, tụi nó máu mê bao giờ tao hết của? Tao đã giầu vậy, chủ mi kém gì, có cả càn khôn trong túi, vàng bạc nào mua nổi càn khôn?

            Hai thầy trò đều kinh ngạc không hiểu sao nhân vật trong kiệu bên kia suối lại nghe nổi lời Quản Kình nói nhỏ, cả hai còn đang ngơ ngác nhìn nhau đã thấy sau lưng rầm rập, ngựa hí quân hò inh ỏi, từ nẻo rừng già đèn đuốc đổ ra sáng rực, nhác trông tàn vàng tán tía biết ngay lính tráng cổ kim của Ma Quân Bá Âm đuổi tới, tiếng trong kiệu vọng ra:

            -À tụi nó đến kia! Phải tụi rượt chú mày? Coi như cáng võng của "con ma trăm giọng"!

            -Dạ chính y! Con chó sói thành tinh lúc hóa đàn bà, Ma Quân Bá Diện đó!

            -A! Vậy đợi chút, tớ tính cho, làm canh sau chưa muộn!

            Lời vừa dứt, đã thấy đám tàn tán dàn đối diện vòng ngoài, có tiếng loa vang động chõ vào:

            -Nghe đây! Xa giá Thánh quân tới, truyền dẹp đường mở lối, Thánh quân ngự giá đuổi bắt giặc kia!

            Tiếng loa trong trỏ luôn rền rĩ:

            -Nghe đây! Chúa thần sắp đánh canh bạc lớn, truyền ai thích vào chơi, không thích, bỏ đi tùy ý. Đây sòng bạc của Thần, không có giặc, địch lôi thôi, chỉ có chẵn lẻ.

            Tiếng loa vang dậy, cứ bên kia hô "dẹp đường" bên này hô "xáp chơi", bên kia hô vào bắt giặc, bên này lại hô chỉ có khách đỏ đen, lời qua tiếng lại hai bên chĩa súng gươm thủ thế không ai chịu ai, bỗng có tiếng hét lanh lảnh hắt vào:

            -Tàn lọng nghênh ngang, đến đâu gây sòng đấy, phải Đổ Bác Thần? Sao không bảo đầy tớ lui ra, cho Thánh quân bắt hai tên trọng phạm?

            Lúc đó tiếng trong kiệu mới vọng ra như chuông khánh:

            -Tàn tán ngả nghiêng, võng cáng rập rờn, phải Ma Quân Bá Diện? Ha ha! Người anh em đến hơi chậm chút, sòng đã dựng rồi, chỉ có cách vào làm một canh, "được ăn thua chịu, tinh ăn lầm thua vô ý mất tiền, đứa nào bịp, ba đời đi hành khất"!

            Tiếng cười thét nổi lên:

            -A, con ma đổ bác này khôn dữ, chuyên rủ người đánh bạc để lột tiền của, đồ gia bảo. Nhà ngươi định lột vòng càn khôn của hắn?

            -Chớ lộng ngôn, nói giỡn! Hắn có thể lột hết nghiệp của ta. Đã gọi đỏ đen, ai dám chắc? Đổ Bác Thần lại không thể thua thằng vận đỏ được ư? Tài giỏi mấy cũng thua thằng vận đỏ, ta đôi xì đôi tẩy, nó hai con sất, nó tháu, ai biết nó tẩy xì, tẩy sất? Không bắt có mà điên, bắt vào nó tẩy sất chết không kịp ngáp!

            Im lìm, khu rừng vụt chờn vờn sát khí. Mũi súng gươm lừ lừ lăm le nhả đạn. Chợt xa xa cáng gấm theo tàn tán lướt lên, có tiếng quát sắc đủ mọi thứ giọng làm ngựa đồng hí loạn bậy cả lên:

            -Nếu ta không thích đánh bạc?

            -Thì đánh nhau! Lệ ta đã đặt, sòng bạc dựng, chiếu hoa trải sẵn, đèn thần đã châm, toàn quyền thống sứ đến cũng vào chiếu bạc muốn phá sòng cứ đánh bạt Thần đi!

            Lại im. Cáng gấm xẹt ngang, dọc qua như quan sát chiến trường, bỗng tiếng dị quát lớn:

            -Được! Ta vào đánh một canh cho vui! Nhưng nghề phải cho cân, vừa uống rượu vừa đánh bạc! Ta có nhiều rượu ngon!

            -Càng hay! Bay đâu! Mời khách quý vào! Gã đi cà kheo lênh khênh bước qua suối, bắc loa gọi rền rĩ, đám quân hầu đầy tớ của Đổ Bác Thần lập tức dạt ra mở một lối đi rộng ngay qua con đường mòn. Tít ngoài xa dưới vầng sáng đuốc chập chờn thấy nhô vụt lên cao, tàn vàng tán tía dập dờn chạm ngọn cây có tiếng quát vọng vào, mỗi tiếng một giọng nghe như đóng búa lỗ tai.

            -Uống rượu nghe nhạc đánh thắng bạc, quả nhân sẽ dẫn thầy trò khách vòng xanh đi, còn nhà người cũng phải theo quả nhân làm nội thị!

            Tiếng trong kiệu hắt ra:

            -Không những thế bao nhiêu của cải quân hầu, đầy tớ của ta sẽ nhập cả vào kho ngươi! Còn nếu ngươi thua?

            Lưỡng lự ít giây, tiếng Bá Âm vọng tới:

            -Thua tất nhiên quả nhân sẽ để của quý lại cho ngươi! Và quả nhân sẽ để cho ngươi mọi điều tùy ý người sai khiến! Nhưng cấm làm trò quỷ thuật!

            -Yên chí! Ngươi sòng phẳng lắm, nếu ta lắt léo gạt người, thiên lôi đả chết! Kiến mục dị chi... hèn! Thần Đổ Bác nổi danh thánh sư cờ bạc vì tài nghệ cao thấp, chơi đúng đỏ đen, được ăn thua chịu, ta dẫu máu mê, rất ngán danh cờ bạc bịp! Nếu ta chơi cờ bịp tam đại ăn mày! Vào mau! Thần Đổ Bác nhập rồi! Còn thầy trò chú Thần kia cứ đứng chầu rìa cho tăng phần long trọng! Canh bạc này to nhất Đông Dương!

            Ngoài xa chợt tiếng nhạc trỗi lên, vừa đàn sáo bát âm sênh tiền, vừa kèn Tây, trống Tây dập dình trầm bổng, cứ một cung Lưu Thủy, lại một cung Bình Hành, hòa tấu lẫn lộn nghe rất lạ tai, thầy trò Võ Minh Thần nhìn ra, tiếng tốp quân mặc áo lốt lính khố xanh, khố đỏ, phò cáng gấm lên vào tàn vàng tán tía, nghênh ngang đi đầu là viên râu xồm xưng là Điện tiền chỉ huy với mấy tên quân mặc áo màu đỏ cầm giáo dàn mặt đúng nghi thức vương Tàu xưa, bên tả vẫn mấy ả phi hầu mang các đồ tửu khí nhật dụng, dàn nhạc theo sau. Đoàn người ngựa kỳ dị đi êm như lướt trên mặt cỏ, đã thoắt chuyển dịch tới gần chỗ thầy trò Võ đứng ngựa cách đường năm bảy bộ. "Rạp" đứng cả lại âm nhạc tắt, lúc đó cáng còn cách bờ suối khoảng bốn năm thước. Lập tức, phường kèn nhạc của sòng bạc cất lên một bản nhạc như đón chào khách quý. Khi nhạc hết lập tức có tiếng quát lui trong cáng, đám quân phò cáng cúi đầu kính cẩn đi vòng lại bên cáng, buông súng gươm giáo mác chào nổi nhạc, lục đục lội ra thẳng tít phía ngoài xa, dàn đợi xa xa, chỉ còn bọc che tàn tán phủ cáng, gái hầu.

            Ngay lúc đó, đám quân phu kiệu cũng rút hết ra sau chỉ còn để lại bọn đồng nữ, phu kiệu cùng tốp hồ lỳ. Trong kiệu có tiếng vọng ra, giọng thấy cao hứng:

            -Khách quý vào sòng! Hồ lỳ đâu! Đồ nghề!

            Hồ lỳ dạ ran, tiến lại bên sập mở nắp rương lôi dụng cụ đổ bác ra.

            Võ Minh Thần bình sinh chưa hề chơi cờ bạc bao giờ, ngoại trừ vài lần theo tôn sư, bạn bè chầu rìa đám bạc, hoặc theo vào sòng bên Hồng Kông, trên Packha nhưng chàng trai không có máu mê nên đến nay vẫn hoàn toàn mù tịt, như chim chích vào rừng.

            Trái lại, Quản Kình lại là một tay chơi một thời, nhất hồi còn "đi lính sang Tây", nên cũng thạo nhiều món, ghé sát bên, thì thào giảng từng môn một cho chủ hiểu. Hồ lỳ trịnh trọng bày đồ nghề ra sạp, đâu vào đấy, chợt y bưng ra một cái bát hương, một cỗ bài vị sơn son, có viết ba chữ vàng "Đổ Bác Thần" lấp lánh. Đoạn y thắp một bó hương lớn cắm bát hương rồi cùng đám "đàn em" đứng chắp tay kính cẩn hướng vào "bàn thờ".

            Từ trong kiệu, bỗng có tiếng vọng ra, "khởi chinh cổ" ngân nga hệt giọng văn tế. Rồi sau mấy tiếng "hương bá" kéo dài, trong kiệu bỗng vọng ra đúng giọng "phụ đồng ếch" vang động cả cánh rừng khuya:

            -"Phụ đồng cờ! Phụ đồng cờ! Phụ đồng cờ bạc! Thỉnh hồn đổ bác hồn lạc phương nào nhập vào chiếu bạc! Mấy tầng lính gác cũng cố mà vào, mấy tầng gươm đao cũng vào cho được! Phụ đồng bạc thỉnh hồn đổ bác về ngự chiếu bạc, về vác đống tiền, ba bề bốn bên đồng lên cho chóng, mấy tầng cửa đóng cũng cố mà vào, mấy tầng nhà rạp cũng vào cho được!

            Phụ đồng cờ, phụ đồng bạc! Thỉnh hồn đổ bác! Nhập vào con bạc! Cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà bán hết cho chân vào cùm, về nhà vợ chửi um sùm, hết tiền hết bạc nhảy ùm xuống sông. Đổ bác phụ đồng vào trông chiếu bạc, phụ đồng cờ bạc thỉnh hồn đổ bác nhập vào con bạc! Cờ bạc là bác thằng giàu, tiền làng vơ hết tậu trâu tậu bò, canh bạc tốt, tậu nhà mấy hồi sắm ngựa cưới ba vợ liền!

            Bạc tốt như tiên, bạc tiền bạc của! Phụ đồng cờ bạc! Thỉnh hồn đổ bác nhập vào con bạc! Cờ bạc là bác đỏ đen, ngồi vào chiếu bạc như tiên non bồng, cờ đen mất vợ mất chồng, mấy canh bạc đỏ như rồng gặp mây. Máu mê chơi suốt đêm ngày, tổ tôm xóc đĩa cò quay tài bàn. Một canh khát nước đời tàn, mấy hồi tháu cáy tiền nàng vào tay. Máu mê cờ bạc đêm ngày, một canh bạc bịp mặt ngây cán tàn.

            Phụ đồng cờ! Phụ đồng bạc! Thỉnh hồn đổ bác nhập vào chiếu bạc, nhập vào con bạc, nhập bác thằng bần, nhập gần nhập xa, nhập qua nhập lại, nhập tái nhập hồi, nhập vào chiếu bạc".

            Tiếng phụ đồng đổ bác tuôn như nước chảy, bó hương lập lòe như lên đồng, khói xám tàn bay. Võ Minh Thần liếc nhìn không khỏi ngạc nhiên thấy bài vị bát hương sập gỗ chiếc cạp điều, bọn hồ lì cùng tàn lọng, kiệu son, đồng nam đồng nữ cũng đảo theo coi hết sức quái gở. Chàng trai liếc sang bọn Bá Diện Ma Quân, cũng thấy cáng gấm, quân hầu nam nữ lắc lư hòa nhịp!

            Bèn ngó sang Quản Kình định nói chi bỗng trố mắt sửng sốt, thấy Quản Kình cũng lắc theo. Rồi chợt ngạc nhiên bỗng thấy chính mình cũng lắc lư như lên đồng. Võ vội định thần chú ý mới hay chính con ngựa đang lắc lư ngả nghiêng theo nhịp phụ đồng đổ bác. Võ vội gò cương, vỗ nhẹ ngựa, thích Quản Kình. Y bàng hoàng chớp mắt, lật đật định thần. Võ khẽ bảo:

            -Coi chừng! Phải tỉnh táo! Nhân vật Đổ Bác Thần trong kiệu rất giỏi thôi miên đó! Giọng tống cho phụ đồng của y có mãnh lực "ru ngủ" người vật như không! Điện lực y càng ghê, phát ra chấn động cả tàn lọng bát hương đảo nghiêng ngả mà vẫn ung dung! Cuộc chiến đấu sẽ gay go hết sức! Đông Âm, Nam Đổ này là loại gì đây? Sao không thấy xuất hiện? Chiếu trải kia chắc phải xuống ngồi.

            Chợt tiếng phụ rất người chợt vụt im phăng phắc, tiếng trong kiệu cất cao:

            -Thần nhập rồi! Vào cuộc! Xóc đĩa, thò lò, quay đất, bất, đố mười, còquay, trạc tếch... thích chơi món nào trước cứ chơi! Nào! Xuống chiếu cạp điều!

            -Khoan! Ta không ưa xuất đầu! Ngồi trong cáng kiệu, được rồi! Rượu, nhạc đã!

            -Ôi chao! Chơi vậy đâu có khoái! Lại mệt nữa! Thôi cũng được! Tiền chủ hậu khách, ta bàn thế này: mời sang nhà nhau uống vài tuần rượu rồi chơi! Dân đổ bác chính tông phải hào hoa phong nhã! Ta mới cất được vò "rượu quý" ngâm "hổ tu trùng" ngon hết sức!

            -Hay lắm! Quả nhân có vò "mỹ tửu" cất toàn phân rãi "kim tằm trùng" thơm dữ, chắc ngươi vừa ý!

            Thầy trò Võ nghe qua hai nhân vật trong Tứ Hung Tứ Dị giới thiệu rượu quý cũng đủ ớn gáy. Vì cả hai món đều thuộc loại cực độc trên thế giới. "Hổ tu trùng" là giống sâu râu cọp sinh, còn "kim tằm trùng" là cũng do độc chất mà ra. "Hổ tu trùng" dân miền núi Đông Dương cũng có một số dòng họ nuôi còn "kim tằm trùng" nguyên của dân Miêu bên Tàu, một sắc dân quán quân về môn đầu độc chế ra...

            Thầy trò Võ còn đang ngó nhau phát ớn, chợt nghe tiếng hô "nào quý khách đâu", bỗng thấy rèm phủ cáng lay động cuộn lên rồi dưới vùng đèn đuốc sáng rực, một bóng đỏ chót lăn xòa, bắn vọt từ cáng qua suối phi tọt vào cỗ kiệu son!

            Từ chỗ cáng gấm đậu đến cỗ kiệu son khoảng cách độ chục thước, bóng đỏ bắn sang nhanh đến nỗi hai thầy trò Võ Minh Thần chỉ kịp thấy một khối đỏ như con bướm xòe cánh bay sang, không ai nhận ra hình dạng "con" gì cả!

            Và khi con bướm đỏ đã chui vào kiệu, luồng gió tạt lại phả vào mũi hai người một mùi thơm thơm hăng hắc kỳ ảo lạ, phảng phất rõ mùi da thịt đàn bà. Quản Kình dòm trố mắt, ghé tai chủ trầm trồ:

            -Ghê dữ à! Nó nhảy sang như tên bắn chim bay, cậu hai có thấy rõ hình thù không? Lại có mùi giống cái!

            Chàng trai ngó cỗ kiệu kín, trong rèm còn lay động, nhíu mày, vẻ nghĩ ngợi đăm chiêu:

            -Lạ thật! Lần này lại giống hệt con bướm đỏ, nếu không phải hóa hình, có lẽ "nó" khoác mảnh lụa hình con bướm, dang tay nhảy sang. Kỳ dị nhất là "nó" tiết ra mùi "người" đàn bà hệt ban nãy trên gò! Mùi nữ nhân này, thường xưa nay người nào nhuận thịt, thắm da lắm mới có!

            Cả hai lòng đầy thắc mắc, cùng nghĩ đến "con tinh đực Hồng Cẩu Quẩy chúa" đã ép duyên hấp sát mười bảy năm về trước, và đầu óc càng hoang mang, nghi vấn nặng.

            Lúc đó, bốn bề im phăng phắc, nghe rõ cả tiếng ngựa thở phì quất đuôi. Chợt trong cỗ kiệu son bật lên một thứ ánh sáng xanh lè như đom đóm lân tinh, nhưng rèm kiệu dày, không rõ hình bên trong. Chợt nghe tiếng oang oang phát ra:

            -Đông Âm nổi danh hiếu khách thường mời khách uống rượu nghe nhạc, tất là bậc hiếu âm! Nay mời Đông Âm uống rượu, không có nhạc, chẳng hóa

            Đông Câm! Ta cũng võ vẽ học nhạc, xin thổi một bài mừng quý khách nghe chơi trước khi uống rượu!

            Lời dứt, âm thanh nổi lên ngay, không phải tiếng đàn địch chi cả mà là tiếng kèn đồng. Tiếng kèn ồ ề gióng lên nghe thê thảm hết sức làm thầy trò Võ Minh Thần đứng bên này chợt nổi da gà, chạnh niềm tưởng ngay tới tử biệt não nề, vì cung âm quen thuộc muôn đời, bất cứ người Việt nào nghe cũng mủi lòng thảm thiết nghĩ tới cảnh chết cha chết mẹ đưa đám bà con. Vì đó là "tiếng kèn đám ma" thổi điệu Lâm Khốc! Trong đêm khuya rừng vắng, trăng nhạt sao mờ, giun kêu dế khóc, tiếng kèn não ruột bổng trầm rên rỉ ò e, trước còn nghe ra tiếng kèn, sau một hai cung tiếng kèn "đi" luôn vào chiều sâu linh hồn tâm tư tri giác hòa với lòng người thành ra như tiếng người than khóc gào rống hàng chục, hàng trăm, hàng chợ người tóc xõa, đội mũ rơm, mặc áo xô gai, chống gậy rơm lăn lộn kêu gào than khóc... trong lỗ tai, làm chàng trai mồ côi nghĩ ngay tới đám tang ông già họ Võ nghĩa phụ, đến cái chết thê thảm của mẹ chàng, tự nhiên nước mắt chảy ròng. Thầy tớ đều cúi đầu lặng lẽ, hai con mắt đỏ hoe. Cho đến khi tiếng kèn ma dứt hẳn, thì cả cánh rừng khuya như biến thành một bãi tha ma. Bỗng nghe tiếng hét lanh lảnh trong kiệu:

            -Ma đổ bác này! Mừng khách sao thổi kèn đám ma?

            Tiếng oang oang vọng ra như vừa khóc vừa quát:

            -Kiếp phù sinh nhanh như gió thoảng hữu hình hữu hoại, người ngợm ma quỷ thần thánh gì cũng không thoát khỏi vòng sinh diệt. Nhà ngươi giống gì, đã có hình tất có hoại, ta đãi ngươi rượu quý, có thể đưa về âm phủ, ta phòng xa tống tiễn, kèn đám ma thì vừa! Bài nay Nam Khấp có lần đãi ta, nghe buồn chết cha chết mẹ, ba vạn sáu ngàn ngày nhanh lắm, nghe một lần chết khỏi nghe! Ồ! Coi kìa! Bọn chúng đều chảy nước mắt! Ha ha! Thiên hạ Đông Tây sớm muộn đều chết cả, kèn đám ma của ta ăn khách, thua chi Nam Khấp. Cám ơn các chú mày đã khóc vì tiếng kèn ta!

            Võ vội lau nước mắt, bỗng giật thót mình sực nghe tiếng lảnh trong kiệu vọng ra cười khanh khách:

            -Đổ Bác! Ngươi đã lẫn rồi ư? Bá Âm Bá Diện Thánh Quân không cần nghe tiếng kèn chó chết của ngươi! Để dành thổi... đưa đám tang nhà ngươi! Hà hà! Còn ta! Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn, càn khôn đảo lộn! Hà hà! Càn khôn sắp vào tay quả nhân! Rượu quý đâu? Đưa uống cho rồi!

            Tiếng oang oang ré lên khoái trá:

            -À à! Nếu ta quên! Nếu vậy càng phải đãi ngươi kèn đám ma. Còn ta! Kha kha! Càn khôn đảo lộn càn khôn vào tay ta! Kha kha! Chơi một canh, đứa nào ăn nổi Đổ Bác Thần? Nào! Rượu quý đâu, cùng nhau cạn chén! Đây đây!

            Thấy chứ? Con "hổ tu trùng" này thuộc giống hổ vằn, nó lên mười đó! Một hòn phân mắt muỗi, cả chợ nghe kèn!

            Rồi trong kiệu chợt im. Mọi thứ đột nhiên im lìm như trong quan tài. Hai thầy trò Võ lắng nghe, mắt không rời kiệu, tưởng tượng cảnh đối ẩm bên trong "cỗ kiệu rước thần".

            Võ khẽ bảo Quản Kình:

            -Chú vừa nghe rõ chứ? Hai "nhân vật" ma quái kia vừa nhắc đến câu "càn khôn... đảo lộn", Tửu Chúa từng đọc trên Hồ Kiều! Chắc có điều bí ẩn liên quan đến cái vòng điểm huyết này.

            Quản Kình gật đầu:

            -Tôi cũng nghĩ thế! Cứ như lời họ vừa nói, vòng cậu hai đeo dính dấp tới càn khôn vũ trụ chăng? Nên thiên hạ nhiều người muốn chiếm, ông bà trước bị hại cũng vì thế!

            Hai người bàn bạc to nhỏ chừng mươi phút, trong kiệu vẫn im lìm. Kình thì thào:

            -Hổ tu trùng độc ghê gớm... ma quái uống vào cũng chết như không, hay họ gục cả rồi?

            Võ đang nghiêng ngó, lắng tai, sực nghe trong kiệu có tiếng vùng nói lớn, lần này năm bảy thứ giọng:

            -Cám ơn! "Hổ tu trùng" của ngươi ngon lắm! Giờ sang nếm thử "Kim tàm cổ tửu" của quả nhân! Nào!

            Hai người trừng nhìn không chớp, lòng hồi hộp, bỗng cửa rèm trước lay động, rồi bóng con bướm đỏ to bằng người bắn vụt sang phấp phới, đúng con bướm vỗ cánh, vút cái, đã chui tọt vào cáng gấm mất dạng, Lần này Võ nhận rõ thêm chút... thấy càng giống một con bướm khổng lồ, cũng rõ cả cái đầu đúng đầu bướm có cả ria, mắt trố lồi như hai hòn bi ve sáng loáng.

            -Hừ, bí mật! Người hay ma quái? Thời buổi điện lực máy móc này có thể có loài tinh hiển hiện nhãn tiền có trăm mặt? Hay...

            Nghĩ loanh quanh chưa dứt đã thấy rèm động lần nữa, rồi cả hai giật mình sửng sốt thấy một con dị điểu đo đỏ đen đen to bằng người từ trong kiệu son bay vù ra xòe cánh vút qua suối, vừa tới cáng thu cánh, chui luôn vào, êm như không.

            Nhờ ánh đèn lửa, hai người thấy mình nó đỏ, mỏ đỏ, cánh đen, chân đen, đầu đen tựa con quạ, coi hết sức quái đản. Hai thầy trò nhìn nhau lại một phen điên đầu chẳng hiểu chim ma chim quái, hay người vật khoác lốt chim.

            -Mình có cánh đen... khoang đen đỏ như quạ. Đổ Bác Thần là con quạ? Vô lý!

            Im mấy khắc, bỗng trong cáng vọng ra từng tràng âm thanh dữ dội, như xé rách không khí, chiêng khua trống gióng, kèn thổi tiêu lộng như trời long núi lở vang động rừng khuya... Tiếng "đại hòa tấu" hai thầy trò Võ đã nghe qua, nhưng không trực chỉ vào họ, nên chỉ thấy chói tai, không cần vận sức chống. Mấy phút sau, âm thanh tắt, có tiếng ong ong cất lên:

            -Vạn tạ Đông Âm gẩy đàn ồn hay dữ à! Rượu quý đâu? Uống vào còn chiến! Ta ngứa tay lắm rồi! A! Đẹp chưa! Ma quân nhà ngươi nuôi được con trùng ngộ lắm, coi không khác con chim trùng "thần nanh đỏ mỏ".

            -Kim tằm cổ trùng này một người Miêu cống cho quả nhân đó. Lên mười rồi! Một giọt nước rãi, hòn phân mắt muỗi, đủ cho cả mấy họ về âm!

            Lời dứt, trong cáng im lìm. Không khí muốn ngạt thở. Khoảng năm phút sau, bỗng có tiếng lệnh vỡ khua chói tai hắt ra:

            -Ngon dữ à! Rượu chi uống một muốn mười! Nào! Rượu quý ngà ngà! Chơi một canh đỡ ghiền! Chớ để thần Đổ Bác chờ lâu! Xuống sập ngồi chiếu cạp điều mới thích!

            -Không! Chơi cách không! Nhà ngươi không bịp được!

            Cáng động rèm lay, bóng quạ khoang bay vụt qua suối, chui vào kiệu mất dạng, rồi có tiếng hắt ra:

            -Con bạc thích chơi món nào? Bất? Tài xỉu? Cò quay? Xóc đĩa? Món nào trước đây?

            -Năm món! Mỗi món ba tiếng! Ba ván thôi! Xóc đĩa trước!

            -Hồ lì đâu! Đồ nghề! Gã cao mặc áo the "dạ" ran, bưng ra một bộ bát đĩa đặt giữa sập, mở ra trong có bốn đồng "trinh" Khải Định sáng loáng. Gã quơ vạt áo the lau bát đĩa, tiện tay lấy vạt áo phủi lia lịa mặt chiếu, đoạn lui ra chắp tay đứng một góc. Bỗng có tiếng lanh lảnh trong cáng vọng ra:

            -Tên hồ lì của ngươi coi như gã cờ bạc bịp! Sao không chơi tiền diêm? Tiếng trong kiệu cười ha hả:

            -À! Ngươi tưởng tiền diêm khó "nghe" tiếng bạc sao? Nếu vậy nhà ngươi phải bán vài cơ nghiệp nữa mới chơi nổi với ta! Phải biết dân chơi xóc đĩa đã tới bậc thần sầu, tiền nào cũng "nghe" được hết. Tiền xòng chữ sắc, dễ nghe, tiền trinh chữ tầy, nhận. Tiền diêm khó nghe chút nhưng cứ hai mặt khác nhau là nghe được ráo. Kha kha! Cái mặt diêm có dán giấy khi ngã nằm xuống đĩa nó "sền sệt đùng đục" nghe càng sướng tai hơn tiền trinh. Thực ra, dân xóc đĩa bày đặt ra chơi diêm chỉ cốt cho êm ru, sợ lính nhà nước rình bắt. Ôi chao! Xóc đĩa mà lại im ỉm như pháo tịt ngòi, khác nào Bá Nha, Tử Kỳ, Sư Khoáng lấy phải con vợ điếc! Tiền đồng khua rền âm thanh nghe khoái lỗ tai! Coi! Bát đĩa của ta toàn đồ gia bảo, truyền đã năm đời! Nội khắp Đông Dương này, không có "bộ" nào sánh kịp!

            Thầy trò Võ Minh Thần nghe Đổ Bác Thần khoe bộ đồ nghề chi bảo, tưởng ít nhất cũng bát vàng chén bạc, mạ kim cương chi đó. Chừng dòm kỹ muốn cười phì vì chỉ là một thứ bát đĩa rất thường mà lại rạn vỡ nham nhở coi như bát đĩa ăn mày. Chừng bằng sắt, gỗ chi đó, tráng sứ ngoài, men sứ đã nứt nẻ, tróc lở lỗ chỗ, lòi cả lần cốt trong.

            Bộ bát đĩa này chỉ to bằng bát đĩa ăn cổ, nếu có đặc biệt, là màu men tráng bát đĩa đều chỉ hai màu đen đỏ, chừng tượng trưng cho món chơi đỏ đen. Hai thầy trò nhìn nhau, không dám cười, bỗng nghe tiếng trong cáng hắt ra thé lảnh:

            -Bát đĩa hủi! Đồ gia bảo gì coi như chén bát thằng ăn mày! Nhà ngươi vét bao nhiêu cơ nghiệp con bạc, không sắm được món đồ nghề nào dễ coi hơn? Keo bẩn!

            Tiếng trong kiệu vọng xuống đầy cao hứng:

            -Thị bất tri kỳ vật. Nhà ngươi là hạng hiếu âm ta mới cho chơi bộ đồ nghề quý hóa này. Nếu hạng trọc phú bò sữa ta sẽ để chơi bát vàng đĩa bạc! Phải biết về đời vua Gia Long, hồi triều đình còn lệ xử phạt nặng dân cờ bạc như đời vua Lê Thái Tổ, một lần, ông nội ta mở sòng tại một tỉnh có ông quan tỉnh rất ghét cờ bạc. Ông nội ta đang ngồi xóc cái bằng bộ đồ này, thì ông quan tỉnh kia dẫn lính ập vào êm ru, không ai biết. Và khi nghe tiếng xóc rồi, ông ta thành luôn một con bạc chính tông, ấy chỉ vì... mê đồng tiền xóc bằng bộ đồ nghề này!

            Thầy trò Võ Minh Thần nghe Đổ Bác Thần tán tụng mãi "bộ đồ hủi". Hai người không nhịn được cười. Quản Kình ghé tai tiểu chủ vừa định nói chi, bỗng nghe tiếng "cái xóc". Rồi "cạch cạch", chiếc bát động đậy, bất thần nhảy lên khỏi mặt chiếu chừng nửa thước tây, rồi lại úp chụp xuống, như có bàn tay vô hình mở ra "trình làng" nhìn cho tỏ bốn đồng tiền ngửa.

            Và lập tức cả bộ bát đĩa lại nhảy lên, lần này chỉ độ hai gang, hơi nghiêng, rồi cứ thế xóc liên hồi. Thầy trò Võ Minh Thần hơi giật lùi, nhìn nhau, ngạc nhiên hết sức, vì bốn đồng trinh xóc trong bát úp thoát ra từng mớ âm thanh lạ lùng, không phải tiếng tiền đồng khua bát đĩa, mà là thứ âm kỳ dị bổng trầm véo von có đủ âm giai nghe như tiếng đàn trai thánh thót lẫn cả tiếng đàn cồng xứ Mường hay dùng, tiết tấu nhịp nhàng rộn rã, có hồi lại như chiêng khua, trống gióng, vui tai hết sức! Bát đĩa xóc rền đủ ba hồi, rồi mới từ từ hạ xuống mặt chiếu, dư âm còn thánh thót vang ngân trong tai mãi còn chưa dứt, cái bát xoay nửa vòng. Trong cáng tiếng dị bật lên lanh lảnh:

            -A... đàn xóc đĩa! Đàn xóc đĩa! Hay dữ! Ngộ dữ! Nghe vui tai lắm! Xóc thử hồi nữa mau! Quả nhân mê rồi đó!

            -Kha kha! Kha kha! Thấy không? Ta đã bảo đồ gia bảo ngũ đại mà! Đồ nghề bát đĩa thần nghe mà khoái chứ? Vậy mới xứng với món "đệ nhất khoái" chứ!

            Nhờ bát xoay nửa vòng, lúc đó Võ Minh Thần mới thấy rõ trên mặt bát có cẩn mấy chữ vàng lấp lánh như có cả dạ quang. Bên men đỏ có hàng chữ: "Thiên hạ đệ nhất khoái, hí cuộc tuyệt cùng". Bên men đen có hàng chữ "Thiên hạ đệ nhất hung, gia tài khánh tận".

            Vừa đọc nhẩm xong, bát đĩa lại nhảy lên mấy hồi nữa. Lần này âm thanh càng vang vọng giữa đêm rừng khuya, nếu không thấy bát đĩa xóc, người ta có thể tưởng tay nhạc sĩ rừng già nào đang dạo đàn, cũng như trước, cái bát chợt xoay nửa vòng, rồi nằm im.

            -Mở thử tiếng chơi!Tiếng trong kiệu vừa vọng xuống, chợt nghe tiếng trầm trồ suýt soa bên tai: "Sấp ba! Nhất định sấp ba!" Võ Minh Thần vội liếc nhìn sang, thấy Quản Kình đã hạ khiên xuống từ khắc nào, mắt nhìn lau láu vào bộ bát đĩa đặt giữa sập, miệng lẩm bẩm, xắn tay áo lia lịa, nhấp nhổm y hệt con bạc khát nước lăm le thò tay mở bát! Thì ra tiếng tiền đồng xóc rền trong bát đã khơi dậy "máu cờ bạc" trong người Quản Kình.

            Chàng trai họ Võ thích nhẹ khuỷu tay vào sườn người đồng hành, Quản Kình giật mình ngơ ngác, chợt ngượng, kéo vội khiên lên, nhe răng cười:

            -Sòng xóc đĩa... ma! Không người bát đĩa cũng xóc, tiền khua như gẩy đàn! Tiếng này chắc sấp ba!

            -Điện lực y mạnh lắm! Phát trảo xóc đĩa vững như cầm tay! Chú hiểu sao tiền phát âm lạ thế không? Bát đĩa này trong rỗng, sáng chế ra từ công phu dùng kim khí, dây vàng dây bạc, ve chai, da trâu... ghép vào lòng bát đĩa, có chia ra mấy bộ cung, mỗi cung nhiều âm, thành một cái "đàn bát", khi xóc, nhân điện ảm vào cũng như người ta đánh đàn cắm điện trời, nên tiếng mới kêu to đến thế! Coi chú có vẻ khoái đánh bạc dữ, chú đánh khá không?

            Quản Kình ghé tai chủ:

            -Biết đủ thứ! Tổ tôm, tài bàn, xóc đĩa, quay đất, bất, tài xỉu, xì phé... ngón nào cũng được! Nói cậu hai đừng cười, hồi đi lính sang Tây tôi bịp cả tụi quan Tây, tiền vào như nước. Nghề bịp không đứa nào bằng!

            -À! Thế ra chú cũng là "vua cờ bịp" một thời! Hay rồi! Vậy mình đỡ lo! Chú nhớ giảng từng món cho tôi nghe! Đang thì thào, bỗng nghe tiếng trong cáng hô: "lẻ". Cái hô "bán lẻ"; cáng hô "lẻ", cái hô "cân hồ". Mở ra sấp ba.

            Cái kiệu cười ha hả: "hòa". Cáng hét "sao lại hòa, ta đánh lẻ mà". Cái "Ơ! Ngươi không biết chơi sao? Cái "cân hồ" mặt được thì hòa, mặt thua cho hồ. Hồ là ta, ta là hồ mà!".

            Lại xóc "lẻ", cái hô "bán chẵn". Con bạc nói lớn: "Cân". Chiếc bát bay vụt lên quật đến chát vào tên hồ lì, tưởng vỡ bụng. Tên hồ lì đưa luôn hai tay bắt dính. Sấp hai, Bá Âm thua một tiếng.

            Đến tiếng sau, Bá Âm lại thua. Con bạc thét:

            -Đổ Bác! Để ta xóc! Nhà ngươi bịp?

            -Chớ đổ oan! Đổ Bác Thần nghe tiền sấp, ngửa như... thánh, cần gì phải bịp!

            Im, rồi bát đĩa lại nhảy lên, xóc lung tung hai, ba hồi. Khi hạ xuống chiếu, Quản Kình thì thào:

            -Cái bát đàn này, nó xóc, nghe dễ hơn Đổ Bác Thần! Mặt có chữ hạ xuống đĩa sào sạo rõ thật! Cái này sấp ba!

            Chợt nghe Đổ Bác Thần trong kiệu hô "chẵn". Hồ lì xướng "chẵn đánh", cái hô "cân", xoay nửa vòng bát. Quản Kình ngạc nhiên bảo chủ tiếng này Đổ Bác Thần thua như chơi, bạc sấp ba rõ quá mà, nhưng khi mở bát ra, lại đúng sấp hai. Bá Diện Ma Quân hất tung cái đĩa tiền, hét:

            -Ma Đổ Bác đánh bịp! Sao lại sấp hai? Đổ Bác Thần cười ré lên:

            -Ngộ dữ chưa? Nhà ngươi xóc cái kia mà! Đã bảo: Thần không chơi bịp đâu! Sao không hỏi mấy đồng tiền?

            Bá Âm giận rít lên, cứ hỏi: "sao lại sấp hai", "sao lại chẵn", "tưởng"... Đổ Bác Thần cười ha hả:

            -Bất quá tam! Món khác!

            -Tài xỉu!Võ Minh Thần chợt bật cười. Bá Âm hét:

            -Vòng xanh! Cười gì? Sao lại cười?

            Võ điềm nhiên:

            -Mỗ cười... sao lại sấp hai! Đáng lẽ sấp ba mới phải!

            Có tiếng thở phì rung cả cáng rồi im bặt. Quản Kình vẫn chưa hiểu, cứ ngơ ngác ngó chủ. Võ ghé tai:

            -Chú chưa hiểu sao? Tiếng bạc vừa rồi đáng lẽ sấp ba. Đổ Bác Thần thừa biết sấp ba, nhưng y già đòn, đoán Bá Âm sẽ lật ngược nước bạc y đánh, vì Bá Âm biết Đổ Bác là vua cờ bạc, nghe không sai, nên tính bịp Đổ Bác. Bá Âm đinh ninh không sấp hai thì sấp bốn, ngửa tư nên dùng luôn điện công gẩy lật một đồng tiền, nào dè, bạc lại sấp ba, gẩy đồng nào cũng hóa ra chẵn hết.

            Quản Kình vỡ lẽ, chịu Đổ Bác ma mãnh. Canh tài xỉu bắt đầu. Quả nhiên Đổ Bác Thần đánh như ma xó, thắng cả ba tiếng bạc. Tiếp theo quay đất, xì phé, tam cúc, Bá Âm đều thua, tuy cũng có vài tiếng được, nhưng điểm số Đổ Bác Thần vẫn trội hơn. Cuối cùng, Bá Âm hét "cò quay". Vì hai con bạc, nên phải chia số, kẻ lấy chẵn, người lấy lẻ. Bá Âm nhận lẻ: một, ba, năm, bảy... hô:

            -Vòng xanh, quay tiếng bạc này!

            -À phải đó! Đánh bạc định mạng chú mày, chú mày làm cái giùm là phải.

            Minh Thần búng vù một nhát chỉ phong. Cần quay tít, bàn cò quay có gài thêm một bộ phận phát tiếng leng keng cho vui tai. Tiếng leng keng chậm dần, từ từ dừng lại số bốn. Tưởng dừng, nào dè lại lừ lừ trôi nhích sang số năm. Nhưng vừa chớm hàng kẻ vạch, chợt dừng lại nhích vào chút, rồi lại trôi, tới vạch lại nhích về bốn. Quản Kình thì thào:

            -Cả hai đang đấu lực ngầm! Cả hai bịp!

            -Không! Bá Âm thua, dùng ma thuật. Đổ Bác tự vệ, cuộc lôi, ghìm còquay còn ngụ ý thử lượng sức nhau.

            Võ vừa nói xong, bỗng cả bàn cò quay rung động bần bật, rồi "rắc" tiếng khô dòn, cần gỗ gãy làm hai, bắn tung lên cao. Rầm! Cả bàn quay cũng bắn lên theo. Gã hồ lì nhảy vọt lên đỡ lấy trịnh trọng đặt xuống chiếu. Bá Âm vùng rống lên cực kỳ bi phẫn:

            -Đổ Bác! Ta thua ngươi rồi! Giờ ngươi được một điều sai ta! Muốn gì nói ngay!

            Chỉ có tiếng Đổ Bác cười ha hả, Bá Âm hét:

            -Muốn gì? Muốn ta cởi trần không? Hay muốn ta nộp hết cơ nghiệp, quân hầu đầy tớ...?

            -Hà hà! Chưa muốn gì cả! Cho ngươi khất đấy! Và hình như vòng xanh đợi ta lâu rồi thì phải?

            -Đổ Bác! Vậy ta sẽ trả sau! Vòng xanh! Mong đánh giỏi hơn ta! Bay đâu! Hồi loan!

            Tiếng hô trăm giọng vang âm rừng đêm, lính tráng, phường kèn chạy vào, âm thanh Đông Tây kim cổ hòa âm bài "tẩu mã", cáng gấm nhô lên, tàn tán ngả nghiêng, đèn đuốc vật vờ, đoàn nhân mã bỏ đi vùn vụt theo âm điệu bôn hành, thoắt đã chìm hút cuối cánh rừng xa xa... Ánh lửa nhỏ dần trong sương mờ rồi chìm hẳn như đoàn âm binh rút về cõi âm bên kia thế giới. Ai nấy trông theo. Đổ Bác Thần phát cười sằng sặc:

            -Con ma trăm giọng định bịp cả Đổ Bác Thần! Ta cứ việc đánh sao cho nó lật ngược, thế là ăn hết! Ta đã được canh bạc to, nó thua liểng xiểng còn bị "tam đại đi ăn mày" đau hơn hoạn! Nào đến lượt chú mày!

            Biết không khất nổi, Võ Minh Thần nói lớn:

            -Thú thực mỗ đánh bạc dốt lắm, có khi chưa sạch nước. Nhờ cả chú người nhà đây bàn bạc được chứ?

            Lập tức có tiếng cười thét vọng sang:

            -Ôi chao! Cái mặt chú mày lì như cái phản hàng thịt, mặt vua xì phé thò lò xóc đĩa bầu cua mà! Làm gái mãi! Cờ ngoài bài trong kéo cả làng cả nước bàn bạc, ai cấm? Lạ đếch gì nữa, còn hỏi vờ.

            Võ đang thắc mắc chẳng rõ chơi cách nào, sực lại nghe tiếng Đổ Bác Thần kêu lớn:

            -Bá ngọ Bá Âm bày trò giấu mặt đánh mò như sẩm sờ, chán như cơm nếp nát. Giờ chỉ còn chú mày với tớ, mấy thằng ung dung chễm chệ ngồi chiếu cạp điều chơi mới khoái chứ. Nào! Hạ mã, thượng sàng thượng sập!

            Võ thấy hồi hộp lạ, chẳng rõ Đổ Bác Thần thuộc chủng loại nào, bỗng thấy bọn đồng nam đồng nữ, bọn che tàn tất tả chạy như đèn cù, đám giương lọng, đám bưng điếu tráp, đồ tạp dụng càn dọc từ cỗ kiệu ra đến sập, rồi bức rèm kiệu chợt lay động, vén lên, bóng con quạ khoang đen đỏ từ trong đập cánh bay vù ra, lao chúc đầu xuống sập kê giữa suối, nhưng khi tới nơi, chợt con quạ ngóc đầu lên, lẹ làng đáp xuống ngồi chễm chệ trên chiếu cạp điều, đúng dáng con bạc vào chiếu.

            Ánh đèn vĩ đại, ánh đuốc hắt sáng rực, soi tỏ mặt mũi, dáng hình, thầy trò Võ đứng cách có mấy sải trông rõ mồn một, lòng càng kinh dị, cứ giương mắt ngó chòng chọc không thôi. Vì đúng hình một con quạ, to bằng người ta, chỉ khác là quạ thường khoang đen trắng, quạ này lại khoang đen đỏ, từ thủa lọt lòng mẹ, hai người chưa hề thấy con quạ nào hình thù sắc lông lại ma quái phi phàm đến thế. Mỏ bằng nắm tay, đỏ chót, mắt trố thao láo màu than tàu khé, con "thần ô" hay "ma ô" cũng vậy, gật đầu vẫy cánh gọi léo nhéo tiếng người giọng Kinh:

            -Xuống đây! Sao còn đứng giương mắt ếch dòm tớ như cú dòm bệnh vậy?

            Vừa gọi vừa vỗ chiếu, thầy trò Võ cứ trố mắt nhìn ngơ ngác, Quản Kình buột miệng kêu:

            -Ồ... Sao lại có "ông" quạ to lớn thế này?

            Võ thích nhẹ khuỷu tay mãi đến lúc Đổ Bác Thần giục đến lần thứ ba, hai thầy trò mới hoành khiên, nhảy vèo xuống sập. Vừa ngồi xuống sập, chàng trai nói luôn:

            -Quả thực bọn mỗ không thể tưởng tượng trên đời này lại có... quạ làm

            Đổ Bác Thần nói sõi cả tiếng người như tiên sinh.

            Quạ Đổ Bác Thần cười khanh khách:

            -Chú mày coi tớ ngộ lắm sao? Kha kha! Làm đếch gì có con quạ to như người, có quạ ma! Chú mày thích thấy mặt thật tớ không? Mừng rỡ cả hai gật lia lịa.

            Quạ đen hô "ngoảnh mặt đi", hai thầy trò vừa quay đi bỗng nghe "bóp" một tiếng, lật đật xoay mình lại chỉ thấy một khu suối khói um còn đặc hơn cả tạc đạn khói mù, chẳng thấy bóng quạ đâu nữa, khói lên cao dần xóa nhòa cả tàn lọng trốc đầu. Võ Minh Thần hỏi lớn:

            -Đổ Bác Thần đâu rồi?

            -Tớ vẫn ngồi đây! Kha kha! Chú mày đã xem tụi nó làm xiếc quỷ thuật chưa? Nó nổ một cái pháo, cái lồng không bỗng hóa có con chim bồ câu bên trong, tớ khoái từ hồi còn để chỏm. Nay tớ cũng "nổ" phát cho quạ khoang hóa ta... kha kha...

            Khói tan dần, mọi vật hiện ra, thầy trò Võ hơi giật mi mắt, trố dòm, thấy con quạ vĩ đại kia biến đâu mất, trước mặt hai người hiện ra một ông già tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào như người say rượu, tướng phương phi béo tốt coi còn hơn cả Tửu Chúa. Ông ta đầu đội khăn xếp, mặc một cái áo gấm xanh cúc đại đóa, quần ống sớ, đi giày bản giống giày vải Tàu, nhưng đôi giày để bên cạnh. Ông già này ngồi xếp chân bằng tròn, cười rung cả má phính, đưa tay vuốt chòm ria cá chốt vểnh như "ghi đông" xe máy, hai con mắt thì sáng long lanh vẻ tinh nghịch hết sức. Chỉ nhìn qua, cũng có thể đoán sơ được đó là một ông "lão đồng tử" thông minh tuyệt hảo, ma mãnh khác thường mà lại có tính phóng dật hồn nhiên như con nít, bất giác Võ Minh Thần bật kêu khẽ:

            -À... Đổ Bác Thần đấy ư? Ồ, tóc đã bạc phơ, da dẻ vẫn hồng hào, thanh niên không ăn đứt! Bác làm cách nào mà vẫn còn phương phi đẹp lão vậy? Đổ Bác Thần vươn tay vỗ đôm đốp vào vai chàng trai, cười ha hả:

            -Chẳng làm đếch gì cả! Nguyên có món cơm ăn ba bữa, áo mặc cả ngày, bạc đánh quanh năm, không thê tróc tử phọc! Nào! Giờ chú mày chơi món gì được?

            Minh Thần đưa mắt nhìn Quản Kình, Quản Kình vừa bảo "xì phé", Đổ Bác Thần đã chụp luôn trong mớ dụng cụ đổ bác ra một bộ xì phé còn mới tinh đặt phịch xuống chiếu.

            -Coi! Mới gửi mua tận bên Tây!

            Võ Minh Thần cầm cỗ bài "xì" lên xem qua, trao cho Quản Kình, Kình trang mấy cái, lật lên ngắm mặt bài khen trầm trồ:

            -Chà! Cụ lớn mua đâu được cỗ bài Tây đẹp thế này? Chưa thấy bài nào in rõ bằng! Phải cụ lớn "thửa"?

            Đổ Bác Thần cười ha hả:

            -À, anh này nói một câu biết tay chơi có hạng! Giống bài tây này là phải "thửa" bên Tây chớ còn gì! Sao biết? Này coi tớ có cả chục cỗ mới tinh.

            Miệng nói tay quơ mấy cỗ bài trao hai người xem. Quản Kình lật qua lại ngắm, anh lễ phép đáp:

            -Bẩm! Coi cái mặt ngoài biết ngay! In chéo đỏ đen thế này bài in bán làm gì có! Bẩm, mặt nó nhẵn không hoa không ô kẻ, coi biết ngay cụ lớn là bậc chơi phân minh cao thấp đường hoàng, chứ cụ lớn còn lạ gì dân bịp cao thường cứ dòm mặt hoa ngoài là biết mặt trong con nào rồi!

            Vừa nói y vừa trang cái "xoạc", để trả, Đổ Bác Thần mặt mày cao hứng nói vang:

            -Đúng! Đúng! Chính tớ thấy cờ bịp hay chơi xấu thói vậy, tớ sợ thiên hạ có đứa tưởng Đổ Bác Thần cũng giỏi cái khoản đó, tớ phải thửa có kỹ. À mà sao anh này lại gọi tớ là cụ lớn? Nghe lạ dữ à? Ai lại gọi thần là cụ lớn bao giờ? Cái này anh mày hỏng!

            Võ Minh Thần lễ phép bảo:

            -Dạ chú Quản đây quen mồm đó! Xưa nay, người ta vẫn gọi thế để tỏ lòng kính trọng, chẳng hạn như quan lớn tuần tranh đó.

            Đổ Bác Thần thích chí cười sằng sặc, vỗ đốp vai Quản Kình hét:

            -Phải! Phải! Chí lý! Vậy tớ hỏng! Anh này ăn nói có văn tự lắm! Phải! Phải! "Quan lớn tuần tranh", quan lớn là quý lắm! Quan công sứ, quan thống sứ, toàn quyền to hơn vua, quan dưới âm thì có quan ôn... ờ! Vậy mà tớ cứ tưởng quan là nhỏ, quan huyện, quan phán, hai ả đào cũng là quan... viên. Nếu vậy cụ lớn lại còn to hơn quý hơn! Kha kha! Bay đâu! Bảo tụi nó từ giờ kêu tao là cụ lớn nghe. Cụ lớn Thần à! Nghe kêu dữ!

            Quân hầu đầy tớ dạ ran, gã hồ lì chắp tay ngang mặt như quan tế đình:

            -Bẩm... thỉnh cụ lớn thần chủ khai bài!

            Đổ Bác Thần cầm mấy cỗ bài xếp vào góc sập, đoạn cầm một cỗ trang lia lịa, úp vào đĩa, bảo:

            -Nào, tiền khách hậu chủ! Võ Minh Thần bình sinh chẳng biết đánh xì phé là cái quái gì, nay mới nghe Quản Kình giảng qua, biết lõm bõm "xì tẩy đầm", cũng cứ thò tay rút đại một cây đặt ngửa xuống chiếu, cây "xất" cây tẩy, lại cây "xất", cây thứ ba con

            "bạc", thứ tư con sập, bên Đổ Bác Thần bài đã đôi tây, còn "xì" lấy "xì" nốt, Đổ Bác Thần "phe" luôn, Quản Kình ngạc nhiên:

            -Bài cụ lớn diện đẹp quá sao lại "phe"?

            -Kha kha! Anh mày còn lạ gì nữa! Nghề xì phé, thường mất nghiệp vì các ván bài diện đẹp như vậy đó! À tố vào gặp thằng tháu cáy, rút bừa được luôn con "xất", khà khà, cây "xất" là bỏ mẹ thiên hạ rồi!

            Tuy nói vậy, nhưng khi Quản Kình xui chủ tố, ông ta lại tố liền.

            -Chú mày có giỏi chơi độc ván này?

            Võ Minh Thần gật đại, Quản Kình rút giúp, quả nhiên rút trúng con "xất"! Đổ Bác Thần rút con "sập" ông ta cười khà:

            -Thấy chưa? Tớ nói đúng chưa? Tớ bảo như thần bảo mà! Chú mày tẩy

            "xất"! Hết "láng" rồi dám vay vào món khác không?

            Lạnh lùng, Quản Kình bảo:

            -Bài cụ lớn lấy gì cũng chỉ có hai đôi lưỡng phé ăn sao được ba con? Đổ Bác Thần dòm mặt thầy trò Võ, sắc mặt hồn nhiên ngờ nghệch của Võ khác hẳn với bản mặt lạnh lùng cương nghị cố hữu, khiến lão đâm khó hiểu, nghĩ thầm:

            -Chà! Chà! Thằng này vua xì phé có khác! Mặt thật cứ như đếm, hỉ nộbất xuất hỉ lạc bất phát, ghê chưa! Nhưng cái mặt thằng tùy tòng hắn lạnh như tiền! Khà khà! Cái mặt tháu cáy! Ông là Đổ Bác Thần lại bị tháu cáy, có mà loạn!

            Lật lên, tẩy "xất", lão thua. Ấn định chỉ chơi năm canh, mỗi canh ba ván, vậy là thầy trò Võ được luôn hai canh, chỉ còn ba. Đổ Bác Thần thét:

            -Được rồi! Tao đã biết là vua xì phé, thua cũng đỡ đau! Món khác! Gì nào?

            -Quay đất! Hồ lì dẹp bài tây, bưng mâm "quay đất" ra, nhưng đến quay đất, chẳng biết búng sấp, ngửa ra sao, Đổ Bác Thần ba canh chỉ ăn một. Bèn quay ra "rút bất", chẳng biết đánh sao lão ăn hai thua một. Cuối cùng đánh xóc đĩa, Quản Kình quả tay có hạng, nghe rất tài, tiếng bạc nào cũng cả hai đoán trúng, không ai chịu chơi. Giằng co mãi, Đổ Bác Thần dòm quanh chọn đồ nghề khác, Võ Minh Thần buột miệng:

            -Đã vậy sao không đánh cờ? Đánh cờ mới đúng cao thấp!

            Quản Kình thuộc tay cờ thấp, vì xưa y chỉ thích chơi đỏ đen, nghe chủ nói, lật đật gạt ngang:

            -Đánh cờ không có đỏ đen, đâu phải đánh bạc? Bạc có cả đỏ đen cao thấp!

            Nhưng Đổ Bác Thần đã cười thét gật lia:

            -Được đó! Cờ mà lại hay đấy! Sao không được? Không phải môn, sao gọi cờ bạc? Cờ cũng là bạc, bạc là cờ, canh bạc này thực ra là đánh cuộc, đâu phải ăn tiền thưởng. Vậy là cờ cuộc, cuộc cờ... Kha kha! Hay dữ à! Hồ lì! Đem bàn cờ tướng ra đây!

            Quản Kình hoảng nhìn chủ, đinh ninh Võ là hạng "chưa sạch nước cản", nhưng y không ngờ về môn này, Võ lại là tay thượng thặng, có thể nói là thiên tài. Xưa nay theo hầu tôn sư, hồi mới lên năm, lên bảy, Võ xem thầy chơi cờ tướng, đã phát lộ kỳ tài, tôn sư là tay đánh cờ tuyệt giỏi, không hẳn ăn đứt Võ. Thấy Kình lo, Võ trấn an:

            -Để tôi hầu lão tiên sinh vài nước, không sao! Có thua tiên sinh cũng được! Tôi cũng biết vài thế!

            Mãi đến khi "ra quân", Quản Kình mới hơi yên trí. Đi hơn chục nước mới hay tiểu chủ là tay cao cờ. Đổ Bác Thần đánh rất hay, đi toàn nước hóc hiểm, Võ vẫn gỡ như không. Chừng đến nước thứ mười lăm, mười bảy thì Võ đã đưa ông ta vào thế bí.

            Thêm hai nước nữa, lão hết nước đi, đành chịu thua. Sang ván thứ hai lại thua nữa. Võ Minh Thần liếc dòm, thấy mặt Đổ Bác Thần đỏ gay như người say rượu, hai con mắt long sòng sọc, lão đang ngồi xếp chân bằng tròn vụt ngồi nhỏm lên "hừ" một tiếng kèm theo hơi thở phì dao, làm bắn cả vào lòng Võ, Quản Kình.

            Lão lắc lắc cái đầu, nhổm người, thò tay mặt nhặt con cờ, tay trái thọc lên đầu gãi sồn sột, trễ ngược cả cái khăn xếp về đằng gáy, và đưa tay vuốt soạt bộ ria cá chốt, vẩy lia lịa. Mãi khắc đó, Võ mới để ý thấy mồ hôi lão chảy ròng ròng, mặc dầu lúc đó đã canh tư từ lâu, đêm rừng lạnh ngắt! Và chàng trai lại càng chột dạ thấy tay trái lão buông ra một mớ ria bạc như cước.

            -Tức nước cờ! Ông ta tức nước cờ. Ông ta là Thần Đổ Bác mà nãy thua mấy canh liền, vẫn giữ được vẻ ung dung phong lưu tiêu sái không lộ vẻ giận dữ vì thua mình là đứa vô danh hậu sinh. Mà giờ mới thua hai ván cờ coi đã cay cú ra mặt. Đến vã mồ hôi hột, vuốt ria mà vặt cả ria không hay. Lão tức nước cờ dữ rồi! Nguy lắm! Xưa nay trò thua cờ dẫu không mất tiền cũng thường tức khí bằng mấy thua bạc, gây án mạng như chơi! Mình phải... khéo léo vờ thua một ván mới được. Nếu không lão cay quá hóa cục như Nam Cung Trường Vạn xưa, phiền dữ à!

            Xưa Nam Cung Trường Vạn là một tướng soái khỏe nhất nước Tống, chẳng may một lần sa cơ bị Lỗ Hoàn Công bắn trúng tay kích, và bị Lỗ bắt sống. Sau Tống, Lỗ giảng hòa, Lỗ tha Vạn về. Vua Tống là Mẫn Công vốn rất thân với Vạn, tính Mẫn Công lại hay nói đùa. Bữa kia, cần một người đi sứ sang nhà Chu, Trường Vạn tâu:

            -Tôi nghe nói nhà Chu nhiều cảnh đẹp lắm, vậy xin chúa công cho tôi đi, nhân dịp được xem cảnh đẹp!

            Vua Tống đùa:

            -Nước Tống thiếu chi người lại dùng tù nhân đi sứ!

            Nam Cung Trường Vạn lui ra. Quan đại phu Cừu Mục can vua Tống:

            -Vua đối với bề tôi phải nghiêm chỉnh, sao chúa công lại đùa Trường Vạn thế?

            Vua Tống cười đáp:

            -Ta đối với Trường Vạn thân nhau, có gì! Ít ngày sau, Tống Mẫn Công mở tiệc nơi cung viện, vui cùng phi tần cung nữ, có Trường Vạn cầm kích theo bên. Tiệc say, đám đàn bà vốn nghe danh Vạn cùng yêu cầu Vạn ném kích cho xem. Kích nặng hàng tạ sắt, Trường Vạn múa, tung bổng lên trời rồi lại nhảy theo bắt lấy múa, trăm cái không sai một. Đám phi tần cung nữ reo hò khen nức nở. Tống Mẫn Công thấy đàn bà khen tài Vạn cũng muốn trổ tài mình, bèn rủ Vạn đánh cờ. Vạn thua liền ba ván, đòi đánh nữa, vua Tống cười bảo:

            -Đánh bao nhiêu nữa cũng thua thôi! Cờ nhà ngươi là cờ nguyên soái thắng sao nổi cờ vua?

            Vua tôi lại đánh tiếp, Vạn lại thua. Mẫn Công khoái vuốt râu cười khà:

            -Ta đã bảo mà! Cờ của anh tù sao thắng được cờ vua?

            Phi tần cung nữ cười ồ, Trường Vạn đang tức nước cờ, bị đùa, thẹn đỏ mặt, trợn mắt nói lớn:

            -Kẻ tù này có thể giết người được!

            Vua Tống quát:

            -Tên tù kia! Ngươi dám vô lễ với ta sao? Trường Vạn chẳng nói chẳng rằng, cầm luôn bàn cờ đập vào đầu vua Tống chết tươi. Khi cung tần mỹ nữ, quan hầu sợ hãi kêu ré lên ù té chạy, Trường Vạn cầm cây kích dựng bên, lững thững bỏ ra ngoài, mặt vẫn đầy sắc giận, sẩy gặp Cừu Mục vào, chào, hỏi:

            -Chúa công còn đó không?

            -Hắn vô lễ, ta đã đánh chết rồi! Cừu Mục mỉm cười:

            -Uống bao nhiêu mà say thế?

            Trường Vạn điềm nhiên:

            -Ta không say! Vào mà coi... đã đập vỡ đầu rồi! Cừu Mục thất kinh quát lớn:

            -Tên giặc này sao dám giết vua? Ta phải giết ngươi! Bèn xông vào cầm hốt đánh Vạn. Vạn dựng cây kích xuống, tay trái gạt, tay phải đấm một quả trúng hàm Cừu Mục, vỡ nát đầu óc, răng bắn ghim vào cửa cung như lông nhím. Đoạn về dinh, đem quân vào triều lập vua khác. Nhưng sau Trường Vạn bị con Mẫn Công là công tử Ngự Thuyết đánh bại. Vạn đem mẹ chạy sang nước khác, bị lừa bắt nộp về Tống. Vua Tống Hoàn Công Ngự Thuyết băm Vạn làm mắm, gửi cho mẹ Vạn. Tất cả chỉ vì tức nước cờ. Võ Minh Thần đang nghĩ cách đối phó, bỗng ngay lúc đó, một tên trong bọn hồ lì thấy Đổ Bác Thần đổ mồ hôi, bèn bước đến quạt. Đổ Bác Thần nhổm phắt lên tát bốp muốn bay quai hàm, hét:

            -Ai khiến mày quạt! Trời lạnh gió rừng mày không biết sao? Cút!

            Tên kia ôm má, lủi xa. Hét xong, Đổ Bác Thần lại vuốt ria, mồ hôi, cởi phăng áo gấm ném một bên, giục lớn "nào một ván nữa", vừa nói, lão vừa tình cờ nhìn lên.

            Chẳng may lúc đó, Quản Kình, vốn tuy có máu mê, thấy tiểu chủ thắng, y khoái hết sức, lại chứng kiến cảnh ông thần Đổ Bác vuốt tuột cả ria, mồ hồi, tát tên hầu quạt, lại trễ khăn, cởi phăng áo gấm. Quản Kình bất giác nhớ ngay đến câu "lão ô bách tuế, phượng hoàng sơ sinh", tự nhiên nhếch môi cười, buột miệng "đúng lão ô...".

            Vừa tới đây, chợt chạm ánh mắt Đổ Bác, y nhớ ra, im vội, nhưng trong trường hợp đó, cái cười của Kình đượm đầy vẻ "xỏ", Đổ Bác Thần lập tức trợn ngược mắt hét:

            -Cười gì? À phải ngươi bảo tao là con quạ già không? Nói mau! Quạ già này có thể... có thể...

            Lão ngừng lại, nhấp nhổm, giận như lấp mất họng. Võ Minh Thần đang bầy cờ, giật mình ngó sang, thấy ngay vẻ giận như điên của Đổ Bác Thần, chàng trai cũng phát hoảng, chưa biết tính cách chi vuốt dịu cơn tức nước cờ, giận cá chém thớt của ông ta, may sao vừa ngoái sang, trông thấy cái cán ô vẫn móc trên vai, chàng trai vốn nhanh trí, lập tức cười lễ phép, vỗ vào cái ô, bảo:

            -Lão tiên sinh, hiểu lầm đó! Y cả đời không biết đùa đâu! Là y vừa bảo mỗ đây sao cứ đeo mãi cái ô này trên vai đó. Cái ô này cũ kỹ lâu đời, vốn của thầy mỗ cho, nên mỗ không muốn lợp lại lớp vải mới, đám bạn bè thường gọi đùa là cái "ô lão hạng", "ô già", y cũng quen miệng đi đó thôi!

            Đổ Bác Thần đã định đánh, nghe Võ nói nguôi liền, lão dòm Quản Kình, dòm gã gia nhân, chừng cũng sực nhớ ra mình đã tức vô lối, lão bèn thở phì một cái, nhe răng cười:

            -À à cái ô già! Không phải con quạ già! À mà con quạ cũng được! Chính tớ là con quạ đây! Lão ô bách tuế thua phượng hoàng sơ sinh! Kha kha! Lão ô thua phượng hoàng, lão ô thua phượng hoàng, càng hay! Con hơn cha là nhà có phước. Tre già măng mọc, già thua trẻ là nước hùng cường. Khà khà! Vậy tao Thần già có thua Thần trẻ cũng thuận lẽ tuần hoàn, can chi mà tức! Nào! Đi pháo đầu!

            Lão dằn chát con pháo. Chẳng hiểu lão đã thực nguôi cơn tức nước chưa, nhưng con cờ vừa chạm mặt gỗ, khi lão rụt tay lại, cả hai thầy trò Võ đã thấy con pháo chui tọt xuống bàn cờ, để lại một lỗ hổng tròn xoe. Võ Minh Thần nghĩ thầm:

            -Mới ra quân, con "pháo" đã bắn thủng bàn cờ, ván này mà lão thua, "pháo" dám bắn thủng đầu mình!

            Bèn phanh tượng. Đi được vài nước, vội ra hiệu ngầm cho Quản Kình. Kình trước còn bàn, sau mặc nhiên đánh thay chủ. Đúng mười sáu nước thì Đổ Bác Thần thắng cuộc, lão dằn con mã, hét cười thét:

            -Chiếu tướng! Hì hì! Thiên lý mã của tớ hay chưa? Biết đường rồi! Kha kha! Con ngựa Đích Lư này coi thế mà hay! Lưu Bị vượt Đan Khê! Kha kha! Nó vào tận thâm cung nhà ngươi rồi phượng hoàng sơ sinh ơi! Phen này phượng hoàng chết với lão ô! Ô này là Ô Truy! Ha ha! Lão ô bách tuế phi thiên lý, đồng phượng sơ sinh bại nhất keo!

            Tiếng cười khoái chí bốc chín tầng mây, cả thân xác phương phi của lão rung lên, lão vuốt râu lia lịa, cứ mỗi cái vuốt lại bứt theo mấy cọng ria bay trước gió, vẫn không thèm lưu ý, nhưng có lẽ Võ Minh Thần còn khoái hơn, nhẹ hẳn người. Vừa toan mở miệng khen một, hai câu, chợt thấy lão vụt im, ngơ ngác dòm hai thầy trò, rồi kêu lên:

            -À, mà coi ra ta có thắng được phượng hoàng mới đẻ đâu! Ta được con cú mèo. Ván này chú mày có đánh đâu, anh người nhà kia đánh mà! Không được! Không được! Làm lại keo này mới được.

            Minh Thần nói mấy lão cũng chẳng nghe, đành bầy đánh ván khác. Lần này lão cấm Kình bàn vào. Không may cho chàng, vẫn đinh ninh nhường lão, nhưng chẳng dám nhường lộ liễu, nên cũng phải đi tử tế, nào dè linh tay linh óc, chưa kịp nhường, lão đã bí, không cách nào gỡ nổi, Võ lại được mới phiền.

            Lập tức lão hắt tung bàn cờ xuống suối, hét như sấm:

            -Thua rồi, thua cờ thua bạc, Đổ Bác thua rồi! Thiên hạ đệ nhất thần thua hai đứa vô danh tiểu tốt! Thần già thua Thần trẻ! Quạ già trăm tuổi thua chim non ra ràng! Canh bạc to nhất Đông Dương, tao thua rồi, bọn mi thắng cuộc cứ việc đi đi, không ai dám giữ! Con hơn cha là nhà có phước, già thua trẻ là nước hùng cường! Tao đấu cờ bạc quanh năm đâu có phải là phường vong bản! Ôi thôi! Vàng ngọc đi đời, càn khôn mất sạch! Bọn mi thắng cuộc lên ngựa đi mau, bằng chậm trễ có khi tao không chịu nổi!

            Dứt lời là chộp lấy tay thầy trò Võ lắc lắc đại như xóc đĩa rồi quơ áo gấm vắt vai bắn mình lên như chiếc lò xo rời khỏi chiếu bạc nhảy vọt lên kiệu, thò tay ra giật "phạch" rèm cửa xuống.

            Võ Minh Thần, Quản Kình nhìn nhau, ngơ ngác. Kình kéo nhẹ cánh tay chủ, giục: "lão thua cay nổi nóng, ta kíp rời mau, chớ nên chậm trễ...", Võ Minh Thần chưa kịp đứng lên, sực lại nghe trong kiệu hét:

            -Dẹp cờ dẹp quạt dẹp bát dẹp đĩa đem cho chó ỉa! Dẹp tàn dẹp lọng trống dẹp chiêng dẹp tiền dẹp của! Dẹp đồ chó mửa, dẹp cả kiệu son, cụ lớn, quan ôn, khôn hồn dẹp ráo!

            Bọn hồ lì, kiệu phu che tàn, quân hầu đầy tớ dạ ran, mặt mày ngơ ngác, chạy ngược chạy xuôi, chẳng đâu vào đâu, chỉ có bọn hồ lì lẹ tay quơ "đồ nghề" bỏ rương. Võ Minh Thần nhác trông thấy cảnh tượng, biết nán lại có khi mang vạ như chơi, vội đứng sổ lên, nghiêng mình nói lớn:

            -Kẻ này mang bệnh ngặt, phải lên tận biên giới tìm thầy, xin cáo biệt lão tiên sinh, đường thế ngược xuôi, biết đâu không có ngày tái ngộ!

            Dứt lời, lập tức khều Quản Kình, hai thầy trò nhảy vọt lên lưng ngựa, giật cương vỗ đốp, bôn hành. Nhưng hai con ngựa mới chồm lên vểnh bờm, phóng vĩ, vừa quay đầu chạy, bất thần có tiếng Đổ Bác Thần trong kiệu quát như sấm:

            -Mà khoan! Khoan! Hai thầy trò dừng vội nhưng vẫn không nhìn lại.

            -Nán lại chơi canh nữa đã! Đi đâu vội! Nán lại làm vài "tiếng" nữa, cho tớ gỡ. Nghĩ cho cùng không gỡ không xong! Bay đâu! Đâu để nguyên đó chớ có động vào.

            Quản Kình lẩm bẩm "không êm rồi", Võ Minh Thần vùng nói lớn, tiếng sang sảng như chuông:

            -Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy, một lời nói như dao chém đá, chính lão tiên sinh đã ước "được ăn thua chịu", canh bạc đã tàn được thua đã rõ, còn đòi gỡ thế nào? Quân tử nhất ngôn! Đổ Bác Thần lừng danh thiên hạ, đứng hàng trùm "Tứ Khoái Tứ Hung", chẳng lẽ hai lời?

            Nói xong quất ngựa đi liền, được mấy bước lại nghe Đổ Bác Thần hét:

            -Khoan! Mà khoan đã! Chú mày chưa nghe hết lời tao! Phải rồi: "Một lời đã nói ra, ngựa Châu Tứ (bên Tàu) đuổi không kịp nữa", "người quân tử chỉ nói một lời", tớ đây đã thuộc làu như cháo, "được ăn thua chịu", "tinh ăn lầm thua vô ý mất tiền", tớ là Thần Đổ Bác đỏ đen, đâu có hèn cãi xóa? Nghe đây: Canh bạc đánh cuộc vừa qua chú mày được rồi, được đứt rồi, không nói ngược xuôi vớ vẩn. Chú mày cứ đi tự nhiên, không đứa nào được động tới! Nhưng đây tớ mời ở lại, là để gỡ... gỡ canh bạc vừa rồi! À mà nhớ là không phải là gỡ cái vòng đâu, mà là gỡ... gỡ... Chà! Gỡ... khó nói dữ à!

            Nghe lão bảo "không phải cái vòng" Võ cũng hơi yên tâm, nhíu mày nói lớn:

            -Phải tiên sinh muốn gỡ... cái tức còn thua bạc? Gỡ cái tiếng Đổ Bác Thần mà lại thua bạc một kẻ vô danh, ít tuổi không?

            -À à... không biết có phải vậy chăng nữa? Nhưng nếu chú mày cứ đi, không cho tao đánh gỡ, vài tiếng nữa, chắc tao không ngủ nổi! Quay lại chơi... nào!

            Võ Minh Thần cao giọng:

            -Nếu vậy lão tiên sinh không cần phải gỡ nữa, canh bạc này bọn mỗ được là nhờ vận đỏ đó thôi, còn về cao thấp nghề chơi của tiên sinh chắc chắn là bậc thầy, bậc thánh sư trong thiên hạ, bọn hậu sinh tiểu tốt như mỗ đây làm sao theo kịp? Vậy cần chi phải gỡ nữa?

            -À à, thoạt nghe chú mày nói, cũng có lý, nhưng ngẫm kỹ lại, cũng không chí lý! Vì bạc có đỏ đen, cờ có cao thấp, cờ bạc cả cao thấp đỏ đen còn toàn cao thấp, nghĩa cứ đánh là được, đếch có rủi may, đến bậc thần sầu quỷ khốc, vậy mà canh bạc vừa rồi bậc thánh sư, tổ sư cờ bạc lại thua anh tiểu tốt, thử hỏi... còn ngủ làm sao? Chú mày phải quay lại cho tao gỡ! Còn khoản bệnh khỏi lo, ta tuy chẳng phải Biển Thước nhưng có thuốc tiên, bệnh quỷ gì cũng đỡ!

            Quản Kình thì thào giục chủ "cứ đi", Võ cũng không muốn trì hoãn, bèn nói lớn:

            -Nếu lão tiên sinh cần gỡ xin khất tháng sau, giờ bọn mỗ cần đi như lửa cháy. Nói xong, cùng Quản Kình giục ngựa bỏ đi liền, ngựa phi kiệu đại.

            Nào dè vừa rạp mình chạy được vài chục thước, đã thấy Đổ Bác Thần đứng lù lù trước ngựa, áo gấm vắt vai, tay cầm khăn xếp khua lia lịa:

            -Khoan! Khoan! Ở chơi canh nữa, cho tớ gỡ đã! Cùng là bạn làng ta sao nỡ ăn non, để nhau hộc máu!

            Thầy trò Võ Minh Thần phải phục thân pháp khác thường của Đổ Bác Thần, túng xử, chàng trai hỏi lớn:

            -Đánh thêm canh nữa, lần này ăn gì? Đổ Bác Thần khoa tay, chụp khăn, đáp luôn:

            -Ăn gì cũng được, tùy ý chú mày! Chú mày muốn ăn gì tùy ý. Bạc vàng cơ nghiệp, cả cái đầu tớ đây cũng được, miễn cho gỡ một canh!

            Võ Minh Thần nghĩ thầm:

            -Xem ý lão ta cay gỡ lắm rồi, chối không nổi nữa! Lão là một trong "Tứ Hung Tứ Khoái" quen rộng biết nhiều, mình lại đang cần dò tung tích kẻ đại thù, sao chẳng nhân dịp này kiếm ít manh mối?

            Bèn nghiêm sắc mặt trầm lời bảo:

            -Bạc vàng cơ nghiệp mỗ đây không thích! Cái đầu lão tiên sinh mỗ càng không ưa nữa! Mỗ đây có chút việc riêng, cần biết tung tích một nhân vật, chẳng hiểu lão tiên sinh có chịu không?

            Đổ Bác Thần sấn lại, giục:

            -Được, được! Nhân nào chẳng được, vật nào không xong, nào cứ nói đại đứa nào đi, còn làm gái mãi.

            Võ ngó đăm đăm, chậm rãi:

            -Tây Sắc, Đông Âm! Tây Sắc là một trong "tứ tài tử" Tửu, Sắc, Yên, Đổ, còn Đông Âm là một trong "Tứ Dị". Mỗ đây đang truy tầm một con tinh chúa sói mười bảy năm trước đã hấp sát một thiếu phụ trên biên thùy, mỗ cần biết hai nhân vật kia!

            Đổ Bác Thần nói luôn:

            -À! Tớ biết! Tây Sắc là Ma Vương Sắc, có danh Hấp Sát Tinh Quân, chính là vua sắc đẹp đời nay, y có đủ tam cung lục viện như Tần Thủy Hoàng xưa! Còn Đông Âm là Ma Quân Bá Diện, chú mày đã gặp đấy, tớ đây cũng biết, nhưng còn cái khoản chúng là người hay vật, ma quái, kỳ nhân, giống đực giống cái, nhà nó hiện ở đâu thì... cứ cho tớ đánh gỡ một canh, rồi sẽ tính! Cứ cố thắng được tớ, tớ sẽ cho biết!

            Cả mừng, Minh Thần hăm hở:

            -Nếu vậy bọn mỗ xin sẵn sàng chơi canh nữa! Nhưng nếu bọn mỗ thua...?

            -Thì cứ việc lên ngựa đi luôn một mạch, còn sao nữa! Nhưng cũng cần nói cho hay, nếu chú mày cố ý đánh nhường, không chơi thực sự, chớ trách tớ tử sinh kiếm chuyện.

            Dứt lời, lão ta thò luôn hai tay túm cả hai sợi dây cương, kéo lôi sềnh xệch trở lại chiếu bạc.

            -Bay đâu! Đốt đuốc giải đen, cho chủ gỡ! Canh bạc này to nhất Á Đông! Hồ lì dạ ran, chạy lại dâng một cây đuốc thông lớn mùi khét lẹt. Đổ Bác Thần trịnh trọng cầm đuốc lội xuống suối, vừa đảo rê cây đuốc quanh sập gỗ dưới gầm trên mặt chiếu, lại cầm từng món đồ nghề rê trên ngọn lửa, miệng hô

            "phụ đồng cờ bạc" lại lẩm bẩm "giải đen". Thấy thế, Võ Minh Thần vội ghé tai Quản Kình khẽ bảo:

            -Hồi nãy bảo canh bạc to nhất Đông Dương, giờ lại to nhất Á Đông. Canh bạc gỡ này quan hệ lắm đó! Phải nãy chú bịp?

            -Còn gì nữa! Không bịp thắng sao nổi?

            -Vậy canh bạc này chớ bịp! Cứ chơi thật, giở hết tài cao thấp, không bịp, không nhường, nhớ kỹ.

            Hơi ngạc nhiên, Quản Kình dùng tiếng lóng riêng hỏi:

            -Sao phải rắc rối vậy? Nếu cậu hai muốn tìm tung tích kẻ thù, đây là cơ hội tốt nhất...

            -Vẫn biết thế, nhưng nếu bịp lão canh nữa lão thua có khi phải đánh nữa! Nhường lão được, để lộ, lộ cũng không xong, vì đây là canh bạc tức khí!

            Võ Minh Thần dặn vừa xong, thì Đổ Bác Thần cũng vừa "giải đen", "phụ đồng cờ bạc" xong, xoa tay rủ vào chiếu. Quản Kình đem hết tài nghệ ra "phò" tiểu chủ, không bịp không nhường. Quả nhiên Đổ Bác Thần là tay "vua cờ bạc" đánh tới canh năm, thắng luôn hai thầy trò Võ Minh Thần. Vừa tan cuộc, chàng trai nghiêng mình, xá một cái, bảo:

            -Tài nghệ lão tiên sinh quả vô địch trong thiên hạ! Bọn mỗ đã đem hết nghề riêng vẫn không theo kịp! Nay trời sắp sáng, bọn mỗ có việc gấp phải đi, xin cáo biệt lão tiên sinh!

            Đổ Bác Thần mặt mày rạng rỡ cười ha hả vỗ vai thầy trò Võ, nói như hét:

            -Cảm ơn! Cảm ơn đã cho tớ đánh gỡ! Giờ tớ ngủ được rồi! Hai chú mày cũng cao dữ à! Nhưng hai chú mày thắng canh bạc to nhất Đông Dương, chú mày đỏ thật, còn được canh bạc to nhất Á Đông này, vừa đỏ vừa cao! Vậy là lòng trời muốn chú mày được làm chủ cái vòng xanh điểm huyết, tớ xin có lời mừng.

            Võ cùng Quản Kình đứng lên chào, định đi ngay. Đổ Bác Thần trợn mắt oang oang:

            -Kìa đi đâu vội? Nán lại mười phút uống cùng tớ một chén chè Tàu cho tỉnh đã! Sắp sáng rồi, chú mày tính có cần hỏi tớ điều chi nữa mà quên sao? Võ Minh Thần thật thà:

            -Dạ, không quên đâu! Nhưng đã giao ước, thua rồi, bọn mỗ đâu dám đòi hỏi nữa!

            Đổ Bác Thần vuốt bộ ria vểnh, cười ha hả:

            -Sòng phẳng! Sòng phẳng đó! Tay chơi giang hồ sòng phẳng là phải! Nhưng nếu tớ đãi chú mày vài điều cần hỏi, gọi là món quà tri ngộ giữa đường, chú mày nghĩ sao? Tớ muốn đãi, đứa nào cấm tớ?

            Võ từ tốn:

            -Lão tiên sinh đã đuổi Bá Diện Ma Quân, lại vui lòng để bọn mỗ được mang vòng xanh điểm huyết đi, vậy là quý hóa lắm rồi, mỗ đâu dám đòi thêm điều chi nữa!

            -Làm gái! Thôi cứ ngồi xuống đây chơi đã! Bay đâu! Dẹp đồ nghề mau!Sửa soạn trà nước!

            Đám thuộc hạ da ran, hồ lì xếp các món "dụng cụ đổ bác" vào rương, bọn đồng nam đồng nữ mang tới một bộ trà, đèn cồn, ấm chén, khay lớn nhỏ, đủ lệ bộ. Đổ Bác Thần tự tay đốt đèn nấu nước pha trà mời thầy trò Võ uống, nói cười ha hả, không khác đôi bạn vong niên tri kỷ xa cách lâu mới gặp. Hai người vừa uống vừa ngắm bộ đồ trà, ngắm Đổ Bác Thần, nghĩ loanh quanh. Đèn cồn có bếp lửa réo vo vo, chén trôn quýt, ấm thuộc loại Ngọc Phủ đỏ chót, loại quý nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Thế Đức, thứ ba Bội Thần (Lưu Bội, Mạnh Thần), coi cung cách lão đúng tay ăn chơi phong nhã, không lẽ là loài dị vật hóa thân? Lòng thắc mắc muốn hỏi, lại thôi, chợt Đổ Bác Thần đặt chén trà xuống vùng hỏi:

            -Phải nãy chú mày nói bị thương? Cho tớ coi thử được chăng? Tớ tuy không có tài chữa, nhưng có tài xem thuốc gia truyền may ra hợp bệnh?

            Hai thầy trò nhìn nhau, Võ Minh Thần hơi do dự... Nhưng sực nhớ lại giấc mê gặp mẹ trên đồi, chàng trai nghĩ thầm:

            -Xem ý Đổ Bác Thần này không phải hạng bất lương độc hiểm. Nếu ông ta định hại cần gì phải hại ngầm? Cứ để ông ta coi biết đâu chẳng có điều hay?

            Bèn đặt hành trang xuống xoay lưng cho Đổ Bác Thần coi. Vết thương lưng cao sát gáy, ngay chỗ bị búa chém thủng áo giáp. Đổ Bác Thần soi lửa, vạch coi, chợt kêu lên:

            -Lạ dữ chưa! Coi như vuốt thú, mà lại không phải thú. Coi như đòn công, mà không hẳn đòn công. Từa tựa như thứ đòn ma đòn quái! À sao vậy? Chú mày bị hồi nào?

            Võ Minh Thần đem chuyện ngộ Giao Long chúa miệt hồ Ba Bể, nhất nhất kể lại cho lão nghe. Đổ Bác Thần bật giọng:

            -À thế chứ! À ra chú mày gặp con thuồng luồng tinh! Trách nào ta coi giống đòn âm! Chính tớ đây có nghe đồn hồ Ba Bể có con thuồng luồng tinh nói tiếng người bắt đàn bà đẹp làm vợ, tớ đã đi lùng coi mà chưa gặp! Vết thương này nếu tìm được Lãn Ông tái thế miệt Si Công Linh mới trị nổi! Hay tớ có thuốc cầm, cho nó không tấy phát ngay, đãi chú mày một viên uống thử!

            Dứt lời lão moi trong bọc ra một viên thuốc đỏ chót như chu sa, trao cho Võ Minh Thần. Võ cảm ơn, uống xong, hỏi liền:

            -Thưa lão tiên sinh, xin người cho biết về Tây Sắc?

            Đổ Bác Thần vuốt ria, lim dim mắt:

            -À Ma Vương Sắc Hấp Tinh Quân, một nhân vật thần bí, thiên hạ chỉ nghe nói chưa ai đối diện. Một kẻ mê say nhan sắc nhất đời, mà gái nào gặp hắn cũng phải mê, và bất cứ gái nào gặp hắn là không bao giờ thoát khỏi "cung động" của hắn nữa! Vì sẽ phải giam hãm suốt đời trong động như trong cung cấm Tần Thủy Hoàng xưa để hắn hấp tinh hấp sát! Nên gái nào lọt vào mắt hắn, coi như đã vào cấm cung suốt đời rồi, vì hắn xuất quỷ nhập thần, không ai lường được! Cho tới nay, cũng chưa mấy ai rõ hình thật hắn, quái nhân hay dị thú? Hắn là giống gì? Tất cả đều trong vòng nghi vấn! Nhưng tớ đây, đã gặp hắn rồi!

            Thuốc Đổ Bác Thần quả nhiên công hiệu. Lão vừa nói dứt câu, Võ Minh Thần đã cảm thấy dễ chịu hết sức, không còn váng vất như trước nữa, rõ ràng dược chất đã kìm hãm hẳn sức phát tác của vết "quái thương", lại nghe lão bảo đã gặp Tây Sắc, chàng trai cả mừng hỏi luôn:

            -Lão tiên sinh đã gặp, vậy chẳng hay nhân vật đó là người thế nào? Bao nhiêu tuổi? Hiện ở đâu?

            Đổ Bác Thần vuốt ria, cười rung cả má:

            -Sao lại nhân? Sao lại người? Tây Sắc chính là con vật, chú mày chưa biết sao? Một con quái vật thành tinh, đi hai chân, nói tiếng như người, nói rõ hơn y là một con chó sói thành tinh.

            Cả hai thầy trò Võ Minh Thần cùng rúng động tâm thần ngạc nhiên, mừng rỡ như vừa được thấy một tia sáng rực giữa sa mù đêm tối. Võ bật kêu lên:

            -Con chó sói thành tinh? Trời! Tây Sắc Ma Vương là sói thành tinh? Nếu vậy Bá Diện Đông Âm nói đúng rồi, nó là con tinh đực thuộc loài chúa sói! Gật đầu, Đổ Bác Thần nghiêm giọng:

            -Phải đó! Con tinh chúa thuộc giống Hồng Cẩu Quẩy thành tinh! Nó cao lớn như người, thông minh tuyệt xảo, văn võ kiêm toàn, nghề chơi trác tuyệt. Nó nói tiếng Tàu, tiếng Thổ, Mán, Mèo... còn giỏi hơn cả tớ. Chú mày có thể tưởng tượng rằng nó còn biết nói cả tiếng Tây? Ôi chao! Tiếng Tây nó nói Tây đầm còn phải phục! Nói tóm lại: Tây Sắc Tinh quân Hồng Cẩu Quẩy không khác một người hào hoa phong nhã, thông minh tài trí khó có người nào sánh kịp. Trên thế gian này, đàn bà có hàng trăm vẻ đẹp, y đều biết "sưu tầm" cả trăm bộ, không thiếu bộ nhan sắc nào!

            Không nén được ngạc nhiên, Quản Kình buột miệng:

            -Hay y là người đội lốt?

            Đổ Bác Thần bâng khuâng nhìn ra phía rừng xa như dõi theo hình ảnh xa xôi đã chìm sâu xa mờ thời gian không gian:

            -Chính trước khi gặp, ta cũng nghĩ vậy, mà ai cũng nghĩ vậy. Nhưng gặp rồi, thật khó nói sao cho đúng. Nên nhớ quân gia thủ hạ y, có cả "quân người", thường theo y như hình với bóng, đến nỗi dân sơn cước nhiều kẻ bảo "đoàn quân ma trành" - Oan hồn kẻ bị hùm tinh sói vồ thịt. Mà có khi lại chính là người thực, chịu sự sai khiến của y, nhưng vẫn mù tịt như theo phò cái bóng, tiếng vang. Mà người ta còn bảo có lần y "hiện" hình người đến viếng mỹ nhân, một con sói chúa thành tinh hay một người đội lốt? Cả hai thứ hình như chưa đúng! Điều bí mật đó chính tớ cũng chưa biết rõ, vì trước sau tớ chỉ gặp có một lần! Đêm đó... cách đây đã mười lăm, mười sáu năm rồi, trên đường du ngoạn, khai xuân, đến vùng Yên Bái giáp Lào Cai, tớ đến chơi nhà một viên quan châu Thổ lai Kinh, nhà y có việc "ăn khao" đứa con gái mới đỗ dưới Hà Nội về.

            Trên sơn cước, vẫn có lệ đó, đậu cái bằng tý con cũng giết trâu mổ bò khao linh đình, mời đủ mặt quan khách quanh vùng, rượu chè, thuốc phiện, múa hát tưng bừng, tớ đến cốt dựng một canh xóc đĩa, nhưng tụi nó có nhiều đứa biết tiếng Đổ Bác Thần, xui nhau hàng, chỉ chơi tổ tôm còm lấy vui. Tớ chán, nằm hút thuốc phiện cho khuây.

            Vào khoảng nửa đêm, thình lình có tin Tây Sắc tới thăm, Ma Vương tới nhanh êm như gió thoảng, khi trong nhà chủ khách biết, thì bao nhiêu lính dõng canh gác đã gục như tượng gỗ. Ma Vương đã tới trước sân, bất thần tru lên một tràng rợn óc, phát âm tiếng Thổ vọng vào:

            -Con gái nhà tri châu Bảo Hà có duyên với Ma Vương Chúa! Chúa Ma Vương thân hành đến đón về làm ngũ phu nhân! Khá đưa nàng ra theo chúa lang quân về động!

            Tiếng vang âm trong đêm khiến quan khách giật mình, bỏ cả "xòe" chạy túa ra cửa sổ dòm, thất kinh, thấy một bầy hàng trăm con chó sói đứng lố nhố, bón con to lớn khiêng một cỗ kiệu hoa rèm buông kín. Viên quan Châu hô lính dõng đóng đã ngủ gục, lật đật lấy súng định bắn, may có người khách Kinh làm nghề săn thú, giằng lấy súng, thì thào:

            -Không cự nổi "nó" đâu! Ma Vương Sắc đó! Phải khéo léo mềm mỏng, nếu không tất cả vào bụng sói!

            Viên quan Châu kiếm cách nói dối con gái đi vắng. Tiếng trong kiệu hét ra:

            -Không che được mắt Ma Vương! Nàng trong buồng tả với mấy con bạn vừa "xòe" xong! Mau ra kiệu! Chúa lang quân đợi năm phút, nếu không ra, quân thú vào ăn thịt hết!

            Chủ khách hoảng hồn, rủ nhau trốn cửa hậu, nhưng dòm ra cửa hậu cũng đầy bóng sói. Người khách săn sực nhớ ra:

            -Quan Châu mau vào cầu cứu Đổ Bác Thần! May có cơ thoát nạn. Bằng không về động Ma Vương, kể như đầy một kiếp.

            Lúc đó Đổ Bác Thần nằm chìm hỉm nghe rõ lời qua tiếng lại bên ngoài. Nhưng canh xóc đĩa bất thành, Đổ Bác Thần cứ nằm thây kệ. Khi viên châu Bảo Hà vào báo nguy Đổ Bác Thần đặt luôn điều kiện:

            -Lão mỗ đây đang lên cơn nghiện xóc đĩa! Nếu muốn lui Tây Sắc, làm một canh!

            Còn phải nói! Chủ khách gật lia lịa. Khi Đổ Bác Thần khăn áo tề chỉnh tiến ra, thì bầy chó sói đã phò kiệu hoa sịch tới gần thềm dinh. Đổ Bác Thần đứng trong khung cửa sổ nói vọng ra:

            -Phải Ma Vương Sắc đó chăng? Lão mỗ nghe danh quý hữu đã lâu, không ngờ tối nay hạnh ngộ! Xin có lời chào!

            Kiệu dừng, có tiếng hắt ra:

            -Ngươi là ai mà biết Ma Vương Chúa?

            Đổ Bác Thần cười lớn:

            -Ôi chao! Cùng hàng "Tứ Hung Tứ Khoái" sao không biết nhau? Ma Vương nhan sắc thông minh trác tuyệt hào hoa phong nhã đứng đầu về "sắc" trong "Tứ đổ tường", tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn càng xa nữa. Mỗ đây cũng trong hàng "Tứ trụ giang hồ" sao không biết? Mỗ là...

            "Tình tang tang! Long tong bùng!" "Đàn xóc đĩa" rung khua inh ỏi trong đêm, nghe như có một ban nhạc hòa tấu, cung âm kỳ dị khiến đám khách quanh miền chưa hề nghe, xúm lại trầm trồ, bầy sói ngoài sân cũng nhiều con hếch mõm, vểnh tai vẻ khoái hết sức. Tiếng trong kiệu vọng ra:

            -À "đàn đĩa"! Phải nhà ngươi là Đổ Bác Thần, tay trùm cờ bạc Đông Dương?

            -Khà khà! Quý hữu tinh lắm! Mỗ đi ngao du sơn thủy, tới đây gây sòng xóc đĩa đó!

            -À nếu vậy nhà ngươi cũng thuộc hàng "Tứ trụ", nể tình, Ma Vương tha cảsòng toàn mạng! Vậy lui sang bên hữu cả, Ma Vương vào đón đệ ngũ phu nhân về đây.

            Đổ Bác Thần lại xóc một hồi, nói oang oang:

            -Ấy, đâu có được! Bữa nay ăn khao con gái chủ nhân, quý hữu đem nó đi sòng bạc mỗ vỡ còn gì! Khác nào gặp lúc tang gia bối rối, còn ma nào ngồi đánh bạc với mỗ? Chớ làm thế hại mỗ. Nước bạc này tốt lắm, quý hữu hãy đánh một canh.

            Tiếng kêu vọng vào nhọn sẵng:

            -Về làm vợ Ma Vương sung sướng nhất đời, nhà ngươi đã nghe tiếng Tây Sắc hào hoa phong nhã, thương hoa tiếc ngọc, nàng về với lang quân Tây Sắc, sao dám ví với tang gia?

            Lúc đó cô gái quan châu Bảo Hà cũng vừa rón rén cùng mấy cô bạn nhìn ra, vừa thấy bầy sói nhe nanh nghe tiếng trong kiệu hắt ra, nàng ta buột miệng kêu rú lên, làm ai nấy đều kinh sợ. Đổ Bác Thần nói luôn:

            -Đó! Nghe thấy chưa? Sung sướng mà chưa chi đã ré lên như ma bắt, lại không phải "nhà có đám"? Mỗ nghe Ma Vương Sắc tài hoa phong nhã, ăn chơi có điệu lắm, làm gì mà như đi ăn cướp vậy? Thôi! Vào chơi vài tiếng đã! Một canh làm duyên gọi mừng cuộc đón dâu cổ kim hy hữu! Tây Sắc là bậc hào hoa, sành điệu, lẽ nào không biết đánh bạc?

            Dứt lời, Đổ Bác Thần quát oang oang:

            -Nào quan khách anh em ta đâu! Vào chiếu! Nào! Mời chú rể vào "khai bát"! Cô dâu đâu! Khá phấn son tô điểm xinh lịch, đợi chờ lên kiệu hoa về làm đệ ngũ phu nhân... nếu Ma Vương thắng Đổ Bác Thần.

            Ai nấy đều ngơ ngác, nhưng thấy Đổ Bác Thần khoát tay làm hiệu, thảy đều răm rắp ngồi xuống chiếu hoa, vòng hai bên, để hở một khoảng trống gần cửa sổ.

            Có tiếng vùng hét lớn:

            -À Đổ Bác! Phải ngươi muốn Ma Vương đánh cuộc?

            -Không phải đánh cuộc! Cuộc bạc này mỗ mời Ma Vương là để bói cuộc nhân duyên. Ma Vương được là điềm đại hỉ, lưỡng hỉ trùng phùng cưới vợ tốt, nếu thua là đại hung lấy vợ xấu như "vận áo xám", "họa vô đơn chí" cơm không lành canh không ngọt mà có thể chui tọt vào áo quan!

            Bỗng tiếng trong kiệu cười thét lên:

            -À con ma cờ bạc này! Ngươi lời nói quanh, sao không bảo thách Ma Vương đánh cuộc cho xong! Nhà ngươi muốn cản ta, phá cuộc nhân duyên, cứu gia chủ. Ngươi tin tài cờ bạc thách Ma Vương? Nếu ta không đánh?

            -Thì không còn cách gì hơn, phải phủ phục tôn Đổ Bác Thần. Nếu không tôn, đánh chiến tay đôi! Không tay đôi, thì hô đàn chó cắn! Nhưng mỗ tin Tây Sắc là tay hào hùng lịch sự, dầu giết người như ngóe, hỏi vợ như ma, vẫn không phải phường hèn nhát. Có lấy vợ về, nó cũng chửi cho đến xấu! Xóc nhé!

            Im mấy khắc, có tiếng vọng vào nghiêm đanh đầy ngạo khí:

            -Tưởng chỉ có ngươi là vua cờ bạc? Ma Vương Sắc tài linh trăm thứ, lại sợ thua sao? Tối nay không phải động chiến, Ma Vương không cần xua quân thú. Gái châu Bảo Hà! Sửa soạn xiêm y, còn lên kiệu! Đổ Bác Thần! Xóc đi! Đàn đĩa ngươi nghe vui tai lắm.

            Đổ Bác Thần nhe răng cười bảo mọi người:

            -Thấy chưa, Tây Sắc còn mê đàn mỗ, các người anh em lại định phá sòng? Bèn xóc rền luôn ba hồi. Mọi người ai nấy còn nơm nớp, ngồi lén dòm ra, vừa xóc hết hồi ba, cỗ kiệu hoa ngoài kia đã trôi sịch tới bên khung cửa sổ.

            Rèm hoa trước kiệu vụt cuốn lên, mọi người đều giật thót mình thấy trong lòng kiệu ngồi sừng sững một con sài kíu thuộc giống Hồng Cẩu Quẩy, to lớn bằng người, hai con mắt đỏ khé than tàu coi không khác một "ông thạch cẩu" người ta thường thờ sau vườn!

            Ai nấy đều kinh dị đến ngẩn mặt, cô gái con châu Bảo Hà rú lên, ù té chạy vào buồng, chính Đổ Bác Thần cũng không khỏi lấy làm lạ, nhưng chỉ thoáng qua đã rung đùi xoay bát mở thử, xóc xong lại xoay bát, mời oang oang:

            -Nào, thỉnh "lang quân Ma Vương" khai bát đi! Nào làng đánh đi!

            Khách khứa không còn mấy tay đủ bình tĩnh chơi nữa, ai nấy moi tiền ném bừa xuống chiếu, lén dòm trộm ra kiệu. Đổ Bác Thần chìa tay:

            -Mời Ma Vương đặt tiếng này! Bán chẵn?

            Lừ lừ, con "quỷ mắt đỏ" phát âm:

            -Ma Vương chỉ chơi ba tiếng! Nhưng không đặt tiếng này! Đổ Bác Thần cười lớn:

            -Bất quá tam! Hay lắm! Bát mở, sấp hai, canh bạc thật gay go. Đổ Bác Thần "bán" liền mười tiếng, toàn con bạc khác đặt. Tây Sắc Ma Vương vẫn lặng thinh. Cái đã vơ hàng mớ bạc xòe, giấy bạc, ngót giờ sau Tây Sắc mới đặt một tiếng. Mở ra, y thua. Y thét chìm:

            -Đưa ta làm cái! Đổ Bác Thần cầm cả bộ đồ nghề quăng ra cửa sổ trống. Tây Sắc chỉ quơ một cái đã bắt dính như nhựa. Y xóc, làm cái. "Làng" hết hồn, vẫn phải bấm bụng làm gan đánh, những kẻ ngồi gần cửa sổ cứ nhích mãi, ép người trong như bó giò, muốn ngạt thở.

            Tây Sắc cũng vơ hàng mớ bạc, bán cả chục tiếng. Đổ Bác Thần vẫn lắc. Chừng một tiếng, Đổ Bác Thần lại thua. Thấy Đổ Bác Thần thua, ai cũng lạ, chỉ có Đổ Bác Thần và một kẻ nữa biết: Tây Sắc! Vì không ai bịp, nhưng Tây Sắc, Đổ Bác Thần chẳng rõ vô tình hay hữu ý, khi xóc, truyền thêm điện phổ vào cung âm, nghe lạc hẳn tai, thính mấy cũng chỉ hiệu nghiệm một nửa, nên kẻ xóc vẫn lợi hại hơn.

            Từ đó, cuộc bạc trở nên gay go hết sức, cứ luân phiên đặt một tiếng, lại xóc một hồi, chỉ lát sau, làng hết sạch, ngồi xem. Sợ nhất là cả nhà viên châu Bảo Hà, vừa đứng coi, vừa run, mồ hôi ra như tắm, xương sống lạnh toát. Nhưng rồi canh bạc cũng tàn, Ma Vương thua Đổ Bác Thần vào cuối canh tư.

            Giữ đúng điều ước, Ma Vương ném bộ đồ nghề vào lòng Đổ Bác Thần, hất tung cả tiền bạc hét:

            -Bất hảo lương duyên! Bị ma cờ bạc phá đám! Bay đâu? Về động! Không lấy gái Bảo Hà làm đệ ngũ phu nhân!

            Theo tiếng rống tru nhọn hoắt, rèm buông soạt, kiệu hoa vụt trôi ra ngoài sân. Chừng ai nấy đổ ra dòm, còn kịp thấy cỗ kiệu "nhảy" vọt qua hàng rào, bầy sói độc lao biến vào sương đêm mất dạng.

            Đổ Bác Thần vuốt râu cười ha hả:

            -Canh bạc đó, tớ thắng Ma Vương Sắc rất khó khăn, nhưng cũng là canh bạc khoái hạng nhất, còn khoái hơn cả canh thắng Đông Âm ban nãy! Lại vơ tiền cả làng! Kha kha! Tớ đã tưởng đêm đó có cuộc tử chiến!

            Võ Minh Thần nghe đầu đuôi câu chuyện Tây Sắc, lòng mừng khấp khởi, hỏi liền:

            -Lão tiên sinh có biết sào huyệt y phương nào? Uống liền hai, ba chén trà, Đổ Bác Thần vuốt ria chậm rãi:

            -Sau đó một năm, y có sai thuộc hạ đem cáng tới rước ta lên Cao Bằng đánh một canh nữa cho y gỡ, nhưng vừa lên tới biên, bỗng lại có tin báo vì y có chuyện bất thường. Ta có dùng thuật riêng hỏi tên khiêng cáng được biết: Tây Sắc có nhiều động phủ, và động chính ở miệt Tây Bắc vùng thượng lưu Hắc Giang thuộc miền cực bắc Lai Châu! Y cũng không biết hơn nữa! Có dạo tớ định mò lên tìm chơi nhưng sau đó tự nhiên y biệt tích, từ đó mấy mươi năm, y im hơi tưởng như đã về âm cảnh!

            Võ gặng thêm địa chỉ Tây Sắc nhưng Đổ Bác Thần chỉ biết vậy thôi không hơn không kém. Chàng trai quay bảo Quản Kình:

            -Nếu vậy đúng Tây Sắc là con tinh chúa mười bảy năm xưa rồi! Nó cũng hấp sát, Đông Âm nói đúng!

            Đổ Bác Thần hỏi:

            -Chú mày có người nhà bị con tinh sói hại?

            Thở dài, Võ ứa nước mắt ngậm ngùi:

            -Chẳng dám giấu lão tiên sinh, mười bảy năm xưa, mẹ mỗ bị con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy ép duyên không được, rồi hấp sát bà, khi kẻ này mới hơn hai tuổi. Không biết họ, không biết nguồn gốc thân thế, cả di tích chỉ còn sót lại cái vòng điểm huyết này và mảnh dây chuyền bẻ đôi!

            Đổ Bác Thần dòm chàng trai, bỗng trật khăn gãi đầu, kêu:

            -Ôi chao! Thê thảm! Bất hạnh! Vậy mà thằng già này định lột cái vòng di vật của chú mày, vô lương hết sức! May thằng này lại thua!

            Thầy trò Võ thấy lão vò đầu bứt tai xem vẻ hối, lòng cảm động, bèn lễ phép cảm ơn, xin cáo biệt. Đổ Bác Thần hỏi:

            -Còn Bá Diện! Y có liên can gì?

            -Dạ không! Nãy có lần y hiện hình con Hồng Cẩu Quẩy, mỗ cũng ngờ. Nhưng cứ lời lão tiên sinh dạy, y không phải kẻ thù hấp sát! Nhưng chẳng hay y thuộc chủng loại nào?

            Đổ Bác Thần lắc đầu:

            -Nếu không liên can, đừng bắt tớ trả lời! Chỉ cần biết Đông Âm là giống cái là đủ! Nãy y đã bắt thề độc không cho tiết lộ!

            Võ Minh Thần lại hỏi:

            -Còn Giao Long chúa kẻ đã gây vết thương chí mạng trên lưng mỗ? Có thể là... Tây Sắc được chăng?

            Nheo mắt nghĩ chút, Đổ Bác Thần trầm giọng:

            -Có lẽ không phải! Vì con tinh thuồng luồng chưa hề hấp sát đàn bà! Nó cũng không đi bắt gái tơ, ngoại trừ một lần, đâu mười bảy năm trước, y có ép một nàng công chúa họ Bạc làm vợ, đem đi. Biết thế thôi! Có một tay cao thủ giang hồ, một đêm tình cờ đã gặp con tinh đánh nhau trên tả ngạn sông Gâm. Con Giao Long chúa không địch nổi Hồng Cẩu Quẩy, chúa tinh phải lặn xuống mất dạng. Nhưng đã lâu rồi!

            Võ ngó Quản Kình lòng thoáng lo âu, cứ như tài thuật Giao Long lại chẳng lợi hại hơn sói tinh? Bất biết, giờ hãy cứ lên biên giới xem sao, cứ khỏi vết thương dữ này, rồi sẽ đi tìm Ma Vương Sắc! Đêm nay tuy mắc nạn, nhưng thu thập được nhiều dấu vết kẻ thù, là mừng rồi.

            Bèn đứng lên từ giã Đổ Bác Thần lên ngựa ra đi. Băng qua suối vượt lên tận cửa rừng, vẫn còn nghe tiếng cười của lão Đổ Bác Thần vừa được canh bạc to nhất Á Đông. Hai thầy trò nhìn lại chẳng còn thấy ánh đèn sòng bạc cùng đám người kỳ quái đâu nữa. Bên tại chợt nghe tiếng nói của ông già lạ truyền âm như rót vào tai:

            -Này vua xì phé, trùm xóc đĩa! Tớ bảo thật: Chú mày thắng canh bạc to nhất Đông Dương, được cái vòng càn khôn quý giá, nhưng cũng như đeo cái vạ vào người đó. Hiện có nhiều đứa đang sục tìm vòng, Tây Sắc cũng sục! Chú mày đang bệnh, đeo lù lù cổ tay, cái lối nhử đó nguy hiểm à! Tớ khuyên nên giấu kỹ, hóa trang luôn, mới có cơ nên việc!

            Võ Minh Thần vội cất tiếng cám ơn, bảo Quản Kình:

            -Trước chưa biết tung tích kẻ thù, đeo lộ nhử thiên hạ, dò tin. Nay đã biết manh mối, cất đi là phải. Đợi chữa bệnh xong sẽ tính.

            Kình tán đồng ngay, lại bàn:

            -Từ đây lên biên giới xuyên sơn "nghịch" có tiếng, cậu hai bị thương để tôi đi trước một quãng thám thính, chắc hơn.

            Võ Minh Thần tháo vòng, bọc kỹ, cất vào túi áo trong. Quản Kình giục ngựa lên trước mở đường cho tiểu chủ. Lúc đó, đã sang canh năm, một đêm đầy biến động hiểm nghèo.

            Đường dài rong ruổi lúc nghỉ, khi đi, qua nhiều vùng rừng rậm, sơn thôn, chiều hôm sau, hai người đã tới mạn Nước Hai, không gặp chuyện gì rắc rối. Nghỉ ngơi ăn uống, mua thuốc, cho ngựa ăn, Võ Minh Thần thấy trong mình khỏe mạnh gần như thường, liền bàn với Quản Kình đi ngay. Hai người rời Nước Hai ngược lên miệt giữa Trùng Khánh, Sóc Giang hỏi thăm miền động Thanh Âm nhưng chẳng thổ dân nào biết cả.

            Hai người đi lang thang lần vào các cùng cốc, mãi trưa hôm sau đang đi trong vùng rừng núi A Phi Gia thượng giáp biên chợt gặp một lão Thổ cưỡi ngựa thồ mới từ mạn Trung Bắc biên đi tới. Võ Minh Thần bèn đón lại lễ phép hỏi:

            -Cụ sinh trưởng miệt biên, tuổi trọng, chẳng hay có biết vùng động Thanh Âm thuộc địa phận nào chăng?

            Lão Thổ có vẻ sợ sệt, nhìn hai người thấy cũng mặc quần áo Thổ, ngạc nhiên hỏi lại:

            -Hai ông không phải dân vùng này? Hai ông phương xa tới?

            -Dạ cụ nói đúng! Cậu chủ tôi là người Kinh tận dưới xuôi kia lên rừng mặc quần áo chàm cho tiện! Chúng tôi có việc cần tới Thanh Âm, cụ làm ơn trỏ giùm!

            Lão Thổ mặt tỏ vẻ thành kính:

            -Tôi hơn bảy mươi, vẫn chưa biết động đó ra sao! Nhưng tôi có biết miền động Thanh Âm là miền bí mật thiêng liêng dưới quyền "Bà chúa" quyền phép nhiệm màu, thú dữ đầy đàn, ma thiêng quân mã biến ẩn canh phòng, người nào phạm tơi chết liền! Đến các quan nhà nước cũng không chạm đến! Tôi nghe miền động đó ở tận miệt Đồng Văn sát biên, đất Hà Giang rất khó tìm vào. Các quan cứ đi ngang biên may gặp!

            Võ nhớ lời chúa tướng Thập Vạn vội rút bản đồ sơ lược ra coi, quả đúng ghi miệt đường Đồng Văn, nhưng đường xuyên sơn chằng chịt với ít lời căn dặn rất rõ, tuy vậy trên thực tế, bản đồ với địa hình địa vật thật khác nhau một trời một vực, nhất là miền sơn lâm chỗ nào cũng đầy núi đá đồi đất, khe, cốc, rừng, thung trùng điệp giống nhau càng khó tìm hỏi, lão Thổ cũng chẳng biết gì hơn. Võ Minh Thần đành cảm ơn lão, cùng Quản Kình lên đường, nhắm hướng Đồng Văn đi miết. Mấy giờ sau, mặt trời xế bóng, sương tàn dâng, hai người tới một cánh thung đồi cẩm tú, nhìn xa xa thấy cả bóng nhà sàn thổ dân.

            Hai người vừa dừng ngựa bên con suối trong cho ngựa uống nước bỗng nghe rầm rập tiếng vó câu khua dồn dập rồi một bọn đến ba bốn chục dân Hán, Thổ, Mông, chi đó dắt díu nhau chạy ùa tới, vẻ hoảng hốt như bị ma đuổi. Hai thầy trò ngạc nhiên ngẩng nhìn hỏi lớn:

            -Chuyện gì đó? Đám thổ dân cứ dắt nhau chạy, chỉ một người trạc tứ tuần kêu giật lùi:

            -Quỷ mắt đỏ! Có đàn quỷ mắt đỏ... phía rừng trước! Chớ đi nữa! Lộn lại mau! Sài kíu!

            Lời chưa dứt, người ngựa đã chạy ào như đàn vịt, qua suối, Quản Kình giục:

            -Cậu hai! Ta nên lánh mau!Nhưng Võ Minh Thần máu đã sôi sục cừu hận, vùng nói lớn:

            -Giống sài lang tàn hại sinh linh, gặp phải giết hết loài quỷ dữ! Sao lại tránh?

            Quản Kình lo ngại:

            -Nhưng cậu hai đang bệnh?

            -Bệnh cũng chưa đến nỗi chết! Biết đâu chúng có tinh chúa! Để tôi đi xem sao!

            Chàng trai nhảy lên ngựa phóng ngược về phía thổ dân vừa chạy. Quản Kình lật đật chạy ngược lên trước, hai ngựa phi đại, thoắt đã qua hai con thung, rừng chiều quạnh quẽ, nắng tàn ngọn núi, gà rừng eo óc buồn tênh. Hai người gò cương nghe ngóng.

            Bất thần, chim chóc bay tán loạn, từ đầu hẻm núi, hai, ba con nai cong đuôi chạy xé gió, vẻ kinh hoảng như sợ cọp. Rồi bên kia hẻm núi, bỗng có tiếng chó sói tru nhọn hoắt, âm gai sắc bốc vãi qua đỉnh núi tưởng thấu trời mây, như dùi cào màng tai, kẻ nhát gan muốn ớn xương sống.

            Võ Minh Thần, Quản Kình nhảy xuống đất rút soạt cây súng đeo hành lý, mang khiên, thả ngựa chạy lộn lại, hai thầy trò tiến vào hẻm.

            Hẻm này rộng chừng vài thước sườn đá, nhấp nhô, đường mòn chạy giữa chỉ sâu chục bộ, mở ra một cánh rừng khá phong quang, tùng bách xanh um, cỏ hoa tươi tốt. Vẫn tiếng sói tru. Hai người nhảy lên sườn núi đứng đầu ghềnh, nhìn xuống rừng, nhưng vướng tàn cây, lại phải nhảy xuống đất, đứng ngay cửa hẻm, đưa mắt nhìn vẫn không thấy gì. Chừng hai phút, bỗng nghe tiếng sói tru vang động, tiếng ngắn, cộc, dữ dằn, lẫn cả tiếng gừ hộc, rồi một đàn hai, ba bầy sói từ cuối rừng phía trước chạy ào tới như những luồng gió độc. Hình thù to lớn nhấp nhô, lông lá xồm xoàm đen, vàng lố nhố, những con mắt đỏ khé dập dờn theo nhịp chạy, đúng giống Hồng Cẩu Quẩy hung tợn nhất.

            Đàn sài kíu lao thẳng tới hẻm núi, sịch thấy bóng hai người đứng đầu hẻm, bầy đi trước tru hộc lên chạy tóe ngang, nhe nanh múa vuốt, Võ Minh Thần tưởng lại cảnh mẹ bị chó sói vây bắt sát hại, máu sôi lên:

            -Sài lang! Quỷ đỏ mắt! Tao tàn sát hết giống nòi mày! Tiếng quát vang động rừng chiều, hai họng súng thi nhau nhả đạn tặc tặc! Sài kíu lộn nhào ngã vật, vỡ đầu lòi ruột, cả đàn tru rống kéo ào tới, bất chấp súng nổ. Như điên, Võ, Kình đứng dạng chân bắn liên hồi, quỷ đỏ mắt quả hung tợn gớm ghê cứ lớp gục lớp sau lại xông lên tha luôn đồng loại, gặm táp, gầm gừ xốc tới, nhanh đến nỗi khạc đạn liên miên vẫn không cản kịp, thoáng cái, đàn sài kíu độc đã ào lại chỉ còn cách vài sải, mặc dầu đã bị hạ mấy chục con. Trong làn đạn bay, sói chồm, hai người chợt thấy bầy sau cùng tru lên nhất loạt, có mấy con vùng đi hai chân khật khưỡng như người, chạy túa ra hai bên rừng ẩn hiện sau cây cỏ. Vẳng có tiếng quát ma âm:

            -À tên nào to gan dám giết bầy sói của Chúa động? Tiếp theo có tiếng tru vang lừng, sài kíu tản rộng cánh cung kéo ào cả lại, vẳng có tiếng chó sủa, tru khắp gần xa, bầy đi đầu chồm lại vồ. Mãi lúc đó, hai thầy trò Võ Minh Thần mới hiểu rõ sức ghê gớm tàn hại của Hồng Cẩu Quẩy. Vì mới chỉ có bầy đầu non trăm con, đã ào tới tuy bị hạ vài chục. Hai người hạ thêm được một loạt năm bảy con đầu nữa, thì lớp sau đã chồm lên. Tạch, hết đạn! Chưa kịp thay, Quản Kình lôi tay Võ, hô:

            -Rút lên sườn núi... mau!

            Lời chưa dứt, chó sói đã chồm tới lố nhố. Võ Minh Thần, Quản Kình quật mạnh ra một đòn phản phong, cả lũ sói bắn huỵch lại, dãy dụa, tru lớn. Cả hai thừa thế nhảy vọt lên ghềnh núi, mỗi người một bên. Bầy sói kéo tới chân ghềnh tru, chồm, nhe nanh múa vuốt. Hận cừu sôi sục, chàng trai quên cả bệnh tung liễu đao chém như mưa. Quản Kình thấy thế vùng gọi sang:

            -Nó đông như kiến, liệu dưỡng sức, hình như có tiếng con tinh chúa!Võ Minh Thần ngừng tay, tra băng đạn mới vào súng, vừa xong thì bầy sói cũng có nhiều con nhảy ghếch lên chồm táp. Rất bất lợi là đầu núi đá chỗ này ghềnh mọc nhấp nhô, sườn thoai thoải nhiều rất tiện cho các giống sơn dương, beo, gấu, chó sói leo trèo, hai thầy trò Võ phải rút lên độ cao ba mươi thước. Máu sói tuôn như suối chảy, nháy mắt hai người đã hạ hàng năm, sáu chục con, sức bắn chém của Võ Minh Thần không sao tưởng tượng nổi. Đến nỗi Quản Kình đứng bên kia hẻm phát sợ, thình lình có tiếng ngựa hí loạn cuối hẻm lẫn tiếng sói tru. Võ Minh Thần vùng hô:

            -Phía sau cũng có sói! Lại cứu ngựa!

            -Coi chừng... cậu hai! Chớ xuống dưới đất! Hai người men theo ghềnh đá lui lại cuối hẻm. Nhưng mới tới đầu núi trông xuống đã thấy một cảnh tượng hết sức thương tâm. Hai con ngựa vừa hí vừa chạy cuống cuồng, phía sau có một bầy ba, bốn chục con sài kíu lớn rượt theo, lúc hai con ngựa chạy tới cách hẻm độ ba mươi thước, lại gặp một bầy khác từ phía hữu ùa ra, chặn vồ, hai con ngựa dạt sang tả, lại bị bầy khác, hoảng hồn chạy vòng quanh, hí vang lừng. Võ Minh Thần vừa ra tới, chĩa súng bắn vòng quanh, nhưng đàn sói rất hung, không biết sợ là gì, cứ tiếp tục ào tới vồ mồi, bắn không kịp, lại thương hai con vật, chàng trai hét lớn:

            -Lang sói hung tàn! Không được bắt ngựa của tao! Lời dứt, chàng dắt luôn dù, nhảy vèo xuống đất, xông thẳng tới cứu hai con ngựa. Quản Kình thất kinh cũng theo đường mòn dọc giữa hẻm lao ra. Võ lao tới còn cách hai con ngựa chừng bảy, tám thước thì đàn sói mấy phía đã kéo ào tới như cơn lốc, bu quanh hai con ngựa như đàn kiến. Võ Minh Thần bị một lũ ngăn trước, cả giận dùng phản phong đánh liền hai nhát, trông ra, chẳng thấy hai con ngựa đâu nữa, chỉ thấy một đàn sài kíu bu như vùng mây độc, chàng trai hét lên, nhảy xả vào đàn sói, bùng bùng, đàn sói bật tung tán, từ trong bầy thú dữ, bắn văng ra hai cái yên nham nhở, cùng hai cái đầu lâu ngựa bị gặm trơ xương, không khác đầu cái trắng, còn thân xác to lớn của hai con vật đã chui vào bụng sói không sót một cái lông... như trong cơn mộng thoảng. Quản Kình cũng bị một đàn ngăn trước, trông bốn bề, thấy chó sói kéo ra hàng đàn, thất kinh gọi lớn:

            -Cậu hai... Lên cao! Lên cao mau! Võ Minh Thần đang nổi giận say máu nghe gọi vội đánh ra một đường phản phong thật mạnh rồi theo đòn quăng mình lên cây đu cành vọt lại đầu núi. Quản Kình cũng đu cành vọt lên lộn lại sườn bên này. Đàn sói tru hộc nhảy chồm chồm kéo theo như kiến.

            Vừa hạ chân xuống một mỏm đá, Quản Kình bỗng giật thót mình nghe mơ hồ có tiếng ai thét bên tai xa xăm như từ cõi vô hình nào vọng về:

            -Bọn mi lớn mật, dám đánh giết bầy quỷ mắt đỏ của Chúa! Hà hà! To gan... to gan... cho mi vào bụng quỷ...

            Quản Kình ngó quanh, chẳng thấy bóng ai. Võ Minh Thần cũng dòm quanh, chợt nhận ra đàn sói đã bao quanh hẻm núi, chàng trai hét lớn:

            -Tinh chó sói! Có giỏi chường mặt ra... Ta phanh thây xả thịt cả nòi giống mi chưa hả thù! Tây Sắc Ma Vương! Mi đâu sao không ra mặt? Loài lang sói khốn kiếp!

            Hai tay quật liền hai nhát phản phong tung hàng chục con vừa nhảy lên sườn núi. Quản Kình đảo mắt dòm, bỗng giật nảy người, chợt thấy trên mỏm núi cao chót vót ngay xế trốc đầu Võ Minh Thần có một con sài kíu to lớn như người, đứng hai chân, lù lù dòm xuống, hai con mắt đỏ khé trong nắng quái hoàng hôn, ngay dưới chân nó, có một đàn chó đen, vàng, trắng, khoang lốm đốm đủ loại, đang men ghềnh, chạy ào xuống. Kình la giật:

            -Nó trên đầu... cậu hai! Võ Minh Thần giật mình xẹt ngang, ngước mắt dòm theo tay Kình trỏ, vận khinh thân, nhảy vọt lên mỏm ghềnh đá xế trên. Quản Kình chĩa súng định nổ, nhưng bóng con sói đi hai chân thoắt biến đâu mất, bỗng nghe Võ vùng la lên một tiếng lê thê, Kình dòm sang, thấy tiểu chủ vừa hạ xuống ghềnh đá bỗng té dụi như kẻ trúng phong. Cả kinh, Kình chống súng nhảy vọt sang, chó sói phía dưới lồng tru hộc,

            Quản Kình nhảy mấy bước tới chỗ tiểu chủ vừa thò tay đỡ thì Võ đã gượng đứng dậy được, thở mạnh, mặt tái hẳn đi, phun ra một búng máu

            -Trời! Cậu hai sao thế?

            -Hình như... dùng quá sức điện công... vết thương phát tác... Kình đỡ chủ:

            -Cậu hai để tôi cõng! Phải rút mau trước khi con tinh tới!

            -Tôi còn đi được! Chỉ choáng váng...

            Hai người dắt nhau, men ghềnh, rút ra đầu hẻm đằng kia. Nhưng ra được tới nơi, đã thấy sài kíu đánh hơi theo ra đừng từng bầy. Võ hoa mắt, cảm rõ sức suy nhiều, chàng đẩy Kình, phào giọng:

            -Chú chạy đi! Chạy theo luồng đạn! Thoát người nào hay người đó!

            Quản Kình vừa đáp "Không! Sống cùng sống chết cùng chết!" thì Võ Minh Thần đã vùng hét:

            -Tây Sắc! Mi đâu? Nghiệt quỷ! Sao không ra đây? Chàng trai nhảy vèo xuống giữa đám sói, tay khiên tay đao đâm lia lịa. Quản Kình nhảy theo, hai người bị chia hai ngả, chó sói ùa lại như kiến, tru hộc, gai gai, bỗng có tiếng hú ma âm trên cao hắt xuống, Võ Minh Thần tả xung hữu đột, vừa thoát ra khỏi vòng vây, bỗng đầu choáng mắt hoa, đất trời đảo lộn, quay cuồng, chó sói chồm lại lớp lớp "xoang xoảng" ken két nanh vuốt vồ vào khiên sắt gai gai. Chàng trai loạng choạng run hẳn tay chân, cố vùng chém, hết cực kỳ u uất:

            -Mẫu thân... mẫu thân! Trời, con kiệt lực rồi! Kình đâu! Chú... Chàng trai đổ dụi xuống, khiên úp trốc mình, trong cơn tuyệt vọng còn thoáng thấy bóng sài kíu lông lá lồm xồm vồ xoảng xuống khiên, bóng con Hồng Cẩu Quẩy sịch khắc lù lù vào nền lá úa hoàng hôn, chẳng thấy Quản Kình đâu nữa. Rồi toàn thân rúng động, mắt khép lại, chàng trai còn thoáng ngửi rõ mùi hôi hám phả thốc vào mũi, theo hơi thở hộc của bầy quỷ mắt đỏ phào xuống mặt, nanh nhọn hoắt chạm vào da thịt lởm chởm, lởm chởm... rồi ngất xỉu đi, không còn biết gì nữa!... Không biết bao lâu, tự nhiên chàng tuổi trẻ sực tỉnh dậy, mở bừng mắt ra. Và bàng hoàng ngơ ngác thấy sài kíu rừng già biến đâu mất, cùng với những tiếng tru sóc óc, chàng trai thấy mình đang nằm trên một cái giường thất bảo màn the trướng gấm huy hoàng trong một động phủ thâm nghiêm như cung điện vua chúa đời xưa. Bốn bề quạnh vắng thẳm sâu. Quá sững sờ, chàng trai nhận ra mình nằm ngửa, bèn đưa mắt nhìn quanh, ánh mắt chạm các bức tranh hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, cùng những vật dụng bày quanh gian phòng sâu thẳm toàn màu vàng rực rỡ, càng ngơ ngác, thấy rõ mình nằm trong một căn phòng rộng mênh mông, nhìn ra sâu hun hút, chan hòa một thứ ánh sáng trong như ngọc lưu ly, không ra ánh mặt trời, không ra ánh đèn đuốc. Chàng trai hít một hơi dài, không khí nhẹ lâng lâng và kì diệu thay, mãi khắc đó chàng trai mới nhận ra trong mình đã mạnh khỏe hết sức như chẳng còn bệnh tật gì nữa.

            -Lạ chưa này? Rõ "ban nãy" bệnh phát tác, ra máu miệng, ta ngã gục xuống giữa đàn "quỷ mắt đỏ", còn thấy rõ cả răng nanh nó ngoạm vào da thịt rồi không hay gì nữa, chắc chắn đã chui vào bụng quỷ. Thôi! Có lẽ hồn trần đã sang thế giới bên kia cuộc sống rồi... Phải rồi! Nếu không sao lại ở chốn này? Bệnh tật lại bay đâu cả?

            Lòng đầy kinh nghi thử cấu vào đùi, lắc mạnh đầu, cúi dòm xuống càng lạ, thấy mặc một cái áo choàng rộng trắng toát coi như áo thầy thuốc Tây, "màu trắng như vôi bất giác gợi ngay màu bóng ma cố hữu". Võ Minh Thần càng đinh ninh đã lìa trần, vùng bật kêu lớn:

            -Đây là đâu? Âm phủ hay... Chàng trai vụt im, vì nghe rõ tiếng mình vang chuyển hun hút, xa xa như có tiếng người nhái lại: "Đây là đâu? Âm phủ hay..". Bàng hoàng khó tả, tự nhiên cảnh im lặng đè xuống tâm trí, chàng trai giật áo coi, lại quài tay sờ vết thương sau lưng, mới hay áo giáp biến đâu mất, vết thương có buộc băng.

            Chàng trai bước xuống giường, bỗng giật mình thấy tít xa xa cuối phòng có một đàn năm, sáu con sài kíu nằm ngồi lố nhố, mắt hau háu dòm vào.

            -Trời! Thôi đúng rồi! Bị sói ăn thịt, hồn thành... con trành...? Đang đứng bên giường, kinh hoàng, dương mắt nhìn bầy sói, bỗng nghe tiếng "ken két" mở cửa, rồi một bóng nữ nhân sịch bước vào, tay bưng khay nước chi đó khói nghi ngút, rồi lại hai, ba bóng nữa. Cả ba, bốn nữ nhân thoăn thoắt tiến vào êm như mấy chiếc bóng, đó là các cô gái khoảng mười tam, mười chín đều mặc "phá" lướt thướt. Võ cứ đứng dòm, vào được năm, bảy thước, bỗng mấy cô nàng chợt nhìn vào, thấy dáng Võ đứng sững bên giường, cả mấy nàng cùng khựng lại, kêu thánh thót giọng Thổ:

            -À công tử thức dậy rồi kìa!

            -Sao công tử lại đứng đó? À! Mấy con quỷ này, mi canh cửa ngoài sao dám vào đây?

            Mấy nàng lấy tay xua đuổi bầy sói... mấy con thú độc cong đuôi chạy mất. Nàng cầm khay bảo: "Ra trình chúa nàng mau", một cô quay ra, còn hai, ba cô thoăn thoắt tiến thẳng vào, cúi chào Võ, thỏ thẻ:

            -Công tử vừa thức? Công tử chớ kinh động, để chúng em đỡ lên giường!

            Cô gái đặt tay xuống chiếc bàn kê đầu giường, cùng xúm vào dìu Võ lên giường, lòng bàng hoàng, chàng trai kêu ngơ ngác:

            -Không... mỗ đứng được mà... không sao... mà đây là đâu? Phải âm phủ...? Mỗ bị chó sói ăn thịt rồi mà...!

            Mấy cô gái cứ ấn Võ nằm xuống nhưng chàng trai lại nhỏm dậy hỏi, mấy cô gái nhìn nhau nhoẻn cười bưng khay lại, nàng lớn nhất cầm bát nước đen sì, lễ phép dâng:

            -Mời công tử uống đi, kẻo nguội! Thuốc bổ đấy!

            Tuy vẫn ngơ ngác, chàng trai phải nhắm mắt uống hết bát thuốc đắng như mật, hỏi vội:

            -Sao lại cho uống thuốc? Dưới âm cũng uống thuốc? Như hiểu rõ ý nghĩ trong đầu khách, cô gái lễ phép:

            -Công tử mạnh rồi, không việc gì hết! Đây là cõi trần mà! Công tử còn mê sảng sao? Trời! Hôm nọ đã tưởng không qua khỏi!

            Thấy nói hiện ở cõi trần, Võ Minh Thần càng lạ, hỏi:

            -Nhưng mỗ đã bị chó sói ăn thịt mà?

            Cô gái mỉm cười lễ độ:

            -Bẩm không! Công tử được chúa cứu về đây... Nhưng vết thương sau gáy công tử phát lên rất dữ, công tử mê sảng làm ai cũng lo! Nhiều hôm công tử nằm thoi thóp...!

            -Lạ nhỉ! Nhưng đây là đâu? Mỗ ngất mấy tiếng rồi?

            -Bẩm... đúng ba ngày đêm! Giật mình kinh ngạc, chàng trai trợn mắt kêu lên:

            -Tưởng mới đây! Kìa! Rõ ràng mỗ còn nghe văng vẳng tiếng sói tru... mà mấy con sói kia... là gì? Vô lý! Còn con tinh chúa đâu? Phải mấy cô cũng là con "trành"?

            Mấy nàng không nhịn được cười, chợt nàng vừa dâng thuốc hỏi:

            -Thế công tử không nhận ra được em sao? Võ Minh Thần ngó sững và thấy phảng phất như đã gặp đâu rồi nhưng không nhớ nổi, lòng đầy sửng sốt, chàng nhảy tót xuống giường, chạy về phía cửa, mấy cô gái gọi rối rít. Nhưng khi Võ đến gần cửa, thì cửa chợt sịch mở, một bầy gái trẻ hàng chục cô tíu tít đi vào, phò một nàng tuyệt đẹp phá lãnh thủy ba quét sàn bó sát thân tròn lẳn coi dáng đúng "cô nàng bà chúa" rừng thiêng.

            -Chúa nàng tới kia rồi! Mấy cô gái vùng kêu lên và cúi đầu chào, Võ giật mình khựng lại, lùi mấy bước, khi thấy sau lưng bọn mĩ nhân mới vào có một bầy chó lông lá xồm xoàm coi dữ tợn. Chúa nàng dừng lại, mặt che ngang một mảnh khăn vàng, búi tó đỉnh đầu, trâm cài lược giắt óng ả như tiên, mắt phượng long lanh nhìn Võ, cất giọng thánh thót như tiếng đàn:

            -Kìa tiên sinh... công tử đã tỉnh, may quá! Công tử thấy trong mình dễ chịu hẳn chưa? Ngoài này gió, công tử nên cẩn thận!

            Cả đám tiến vào, Võ đi giật lùi, vùng hỏi:

            -Bà là ai? Đây là động phủ hay âm phủ? Chúa nàng cười khanh khách:

            -Công tử mê ngủ à? Sao lại âm phủ!

            -Nhưng... nhưng bà là ai?

            -Đây là miền động phủ của lãnh chúa Pi A Ya, chúa tể các sắc dân bộ tộc, chúa các loài sơn cẩu hùm beo... còn thiếp, chung quanh gọi "nữ chúa Hồng Cẩu Quẩy"!

            Giật mình, Võ Minh Thần nghĩ ngay tới con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, lui một bộ hỏi:

            -Nữ chúa Hồng Cẩu Quẩy? Bà là chúa các loài sơn cẩu... hay bà là con chúa sài lang Tây Sắc Ma Vương?

            Chúa nàng lại cười khanh khách:

            -Công tử mơ ngủ? Tây Sắc chúa sài lang nào? À phải công tử nói con tinh hấp sát người ta đồn là Tây Sắc? Là quỷ mắt đỏ thành người? Ồ! Công tử lầm rồi! Công tử chưa nhận được thiếp sao?

            Thực tình Võ cũng có ý nghĩ "nàng là tinh sói" nhưng nghe giọng nói lúc đó cũng nhận mang máng như đã nghe quen lần nào rồi, nhưng chịu không nhớ ra nổi. Chúa nàng chợt nghiêm giọng hỏi:

            -Vết thương công tử đỡ hẳn rồi chứ? Không có Lãn Ông tái thế trị, chắc nguy rồi! Công tử cho thiếp coi nào!

            Võ ngơ ngác, lùi nữa. Chúa nàng thấy thế phát cười khanh khách đưa tay búp măng cởi phăng mảnh lụa vàng che ngang mặt! Khuôn mặt đẹp tuyệt trần hiện ra, chúa nàng mỉm cười, nhìn khách. Võ giật mình mấy khắc, và bật kêu sửng sốt:

            -Trời... cô... cô nương bị nạn con "quỷ đỏ" trên biên thùy Trùng Khánh! Chúa nàng thỏ thẻ:

            -Giờ công tử mới nhận ra sao, ân cứu tử ngày nào thiếp vẫn ghi tâm khắc cốt tưởng không còn dịp nào gặp lại. Ai ngờ lòng trời dun rủi lại được tái ngộ ân nhân? Chiều nọ may thiếp đến kịp, nếu không còn gì! Công tử vô tình đã đánh giết đàn sài kíu độc giữa lúc thiếp cùng phụ thân săn đuổi thu phục chúng.

            Mãi lúc đó Võ Minh Thần mới tin hẳn mình còn sống, trong lòng bàng hoàng tưởng mê ngủ bèn hỏi dồn dập, nàng nữ chúa mời chàng ngồi, đoạn vui vẻ kể lại đầu đuôi.

            Mới hay bữa đó có một đàn Hồng Cẩu Quẩy từ đất Tàu tràn sang Nam, nàng cùng cha, vị chúa rừng Pi A Ya nghe chúng vào bèn đem chó đồng đi săn đuổi, vừa qua tới thung lũng thì nghe súng nổ, hai cha con vị chúa tể tưởng kẻ nào, vội xua thú bao vây, nàng nữ chúa đi phía hữu, vừa tới đầu hẻm đã nghe tiếng quen quen vội xông lại vừa kịp nhận ra Võ Minh Thần bỗng ngã gục, sói bu lại, nàng vội hú hiệu lệnh truyền thú dữ dừng lại, rất may là bầy sói đã thu phục từ trước, nếu là bầy mới chắc nguy rồi.

            Nàng bèn lay gọi, không động đậy, vạch áo xem mới hay Võ bị "quái thương" sưng mọng, cả kinh, lật đật gọi quân gia tỳ nữ võng về, Cha nàng chúa tể Pi A Ya vốn là tay thượng võ ẩn danh, chẩn đoán "đòn âm" bèn họp các soái lại chữa trị nhưng vô ích, trị lối điện công cũng không khỏi, ai nấy đều tuyệt vọng. May sao có ngay tới vị thánh y Lãn Ông tái thế miệt Si Công Linh, nàng liền đi thỉnh về. Nào dè, sau khi xem mạch, xét thương, thánh y thở dài bó tay, hốt bảo:

            -Đòn tuy đánh vào da thịt, mà công phá tiêu hủy tinh lực thuộc pháp môn phi nhân phi quỷ, chất độc thuộc tinh lực huyết khí sẽ hút tinh lực, bệnh nhân sẽ hết chất kim khí thủy hỏa trong người mà thác, như con ve sầu! Sức công phá nhanh không cách nào bồi kim khí vào kịp! Âu cũng là số mệnh bệnh nhân!

            Nàng nữ chúa quá thương ân nhân sa nước mắt hỏi:

            -Thưa lão tiên sinh... không còn thuốc nào trị nổi nữa sao? Người tốt như chàng đây chẳng lẽ trời bắt đoản mệnh?

            Thánh Y buồn bã bảo:

            -Có một vị thuốc có thể cấp cứu sinh mạng được nhưng cũng kể như không vì chỉ có xương con Mạc thú, vì con Mạc thọ kim khí sinh ra, xương da nó là tinh túy kim loại, nhưng con Mạc cả ngàn đời nay chưa sanh, lấy đâu ra?

            Nàng sực nhớ hôm gặp Võ, có hạ được con Mạc thú, bèn gọi nữ tỳ đem hành lý Võ ra coi, may sao còn một mớ xương da. Thánh Y xem, mừng hết sức, bèn lấy một ít xương da làm thuốc cho Võ uống, đắp vết thương. Quả nhiên bệnh giảm.

            Kể xong, nàng hớn hở bảo:

            -Thánh y dặn chậm lắm bốn ngày đêm sẽ lành, tính ra chưa được ba ngày đã dậy, vậy là lòng trời còn thương người lành mới gặp thầy gặp thuốc.

            Nghe nàng nữ chúa Pi A Ya kể dứt, Võ Minh Thần vẫn bàng hoàng như vừa trải cơn mê. Nhớ lại lời mẹ đã hiện về giục lên biên giới may gặp kỳ nhân trị vết thương vong, Võ lúc đó mới tin mình đã thoát khỏi nạn dữ, bèn đứng lên xá nàng nữ chúa một cái cảm động không cùng:

            -Mong ân cứu tử, chữa vết thương kẻ này đã tưởng chết, ai ngờ được sống, chẳng khác giấc chiêm bao, thật chẳng biết lấy chi đền đáp ân đầy đức trọng của lệnh tôn cùng cô nương.

            Cô gái Pi A Ya tránh sang bên thỏ thẻ:

            -Tiên sinh chớ nói nặng lời, lòng thiếp không an! Ngày nào trên biên thùy Trùng Khánh nếu chẳng được tiên sinh ra tay giải cứu chắc thân thiếp đã làm mồi cho ác quỷ, còn đâu trên đời này! Ân đó, ngàn đời ghi tạc, dẫu phải lấy thân báo đáp cũng chẳng từ nan, huống hồ chi chuyện nhỏ mời thầy trị bệnh? Thiếp đâu ngờ có ngày gặp lại tiên sinh, dám xin tiên sinh cứ bình tâm tĩnh dưỡng cho mạnh hẳn, chớ nghĩ nhiều cho hao tổn tâm thần! Mà chẳng hay tiên sinh đi đâu mà lại gặp sài kíu giữa rừng?

            Võ Minh Thần từ tốn, giọng đượm buồn:

            -Ngu mỗ xuôi ngược tìm thù, chẳng may thọ thương Giao Long tinh hồ Ba Bể, nghe người mách bảo, tính lên biên kiếm bậc thánh y Si Công Linh, không ngờ giữa rừng gặp sói, tưởng giống độc ác, lòng đau, nên đón đường bắn giết, lỡ phạm bầy thú của lệnh tôn, cô nương, thật cam đắc tội!

            Cô gái chúa Pi A Ya đăm đăm nhìn chàng trẻ tuổi hỏi:

            -Chuyện lầm lẫn là thường, nhưng chẳng hay kẻ thù của tiên sinh là ai, mà tiên sinh thấy loài chó sói lại giận đến thế?

            Võ thở dài trạnh niềm nhớ đến thâm cừu:

            -Chẳng giấu gì cô nương, kẻ thù của ngu mỗ là một con Hồng Cẩu Quẩy thành tinh! Con tinh độc nói được tiếng người, chính là Tây Sắc Ma Vương! Vừa dứt, sực nhớ ra di hài mẹ vẫn gói để trong bọc hành lý, Võ mừng hỏi:

            -À chẳng hay... bọc hành trang của mỗ...

            Không đợi nói hết câu cô gái chúa rừng đáp ngay:

            -Dạ, còn đủ cả! Hiện cất kỹ không mất gì đâu! Mấy bữa trước thiếp mạn phép lẫy gói xương, da Mạc thú ra thôi, còn tất cả đâu vẫn nguyên đó. Tiên sinh có cần, để thiếp lại đem vào.

            Nói đoạn không chờ Võ đáp, nàng quay bảo cô gái hầu lớn tuổi. Cô này đi ra, thoắt đã đem vào. Võ Minh Thần ngó qua, yên lòng, biết chưa ai lục tới gói di hài mẹ để tận đáy giỏ. Bèn hỏi:

            -Chẳng hay người đồng hành của ngu mỗ còn sống hay...

            -À! Quản Kình... chú ấy không hề chi, chỉ xây sát qua loa, hiện ở dưới kia, tiên sinh cứ yên lòng.

            Võ mừng hết sức, nói qua mấy câu đoạn từ tốn bảo:

            -Mang ơn cô nương giờ ngu mỗ đã mạnh, xin cho được gặp lệnh tôn và Quản Kình. Và chẳng hay vị thánh y còn đây không?

            -Lãn Ông tái thế đã về Si Công Linh ngay khi chữa trị xong! Tiên sinh mới tỉnh, nên nằm tĩnh dưỡng là hơn! Thánh y có dặn đúng hai ngày nữa mới hoàn toàn bình phục! Cử động sớm rất có hại!

            Võ Minh Thần đành nghe theo. Nàng nữ chúa trò chuyện thăm hỏi giây lát rồi cũng cáo từ trở gót, chàng trai nằm lại nơi thạch động thêm hai ngày đêm, từ đó tuyệt không thấy bóng con Hồng Cẩu Quẩy nào ngoài cửa nữa. Gọi là ngày đêm là nhờ coi chiếc đồng hồ trên vách, lấy bữa ăn, nghe tiếng động mà biết chứ trong thạch động sâu thẳm, lúc nào cũng chỉ có một thứ ánh sáng trong suốt hơi vàng chẳng thấy ánh mặt trời, mặt trăng, có lẽ là một thứ ánh sáng lồng kính pha lê chi đó!

            Nhưng khí hậu nơi đây thật trong lành rất dễ chịu, đêm, thỉnh thoảng chợt thức nghe mơ hồ văng vẳng có tiếng sài kíu tru lê thê như từ lòng đất dấy lên, khiến cảm giác Võ càng mang mang như đang sống tại miền xa xăm khuất tịch hẳn cuộc sống dương trần...

            Qua mấy bữa thuốc thang ăn uống đều, Võ thấy khỏe hẳn, bèn đến ra cửa, nhưng cửa đóng kín.

            Một sáng, vừa tỉnh giấc, đã thấy gái hầu bưng đồ điểm tâm vào, Võ đang nóng lòng, thì nàng chúa Pi A Ya sịch tới, đẹp lộng lẫy trong lớp xiêm y thổ thái, cười bảo:

            -Bữa nay, tiên sinh bình phục hẳn, có thể ra khỏi cảnh tù giam lỏng này. Lòng mừng, chàng cũng đùa:

            -Ôi! Nhà tù này, được nằm giường thất bảo, ăn ngon, mỗ có thể ở tù suốt đời.

            Cả hai cùng cười, cô gái cũng vui mừng chàng trai khỏi bệnh không kém. Nàng đi trước đẩy cửa động đưa Võ vào. Lúc đó mới rõ động phủ này ngang lưng chừng núi, bốn bề đầy kỳ hoa dị thảo, đứng cửa động có thể nhìn bao quát cả một vùng sơn lâm cẩm tú, thung lũng trùng trùng, nhà sàn thổ dân nằm san sát mấy cánh thung đồi bát ngát, riêng khu động phủ này tọa lạc khắp mấy dải núi đá quanh co liên hoàn tuyệt đẹp, mây trắng bay ngang coi không khác động tiên thường vẽ trong các tranh Tàu thủy mặc.

            Nàng nữ chúa cùng đàn gái hầu dắt Võ đi trên một lối đá quanh co uốn khúc, chạy lượn trên sườn núi, qua một vùng đầy động đá, quân hầu nam nữ, và Hồng Cẩu Quẩy. Chó sói hung tợn đầy đàn, lố nhố khắp dưới trên, coi như thạch cẩu, nhưng thấy bọn nàng nữ chúa, tất cả đều vẫy đuôi, kêu nhỏ, như đón mừng rồi tránh dạt cả lên ghềnh. Thấy Võ ngạc nhiên, cô gái Pi A Ya thỏ thẻ:

            -Giống Hồng Cẩu Quẩy này cực kỳ hung tợn nhưng nếu thu phục, dạy dỗ, chúng lại là giống trung thành hết sức! Chúng cũng có tình cảm, "ngôn ngữ", tâm lý riêng, nếu biết bí quyết, có thể sai khiến chúng như khiến người!

            Sực nhớ lại bóng con Hồng Cẩu Quẩy to lớn đi hai chân, Võ vùng hỏi, cô gái thỏ thẻ đáp:

            -Đó là con sói đầu đàn, chúa loài sói! Giống sói rất lạ, dẫu hung dữ đến đâu, cũng phải khuất phục con đầu đàn, cũng chẳng khác một giòng dõi đế vương vậy. Thu phục được con đầu đàn, việc thu sói dễ dàng thêm nhiều lắm! Riêng con đầu đàn Pi A Ya này rất linh mẫn, hiểu được tiếng người.

            Vừa đi vừa nói chuyện, mới hay nàng họ Bạc tên Khao Lan, vốn dòng tù trưởng sơn cước, nối đời làm tiểu vương lãnh chúa các sắc dân miền núi Pi A Ya. Tổ phụ xưa thường có lệ lấy vợ Kinh, nên ngoài chữ Hán, còn gửi con cái về Hà Nội "du học", tù trưởng sinh được hai con gái thì góa vợ, không tục huyền nữa, sống ẩn danh giữa miền cốc thẳm, chuyên luyện võ, nghiên cứu bí thuật rừng già, thu phục thú dữ rồi lại thả vào rừng, vui cùng mây núi. Nàng là Bạc Khao Lan, còn người chị là Khao Linh đi học phương xa. Dân Kinh "dưới chợ" quen gọi là Bạc, từ xưa triều đình vẫn để quyền tự trị, đến nhà nước Đông Dương cũng theo lệ đó. Dân biên thùy, bất luận lương dân, đạo tặc, quái nhân, thổ phỉ nghe danh "chúa tể Pi A Ya", "chúa tể Hồng Cẩu Quẩy", "chúa nàng", "bà nàng Pi A Ya" ai cũng phải nể sợ không mấy kẻ dám tự tiện xâm phạm đến miền "tiểu giang sơn riêng biệt đầy sài kíu, hùm beo" này. Cũng vì vậy mà nàng nữ chúa mới dẫn gái hầu đi săn ngoài cõi, không phòng bị nên suýt chết về tay "quỷ một mắt".

            Bạc Khao Lan đã đẹp lại thông minh duyên dáng, tiếng nói như giọng chim oanh, tuy cử chỉ tự nhiên chuyện trò cởi mở, vẫn không thiếu nét quý tộc sơn cước đượm chất kinh kỳ, nên Võ Minh Thần cũng khuây khỏa được lòng buồn trôi dạt cô đơn.

            Đi cạnh nhau, coi thật tương phản. Nàng nữ chúa Pi A Ya tươi mơn mởn như bông lan rừng thanh khiết nở bên dòng suối, còn chàng trai phiêu bạt sắc diện lạnh như tảng băng, tuy có bộ mặt điển như Tử Đô nước Trịnh xưa. Nhác qua, tưởng kẻ ít tình cảm, nhưng người tinh chỉ nhìn sâu ánh mắt cũng thấy ngay đó là một cái vực thẳm chứa đựng cả nỗi sầu u uẩn của một kẻ giàu tình cảm đã phải sớm gánh nghiệt số oan khiên mất mát. Gốc nguồn thảm thê khiến cô gái rừng xanh thấy nao lòng. Nàng hết dạ săn sóc an ủi, lại chỉ trỏ từng ngọn núi, cánh hoa, thế động, nói cho Võ biết, chàng mải nghe tiếng oanh thỏ thẻ, ngắm cảnh sơn kỳ thủy tú, lòng nhẹ nhõm lâng lâng tưởng mình đang lạc bước thiên thai, đi giữa bầy tiên nữ. Cảm giác càng đậm khi chợt nghe tiếng Bạc Khao Lan thánh thót: "Đến nơi rồi!" Chàng tuổi trẻ cùng các nàng đứng lại. Lối đá quanh co đưa chàng vòng sang đầu núi Đông lúc nào không biết. Trên đường đã thấy hai mươi mốt khu sơn động lạ mắt hết sức. Sườn núi uốn lượn muôn hình muôn vẻ, suốt từ dưới lối đi lên gần ngọn, chỉ thấy mặt tiền, hồi xế ngay trước mặt, chính giữa, chót vót trên độ cao còn hơn ba mươi bộ nữa hiện ra một tòa thạch động đồ sộ nguy nga, cột to hai vầng, nhưng cũng chỉ thấy mặt tiền, với mấy thước hiện nhô ra hàng chục bậc thềm lên, kỳ hoa dị thảo mọc đầy, phong lan, ti gôn, hoa giấy... quấn quanh cột muôn màu rực rỡ, trùm cả mái hiên giữa nền hoa lá, để lộ ra mấy cái cửa mở rộng coi như cửa đền đài sâu thăm thẳm ăn vào ruột núi, và trong khu thạch thất, quân hầu, tỳ nữ qua lại tấp nập, từng bầy Hồng Cẩu Quẩy đứng ngồi lố nhố lẫn với những con chó săn to lớn đủ giòng, giống béc giê, giống chó lai sói cực kỳ tinh khôn.

            Khi thấy bóng Bạc Khao Lan cùng đàn gái hầu đưa Võ Minh Thần tới, các con sơn cẩu chạy ra xồng xộc đông đàn hít chân, vẫy đuôi, kêu hi hí, có con đeo cả nhạc đồng, lắc, chừng những con đầu đàn, trưởng toán.

            Võ Minh Thần từ nhỏ được theo tôn sư phiêu du rất nhiều nơi, từng ở thạch động cao sơn cùng cốc nhiều năm, nhưng hầu hết chỉ là những hang động thiên nhiên có cửa tò vò ngoài thế thôi, bình sinh chưa thấy nơi nào, thạch động lại được kiến tạo thành thạch thất đồ sộ nguy nga thâm nghiêm kỳ lạ như chốn này, nên Võ Minh Thần không nén được ngạc nhiên buột miệng khen:

            -Lạ dữ chưa! Không ngờ miền núi rừng biên khu, ngay trên trần thế, lại có một vùng động thất kỳ diệu thế này! Nếu không có cô nương đi bên, ngu mỗ có thể tưởng mình lạc đến vùng động tiên thượng giới nào. Bàn tay hóa công hay thợ khéo đẽo tạo nên khu sơn động này... cô nương?

            Nàng nữ chúa Pi A Ya vuốt đầu mấy con sơn cẩu, thỏ thẻ bảo:

            -Vùng núi này xưa chỉ là vùng có nhiều hang động, tổ phụ thiếp xưa cólần đi thăm thú Pi A Ya, tình cờ đến vùng này, đứng dưới thấy một bầy phượng hoàng làm tổ trên núi, mới cùng gia tướng leo lên kiếm ổ phượng hoàng mới khám phá ra tòa thạch động kia. Điều lạ là tòa động đã có bàn tay người sửa sang, đẽo gọt rất khéo, tổ phụ thiếp tìm thấy di tích trên vách, thấy nhiều hàng chữ khắc, không phải Hán tự, mà toàn chữ "tượng hình" hình như từ mãi thời Hùng Vương, đây là nơi tu luyện của một bậc đạo sĩ thì phải. Tổ phụ thiếp thấy nơi nhã đẹp, bèn nhân đó đục núi, mở mang thêm, mỗi đời một tí, khi thiếp ra đời, khu thạch thất đã có sẵn rồi.

            Nói đoạn, Khao Lan đưa Võ Minh Thần lên thẳng tòa thạch thất chính. Vượt hết các bậc thềm, đến cửa tiền, thấy thạch thất càng thâm nghiêm, u nhã. Quân hầu đứng canh cửa rạp chào, từ trong mấy nàng sơn nữ thoăn thoắt đi ra, thấy kính cẩn chào tránh sang bên, nói như reo:

            -Xin rước chúa nàng đưa công tử vào ngay, lệnh chủ động đang đợi!

            Người vừa sai chúng em đi rước.

            Khao Lan hỏi:

            -Gia gia đang làm gì?

            -Bẩm, "người" mới xuống rừng hái hoa, hiện đang uống trà với ông Quản! Cô gái đưa Võ vào, tỳ nữ theo như bầy chim. Động thạch thất kiến trúc không khác cung vua điện chúa với những cây cột đá to mấy vầng bày biện trang hoàng rất nhã đạm, ngoài các đồ vật "sơn cước bộ tộc" thạch thất còn phảng phất nét cổ kính kinh kỳ với những bức hoành phi, câu đối, thống chóe, đồ bát bửu... Qua mấy gian động tiền, Khao Lan dẫn khách sang phía tả, vượt lên hai chục bực đá nữa, đến khu "động trên" rất tĩnh mịch ấm cúng, vào thẳng một gian phòng trang nghiêm bày biện trang hoàng theo lối tư phòng tư thất các nhà quan Nam Triều pha tù trưởng miền núi, với những tủ kính sập gụ, bàn ghế căng lót da hổ, cung tên súng ống giáo mác treo đầy vách. Mới tới cửa, đưa tay vén rèm, đã nghe trong có tiếng vọng ra:

            -Khao Lan đó ư? Cứ đưa công tử vào đây! Chàng trai theo nàng nhẹ gót bước vào, đã thấy Quản Kình chờ sẵn trong. Trên sập, vị chúa tể Pi A Ya ngồi giơ tay vẫy. Thoạt trông, chàng trai họ Võ tưởng mình bước vào tư thất một vị quan Nam Triều đương thời, gặp một viên tuần phủ, thượng thư dưới xuôi. Vì người ngồi trên sập gụ chân quỳ trạc hơn năm mươi, chít khăn nhiễu Tam Giang, mặc áo gấm phủ sa tây, quần trắng ống sớ, dáng nho nhã, tướng người tầm thước coi có vẻ con nhà văn hơn con nhà võ. Nhưng nhìn kỹ khuôn mặt, đoán ngay được là tay bản lĩnh cao, râu ba chòm hoa râm, hai con mắt sáng như điện, đầy uy võ, bộc lộ một tâm hồn phóng đạt chính trực! Đoán chính chúa tể

            Pi A Ya, chàng trai không khỏi ngạc nhiên, đứng khựng lại chút, vì chàng cứ tưởng một vị tù trưởng sơn cước lại khét danh chúa tể Hồng Cẩu Quẩy tất phải dữ tợn, ít nhất cũng đầy vẻ "rừng rú", "khác người", không thể ngờ "chúa các sắc dân Mán, Thổ", "chúa quỷ đỏ mắt" lại giống hệt một trang tao nhân mặc khách dưới Kinh, sắc phục cũng theo lối quan chức đường xuôi đương thời.

            Ngay lúc đó, Quản Kình đứng sổ dậy, chạy ra đón. Võ Minh Thần vốn người trung nghĩa, nhớ ngay đến ơn cứu tử, vùng chắp tay kính cẩn nói vọng vào:

            -Kẻ hậu sinh ngu muội quá đau thù cốt nhục lỡ phạm đến đàn gia súc của bậc tiền bối, tội thật đáng chết. Còn được trị thương cứu mạng, ân trọng này biết lấy chi báo đáp? Dám xin tiền bối nhận cho chút tâm thành của kẻ hậu sinh ngu xuẩn này!

            Dứt lời, Võ sụp luôn xuống định lạy, nào dè lão chúa tể Pi A Ya đã giơ tay ra phẩy phẩy ngược lên ra hiệu cả, Võ bị một luồng điện kình nâng thốc lên, không sụp xuống được, lão chúa Pi A Ya vọt người ra nắm tay chàng trai kéo lại bên sập từ tốn bảo:

            -Công tử bất tất phải nghĩ ngợi chi chuyện đó! Cả gia đình họ Bạc lão cùng các bộ tộc miền này mang ơn công tử chứ! Ngày nọ trên biên công tử cứu Khao Lan thoát tay "quỷ một mắt" cha con lão vẫn ân hận chưa được công tử quá bộ đến chơi, nay tình cờ lại được tái ngộ là quý lắm rồi! Xin chớ coi chuyện trị thương làm trọng! Mệnh công tử còn vững, trời chưa dứt, nếu không có kẻ này tất có người khác chữa trị, có đáng chi đâu! Nào! Mời công tử ngồi xuống đây dùng chén trà, ta đàm đạo!

            Võ Minh Thần nhớ lại lúc tàn sát đám Hồng Cẩu Quẩy, lòng vẫn áy náy không yên, cố ngỏ lời tạ lỗi. Bạc Khao Lan đứng bên sập phải cười bảo:

            -"Ơn người nên nhớ, ơn mình nên quên". Nay công tử cứu thiếp công tử không muốn nhớ đến ơn mình, sao lại nỡ bắt nhà họ Bạc thiếp phải nhớ đến chuyện vết thương của công tử chính Lãn Ông chữa trị, nào phải họ Bạc?

            Lúc đó Võ Minh Thần mới không dám nhắc đến nữa. Bạc Khao Lan sửa soạn ấm chén mới, vị chúa tể Pi A Ya tự tay pha trà mời Võ cùng Quản Kình, nhưng Kình vẫn thủ lễ, chỉ ngồi bên tràng kỷ gần đấy. Bốn người vừa uống trà vừa nói chuyện. Cả hai cha con chúa Pi A Ya đều cởi mở, chân thành, phóng đạt, nên chỉ mấy phút, Võ Minh Thần đã thấy ấm lòng như ngồi với người thân thuộc lâu năm, không phải giữ ý. Chợt chúa Pi A Ya bảo Võ cho coi lại vết thương, bảo tại công tử đã vận sức quá khi thọ thương, nay cần tĩnh dưỡng cho chân khí hoàn nguyên.

            Cả hai cha con Khao Lan cùng Quản Kình đều có vẻ mừng rỡ như chính mấy người khỏi bệnh hiểm nghèo. Lão chúa Pi A Ya vuốt chòm râu hoa râm, cười khà, bỗng hơi nhíu chân mày, đăm đăm ngó Võ:

            -Phải vết thương do Giao Long chúa hồ Ba Bể gây nên? Chú Quản đây có cho lão biết...!

            Võ gật đầu:

            -Vâng đúng thế! Nhát đầu nó thả búa chém thủng mấy lần giáp nên nhát vuốt kình sau mới vào da thịt! Nếu không có giáp chắc nguy mạng rồi!

            Chúa Pi A Ya nghe Võ nói dứt, cầm chén trà trầm ngâm uống cạn, chợt lão bảo:

            -Có lẽ vì bận, nên công tử chưa xem lại kỹ càng đó thôi. Nếu không trúng vết búa chém, vuốt con tinh đó cũng có thể xuyên qua áo giáp vào tới da thịt được. Lãn Ông không những là bực thần y, còn là bực thượng võ nữa. Chính ông ta cũng lấy làm lạ khi xem vết thương, bắt mạch! Không ra đòn âm, cũng chẳng rõ đòn trần, âm trần lẫn lộn, khó hiểu hết sức!

            Võ Minh Thần nhớ lại chuyện đấu chiến với Giao Long chúa hồ Ba Bể, càng ngạc nhiên thêm về lời luận của mấy ông già thâm sơn. Bèn lễ phép nói:

            -Chính kẻ hậu sinh này khi tử chiến với Giao Long chúa cũng lấy làm lạ về điều đó. Cứ xem cung cách ẩn hiện, hình thù rõ ràng là một giống linh vật quái đản thành tinh quỷ xảo hơn người, nhưng về đòn nó đánh ra, rõ ràng là một "nhân vật" rất giàu điện công, có vẻ thông hiểu cả về thôi miên thuật. Thành ra đến ngày nay kẻ hậu sinh cũng chẳng dám quả quyết nó là giống chi nữa! Riêng về đòn trảo kình của nó cũng chẳng rõ đòn âm, trần! Có điều nếu không bị nhát búa thủng giáp, chắc trảo kình không phạm nổi!

            Chúa Pi A Ya nhìn Bạc Khao Lan, hai cha con cùng lắc đầu, ông già hất hàm bảo con gái:

            -Khiên giáp của công tử vẫn còn để trong nghiên cứu thử, con hãy đem ra đây cho công tử coi lại!

            Khao Lan "dạ" thoăn thoắt đi sang buồng bên, qua một khung cửa thông có bức mành trúc. Không đầy phút, nàng đã mang khiên giáp ra. Chúa Pi A Ya đỡ lấy trải xuống sập, trỏ vết búa chém còn thủng sâu khá dài, nói gọn:

            -Công tử có thấy điều chi khác lại không? Thầy trò Võ Minh Thần cũng ngó chòng chọc, bỗng cả hai cùng nhìn nhau, ngạc nhiên. Vì mãi lúc này họ mới để ý phát giác ngoài vết búa chém thủng ra, còn thấy tròn xoe không khác vết dùi khoan xuyên qua ngay bên mép vệt búa chém có chỗ bị lõm cong, nhưng chỉ vài vết trúng thủng vào thẳng da thịt còn nguyên hai, ba vết dùi qua cả lần thép dày. Tuy phần nhiều đều dùi ngay chỗ mép thép bị búa chém phải, không còn trọn vẹn hình tròn, nhưng chỉ nhìn qua dấu thép bị dùi khoan, cũng thấy rõ là nếu trảo kình này vồ trúng chỗ giáp lành, cũng vẫn thừa sức xuyên qua. Và vành khiên, ngoài những dấu giáo đâm tên bắn xây xát, lửa nám đen, cũng có cái dấu sờn nửa mũi dùi rất rõ.

            Điều này làm thầy trò Võ kinh nghi, chợt thấy chúa Pi A Ya trỏ mặt khiên hỏi:

            -Lại còn hàng lỗ thủng ngoài vành và hình bàn tay thủng lần thép bên ngoài... là dấu chi đây sao coi như dấu "át xít"?

            Võ Minh Thần, Quản Kình nghe hỏi sực nhớ đến vụ ngộ Bá Âm vội lễ phép trỏ bảo:

            -Những dấu lỗ chỗ vành khiên cùng bàn tay này... không phải của Giao Long chúa mà của Đông Âm để lại! Chẳng hiểu Ma Quân Bá Diện dùng thuật nào bắn nước cường toan thị uy? Không biết có phải "cường toan công" chăng?

            Chúa Pi A Ya gật đầu "à" nhẹ:

            -Lão mỗ có nghe Đông Âm Ma Quân có ngón "cường toan bạch cốt" có thể làm địch thủ rữa nát da thịt trong phút chốc! Đó là một thủ thuật quỷ xảo, hay là một đòn công, ma pháp? Lão mỗ chưa gặp y nên chưa khám phá ra! Có điều hơi lạ là: trảo kình Giao Long cũng làm thủng được giáp thép như cường toan, xem ra còn lợi hại hơn nữa! Công tử là con nhà võ còn lạ gì, xưa nay, trảo chỉ kẻ nào đánh ra dùi thủng được xương người, hoặc loài mộc đã là tay lợi hại phi thường rồi. Đây lại thủng cả sắt thép, xưa nay chưa từng có. Nói về sức mạnh, tên, đạn súng tay còn chưa thủng được khiên giáp này, sức người sao có thể chém búa thủng, đánh trảo thủng? Nếu không phải là ma thuật, yêu pháp, đây có lẽ thuộc một pháp môn bí thuật thất truyền nào đó!

            Võ Minh Thần ngồi nhìn dấu trên khiên giáp, chợt hỏi:

            -Hai thứ đòn này có liên quan không? Tiền bối là bậc trưởng thượng chắc biết nhiều về các "nhân vật" hiện nay?

            Vuốt râu, chúa Pi A Ya trầm ngâm:

            -Giống nhau chút, nhưng có lẽ thuộc hai loại pháp môn khác nhau! Cứ theo lời Lãn Ông thần y cho biết thì: đòn này có đặc tính làm tiêu hủy chất kim loại! Kim loại càng tụ càng dễ bị nó công phá. Bởi thế chạm sắt thép nó khoan thủng liền, còn phạm vào mình công tử chưa táng mạng ngay là vì cơ thể người ta do ngũ hành sinh hóa, trong người có nhiều kim loại nhưng chúng chu lưu, hóa thổ, tán phát đi khắp người, đòn thấm vào độc khí phải chu lưu khắp nơi hủy diệt dần dần mới xong. Một phần có lẽ tại Giao Long chúa chưa đạt tới mức cao chăng? Nhờ thế, mạng công tử mới kéo dài được đó.

            Quản Kình buột miệng:

            -À, vì thế chỉ có xương da con Mạc mới chữa nổi! Con Mạc thọ kim khí sinh ra, mình nó thuần kim loại tinh tây!

            -Đúng thế! Theo lời Lãn Ông, chỉ có bồi dưỡng chất kim khí vào mới khỏi!

            Võ Minh Thần đang bâng khuâng tưởng lại đêm tử chiến bên hồ Ba Bể bỗng giật thót mình sực nghe chúa Pi A Ya phát tiếng trầm u:

            -May trời còn tựa công tử! Thần y có nói nếu không chữa kịp, công tử sẽnguy, vì khi thịt kim loại bị hút hết, người sẽ teo quắt như cái túi da vô cùng ghê gớm.

            Câu nói của vị chúa Pi A Ya làm Võ Minh Thần nghĩ ngay đến di hài mẹ chàng bị con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy hấp sát cũng biến thành "túi da người", chàng trai buột miệng kêu:

            -Lạ thật! Đòn huyết khí Giao Long sát hại người, sao lại giống hệt hấp sát của Tây Sắc tinh sài kíu?

            Chúa Pi A Ya nhướng mày hỏi:

            -Công tử thấy điều chi mới lạ chăng? Dáng nghĩ ngợi đăm chiêu, chàng trai thở dài khẽ đáp:

            -Thưa!... Kẻ hậu sinh này được biết nạn nhân của con tinh chúa "quỷ mắt đỏ" Tây Sắc Ma Vương, sau khi bị nó hấp sát, cũng biến thành cái túi da. Có thể nào Giao Long chúa là Tây Sắc tinh sài kíu? Theo lời Đổ Bác Thần đó là hai con quái thành tinh khác giống, đã từng tử chiến với nhau. Giao Long chúa thua phải lặn trốn xuống sông tẩu thoát! Nhưng sao nạn nhân bị chúng hại lại biến hình như nhau?

            Chúa Pi A Ya gật đầu:

            -Lão mỗ có nghe thiên hạ đồn chuyện Tây Sắc tinh chuyên hấp sát đàn bà con gái đẹp, nhưng xưa nay chưa kẻ nào thấy xác nạn nhân, vì nó giấu rất kín. Chỉ có một lần mười sáu, mười bảy năm trước có lần nó hấp sát một thiếu phụ tuyệt sắc, bị viên chính giám binh Cao Bằng dẫn quân tới vây đánh, nó phải chạy biến, mới để lại xác nạn nhân. Chính viên chính giám binh đã tới động này, kể cho lão mỗ nghe! Lão mỗ một thời đã tiếp khá nhiều khách xa gần, chỉ vì thiên hạ khổ vì con tinh Hồng Cẩu Quẩy, mà lão cũng là chúa Hồng Cẩu Quẩy biên thùy!

            Đang nói, chợt vị chúa Pi A Ya ngưng bặt, thoáng ngơ ngác ngó chàng khách trẻ đang nghe bỗng sa nước mắt. Pi A Ya ngạc nhiên hỏi:

            -Kìa! Sao công tử lại khóc? Lão phu có... làm công tử buồn bực điều chi chăng?

            Chàng trai vội lau nước mắt, tạ lỗi, giọng buồn:

            -Tiền bối! Tha thứ cho kẻ hậu sinh thất lễ... nghe tiền bối nhắc chuyện cũ, cháu chạnh niềm tưởng nhớ tới mẫu thân đã chết thảm mười bảy năm rồi. Nay cháu đã lớn khôn, mà hận cừu vẫn chưa được báo, hồn oan mẹ cháu vẫn lang thang vơ vẩn trong cõi u minh, biết ngày nào được siêu sinh? Thiếu phụ bị con tinh sài kíu hấp sát ngày ấy, chính là mẹ cháu đó!

            Nói xong, lệ lại chảy giòng giòng, hai cha con vị chúa Pi A Ya cũng thương người hiếu tử hết sức, ngậm ngùi mãi không thôi. Mươi khắc, chúa núi bảo:

            -Con tinh chúa thuồng luồng cùng con tinh chúa sài kíu là một hay hai quái vật, điều này chưa dám quyết. Nhưng cứ theo lời thần y Lãn Ông, thì cả hai cùng "tu luyện" một môn quỷ pháp võ thuật, ma thuật, hay cùng chung độc khí loại tinh chi đó. Nhưng chuyện con tinh sói là Tây Sắc Ma Vương là đúng rồi! Có điều hơi lạ là: Cả mấy con quái vật cùng lũ quái nhân trên đời đều đi sục tìm "vòng điểm huyết", còn gọi "vòng càn khôn", nhất Tây Sắc tinh mười bảy năm trước nó sục sạo rất dữ nhưng lâu nay tự nhiên mất tung tích, chỉ còn nghe nói có con thuồng luồng cùng lũ quái nhân.

            Bốn người cùng im lặng, suy nghĩ. Võ Minh Thần vẫn chỉ thấy sa mù dày đặc, chàng trai sực hỏi:

            -Thưa... tiền bối chắc rõ điều bí ẩn về "vòng càn khôn"? Chúa Pi A Ya lắc đầu:

            -Lão phu cũng chỉ biết qua là "vòng điểm huyết" đó từ thời dã sử, khuyết sử lưu truyền lại, mỗi cái có liên quan tới một điều hệ trọng chi đó, nếu ghép cả ba cái lại, sẽ tìm được chìa khóa mở cửa vào bộ máy huyền vi của tạo hóa thì phải. Theo lời một thầy phù thủy giang hồ mười năm trước có cho lão phu biết, thì bộ ba cái "vòng điểm huyết" là một di vật của một đạo sĩ để lại sau khi vị pháp sư tiền sử này đắc đạo, đi vào cõi viên mãn! Di vật này chứng tỏ là một pháp bảo hay một bảo vật chứa bí pháp, chỉ biết sơ là bộ di vật đó hình như có liên quan đến điều bí mật về chuyện sinh tử của muôn loài muôn vật. Cho nên thiên hạ bất kể giống gì, có nhiều kẻ biết thấu đáo hơn, có lẽ chỉ có mấy con tinh!

            Võ Minh Thần nghe chúa núi Pi A Ya nói, trí tò mò bị kích thích hết sức vụt nghĩ:

            -Cứ như lời chủ động đây, "vòng điểm huyết" được coi là vật báu trên đời, chẳng rõ sử dụng ra sao, nhưng trong lúc lâm nguy mẹ ta lại đeo cho ta tất không thể là một "bảo bối"! Muốn rõ cội nguồn, chỉ có gặp Tây Sắc tinh, vì nó theo đuổi rình bắt mẹ ta từ lâu, trước hôm gặp "người". Cái vòng ta giữ vẫn là mồi nhử con quái rất đắc dụng, điều khó nhất là tài nghệ hiện lợi hại đến mức nào, ta mới liệu đường báo thù được!

            Đang định hỏi thử chủ động, bỗng Bạc Khao Lan vùng cao giọng thánh thót:

            -Theo ý thiếp, ba cái vòng có thể có hai gốc tích! Một là của bậc tiền nhân nào đó chế ra, lưu lại một bí pháp nào chăng? Vị này sinh vào thời khuyết sử, tiền sử chẳng hạn. Hai là của người không thuộc giống nhân loại ngày nay, mà là di vật bảo vật của giống người trước nạn hồng thủy! Như vậy người ta đã khám phá ra xưa kia giống người tiền hồng thủy đã đạt được một nền văn minh rất cao, khác hẳn nền văn minh ngày nay! Trong khi nền văn minh hiện nay căn cứ vào trí khôn điều dụng các thứ kim loại nhiện liệu, điện trời, để chế biến ra máy móc lên trời xuống biển, ngàn dặm phát âm... thì nền văn minh tiền hồng thủy lại là nền văn minh điều dụng ngũ hành trong mình và đã tới độ siêu phàm. Rồi thình lình, trận đại hồng thủy dâng lên, phong ba ầm ầm, nước lụt trời gọi là đời "tận thế". Cả nhân loại với nền văn minh bị tiêu diệt trong phút chốc, luật thông thường cũng đảo lộn, thế giới thành cõi hồng hoang như trong cơn ác mộng. Nhưng có người sống sót, có di vật sót lại, như bộ ba cái vòng ngọc kia chẳng hạn. Hoặc kẻ sống sót đã chế ra lưu lại hậu thế, hoặc di vật, di pháp còn sót lại, ba cái vòng kia có thể thuộc về nền văn minh tiền hồng thủy chăng?

            Võ Minh Thần khi theo tôn sư thường được nghe kể qua nạn hồng thủy, nay nghe Bạc Khao Lan nhắc tới, chàng trai cũng thấy có lý, bèn từ tốn hỏi:

            -Như vậy cô nương có ý cho mấy cái vòng đó là một bộ di tích của người trước nạn hồng thủy chẳng hạn, một món "bảo bối"?

            Nàng nữ chúa Pi A Ya hơi nhíu cặp mày liễu, vẻ suy nghĩ đắn đo, thỏ thẻ đáp:

            -Cũng chưa lấy chi quyết đoán hẳn! Nhưng chắc chắn ba cái vòng đókhông là bộ pháp bảo tối cổ, có năng lực phi thường, thì cũng là di vật có yểm tàng bí pháp nào đó về càn khôn, vũ trụ, luật sinh tử chẳng hạn! Vậy ba cái vòng có là một thứ pháp báu tối cổ lưu lại, cũng chẳng lạ. Nếu không biết sử dụng, cũng khác nào ta đứng trước một "con chim sắt" chưa hiểu, làm sao bay lên mây được? Nhưng thiếp vẫn có ý nghĩ: Bộ vòng đó là vật bí mật yểm tàng bí thuật, hoặc trỏ nơi chôn giấu một pháp bảo siêu phàm.

            Thầy trò Võ Minh Thần ngồi trầm ngâm suy nghĩ, có vẻ tán đồng lời luận của nàng nữ chúa Pi A Ya, vị chúa rừng chợt bảo:

            -Chẳng những ba cái vòng yểm tàng bí pháp, lão phu còn ngờ rằng hai con tinh sài kíu, Giao Long đã nắm được một, hai bí pháp và đang luyện tập, như chúng ta khám phá ra trong một cái vòng nào đó, nên mới sục tìm rất gắt cho đủ bộ ba. Cứ xem đòn đả sát, hấp sát thì biết, xưa nay trong nghề võ, chưa thấy môn nào quái gở như thế. Rất tiếc lão phu chưa được thấy cái vòng.

            Nghe hai cha con nói, Võ chợt nghĩ:

            -Nhân tâm nan trắc thật, nhưng riêng hai cha con Khao Lan đã cứu mạng ta, người đường đường chính chính, nếu ta dè dặt, thật là tệ bạc. Vả hai người đều hiểu rộng, biết nhiều, biết đâu chẳng tìm thấy điều gì hay trong đó?

            Bèn rút luôn chiếc vòng trong mình ra trao cho chủ nhân, vòng này vẫn để túi, sau lấy ra để cả vào gói di hài cùng với sợi dây chuyền nửa đồng tiền, chàng tỉnh dậy mới lấy đem theo. Thấy vòng, hai cha con Pi A Ya mừng hết sức, chuyền tay nhau xem xét, nhưng chỉ thấy vòng ngọc to hơn vòng thường, loang lổ đầy vết điểm huyết trong vắt thế thôi. Sờ kỹ coi kỹ, không qua vết rạn nứt, đúng là chiếc vòng đặc. Xem giây lát hai cha con Bạc Khao Lan trao trả Võ Minh Thần, lắc đầu, bó tay:

            -Chịu! Hay vòng giả? Chẳng thấy điểm gì khác lạ!

            Võ lắc đầu:

            -Không thể là vòng giả! Vì vòng này chính mẫu thân đã đeo cho ngày oan thác, bị Tây Sắc rượt bắt lấy người lấy vòng!

            Chợt chúa Pi A Ya hỏi:

            -Công tử định sao?

            -Mang ơn tiền bối cứu mạng, giờ đã hồi phục, kẻ này tính xin phép được ra đi tìm cừu! Chẳng hay người có rõ sào huyệt Tây Sắc?

            Chúa Pi A Ya nghiêm mặt:

            -Lão phu chỉ biết động chính nó trên miệt Tây Bắc, thượng nguồn Hắc Giang, nhưng cách đây đã lâu năm. Theo lão nghĩ, tìm động tinh cũng không khó, nhưng công tử nên cẩn thận. Tây Sắc giờ còn lợi hại hơn xưa, công tử nên rèn luyện thêm thủ thuật phòng thân! Nếu công tử không chê, động Pi A Ya này cũng giúp được vài điều hữu ích khi công tử đối đầu Tây Sắc!

            Bạc Khao Lan thấy cha ngỏ lời mời chàng khách trẻ lưu lại, truyền bí thuật, cô gái mừng hết sức vì trong thâm tâm từ chiều ngộ nạn miệt biên Trùng Khánh nàng chỉ ao ước có ngày đáp lại ân sâu. Nên lập tức tươi cười thánh thót nói thêm:

            -Phải đó! Công tử nên tĩnh dưỡng cho mạnh hẳn, sẽ lên đường không muộn! Vùng sơn động này khí hậu thuận hòa, còn hơn mạn Trùng Khánh, Tĩnh

            Túc, Cha Pa, Tam Đảo! Xuân hạ thu đông bốn mùa đều có hoa nở, dưỡng bệnh, luyện võ xong, công tử tha hồ xem hoa! Vả Tây Sắc Ma Vương vô cùng lợi hại, ẩn hiện khôn lường, bên mình lại có hàng đàn sài kíu dữ cùng quân mạnh, công tử tài võ dẫu cao, nhưng võ giỏi cũng khó trị quỷ thuật, sức ma, nếu vội, có khi nguy hiểm.

            Võ Minh Thần từ này biết rõ về cái chết thảm khốc nhục nhằn của mẹ, lòng lúc nào cũng nóng như lửa đốt, chỉ muốn gặp thù, báo oán, đi tìm nguồn gốc. Nhưng sau cuộc chiến với Giao Long, gặp Đông Âm, chàng trai bắt đầu hiểu rõ sức lợi hại phi phàm của quái vật quái nhân biên thùy, lòng đầy lo ngại muốn tìm ngay đến Thanh Âm động, học thêm bí pháp. Nay tình cờ gặp chúa tể Hồng Cẩu Quẩy muốn truyền bí thuật, chàng mừng hết sức, tuy cũng chưa rõ thuật chi, bèn lễ phép nói luôn:

            -Tây Sắc Ma Vương độc hại, lắm phép ma thuật quỷ, tài lực phi phàm, nếu không thông dị thuật kỳ môn sao trị nổi? Tiền bối cùng cô nương có lòng thương tưởng giúp kẻ khổ thì Võ này đâu dám từ tạ, chỉ sợ nhọc lòng tiền bối cùng cô nương thôi!

            ... Từ đó, thầy trò Võ Minh Thần lưu lại động Pi A Ya. Mới hay nơi này cách chỗ bị nạn sài kíu hai, ba chục dặm, nằm giữa thâm sơn khuất tịch. Lãnh địa này rộng lớn, phía tây Si Công Linh thượng, các sắc dân bộ tộc Thổ, Mán, Kha, H'mông, Nhắng... quanh vùng đều thuộc quyền tiểu vương Bạc, bản động rải rác chung quanh, đông nhất là hai sắc dân Mán, Thổ và mỗi sắc dân bộ tộc lại có một viên tù trưởng đứng đầu. Dần miền núi thường nặng tính bộ lạc, sắc dân nào chỉ chịu phục dòng tù trưởng đó. Võ thấy hơi lấy làm lạ, hỏi mới biết tổ phụ nàng quy phục được các bộ tộc Pi A Ya từ hồi dư đảng Thái Bình Thiên Quốc tràn sang, chia các nhóm Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng Bàn Văn Nhị, chiếm cứ tung hoành, các bộ tộc Pi A Ya mới chịu tôn phục một lãnh chúa chung lấy sức mạnh giữ núi. Riêng vùng động phủ thạch thất nằm giữa các dãy núi thành bọc quanh đường vào riêng hiểm nên không ai phạm nổi! Thầy trò Võ Minh Thần vẫn ở riêng thạch động xế phía Nam, ngày ngày tới khu thạch thất điện của cha con chúa tể Pi A Ya học thuật. Theo lời cầu của chàng, chúa họ Bạc dạy luôn cho cả Quản Kình. Cuộc học tập bí thuật chân truyền hết sức vất vả, khó khăn, đôi khi nguy hiểm. Nhưng hai thầy trò Võ vốn quen khổ luyện, chịu đựng, nên vượt qua được mọi gian khổ. Chúa động Bạc võ rất giỏi, nhưng ít khi thi triển, chỉ truyền cho khách một vài miếng bí truyền, còn dốc thì giờ vào dạy các pháp môn khác. Thoạt đầu, hai cha con vị chúa Hồng Cẩu Quẩy thay phiên nhau truyền bí thuật thu phục các giống sơn cẩu. Về tâm lý, thói quen, ngôn ngữ, mỗi giống cũng có điểm khác nhau, phương pháp thu phục cực tinh vi, nhưng học cũng dễ, chỉ khó nhất học về "ngôn ngữ" của chúng. Ngôn ngữ sơn cẩu, chó nuôi cũng nghèo nàn, nhưng học nghe được, hiểu được đã khó, tập "nói" tiếng chó, càng khó nữa. Xưa nay nghe chỉ tưởng nó chỉ biết mấy tiếng tru, hộc, hí, ăng ẳng, gâu gâu, rống, gừ... phát lộ một vài trạng thái vui buồn giận dữ vậy thôi, nào dè khi được họ Bạc phân tách, giảng dạy mới hay tiếng chó không giản dị thô sơ đến thế. Những tiếng tru hú, rống gừ chính là "ngôn ngữ" với những âm thanh khác nhau, khá phong phú, không phải đơn thuần. Chẳng hạn, con sài kíu gọi nhau, tiếng tru "quăng" chậm, kéo dài lê thê, cuối cùng là bình thanh, khi nó gọi đồng loại đến cùng rượt vồ một con mồi không nguy hiểm như con nai, con hươu, thì tiếng "quăng" ngắn hơn, về cuối tràng bình thanh, khi rủ nhau tấn công một con cọp, một đám người, thì tiếng "quăng" ngắn, nhọn, đệm tiếng "gừ"... cũng như con cọp, khi nghe tiếng nó gầm chậm là nó ngáp ruồi "cà uôm", bị thương, nó rống từng hồi mấy tiếng cộc, còn khi nghe nó phát tiếng "bép, bép" êm mà chắc, chính là lúc nó đang đói bụng, đi sục kiếm mồi trong đêm rừng!

            Cha con chúa Bạc dẫn thầy trò Võ xuống rừng, giảng dạy, đem theo cả từng bầy sài kíu, chó rừng để thực tập. Ban đầu, học về các loài chó, đủ giống ta, Tàu, Đức, Nhật, sau mới tới chó rừng, các giống sơn cẩu. Học khiến chó đồng xong, mới tìm sài kíu hoang thực tập thu phục. Khó nhất giống Hồng Cẩu Quẩy, vì giống này hung tợn, bất trị nhất. Nhờ thông minh, nhanh nhẹn, lại giàu điện lực thôi miên, Võ Minh Thần học chưa hết tuần trăng đã có thể phát âm bắt chước hệt tiếng sài lang. Quản Kình tuy học chậm hơn chủ nhưng cũng khá thạo nghề. Thu phục một vài con xong, mới đến thu phục hàng đàn. Tròn một tháng, Võ Minh Thần đã có thể trong nửa phút, thục bàn tay vào mõm một con "quỷ mắt đỏ" hung tợn nhất! Nhờ cha con chúa Bạc dạy đủ bí quyết bí thuật chài ngải, luyện "ma xó", vẽ bùa... Chúa Pi A Ya cùng con gái dạy, lại triệu thêm mấy thầy mo, mụ ké thay phiên tới động truyền thuật cho chàng khách trẻ.

            Trên sơn cước con gái các tù trưởng vẫn có lệ đi học làm "then", nhiều dòng tù trưởng kiêm pháp sư rừng cũng cho con trai học thuật về tuân lệnh chúa tể, các thầy mo, mụ ké Pi A Ya dạy thầy trò Võ tận tình. Võ Minh Thần vốn người sẵn chân khí oai lực, học ma thuật càng mau thành công.

            Bí thuật pháp sư rừng cũng vô biên như võ. Một khoảng thời gian mười ngày tuy chưa giúp Võ thành một pháp sư tài, nhưng cũng học được những điều căn bản để có thể luyện một mình sau này.

            Ngoài những giờ luyện tập bí mật rừng sâu, Võ Minh Thần thường được nàng nữ chúa Pi A Ya dẫn đi chơi xem phong cảnh hoặc săn bắn, thăm các động Thổ, Mán quanh miền, trong cử chỉ tâm hồn hai người xem có vẻ đắc ý.

            Nhờ cảnh Thổ đẹp, lòng ưu ái của người động Pi A Ya, nhất nàng nữ chúa Bạc Khao Lan, chàng tuổi trẻ sớm mồ côi, cô độc cũng khuây khỏa lòng sầu đau cô độc, có lúc đã cất tiếng cười vang, linh hồn đỡ khổ, tâm trí cũng nhờ đó minh mẫn thêm lên.

            Ngày kia, thầy trò Võ Minh Thần tới khu thạch động, được biết hai cha con chúa động Pi A Ya có việc đi đâu đó chưa về. Đám gái hầu mời khách vào ngồi uống trà đợi. Lúc này trời đã sang tiết đông, khí hậu sơn lâm lạnh lẽo, thạch thất đã có lò sưởi, hai thầy trò ngồi gây lửa thêm lòng lòng ấm áp chuyện trò tới chín giờ sáng vẫn chưa thấy cha con chủ động về.

            Ngồi uống trà mãi cũng buồn, Võ Minh Thần bèn đứng lên, lững thững ra ngoài cửa ngắm cảnh giây phút lại quay vào, xem quanh thạch thất. Nguyên từ khi tới đây, thường lần nào cũng gặp ngay Bạc Khao Lan nên Võ cũng chẳng có dịp nào đi xem tường tận, ngoại trừ một lần được nàng dẫn quanh một vòng. Lần này tiện dịp nhàn rỗi, chàng mới được quan sát tỉ mỉ hơn. Thạch động quả là một kỳ công kiến tạo phi thường.

            Theo lời Khao Lan, hang động thiên nhiên này xưa có một vị đạo sĩ nào đó ở ẩn chỉ rộng bằng một phần bảy hiện nay. Giờ hang động đã được mở rộng, sâu thêm, thành một căn động thất có nhiều buồng, vách, cửa, nhiều chỗ được chạm khắc rất tinh vi, đến nắp hang đều được che bằng kính pha lê, nên hang động rực lên một thứ ánh sáng huyền ảo không khác ánh sang trong các hang động thần kỳ. Trên trần lại có những lỗ thông hơi ăn lên sườn núi, nên không khí vẫn dễ thở, nhẹ lâng.

            Võ Minh Thần đi quanh xem xét một hồi, rồi dừng lại phía ngoài quan sát di tích của đạo sĩ ẩn xưa. Cách cửa vào độ hai mươi thước là khu đạo sĩ thường nằm ngồi, còn nguyên một tấm thạch bàn chế thành một cái giường đá, trên có thạch nhũ rũ xuống coi rất đẹp.

            Ngay sát giường, vách còn có những lỗ lủng như những ngăn kéo, có lẽ đạo sĩ dùng để các đồ lặt vặt. Đặc biệt lỗ ngăn nhẵn thín như mài, đủ mọi hình thể lục lăng, bát giác, tam giác, tứ giác... Và quanh khu giường đá, có rất nhiều nét vẽ kỳ lạ, chi chít vách đá, nét ngang nét dọc, nét vòng cung, đủ kiểu, kèm theo những hình vẽ rất đơn sơ nhưng hết sức linh hoạt, tuy thời gian đã phủ lên mọt lớp bụi xám rêu phong, nét hình vẫn còn rõ vì khắc sâu vào đá. Theo lời Khao Lan, người họ Bạc muốn để nguyên di tích nên không cho lau chùi sửa sang khu vực này. Võ Minh Thần bước dọc bên vách, ngắm từng nét hình một, thấy có đủ mọi hình thú, điểu, cây cối, mây mưa lẫn lộn. Khao Lan bảo đây là chữ "tượng hình" từ vạn cổ lưu lại, chắc cũng chỉ là phỏng đoán thôi! Vì đã đọc được đâu? Người viết những hàng lưu bút này là bực đạo võ thượng thừa đây, nét đi cực kỳ linh hoạt đúng nét không phải đục, hẳn đạo sĩ đã dùng điện công thần lực viết lia lịa lên vách.

            Võ Minh Thần khi theo tôn sư đã từng được giảng về thứ chữ tượng hình thời cổ. Tôn sư chàng là bậc thông kim bác cổ, biết rất nhiều thứ, kể cả văn học, nên giảng rất kỹ, từ phép hình dung hình tượng chế biến ra chữ viết này trước khi Hán tự thành. Nhưng đem so sánh với chữ tượng hình này, thấy khác hẳn... Chàng trai quan sát rất lâu, cũng chẳng hiểu gì cả.

            -Nét hình này khó hiểu thật! Hay là một bí kíp võ công? Bí mật vũ trụ? Chẳng rõ từ đời nào! Thời cựu thạch khí hay tân thạch khí? Hay lại là chữ tượng hình của loài người có trước đại nạn hồng thủy?

            Khao Lan nói chẳng sai, cha con nàng đã có lần dày công xem xét cố đoán, vẫn không ra! Mình trí óc được bao nhiêu, xem kỹ chi cho nát óc! Quản Kình cũng lân la đứng dòm, thấy tiểu chủ xem, y cũng chỉ xem qua, kêu "chữ ma, chữ quỷ" rồi hai thầy trò lại lững thững trở về chỗ cũ.

            Uống một tuần trà nữa, vẫn chưa thấy cha con Khao Lan về. Quản Kình nóng ruột, đứng lên, ra cửa động ngó, còn Võ Minh Thần ngồi buồn, chợt nhớ đến cái "vòng điểm huyết" bèn lấy ra xem cho khuây. Dạo này trời đông lạnh lẽo, đám gái hầu trong thạch động gây lửa khá nhiều, ngọn lửa bốc cao, trong đó có cả gỗ trầm, xông mùi thơm ấm dễ chịu hẳn. Võ Minh Thần xem chán, giơ cả lên ngọn lửa soi qua soi lại, cũng chẳng thấy gì.

            Chỉ là một cái vòng ngọc xanh, điểm huyết loang lổ gần hết vòng, thế thôi. Cũng không mọt vết nứt rạn.

            Xem lại bỏ xuống, ngồi uống nước, uống chán, lại xem. Lòng càng lạ lùng thấy không hiểu cái vòng quý chỗ nào mà thiên hạ sẵn sàng chém giết nhau chiếm đoạt, đến mẹ chàng, có khi cả cha chàng nữa đã chết thảm chỉ vì giữ nó.

            Vừa quan sát, gõ, nắn, vừa ngẫm nghĩ loanh quanh, chẳng may sẩy tay đánh rớt luôn cái vòng xuống. Còn hơi may là không rớt xuống nền đá, vỡ như chơi, mà lại rớt ngay vào bếp lửa. Võ Minh Thần bật kêu lên một tiếng, sợ vòng sẽ bị cháy, chàng trai thò luôn tay chụp. Nào dè lò sưởi đã gây từ đêm, lúc lúc lại thêm củi nên lắm than hồng đọng dày tầng, vòng hơi nặng rớt trúng một khúc củi chi đó, lại văng chỗ khác, chìm sâu xuống lớp than hồng, tay thọc xuống không thấy. Quản Kình nghe kêu, chạy vội vào hỏi:

            -Gì đấy cậu Hai?

            -Rơi cái vòng... Chỗ này đây! Chắc văng sang bên!

            Quản Kình theo tay Võ chỉ, xắn luôn tay áo, định thọc mò, Võ kêu:

            -Lửa than nóng ghê gớm, chớ cho tay vào. Phải vận sức hàn, để mặc tôi! Miệng nói, tay vận thêm sức hàn băng, thọc quơ vụt xuống nữa. Quản Kình nghe chủ nói cũng lập tức vận sức lạnh, lại xé thêm mảnh vải quấn bao tay thọc xuống mò.

            Nhưng vòng văng rớt chìm khá sâu dưới lớp than tro, hai thầy trò mò quơ năm sáu cái vẫn không thấy. Quản Kình mím môi dúi sâu thêm, bỗng kêu lên:

            -Đây rồi! Kêu dứt, tay đã nắm được cái vòng lôi lên đặt xuống sập. Nhờ có sức hàn băng, tay hai thầy trò không bị thui, nhưng cũng nóng rát, vải bọc tay Kình cháy khét mù, tháo ném đi tay muốn phỏng. Nhưng sợ hỏng vòng, Kình cầm ấm nước toan dội vào, Võ ngăn lại:

            -Cứ để nó nguội dần, không sao! Ngọc này chịu nóng hơn đá nhiều! Tay chú có sao không? Vừa hỏi, Võ vừa nắm lấy tay Kình truyền thêm sức lạnh, Kình cười: "Không sao, chỉ rát chút thôi", nhưng da tay đã đỏ ran rõ ràng bị phỏng nặng.

            May sao, ngay khi đó, có hai, ba gái hầu, chạy vào thấy thế, một nàng kêu:

            -Động có thuốc phỏng hay lắm! Để chúng em đi lấy! Dứt lời, chạy ù vào trong, thoắt đã mang ra một lọ thuốc nước, bôi cho Quản Kình, Võ Minh Thần quả nhiên thần hiệu, bôi đến đâu mát đến đấy, nháy mắt đã hết nóng rát. Hai thầy trò cảm ơn đám gái động hết lời. Võ Minh Thần sợ hỏng vòng, thò tay cầm lấy xem thử. Vì bếp lửa nóng hết sức, vòng tay chỉ rớt xuống ít giây, cũng nóng như nung, cầm vào, vẫn còn nóng ran, phải vận sức băng cho đỡ nóng. Lúc đó, mới hay ngọc tốt lạ thường, không một sợi tro nào phạm nổi, tuy còn nóng, nhưng vẫn như thường. Soi mãi không thấy sao cả, Võ toan cất đi, bỗng một cơn gió lùa thạch động, bếp lửa bùng lên rực rỡ. Võ Minh Thần chợt chú ý thấy các vệt điểm huyết rõ ràng đậm hơn trước, chàng trai vội soi sát ngọn lửa, bỗng nhận ra có điểm khác thường, vùng kêu lên tiếng "à" sửng sốt.

            Ngạc nhiên, Quản Kình nhìn chủ vùng hỏi:

            -Chuyện gì đấy cậu hai?

            Võ Minh Thần vẫn mải soi vòng trước ngọn lửa, miệng kêu "lạ chưa này" rồi soi ngang, dọc mãi mới dừng, trỏ bảo Kình:

            -Chú coi đây này... thấy lạ chưa? Sao lại có chuyện trùng hợp kỳ dị thế này?

            Quản Kình vẫn chưa hiểu, vội bước lại bên chủ trố mắt dòm theo ngón tay chủ trỏ, nghiêng ngó khá lâu, bỗng bật kêu, ngạc nhiên hết sức:

            -À tôi thấy rồi! Lạ dữ! Các vết điểm huyết loang lổ hình như... coi khác mọi khi! À lạ thật! Coi như mới có nhiều vết nào mới nổi lên!

            Chàng trai họ Võ soi sát vào ngọn lửa, tay trỏ trên mặt ngọc, giọng vẫn đầy sửng sốt:

            -Đúng đó! Trong khoảng điểm huyết loang lổ vừa có nhiều hình vết nổi lên đậm hơn, thoạt nhìn tưởng những đường vân ngọc, nhưng nhìn thật kỹ, chú ý vào, để các khoảng điểm mờ đi, sẽ thấy rõ các nét ngang dọc, vuông tròn... giống hệt nét vẽ trên vách của đạo sĩ thời khuyết sử hồng hoang để lại kia! Coi đây! Chú đã nhận rõ chứ? Đây! Phải đúng cái đầu chim, còn đúng hình người vuông như cái bánh chưng?

            Quản Kình reo lên:

            -Thấy rõ rồi, cậu hai! Để tôi xem lại!

            Dứt lời Quản Kình chạy vụt sang chiếc giường đá chỗ đạo sĩ tiền nhân khuyết sử, hay tiền hồng thủy chi đó vẫn nằm, ngồi nghển cổ nhìn vách đá giây phút đoạn nhìn quay lại, nói lớn:

            -Đúng rồi, cậu hai! Hình vân trên vòng giống hệt hình vẽ trên vách đá! Võ Minh Thần vừa quan sát vừa lẩm bẩm:

            -Không lẽ đường vân ngọc đá thiên nhiên lại trùng hợp với hình người vẽ. Hình trên vách là một loại chữ "tượng hình" thời khuyết sử cựu thạch khí, hay từ đời hồng thủy trận chưa rõ, nhưng cũng chẳng hiểu hình trên vách đá phỏng theo hình vân ngọc thiên nhiên, hay chính vân này chỉ là một loại chữ tượng hình yểm tàng điều bí mật về càn khôn vũ trụ.

            Quản Kình bình sinh cũng chưa biết về chữ tượng hình thế nào nhưng đầu óc giản dị, nói luôn:

            -Cậu hai à! Hai thứ hình giống nhau, chắc cùng một loại đây! Chàng trai gật đầu vẻ suy nghĩ:

            -Tôi cũng nghĩ thế! Nhưng có điều hơi lạ là: nếu hai loại hình này đều một thứ chữ tượng hình do người xưa lưu lại, thì người chủ cái vòng ngọc này, làm cách nào để viết vào nổi, vì chú coi hình nét đỏ này ăn sâu trong ruột ngọc, sâu hơn cả dấu loang điểm huyết mà. Quản Kình sực nhớ ngày nào, hồi đóng đội tại Hà Nội, đã có một lần chú ta được chứng kiến một đám đánh nhau to vì bắt vạ một cái vòng ngọc.

            Nguyên có một bà nhà giàu rất thích vòng ngọc thạch xanh, có một người chủ kim hoàn bán cho bà ta một chiếc vòng ngọc xanh đậm bí đao với một món tiền khá lớn. Bà này đeo, ít lâu sau vòng xanh cứ nhạt dần rồi trắng toát thành cái vòng đá trắng. Bèn đến bắt vạ người bán, thành đánh nhau kiện cáo lôi thôi. Sau Quản Kình được biết đó là cái vòng nhuộm.

            Bèn bảo Võ Minh Thần:

            -Bọn kim hoàn lắm người ma mãnh vẫn nhuộm vòng trắng ra xanh, vậy cái vòng này, chủ nhân nó tất là bậc phi thường, sao lại không biết cách nào viết vào ruột đá, bằng một bí pháp nào đó. Theo thiên hạ đồn đại, bộ vòng này chứa đựng bí mật càn khôn, như luật sinh tử chẳng hạn, tất chủ nó phải là bậc thần tiên quán thế, việc lưu chữ vào ngọc đá cũng chẳng lấy gì làm lạ.

            Võ Minh Thần cũng cho lời Quản Kình có lý. Hai thầy trò châu đầu soi xét hình trong vòng, mãi cũng chẳng đoán được điều chi khác lạ, nhưng càng xem càng thấy rõ hình nét bên trong thần tình, vì cái vòng đúng liền, đẽo gọt ra.

            Đến khi cái vòng nguội hẳn, thì hình nét kì dị trong ruột bỗng mờ đi rồi biến hẳn, và những khoang điểm huyết lại nổi lên đậm như cũ. Khám phá ra một điều bí ẩn rồi! Không ngờ xảy tay, chịu phỏng mò vòng không thấy ngay mà lại có điều hay!

            Thế mới biết xưa nay chuyện thành bại sống chết nhục vinh nhiều khi chỉ do một chuyện tình cờ nhỏ nhoi không ngờ nổi! Cái vòng này cứ nung nóng, là hình trong ruột nổi lên, nguội lại biến mất, những điểm huyết này càng nguội càng nổi đậm, càng nóng càng mờ đi. Nếu vậy có lẽ những vết điểm huyết này cũng chẳng phải tự nhiên mà có, chỉ là vết nhuộm hấp gì đó thôi!

            Hai thầy trò bàn nhau, vừa toan nung vòng coi lại lần thứ hai bỗng cô gái hầu vào báo: "Chúa Pi A Ya đã về!"

            Hai thầy trò trông ra, nghe có tiếng sài kíu tru vang động bay vun vút dưới thung lũng lên, rồi nháy mắt đã thấy bóng hai cha con vị chúa tể sơn lâm hiện ngoài cửa động thất.

            Hai cha con đi vụt vào, thấy hai thầy trò Võ Minh Thần ngồi ngay gian khách điện, Bạc Khao Lan cất giọng thánh thót hỏi luôn:

            -Bữa nay công tử chờ lâu lắm không? Thiếp cùng phụ thân định về sáng sớm, không ngờ có việc bận thình lình, phải nán lại!

            Chủ khách cùng thi lễ, chợt thấy Võ Minh Thần cầm vòng ngọc, Khao Lan hỏi:

            -Công tử quan sát... thấy gì lạ chăng? Ngạc nhiên, chàng trai hỏi lại:

            -Sao cô nương biết?

            -Có gì đâu! Thiếp thấy tự nhiên công tử lại đem vòng ra, vẻ mặt coi... tươi hẳn, nên hỏi thế thôi! Trời! Tay công tử và chú Quản sao thế?

            Võ từ tốn giơ tay ra:

            -Bị phỏng qua loa chút! Mấy cô gái hầu đã bôi thuốc cho! Ngu mỗ đang định thưa tiền bối cùng cô nương hay! Tình cờ bọn mỗ khám phá ra chuyện lạ! Bèn đứng ngay bên bếp lửa kể chuyện vừa xảy ra đoạn kính cẩn đưa vòng ngọc cho vị chúa Pi A Ya.

            Hai cha con họ Bạc đều lấy làm lạ, giơ vòng qua, nhưng vết dị đã biến sạch, Võ dịu bảo:

            -Cứ nung nóng, sẽ thấy liền! Khao Lan bèn rút thanh kiếm bên sườn, xóc vòng, dúi vào đống than hồng. Mươi khắc trôi qua, lấy soi quả nhiên đúng như lời Võ nói. Những nét trong ruột còn lờ mờ. Nàng nữ chúa bèn dúi thêm mươi khắc vào than lửa, đem ra, cả bốn đều ngạc nhiên khôn xiết vì tất cả những khoảng điểm huyết đã biến sạch, vòng ngọc chỉ còn là một chiếc vòng xanh biếc, và trong ruột vòng, những đường nét kỳ dị lúc nãy lại nổi lên thêm rõ, đậm giữa nền ngọc xanh. Vị chúa Pi A Ya không nén nổi ngạc nhiên vùng kêu lên sửng sốt:

            -À hình vẽ giống hệt chữ "tượng hình" trên vách động! Chắc có điều bí mật phi thường? Cái vòng này càng nóng, chắc càng rõ hình trong ruột! Khao Lan! Con thử nung thêm mươi khắc nữa coi!

            Nàng nữ chúa rừng xanh vâng lời, lập tức xóc lưỡi kiếm nung thêm ít giây nữa. Xong, đem ra soi xét vào ngọn lửa, quả nhiên lần này những nét trong vòng ngọc không những càng hiện rõ rệt mà lại như nổi đại ra sát mặt vòng, nhìn rõ như hình trên vách đá vậy.

            Ai nấy càng cho là lạ.

            Chúa Pi A Ya vùng truyền lệnh:

            -Gia nhân thị nữ đâu! Nhóm cho ta một đống lửa trên giường đá mau.

            Quân hầu dạ ran, giây phút, một đống lửa lớn đã được gây cháy rực ngay trên tấm giường đá của vị đạo sĩ xưa để lại.

            Hai cha con chúa Pi A Ya cùng hai thầy trò Võ Minh Thần kéo nhau lại giường đá, cùng soi vòng lên ánh lửa, vừa xem xét vừa so sánh với nét chữ trên vách, quả nhiên càng xem càng thấy giống hệt từng nét từng hình. Nhưng có điểm hơi lạ, là có chữ giống hệt từ đường ngang nét dọc, có chữ không giống.

            Chẳng hạn trên vách có chỗ khắc hình con chim đại bàng, thì trong ruột vòng, cũng có chỗ thấy hình con đại bàng. Lại có chỗ vẽ một hình con rắn phun lửa, thì trong vòng cũng có hình ngọn lửa với cái đầu rắn phun. Nếu có khác chút là trong vách là hình con rắn có mào, thì trong vòng lại là con rắn hổ mang bành... rõ nhất là hình người trên vách, có sáu bảy hình người thì trong vòng ngọc, cũng có đến năm sáu cái toàn hình người vuông chành chạnh đầu tóc xõa sợi, hình có râu hình không râu, chỉ che hờ mảnh chi như vỏ cây lớn ngang bụng. Và còn điểm nữa là hình trên vách to một ngón tay, hình trong vòng nhỏ li ti, người mắt kém nhìn không thấy.

            Chúa Pi A Ya sai lấy ra một cái kính lúp chuyền nhau soi, càng thấy hình trong vòng rõ hơn. Hai cha con họ Bạc tuy vốn sống ở sơn lâm nhưng có máu Kinh trong người, cũng như phần đông các dòng tù trưởng miền núi trên toàn cõi Đông Dương, thường được triều đình, rồi nhà nước để toàn quyền tự trị từ xưa, nên bao giờ con cái các dòng tiểu vương cũng phải gửi xuống kinh đô du học, nối đời, bao giờ cũng có trình độ hiểu biết vượt hẳn thường dân sắc tộc, riêng dòng họ Bạc từ mấy đời vốn thông minh đặc biệt, học rộng biết nhiều, nên cha con Bạc Khao Lan đều thông minh xuất chúng, nào dè xem mãi cũng không đoán ra kiểu gì, chúa Pi A Ya nhíu mày lẩm bẩm:

            -Đúng đây là chữ "tượng hình" rồi! Nhưng có điều lạ, là không phải loại tượng hình vẫn dùng từ đời tiền Hán cổ xưa từ bên Tàu sang ta. Mỗ lão đây tuy không phải nhà khảo cổ, cũng có thể đọc được chữ tượng hình đó chỉ là loại chữ nho thô sơ trước khi hình thành Hán tự! Còn đây có cả nét có cả hình, cũng không phải chữ Nôm! Chẳng lẽ là loại chữ của người tiền hồng thủy? Lạ thật!

            Mấy người cùng trầm ngâm suy nghĩ, chợt cô gái Pi A Ya bật giọng thánh thót:

            -Cứ xem hình tượng chữ này, thì vị đạo sĩ hay bậc cổ nhân ở trong hang này cùng người lưu trữ cái vòng có lẽ người sống cùng một thời đại, hay ít nhất cũng cùng biết về một loại chữ tượng hình! Chữ tượng hình này có lẽ không phải loại tượng hình tiền Hán, mà là một loại chữ riêng, nếu không phải từ thời tiền hồng thủy trận, có thể là loại chữ của tiền nhân ta để lại... chẳng hạn người khuyết sử nước Văn Lang.

            Chúa Pi A Ya cùng thầy trò Võ nghe nàng nói, cùng nheo mắt, suy nghĩ, ông già họ Bạc chêm lời:

            -Con nói cũng có điều hữu lý! Nhưng theo sách sử, dòng giống Văn Lang ta từ thượng cổ vẫn thuộc dòng Lạc Việt miệt Bắc sông Dương Tử theo vết chim hồng chim lạc đi dần về phương Nam, rồi mới định cư tại các miền lưu vực sông Hồng Hà, Bắc Giang, Lô, Gầm, Hắc Giang... thành dân Hồng Lạc, lập nước Văn Lang theo tích Âu Cơ, Lạc Long Quân tương truyền lại! Vậy là dân giòng Lạc Việt từ bắc sông Dương Tử, Động Đình Hồ sang, tất nhiên tiền nhân ta cũng quen dùng loại chữ tượng hình như của dân Tàu cổ chứ!

            Nàng nữ chúa họ Bạc ngắm soi nét hình kỳ lạ trên vách, trong vòng, vẻ nghiêm trang, thỏ thẻ:

            -Theo con nghĩ, xưa nay theo sử sách để lại, thì nguồn gốc dân tộc nào cũng nhiều vẻ thần thoại theo truyền thuyết, tương truyền... chỉ vì dân nào cũng sống rất lâu rồi mới có chữ nghĩa ghi chép lại, và khi có chữ để ghi chép, thì nguồn gốc đã xa cách hàng vạn năm rồi, khó tìm ra, đã thế lại có những cuộc biển dâu, đổi dời chuyển cư, thay giống... nên nguồn gốc càng khó hiểu. Ngay đến nguồn gốc loài người hiện nay, còn có nhiều nhà khảo cổ căn cứ vào các hình vẽ trong hang động Nam Mỹ có cái từa tựa hình chim sắt không cánh để cho rằng gốc người trái đất tận Kim Tinh thì đủ biết! Theo con tưởng, xưa nay trên đời vẫn có ngũ sinh. Hiện nay, còn có tứ sinh: Thai sinh (thụ thai mà sinh), hoại sinh (ẩm thấp, hủy hoại mà sinh), noãn sinh (trứng nở ra), ký sinh (bám nhờ vật thể mà sinh ra), nhưng vạn vật đầu tiên là do khí sinh ra. Vậy chính cái khí huyền nhiên âm dương trong trời đất đã tạo kết mà sinh ra giống người, khí âm thành đàn bà, khí dương thành đàn ông. Vậy khi sinh ra có thể sinh nhiều cặp một lúc. Phương Tây có khí sinh ông tổ bà tổ dân Tây, phương Bắc Tàu khí sinh ông tổ bà tổ dân Tàu. Thì biết đâu, tại dải đất phương Nam ta, dải Lĩnh Nam này vốn nổi tiếng là miền địa linh nhân kiệt, thiên khí trùng trùng lại chẳng thể tụ kết thành nhân khí? Vì phương Nam thời tiền sử thượng cổ, nếu có người từ mạn phương Bắc tránh rét mà lẩn xuống miền Nam ở, tất miền Lĩnh Nam này phải là nơi khí hậu nhu hòa, thuận trời thuận đất "còn hơn cả Bắc phương", vì khí hậu Bắc Lĩnh Nam từ biên giới Tàu đổ xuống phía Nam không nóng quá, không lạnh quá, tứ thời bát tiết vừa phải. Vậy đất Lĩnh Nam tất phải có kỳ hoa dị thảo, giống vật trời sinh rồi, tại sao không thể có giống người khí sinh ông tổ bà tổ của đất Lĩnh Nam? Nên biết đâu, có dòng người Lạc Việt kéo xuống Nam ở thì Lĩnh Nam cũng đã có người rồi. Người Lĩnh Nam thời tiền sử có lẽ ít hơn, có thể có một, hai bộ tộc, thì dòng Lạc Việt xuống đông hơn ở các lưu vực sông lớn, người Lĩnh Nam ở Sơn Lâm, rồi giảng hòa với nhau mà thành dòng giống Hồng Lạc Văn Lang ngày nay. Ít thường bị cuốn hóa theo số đông, nên sau này sử gia chỉ còn biết căn cứ vào dòng Lạc Việt mà định gốc nguồn. Những hàng chữ tượng hình này biết đâu chẳng phải của bậc thủy tổ Lĩnh Nam để lại, nên khác hẳn chữ tượng hình Bắc phương! Nếu không phải thế thì là di tích thời tiền hồng thủy trận!

            Cả mấy người đàn ông đều cho lời luận của cô gái Pi A Ya có nhiều điều hữu lý, riêng Võ Minh Thần, chàng trai không khỏi ngạc nhiên về trí suy xét của nàng, một cô gái tuy có du học kinh đô, nhưng vẫn quen cưỡi ngựa bắn súng, săn thú, bắt sài kíu, bề ngoài xinh đẹp hồn nhiên như hoa rừng cỏ nội, ai ngờ đầu óc lại phóng khoáng vượt cả khuôn khổ từ trước.

            Vì chính vị tôn sư chàng có lần dạy chàng về mấy ngón võ bí truyền cũng từng nhắc qua về nguồn gốc võ ta, nhân đó có nói luôn về nguồn gốc dòng giống Lĩnh Nam, "người" cũng có nêu nghi vấn y hệt Bạc Khao Lan về một dòng hoàn toàn do khí sinh tại Lĩnh Nam, trước khi có người phương Bắc xuống. Bèn từ tốn bảo:

            -Lời cô nương vừa nói, chính thầy dạy kẻ này có lần đã nhắc tới! Nhưng nếu đúng như lời cô nương thì hiện nay còn tìm được người nào đọc nổi những chữ kỳ bì này nữa?

            Chúa Pi A Ya bâng khuâng nhìn chiếc vòng trên tay Khao Lan, chợt nghiêm mặt bảo:

            -Tất phải có chìa khóa đọc chữ tượng hình này! Lão mỗ ngờ rằng mấy con tinh đã nắm được chìa khóa bí mật, nhất là Tây Sắc Ma Vương lâu nay biến mất dạng. Lão ngờ nó đang "tu luyện" về điều đã khám phá ra trong một cái vòng nào đó! Chẳng hiểu hai cái kia có giống cái này không? Giờ nếu muốn tìm hiểu, phải ngồi suy nghĩ liền hàng tháng, mới có hy vọng vén nổi mây mù.

            Bạc Khao Lan nghe cha nói quay hỏi Võ:

            -Chữ tượng hình này rất hiểm hóc phải tốn công nghiền ngẫm, chẳng hay công tử có cho phép thiếp ghi lại để xem xét về sau chăng?

            Võ Minh Thần hơi buồn bảo:

            -Nếu cái vòng này không phải là di vật của mẫu thân đeo cho ngày mắc hoạn nạn, ngu mỗ sẵn lòng biếu cô nương làm kỷ niệm dịp thọ ân cứu mạng, sao cô nương lại hỏi thế? Chỉ e chữ nhỏ li ti, chằng chịt, khó bắt chước nổi!

            Bạc Khao Lan bèn gọi gái hầu mang ra một khúc tre xanh đặt trên cái bàn nhỏ, đoạn tay trái cầm vòng xoay, soi trước lửa, mắt cặp kính "lúp" như các bác thợ sửa đồng hồ, tay phải rút luôn một mũi thoa trên búi tóc, vừa soi, vừa vạch lia lịa mũi thoa nhọn hoắt như kim khâu trên mặt tre xanh.

            Võ Minh Thần cũng ghé nhìn, không khỏi phục thầm về hoa tay của nàng. Múa dọc lia ngang, vạch xuôi vạch ngược, vòng tròn kẻ vuông, phân cạnh thoăn thoắt không ngừng, tốc độ nhanh không thể thua kẻ hào sĩ phóng bút thảo bài thơ ngẫu tác. Võ Minh Thần đứng bên coi, không khỏi kinh ngạc về tay bút của cô gái rừng xanh, vì nếu không là tay có khiếu họa đại tài không thể nào chép ra những hình nét hiện trong ruột ngọc. Toàn những hình nét uốn lượn, những hình cầm thú sâu bọ cây cối núi sông và đủ mọi hình thể cảnh trí thường thấy trên đời.

            Tuy Bạc Khao Lan múa bút lia lịa không ngừng, khi nét hoa đã vạch kín ống bương, cũng mới chỉ hết một phần ba cái vòng kỳ dị, cô gái phải ngừng tay truyền gái hầu kiếm mấy ống bương khác, bảo mọi người:

            -Hình như những chữ tượng hình này chứa đựng điều gì bí mật đặc biệtlắm! Không ngờ chỉ một chiếc vòng tay mà lại nhiều chữ thế này! Chép ra giấy có lẽ phải một cuốn sách dày! Bực kỳ nhân tổ sư nào chủ vòng, ít nhất cũng phải bậc đại danh họa có hoa tay điêu khắc và tinh mắt phi thường!

            Cả bọn ngồi uống một tuần trà, xong Bạc Khao Lan lại tiếp tục ghi chép. Mãi cuối giờ Ngọ mới xong. Cộng tất cả mất ba ống bương, mỗi ống dài tới ba, bốn gang tay, đường kính hơn mười phân.

            Cô gái xem lại một lần, đoạn trả vòng ngọc cho Võ Minh Thần. Ngay hôm đó, chàng trai cáo biệt xin lên đường. Hai cha con vị chúa Pi A Ya lòng vẫn không an, hỏi:

            -Giờ công tử định đi đâu? Võ ngậm ngùi:

            -Kẻ mồ côi này đi tìm Tây Sắc! Chúa Pi A Ya tần ngần, ngó giây khắc, mới dịu dàng bảo:

            -Công tử muốn đi lão mỗ chẳng dám giữ, nhưng có lẽ công tử nên xét lại trước khi tìm cừu. Về võ công, điện công, khinh công, bắn súng, cưỡi ngựa, dẫu sao cũng đủ sức đối phó với đời, nhưng về bí thuật bí pháp có lẽ công tử còn cần chuyên luyện tìm học thêm vài ba môn nữa! Nếu kẻ thù đúng Tây Sắc Ma Vương thì con tinh sài kíu đó lợi hại khôn lường, thực khó lòng đọ nổi! Theo lão mỗ biết có lẽ nó đi tu luyện hấp luyện nhân khí theo ma pháp nào đó, cứ mỗi tuần trăng tài thuật tinh lực nó lại thêm một bậc, e rằng hiện nay chưa có người nào trị nổi!

            Chàng trai trẻ khẽ thở dài:

            -Vẫn biết con tinh chúa lợi hại nhưng cháu đây từ lớn lên là kẻ không nguồn gốc, lần đầu biết mẹ, thì mẹ cháu còn là tấm hình hài thê thảm, nằm trong quan tài, mười bảy năm oan hồn không siêu thoát nổi. Nay chẳng lẽ cháu biết được tung tích loài ác quỷ lại không liều mạng báo cừu sao? Vả chưa giáp chiến, sao lượng nổi sức thù? Lòng cháu thật như lửa đốt, dẫu thác cũng cam! Bí thuật vô cùng, biết luyện đến ngày nào mới đạt?

            Hai cha con chúa tể Pi A Ya có ý khuyên bảo Võ nên ở lại, đợi mùa xuân sẽ đi, nên chúa Pi A Ya bảo:

            -Nếu công tử đã nhất định ra đi, lão mỗ chẳng dám cố lưu, nhưng dạo này công tử đi không lợi, vì là ngày nguyệt tận. Hãy đợi mấy bữa nữa, trăng lên!

            Võ Minh Thần đành nghe theo. Dạo đó về tiết đông trọng, trời rét mướt lạ thường, có đêm có cả tuyết rơi trên đỉnh Pi A Ya. Trên sơn cước, nhà nào cũng nhóm bếp lửa sưởi giữa nhà nên cũng ấm. Từ hôm tới Pi A Ya, thầy trò Võ Minh Thần được Bạc Khao Lan tặng cho mỗi người một cặp áo ngự hàn, một áo bó sát, một chiếc áo khoác, cả hai đều bằng dạ, thổ cẩm chần bông nên dầu gặp tiết trời giá lạnh mấy cũng không ngại.

            Võ Minh Thần lưu lại thêm mấy ngày, thường cùng Bạc Khao Lan vào rừng săn bắn, kiếm hoa phong lan, cô gái Pi A Ya xem ý rất thương chàng trai không nguồn gốc, nặng mang sầu hận nên cố tìm hết cách làm chàng khuây khỏa.

            Nhưng Võ Minh Thần sinh ra đã mang nghiệt số nỗi sầu cô đọng, không dễ giải khuây, tuy lòng hết sức thông cảm tấm lòng ưu ái của cha con vị chúa rừng. Khao Lan không quên sửa soạn mọi thứ cho chàng trai trẻ lên đường.

            Thời gian êm đềm trôi qua miền thạch động thần tiên, thấm thoát mai đã tới buổi thầy trò Võ ra đi. Dự tiệc tiễn hành xong, tối đó hai thầy trò Võ đi ngủ sớm, lấy sức viễn hành. Rượu tiễn say, cả hai vừa đặt mình trùm chăn đã ngủ như chết, mặc bên ngoài gió lạnh sương sa.

            Comment


            • #7
              Hồi Thứ Bảy




              Tây Sắc Ma Vương




              Chẳng hiểu sao, tự nhiên Võ Minh Thần chợt tỉnh giấc. Rồi không sao ngủ lại nổi, chàng tuổi trẻ nghĩ vẩn vơ đến thù nhà, thân thể, canh khuya trằn trọc miên man, nằm nghe tiếng động đêm rừng. Đêm nay, hai người vẫn nằm nơi thạch động ngày dưỡng bệnh, bên giường lửa đã lụi, than hồng đỏ rực hắt soi mọi vật một màu đỏ khé, ngoài động tiếng gió chạy trên triền vi vu buon xa xăm mơ hồ, từ nẻo cuối thung một con sài kíu tru "quăng" vút tận thinh không nghe lạnh như tiếng tru trong mộng ảo. Và tiếng Quản Kình "kéo gỗ" khò khò.

              Chợt thấy khô họng, Võ Minh Thần nhè nhẹ lật chăn bước xuống kiếm nước uống, uống xong lại ngồi cho thêm củi vào bếp, ngồi bó gối, lấy cái điếu cày của Quản Kình hút một, hai điếu thuốc lào cho đỡ buồn.

              Bỗng nghe văng vẳng có tiếng sài kíu tru phía Tây Bắc động, âm nhọn gai bốc mãi lên không. Rồi lại có tiếng tru phía giữa các thung lũng động, giữa các khu nhà cửa. Cứ thỉnh thoảng lại có tiếng tru rồi lại nghe rõ cả bầy Hồng Cẩu Quẩy canh ngoài cửa động chàng năm cũng tru lên một tràng, nghe vang âm xa xôi...

              - Quái! Sao đêm nay sài kíu lại tru lắm thế này? À! Đêm nay... thượng tuần, có trăng! Giống sơn cẩu vẫn ưa tru sủa trăng gọi tiếng nhau...

              Võ Minh Thần sực nhớ tối nay là tối mùng bảy mùng tám rồi. Chàng trai chợt lại ra ngắm trăng khuya, vì từ nhỏ Võ rất thích xem trăng, bất cứ mùa nào, nhất là những đêm đông giá lạnh, mây che mặt trăng, chỉ có ánh trăng bềnh bệch phủ chiếu núi đồi thung lũng, rừng trăng đông khan đẹp một vẻ quái gở xa xăm như trong giấc mơ tiền kiếp, chàng trai mê từ nhỏ. Bèn nhìn lên chiếc đồng hồ nước treo trên vách, đã vào giờ Tý nửa đêm.

              Khoác áo ấm, Võ Minh Thần lững thững đi ra cửa động. Cửa sắt, như cửa nhà tây, lại thêm then ngang, nhưng khi Võ vừa mở ra được, từ ngoài bỗng một cơn gió ùa vào tối tăm mặt mũi, chàng vội tựa vào một cây cột gần đấy.

              Két! Cánh cửa từ từ đóng lại. Võ Minh Thần đứng mấy giây thấy de chịu lại đưa tay mở, nào dè vừa mở ra, mới thoáng thấy khung trời trắng nhạt in hình núi bên kia thung bỗng Võ lại xây xẩm mặt mày, rõ ràng thấy một bóng trắng lù lù to lớn đứng chắn ngay trước cửa rồi chàng trai như bị một sức mạnh vô hình đẩy vào trong. Cửa đóng ập. Kinh dị, chàng trai nghĩ luôn tới ma thiêng nước độc, lập tức lùi một bước, quát:

              - Sao lạ thế này? Ma trêu quỷ ghẹo? Vừa khi đó Quản Kình sực tỉnh không thấy chủ, lật đat chồm dậy chạy ra:

              - Gì đấy cậu hai? Đêm khuya cậu ra đây làm gì? Kìa cậu sao thế?

              - Tôi mở cửa xem trăng, như có ma giữ cửa! Quản Kình bước ra mở giúp cũng bị tối mặt, gió lùa ớn xương sống, kêu lên. Võ Minh Thần vụt nghĩ "hay ma Pi A Ya", chàng trai lập tức bấm cung bản mệnh đọc chú rồi đưa tay mở mạnh cửa sắt. Rõ ràng có một cái bóng vật vờ bay vù ra ngoài không khí tan vào ánh trăng, bên tai Võ Minh Thần mơ hồ như có tiếng ai gọi "quay vào toàn mạng", Võ ngạc nhiên trừng mắt chẳng thấy gì lạ, vội hỏi Quản Kình:

              - Chú nghe thấy gì không? Kình lắc đầu, hai thầy trò lững thững bước hẳn ra ngoài động. Nơi đây ghềnh đá cheo leo, lưng chừng núi có lối đá chạy về phía núi xa nơi động thất của chúa Pi A Ya, đứng đây có thể nhìn bao quát một vùng thung lũng núi đồi chập trùng, từng bản thổ dân nằm dưới trăng khuya. Và rải rác khắp thung lũng dưới núi trên, có từng bầy sơn cẩu đứng ngồi lố nhố, hình thù in đậm vào nền núi xanh xám, thỉnh thoảng có con lại rít lên một tràng. Còn bấy sơn cẩu canh thạch động cũng đã chạy ra đứng ở mép ghềnh, đứng như thạch cẩu. Lúc đó, trăng thượng tuần đã gục xuống sát núi Tây, khung động mơ hồ, gió đông chạy vi vút, buồn tênh. Thầy trò Võ đứng xem mãi cảnh trăng đông, bỗng nghe tiếng sơn cẩu tru lẻo đầu thung, tiếng tru gọi đàn. Những con sơn cẩu quanh đấy chạy cả ra mép ghềnh, con đầu đàn cũng tru lên đáp ứng. Quản Kình bảo chủ:

              - Cậu hai à! Tối nay sao sơn cẩu ra đây lắm thế? Mọi toi đâu có vậy?

              - À! Sơn cẩu thích ánh trăng khuya, chắc nó kéo nhau ra xem trăng! Bỗng lại nghe tiếng tru rồi nẻo xa xa bỗng hiện ra một bầy sài kíu đông như kiến, chạy như gió vào thung lũng Đông. Tới chỗ xế dưới đàn sơn cẩu dừng lại, những con sơn cẩu quanh đấy cứ ngồi im. Hai thầy trò Võ thấy sài kíu từ mạn ngoài kéo vào đông như kiến không khỏi ngạc nhiên bèn lùi vào chỗ khuất nhìn xuống. Bỗng Kình thì thầm:

              - Trời! Cậu hai coi kìa! Lạ chưa! Theo tay Quản Kình trỏ, Võ Minh Thần nhìn sang bên kia thung lũng, bỗng giật thót mình thấy một hình thù quái đản đứng lù lù trên đỉnh núi, cao ước bảy thước, in như hình tượng đá nếu không thấy ánh mắt long lanh. Tuy cach một con thung lũng hẹp cổ chày, nhưng nhờ hình thù này khắc vào nền trời trăng nhạt, coi rất rõ, hai con mắt xếch đỏ khé như mắt cú mèo, phát tia bỏng, hai cái tai vểnh cao, ánh trăng tà chảy trên thân hình soi rõ mớ lông xồm xoàm óng ánh như tơ tằm, đầu có bờm như đầu sư tử, hình thù quái đản này đúng hình thù con thú bốn chân đứng hai chân sau.

              Vì thân xác con thú to lớn quá khổ thường, Võ Minh Thần còn đang phân vân chưa biết giống chi, bỗng nhiên hình thù trên đỉnh núi lắc lư cái đầu lông bờm rồi ngửa mặt lên trời tru lên một tràng lê thê nhọn hoắt, tiếng nghe hết sức mạnh, chưa lần nào hai người từng nghe qua:

              - Sơn cẩu! Một con sài kíu đầu đàn! Chà! Sao vùng động Pi A Ya này lại có con sài kíu to lớn thế kia?

              Quản Kình thì thào, Võ Minh Thần "xuỵt" nhẹ, ngực bỗng nhiên bị vật chi đè khó thở lạ. Tiếp liền tiếng tru hú của con sài kíu trên núi, tất cả bầy sơn cẩu rải rác quanh đấy cùng tru lên một loạt, nhiều con phát tiếng kêu "hí hí" mừng rỡ.

              Từng được hai cha con vị chúa tể Pi A Ya truyền bí thuật thu phục sơn cẩu, thầy trò Võ Minh Thần hiểu được "tiếng nói" của sơn cẩu, cả hai không khỏi ngạc nhiên, nhận ra đó chính là tiếng phủ dụ, khiến lệnh truyền sài kíu đâu cứ đứng yên đó, thứ tiếng chỉ có con sơn cau chúa đàn mới biết phát âm, con đầu đàn trung bình nếu dùng đến, lập tức bị các con đầu đàn khác cấu xé ngay. Tiếng lệnh này, cha con vị chúa Hồng Cẩu Quẩy cũng đã bí truyền cho hai người, nhưng căn dặn: Chớ nên dùng bưa bãi khi mình chưa thu phục được một số sơn cẩu đầu đàn, vì tiếng này là tiếng riêng của loài "cẩu vương", cũng như loài người, vua chúa dùng ngự ngữ truyền vương lệnh khi đã có đủ quần thần văn võ, được thiên hạ tôn phò rồi!

              - Một con sài kíu vua của loài sơn cẩu! Cậu hai à! Lạ dữ chưa! Mình ở đây đã lâu có thấy con sài kíu nào to lớn thế kia đâu! Đúng một con Hồng Cẩu Quẩy chúa!

              Tiếng Quản Kình thì thào bên tai làm Võ Minh Thần chợt nghĩ lời Đổ Bác Thần, họ Bạc cùng chúa núi Mã Đầu, chàng trai vụt run giọng lẩm bẩm:

              - Chúa đầu đàn sài kíu... có lông bờm vàng... trời! Thôi đúng con "quỷ mắt đỏ" tứ túc Hồng Cẩu Quẩy... con tinh chúa hấp sát mẹ ta mười bảy năm xưa trên biên thùy Trùng Khánh phủ? Trên đời này, theo lời các bậc tiền bối, chỉ có "nó" có hình thù to lớn thế kia...

              Quản Kình nghe chủ nói, cũng thì thào vẻ xúc động:

              - Cậu hai bảo... nó là Hấp Sát Tinh Quân?

              - Không còn con nào khác nữa! Tây Sắc Ma Vương... con tinh ác quỷ mắt đỏ hại mẹ ta kia rồi!

              Qua phút kinh ngạc, máu sôi sục trong người, chàng tuổi trẻ thở phì một cái lao vụt mình vào trong, quơ cây súng cối dù, ao giáp, khiên kép choàng dắt vào người, gài liễu dao, nhảy ra cửa động. Nhưng Quản Kình đã lẹ tay nắm lấy:

              - Khoan! Cậu hai! Đi đâu vội! Nếu đúng Tây Sắc, nó đột nhập vùng động thâm sơn này tất phải có chuyện chi đây? Ta phải bình tĩnh... mới được! Cậu vẫn bảo "giục tốc bất đạt" mà!

              Võ Minh Thần nghiến răng, thở phào đứng lại, giọng trầm buồn:

              - Cứ thấy bóng tinh tôi lại nhớ đến di hài mẹ chết oan uổng khổ... không cầm được! Chú nói phải! Nó tới đây chắc có chuyện gì quan hệ! Ta cứ bình tâm! Kìa! Thầy trò Võ dòm sang, bỗng chỉ kịp thấy con sài kíu có bờm lắc đầu một cái đã biến đâu mất như cơn gió thoảng.

              Hai người trừng mắt quan sát, chỉ thấy đàn sơn cẩu dưới thung đang lượn quanh quẩn các gốc cây, bỗng vụt cái, sịch thấy con sài kíu có bờm đứng giữa đàn chó sói dưới thung. Chàng tuổi trẻ bất giác rúng động tâm thần trước sức hạ sơn như gió thoảng của con Hồng Cẩu Quẩy chúa, vì rặng núi gập ghềnh nhấp nhô toàn nhũ tai mèo, phải tay khinh thân phi phàm mới xuống le được như thế, nhất lại vào đêm trăng tà đầy bóng đá loang lổ rất khó định bước chân.

              Chợt thấy con Hồng Cẩu Quẩy có bờm lắc lư quay dòm tứ phía rồi bỗng nhiên nó ngửa mặt tru lên mấy tiếng. Võ Minh Thần kéo vội Quan Kình vào xó tối, thì thào:

              - Nó gọi đàn lên núi! Hình như nó đánh hơi thấy người! Quả nhiên dứt tiếng tru, cả đàn Hồng Cẩu Quẩy lập tức vọt thành hàng bốn hàng năm, kéo rốc ngay lên rặng núi có động Võ ở.

              Không chậm trễ, Quản Kình nắm vội tay tiểu chủ:

              - Đúng chó sói lạ rồi! Chó động nhà không dám cản chó tinh! Động này cửa sắt, nó không tràn vào được! Dứt lời, lôi luôn Võ Minh Thần vào trong khép cửa lại

              Nhưng chàng trai tuy kinh dị thấy đàn sơn cẩu hung tợn đông như rươi, nhưng lòng sôi hân cừu, luồn tay mở hé cửa, chĩa súng ra, chìm giọng:

              - Chắc nó kéo lên núi, trước động có lối đá, cách hơn mươi bộ, dịp may hiếm có, phải bắn con tinh!

              Quản Kình lo lắng:

              - Liệu đạn có giết nổi "nó" không... cậu hai? Chắc đâu "nó" là Tây Sắc? Ta nên thận trọng, cần lắm mới liều!

              Võ im lặng, hai họng súng chĩa ra. Không đầy năm phút, đã ngửi thấy mùi hôi hám nồng nặc bay theo gió luồn tạt thốc vào động, rồi giữa canh khuya im lặng, bóng từng bầy sài kíu sịch hiện sau vách đá phía tả, lố nhố, đông như rươi.

              Đàn sơn cẩu chạy vùn vụt trên lối đá, thoắt bầy đầu đã tới trước cửa động. Hai người nín thở, tay tỳ cò súng.

              Nhưng bầy này cứ đi thẳng. Lại đến bầy khác, cứ khoảng vài mươi con lại có một con đầu đàn to hơn, đi ngoài hàng ngũ, có con đang đi bốn chân vùng đi hai chân như người, nháy mắt đã hai, ba trăm con chạy vụt qua như cơn lốc, mùi hôi hám tạt vào nồng nặc. Đặc biệt là cả bầy lớn nhỏ chỉ chạy qua, không con nào kêu một tiếng, chỉ nghe tiếng chân thú dẫm trên đá vụn kêu rào rạo, không khác bầy sơn cẩu vút qua trên màn ảnh. May nhờ hai thầy trò Võ đã quen với mùi sài kíu, nên không ai nhảy mũi hắt hơi, cả hai cứ nhịn thở, phục im, đều lấy làm lạ là tuy khu cửa động này có bóng cây giây leo hoa cỏ um tùm thành giàn rườm rà che gần hết cửa động, nhưng lại có lối đi vào, tuy bóng núi đổ mờ vẫn trông thấy được.

              Đàn sơn cẩu lạ cứ thế đi như trong cơn mộng ác đêm trăng khuyết. Thầy trò Võ tính phỏng có đến bốn, năm trăm con vụt qua, bỗng nghe có tiếng tru nhọn hoắt, lũ sơn cẩu nhất loạt dừng cả lại, rồi từ vách sau cả một bầy đến hai mươi con sơn cẩu lớn vọt ra đứng sững ngay trước cửa động phát tiếng nho nhỏ "hí hí" như đánh hơi, cả lũ dòm vào phía động, rồi bất thần vùng lên đi hai chân, ngửa cổ tru một tràng.

              Như trong ảo mộng, từ sau vách, bốn bóng sài kíu khiêng một cỗ kiệu con vụt ra, có một bàn "tay" vuốt vén màn, một cái đầu thò ra, đúng con Hồng Cẩu Quẩy bên kia núi vừa nãy. Nhanh như gió, kiệu xẹt lên xẹt xuống hai con mắt xếch đỏ như than tàu dòm thẳng vào chỗ hai người nấp, phát tia nóng rực.

              Cách hơn mười bộ, coi "nó" càng quái đản, giữa vùng bóng núi đen mờ, vẫn thấy mớ lông vàng óng bờm sư tử, cái mõm nhọn hoắt, mấy cái nanh chìa ra trắng nhởn, hiện rõ trên nền mõm đen giữa khung cửa kiệu.

              - Lo mất rồi! "Nó" thấy!...

              Cả hai cùng một ý nghĩ, không bảo nhau, cả hai cùng chĩa súng nhằm thẳng vào mặt con tinh chúa, định nổ, nhưng chàng trai bỗng thì thầm:

              - Chắc "nó" có là Tây Sắc không? "Nó" chưa nói tiếng người! Mà nếu "nó" là Tây Sắc, bắn nó chết, còn nguồn gốc thân thế, biết tìm đâu ra? Mà chắc gì "nó" đã bị đạn? Theo chú Thoòng chúa Mã Đầu Sơn, chú đã bắn mấy phát "pạc hoọc" vào ngực, trán nó vẫn như thường!

              Ý nghĩ này làm Võ phân tâm, tay cứ tỳ cò, chưa bắn. Bỗng sịch thấy cỗ kiệu có con sơn cẩu bờm lắc lư tiến luôn vào lối động, lũ sài kíu cũng đi theo. Nhưng tự nhiên "nó" lắc đầu nghiêng ngó, được vài bộ chợt quay luôn lại lắc mot cái đã cùng bầy sài kíu đi như gió thoảng. Võ Minh Thần thở phào, ngạc nhiên cực độ chẳng hiểu sao "nó" lại bỏ đi, bỗng Quản Kình thích nhẹ chủ, thì thào:

              - Lạ dữ à! Trời giúp ta... cậu hai coi kìa!

              Võ trợn mắt định thần, mới hay vừa có một làn sương mờ từ vách đá hữu xông ra như tấm "voan" trắng mỏng đến nỗi chàng tưởng sương lam nhưng có lẽ màu sương đã che mờ cửa động, nên "quỷ đầu đàn" tưởng núi bỏ đi.

              Hai thầy trò ngơ ngác, màn sương tan loãng ngay sau lưng sài kíu, nháy mắt bầy thú độc đã biến nẻo cuối núi.

              Võ Minh Thần lúc đầu cho là tình cờ nhưng chợt nghĩ lại bóng dị ban nãy lòng càng thắc mắc. Lắng nghe rừng khuya chìm sâu trong im vắng, hai người liền mở cửa đi ra, thấy đàn sơn cẩu bản động đã rút đâu mất, chỉ còn mấy con canh động chàng vẫn quanh quẩn trong xó tối. Sực nghĩ tới Khao Lan, chàng trai vụt bảo:

              - Nó đi về phía thạch động thất của vị chúa Pi A Ya! Đêm khuya canh vắng, gió sương lạnh... động ngủ kỹ, "nó" lần tới có chuyện chi đây? Ta phải đến đó mới được! Chú nên ở lại!

              Nhưng Quản Kình không chịu, lập tức mặc giáp theo đi. Hai thầy trò tới gần khu thạch thất, thấy cả khu động vẫn quạnh vắng như tờ. Cả hai cứ theo lối đá tiến tới, cách khoảng bảy mươi sải, cả hai vụt nap vào mỏm đá. Vì phía trước hiện ra một cảnh hết sức kỳ dị, lúc này ánh trăng tà chiếu vào khu thạch thất loang lổ thành từng vừng sáng, tối, coi càng mơ hồ như tranh vẽ dưới trăng vơi. Im đến độ chỉ nghe tiếng côn trùng tỉ tê cùng tiếng gió rì rào bâng khuâng hai đầu núi khuya, tiếng chim khảm khắc rã rời đổ xuống thung lũng buồn tênh. Khu này nhật dạ bao giờ cũng có quân Thổ Mán canh trấn, từng bầy Hồng Cẩu Quẩy, chó săn, nhưng lúc này lại chẳng thấy một bóng người vật nào, cửa động đóng im ỉm trên sườn cao. Hai người còn đang ngạc nhiên, chợt định nhãn tuyến nhìn kỹ mới sực thấy sài kíu lúc đó đã bao vây quanh thạch động, đứng lù lù bất động, xoay lưng lại, thoạt coi tưởng các mô đá. Trước động, cỗ kiệu đứng im.

              - Lạ thật! "Nó" đâu rồi? Hay "nó" lọt vào trong? Không có lý! Khao Lan có bảo thạch thất này chỉ có mỗi cửa tiền vào được, nay cửa đóng, vào ngả nào?

              - Cậu hai quên cửa bí mật trên nóc rồi sao? Hai người đang thì thào, bỗng rào một cơn gió thổi mạnh, nhìn lên đã thấy hình thù con sài kíu có bờm đứng lù lù ngay nóc tiền môn. Vụt cái, nó xẹt qua xẹt lại như đưa thoi, rồi nó lại dừng trên mỏm đá cách tiền môn vài sải, hình như đang tìm cách vào. Võ Minh Thần bảo Quản Kình sáp lại, đoạn rón gót theo sườn núi chỗ này lượn cánh cung. Võ ấn ngay tay cung tả, cách độ năm mươi bộ, nhìn rất rõ. Bỗng thấy con sài kíu có bờm nhảy xuống đứng trước cửa.

              Đêm khuya sương lạnh trăng tà, trong động vẫn im lặng như tờ. Bất thần cửa động sịch mở. Két két! Hé dần rồi ngoác rộng để lộ một vùng tối thui. Con sài kíu có bờm lui sang bên.

              Trong động, bỗng có tiếng tru lên thê, ầm ầm, vang dậy như trời long đất lở, rõ ràng có hàng trăm, hang ngàn con sơn cẩu, chó săn cùng tru một lúc. Lập tức, con sài kíu bờm cùng đàn vây ngoài cũng tru lên, canh trường vang tiếng sơn cẩu nghe xốc óc.

              Rồi vụt im, có tiếng hắt ra, trầm uy giọng Thổ:

              -Chúa đầu đàn sài kíu! Phải Hấp Tinh Quân Tây Sắc Ma Vương? Ma Vương Tinh! Ta nghe đồn nhà tinh tuy là hạng phi thú phi nhân, bán âm bán dương, nhưng cũng là tay khét danh trong "Lĩnh Nam Tứ Hung Tứ Khoái". Có chí độc bá quần hùng, xử sự đường hoàng, sao tối nay lẻn vào bản động không thông báo? Hành động như phường đạo tặc, không sợ xấu hổ sao?

              Con sài kíu to lớn phi phàm đứng im mấy giây, Võ Minh Thần hồi hộp đợi, bỗng giật mình nghe tiếng con sài kíu lông vàng xom phát nói tiếng người âm âm rợn rợn:

              - Chúa tinh Ma Vương Sắc giáng đâu không báo trước! Chúa Ma Vương Sắc vào động họ Bạc đi đường chính đã báo động cho quản thúc động nhà ngươi rồi, sao dám bảo chúa Ma Vương vào lén? Nghe chúa Hồng Cẩu Quẩy Pi A Ya thông văn võ, sao mở lời ngạo khách?

              Im mấy giây, rồi có tiếng cười vọng ra, càng rõ tiếng chúa Pi A Ya bảo khách:

              - Ma Vương! Ta biết có khách từ giờ Tý, ta không muốn khách bận sức triet hạ quân canh, nên đã truyền rút cả vào thạch động đó! Nhà tinh đến muốn dạy gì chăng?

              Khô khan gai sắc, tinh chúa phát âm lạnh:

              - Ma Vương muốn vào hỏi họ Bạc một chuyện quan hệ!

              - Hà hà! Thế ra không phải đến ám hai chúa Hồng Cẩu Quẩy, theo câu "Bất độc bất anh hùng"!

              Ma Vương vùng cười ré quái gở:

              - Nhà ngươi ẩn cư cùng cốc miền Đông Bắc, bỏ ngoài thị phi, giang sơn ai kẻ đó ngự, không phạm chúa Ma Vương, chúa cũng để Bạc ra ngoài sổ tử!

              - À! Vậy cũng không phải tới bắt con gái ta? Tiếng Tây Sắc tinh hừ lạnh:

              - Điện vàng Chúa vương đủ cả tam cung lục viện rồi, chưa cần bắt mỹ nhân. Chúa đến hỏi một điều, nếu nói không đúng, sẽ bắt không muộn!

              Lại có tiếng trong thạch động hắt ra, lần này là tiếng oanh vàng thánh thót của Bạc Khao Lan:

              - Quỷ mắt đỏ! Nhà ngươi nói nghe kiêu ngạo lắm! Động chúa tể các loài sơn cẩu, chó săn, không phải nơi ngươi lộng hành đâu!

              Tây Sắc ngửa mặt tru một tràng, tiếng chúa Pi A Ya hắt ra:

              - Muốn điều chi, hãy quá bộ vào tệ xá! Chúa Bạc Pi A Ya rất vui được đãi Ma Vương một tuần trà sơ kiến!

              Tây Sắc không đáp, nhảy vèo chui kiệu ngồi chồm chỗm, hú lên một tiếng ngắn, lập tức cả đàn mấy trăm con sài kíu nhất loạt phóng ào lên trước thạch thất, kéo rốc luôn vào cửa động như dòng thác lũ, không một tiếng tru. Khi đàn sơn cẩu đang cuốn vào, bỗng thấy cả cỗ kiệu lẫn bốn con sơn cẩu khiêng kiệu bay vọt luôn theo, là là trốc đầu bầy sơn cẩu.

              Võ đang quan sát, đinh ninh sắp có vụ tử chiến bên trong, không ngờ khi đàn sói độc kéo vào hết, bên trong vẫn im lìm, không khác chui vào cõi không hư.

              - Quái! Hay "nó" bị sa hầm hố hay sa lưới? Sao lại im thế này? Thấy phía ngoài đã vắng hoe Võ Minh Thần toan lao vào, nhưng lại nghĩ tất thú độc tràn đầy, chàng trai đổi ý, nhảy vọt lên nóc tiền môn tìm cửa bí mật. Nhờ Bạc Khao Lan đã chỉ, Võ kiếm ngay được đầu mối, chỉ giật một cái cần trục đã mở ra một lỗ trống vừa người chui lọt. Võ leo vèo vào trong một hốc chếch chừng mười lăm thước đã tới một cửa khác có song sắt mở ra, vén nhẹ bức rèm đã nhìn xuống dưới được. Lối này sát ngọn cột đá, ăn thẳng xuống giữa căn chính sảnh bữa nọ chàng đánh rớt vòng. Bên dưới tối thui, không rõ người vật, song lố nhố khắp mấy bên thạch thất mênh mông đầy rẫy mắt Hồng Cẩu Quẩy đỏ than tàu, không khác những đóm hương khổng lồ khắp vòng trong vòng ngoài.

              Im đến rợn người, vờn tử khí, âm khí. Sực nghe tiếng ma âm nổi lên:

              - Bất tất trà nước! Chúa Ma Vương chỉ hỏi một điều! Chúa họ Bạc nhát gan không dám ra tiếp khách sao?

              Không hiểu "nó" đứng đâu, bỗng lại nghe tiếng chúa Bạc lạnh lùng: "Chúa Hồng Cẩu Quẩy ra đây", rồi có tiếng Ma Vương cười thé, Võ Minh Thần thắc mắc không hiểu tinh chúa muốn gì, bỗng chàng trai giật mình, nghe "nó" phát giọng chìm khô:

              - Chúa Ma Vương muốn biết: Có một đứa trai điển mặc quần áo chàm, mang khiên giáp, lạc tới động này, cùng một tên đầy tớ hơn bốn mươi tuổi! Hiện "nó" ở đâu? Ma Vương không ưa dài lời, hãy nói thật gọn.

              Im mấy khắc, có tiếng chúa Bạc cất lên sang sảng:

              - Phải chàng trai có tên Thần?

              - Đúng! Thần mặt lạnh!

              - À! Rất tiếc nhà tinh đến muộn! Y có được ta cứu độc thương Giao Long tinh, khỏe, ở chơi mấy tháng, mới rời động hồi chiều.

              Tiếng Ma Vương khô:

              - Khó tin! Chúa Tây Sắc cho quân vây quanh các yếu lộ từ trưa qua, không gặp! Nhà ngươi che chở giấu nó?

              Lại có tiếng Khao Lan thét lảnh:

              - Tây Sắc! Mi không phải kiếm chàng, chính chàng sẽ đi kiếm mi tru diệt! Cứ về sào huyệt rửa cổ cho sạch, sẽ gặp chàng.

              Có tiếng "hừ" nhẹ, tiếp giọng âm:

              - Chúa chưa hỏi nữ nhân! Họ Bạc giấu nó đâu nói mau! Tiếng ông già lạnh lùng:

              - Hắn đi rồi! Nhà tinh khỏi lo! Hắn đi tìm mi đó!

              - Tìm chúa Ma Vương làm gì? Tìm nộp vòng xanh chăng? Ta hỏi lần cuối: Nó đâu? Nếu chối, chúa Ma Vương không dung thứ, chúa bắt con gái làm tin! Tiếng Tây Sắc nghe càng dữ tợn, ngay lúc đó, tiếng nàng nữ chúa hét:

              - Chó tinh! Quen thói ức người cô thế, dám tới động Bạc nói càn! Mi muốn đánh trận, giao đấu bằng súng, đấu tay, đấu ma thuật, đấu gì ta cũng đủ sức chặt đầu mi!

              - Hà hà! Tiếng oanh thỏ thẻ, nang làm chúa Ma Vương nghe thích rồi đó. Chúa Ma Vương đem về động, rồi đi kiếm thằng trai điển!

              Tiếp liền hàng loạt súng nổ vang động. Đạn xói vách đá bắn chíu lung tung, hàng đốm mắt đỏ xẹt ngang dọc, rồi giữa khi súng no có tiếng sơn cẩu hú chồm vồ cấu xé nhau cực kỳ hung tợn, lẫn cả tiếng gió rít ghê hồn, rõ bên dưới đang diễn ra một cuộc huyết chiến dữ dội.

              Võ định thần chú mục, thấy có nhiều bóng người bóng thú nhảy chồm chồm, lẫn tiếng rú gai người. Bỗng nghe tiếng Tây Sắc cười ré:

              - Họ Bạc đánh Mê Hồn trận giỏi! Nhưng quân gia sài kíu chết ích chi? Có dám đấu trận mê tay đôi không?

              - Được! Ta đang muốn biết tinh lực quỷ tứ túc đến mức nào đây! Khao Lan! Thắp lửa! Có tiếng hú, rồi từng vệt sáng bay vèo vèo khắp tứ phía, bay đến đâu, hồng đuốc cháy bừng, hiện ra một cảnh tượng tàn sát gớm ghê.

              Hàng trăm con sơn cẩu hai bên nằm gục, có con hấp hối, nhiều con đã bị địch táp mất đầu lẫn xác, huyết lưu mãn địa, cỗ kiệu con quái đặt bên cột. Võ dòm xuống không khỏi ngạc nhiên thấy nhiều con sài kíu đeo cả dây đạn, tay cầm súng như người.

              - Trời! Ma Vương Sắc quả nhiên lợi hại đến mức luyện được cả chó bắn súng như thế kia sao? Hay đội lốt? Nhưng ngó kỹ, lại không phải, vì có con đeo dây súng bị bắn nát mặt, bày mõm nhọn rõ rành rành.

              Chợt nghe hai chúa sơn cẩu cùng hú, quân động, chó động đem xác vào trong còn lũ sơn cẩu lạ cũng ngoạm tha luôn thây đồng loại ra ngoài nhai rau ráu! Bỗng nghe "đùng đùng" như ống lệnh nổ, nháy mắt cả khu thạch thất khói um dày đặc như sa mù.

              Cửa động thất vẫn mở rộng, ánh trăng nhạt chiếu mơ hồ, bềnh bệch, nhưng Võ Minh Thần nấp dòm xuống, chỉ thấy mấy gian thạch động khói mù mịt như một trận mê hồn, cuong phong ào ào, từng vầng khói bay tạt lung tung, giữa những tiếng "bùng bùng" dữ dội, thỉnh thoảng lại bật lên tiếng thét ghê hồn, thoáng bóng người vật xẹt qua lại như những luồng ảo ảnh hồn ma phách quế.

              Bỗng nghe liền mấy tiếng "bùng" to như sấm, ánh điện đảo nhoằng, một mùi khét tạt thốc lên trần khiến Võ vội nín hơi, cảm rõ một luồng nhiệt khí táp vào người nóng như lửa. Chàng trai không khỏi ghê thay cuộc đấu chiến bên dưới, nghĩ thầm:

              - Lửa điện công hay lửa ma quái mà nóng dữ thế này? Xem chừng Tây Sắc Ma Vương lợi hại phi thường, khó lòng lượng nổi. Nhưng vị chúa tể Pi A Ya cũng chẳng phải tay vừa, liệu ta đã nên ra mặt hay chưa?

              Còn đang suy tính, bỗng tai nghe phía dưới có tiếng thét âm âm:

              - Tù trưởng Bạc! Đứa con trai mặc quần áo Thổ lạc tới động này, ngươi giấu nó đâu, nói mau!

              Tiếp liền tiếng chúa Pi A Ya quát:

              - Sài Lang chúa! Ta đã bảo hắn vừa đi khỏi! Không chịu tin, còn độc thuật ma cứ giở ra, chúa Bạc sẵn sàng tiếp nhà tinh! Chúa Bạc không cần huy động quân gia!

              Võ Minh Thần lại nghĩ:

              - Ta còn đây sao hai cha con vị chúa Bạc lại bảo đi rồi! Có lẽ người lo ta se bị nó hại, xem ý người muốn thử đòn tinh coi lợi hại đến mức nào đây!

              Bỗng lại nghe tiếng quái tru âm:

              - Thằng đó chưa đi khỏi! Không chịu khai chúa Ma Vương Sắc giết ngươi bắt con gái Bạc về làm thiếp!

              Tiếng vừa dứt, bên dưới vụt rơi vào im lặng, chỉ còn khói mù mù, chợt có tiếng Bạc Khao Lan cất lên xa xa nẻo hậu cung:

              - Tinh chó nói càn! Chính ta se bắt mi bỏ vào cũi! Có tiếng cười gai rợn, lẫn tiếng người di động vút ra, chúa Pi A Ya nạt lớn:

              - Khao Lan... lùi! Việc con không phải đấu với tinh Tây Sắc!

              Hình như lão ngụ ý báo ngầm điều chi, Võ lại nghe rõ tiếng chân người lao vút vào trong, tiếng chúa sói bờm sư tử cười rú:

              - Tù trưởng Bạc già khôn! Đuổi nàng vào là phải! Chúa Sài Lang hỏi lần cuối,

              "nó" đâu? Im mươi giây, chợt nghe tiếng chúa Pi A Ya cất lên, lần này dịu hơn:

              - Tây Sắc! Ta đã nói rồi! Nhưng nhà tinh tìm hắn làm chi?

              - Chúa Ma Vương đến đây hỏi họ Bạc, không phải đến cho Bạc hỏi! Võ Minh Thần nghe chúa Pi A Ya hỏi chàng trai cũng chợt thấy thắc mắc muốn hỏi rõ mục đích của tinh chúa, lại muốn hỏi rõ xem có đích nó hấp sát mẹ chàng hay không, nên Võ Minh Thần cứ nấp trên nén lòng tính kế. Trong lúc đảo óc suy nghĩ bỗng sực nhớ đến lời khuyên của vị chúa Thập Vạn Vân Nam ngày giã biệt: "Lúc nao hiền đệ cũng phải nhớ kỹ: Cần trả thù hay cần trả được thù? Nếu chỉ cần trả thù, bất kể bại thành, hiền đệ cứ việc hành động khi gặp kẻ thù! Còn nếu muốn rửa được nhục thù thì hiền đệ phải bình tĩnh, luôn luôn bình tĩnh, lượng rõ sức thù, mới đánh. Nếu thấy bất lợi, chớ ra mặt. Phải có gan nhẫn nhục, nếu muốn tồn mạng, rửa thù cho bằng được!" Võ Minh Thần thấy bình tâm nhiều phần, liền nảy ra một kế nhỏ:

              - Tại sao ta không ngam hiệp công trước đã, rồi sẽ liệu! Nghĩ vừa dứt, bỗng thấy bên dưới khòi mù lại dày đặc thêm gấp bội, bốn bề im lặng đến rợn người. Không một luồng gió thổi, một tiếng động nhỏ, rồi từ dưới chợt dâng lên một làn hàn khí còn lạnh gấp trăm lần băng giá, khiến Võ Minh Thần mặc mấy lần áo vẫn rét kinh người, phải vận sức điện công lên cho ấm. Bèn ghé mặt nhìn xuống, cả hai đều đứng sau điểm tựa nào đó, Võ Minh Thần lập tức vận điện công, nhẹ thò bàn tay xuống rê một vòng sờ soạng. Cả một vòng rộng, tuyệt không thấy sức nóng của sinh vật dội lại, lúc đó Võ mới hay quân gia sài kíu hai bên đều đã rút ra khỏi cục trường, cả xác chết cũng đem đi nốt. Võ bèn rê vòng hẹp lại theo hình trôn ốc, bỗng hơi dội lòng thấy rõ "bàn tay điện" chạm lia lịa mấy chục khối nóng lô nhô khắp cục trường trong một đường độ ba mươi bộ.

              - Quái! Sao lắm người thế này? Chẳng lẽ cả hai đều có tùy tùng nữa?

              Bèn sờ ra phía ngoài, rồi lại sờ cả lên cao, suốt từ mặt đá lên trần, lại cũng chạm phải nhiều khối nóng và cảm giác rõ ràng như quơ phải đàn chim.

              - À thì ra cả hai thường trực di động như chim! Nhung sao ta không thấy mắt?

              Cả hai đều nhắm mắt đánh mò?

              Đang nghĩ, bỗng nghe tiếng quát bay đảo khắp một khu động thất:

              - Tù trưởng Bạc! Ngươi gọi người? Im mấy giây, chợt Võ Minh Thần vụt thấy giữa làn khói mù, có hai con mắt đỏ rực như than tàu từ phía xế hậu cung chiếu lên trần, rồi có tiếng vị chúa Pi A Ya cười ngạo:

              - Tây Sắc! Ta đang muốn biết sức nhà tinh, đâu cần gọi người tiếp viện! Hai bàn tay trấn thủ mười hai vùng sơn động không phát ra được mấy luồng điện khác nhau sao? Tây Sắc! Có thuật ma thuật quái nào, cứ giở ra! Ta biết "người trên trần" chưa địch nổi Ma Vương, nhưng ta lại khác! Hà hà! Nếu cần ta có thể nhốt mi vào lò bát quái!

              Võ Minh Thần vốn thông minh, vừa nghe qua mấy câu cuối hiểu ngay ông già dùng ẩn ngữ "người nấp trên trần" để nhắc mình chớ lộ diện, chàng trai lật đật nhắm hai con mắt lại, sợ Tây Sắc tinh thấy điện xuất nhận ra.

              - Có thể nhốt vào lò bát quái! Hình như ông có ý bảo thạch thất này yểm tàng sẵn cạm bẫy, cứ để mình ông "liệu trị" con tinh! - Võ nghĩ thầm.

              Ngay lúc đó bất thần nghe nhiều tiếng xé lụa phía dưới y hệt tiếng tên hút gió, sức lạnh lẽo tràn lên trần kinh hồn, đến nỗi Võ Minh Thần thử đưa tay sờ mặt đá thấy tràn khí lạnh lấm tấm như sương, chàng trai vội hé mắt dòm xuống thình lình thấy rõ hai khối, một cục nóng, một cục lạnh đảo vùn vụt như hai trái cầu tung phía dưới, bỗng nghe tiếng cười ré ma âm quái gở, một mùi tanh hôi kinh khủng tạt thốc lên mũi, Võ choáng váng muốn cuộn cả ruột gan.

              - Tù trưởng Bạc! Ngươi tưởng chúa Ma Vương đánh băng công, ngươi dùng sức nóng chống, ngươi đã bị thương rồi! Chậm lắm hai mươi bốn giờ, ngươi sẽ thành cái túi da! Túi da! Giờ muốn toàn mạng mau đem nộp đứa con trai đó cho Ma Vương!

              Võ Minh Thần núp trên trần, nghe rõ tiếng sài lang tinh nói chúa Bạc bị đòn sẽ thành cái túi da người, chàng trai không khỏi giật mình, nghĩ ngay đến di hài mẹ, lòng vụt sôi cừu hận, lại lo cho ông già vì che chở cho mình nên mắc hoạn, chàng trai lập tức vận sức điện công, bế huyệt đạo, khom hẳn người lần ra mé cửa trần đặt tấm khiên xuống, kéo mũ trụ che kín mặt, toan thò tay vén rèm, dợm nhảy xuống. Bỗng nghe tiếng vị chúa Pi A Ya vùng quát lớn:

              - À con tinh chó khốn kiếp, dám lừa hạ độc, ta cần gì quân tử với mi! Khao Lan! Bát quái trận đồ! Mau! "Người trần" đâu nguyên đó!

              Tiếng quát vừa dứt bỗng nghe tiếng Khao Lan hú một tràng kỳ dị, "rầm" cửa động đóng ập, "đùng đùng" liền mấy tiếng ống lệnh nổ, thạch động sáng bừng lên giữa vùng khói xám mù mịt, bỗng thấy Bạc Khao Lan từ trong hậu cung lướt mình ra, tay cầm một lá cờ đuôi nheo đỏ, phất liền mấy cái, quát lảnh:

              - Sói tinh Tây Sắc! Mi đã lọt vào trận đồ tám cửa, đừng mong chạy trốn! Võ Minh Thần dòm xuống, tuy động đã sáng, vẫn chưa thấy bóng Tây Sắc Ma Vương đâu, chỉ thấy từ ngoài cửa động đóng kín trở vào trong một khu rộng thênh thang khói bốc mù mịt, nhưng khói vẫn bay tạt lung tung như bị lốc xoáy, giữa vùng khói um có tiếng cười the thé:

              - Ha há! Trận tám cửa? Đến tám mươi cửa cũng không hãm nổi chúa Ma Vương. Bạc già bị đòn "hấp sát", chúa hẹn cho hai tư giờ, phải nộp đứa con trai đó! Giờ chúa Sài Lang bắt gái Bạc làm con tin!

              Dứt lời, bỗng trong làn khói mờ có một luồng khói đặc hơn bay vút về phía Bạc Khao Lan.

              - Coi chừng! Con tinh ẩn khói mù! Tiếng vị chúa Pi A Ya cất lên phía tả động. Luồng khói cách Khao Lan khoảng mười lăm bộ. Bỗng cô gái lắc mình cái, vụt thối lui, nhảy lui tám bộ, phất phạch cây cờ. Nghe "đùng" một tiếng ống lệnh nổ, Võ Minh Thần thấy cả tòa động thất như rung chuyển, vách đá phía sau chàng động như núi lở, thoáng có vật gì từ trên cao giáng xuống, giật mình ngó sững, Khao Lan đã biến mất, khắp tám hướng động thất, những tấm vách sắt dày hạ "rầm" xuống, sát khít nền động, chỉ trong tích tắc cả cục trường đã lọt vào giữa một cái cũi khổng lồ, đen xì, kín mít! Võ Minh Thần cũng lọt vào trong cái "cũi sắt". Nhưng còn ẩn trên nóc. Chàng trai toan nhảy xuống, đành phải hãm mình lại, đảo mắt dòm kỹ. Tuy lúc đó vẫn khói mù, nhưng chỉ khu cục trường dày đặc, làn khói rất mỏng vòng ngoài và sát trần, nên cũng trông thấy lờ mờ đại thể. Mới hay cái cũi sắt hình bát giác, tám hướng mỗi hướng đều có một khung cửa tò vò có chấn song thép to bằng cổ chân người án đủ càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Chung quanh tinh kỳ cắm la liệt, mỗi một cửa song sắt tò vò lại có một lá cờ đuôi nheo, mang một màu riêng, nắp cửa lập lòe ánh sáng lân tinh xanh lè như ma chơi, nhảy múa trên chuỗi nhạc đồng rung nhẹ phát ra một thứ âm xa xăm kỳ dị, khiến Võ Minh Thần nhìn tưởng đó là những cửa địa ngục dưới âm ty. Nhìn kỹ những khóm lân tinh, mới hay đó chính là những chữ viết lối thảo đặc biệt, nét loằng ngoằng như loai chữ phù thủy vẽ bùa Càn, Khảm, Cấn, Chấn. v. v... Luồng khói sệt vụt vào theo Khao Lan, xẹt lùi mấy bộ, đảo loằng ngoằng, cục trường bỗng đặc khói thêm khoảng giữa, giữa tiếng nhạc rung nhẹ, bỗng nghe tiếng cười thé nhọn vang âm di động:

              - Há há! Bát quái trận đồ của cha con tù trưởng Bạc đấy ư? Hà hà! Thành đồng vách sắt coi chắc lắm! Chúa Ma Vương vẫn nghe thiên hạ đồn chúa động Pi A Ya có bát quái trận trấn núi, đêm nay lại bày trận tiếp đãi chúa Ma Vương!

              Võ Minh Thần từ dạo lưu lại miền động thâm sơn này, cũng từng nghe nàng chúa rừng xanh nói qua về bát quái trận động thất, nhưng vốn tế nhị, Võ không hề tìm hiểu, cho là trận địa ẩn giữa núi của chủ nhân, người ngoài chẳng nên hỏi tới. Nay tình cờ thấy họ Bạc chợt bày trận, chàng mới hay khu động thất ngoài coi thơ mộng thần tiên, trong còn yểm tàng nhiều cạm bẫy phòng gian lợi hại, nhưng thấy chúa Sài Lang không hề nao núng, chàng trai vụt nghĩ thầm: "Thiên hạ đồn đại con tinh Hồng Cẩu Quẩy này ghê gớm khác người, sức phi phàm khôn lường! Thử coi nó phá nổi trận dữ này không? Âu cũng là điều hay cho ta!"

              Nghĩ vừa dứt, đã nghe tiếng vị chúa Pi A Ya quát phía sau trận:

              - Tây Sắc tinh! Chính mi tìm tới gây sự! Giờ có cần cho đàn thủ hạ vao tiếp cứu, ta mở cửa cho vào!

              Giữa vùng khói sệt bỗng nổi lên hai con mắt xếch đỏ tựa than tàu xẹt đảo vùn vụt rồi chợt tắt:

              - Ngươi còn được hai mươi bốn giờ sống, tưởng vách sắt này nhốt được bản Ma Vương ư? Biết điều khai đứa trai kia trú đâu, chúa Ma Vương sẽ cho toàn mạng! Một mình Ma Vương thừa phá động này!

              Ngay lúc đó có tiếng Bạc Khao Lan thét lảnh:

              - Sói tinh Tây Sắc! Mi đã vào cũi sắt, ta bắt mi rửa hận cho đàn bà chết oan trong thiên hạ!

              Theo tiếng thét, bóng Khao Lan chợt hiện ngoài khung cửa sổ tò vò, tay cầm lá cờ đuôi nheo đỏ, tay cầm thanh gươm gỗ sơn son, nơi cổ tay còn thắt một tấm lưới bằng chỉ ngũ sắc.

              Dưới vùng ánh sáng lân tinh huyền ảo, coi nữ chúa rừng sâu lúc này không còn vẻ thùy mị thường ngày, dáng hình thanh tú choàng một cái áo rộng dát kim tuyến vàng chói, cặp mắt phượng long lanh, coi uy nghi như một vị nữ thần nơi động thẳm.

              Võ Minh Thần nấp trên, dòm xuống thấy bóng nàng mờ sau làn khói, bất giác nhớ đến lần nào bị nạn con quỷ đỏ trên biên giới, lòng chợt lo ngại, nhưng lại nghĩ thầm: "Khao Lan tuy không phải tay võ công tuyệt thế, nhưng là gái chua động biết nhiều bí thuật rừng thiêng, ngày đó nàng bị sa tay quỷ đỏ kia vì bất ngờ bị nó phun nọc độc khí hơi mê. Nay tài nghệ nàng đã vượt hơn trước, lại sẵn mưu phòng, Tây Sắc tuy lợi hại, chắc gì đã hạ dễ, ta không lo!"

              Dưới cục trường, chợt có tiếng tinh chúa ré lên:

              - Gái Bạc đẹp! Chúa Sài Lang bắt về làm thiếp!

              Lời chưa dứt, đã thấy luồng khoi xám xẹt thốc tới cửa sổ tò vò như một mũi giáo phóng. Võ Minh Thần vừa nhướng mày chú mục, đã thấy luồng khói vút vào sát cửa chấn song, nhưng Khao Lan nhanh không kém, cô gái đã kịp thời lắc mình một cái, phất cờ đuôi nheo, hô một tiếng dị khuất liền vào vách sắt, cửa tò vò chấn song khép mấy hàng bỗng rút lên cao để lộ cửa trống. Luồng khói vừa lướt tới chưa kịp quật qua, bất thần nghe "đùng" một tiếng, từ trong thoát ra một luồng âm phong lạnh lẽo, mạnh mẽ kinh người, ào ào thổi thốc vào luồng khói xám làm đám khói cả cục trường bay đảo lung tung, sức quật kinh người.

              Hơi lạnh âm phong ùa cả lên chỗ Võ Minh Thần nấp khiến chàng phải vận sưc cho ấm, nhưng luồng khói ma phía dưới chỉ dừng lại chút rồi cứ sấn qua cửa tò vò. Chát! Từ trên nóc cửa chém vụt xuống một lưỡi đại đao bản to hơn hai gang tay, rõ ràng trúng khối vật trong làn khói, tưởng chừng đến tường sắt cũng bị xả làm đôi.

              Đồng thời từ hai bên hông cửa có hàng chục mũi giáo nhọn đâm vụt ra, bên nọ gài chéo sang bên kia thành một tấm phên dày cách tầm đao lớn chừng nửa gang. Nào dè nghe "chát, xoảng" một tieng lớn chói tai, bao nhiêu cây đao cũng bật tung, cái gãy, cái cong queo, lưỡi đao dừng lại cách mặt đá chừng bảy tám thước cũng cong vẹo bản khiến Võ Minh Thần rúng động tâm thần, kinh dị:

              - Trời! Con tinh chúa này đúng mình đồng da sắt, không gươm đao nào phạm nổi! Thần công cương khí, gồng linh? Hay tà thuật?

              Đang sửng sốt, sực nghe Khao Lan hú lảnh, giữa luồng âm phong loạn cuồng lạnh buốt, vụt hiện ra một tên Mán trung niên mặc quần áo chàm, hai con mắt trắng dã long sòng sọc, mặt mày khô đét nhợt nhạt dúm dó như miếng thịt phơi khô, tay cầm một cây búa lớn, nhác coi biết ngay là một xác chết biết đi. Tên Mán khật khưỡng tiến ra cửa tò vò. Sau lưng y lại hiện ra một cỗ quan tài độc mộc, ván thiên mở dựng lên, cỗ quan tài lắc nghiêng ngả đi theo sau tên Mán hơn thước tây, giữa luồng âm phong quái gở như có bóng vô hình vẫn đi ngay phía sau cỗ quan tài, có một cô gái Man quấn xà cạp trắng, mặc quần áo thêu viền chỉ ngũ sắc, trùm khăn ngũ sắc, đội một chiếc bàn độc trên có bát hương bài vị, nến cháy vật vờ, xế phía sau cô gái là một thầy mo trạc ngũ tuần, mắt sáng quắc, hai tay cam chắc vào nhau theo lối bắt quyết.

              - À... ma xó thầy mo! Võ Minh Thần vừa lẩm bẩm trong miệng, bỗng nghe thầy mo hú lên mấy tiếng vang âm, con Mán xó đang khật khưỡng lờ đờ, vụt long sọc mắt sấn vọt qua cửa tò vò, vung luôn cây búa trên tay. Giữa âm phong ào ào, nghe mơ hồ có tiếng

              Mán rú âm u xa xôi, nhọn hoắt, luồng khói xám đang hung hăng vượt qua cửa tò vò lập tức lùi lại mấy bộ, có tiếng hú hét gai gai uy lực cực kỳ hung mãnh:

              - À con Mán xó này làm lộng, dám phạm tới Ma Vương chúa Sài Lang sao? Lui! Chúa Hấp Tinh Quân hớp hồn mi hồn tiêu phách diệt!

              Tên Mán xó đứng đờ ra, lá cờ cắm trên bàn độc rung dữ dội, rõ ràng giữa vùng khói mù, có mấy bóng lờ mờ ảo ảnh xẹt đảo vùn vụt, phát âm mơ hồ rồi im, luồng khói xẹt lùi ngang mấy bộ nữa, vẳng có tiếng hú ma âm quái đan. Ngay khi đó, lại thấy Bạc Khao Lan xuất hiện sau khung cửa tò vò, cách chừng năm bảy bước, thét uy nghi:

              - Sói tinh! Mi bị nhốt lò bát quái rồi! Muốn toàn mạng mau đứng nguyên hình phục lệnh bản cô nương khai rõ đầu đuoi!

              Trong khói mù có tiếng hét nhọn:

              - Gái Bạc không được lộng ngôn trịch thượng! Khai chi?

              - Ta muốn hỏi: Phải mười bảy năm xưa chính mi hấp sát một thiếu phụ xinh đẹp trên biên thùy Trùng Khánh phủ? Người đó là ai? Tên chi...

              Võ Minh Thần nấp trên, nãy giờ đang đắn đo chưa biết cách nào hỏi con tinh chúa Tây Sắc về chuyện mười bảy năm xưa cho rõ thật hư trước khi trả thù, bỗng nghe Bạc Khao Lan lại hỏi đúng như chàng nghĩ, chàng trai khong khỏi mừng thầm cảm động, vội nín thở nghe ngóng, không ngờ vừa nghe dứt câu hỏi của Bạc Khao Lan, Tây Sắc Ma Vương đùng đùng nổi giận, hét lớn như gầm lên trong sương khói:

              - Gái Bạc khốn kiếp! Cha con mi liên can gì lại hỏi chuyện xấu xa tàn tệ đó với Ma Vương chúa? Ta phá tan thạch động, giết hết bọn mi! Lời dứt, đã thấy luồng khói bốc luôn tới cửa tò vò rượt bắt Bạc Khao Lan.

              Nhanh như cắt, Bạc Khao Lan rú lên tiếng dị, phất vụt la cờ đuôi nheo, lùi dạt sang bên, một cửa chấn song sịch mở, từ trên chém phập một chiếc bánh xe mắc hàng trăm lưỡi dao sắc như nước quay vù vù xé gió, lạnh người, đúng lúc luồng khói xám lao vút tới.

              Cửa này gần chỗ Võ Minh Thần nấp hơn nên chàng trai trông càng rõ guồng dao che vừa kín khung cửa tò vò chém tung luồng khói xám đặc, tưởng nát nhừ cả khối luẩn quẩn trong, nào dè đúng lúc guồng dao giáng xuống chém xoe xóe, từ trong luồng khói dị bỗng tung ra hai luồng huyết khí đỏ chói không khác hai con hồng xà, một luồng vòng từ trên xuống, một luồng ngược từ dưới lên, ngậm xoáy ngay luồng dao. Chỉ nghe "chát xoảng keng" mấy tiếng gộp cực mạnh, gió ngưng, cả chiếc guồng sắt lớn bị giật bắn tung lên trần quật rầm vào mặt đá, rồi lại giáng xuống nền động, lôi theo từng mớ đá rào rào vung vãi, nhìn xuống guồng sắt đã cong veo bẹp dúm, hàng mớ lưỡi dao sáng loáng gãy lìa rớt loảng xoảng leng keng khắp cục trường, ngưỡng cửa tò vò như nắm lá lìa cành.

              - Trời! Sức mạnh phi phàm! Cả chiếc guồng dao tủa tủa bằng thép chỉ giật một cái đã bắn tung, gãy cong vẹo cả trục, như giật phá guồng bằng giấy... ghê thay thần lực của Ma Vương tinh! Luồng huyết khí đỏ này sao giống luồng khí

              Giao Long tinh đã chụp trúng lưng ta đêm nào suýt táng mạng dưới hồ Ba Bể. Hai con tinh "tu luyện" cùng một pháp môn chăng?

              Nghĩ chưa dứt hẳn, đã thấy luồng khói xám tuôn vụt qua cửa tò vò, giữa vòng ánh sáng lung linh, rõ ràng, hai luồng huyết khí vụt ra đằng trước ngo ngoe như hai cái chân bạch tuộc quơ quậy phía trong lẫn tiếng cười ma âm từ luồng khói phát ra, ngay lúc đó, sau vách sắt tả trên, có tiếng Bạc Khao Lan vùng thét lớn, Võ Minh Thần cả kinh tưởng nàng bị nó vồ, định nhảy xuống.

              Nhưng ngay khi đó, bỗng nghe tiếng tinh hét nhọn, luồng khói xám lùi vụt lại, hai cái vòi đỏ ngo ngoe đảo lộn "ào", "bùng" từ nẻo hậu trận vụt tràn bay ra một khối lửa khổng lồ, tát tóe vào luồng khói xám, giữa trận cuồng phong ào ào, lửa theo gió kéo dài, cháy rực, kín cả khung cửa tò vò khiến luồng khói xám vụt tan loãng ra, hiện lờ mờ một bóng phi nhân phi thú, hai con mắt đỏ khé than tàu.

              Hình thù rít lên, vọt lùi ra ngoài cục trường, ngọn lửa dài ngoắt như cái lưỡi khổng lồ theo gió liếm vụt theo, chực thiêu đốt khiến hình thù phải lùi luôn mấy bộ. Tự nhiên thấy nước rỏ tong tong xuống nền hang, luồng khói vụt chuyển dịch dọc ngang, từ trong cửa trận hỏa phong, vun vút mắt ra hàng loạt ngọn giáo lửa phóng vù vù vào luồng khói, kín tựa mưa đan. Từ trong luồng khói mờ, thò ra một bàn "tay" lông lá xồm xoàm quơ đại mớ giáo ném tứ tung, ném cả vào cửa lửa.

              - À cha con tù trưởng Bạc giỏi! Dám dùng hỏa công định đốt cả Ma Vương! Coi Ma Vương vào trận lửa bắt gái Bạc về làm thiếp!

              Lời vừa dứt, luồng khói bỗng trở nên đặc sệt, rú mạnh mấy cái, thu ngắn lại, ào một cơn gió âm phong lạnh lẽo từ đám khói nổi lên, lập tức giữa cục trường hiện ra một khối khói đỏ lòm như máu, trông đúng hình thù con thú đứng hai chân coi hao hao như người, cái bóng huyết này lắc mình một cái lại trương phềnh thêm to, như trái bóng bơm hơi. Khí âm phong vừa tắt thì khói xám đã tan hết, giữa động chỉ còn một huyết ảnh khổng lồ cao hơn hai thước rưỡi, to như con "Kinh Kông" tiền sử, làn khói đỏ sệt coi hết sức quái đản.

              Trong hậu cung thất bỗng có tiếng vị chúa Pi A Ya vùng kêu lớn, giọng đầy sửng sốt:

              - À, Tây Sắc hấp tinh, nhà tinh luyện được cả pháp môn kỳ bí "huyết ảnh kỳ hình" đó ư? Ôi! Sát nghiệp cổ kim hãn hữu, Tây Sắc Ma Vương huyết ảnh tinh quân tai ách của trời!

              Hình phi nhân phi thú khổng lồ càng lúc càng đặc sệt, coi không khác một pho tượng hổ phách, không rõ mặt mũi, coi lại càng quái đản, lời chúa Bạc vừa dứt bỗng nghe trong vầng khí sệt co tiếng âm âm phát ra không khác từ cõi u minh xa xăm nào:

              - Chúa Ma Vương Sắc có ngày đảo lộn càn khôn. Tù trưởng Bạc biết "huyết ảnh kỳ hình" có uy lực tàn phá gớm ghê, sao không khai chỗ đứa con trai mang họ Võ tên Thần đó? Khôn hồn dẹp ngay bát quái trận!

              Có tiếng Khao Lan hú lảnh, cuồng phong, lửa cháy từ hai cửa trận vẫn ào ào thốc ra, nhưng giáo lửa không phóng nữa, từ trong khối lửa bừng bừng có tiếng dị phát ra xa xăm lạ. Rồi lại nghe có tiếng chúa Bạc quát sang sảng:

              - Tây Sắc tinh! Mi theo pháp môn hấp sát luyện tà thuật ma công, giết hại đàn bà con gái để mi thành công, sinh linh mang họa. Ta phải đem mạng trừ mi! Khao Lan! Bát môn đồng khai!

              Lời vừa dứt, đã thấy hình đỏ màu hổ phách lắc lư một cái mạnh, từ từ bước luôn vào khói lửa đang bay tuôn qua cửa tò vò.

              Kỳ dị! Bóng huyết vừa chạm tới đầu luồng, tức thì thoát ra những tiếng xèo xèo, lửa rụt co ngay lại, thoắt đã co vào trong cửa tò vò. Võ Minh Thần không khỏi kinh ngạc trước sức kỵ hỏa hiệu nghiệm không thua "tỵ hỏa dạ Minh Châu", lại còn làm bạt cả lửa nữa. Võ thoáng có ý thử sức, vội nhè nhẹ đưa tay rút cây dù súng sau lưng.

              Thình lình hình huyết hú lên một tiếng, nhảy vọt qua cửa tò vò, hình nó to lớn quá, chạm cả khung cửa thép nghe "rầm" một tiếng, mép cửa cong veo, ngoác rộng, vòi lửa chạm hình huyết co rụt tít vào trong, lập lòe chưa tắt.

              Ngay khi đó từ trong hậu cung vọt ra một hình người núi sắc phục Mèo, cao khoảng thước tám tây, gầy đét, khô như que củi, mắt trừng, cổ loải, nanh nhe, hai tay quều quào coi ra thần quái tợn, chắn ngang trước mặt hình huyết.

              Lúc này, hình huyết khí màu hổ phách đã lắc lư vượt qua cửa tò vò. Võ Minh Thần cúi dòm thấy nẻo hậu trận như có một bộ phận phun lửa hừng hực như cái lưỡi lửa khổng lồ, cứ chạm phải hình đỏ là rụt lại. Hình huyết vừa thò ra một cái vòi đỏ chon chót quơ quệt bên trong thì người Mèo từ trong ngọn lửa vụt ra, đầu chạm cái vòi quái, vòi quái chụp ngay lấy người Mèo khô đét.

              Dưới vùng ánh sáng vật vờ, hai con mắt người Mèo khô bỗng long lên sòng sọc, rồi ngây đờ ra, lập tức giữa âm phong có tiếng hú ma âm, cái vòi rụt ngay lại, bóng huyết tinh cũng vọt lùi qua cửa sổ tò vò, trong vầng khí sệt có tiếng hét thé nhọn:

              - À "con xó Mèo" này trịch thượng dám phạm cả đến chúa tinh! Khôn hồn dang ra cho chúa tinh vào hậu cung bắt nữ nhân. Bằng ương ngạnh chúa tinh hớp hồn, cắn cổ!

              Hai con mắt "xó Mèo" khô đét bỗng lại long sòng sọc, khật khưỡng bước qua cửa tò vò. "Xó" vừa đặt chân ra ngoài trận, bỗng từ trong lửa ngụt xịch "đi" ra một cỗ quan tài độc, ván thiên gác lên, cỗ áo quan lắc lư di chuyển theo sau "xó Mèo" giữa luồng âm phong ào ào lạnh lẽo. Sau cỗ quan tiến ra một cô gái Mèo mặc quần

              áo chàm, chân quấn xà cạp trắng, vòng bạc đeo loảng xoảng, đầu đội một cái bàn độc đặt bát hương bài vị như bàn thờ bên cửa kia. Xế sau, xịch bước ra một lão thầy mo già, mắt sáng như điện, miệng ngậm ngang một thanh gươm gỗ, hai tay bắt quyết, vẻ uy nghi hết sức. Lão bỗng phát ra mấy tiếng âm âm trong cuống họng, hai tay đánh "chát" một cái, quan tài xó Mèo rung động. Xó Mèo vượt thêm một bộ, chợt đứng ngây. Liền có tiếng rú âm u trong không khí, bong huyết vụt lắc mình lui hai bước hú lên một tràng rợn óc, tiếp liền tiếng nhọn hoắt lê thê giọng Thổ, Kinh, Mán, Mèo... lẫn lộn:

              - Trành... trành... vào trành! Vào trành!

              Tiếng hú dư âm chưa dứt, bóng huyết đã xẹt đảo ra giữa trận, bỗng có tiếng vị chúa Pi A Ya quát lớn:

              - Bát Môn đồng khai! Bát quái đồng công! Tốc cầm tốc tróc! Tiếng hô truyền vang thạch động, nghe khẩn cấp cực độ. Võ Minh Thần khom mình nhìn xuống, nín thở, liếc ra tít ngoài cửa đóng im ỉm, chưa hiểu con tinh chúa sắp giở thuật gì, bỗng thấy bóng huyết xẹt qua chỗ chàng nấp trên, rồi ngay cửa đối diện, vụt thấy nàng nữ chúa Pi A Ya hiện ra sau cửa tò vò khác, tay phất lia lịa lá cờ đuôi nheo, miệng hú những tiếng lanh lảnh rất khó nghe. Huyết hình cười ré lên âm u:

              - Dập bã trầu, chúa Ma Vương phá tan động thất, ngọc đá đều tan. Cha con tù trưởng Bạc cậy lũ ma xó được không? Hà hà!

              Theo tiếng cười chờn vờn, hình huyết lướt thẳng tới cửa tò vò thứ ba chực vồ Khao Lan. Từ trong vầng huyết khí bỗng thò ra một cái vòi đỏ, miệng loa kèn tựa vòi đỉa trâu, lẹ như chớp tuôn ra cửa, nhanh đến nỗi nữ chúa rừng vừa phất cơ xong, cái vòi dài ngoằng đã vươn tới chụp như con trăn gió quăng khúc quấn người.

              Đúng khi đó, tít ngoài cửa động, bỗng nổi lên những tiếng "sầm sầm" như trời long núi lở, chẳng khác có hàng ngàn tay phá cửa!

              Võ Minh Thần liếc ra, vừa trông thấy cái vòi đỉa trâu quăng vụt tới gần chỗ Khao Lan, chàng trai giật vội cây súng dù, nhưng lại vướng chút, còn đang xoay chiều, bỗng chàng trai giật thót mình thoáng thấy từ vầng huyết hình tuôn vụt ra một luồng huyết khí bay vút chếch lên chỗ chàng nấp sau rèm.

              Vừa kịp nhận ra đây là một luồng đỏ hình giống hệt bàn chân sơn cẩu có vuốt nhọn hoắt, thì hình vuốt đã chụp nghiến thốc vào mặt, thất kinh, chỉ nước hụp đầu tránh, "soạt" bức rèm bị xé bung, vuốt chạm trần, cào một đường rãnh dài tới tận trốc đầu Võ, đá vụn rít rào rào, vuốt đỏ vồ bổ quăng một mảnh đá mép hốc, rớt "huỵch" xuống lưng chàng một hòn đá lớn muốn mop lưng, vuốt đi vòng ngoắt "véo" sạt chóp mũ trụ, cào bay một miếng như tiện, đầu gáy Võ nóng rực tưởng cháy sém mặt mày, một mùi tanh nồng đúng mùi máu tạt thốc vào mũi chàng muốn lộn mửa, rất may là nó chụp ngược lại sau lưng, chàng lại ẩn xó tối có rèm che khá kín, nó chỉ vồ phỏng chừng như tay quơ bắt một trái bóng trong đêm. Nhưng Võ vừa ngóc lên đã lại thấy hình vuốt sơn cẩu như răng bừa, móc câu đảo nhoằng một vòng hẹp rồi chụp bổ xuống.

              Trong cơn khẩn cấp, nếu lùi, hụp nữa, bị ngay, Võ Minh Thần lập tức đạp chân phóng vụt người xuống cục trường, luồn đại dưới luồng vuốt quái, "soạt" một đầu vuốt hơi cào trúng gót giày vải, thân hình Võ theo đà "lông dông" chếch xuống đầu mặt đá, nhưng chàng đã kịp đề khí, quạt mạnh hai cánh tay, quay một vòng, hạ chân như con chim đáp xuống.

              Đang lúc đó, bỗng nghe liền mấy tiếng ống lệnh nổ đùng đùng, Võ định thần trông sang đã thấy Khao Lan vụt biến di như cơn gió, từ sáu khung cửa tò vò còn lại song sắt mở toang, lửa khói cuồng phong, mưa sa, lũ tuyet, cát đá bay ào ào, khói độc, khói mê, nước cường toan bắn tóe như mưa rào...

              Chỉ trong mấy khắc đồng hồ, cả một khu cục trường bát quái trận đang yên sáng thình lình biến thành địa ngục, không gian đổi màu, bốn phương tám hướng lóe sấm động gió hú mưa gào khói tung nước chảy, lửa phun, diêm thuốc súng cháy, như trong cơn ác mộng, khiến chàng trai họ Võ tuy là tay gan dạ không khỏi kinh tâm trước cảnh đột biến bất thường, tưởng mình vừa sa phải một thứ "mê hồn tru tiên hồng sa trận" trong tích truyện Phong Thần.

              Ngay khi ống lệnh nổ, hai con "xó" Mán, Mèo đã lùi vụt lại sau trận cùng thầy mo, trinh nữ. Võ Minh Thần đã biết mình lỡ sa vào "tử địa", không chậm trễ, chàng trai xẹt luôn tới sau một cây cột đá, đảo lia nhãn tuyến quan sát, vừa dạt vào, vụt mấy tia nước cường toan bắn phụt qua mũi khét lẹt mùi a xít, vụt luồng khói trắng, lại một tia khói mê khói ngạt. Thất kinh, chàng trai đưa mắt tìm đoạn tứ giác, tuy vốn tay nhanh trí nhưng nhất thời chưa kịp khám phá ra, giận lòng nghĩ thầm:

              - Nguy dữ! Các luồng "giết người" phun ra như đan phên, càng lúc càng dày, khắp trận này vào hậu cung, cưa nào cũng có luồng độc phát ra vít lối, cửa ngách trần hang cũng chẳng hơn bốn bề vách sắt. Ôi! Mạng ta nguy rồi!

              Bèn đảo nhìn huyết hình tinh chúa, đã thấy nó cũng nhảy vọt vào luồng lửa cháy, xoay mình như tìm kiếm roi lừa thế phóng đến vồ chàng trai. Trong cơn hỏa tốc, tinh chúa Ma Vương Sắc tuy không hung hăng xông vào cửa tò vò nữa, nhưng xem chừng nó vẫn không nao núng, hét âm vang:

              - Thằng mặt sắt kia, mi là đứa nào lại nấp xem trộm? Nói mau!

              - Tây Sắc tinh! Ta là... Bất thần nghe tiếng hú, tiếng Khao Lan kêu giọng kinh hoàng:

              - Trời! Sao lại vào trận chết? Cửa Tốn mau không rã hình hài! Trận đã đồng khai, sao nấp kịp! Phụ thân! "Người" đã sa vào trận tru tinh!

              - Trung điểm, giáp môn trực thăng như thoát!

              Bên tai chàng tuổi trẻ bỗng âm vang tiếng quát theo lối "truyền thanh vạn lý" cua vị chúa Pi A Ya. Trong cơn khẩn cấp, Võ Minh Thần đảo mắt một vòng thạch động, và nhờ sáng mắt, tinh trí, chàng vụt nhận ra thế sống chết của trận đồ ghê gớm này.

              Tuy sấm chớp gió mưa khói lửa khí độc cường toan cát đá ầm ầm loạn động khắp bốn phương tám hướng trận dữ, giống hệt phép "Bát trận tru tiên", nhưng không phải tiên phật hú gió gào mưa, mà tất cả đều do nhân tạo.

              Cũng như các nhà bác học đương thời căn cứ rất nhiều vào các cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng để phát minh chế tạo phi cơ tàu lặn, thiết giáp, ra đa... Hai cha con vị chúa tể Pi A Ya đã tạo khu thạch động này thành một trận địa, trận đồ án theo bát quái, với một bộ máy hết sức tinh xảo chế phun các món dữ độc để công hãm giết địch vô cùng lợi hại. Cơ quan phun độc này lại cùng với quân gia, hợp thêm bí thuật rừng thiêng tạo thành một trận đồ có đủ hai thứ sức mạnh hữu hình và vô hình vô cùng lợi hại, gọi "Bát quái mê hồn tru tinh trận", chỗ nào cũng cửa tử. Nhưng nhờ lời "phụ nhĩ" của vị chúa Pi A Ya, Võ Minh Thần nhận ngay được các thứ phun ra theo hình cầu vồng, ra đến giữa ăn chúc xuống, nên điểm trung tâm trận có một khoảng trống từ trần xuống hơn thước! Và mỗi chỗ giáp hai cửa lại thêm một vệt trống chạy ra giữa trần như một khoảng tam giác dài nhọn, tất cả tám vệt, khả dĩ là đường sống, tuy cũng chỉ vừa người lọt nhưng là đường trống liên lạc với trung tâm điểm.

              Không kể chỗ giáp có ma "xó" hoặc thứ chi chực sẵn, chỉ việc vọt lên trung tâm đã đủ khó rồi. Vì phải lên đó mới đi chỗ khác được, lại phải giỏi khinh công, đu mình lên như con mối, sao cho khỏi chạm phải các luồng "giết người" trùng trùng bên dưới, xung quanh.

              Mãi khắc đó, Võ Minh Thần mới hay đã tình cờ nhảy đúng vào vệt trống giáp môn, nhờ thế chưa bị táng mạng khắc đầu.

              Đảo mắt trông quanh, chàng trai không khỏi kinh tâm thấy hình thù huyết khí hổ phách bọc con tinh chúa đang di động giữa khói lửa ngùn ngụt, nó chạm tới đâu, lửa co tới đó, và nhanh như một cái bóng, nó đã nhảy vụt sang cửa Tốn, chập chờn quay sang chỗ Võ đứng, hét vang âm:

              - Thằng mặt sắt kia! Mi là ai? Nói mau! Mi muốn thành cái túi da? Ba tiếng "cái túi da" có mãnh lực kéo dậy luôn mối thù huyết hận, hình ảnh di hài mẹ hiện lên sáng rực nét thê lương trong thoáng giây, chàng trai quên phắt cảnh nguy hiểm nhằm trận dữ, vùng hét lớn:

              - Tây Sắc tinh cẩu quẩy! Ta là... Bỗng có tiếng Khao Lan kêu giật giọng hoảng hốt giục:

              - Thoát mau! Trận biến đến nơi!

              Giật mình, Võ Minh Thần cắp súng dù bắn luôn mấy phát qua vùng mưa gió khói mù, nhằm thốc vào con tinh bọc huyết. Mịt mờ cát đá khói sương, chẳng biết có trúng không. Võ Minh Thần lập tức chống dù quăng vèo người lên nóc trần trung tâm, vừa áp sát chân ngực bụng vào trần đá, Võ Minh Thần chưa kịp vận điện dán mình thì... rầm rầm rõ tiếng cưa sắt động ngoài xa, tiếp liền nhiều tiếng hú ma âm ùa vào, lẫn tiếng hú của huyết ảnh tinh. Một luồng vuốt đỏ từ cửa Tốn vút lên vồ chụp nhoáng như một tia chớp xẹt! Không kịp nghĩ thêm, chàng trai đẩy vụt mình quăng thân luôn xuống vệt giáp mô bên tả trận trông chếch sang cửa Tốn. Vừa hạ chân, Võ lại chĩa súng sang bắn, bỗng nghe huyết hình vừa di động vừa ré âm gai:

              - Trành trành! Bắt thằng mặt sắt trước, phá trận bắt cha con chúa Bạc sau!

              Tít xa, rõ ràng có nhiều tràng rú âm u lê thê, nhưng có lẽ cửa vẫn đóng, bỗng "rầm" vách sắt rung chuyển muốn vỡ bung, tiếng hú ùa vào nghe cực kỳ hung tợn.

              - Lũ trành đã kéo vào! Mới được Pi A Ya truyền bí thuật rừng thiêng, Võ đã hiểu sức ghê gớm của "xó linh, trành tinh" sức vô hình không cách nào chống lại ngoài bí pháp rừng, chưa nói "trành tinh", chỉ một con "xó trành" thường cũng đủ quật hộc máu một tay thượng võ! Vì "trành" là hồn oan người bị hùm tinh sói tinh ăn thịt, phải theo hầu con tinh, còn "trành tinh" là âm hồn kẻ bị nó nuốt vào bụng, hấp cả hồn về động rèn luyện dạy dỗ thành một hồn tinh để nó sai khiến, nên trành tinh cang hung tợn hơn nữa! Tiếng hú lê thê vút gần thêm, mơ hồ như có cả tiếng vật lộn di chuyển theo, bỗng "đùng" ống lệnh, huyết hình vụt lắc lư chờn vờn sấn qua vùng cát đá gió mưa, xông sang vồ Võ. Hình nó to lớn dị thường, vầng huyết khí như có một sức kỵ độc lạ lùng, rõ ràng nó sấn qua cả luồng nước cường toan, độc khí, chỉ nghe xèo xèo, khiến Võ thất kinh, vì chàng đã học được bí quyết bế huyệt chống độc hại, nhưng đến a xít thì ai cũng phải sợ, sắt thép còn phải thủng, nói chi đến thịt da! Lúc đó, bốn bề vẫn ầm ầm sấm chớp gió mưa cát đá, khói lửa mịt mờ, không thấy rõ cả hình tinh, nhưng cũng thấy từng khoảng đỏ chờn vờn. Vầng khí đỏ sệt cao lênh khênh xốc tới. Võ Minh Thần túng thế, bắn đại một tràng ba, bốn phát vào vầng khí đặc tanh nồng mùi máu, nhưng nó vẫn sịch tới. Muốn vọt chỗ khác vẫn phải nhảy lên nóc trung tâm điểm, thì huyết hình to lớn đã chặn mất lối, chàng trai lâm cảnh tứ diện thọ không, muốn đánh con tinh lại ngặt nỗi độc chất trùng trùng, may sao đúng lúc đó trận mưa sa gió táp khói bay lửa ngụt chợt tạnh. Không chậm một khắc, Võ Minh Thần lập tức xẹt sang hữu trận, nào dè chưa chắc đã may, thình lình tám cửa trận bỗng mở ngoác rồi súng nổ đì đẹt, tên bay dáo phóng ra vun vút, trong cửa tò vò vụt nhảy ra tám pháp sư rừng, bốn thầy mo, bốn mụ ké, bốn đồng nam, bốn đồng nữ, tám cái bàn độc, tám cỗ quan tài độc mộc, nhựa trám, bạch lạp vật vờ, âm phong lạnh lẽo, cả cục trường vụt rơi vào cảnh lờ mờ nhan ảnh, bán âm bán dương hết sức ma quái.

              Bọn pháp sư rừng này người nào cũng uy nghi lẫm liệt, cờ phù gươm gỗ, vụt ra nhất loạt, dạt luôn sang chỗ giáp môn, bắt quyết, hú vang âm, các mụ ké đầu tóc xõa sợi, mặt mày nhăn nheo, mắt long sọc coi rất dữ. Lập tức trong hậu cung, ào ra tám con xó Mèo, Mán, Thổ, Kha... đủ già trẻ lớn bé, đặc biệt có con "xó" loắt choắt coi chỉ độ lên năm, lên bảy, cổ bị vết nanh thú táp đứt cả họng, cai đầu cứ gật gù, có lúc đổ gập ra phía sau lưng coi phát gớm.

              Con nào con đó xõa tóc, mắt láo liên trợn trừng long sọc, vừa vọt ra, cũng xẹt sang đứng bên bàn độc, quan tài. Bỗng khắp tám hướng có tiếng nhạc đồng khua vang, từ trong nhảy ra tám cô then, đủ mấy sắc dân Pi A Ya, tay cầm cờ, mỗi cô mặc một thứ xiêm y khác màu, tay kia cầm chùm nhạc, thảy đều xinh đẹp, trạc mười tám mười chín.

              Vừa chực đuổi Võ, huyết ảnh tinh dừng phắt lại, dòm không chút nao núng, nó ré lên the thé:

              - Động này gái đẹp nhiều! Đuổi tụi ké mo, bắt mấy "then" về làm hầu thiếp cho chúa Ma Vương!

              Nhưng lời chưa dứt, đã thấy tám cô then cùng hú vang, khua chùm nhạc Mèo, ke hú theo, rồi như cơn gió lốc, từ trong kéo ào ra từng đàn sơn cẩu, hùm beo, rắn rết đông như kiến, tru gầm rống rít vang lừng xóc óc, nhe nanh múa vuốt ào chồm chực táp cả Võ Minh Thần lẫn chúa tinh.

              Võ còn đang bối rối, chưa biết nên vọt cửa nào, bỗng thấy Khao Lan xuất hiện, phất cờ hét:

              - Giường đạo sĩ! Giường đạo sĩ! Võ nghe nàng hô, nhớ ngay tới tấm thạch bàn bên vách chữ tượng hình lạ, vẫn nằm xế ngoài điểm trung tâm, lẹ như con cắt, chàng trai phóng vụt mình nhảy vọt ra bên cửa Khảm. Thân hình chàng bốc qua đầu một đàn thú dữ, lắm con ngoái mõm chồm đớp. Con tinh chúa vọt theo. Chân Võ vừa hạ xuống mặt bàn thạch, bỗng mơ hồ bên tai có tiếng tru hú, rồi có bàn tay vô hình vồ lấy vai ôm ghì lại, chực vật nghiến xuống. May sao giữa cảnh ầm ầm mãnh thú, xó, trành, Võ đang vận sức, đọc chú cưỡng lại, bỗng nghe "đùng" một tiếng như địa lôi nổ, cả trận tru tinh rung động, tưởng lở núi, bao nhiêu thú dữ nhất loạt nhảy chồm lại vồ con tinh chúa. Con tinh vùng mạnh một cái, thú dữ bắn dạt ra, từ trên trần chụp xuống một tấm lưới khổng lồ, lập lòe như có truyền điện, rồi chỗ con tinh bỗng tụt xuống thành một cái hầm sâu, rồi cả tấm lưới hạ xuống, hạ theo một khối sắt khổng lồ đè ụp lấy nó không khác ngọn Ngũ Hành của đức Như Lai úp Tề Thiên Đại Thánh vậy.

              Võ vừa kịp thấy tầm lưới hạ xuống thì tấm thạch bàn cũng sụp luôn, chàng trai rơi vụt xuống hầm sâu, bóng ánh sáng tắt biến, cửa hầm đậy lại kín như bưng.

              Tiếng động ầm ầm trên mặt trận Bát Quái còn theo kẽ hở đập ào vào tai chàng trai, nhanh, mạnh và hút xa rất mau theo nhịp rơi sâu mãi. Trong thoáng giây, chàng tưởng cả tấm thạch bàn lớn cũng sa theo, nhưng vụt cái chàng đã cảm rõ bàn thạch giật rời khỏi chân, chẳng hiểu vì nặng rớt trước hay nó chạy sang bên, chỉ biết thân hình chàng vụt chao nghiêng muốn dốc cổ xuống. Tuy giật mình vì sự việc xảy ra quá bất ngờ, Võ Minh Thần chỉ cuộn ruột gan lên một chút rồi trấn tĩnh được ngay bản năng tự vệ nổi dậy, Võ phản ứng tự nhiên, vội vận sức khinh thân, quạt mạnh hai cánh tay giang rộng, nghĩ thầm: "Chắc cơ quan di động mở đường hầm lôi ta xuống! Chính tiếng Khao Lan gọi ta nhảy tới... đây có lẽ lối sinh!"

              Bỗng lại thêm ngạc nhiên, thấy mình cứ rớt mãi, sâu mãi, tưởng rơi vào cõi không tận, nhưng khi quạt đến cái thứ năm, thứ sáu bỗng thấy rõ hai bàn chân chạm phải vật chi mềm mại lạ thường, rồi lại nảy bắn lên như chiếc lò xo mấy cái mới dừng hẳn, thân thể dập dờn nghiêng ngả xiêu đổ, phải dang tay lấy thăng bằng, ánh sáng chập chờn ùa vào nhãn quang.

              Võ Minh Thần vội định thần, chú mục, mới hay đang đứng trên một tấm lưới bằng dây cao su đan mắc vào vách đá, xế bên hữu có ánh đèn le lói hắt ra. Mới hay đó là một chiếc đèn đất, loại đèn thợ mỏ thường dùng, treo trên vách, ngay dưới chân là mot hầm nước rộng vào ruột núi, chỉ cách độ sải tay. Bốn bề im lặng, lắng nghe phía trốc đầu, mơ hồ hình như có nhiều tiếng âm vang xa xôi "phì phò lõm bõm" dưới chân, Võ cúi xuống, không khỏi giật mình thấy lúc nhúc độc xà trườn tới ngóc đầu lè lưỡi, phun phì phì chực quăng mình lên vồ.

              Đang phát ớn, sờ dù, dao liễu vẫn còn đó, Võ giơ tay thủ thế, bỗng lại nghe tiếng sói tru vang rồi từng đàn sơn cẩu hung tợn hồng hộc từ ngõ ngách nào xô lại như rươi, lại toàn lũ sơn cẩu chưa hề quen hơi. May sao, giữa lúc khó tính bỗng có tiếng người gọi lanh lảnh:

              - Phải công tử đó không?

              Tiếp theo là tiếng hú vang âm ruột núi, nghe rõ giọng nàng nữ chúa Pi A Ya, Võ Minh Thần cả mừng gọi lớn:

              - Ai đó? Phải cô nương nữ chúa? Chính mỗ đây! Độc xà sơn cẩu đang làm dữ! Chợt nghe vẳng tiếng sáo, tiếng nhạc đồng khua vang ập tới, rồi ngay sau ngọn đèn thầy mo, bỗng nhô ra một bó đuốc vật vờ vút gió lại gần, tuy mờ mờ nhưng rõ ảnh. Thì ra phía đó là một con đường hầm, có bức bình phong đen xám che khuất. Chợt bình phong vén thốc, Bạc Khao Lan cầm đuốc hiện ra ngay cửa hầm, cách lưới vài sải, uy nghi lộng lay trong chiếc áo vàng dát kim tuyến, tay cầm cờ, nhạc tiên.

              Thấy sơn cẩu, độc xà, cô gái lại thổi tiêu, khua nhạc, lập tức đàn độc vat ngoan ngoãn bỏ đi hết. Cô gái mừng rỡ thánh thót kêu:

              - May quá! Vừa kịp! Nhảy sang mau... công tử thấy rõ chứ? Vừa vẫy, vừa lùi, giơ cao đuốc. Võ Minh Thần đứng trên lưới cao su khó lấy đà nhảy, lập tức bấu mép lưới đu, quăng vèo người vào cửa hầm. Lưới cao su co dãn không thật tầm, nên Võ quăng mình quá đà chút, hai chân lại lướt đi hơi mạnh. Bạc Khao Lan lật đật nhảy lùi, giang tay đỡ, thành hai người ôm chầm lấy nhau đứng lọt trong vòng tay.

              Vừa hãm được, Võ Minh Thần đã ngửi thấy một mùi lan xạ thơm hăng hắc rất kỳ dị phả vào mũi, chàng bật kêu:

              - Trời! Cô nương tha lỗi! Ồ! Sao tôi nhảy dở quá à! Khao Lan lúc đó mới kịp nhận ra đã vô tình ôm lấy chàng khách, nàng cũng bị một thứ mùi đàn ông quái gở tạt vào mũi, tim bỗng đập mạnh. Cô gái buông vội Võ ra, cả hai đều lúng túng ngượng nghịu khó tả. Mấy khắc Võ mới lắp bắp:

              - Con tinh Tây Sắc không ngờ lợi hại thế! Cô gái chớp hàng mi cong, thỏ thẻ:

              - Bản lãnh nó phi phàm! Thiếp sợ công tử quá nóng thù mang hại! May trận đồ bát quái khi tạo lập có dự bị cửa sinh, phòng có lúc phải vào trận đánh. Võ Minh Thần vẫn chưa dứt bàng hoàng:

              - Ghê dữ! Khi mỗ nhảy lên thạch bàn, rõ ràng bị mấy "con trành" vồ, định quật!

              - Ma xó Pi A Ya vừa ra trận kịp, giải nguy cho công tử theo lệnh thầy mo mụ ké đó! À! Công tử có thấy con tinh bị lưới chụp, sập hầm chứ? Ta lại xem sao!

              Hai người cầm đuốc vọt đi, mới hay dưới trận bát quái lập nơi động thất, ruột núi còn nhiều đường hầm hang hốc nhân tạo hết sức tinh vi, đúng là một thứ mê hồn vong địa. Thoáng lại thấy ánh lửa le lói, độc vật lố nhố, có chỗ lại thấy quân Mán Thổ trấn giữ lừ lừ với những bộ phận bắt địch. Nháy mắt, Khao Lan đã dẫn Võ Minh Thần tới một ngách, kéo chàng lại ghé mắt vào một lỗ hở bí mật, thì thào:

              - Dưới kia là chỗ con tinh rớt xuống đó!Thành đồng vách sắt lưới thép, còn chắc hơn cả cũi sắt, độc vật canh ngoài.

              Võ cùng nàng dòm ghếch xuống, bỗng cô gái kêu lên sửng sốt:

              - Trời! "Nó" trốn thoát rồi! Chắc nó nhảy lên trận! Coi kìa!

              Võ Minh Thần dòm thấy hang còn có cây đèn thầy mo treo lơ lửng, ngổn ngang mấy đống vừa sắt vừa đá nằm như gạch vụn dưới tấm lưới thép rách bung không khác tấm lưới chỉ bị tay người giật tung, và ngổn ngang đầy xác độc xà, sơn cẩu.

              - Trời! Bản lãnh Tây Sắc ghê gớm đến thế kia ư? Sức phi phàm do yêu thuật! Hay bí pháp võ công siêu việt "huyết ảnh kỳ hình" uy lực kinh người...

              Chàng trai bật kêu lên, tưởng đến thù nhà, lòng thoáng buồn lo. Khao Lan vùng kéo áo giục "ta lên trận coi mau" hai người chạy vù quanh co lên xuống, thoắt đã lên tới trận trên.

              Quả nhiên đã thấy bát quái trận đồ vẫn đùng đùng sát khí, ma hú tinh gầm trành rít người hô, chó tru ké hét trống giục kèn thổi nhạc khua, cả một khu trận dữ ầm ầm, vách sắt chuyển rung, vị chúa tể Pi A Ya đang cầm cờ phất lia, miệng hô lệnh chiến, tưởng chừng như có thiên binh vạn mã đang xung sát, nghe qua, kẻ bạo mấy cũng phải xốn xang gan ruột. Võ Minh Thần theo Bạc Khao Lan vọt tới ẩn xế sau lưng vị chúa Pi A Ya, nhìn qua cửa tò vò thấy trận đồ lúc này khói bốc mịt mờ khắp tám hướng, ánh đèn thạch động đã tắt, chỉ còn ánh nến trên bàn độc, chỗ lân tinh trên nóc cửa tò vò hắt soi, dìm trận đi vào một thứ ánh sáng chập chờn leo lét như ánh sang ma âm coi càng dễ sợ.

              Giữa vùng khói lửa nham nhở mịt mờ, chỉ thấy bóng người bóng thú di động như những con thoi, lửa nến kéo dài ngoằng, và giữa đám người, hình thù đỏ lòm đặc sệt của Ma Vương Sắc lắc lư vật vờ nhảy nhót, gầm hú vang âm, cuồng phong ào ào lạnh lẽo, tám chiếc quan tài độc mộc cùng lắc lư "đi" quanh trận coi càng gớm ghiếc.

              Võ Minh Thần, Bạc Khao Lan chú mục nhìn xuống nền đá, thấy năm bảy cái xác thú nằm quay đã mất cả hình thù. Và hai cái cửa tò vò dập vỡ, cong veo, hai lỗ hổng khá lớn đen ngòm không nắp đậy, trên miệng ngổn ngang đá, sắt.

              Bọn thầy mo, mụ ké, cô then, cùng đám đồng nam đồng nữ đội bàn độc thảy đều nhanh nhen tiến lui nhịp nhàng, còn tám con chó đực chó cái đã chui vào đứng sững trong quan tài, di chuyển theo hồn thiêng quanh quất đang tử chiến vật lộn với bầy trành Tây Sắc Ma Vương.

              Bất thần, một cỗ quan tài ngã sầm xuống nền đá, văng xác xó ra ngoài nằm trống trơ, lập tức thoi nến đốm hương trên một chiếc bàn độc vụt tắt, cô đồng nữ đội bàn thờ rú lên, ngã vật, nằm sóng soài trên quan tài. Lão thầy mo Mán vụt hét lên một tiếng, rơi tay quyết, rụng luôn thanh gươm gỗ ngậm ngang, loạng choạng, hộc ra một búng máu, ngã huỵch theo, ôm lấy cái thây ma xó, hai mắt trợn trừng.

              Khao Lan bật kêu khẽ:

              - Trời! Nó quật chết một trùm "xó" rồi! Võ Minh Thần liếc vị chúa Pi A Ya, lúc này trông ông dữ lạ, mắt long sòng sọc, chợt hú một tràng, phất cờ đỏ, bao nhiêu người thú lập tức kéo ùa vào cửa tò vò như chực rút, huyết tinh vụt theo, "rầm", trên trần chụp xuống một quả chuông lớn, đè nghiến huyết kình, nền đá lại mở ngoác, con tinh vọt lên lại đụng quả chuông chụp nghiến, kéo tuột xuống hầm sâu.

              - À nó sa hầm ngạt, bàn chông tạc đạn rồi! Khao Lan reo lên, chúa Pi A Ya thở phào trầm giọng nghiêm nhanh:

              - Xuống coi! Cha giữ trận, khiến "xó" trừ trành! Dứt lời lão hú mấy tiếng. Đám mo, ké, then... nhất loạt ùa ra vây lấy một khoảng sân rộng. Không kịp nhìn, Khao Lan, Võ Minh Thần vọt ra nẻo hậu trận như hai mũi tên. Thoắt đã tới bên hầm con tinh vừa sập, dòm đã thấy quả chuông trên bàn chông, im lặng như tờ.

              Cô gái cả mừng ghé tai Võ:

              - Chuông đồng trong đầy hơi ngạt! Chạm nhẹ vào hơi ngạt xì ra! Bàn chông đường kính nhỏ hơn miệng chuông, rớt xuống vừa vặn úp chụp, giáo nhọn xuyên lên tận nóc chuông. Ngọn giáo còn buộc dây tạc đạn cối! Có lẽ con tinh bị xuyên thủng tận đầu, xác thây y nằm trong đó rồi!

              Võ Minh Thần vừa mừng vừa tủi, tâm trạng rối bời. Mừng vì trừ được con tinh cực độc cho thế gian, tủi buồn vì lời nguyền rửa hận còn đó, oán chưa trả, nó đã chết vì tay người khác, chẳng khác tâm trạng của Ngũ Tử Tư khi được tin Sở Bình Vương Khứ Tật đã diệt trừ gian thần Phí Vô Cực là giết cha anh Tử Tư, khi Tử Tư còn đang ở bên Ngô tính kế báo cừu!

              Nhưng bỗng chàng trai kéo mạnh áo nữ chúa Bạc, và cả hai cùng nín thở dòm kinh ngạc. Vì quả chuông lớn bắt đầu động đậy, rồi từ từ nâng lên, dâng mãi, rồi cất bổng hẳn ra. Mãi lúc đó, hai người mới kịp nhận ra quả chuông chỉ úp chụp quá nửa bàn chông, và vụt cái, chuông đã nâng cao vòi vọi để hiện ra hình thù đỏ to lớn đội chuông đứng cao lênh khênh, không khác Hercule nâng cả phiến đá lớn. Và hai chân nó đứng trên hai mũi giáo có treo tạc đạn lủng lẳng.

              Bạc Khao Lan ngó sững hình huyết ảnh to lớn đứng lù lù trên bàn chông như đứng trên mặt đất, cô gái cũng kinh ngạc hết sức, ghé tai Võ Minh Thần thì thào:

              - Nâng chuông nặng đứng trên mũi nhọn, cũng chưa lấy chi lạ. Nhưng bẫy sập chuông, úp nặng ngàn cân, tít trên trần cao rớt xuống mà nó vẫn hạ xuống êm như không mới ghê!

              Lời chưa dứt, vụt thấy Tây Sắc Ma Vương nâng hẳn trái chuông lớn, xoay mình một vòng, và khi chiều mặt "nó" vừa hướng về phía hai người nấp, bất thần "nó" quăng mạnh trái chuông vào vách đá.

              Võ Minh Thần, Khao Lan chỉ thoáng thấy khoảng hầm trước mặt tối sầm lại, "ầm" một tiếng như long trời đổ núi, mạnh đến nỗi hai người đứng tít bên này vách đá dày còn rung động cả châu thân, áp lực đè qua lỗ hổng như một luồng đại kình phong. Bạc Khao Lan đã kịp thời nắm tay Võ Minh Thần nhảy vèo sang một ngách khuất gần đấy, bên tai còn nghe tiếng ầm ầm vang chuyển như bất tận trong ruột núi.

              Cả hai bất giác nhìn nhau. Khao Lan than:

              - Trời! Không ngờ Tây Sắc lợi hại đến thế! Chắc nó lai nhảy lên trận rồi! Ta phải lên mau!

              Không chậm trễ, cả hai lại dắt nhau chạy lên mặt động. Lòng nao núng trước sức mạnh phi phàm của tinh chúa Ma Vương, Võ Minh Thần vừa chạy vừa hỏi:

              - Liệu "nó" phá nổi trận dữ này không?

              - Vầng huyết khí bọc quanh mình nó uy lực khôn lường, nhưng công tử chớ ngại. Còn năm cửa nữa, chưa dễ gì phá nổi. Năm cửa này, cửa nào cũng dữ!

              Quả nhiên khi lên tới khu hậu trận, trông ra đã thấy hình huyết khí phi phàm đang lắc lư nhảy nhót, sai khiến lũ trành phá trận tử chiến với bọn thầy mo mụ ké, xó núi Pi A Ya.

              Vị chúa tể họ Bạc đứng nơi này chỉ huy phía hậu cung điều động bát trận đồ, mặt hiện rõ vẻ nghiêm trọng, mồ hôi lấm tấm trên vầng trán đanh. Thấy hai người, chúa Bạc trầm giọng nói luôn:

              - Ma Vương Sắc vô cùng lợi hại, phá liền hai, ba cửa dữ. Hầm hố, bàn chông, chuông đồng, cũi đá, hơi ngạt chưa hạ nổi! Võ công tử hãy dằn lòng chịu hận, chớ lộ diện giao đấu vội! Nhớ theo sát Khao Lan.

              Vị chúa Pi A Ya nhìn ra ngoài trận, vẻ suy nghĩ:

              - Ta đang phân vân chưa rõ, nó phá được mấy cửa kia là do phép ma, thuật quỷ? Hay tất cả đều do vòng huyết khí bọc quanh người nó?

              Võ Minh Thần, Bạc Khao Lan cùng chú mục nhìn theo bóng đỏ di động vùn vụt, quả nhận ra vòng huyết khí màu hổ phách lúc này coi trong suốt hơn, không đặc quánh như hồi nãy, đến đó mấy người trông thấy cả hình thù chúa Hồng Cẩu Quẩy tứ túc mõm nhọn hiện lờ mờ bên trong, đi hai chân sau như người. Chàng trai bật giọng khẽ:

              - A... vòng huyết bọc, tinh lực Ma Vương có lẽ giảm sút dần sau khi xuất phá mấy cửa dữ! Uy lực nó ghê nhất vòng huyết khí, tình thế này nếu kéo dài trận đánh chắc bất lợi cho nó.

              Hai cha con vị chúa Pi A Ya cùng biểu đồng tình, chúa Bạc giục:

              - Khao Lan! Kéo dài trận đánh, xem sao! Còn công tử nên ẩn kín trong hậu trận!

              Tuy lòng nóng như lửa đốt, nhưng trước tình thế này, chàng trai có hiếu đành nén giận, theo lời chúa họ Bạc.

              Bạc Khao Lan lập tức cầm cờ đỏ vọt ra, đứng sau cửa tò vò, hú lên một tràng vang động. Lập tức, đám pháp sư nam nữ trong trận nhất loạt dang ra xa điều khiển bầy xó dữ, xó dữ lui vào sát cửa trận, và bắt đầu luân phiên tiến đánh Ma Vương.

              Thấy bóng Khao Lan, Tây Sắc vùng hét:

              - Gái Bạc! Chúa Ma Vương sắp bắt được thằng mặt sắt, sao giật bẫy đem nó vào ruột núi? Nó đâu? Phải nó chính là đứa con trai áo chàm tới đây?

              Nàng nữ chúa Pi A Ya cười lảnh:

              - Mi chưa thoát nổi trận mê hồn, chớ vội nói chuyện người! Hắn cũng như mi, vô cớ đột nhập thạch động, hiện đã bị nhốt dưới hầm sâu!

              Tây Sắc lập tức hú lên mấy tiếng lê thê, lao vụt vào cửa tò vo vồ Khao Lan. Nhưng khi nó vừa xẹt tới gần, thì từ các cửa khác, đám pháp sư rừng cùng đàn "xó" dữ đã nhất loạt quay mặt về hướng đó, rồi giữa vùng ánh sáng ảo huyền, bỗng nổi lên nhiều luồng âm phong nghi ngút bay vu lại, và Khao Lan đã lắc mình khuất sau vách sắt, tiếp tiếng hú âm âm lẫn tiếng sài kíu tru mơ hồ xa xăm, rồi từ hậu trận nhảy vọt ra một đàn hơn chục con sơn cẩu to lớn, con đen, con đốm, con vàng, trắng lố nhố, nhe nanh múa vuốt coi mười phần dữ tợn.

              Nhưng vừa ra tới cửa tò vò, cả đàn sói dữ vụt đứng đờ ra như bầy chó nhồi trấu. Tiếng tru mơ hồ, bỗng thấy Tây Sắc tinh hét một tiếng nhọn hoắt, dừng phắt lại, đảo vụt thân pháp vồ, cắn xé không khí, chừng mươi khắc mới hú âm, cất tiếng người chờn vờn:

              - Cha con tù trưởng Bạc giỏi! Dám sai cả chó tinh cẩu chúa sài lang! Trành!

              Trành! Ra truyền lệnh chúa gọi chúng gia nô nhập trận! Lời vừa dứt, đã thấy Bạc Khao Lan hiện sau cửa tò vò khác, gọi lảnh:

              - Tinh chúa! Mi giỏi mấy cũng không thoát nổi đâu! Trận mê hồn bát quái sẽ nghiền nát mi ra cám, đốt cháy thành than.

              Tây Sắc tinh không chút nao núng, cười thét lên:

              - Chúa sài lang sẽ phá tan trận con nít này! Coi đây! Dứt lời, nó vọt tới, dùng cả hình thù thúc mạnh vào cửa tò vò, vách sắt. Rầm rầm! Trận đồ rung chuyển, trông ra, cửa vách đá cong veo, xiêu sắp đổ.

              Chúa Pi A Ya hơi biến sắc, kêu khẽ:

              - Trời! Không ngờ huyết khí có sức tàn phá đến thế kia! Nếu nó phá sụp đượcvách sắt, cả thạch động sẽ bị đe dọa nặng nề! Tình thế này phải tính gấp, hạ độc ngay mới được.

              Dứt lời, lão hú lên một tràng hiệu lệnh, đoạn đứng vụt lên tiến đến bên vách đá bên hữu.

              Võ Minh Thần nãy giờ vẫn nấp yên theo dõi cử động của huyết hình ngoài trận.

              Thấy nó xô phá vách, chàng trai không khỏi kinh tâm, nhưng sau khi xô liền ba cái, vách sắt một khoảng giáp cửa tò vò mới ngã xuống chưa đổ, thì vầng huyết khí bao quanh mình con tinh đã mỏng hẳn đi, trong loãng, thấy rõ cả hình thù dị thú.

              Võ Minh Thần nhảy vọt tới chỗ Bạc Khao Lan, thì thào:

              - Uy lực nó đang suy giảm! Cô nương định làm chi đó?

              - Soái phụ thiếp vừa ra lệnh dùng địa lôi phục! Chắc sức nó khó chống địa lôi! Chàng trai xua tay:

              - Không nên! Dùng lôi phục, ngọc đá đều tan, động thất này tất phải sụp đổ, ít nhất cũng một phần uổng công tạo tác từ xưa. Cứ như ý mỗ, ta cứ đánh cầm chừng chút nữa, uy lực nó suy, may hạ được! Vả lại... còn nó, mỗ mới hy vọng tìm ra nguồn gốc thân thế, vì nó hấp sát mẫu thân, nó phải rõ nhiều điều.

              Bạc Khao Lan liếc nhìn huyết hình, quả nhiên thấy mỏng hơn ban nãy, cô gái đành hú ám hiệu thỉnh mệnh cha.

              Nhưng ngay khi đó, bỗng tinh chúa vụt ngừng, dừng phắt lại. Hình như nó cũng mới nhận ra màng huyết khí đang mỏng dần. Nó vùng hú lên một tiếng nhọn hoắt, lùi vùn vụt về phía cửa động. Nó lùi nhanh như cơn gió thoảng, đám pháp sư rừng cùng đuổi sát hai bên trận, mấy con "xó" chuyển động theo rất nhịp nhàng. Còn cách cửa động chừng tám, chín bộ, bỗng nó thò vụt ra hai cái vòi vồ nghiến lấy cửa sắt giật "rầm rầm" mấy cái.

              Lửa trận rung rinh, bọn Võ Minh Thần ra, chợt dội lòng một cái, thấy cửa động mở tung để lộ cả khung trời trăng nhạt bệch bên ngoài. Hu... u... hú!

              Cửa vừa mở tung, hình huyết ảnh tiến vùn vụt vào trong phía sau, khung cửa bỗng tối sầm lại, lố nhố từng đàn thú dữ mõm nhọn chạy ùa vào trận như đàn két, lẫn với những tràng tru hú vang lừng náo động.

              Bát quái Mê Hồn trận âm âm như nổi phong ba, nháy mắt dưới vùng ánh sáng nhờ vụt ra hàng bầy thú nhe nanh múa vuốt vây quanh huyết hình tinh, lại còn nhiều bóng dị chập chờn ẩn hiện như bóng ma.

              - À con tinh này biết đường cương nhu, uy lực giảm, gọi quân gia vào trợ sức.

              Khao Lan! Đốc trận! Vừa nghe vị chúa Pi A Ya hô lớn, Võ Minh Thần vụt nghĩ:

              - Sắp đánh loạn, cơ hội tốt, uy lực nó giảm, cứ thử xem sao.

              Bèn vọt tới cửa tò vò nấp xó tối, chĩa phăng cây súng dù ra nhằm hình huyết tinh quạt một tràng.

              Tặc tặc tặc! Đạn bắn ngược từ dưới lên, rõ ràng trúng huyết hình, nhưng chẳng hiểu nó có bị không, chỉ thấy hình huyết đang nhảy nhót bỗng chao mình đi, rồi quay tít như chong chóng, nhanh đến nỗi trông khắp trận, chỗ nào cũng thấy loang loáng bóng hổ phách di động, không biết chỗ nào mục tiêu chính yếu nữa.

              Võ Minh Thần đang chĩa họng súng rình khạc đạn, bỗng nghe tiếng nhạc đồng khua loảng xoảng, trống giục liên hồi, ào ào quân Thổ Mán từ đâu kéo ra, đứng trên xà ngang xế nóc cửa trận chĩa súng bắn như mưa.

              Nhưng đạn vừa nổ, bỗng nghe gió rít ghê người, bao nhiêu đèn nến chợt tắt phụt, những tiếng "xoang" khô dòn, các hộp đèn kính ghép trần nhất loạt vỡ tan tác theo nháy mắt, cả khu trận vụt chìm vào cảnh tối đen, chỉ còn ít đốm sáng lân tinh trên cửa tò vò soi lờ mờ xanh lè khiến trận đồ càng trở nên quái ảo.

              Giưa vùng ánh sáng lân tinh bỗng nghe tiếng Khao Lan hét lảnh giọng Thổ:

              - Xó thần Pi A Ya! Bám sát con tinh, dẫn quân gia truy diệt, chớ để nó chạy thoát!

              Có nhiều tiếng hú ma âm vọng đáp, giữa tiếng súng bắn nhát gừng, có tiếng Ma Vương hét:

              - Chúa Ma Vương về động! Có đêm gặp lại chúa Hồng Cẩu Quẩy Pi A Ya! Đứa nào theo ta chết mất mạng!

              Ầm ầm, như có một màn tử chiến giữa trận, cực hỗn loạn, rồi "bùng bùng" liền hai tiếng, tiếp theo nhiều tiếng tru hú vang âm.

              - Theo ta mất mạng! Hà hà! Giỏi theo chúa Sài Lang!

              Tiếng gai âm nhọn hoắt của con tinh kéo lê thê dài hút phía cửa động thất ngoài kia. Có tiếng Khao Lan hô:

              - Truy sát! Võ Minh Thần e lạc đạn, cứ ghìm súng dù, đứng nghe ngóng, bỗng "bốp" từ hậu cung bắn vọt ra một trái hỏa pháo, sáng rực khu bát quái trận. Chỉ còn đám pháp sư, "xó", sơn cẩu, quân gia Pi A Ya, còn Tây Sắc tinh đã biến đâu mất với quân thú. Dưới ánh lửa vật vờ, cả cái kiệu son cũng biến mất, ngay lúc đó lại có tiếng chiêng trống inh ỏi, lẫn tiếng vị chúa họ Bạc:

              - Chó cùng chớ đuổi! Tây Sắc tinh chưa hao tinh lực bao nhiêu đã thoát ra khỏi trận, ắt nó có dự mưu, chắc nó dụ ra ngoài đánh cho dễ đó!

              Thuộc hạ y lệnh, dừng cả lại, trấn vững trận đồ. Cha con chúa Bạc vọt ra, Võ Minh Thần nhác thấy cũng vội nhảy ra, lao ra cửa động như ba mũi tên vút gió.

              Trông ra dưới trăng mờ sương lạnh, vẫn thấy bóng chiếc kiệu son nhấp nhô giữa hình sơn cẩu lúc nhúc như rươi cách độ trăm thước.

              Võ Minh Thần sực nhớ đến Quản Kình nấp gần đấy, chàng trai lo ngại hết sức, vừa toan hú gọi, bỗng thấy kiệu son chợt ngừng lại, vẳng có tiếng con tinh quát vọng:

              - Tù trưởng Bạc! Cha con ngươi làm gì đó? Sao chưa kéo quân đuổi theo? Bạc Khao Lan ham hở:

              - Soái phụ à! Nó chỉ có một đàn quân thú, ta huy động quân gia truy sát, bao vây, chắc bắt được con tinh!

              Chúa Bạc cau mày, ngẫm nghĩ, chợt bảo:

              - Mặc nó! Nó có ý dụ ta ra, để coi xem đã! Mấy khắc, lại có tiếng Ma Vương:

              - Tù trưởng Bạc! Không đuổi sao? Hà hà! Nếu không đuổi, chúa Ma Vương hẹn ít ngày sẽ lại thăm, mang theo đồ sính lễ.

              Bạc Khao Lan "hừ" giận định mắng, nhưng vị chúa Bạc đã xua tay, vùng quát lớn:

              - Tây Sắc tinh! Không thích phá trận nữa, cứ rút khỏi Pi A Ya cho mạnh giỏi! Chúa Bạc sẽ có phen đến thăm động Ma Vương "đáp lễ" nhà tinh đêm nay đến chơi bản động. Ta sẽ ra lệnh cho hàng động để "khách" rút bình an, không cản trở.

              Giọng con tinh phát âm đầy cao ngạo:

              - Tù trưởng Bạc! Thành đồng vách sắt, chúa Ma Vương còn phá như chơi,ngại chi lũ quân rừng Pi A Ya. Cứ ra lệnh chặn đường Ma Vương! Ma Vương rút một bước để lại một bước máu, mới hài lòng!

              Vị chúa Pi A Ya không nói nữa, lập tức truyền thuộc hạ nổi hiệu cồng dây chuyền vang âm xa hút tận ngoài núi xa.

              Tiếng cười the thé cất lên, cỗ kiệu son vụt trôi trong sương trắng, nhưng tới khúc rẽ, cả bầy quái vụt bien mất. Rồi lát sau, bỗng sịch thấy hình cỗ kiệu đứng lù lù trên ngọn đỉnh xế trước cao vòi vọi, khắc trên nền mây nhạt những hình đầu thú mõm nhọn hếch dòm trăng tà coi hết sức quái dị.

              Rào một cơn gió rừng xa lùa ve, hình quái biến mất trên ngọn núi trăng tà. Võ Minh Thần vùng gọi lớn:

              - Chú Quản Kình... đâu?

              Không tiếng đáp, Võ còn lo ngại, định chạy ra, bỗng thấy Quản Kình từ trên nóc thạch thất nhảy vèo xuống, mặt mày chưa dứt vẻ bàng hoàng.

              Thì ra ngay sau lúc Võ vào động, Kình sốt ruột cũng lên nóc theo, nấp trên, chứng kiến từ lúc Tây Sắc phá cửa thứ ba, mấy phen định nhảy xuống, lại thôi, sợ mình cản bước người khác.

              Ngay khi đó, chúa Pi A Ya bảo Khao Lan giữ trận, đoạn cùng thầy trò Võ Minh Thần theo dấu con tinh, nhưng không thấy gì cả, lúc đó mơi về. Ngay sáng sau, Võ Minh Thần bái biệt, lên đường.

              Hai cha con vị chúa Pi A Ya hết sức lưu luyến mãi không rời. Bèn tặng hai con ngựa tốt cùng các món vật dụng. Hai cha con chúa Pi A Ya đích thân dẫn quân gia, sơn cẩu đưa thầy trò Võ Minh Thần ra khỏi miền động thất, lại sợ Tây Sắc Ma Vương mai phục chăng, hai cha con đưa tiễn thầy trò Võ hơn mười dặm ngàn không thấy chi mới chịu quay về.

              Rung lời từ biệt, Võ Minh Thần hỏi thăm đường đi đong Thanh Âm, đoạn lên yên, giục ngựa, hai cha con chúa họ Bạc đứng bên đèo cao nhìn theo bóng ngựa mất hút dần tít nẻo đằng xa, không khác cảnh Lưu Huyền Đức ngậm ngùi theo bóng Từ Thứ. Từ Thứ về Hứa Đô thề không bầy một kế nào cho Tào Tháo, còn Võ Minh Thần lên Tây Bắc biên thùy quyết tìm học thêm bí thuật, lần tận hang ổ chúa tinh tứ túc, rửa hờn cho bậc sinh thành.

              Comment


              • #8
                Hồi Thứ Tám



                Nam Khấp, Tây Gầm




                Từ biệt hai cha con vị chúa tể họ Bạc, Võ Minh Thần cùng Quản Kình rời miền động Pi A Ya theo các đường xuyên sơn chắp nối, đi lên miền Tây Bắc biên thùy, định lấn đến vùng động Thanh Âm.

                Bạc Khao Lan có tặng thầy trò Võ một đôi chó hết sức tinh khôn thuộc giống sơn cẩu to lớn đã được huấn luyện rất thuần thục, biết nghe theo sự sai khiến của chủ như người vậy. Chúng lại là một cặp vợ chồng, con đực đen sì, con cái trắng bông, gọi là Hắc cẩu và Bạch cẩu.

                Đôi sơn cẩu này đã quen thầy trò Võ từ lâu nên rất quyến luyến, được đi theo chúng rất thích. Bạc Khao Lan thường dùng chúng làm thám cẩu, nên khi theo Võ bao giờ chúng cũng tung tăng vọt đi trước, sục sạo, đánh hơi thấy gì lạ chạy về báo ngay nên thầy trò Võ xuyên sơn tới cánh rừng nào, cũng có chúng thám sát trước, đỡ nhiều bất trắc. Đường núi khó đi, mãi xế chiều hai thầy trò Võ mới ra khỏi miền lãnh địa Pi A Ya.

                Bèn theo phương đao, nhằm hướng Chang Poung đi miết. Định tới đâu ngủ đó nhưng khoảng năm giờ, vừa trên đồi lao xuống một cánh rừng rậm bỗng cả hai giật mình gò vội tay cương, vì cặp Hắc, Bạch cẩu bỗng từ hai phía đó chạy như gió lại, kêu "hí hí" báo hiệu có điều nguy hiểm.

                Nhờ được Pi A Ya truyền bí thuật thu phục sơn cẩu, hai thầy trò Võ có thể "nói chuyện" được với loài chó, nên nghe hiệu, hiểu liền. Quản Kình, Minh Thần lập tức xuống ngựa, theo hai con Hắc Bạch nương bờ bụi, chạy tới cửa rừng. Đến một con suối rộng, trông sang, thấy vắng tanh, hai người còn đang ngạc nhiên, chợt ào một cơn gió rừng thổi thốc tới, phả vào mũi một mùi tanh hôi nồng nặc.

                - Mùi quen thuộc của giống sài kíu! Võ thì thào cùng Quản Kình, nghiêng ngó đến mười khắc, mới trông thấy bóng sơn cẩu lố nhố đứng sau các bụi cỏ, gốc cây, đặc kịt cửa rừng. Giật mình, Quản Kình thì thào:

                - Hồng Cẩu Quẩy! Hình như không phải chó hoang, coi chúng đứng như chờ chực cái gì? Tôi ngờ bầy quỷ mắt đỏ của Tây Sắc quá!

                Võ gật đầu nhíu mày, lấy ống nhòm quan sát, thấy khoảng gần hai trăm con, con nào cũng đứng bốn chân, im thin thít không cử động, không tru, mắt hau háu nhìn ra con đường mòn cửa rừng, coi phát ớn. Chàng trai khẽ bảo:

                - Đúng "quân" Tây Sắc! Nó phục rình bọn ta? Lạ thật! Sao nó biết ta đi ngả này?

                Quản Kình gãi râu:

                - Ma vương tinh mà, cậu hai. May mình đứng cuối gió cậu hai à! "Chúa nàng" Pi A Ya có biếu chai thuốc trừ hơi người, ta nên bôi vào vòng lối khác.

                Võ Minh Thần gật đầu. Quản Kình lấy thuốc vẩy khắp người, đoạn hai thầy trò dẫn Hắc, Bạch cẩu lộn lại chỗ giấu ngựa, lặng lẽ xuyên rừng vong về nẻo Đông Bắc, tránh xa cánh thung sói.

                Đi chừng nửa giờ, lại gặp một bầy hồng cẩu quẩy nữa đứng lố nhố trên một rặng núi đá dòm xuống đường qua thung. May nhờ có Hắc Bạch đánh hơi rất thính nên hai người kịp phat giác, lại xuyên rừng kiếm ngả vòng lên. Lần này, vượt khỏi hàng năm, bảy dặm, vẫn không thấy chi lạ, chừng đã thoát khỏi tầm phục.

                Lúc này, nắng đã tắt hẳn, sương đùa lớp lớp, bắt đầu kéo trăng ngang lưng đồi. Chiều đồng sơn cước buồn âm u gợi hình ảnh bếp lửa nhà sàn. Quản Kình bảo chủ:

                - Sương nhiều dữ, đi không tiện nữa! Ta nên kiếm nhà trọ qua đêm! Võ gật đầu, lại bàn:

                - Bọn ta đã lạc hướng Thanh Âm. Tốt hơn hết ta cứ đi thẳng, tới đâu có nhà sàn thì nghỉ!

                Hai người lại lóc cóc xuyên sơn. Bốn bề vẫn toàn rừng núi trùng trùng nhưng đi thêm khoảng hai dặm ngàn nữa bỗng tới một miền cảnh thổ rất đẹp. Trông lên rặng đồi Tây, thấy ẩn hiện nhiều mái sàn chon von, coi như chuồng chim câu treo trong mây.

                - Bản Mèo kia! Đi gấp cũng phải hơn giờ ngựa. Lên đó chắc hỏi ai cũng biết được đường đi. Hai thầy trò giục ngựa chạy kiêu băng, kiếm lối lên bản Mèo. Vì e trơi sắp tối, nên cả người vật đi cùng một toán.

                Ngựa đang bon bon, vừa tới có lối rẽ lên bản Mèo, bất thần Quản Kình vụt giơ tay làm hiệu, hai người đứng vội. Kính rút ống nhóm chiếu về phía trước, đoạn bảo chủ:

                - Cậu hai coi... Hình như có đám rước thì phải. Võ Minh Thần cũng vội lấy kính quan sát. Quả như lời Kình. Xa xa, trên một trái đồi thưa cỏ non, nhấp nhô nhiều bóng tàn tán từ phía bên kia vọt sang cuồn cuộn, cứ thoáng hiện, thoáng ẩn giữa lá cây, sương chiều. Nếu không nhìn thấy hình tàn tán in vào nên mây trời ngọn đồi, có lẽ khó lòng nhận ra hàng "nấm" sặc sỡ lướt đi nhanh lạ thường. Khi ai thầy trò Võ Minh Thần thấy rõ thì bóng tàn tán lố nhố đã hiện trên ngọn đồi xế ngay trước mặt, cách có con thung hẹp. Võ Minh Thần bảo Quản Kình:

                - Không phải đám rước! Có lẽ tàn lọng ma quân!

                - Tàn vàng tán tía... Ô kìa! Không thấy kiệu không phải rước thần Đổ Bác!

                Đúng "con ma trăm mặt trăm giọng" rồi! Không xong! Tránh đi thôi... cậu hai! Võ Minh Thần điềm nhiên:

                - Việc gì phải sợ chạy? Chú quên lúc đó tôi bị trọng thương sao?

                - Cậu hai! Muốn báo cừu, xin cậu hãy nén lòng, tránh mọi chuyện rắc rối! Cậu chớ quên "con ma trăm giọng" nó có ngón "cường toan bạch cốt" không kém Ma vương!

                Chàng nghiêm mặt:

                - Chính vì thế ta nên gặp lại y, coi đòn đó là đòn âm hay đòn ma công bí pháp? Và chú quên hôm nay chúng ta đều mặc quần áo khác, đeo cả mặt nạ, ra người khác sao?

                Tuy nói vậy, nhưng chàng trai cũng phải nghe lời Quản Kình, cũng vọt ngựa rẽ về hướng bản Mèo non cao. Chẳng may đám rước tàn tán lố nhố kia đã trông thoáng thấy bóng ma nhân mã dưới thúng, lập tức xuyên ngang vọt theo chặn lại. Rập! Tàn tán người ngựa lính cổ lính kim thời, võng lọng đã đứng lố nhố bên đường mòn, khiến thầy trò Võ phải đứng lại.

                - Này hai chú kia! Đứng lại cho quan Điện Tiền chỉ huy hỏi chuyện! Lúc này, thầy trò Võ Minh Thần đều mặc quần áo Pi A Ya, cả đến khiên thép cũng được bọc vải lá gồi từa tựa nón "khách thuốc ơ". Minh Thần nhìn ra thấy đám rước cổ kim hòa điệu này đứng cách độ ba mươi bộ, dàn quây lấy chiếc cáng gấm đúng cang Ma Quân Bá Diện đêm nào "ngự" dưới tàn cây, có gái hầu khiêng giá vật dụng đứng sau, tàn tán che ngay ngắn coi rất nghiêm chỉnh, một viên tướng phương phi râu chòm xách búa oai vệ giục ngựa tới, dòm kỹ không phải viên Điện Tiền đêm nọ mà là viên Điện Tiền mới, không ai khác Tửu Chúa Tửu Đế. "Vua rượu" coi vẫn hồng hào, nơi cổ ngựa có đeo một chùm bầu lớn, nhưng áo đoạn khăn xếp đã trút bỏ. Bữa nay y mặc một bộ giáp cổ sặc sơ mũ trụ lại thêm hai cái lông trĩ, lưng giắt thêm mấy lá cờ sặc sỡ, coi oai phong lẫm liệt không thua "tướng Quảng Lạc Lữ Bố" đất Sầm Công. Võ Minh Thần là kẻ ít cười nói, thấy lão Điện Tiền Tửu Chúa mặc nhung phục coi như chúa tuồng cũng suýt phì cười, phải làm mặt lạ, cùng Quản Kình tung hô. Tửu Chúa quát:

                - Các ngươi đi đâu? Quản Kình dùng tiếng Thổ đáp:

                - Chúng tôi lên biên giới thăm bà con

                - Đâu tới?

                - Mạng Trà Linh, Bảo Lạc!

                - Dọc đường có gặp đàn sài kíu bắt hai người thổ mặc quần áo chàm, đội nón sắt rộng như nón bọn ngươi không?

                Quản Kình chưa đáp, Minh Thần đã đỡ lời:

                - Dạ có! Ôi chao! Một đàn cẩu quẩy đang vây cả hai người Thổ. Có con đầu đàn lông vàng bờm sư tử, bọn tôi suýt đụng bầy quỷ nếu không nhờ hai con chó săn khôn. Hai người Thổ dùng đao chém chết rất nhiều chó sói, nhưng con chó đầu đàn thành tinh, chạy như gió, chắc hai người kia khó thoát.

                Tửu Chúa hỏi thêm mấy câu, đoạn vọt ngựa tới chỗ cáng gấm đậu. Thầy trò Võ cũng giục ngựa đi liền. Được mươi bộ, bỗng nghe tiếng trong cáng phát ra một câu hàng chục giọng:

                - Giữ hai tên đó lại! Trẫm ngự vấn!

                Sĩ tốt ào ào rượt theo, hai thầy trò vừa dat ra xa, thì chiếc cáng gấm đã lướt tới nhanh như tên bắn, có tiếng cười thét ma âm:

                - Trai Thổ lấy vải thưa che mắt thánh. Hé hé! Độn trẫm linh ứng như thần, Ma vương xua cá vào lưới trẫm! Vòng xanh đâu? Hai thầy trò biết lộ. Võ Minh Thần vụt nghĩ ra một kế, phát cười lạ lùng:

                - À mỗ thử chút chơi! Ma Quân Bá Diện tinh mắt lắm! Sao không tìm Đổ

                Bác Thần mà hỏi?

                Tiếng cười âm âm nhiều giọng:

                - Hà ha! Trẫm mất hai tháng mới tìm được lão trùm cờ bạc! A! Lão bịp ta, thầy trò ngươi bịp lão. "Bợm già mắc bẫy cò ke"! Vòng ngọc ngươi vẫn giữ. Đưa đây!

                Biết nói dài dòng vô ích, Võ Quát lớn:

                - Nếu định cướp, có giỏi xuất đầu lộ diện đấu với mỗ!

                - Không được! Thánh Quân Bá Diện không cho người thấy rõ mặt. Ngồi trong cáng thánh quân đủ hạ ngươi rồi!

                Minh Thần nghĩ thầm:

                - Coi cáng kia nó trùm kín như buồng tắm, hay nó đúng loài ma quái hồ ly, nên sợ ánh dương ban ngày!

                Bèn thách:

                - Lại cánh rừng kia mỗ bằng lòng để ma quân ngồi cáng! Mỗ không thích bị thủ hạ ma quân bắn lén!

                - Thánh quân gia ân cho tự vệ. Thua, phải nộp vòng, không được hai lòng! Tiếng hú trong cáng phát ra, cả "đám rước" lập tức lùi mấy bộ, im phăng phắc, chỉ có bốn ả gái hau khiêng luôn cáng chạy vù lên cánh rừng xế trước, cách độ bảy, tám chục thước. Tửu Chúa Điện Tiền theo sau. Thầy trò Võ dẫn chó phi tới. Đưa mắt cho Quản Kình, Võ bảo:

                - Dang xa, mặc mỗ giao chiến!

                Quản Kình hội ý, lập tức phóng ngựa, đàn chó đi trước.

                Bốn ả nữ hầu đặt cáng xuống, dạt xa, thấy cáng chơ vơ sát đất, chùm kín.

                Võ cũng nhảy xuống đất thả ngựa cho chạy ra ngoài xa, hô "Đấu bộ cho cân" Tiếng trong cáng phát ra:

                - Vòng đâu? Cho ngươi đánh trước! Võ rút vòng giơ lên rồi cất ngay, nghĩ thầm:

                - Nhát đầu phải dùng dao chém bay vải gấm, trúng cáng mới được! Nghĩ xong định xuất thủ liền, nhưng lại muốn dò xem Ma Quân Bá Diện ngồi chỗ nào, chàng trai liền xẹt xa chừng bốn mươi bộ, ngầm vận điện công, hỏi lớn:

                - Này Bá Âm! Mỗ đứng phơi ngoài trời, ngươi nấp trong cáng trùm kín mít, cuộc đấu bữa nay liệu đã công bằng chưa? Nếu ngươi bắn trộm...

                Có tiếng quát chát chúa phát ra the thé hàng chục giọng đóng búa vào lỗ tai:

                - Mặt lạnh! Nếu quả nhân định bắn lén, thầy trò Thổ vòng xanh mất mạng lâu rồi! Thánh quân không bắn đâu! Mặt lạnh đánh đòn gì thánh quân ra đòn đó!

                Vừa nghe dứt lời, Võ Minh Thần nhảy xẹt chếch vài thước, vung tay phải chém lia một phát xuống cáng! Đường thép Võ thả ra bất ngờ, nhanh hết sức, liễu đao lại từ trong tay áo khuất bay ra, chỉ thấy nhoáng một làn ánh áng cầu vồng, lưỡi thép đã sả tới, chỉ còn cách non gang tay, tưởng sẽ chém bay mũi cáng, nào dè từ trong cáng gấm đã vụt ra một vệt xanh lè quạt trúng liễu đao đến "chát" tiếng khô dòn, khiến Võ Minh Thần thấy tê chồn ca cánh tay, liễu đao bật dội lại hơn thước. Chân cũng vừa hạ xuống, đã sẵn chú ý, Võ đập tay vút liễu đao len chực quật đao, chàng trai phát điện công sang cánh tay trái, thuận tay chụp luôn lấy mép vải trùm cáng lột soat cái từ đầu xuống đuôi.

                - Ơ! Vải trùm vuột tốc, cáng phơi trần, rõ từng đòn dọc, ngáng ngang, khung đan tuyệt xảo, và lòng cáng gấp hiện ra lồ lộ dưới ánh trời chiều... trống trơn! Chẳng có bóng người, vật nào nằm trong đó, hay nói rõ hơn, chỉ có một cái gối sơn son thiếp vàng coi không khác bàn thờ. Như chạm phải điện, Võ Minh thần kêu lên kinh ngạc, thu vội liễu đao, xẹt lùi một bước dài, giương mắt trừng trừng nhìn lòng cáng rỗng, đầu óc đảo điên, tưởng mơ ngủ.

                - Lạ dữ chưa? Rõ hắn vừa léo nhéo xong, sao cáng lại không có người? Quái đản! Không lẽ Bá Diện Ma Quân là con rừng ma núi? Đêm nọ, ta lừa vén vải lên, mỗi lần thấy một hình thù, giờ vén lên lại chỉ có cái gối thờ...!

                Ma quỷ nào lại hiện giữa ban ngày? Đông Âm Bá Diện là giống gì đây? Hay "hắn" là "nhân vật" biết thuật "tàng hình"? Càng vô lý nữa! Chuyện tàng hình xưa nay chỉ là chuyện hoang đường, thời nay làm gì có?

                Chàng trai nghĩ nát óc, đưa mắt nhìn Tửu Chúa Điện Tiền, "sâu rượu" lúc này đã xuống ngựa đứng thẳng người xế sau cáng gấm, vác cây búa lên vai coi như lính bồng súng, và khi thấy Võ lột soạt vải phủ cáng, y bỗng giật nảy mình trợn mắt trừng trừng vươn cổ dòm cái cang không người, vẻ ngơ ngác sững sờ còn hơn cả Minh Thần. Bỗng một cơn gió chiều thổi lùa cáng trống nghe "xoạt" tiếng mạnh, mảnh gấm lại nhảy lên phủ luôn lên cáng kín như bưng. Có tiếng thét nhọn phát ra, giọng nữ thet lảnh:

                - Mặt lạnh! Sao dám tự tiện mở cáng thánh quân? Đêm nọ thánh quân đã tha tội khi quân, giờ sao tái phạm? Muốn "cường toan bạch cốt"?

                Võ Minh Thần đảo mắt nhìn qua, nghiêm mặt:

                - Đông Âm Bá Diện! Ta không ưa kẻ lẩn mình giao chiến! Hãy mau ló mặt đánh với ta!

                Dứt lời, sực nhớ đến cảnh âm binh chiến đêm qua trong động Pi A Ya, chàng trai vội bấm cung bản mệnh, miệng đọc chú, phòng hờ. Chợt nghe tiếng cười ré lên vẫn giọng mơ hồ"

                - Mặt lạnh! Ngươi làm gì đó? Đọc chú hộ thân? Hà hà! Ngốc tử! Ngươi cho thánh quân Bá Diện là loài ma quỷ hồ ly sao? Hà hà! Ngươi bị trành Tây Sắc đuổi, nhìn thiên hạ, ai cũng ra ma. Trẫm sai khiến cả ma quỷ, sao lại là ma?

                Theo tiếng cười, cáng gấm lắc lư đu đưa rồi từ từ bò lên mấy bước, lại trôi về. Võ Minh Thần cứ đứng yên, đảo tia nhãn tuyến quan sát, lại bất thần hét lên một tiếng "sát" như lối đoạt khí của võ sĩ đạo Phù Tang, tung luôn dao chém lia lịa liền ba nhát nhanh như chớp. Cũng như lần trước, "cái mống xanh" từ đâu vọt lên gạt "chát" liễu đao. Võ thừa cơ bí mật đưa trảo chỉ nhón mép vải thử lột "soạt" chuyến nữa.

                Tiếng cười lanh lảnh thé cất lên xoáy óc, hình thù trong cáng vụt hiện ra, đập vào mắt chàng trai, khiến chàng bất giác vọt lùi một bước, thu đao, định thần dòm, sửng sốt. Vì hình nằm trong cáng là một thiếu phụ còn trẻ măng, một nữ lang mắt phượng mày ngài môi son má phấn, trâm cài lược giắt, mặc lối Thổ thái, váy lãnh viền thủy ba kim tuyến, áo bó sát dáng thân thanh tú. Nữ làng nằm nghiêng duỗi chân, chống một tay nhìn ra, vẻ đẹp lộng lẫy uy nghi vẻ các "cô nàng" miền núi, phảng phất nét "bà chúa rừng thiêng" thiên hạ vẫn đồn thấy hiện trước miếu linh đêm trăng ngàn.

                Vì lúc này trời chiều còn sáng tỏ, Minh Thần nhìn rõ từng đường nét, chàng trai vừa nhác diện mạo, là hồi tưởng ngay lại khuôn mặt chàng từng thấy đêm nọ trên đường hồ Ba Bể Bắc Kạn, hình nữ nhân uy tợn đẹp đến rợn người.

                - Nhan sắc phi phàm... Hồ ly yêu mị hay quỷ quái tà tinh? Ôi chao! Nếu mình lừa lột thêm phen nữa, chắc lại thấy một con Hồng Cẩu Quẩy nằm trong cáng đó thôi! Việc ai nấy lo, hơi đâu khám phá, ganh đua hơn thua với "hắn".

                Chàng trai nghĩ vừa dứt, bỗng "soạt" gấm chùm kín, tiếng dị hắt ra chói tai:

                - Mặt lạnh! Trời muộn rồi! Đưa vòng đây! Tây Sắc sắp tới! Võ Minh Thần nghe "Tây Sắc sắp tới", vội nghiêng đầu lắng tai, bỗng dội lòng, nghe từ nẻo bên kia rặng núi về phía Đông Nam, vụt có tiếng tru hú xa xăm nổi chìm trong hơi gió rừng chiều, chàng trai lập tức chém bậy một nhát rồi xẹt mình hú gọi, chạy vụt về phía con ngựa, miệng nói lớn:

                - Đợi đó! Mỗ còn quên món bửu bối phải đi lấy! Chạy được mười bước, bỗng nghe léo nhéo hàng chục giọng nam phụ lão ấu hét sau lưng, "véo" luồng gió vút theo. Võ xẹt ngang tránh, tung đao đỡ "chát" trúng "cái móng xanh", dòm lại cáng không người khiêng bỗng chạy vùn vụt rượt theo. Chàng trai vừa chạy vừa nhót lên lưng ngựa, phi như gió trên đường mòn xuyên thung. Võ Minh Thần nhờ ngựa hay, chạy thật nhanh trông lại, thấy lão Điện Tiền Tửu Chúa cũng nhảy ngựa xua quân nam nữ kim cổ rượt theo, tàn vàng tán tía cuộn như gió. Trước đám quân dị, cáng gấm vượt đi trước đuổi. "Nó" lúc đầu còn lướt trôi trên cỏ như có người đẩy bánh xe, đi được một quãng bỗng thấy "nó" nhảy lên chồm chồm, vọt đi như tên bắn, có lúc nhấp nhô bốc cao trên mặt đất đến hai thước, mép gấm phủ tua kim tuyến, dải rèm sặc sỡ bay lộng phấp phới, coi rất quái gở. Thoắt, "nó" đã chồm theo chỉ còn cách bảy tám chuc bộ rồi năm sáu chục, hét giọng nữ:

                - Mặt lạnh! Ngươi không thoát nổi đâu! Đưa thánh quân mượn còn hơn lọt vào tay Tây Sắc quỷ mắt đỏ nuốt sống cả người.

                Võ ngoái cổ lại cười lớn:

                - Nếu vậy cho nhà ngươi mượn, no lại ăn cả cáng gấm, mỗ đâu đành lòng. Lời vừa dứt, ngựa đã lao vào một kẽ đồi rậm, vụt từ khóm lá um tùm, có một họng súng chĩa ra khạc luôn một tràng vào cáng gấm. đúng lúc cáng vừa tới đầu hàng, "tặc tặc" đan trúng dọc từ đầu tới cuối cáng, quật cáng bốc lên cao móc vào cành cụt đu đưa.

                Từ trong khóm lá Quản Kình vọt ngựa ra chạy theo Minh Thần, ngoảnh lại nhả thêm loạt đạn nữa, bắn tung cái cáng lên, giẫy mạnh. Kình kêu lớn:

                - Cậu hai à! Trúng đạn rồi! Minh Thần gò ngựa, lấy ống nhòm, coi lòng hồi hộp thoáng ái ngại đã bày kế phục bắn tự vệ hơi ác, bỗng giật mình, thấy cái cáng nhảy bọt xuống bụi mất dạng, rồi tiếng Bá Âm hét gai gai:

                - À thằng mặt lạnh này thâm độc, lừa tao tới bắn trộm. Vậy thánh quân phải hồn cả thầy trò mi!

                Dứt lời, đã thấy từ trong bụi rậm bên đường một luồng sáng xanh lè bay vù ra, chém xả xuống đầu hai người. Võ Minh Thần đã kịp đề phòng, lập tức tung đao liễu đỡ gạt. "Chát"! Cả hai luồng sáng bật văng ra tóe lửa. Minh Thần thấy rúng động cả chân thân, chém bừa một nhát, giục ngựa phi.

                Quản Kình chạy về trước, ngoái lại bắn đan một loạt, vụt kêu giật:

                - Rạp xuống!... Cậu hai! Võ Minh Thần vừa lao cúi xuống đã nghe "xoảng, xoảng" mấy tiếng khô xẹt như vãi đâu quanh mình, mũi bị khét lại, tạt thốc vào nhức óc. Dòm sang, thấy Quản Kinh vừa nhổm dậy, vành khiến úp nửa mình người ngựa, dưới ánh sáng chiều, vừa hiện ra mấy lỗ thủng sâu hoắm xuyên qua vải bọc, thép, có lỗ còn nguyên giọt nước đang bốc khói. Quản Kình dòm sang chủ, may mũ, khiên khoác sau lung che kín, mặt khiên cũng có mấy lỗ thủng khét mù.

                - Cường Toan Bạch Cốt!

                Hai thầy trò vội giục ngựa chạy như giông, ngoái trông lại đã thấy cáng gấm rượt theo, phía sau tàn vàng tán tía lố nhố, súng nổ, tên bay, giáo phóng theo vun vút.

                Hai người rạp mình phi, chạy qua hai con thung lũng nữa, bong tới một chỗ rẽ. Hai con Hắc Bạch cẩu lập tức dẫn hai con ngựa lao thốc vào vùng cây cỏ um tùm, xuyên thung chạy miết.

                Cũng may nhờ chó tinh khôn, ngựa chạy không bị vướng bờ bụi, cây gai cứ thế xuyên qua mấy cánh rưng. Dòm lại thấy sau lưng vắng lặng, hai thầy trò mới yên trí đã đánh lạc đường được "con ma trăm giọng".

                Vừa toan hạ nước ngựa, sực lại nghe tiếng sói tru xa xa xế mạn rừng tả, hai thầy trò không dám chậm trễ, cứ giục ngựa, chó đi miết.

                Băng qua một con suối trong veo, hai người bắt vào một con đường mòn, trong ra thấy đang đi vào một cánh rừng rất đẹp tuy đang vào độ cuối đông nhưng hoa cỏ tốt tươi, như vào tiết xuân thiên, tứ phía xa xa bản thổ rải rác lưng đồi, núi đá trập trùng, suối khe róc rách, gà rừng gáy êm đềm.

                Ngựa vừa đi qua một ngọn núi, vụt ra một thung lũng đầy hoa lạ, tùng bách xum suê, suối tuôn róc rách. Cảnh phong quang kỳ tú đột hiện giữa rừng già khiến hai người thấy nhẹ hẳn tâm thần, hạ nước ngựa, đi bước một, nhìn cảnh trí. Quản Kình thường qua lại miệt biên, cũng chẳng rõ đây là miền nào, chiếu hướng mặt trời lặn, bảo chủ:

                - Ta đã lạc hướng Tây Bắc đi Thanh Âm rồi! Miệt Thanh Am ở miền Chang Poung cùng hướng Đồng Văn, còn đây ta tạt về phía Đông Bắc. Đi loanh quanh nãy giờ, có lẽ đang chạy đến miệt Coc Pan, Loung chi đó.

                Nhận thấy lối mòn xuyên sơn chạy về miền Tây Bắc, Võ Minh Thần bảo Quản Kình:

                - Vậy ta cứ đi theo ngã này đi, chừng tối sẽ liệu kiếm chỗ trọ hỏi thăm. Ma Quân Ma vương chắc đang sục sạo phía sau ta, càng xa hơn càng tốt.

                Hai thầy trò tiến qua thung lũng đẹp. Khỏi thung, lại đến cảnh thổ khác còn đẹp hơn. Đang thả bước một giữa rừng, bỗng Võ Minh Thần nghiêng tai bảo:

                - Chú Quản à! Sắp tới bản động thổ dân rồi. Chú nghe thấy tiếng gì không?

                Kình nghe, kêu:

                - À tiếng kèn đám ma!. Bản động này có người chết.

                Ngựa đi thêm quãng nữa, quả nhiên càng nghe rõ âm thanh chìm nổi đàn dây, chờn vờn, thê lương kỳ lạ. Lúc đầu nghe còn phân biệt được âm phát từ kèn Tàu ra, sau không còn là âm kèn nữa mà như tiếng người khóc than tỉ tê, nức nở, rõ tiếng đàn ông, rồi giọng đàn bà, rồi đủ mọi hạng nam phụ lão ấu cũng than khóc thảm như cha chết.

                Rồi không phải tiếng kèn táng nữa mà kể nghe thấy rõ kèn đám tang y, chính "y, hồn y" đang khóc còn thảm hơn chết cha chết mẹ, chết chồng... Người ngựa, chó vụt đứng im nghiêng tai rũ đầu nghe âm giai khóc lóc như mưa. Và tự nhiên Võ Minh Thần, Quản Kình vùng sa nước mắt, ngựa chó cũng ngẩn ngơ ứa lệ ròng ròng như khóc kiếp khuyển mã phù du...

                - O o è ý o... ý ý e ý ò... ý e... Tiếng kèn đám ma nức nở ò e càng lúc càng như lăn lộn kêu gào thê thảm, tưởng chừng cây cỏ núi đồi cũng sắp khóc theo. Bỗng âm thanh ré lên trong tai rồi chợt tắt, dư âm rên rỉ mãi không thôi. Hai thầy trò Võ Minh Thần bàng hoàng nhìn nhau, cùng lau nước mắt. Mấy khắc sau thở phào:

                - Tiếng kèn gì mà thê thảm đến thế? Còn thảm hơn kèn lão Đổ Bác Thần thổi đêm nọ... Hình như có cả Lâm Khốc

                - Mà lạ thật! Không lẽ đây có bản người Kinh? Chỉ người Kinh mới thổi kèn "Lâm Khốc".

                Đang bàn, bỗng tiếng kèn thê lương lại cất lên, lần này càng bi đát hơn, âm nức nở nghe rõ chính người thổi kèn đang đưa đám y, làm mấy con vật cứ thở phì phì, nước mắt chảy ròng ròng.

                Bị óc tò mò thôi thúc, hai thầy trò Võ bèn giục ngựa lần theo tiếng kèn. Tưởng gần, không ngờ lần qua một cánh rừng, một rặng đồi nữa mới nghe rõ hướng phát âm, tiếng nghe ồ ồ như cả chợ người chõ vào tai mà khóc, khiến cả hai phải bịt tai lại.

                Nhìn lên, thấy bóng người ngồi trên một ngọn núi cao độ bảy tám chục thước, đang thổi kèn. Chung quanh chẳng có nhà cửa bản động nào cả, không kể những mái sàn thổ dân rải rác tít lưng đồi xa. Ngọn núi này lẫn đất đá, tùng bách xanh um, có một con thác đổ trên cao xuống cuối thung, hình như một con hạc cúi đầu uống nước. Người thổi kèn xoay nghiêng về phía thung, mặt hướng về phía tây.

                Bỗng Quản Kình thì thào:

                - Cậu hai à! Coi hình kia... đâu phải người? Coi như con ma thổi kèn. Võ vội chiếu ống nhòm, hơi nhíu mày lại. Vì trong ống kính hiện rõ hình trắng toát, chẳng có đầu mình tay chân gì cả, có thể nói chỉ là một khối vôi "ngồi" lù lù coi như một đụn da với một hình loa kèn thò ra trên ngọn.

                - Phiến đá vôi? Không phải. Y coi như người ngồi trùm chăn... à. Lạ dữ! Chú trông ngựa, chó để tôi thử lên coi. Võ nhảy xuống, dắt ngựa vào chân núi, và mot mình dùng thuật khinh thân bám mỏm đá leo lên, phía gần dòng thác đổ qua. Thoáng đã đến nơi, Võ bắc đá, nương cây, nhô lên dòm, cách độ hai mươi bộ.

                Chỉ suýt nữa, Võ Minh Thần đã buột miệng kêu kinh ngạc. Vì hình thù trắng toát ngồi kia, coi đúng là một "con ma thổi kèn". Đứng xa tít dưới thung trông giống dân Ả Rập trùm khăn trắng sa mạc, giờ cách hai mươi bộ, trông khác hẳn, chỉ là một khối trắng như vôi tỏa vây giữa cảnh chiều sơn lâm. Người bạo gan nhác thấy cũng phải rợn. Nhất là tiếng kèn đưa đám của "nó" phát ra nghe thê lương quái gở lạ lùng đúng tiếng "ma kêu quỷ khóc". Nín thở, định thần cho lòng khỏi xao xuyến đảo lộn vì "tiếng kèn ma", chang tuổi trẻ chú mục dòm từ trên xuống dưới, bỗng lại thêm kinh dị, thấy cái khối trắng lù lù chỉ là một khối mây mù đặc sệt quánh lại như bột, phải nhìn lên đến mười khắc mới thấy rõ lớp mây sệt này cuộn đậm nhè nhẹ gờn gợn và tan từng chút một mỏng như sương mai.

                Võ Minh Thần nhô hẳn lên sau khóm lá cành, nhìn chăm chú phía dưới khối trắng, chợt lại ngạc nhiên nhận ra khối trắng này đang rỏ nước tong tong xuống bàn thạch, không khác một tảng nước đá đang tan dần. Và cùng lúc đó chàng mới chợt cảm thấy thân mình lạnh lẽo lạ thường, mặc dầu lúc đó đang mặc quần áo ấm.

                Bèn đưa mắt quan sát khối kỳ dị kia, mới hay cành lá hoa cỏ xung quanh đều lấm tấm hư ảm hơi sương, chàng liền vận nhãn tuyến ngó thêm, mới khám phá ra khối lạ ngồi kia chính là một khối băng tuyết có hình người trông không khác một hình tượng đã bị tuyết đọng phủ kín vậy.

                - Lạ dữ chưa? Khối tuyết thổi kèn... là cái chi đây? Chẳng lẽ ma rừng hiện giữa ban ngày? Thường ma quỷ thuộc âm, mấy khi hiện lúc còn nhiều khí dương?

                Tò mò hết sức, Võ Minh Thần lập tức khom mình chen dưới ghềnh, nhô lên dòm xế trước mặt "khối tuyết". Và lại một phen phát rợn, thấy khối tuyết này càng giống hệt hình người ngồi, tay đang cầm kèn thổi, nhưng cả hai cánh tay cũng chỉ là hai cánh tay nước đá rỏ tong tong, ngay cả kèn cũng ướt đầm đìa, đọng đầy tuyết. Đến cái mắt lại càng gớm ghiếc, vì là hình mặt người nhưng giống hệt một cái đầu tượng mới khắc sơ hình, không tai không mũi không mồm, hay nói đúng hơn nó là một cái đầu tuyết cục đang bốc khí lạnh như sa mù, co hai lỗ mắt, hai lỗ mũi và một lỗ mồm ngậm kèn thổi. Hai lỗ mắt lại càng ghê, vì là hai cái lỗ xếch đỏ tựa như than tàu, xếch như mắt hùm beo "ăn" đèn săn, long lanh như cũng có tuyết đọng bên trong.

                Tuy nhìn nghiêng, Võ cũng cảm rõ hai lỗ mắt đỏ kia phát ra một thứ uy lực dị thường va theo nhịp kèn thê lương, màu đỏ đang chuyển sang màu tím rồi ngả sang màu trắng, thứ màu trắng của một khối thép nung lò nóng quá độ.

                Tiếng kèn càng lúc càng có sức lôi cuốn lạ lùng, từ thê lương thống thiết, âm dị đang chuyển dần sang thảm thê đau khổ đến rùng rợn, tưởng chừng tích ẩn cả ngàn vạn nỗi kinh sầu ghê gớm của kiếp phù sinh tang tóc mất mạng "không cách nào thoát nổi trước oai lực trùm vũ trụ của Hóa Công".

                Gọi là tiếng kèn nhưng thực ra không còn là âm thanh nữa. mà nó đã hòa hợp vào hồn người để thành như "tiếng nói riêng", "ngôn ngữ thanh âm" mà bất kể sắc dân nào, người nào nghe thấy cũng linh cảm thấy ngay như đang nghe tiếng nói của sắc dân nước mình vậy.

                "Quái gở! Khối tuyết thổi kèn? Chẳng lẽ con ma tuyết thổi kèn. Mà sao trên đời này lại có thứ âm thanh cung điệu thê lương bi thống đến thế này? Hình thù tuyết kia rõ ràng phải là một linh hồn cực kỳ minh mẫn, ôm ấp tâm sự buồn đau ghê gớm lắm, mới có thể thổi được nhịp kèn thảm đến thế. Tiếng kèn phi phàm".

                Chàng trai nghĩ vẩn vơ, nhất thời chưa hiểu "nó" thuộc chủng loại gì? Khoáng sản, tinh quỷ vật, ma quái, chợt nảy ra ý táo bạo, thử dùng điện công đưa tay sờ thử hình thù xem sao, nhưng lại do dự chưa dám khinh suất, hình thù tiếng kèn ma đã im bặt. Rồi bàn tay tuyết hạ cây kèn xuống vẩy luôn hai, ba cái. Tuyết rơi lả tả rào rào xuống nền lá vụn, có hòn bắn vãi tới chỗ Võ Minh Thần. Bỗng có tiếng người nói ồn ào:

                - Ôi! "Con ma" này ngồi gần ngươi đã rét như ngồi trên bắc cực, nghe ngươi thổi kèn không ai muốn sống nữa. Cứ như người cõi đời này mà một đám ma, chán chết. Thôi! Thôi, một giờ ta giao ước lại: Phải thổi bản nào vui tai chút!

                Võ giật mình ngó quanh, không phải khối tuyết nói, nhưng ngay khi đó lại nghe khối tuyết phát âm, giọng xa xăm như từ cõi nào "vọng" về.

                - Quỷ tướng phương Tây. Cõi Linh Nam này can dự gì đến phương Tây màcác ngươi sang cướp. Các người làm người ta vong quốc, lại còn muốn người ta vui được ư? Lại còn kiếp nhân sinh phù thế, người bảo Lĩnh Nam như ta đây, không thổi kèn đưa đám sao được? Gặp ta là quỷ phương Tây có duyên đó. Người khác, ngươi phải nghe kèn đồng, đâu được nghe kèn đám ma? Chớ nhiều lời, tránh đi cho sớm ngươi chỉ được nghe kèn đám ma. Mà ngươi không thể làm cho người ta vỡ màng tai được sao?

                Có tiếng cười khà, lần này tiếng ồm lệnh vỡ, có tiếng Kinh lơ lớ hơi khó nghe:

                - Ma phương Nam! Chẳng nên nhắc tới chuyện mất, còn. Thịnh suy bĩ thái sinh thành trụ diệt chẳng qua cửa tuần hoàn... Chẳng nên làm con ma oan nghiệt với ta cho mất giao tình. Ngươi cũng biết ta lặn lội khe sâu rừng thẳm, cũng chỉ vì không muốn thiên hạ chết oan mà. Ôi rất tiếc ngươi lại buộc ta phải thi tài mới nghe ta. Khốn thay cho dân miền núi, dân Lĩnh Nam.

                Võ Minh Thần nghe trộm thấy rõ có hai kẻ đối thoại nhau, gọi nhau bằng "ma", "quỷ" lòng kinh, nghĩ thầm:

                - Nghe tiếng rõ một kẻ nói giọng ta, một kẻ nói giọng Tây thì phải. Hình như "con quỷ" đang cầu "con ma" giúp điều quan hệ đến vận mạng dân gian thì phải... Lại còn nhắc đến... à... Có lẽ...

                Vừa nghĩ, vừa đảo mắt dòm quanh từng tảng đá, khóm cây, vẫn chỉ thấy một khối tuyết lù lù, bỗng nghe tiếng ồm ồm phát ra từ một bui hoa dại xế trước mắt khối tuyết, Võ Minh Thần vội chú mục dòm, chợt phát giác có một bóng người ẩn hiện giữa hoa lá.

                Vì bóng ma này xanh, nhòa vào bóng lá xanh che gần trọn hình, nhìn thật kỹ mới thấy nổi, bèn rút ống nhòm nhìn mới hay trong lá có một người to lớn ngồi sừng sững, tay cầm một cái ba toong gộc, bên mình lại đặt một khẩu kích pháo và một cái túi rất lớn.

                Nhìn quanh lại phát giác thêm con ngựa đứng sau phiến đá lớn, vì rặng núi này là núi đá pha đất nên cây cối cỏ hoa xanh um rất khó thấy.

                Chợt nghe tiếng hô "Nào! Pháo đầu", tiếp theo tiếng "cùng pháo đầu". Võ Minh Thần bèn nghểnh cổ nhìn phía trước mặt ai hình thù, chẳng thấy gì ca, lúc đó mới hay hai hình thù kia "đánh cờ tướng". Trong "nghề" chơi tài bàn, tổ tôm, cờ tướng, phàm chơi được tổ tôm, tài bàn, chơi cờ tướng phải là tay cao thủ, "nhập tâm" quen mới không lầm lẫn. Võ Minh Thần vốn tay ky nhân có hạng từ nhỏ, nên vừa gặp cảnh đánh cờ tướng là "dính" luôn, nhập tâm từng nước cờ liền.

                Chàng trai chăm chú nhìn hình xanh, nhận ra đó là một người mặt đỏ, râu rậm, mũi cao, tóc râu ngô, đúng là người Tây phương. Hai con mắt mèo xanh biếc, tuy khuất nhiều giữa hoa lá những coi vẫn lộ vẻ oai, râu xồm coi tướng nói tính nhưng hai con mắt xanh biếc lại hiện rõ tinh khôn hết sức. Bất giác, Võ nghĩ:

                - Chẳng lẽ một con quỷ Tây đánh cờ với một con ma ta? Lạ thật! Hình tuyết kia giống hệt một câu cụ Nguyễn Du đã tả hồn Đạm Tiên trong truyện "Kiều". Sương in mặt, tuyết pha thân... Coi đúng hình thù ma sương tuyết.

                Bỗng nghe "quỷ" Tây chợt hỏi:

                - Ma phương Nam. Liệu "nó" có tới không? Sao nghe... im lìm thế? Hình thù tuyết khối phát âm, vẫn xa xăm lạ:

                - Ta đã nói "nó" sắp tới, thế nào "nó" cũng tới. Ta còn biết: Cả hai tên kia cũng có mặt. Quỷ Tây không cần hỏi vội. Ta chưa nhận lời mà.

                Bóng xanh cao than:

                - Ma phương Nam! Ngươi biết không? Ta đã tìm bao năm vẫn chưa gặp Tây Sắc Ma Vương, bữa nay "nó" lần tới vùng này, là cơ hội ngàn năm. "Nó" không được nghe kèn đám ma, kể tiếc cho dân gian mấy cõi lắm. Tiếc cả cho ngươi nữa, ngươi đưa đám "nó" mới phải. Ôi! Không ngờ lòng sầu thảm thanh cao mà lại ít từ tâm đến thế!

                Minh Thần nghe bốn tiếng "Tây Sắc Ma Vương" bỗng giật mình kinh dị:

                - Sao y lại có thể biết rõ Tây Sắc sắp đến đây? Ôi chao! Nếu vậy kia có le là hai con ma rồi! Xem ý, bóng xồm mắt xanh kia muốn cầu hình tuyết trắng diệt Tây Sắc thì phải. Nếu Tây Sắc đến đây, với đàn quỷ bốn chân, chắc... nguy dữ à...

                Lại nghe hình tuyết phát âm:

                - Này quỷ phương Tây! Chính ra ta cũng chẳng yêu gì "thằng quỷ sói hiếu sắc" đó. Nhưng tính ra sòng phẳng, nó không sinh sự, ta chẳng muốn sinh sự. Nhưng ta e lần này nó dám sinh sự lắm. Vậy ván này quyết định. Nếu ngươi ăn, ta sẽ giúp ngươi một tay, miễn nhà ngươi chớ động tới "của quý" của ta đó. Ôi không ngờ ngày nay ta lại có hy vọng cưỡng nổi luật thiên địa. "Xe hà".

                Bóng xanh mắt mèo kia cất tiếng ồm ồm:

                - Ồ! Điều đó chớ ngại. Nhưng một kẻ tử tế như nhà ngươi sao lại tham tài vật của người, kể cũng lạ. Ta chắc "món đó" phải có gì đặc biệt lắm. "Tốt ba"!

                Cứ thế hai hình dị vừa đánh cờ, vừa nói chuyện. Võ Minh Thần nấp nghe giây phút, thì xanh mắt mèo đã lâm vào thế bí, nghĩ mãi không ra được một nước. Bỗng nghe hình thù tuyết giục:

                - Quỷ phương Tây! Tụi nó sắp kéo đến vùng này rồi. Nhà ngươi đi nhanh lên mới được. Này! Có cả "con ma trăm mặt" nữa đó.

                Minh Thần nghe hình tuyết trắng ngồi trên mỏm núi khuất, mà coi cứ như ma xó, biết cả Bá Diện Ma Quân sắp tới, chàng trai càng cho là lạ, nghĩ:

                - Ôi chao! Y là giống chi mà thần thông đến thế? Xem tình thế này, ta bị bọn Tây Sắc, Đông Âm theo sát, chúng lại có đàn quỷ vật, quân gia, ta cự sao nổi. Ma quỷ đánh nhau mới nổi. Sao mình không kiếm cách làm cho "con ma tuyết thổi kèn" xuống chặn Tây Sắc, Đông Âm.

                Ngay lúc đó, chợt từ nẻo xa xa lại có tiếng tru hú lê thê cất lên mơ hồ trong gió chiều. Võ Minh Thần nảy ra một kế táo bạo, lập tức bế tòa nhân diện, bíu đá men vòng lại sau chỗ bóng xồm mắt mèo, quan sát địa thế, thấy chỗ y ngồi hoa lá cành xanh um, lại có những phiến đá nhấp nhô sau lưng, chàng trai cả mừng bèn bò luôn lên mặt đá lẩn, phục sát phía sau. Càng gần càng rõ y đúng là một người Tây, mặc binh phục có gắn phù hiệu hẳn hoi, mỗi bên cầu vai có hai ngôi sao, cấp hiệu tướng, y khoác một chiếc măng tô dạ màu cứt ngựa, chiếc mũ đặt trên túi rết.

                Võ Minh Thần bất giác thêm ngạc nhiên, sau khi nghênh ngó một hồi, nghĩ:

                - À một viên quan võ tướng nhà nước Đông Dương. Lạ dữ chưa? Quỷphương Tây này lại là một vị tướng tây. Ma Tây chăng? Có lẽ không phải. Chỉ là tiếng gọi đó thôi. Xưa trong sấm, Trạng Trình thường gọi bóng thế, thiên hạ quen miệng đi.

                Lúc đó, bóng sâu mắt mèo bỗng lại bị lâm vào thế bí, gỡ không ra. Hình thù tuyết trắng vùng than:

                - Ôi! Vậy là lòng trời đã định tự lo lấy việc riêng. Không cho ta dự vào. Quỷ phương Tây chớ trách. Mau lên! Ta còn thổi kèn cáo biệt.

                "Quỷ phương Tây" ngồi bóp trán nghĩ mãi không ra nước gỡ bí, y gầm gừ như con thú bị sa bẫy, than:

                - Tiếc thay! Nếu ta, ngươi hợp tác ma quái còn lộng hành giết hại người ta sao được. Hừ hừ giận thay ta không phải tay cao cờ, chẳng có hồn Trương Ba nào phụ nhĩ?

                Võ Minh Thần vốn tay cao cờ, nãy giờ đã nhập tâm hét các nước đi của đôi bên, bèn dùng thuật truyền âm rót vào tai "quỷ phương Tây".

                - Mã giằng! Viên tướng Tây đang ngồi nghĩ, giật nảy mình, ngơ ngác nhìn lại, điềm nhiên như thường vờ quay lại, với túi lấy "xì gà hút" để dòm nhưng Minh Thần lấp khuất sau phiến đá, y không thấy nhưng cũng hô "Mã giằng". Minh Thần lại "phụ nhĩ" tiếp.

                - Pháo giác!

                Viên tướng Tây lại hô "pháo giác" tuy cũng chưa rõ nó hay ở chỗ nào.

                - Ôi chao! Vừa nhắc đến Trương Ba đã có ngay lời "phụ nhĩ". Chắc có hồn ma cao cờ qua đây giúp ta đây.

                Y lẩm bẩm, thỉnh thoảng lại quay dòm. Không quá năm, sáu nước, hình tuyết kia bỗng bị dồn vào thế bí. Hình tuyết vùng kêu:

                - A! Quỷ phương Tây! Nhà ngươi lại có thể đi được mấy nước cờ tuyệt diệu thế sao? Chuyển bại thành thắng? Lạ dữ! Lạ dư.

                Bỗng viên tướng Tây vuốt râu cười lớn.

                - Cũng như việc binh bất yếm trá, xuất kỳ bất ý, công vô vi. Ha ha! Ván này nhà ngươi thua đến nơi rồi.

                Võ Minh Thần nấp sau lưng "quỷ phương Tây" chỉ sợ bại lộ, vì phàm các loai ma quái tinh tiệm cùng những giống linh vật, kỳ nhân dị khách thường rất thính giác quan, có thể phát giác sinh vật ngoài vài mươi bộ.

                May sao "ma phương Nam" kia vì cả khối tuyết sương bao phủ nên hút hết các nguồn điện lực, không bắt được các âm ba ngoại, chẳng khác một chiếc tàu ngầm lặn dưới băng dương, bao nhiêu máy vô tuyến điện đều hóa vô dụng, chỉ còn cách liên lạc bằng khoa học siêu hình nhờ các tà thuật sĩ thần giao cách cảm.

                Lại thêm Võ đã bế hết nhân điện, không cho phát tán nhiều. "Ma phương Nam" mải tính nước cờ, tuyệt không hay biết nên chàng trai cứ núp kín mách nước "quỷ phương Tây". Quả nhiên, thêm một, hai nước nữa "ma phương Nam" đã bị rút vào thế hoàn toàn bại, nghĩ nát óc không gỡ nổi.

                Võ Minh Thần nhìn trộm sang, thấy sương mờ càng lúc càng bốc tỏa mù, nước rỏ tong tong đẫm cả thạch bàn, chảy lênh láng cả xuống dưới, chàng trai bất giác nghĩ thầm.

                - Quái! Y là thứ chi mà xem chừng càng nghĩ, tuyết càng tan mạnh. Không khác khối nước đá gặp khối nước nóng, rõ ràng y đang tiêu hao chân lực vì vận nhiều chân hỏa. Lạ dữ! Biên thùy hồi này sao lắm quái nhân dị vật thế?

                Đang thắc mắc bỗng nghe khối tuyết phát âm:

                - Quỷ phương Tây! Ván cờ này ngươi toàn đánh thế lạ, cứ như lối chơi này, ta tưởng không phải ngươi đánh, coi đúng ngón "hồn Trương Ba da anh hàng thịt". Đế Thích nhập vào hại ta đây. Phải nhà ngươi được "kỳ thần phụ nhĩ"?

                Võ Minh Thần nghe dột cả tai, lật đật lùi lại xuống bờ núi, chợt nghe "quỷ phương Tây" cười lớn:

                - Thần kỳ phụ nhĩ? Ôi ngươi nói nghe lạ tai dữ à? Ta đây chơi cờ tướng ca đời lại không có được vài thế bí truyền chơi với ngươi sao? Thua chứ? Hình thù tuyết càng rỏ nước nhiều, bỗng y vung mạnh một cái, than:

                - Ôi! Ta thua ván này rồi. Chuyện đời đã gác bên tai, lòng như băng tuyết, nay ta lại phải lao đầu vào cảnh sinh sự sự sinh rồi. Ôi! Ta biết phù du, còn phải tranh đua chém giết, tưởng ngu nhất là ta.

                "Quỷ phương Tây" vuốt râu cười ngất:

                - Ma phương Nam! Ngươi chán kiếp phù du sao còn ham "bảo vật"? Hình tuyết bỗng đổi giọng kêu:

                - A! A! Nhà ngươi khong hiểu chuyện đó đâu! Chẳng phải ta tham lam bảo vật đâu mà cả mấy cõi âm dương này, còn bao giống theo đường đó. Ôi! Ngươi nhắc đến ta lại bắt đầu vui rồi, đổi cả ngai hoàng đế, cũng không bằng. Để ta thổi một bài đưa ma tụi nó, rồi ngươi hãy ăn mừng.

                Lập tức tiếng kèn đưa đám lại cất lên, thê lương bi thảm như ma quỷ hàng bầy than khóc trong tai người ta. Võ Minh Thần ghé mắt dòm, thấy hình tuyết đang ngửa mặt thổi, lúc này khối tuyết bay mù mịt che kín cả cái kèn, xóa gần trọn cả hình thù dị.

                Bỗng nhiên tiếng kèn chuyển âm khác hẳn. Mỗi tiếng nghe tựa gió gào mưa hú, búa dùi xiên vào lỗ tai, không còn thê lương não ruột như trước nữa mà vụt trơ nên uy mãnh vô cùng. Chỉ trong phút giây, tiếng kèn phát ra chẳng khác một tràng súng bắn vào màng tai, thân thể người ta, khiến bóng người râu xồm mắt mèo vùng đưa tay bịt lỗ tai, la lớn:

                - Ma Nam này! Sao tự nhiên ngươi lại dở chứng thổi kèn khiếm nhã. Định đóng búa vào tai ta sao?

                Võ Minh Thần cũng lật đật vận vội điện công chống lại từng loạt "đạn âm thanh" bắn vào mình. Bỗng chàng trai giật nảy mình, chợt thấy hình tuyết kia trỏ thoc loa kèn về phía mình, hai lỗ mắt chiếu tia lạnh buốt, âm đang chìm nổi, bỗng "ồ, ề", từ trong loa kèn bắt phọt ra một mớ tuyết vụn trắng xóa như bông.

                Vốn phản ứng nhanh, chàng trai vội thụp đầu tránh. Chát! Chát! Chát! Tuyết vụn bắn trúng mép đá, cành lá, "véo" trốc đầu chàng trai. "Chíu" như đường đạn đi, làm đá vung, cành lá bắn rào rào, rụng cả xuống đầu, mình chàng.

                Tiếng kèn im bặt. Võ núp dưới thanh đá chợt nghe tiếng hắt ra am u đúng giọng hình tuyết:

                - Này chú Thổ kia! Sao nấp đó? Nghe trộm, nhìn trộm, đánh trộm? Lên chơi. Không lên ta bắn xuống chân núi.

                Bỗng có hiệu "quỷ phương Tây" hô to hình như có ý nói ngầm với kẻ vừa mách nước cho mình:

                - Này Nam Khấp! Nhà ngươi nói gì lảm nhảm. Ai còn lạ chi tính ngươi ưa giết người kỳ ngộ, mà lại nấp nghe trộm tiếng kèn đám ma của nhà ngươi! Thôi! Để ta làm phát ăn mừng.

                Võ Minh Thần nghe rõ lời "quỷ phương Tây" vừa hô lớn, chàng trai bỗng dột lòng, xúc động:

                - A! Nam Khấp. Hình thù con ma tuyết ngồi kia chính là Nam Khấp, một trong "Nam phương tứ dị" khét tiếng biên thùy. Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu! Nhân vật thần bí này đã dậy cho lão Đổ Bác Thần thổi kèn đám ma, vậy mà ta chậm đoán ra. Cư như lời "quỷ phương Tây" kia vừa nhắn, Nam Khấp này tính nết khó lường, gặp y chắc hung nhiều cát ít. Nhưng không biết bóng quỷ đen hai sao kia là nhân vật nào? Ngươi hay ma quỷ? À thôi. Nếu vậy có lẽ y là...

                Vừa nghĩ đến đấy, bất thần nghe "cạch, bùng" liền hai phát đại pháo như trời long đất lở, đá vụn rơi rào rào bên mình Võ. Chàng trai vội nép mình dòm lên thấy ngọn núi xế trên nổ bay liền thêm cái chỏm, đá lại vãi tứ tung, bèn nho lên nhòm, thấy người có hiệu quỷ phương Tây kẹp khẩu kích pháo tám mươi vào hai đầu gối, tay chụp một viên đạn có cánh quạt hô như lệnh vỡ:

                - Nam Khấp! Coi chơi! Bên kia thung lũng có cái chỏm núi tựa cái đầu con chó sói, thấy rõ chứ? À! Ta bắn phát này, trước chúc Nam Khấp chiếm được bảo vật như sở ý, sau gửi Tây Sắc, nếu cái đầu đó là Tây Sắc.

                Võ Minh Thần liếc vụt theo, quả nhiên tít bên kia thung lũng, rặng núi đá ôm lấy cánh rừng Quản Kình đang ẩn, có một chỏm núi đá nhỏ giống hệt đầu con chó sói đang đớp trời, cách chỗ đầu núi này ít nhất khoảng hai cây số. Nhưng khi chàng trai vừa kịp nhận ra, thì người râu xồm mắt mèo hai sao đã thả "cach" viên đạn lớn vào miệng súng. Tiếng đạn cánh quát xé gió xế trốc đầu Võ, tiếp theo một tiếng "bùng" chát chúa, ngọn "cẩu đầu sơn" kia vụt biến mất.

                Vốn tay thạo nghề bắn, Võ Minh Thần không khỏi rúng động tâm, tham nghĩ:

                - Ồ..."Quỷ phương Tây" kia quả tay thần xạ có một không hai trên đời về môn "đại pháo". Bắn pháo kích, lấy mắt lượng giác đo tọa độ, bắn trúng con trâu, con dê cách hai, ba cây số "thần pháo đại dương" tướng pháo thủ túc cửa chú thông đã nổi danh bách phát bách trúng. Nhưng đó là "bắn vòng đầu" còn đây "quỷ Tây" kia lại nã theo lối trực xạ như bắn súng trường, cái đó mới thần tình hiếm có. Ôi chao! Cứ như tài bắn kích pháo cua y, một tay pháo này có khi còn lợi hơn một đội quân! Bắn pháo như thế, nếu được một điểm tựa tốt có sợ chi đàn cẩu quẩy đông như rươi của Tây Sắc. Ôi! Nếu vậy có lẽ y là tướng Tây Gầm rồi. Mỗi phen gầm đại pháo, nhiều kẻ nát thân tan xác. Ngay lúc đó, bỗng nghe hình tuyết Nam Khấp kêu lớn:

                - Tây Gầm! Gầm thế đủ rồi. Tây Sắc sắp kéo đến, để đạn mà "mừng" nó. Để ta tính chuyện tên trộm đã. Thổ rừng! Sao chưa lên?

                Võ Minh Thần lại nghe cả hai hình "ma quỷ" kia bàn nhau diệt Tây Sắc, Võ cũng động trí tò mò, nay nghe gọi, nghĩ mình vô thù oán, chàng trai vùng lên tiếng:

                - Ngu mỗ tình cờ qua đây, nghe tiếng kèn thê lương, chạnh niềm phù thế mới lần lên núi, không dám làm kinh động nhị vị đó thôi, chớ đâu chủ tâm nghe trộm. Xin có lời chúc tốt lành.

                Dứt lời, chàng nhảy vọt lên chỗ hai "nhân vật" đánh cờ tướng, vừa tiến lại vừa nghiêng mình thi lễ rất lịch sự. Hình dị hơi gật cái đầu đáp lễ, hai con mắt sâu chiếu chòng chọc vào Võ bỗng phát tiếng Thổ âm âm:

                - À! Coi nhà chú không phải Thổ rừng. Dáng điệu trông tao nhã dữ mà cái mặt xám ngóet. Sao lên núi không báo?

                Võ chưa kịp nói chi, bỗng hình tuyết đưa bàn tay tuyết lên như bấm độn, vùng kêu:

                - Ôi! Nhà chú không phải Thổ rừng thật. Bỏ cái mặt nạ da người cho ta nhờ. Quần áo nhà ngươi mặc coi giống kiểu dòng họ Bạc Pi A Ya. A! Phải nhà ngươi chính là kẻ đang bị Tây Sắc đuổi?

                Võ Minh Thần không khỏi động tâm trước tài thần của Nam Khấp, lại nghĩ cũng chẳng cần chi phải dấu bèn gật đầu luôn:

                - Nam Khấp tiên sinh đoán chẳng sai. Ngu mỗ đang bị rượt, nghe tiếng kèn lạ, lần đến đây. Nhưng không riêng Tây Sắc, thực ra, ngu mỗ bị Đông Âm Bá Diện xua quân gia đuổi, mỗ vừa đến đây cùng người quản gia.

                Dứt lời, chàng đưa tay lột luôn mặt nạ da người. Bộ mặt điển trai lộ ra, lạnh buốt như băng giá đông phân, Tây Gầm "ồ". Nam Khấp nói như reo:

                - Ôi chao! Cái mặt chú em coi như tảng băng, phải chán đời buồn thế? Tiếc thay! Tiếc thay. Gặp mặt thích hơn, có thể làm tri âm mà lại giết nhau. Nam Khấp ngồi đợi nhà ngươi lâu rồi.

                Ngạc nhiên, Võ hỏi:

                - Tiên sinh nói sao? Ta phải giết nhau? Sao lạ vậy? Tiên sinh có thù lớn? Hình thù tuyết thở phì một hơi, phát ra giọng trầm ai oán:

                - Có thù chi đâu. Nhưng trên cõi đời trầm luân ngu muội này, chỉ một cái tơ cái tóc cũng kết nên thù oán tầy đình, huống chi ta cùng ngươi lại lo chuyện bằng trời. Sao lại không sinh thù chém giết được. Này trai điển. Đêm qua ta đã đi kiếm ngươi nhưng may lại có Ma Vương Tây Sắc nó xua đuổi ngươi lên mạn Bắc, nên ta ngồi đây đợi cho gọn. Cảm phiền ta phải chặt đầu ngươi trước khi Tây Sắc, Đông Âm tới.

                Võ Minh Thần không khỏi dột lòng, thầm nghĩ:

                - Hình thù Nam Khấp này là giống chi mà khẩu khí kỳ quặc thế này? Loài khoáng vật thành yêu hay dị nhân, ma quái? Lạ dữ chưa? Sao y biết rõ ta chạy qua đường này mà đợi? Lại đòi chặt đầu nữa? Dẫu sao cũng phải hỏi cho ra lẽ... rồi sẽ liệu!

                Bèn lễ phép nghiêm trang cao giọng:

                - Chẳng hay chuyện chi kết oán, mà lại to bằng trời được. Tiên sinh đãthông đạt lẽ phù du, kiếp người ta sinh ra đã là họa khổ, thương nhau còn chưa xóa nổi đau đớn. Lẽ nào người thông đạt còn ra tay kết oán gây thù vì những chuyện vẩn vơ? Ngu muội thật không hiểu.

                Hình thù phát cười chua chát:

                - Ôi! Trai điển! Ngươi lại còn làm vẻ ngây ngô làm chi nữa chứ? Tưởng ngươi thừa hiểu rồi. Ôi! Ngươi nói đúng. Vàng bạc châu báu, ngôi hoàng đế nếu ham quả là không gì ngu bằng trước cái lẽ phù du. Hão huyền tất! Nhưng khổ cho người ta, la món này nó lại quý báu bằng mấy ngôi hoàng đế, nó lại là nguồn hy vọng độc nhất có thể giải thoát kiếp phù du mới khó cho ta.

                Nghiêm mặt, Võ Minh Thần lắc đầu, hình thù hô "cái vòng", chàng trai lại giật mình cau may hỏi lớn:

                - À lại cũng không ngoài chuyện cái vòng. Đông Tây Nam Bắc mấy cõi ta Tàu, quái nhân dị vật, tạ sao ai cũng đòi đoạt cái vòng kỷ niệm của mỗ là thế nào? Cái vòng này quý giá chỗ nào? Hừ! Một cái vòng điểm huyết với vân nét loằng ngoằng, mà cả thiên hạ đều sẵn sàng giết nhau, cướp đoạt? Tây Sắc, Hấp Huyết quỷ nương, Tửu Chúa, Đông Âm, Nam Đổ... rồi nay lại Nam Khấp?

                Nam Khấp, Tây Gầm cùng nhìn chàng trai như muốn nhìn tận tim gan, luống nhãn tuyến xanh lè cửa hình tuyết chợt chớp lia, hình thù dị thé giọng:

                - À! Bọn ma quái nhà người gớm thật! Đã lần đi tính cướp của quý trần gian! Trai điển! Nhà ngươi đã gặp cả Nam Đổ rồi ư? Gặp tụi hắn mà vẫn còn sống? À! Nhà ngươi cao tay lắm hả? Trai điển! Ngồi xuống! Ta thổi một bài kèn tống tiễn.

                Võ Minh Thần vẫn đứng yên, nhìn thẳng vào hai lỗ mắt của Nam Khấp, nghiêm sắc mặt, đanh giọng:

                - Kẻ yếm thế than kiếp phù sinh, tất phải hàng đường đường chính chính. Lại có thể đón đường cướp tài vật của người ta như phường đạo tặc bất lương sao?

                Lỗ mắt xanh lè bỗng long sòng sọc, hơi tuyết bốc hỏa mịt mù, nước rỏ tong tong xuống thạch bàn như bị lửa tém, điện xẹt. Nam Khấp thở phì, phát tiếng âm âm:

                - Ta biết! Nhưng nhà ngươi chớ quên cái vòng của ngươi không phải đồ gia bảo tài vật của kẻ nào. Nó là cái vòng càn khôn pháp bảo của dòng giống Lĩnh Nam, chìa khóa mở cửa vào bộ máy huyền vi của tạo hóa. Trải ngàn năm bảo pháp lưu lạc bốn phương giờ mới trở về cõi Lĩnh Nam, nó là của chung, ai cũng có quyển làm chủ vòng. Từ tay kẻ khác đến tay ngươi cũng gọi là bất lương sao? Tất nhiên ngươi cũng phải đoạt trên tay thiên hạ.

                Chàng trai lắc đầu:

                - Không! Tiên sinh chớ lầm. Ngu mỗ ra đời, lớn lên, tay đã đeo vòng. Với mỗ, nó là vật kỷ niệm. Kỷ niệm ngày mẫu tử chia lìa... thảm thê. Mỗ phải giữ nó như giữ hình ảnh thiêng liêng của đấng sinh thành. Vậy thôi. Rất tiếc chuyện riêng không tiện nói, ngu mỗ không cần biết nó là cái vòng pháp bảo chi cả. Chính ngu mỗ cũng chẳng hiểu nó quý cách nào mà cả thiên hạ đều ham chiếm đoạt. Nam Khấp! Tiên sinh biết rõ chứ?

                Hình dị ngó chòng chọc, vùng cao giọng:

                - Này trai điển! Ngươi nói thật chứ?

                - Ngu mỗ quyết đem mạng giữ kỷ vật thiêng liêng, đâu phải cốt giữ vòng pháp bảo? Hai hình dị nhìn nhau, Tây Gầm vừa lau súng cối vừa nói oang oang:

                - Chủ vòng không biết! Nam Khấp biết chăng? Ồ ta nghe chúng đồn đó là pháp bảo gớm ghê, cũng sinh lòng muốn kiếm xem sao? Nhưng ta lại cần cái đầu Tây Sắc hơn, đành nhường Nam Khấp.

                Hình tuyết bỗng cười thét:

                - Trai điển! Ngươi nói với con nít sao? Chỉ giữ vật kỷ niệm? Vậy có sẵn lòng cho ta xem thử cái vòng đó chăng?

                Điềm nhiên, Võ Minh Thần đáp liền.

                - Ngu mỗ không biết pháp bảo, chỉ biết vòng kỷ niệm. Chẳng những sẵn lòng đưa Nam Khấp coi thử, mỗ lại sẵn lòng biếu luôn pháp bảo, miễn là đừng lấy mất vòng kỷ niệm của mỗ thôi.

                Hình thù tuyết phát cười khẩy:

                - Ngươi nói dễ nghe nhỉ? Đã biếu pháp bảo, lại không cho lấy vòng kỷniệm đi. Phải ngươi muốn biếu ta cái bóng? Ngươi phải hiểu khi điều dụng pháp bảo, tất phải đụng đến vòng chứ?

                Võ thản nhiên hỏi:

                - Tiên sinh biết điều dụng vòng càn khôn?

                Nam Khấp lạnh lùng:

                - Ta chỉ biết nó là pháp bảo vô giá! Nếu vào tay tất ta điều dụng được.

                Thôi! Chơ nói phí lời, để ta thổi một bài đưa đám cho xong.

                Võ Minh Thần nghĩ thầm:

                - "Con ma phương Nam" này xem chừng lợi hại khôn lường. Y lại đang mê pháp bảo, tất sẵn sàng gây sự, chẳng chịu bỏ qua. Chắc y tưởng cái vòng là vật pháp có thể hô phong hoán vũ, lấp biển dời non, nhưng có lẽ chỉ là cái vòng ghi bí pháp chi đó. Cha con vị chúa Pi A Ya thông minh khác người, còn chưa khám phá nổi, "ma Nam" này chắc gì biết được. Tây Sắc, Đông Âm theo sát, sắp tới sinh thế hiểm nghèo, sao không theo lối " hòa Ngô diệt Ngụy "? Tây Gầm, Nam Khấp sắp sinh sự với Tây Sắc, Đông Âm có thể lợi cho mình.

                Bèn nghiêm nghị bảo:

                - Có lẽ tiên sinh lầm rồi. Vòng chẳng có gì lạ. Nếu tiên sinh không có gì tà tâm, mỗ ngại gì không đưa coi để tỏ lòng thành.

                Hai lỗ mắt hình tuyết chợt sáng long lanh, ánh vẻ ngạc nhiên trước sự hồn nhiên của chàng trai. Nam Khấp phát tiếng đanh thép:

                - Nếu cần ta sẽ chặt đầu ngươi lấy vòng cho ngươi biết. Nhưng nếu mượn xem, lại khác. Chính ta phải giữ cho ngươi. Nam Khấp là giống súc sinh, vật đó mới không hoàn cố chủ.

                Tây Gầm nói theo:

                - Đúng đó! Nam Khấp không nói hai lời đâu. Võ Minh Thần rút luôn chiếc vòng điểm huyết trong mình ra, tiến lại trước hình tuyết đưa cho y. Nhân lại sát, chàng trai lại nhìn rõ hơn, thấy rõ đúng là hình người ngồi như lối tham thiền của các nhà sư, quanh mình là một lớp tuyết phủ kín, rắn như đá cục, hai chân còn in hình xếp bằng tròn, một tay đặt lên gối, một tay cầm kèn, hơi lạnh bốc mờ mịt, nhưng lúc này vỏ tuyết váng băng đã mỏng đi, trông lờ mờ thấy hình khối, trông rõ nhất là cái đầu. Nhưng đầu tuyết coi càng quái gở, vì trong băng cũng chẳng thấy mũi miệng gì, vẫn chỉ là mấy lỗ hổng.

                Vừa chìa cái vòng, Minh Thần vừa nhìn cánh tay, nghĩ:

                - Cái tay tuyết cứng đờ... Giơ lên chắc gãy. Nếu gãy, ta khám phá được nhiều bí mật.

                Quả nhiên, cánh tay từ từ đưa ra gỡ lấy chiếc vòng. Võ nhìn thấy rõ lớp tuyết băng nứt ra rồi gãy "rắc" lạo xạo, tạo thành một đường rảnh sâu chỗ khuỷu tay.

                Cánh tay co về, đưa vòng lên tận lỗ mắt. Nách lại nứt "rắc", thành đường rãnh. Y lại đat cây kèn, đưa cả tay kia cầm vòng, xoay, ngắm. Hai bàn tay chỉ có tám ngón co quắp coi như vuốt thú.

                Tây Gầm xách cả khẩu kích pháo tiến lại gần Nam Khấp, y phải cúi khom hẳn mình mới vừa tầm. Võ nhìn, nghĩ:

                - Cái vòng phải rớt vào lửa mới nhìn nổi tượng hình. Y đóng băng còn thấy gì nữa. Quả nhiên, xem xét giây lát, soi nghiêng lật ngược đủ thứ, cả hai hình dị vẫn chỉ thấy đó là chiếc vòng xanh điểm huyết ngoại khổ, vậy thôi.

                Cả hai lắc đầu, Nam Khấp bỗng thở phì, phát âm nghiêm giọng:

                - Tây Gầm dang ra, ta thử điều dụng coi. Võ Minh Thần hơi dột lòng, nghĩ "y biết bí quyết chăng". Bỗng lại thấy Tây Gầm dạt ra mấy bộ, Nam Khấp vùng hú lên một tiếng quái gở, tung vút cái vòng lên không. Võ giật thót mình, kinh hoàng định nhảy lên bắt cái vòng, sợ rớt vỡ tan, nào dè Nam Khấp đã hô "Đứng im", tay múa tít trước mặt cái vòng vừa rớt xuống dần dần lại bắn vút lên, cứ thế quay tít trên cao. Nam Khấp hô lớn.

                - Thần phục vọng tôn sư... Càn khôn tốc biến... biến! Võ Minh Thần, Tây Gầm cùng trố mắt dòm lên, thấy sau tiếng đọc chú hô thần, cái vòng cứ quay tít rồi rơi xuống, không có gì thay đổi.

                Nam Khấp hô đến hai, ba lần "vọng tôn sư" vòng vẫn trơ trơ. Nam Khấp quắc tay bắt "chót" vòng, thở phì chán chường:

                - Không biến hóa chi cả! Ôi chao! Chú hô thần không nghe, chắc chắn vòng này giả, không linh, chang phải vòng càn khôn pháp bảo. Bèn trao trả Minh Thần. Chàng trai sực hiểu, suýt phì cười đỡ lấy vòng:

                - Đó tiên sinh thấy chưa? Mỗ nói sai đâu? Vòng này bộ ba mới linh!

                Nói dứt toan cất vòng đi cho nhẹ thể nhưng Võ vốn người chân thật không nỡ dấu, chàng trai bèn giơ vòng lên bảo:

                - Tiên sinh không khám phá ra pháp bảo hay sao? Đây chính là vòng thực đó!

                Cả hai đều ngạc nhiên dòm. Nam Khấp phát âm thê lương lạ:

                - Thế là hết! Chao ôi! Kiếp phù du lại vẫn kiếp phù du... không thoát nổi diệt vong. Võ Minh Thần tiến lại gần Nam Khấp, chìa vòng sát mặt dịu dàng:

                - Vòng này không phải là pháp bảo nhưng là cái vòng yểm tàng mật thư, bí pháp bí kíp, hoặc những điều bí mật nào đó về càn khôn bát quái chi đó! Chẳng hay tiên sinh coi lại xem có đọc được thứ chữ nghĩ kỳ dị này không?

                Nam Khấp phát âm chìm buồn vô cùng:

                - Càn khôn! Càn khôn! Hựu càn khôn! Càn khôn biến hóa. Mỗi cái vòng là một điều bí mật về càn khôn, cộng cả ba điều bí ẩn lại có thể biến hóa càn khôn. Hình như đảo lộn cả luật sinh thành trụ diệt. Ôi chao! Giờ còn gì nữa đâu, chỉ còn ngồi chờ bánh xe luân hồi nghiền nát thành tro bụi.

                Võ Minh Thần hơi nhíu chân mày suy nghĩ, bỗng cao giọng nói với Ma Nam, Quỷ Tây:

                - À! Nếu vậy có lẽ vòng yểm tàng điều bí mật về sinh tử chi đó. Đây nhị vị tiên sinh coi lại xem có đọc được thứ chữ nghĩa kỳ dị trong này không?

                Tây Gầm lại gần cầm lấy vòng giơ đưa Nam Khấp coi, hình thù tuyết thò tay cầm lấy khô giọng:

                - Xem kỹ rồi có chi lạ đâu? Võ Minh Thần từ tốn:

                - Càng lạnh càng không thấy gì, vòng này đem lửa nung sẽ phát giác mật thư, viết theo lối tượng hình rất lạ.

                Nam Khấp sáng hẳn hai lỗ mắt, đặt luôn kèn xuống, nói lớn:

                - A hiểu rồi! Nếu vậy cứ nóng là được, cần gì lửa nung! Tay ta nung cũng đủ.

                Võ Minh Thần cười bảo:

                - Cả thân hình tiên sinh là tảng băng lớn, ướp lạnh mới tốt, nung nóng sao nên?

                - Hà hà! Vậy nhà ngươi cho ta là ma tuyết không có sức nóng sao? Vừa dứt lời, Võ đã thấy Nam Khấp chuyển chiếc vòng sang tay phải, bàn tay to lớn như tay hộ pháp kia nắm kín cái vòng, bỗng nghe "xèo, xèo" như tiếng nước nhỏ xuống viên gạch nung, bàn tay tuyết bốc khói mù mịt nháy mắt đã biến xóa mờ hẳn chỉ còn là một đám khói mù. Võ nhìn xuống thạch bàn thấy nước rỏ tong tong đầm đìa cả, chỗ y ngồi cũng chảy nước ra ướt đầm, tuyết váng mỏng thêm. Chợt Võ chú mục nhìn, thấy một số đường loằng ngoằng nhấp nháy chạy trong lớp váng ánh ra ngoài coi như chớp lóe, bao nhiêu đường loằng ngoằng này đều vụt cả ra ngoài bàn tay cầm vòng và chỉ nháy mắt, trên mặt váng tuyết lại nổi trũng hẳn thành nhiều đường rãnh sâu như cầm dao rạch.

                - À! Đường điện khí chạy ra đâu soi mỏng lần tuyết váng. Y đang điều điện lực ra bàn tay... âm điện hay dương điện?

                Bỗng "rắc, rắc"! Có tiếng gãy ròn, khối bàn tay vung vãi theo từng mảnh tuyết váng gãy rớt xuống mặt đá. Võ trông vào đã thấy tuyết khối gãy rụng hết, thì ra một bàn tay người đỏ như than Tàu nắm gọn cái vòng. Rắc rắc. Lại đến tay kia, hai bàn tay như chợt mở xoè cầm cái vòng giơ cao, ban tay nào cũng chỉ có bốn ngón.

                Nam Khấp bỗng kêu lên sửng sốt:

                - À thấy rồi! Kỳ dữ chưa? Đúng chữ tượng hình.

                Tây Gầm khom mình dòm, mặt lộ vẻ ngạc nhiên thích thú, cũng reo to:

                - Lạ chưa? Trong ruột vòng đặc lại có chữ tượng hình? Ồ nét tinh vi đẹp thật!

                Hai hình dị cũng châu đầu xem xét hồi lâu lật ngang lật ngửa, xoay tứ phía, trầm trồ. Nam Khấp chợt hỏi:

                - Quỷ phương Tây nhà ngươi học giỏi biết chữ gì trong này không?

                Tây Gầm rút ra một tấm hiển vi soi, lại đưa cho Nam Khấp cùng soi, tặc lưỡi:

                - Ồ lạ! Chữ này đúng chữ tượng hình thật, nhưng không phải chữ tượng hình tiền Hán. Coi như chữ "mật mã" lấy hình nét tượng trưng.

                Cả hai chú mục soi "lúp" nhìn mãi cuối cùng vẫn không đọc được. Nam Khấp vùng hỏi:

                - Này trai điển! Nhà ngươi biết thứ chữ quái quỷ trong này chứ? Chàng trai lắc đầu:

                - Ngu mỗ mới tình cờ khám phá hình nét trong ruột xong nhưng chưa đọc nổi. Ngày no mỗ cùng hai cha con vị chúa Pi A Ya đã ngồi cả buổi họp bàn, vẫn chịu. Đây chắc viết tượng hình đặc biệt, phải có "chìa khóa" mới được.

                Nam Khấp, Tây Gầm cùng nhau bàn bạc, Nam Khấp chợt bảo:

                - Quỷ phương Tây! Ta nghe dưới Hà Nội nhà nước Đông Dương có lập cái viện chi đó để khảo cứu đồ cổ, cái viện này nuôi nhiều tay học giỏi, đào được các bộ xương, cái đĩa, cái cốc, biết ngay đồ đó có từ đời nào, họ lại đọc được lắm thứ chữ... phải không? Liệu chúng nhìn hình nét này, hiểu chăng? Tây Gầm vỗ đùi nói oang oang:

                - À viện khảo cổ! Phải đó. Ta có quen mấy nhà khảo cứu giỏi lắm, đã từng đào nhà mồ tìm xác ướp bên Ai Cập, may họ đọc được hình nét quỷ quái này. Đem cái vòng này về cho họ coi, chắc khám phá ra.

                Võ Minh Thần nghe y nói đem về Hà Nội, lòng đã ngại, bỗng lại nghe Nam Khấp bảo:

                - Bất khả! Bất khả. Nếu để tụi khảo cổ dưới phố coi, tụi họ làm ồn ào, thiên hạ biết hết còn gì bí mật? Vả lại cái vòng này là vật kỷ niệm của trai điển đây, vật bất ly thân, mượn đem về sao tiện. Để ta nghĩ coi.

                Nói đoạn Nam Khấp ngồi im chừng mười khắc, chợt y vùng phát âm nhọn:

                - À tính ra rồi! Tây Gầm nhà ngươi cứ đem ta về Hà Nội, trỏ kẻ nao khéo giỏi, ta bắt cóc y nhờ đọc là êm nhất. Phải đó, tuyệt kế. Nhưng này trai điển, nhà ngươi có bằng lòng cho ta mượn vòng này giây lát chép lại các hình nét bên trong không?

                Võ Minh Thần thấy Nam Khấp không có ý lừa chiếm đoạt bảo vật trong khi biết rõ trong có chứa điều bí mật đặc biệt, lại chỉ đòi mượn chép ra như Bạc Khao Lan đã từng làm, chàng trai không chút do dự gật đầu liền:

                - Được mà! Đã bảo mỗ chỉ cần vật kỷ niệm thôi! Có điều lạ chứa trong tiên sinh muốn cứ tự tiện lấy đi. Nhưng những hàng nét hình này trông vậy mà nhiều vô kể, chép phải mất cả buổi dày kín mấy ống bương đó.

                Ma Nam Quỷ Tây dòm nhau, dòm Minh Thần. Nam Khấp kêu lớn:

                - Ôi chao! Nói vậy thì ra ngươi đã để người ta chép điều bí mật quý báu này ra đó ư? Bí mật ngàn vàng, đảo lộn càn khôn mà ngươi coi như chép một bài thơ lếu láo. Ôi! Trên đời này chỉ có nhà ngươi... kỳ quái vậy? Ôi vay ra ta còn xấu thói hơn ngươi nhiều dữ à. Lời nói của ngươi làm ta hiểu thấu thêm được cõi đời khốn nạn này. Có kẻ độc bụng giữ môn thuốc gia truyền, giữ một cái nghề chó chết kỹ hơn mèo giấu cứt, lại cũng có người coi càn khôn bát quái bí mật vô song chỉ như một câu thơ phiếm. Vậy kể ra cõi đời này càng nên sống lắm.

                Tây Gầm giục:

                - Này! Đàn quỷ bốn chân sắp đến. Liệu kiếm đồ chép lại cho xong, còn tiếp quỷ. Ngồi than mãi, toi đến nơi rồi đó.

                Nam Khấp chưa nói chi, bất thần dưới thung vọng len nhiều tiếng chó sủa, tru, tiếng ngựa hí, tiếp liền tiếng thét ma âm:

                - Mặt sắt! Mi có chạy lên trời cũng không thoát khỏi chúa Ma Vương. À! Báu vật thế gian sao dám cho ma dòm quỷ ngó?

                - Thổ rừng! Đứng trẫm hỏi! Chủ mi đâu đứng lại? Không trẫm chém đầu! Võ Minh Thần vọt ra bờ núi, dòm xuống, không khỏi thất kinh thấy Quản Kình dắt ngựa, chó từ chân núi chạy túa ra ngoài thung, sau lưng là một đàn sài kíu đông như rươi, nhưng ngay khi đo bên kia thung lũng hẹp lại sịch vọt ra một đoàn nhân mã cờ quạt tàn tán rực rỡ chắn ngay trước mặt Quản Kình.

                Kình hoảng hốt chạy xé về nẻo đầu núi chỗ Võ đứng trên, nhưng sài kíu phía này đang ào tới.

                - Trời! Kình nguy rồi. Cả Tây Sắc, Đông Âm cùng rượt bắt.

                Võ rút phăng cây súng dù, định bắn chặn nhưng ngay khi đó Tây Gầm đã bước tới bên, ồm giọng:

                - Phải người nhà? Để ta cản cho! Keo này mới tốt. Lời vừa dứt, y đã thả lia đạn vào họng kích pháo. Cạch bùng. Liền bốn năm phát nổ trước quân Tây Sắc, Đông Âm tung đất cát. Quả nhiên người, thú chạy xé ra xa, có bầy sài kíu hung tợn cứ chồm tới, bị bắn nổ tan xác như bầy ngóe. Nhờ vậy, Quản Kình đủ thì giờ dẫn ngựa, chó vọt lên núi. Nhưng khi Võ Minh Thần chạy xuống lưng chừng, đón Quản Kình cùng ngựa, chó vượt lên ngọn, thì đàn sài kíu đã men sát chân núi, vọt chồm lên định táp lôi xuống, tình thế hiểm nghèo hết sức.

                May Tây Gầm đã kịp thời nhả đạn kẻ dọc đường tiến của lũ sơn cẩu, nên chúng không sao chồm tới nổi, nhờ thế người, vật lên hẳn được đầu núi. Ngó xuống, khắp nữa con thung lũng đã đầy chó sói và từng nẻo rừng, "quỷ mắt đỏ" vẫn kéo đến từng đàn từng lũ, lố nhố như rươi, cơ nào đội đó rất có trật tự, con nào cũng hếch mõm nhe nanh, múa vuốt tru lên vang động, chỉ chực liều mạng kéo rốc lên vồ người, coi mười phần hung tợn.

                Nhìn sang thung tả, lại đầy bóng tàn lọng, nhân mã, lính cổ lính kim xẹt ngang xẹt dọc, gươm đao, súng ống tua tủa, hết sức uy mãnh. Lính Đông Âm, quân Tây Sắc đều châu đầu vây lấy ngọn núi thác, hai bên còn gầm ghè nhau như hai bầy thú tranh mồi.

                Ngay lúc đó bỗng có tiếng âm âm nhọn sắc vọng lên nghe gai rợn như lưỡi dao nạo mặt nứa:

                - Một khẩu kích pháo dám thả đạn ngăn cản đàn thú binh của Ma Vương Tây Sắc, phải Tây Gầm trên đó? Loạn óc sao? Dám liều mạng phạm tới Ma Vương?

                Tiếng nhọn vừa dứt, phía tả thung vụt cất lên một tràng âm thanh quái gở chuyển hàng chục thứ tiếng nam phụ lão ấu, Kinh, Thổ, Tây, Tàu, Mán, Mèo không khác cả chợ người chõ miệng lên hét đến điếc tai:

                - Chưa thấy mặt đã nghe tieng kích pháo nổ ầm, phải Tây Gầm? Rừng sâu gió lạnh ngồi thổi kèn đám ma buồn như cha chết, một khối trắng xóa như tuyết băng, vôi tỏa, phải Nam Khấp ngồi trên? Quỷ Tây, Ma Nam. Súng ngươi gầm, kèn ngươi khóc, mặc sức khóc gầm, chuyện vô can sao nhảy vào phá đám?

                Nam Khấp hỏi Võ Minh Thần:

                - Trai điển! Nhà ngươi chép giùm ta chứ?

                Chàng trai gật đầu:

                - Sao không? Nhưng ngu mỗ chép có lẽ chậm lắm, nhanh cũng mất nửa ngày? Nếu cần ngu mỗ sẽ ở lại vùng này thêm một buổi. Chỉ phiền Tây Sắc, Đông Âm chắc chúng chẳng chịu đứng dưới núi đâu.

                Nam Khấp cười khan:

                - Coi hình nét trong này phải tay vẽ giỏi chép mới đúng được. Thôi! Để ta chép lấy vậy. Nhà ngươi chắc cần đi ngay?

                - Vâng! Kể cũng gấp. Nhưng cứ xong việc tiên sinh đã. Vả chúng cũng còn chực dưới kia.

                Dưới thung lũng bỗng lại có tiếng tru ma âm, có một đàn hơn một trăm con sơn cẩu chạy như gió sang bên kia. Giữa đan sơn cẩu có một hình Hồng Cẩu Quẩy to lớn lông vàng như tơ, bờm sư tử, mặt hướng lên ngọn núi khác, chạy giật lùi hai chân nhanh như tên bắn:

                Minh Thần trỏ vụt:

                - Tây Sắc đó!

                Nam Khấp gật đầu "ta gặp một lần mười năm rồi". Tây Gầm giơ ống dòm chiếu theo, hình sài kíu vàng đã xẹt biến vào bụi lá. Quỷ phương Tây trợn mắt:

                - Ôi ta! Vua nhan sắc thượng du đất Bắc khét tiếng hào hoa phong nhã đa sát đa tình là một con chó sói thật ư? Ta van tưởng dân gian đồn chuyện hoang đường? Hay là một con quái vật nhân cuồng tặc nào đội lốt sài kíu?

                - Nếu là người đội lốt, lại dễ trừ diệt. Đây nó lại là chúa sói thành tinh, có sức phi phàm, súng gươm không chạm nổi. Nó lại còn linh mẫn hơn cả loài ma quỷ mới nguy cho thiên hạ.

                Võ Minh Thần vừa dứt lời, bỗng phía tả, từ chân núi chợt vụt ra một cáng gấm tứ phía có che tàn vàng tán tía xẹt đi như mũi giáo phóng, thoáng đã lao vút sang bên kia thung, khuất giữa hoa, lá, quân gia. Đuôi càng mảnh gấm phủ vén tốc lên mấy gang tay, để lộ cả một góc lòng càng, không người. Quản Kình trỏ kêu:

                - Đông Âm kìa! Con ma trăm mặt trăm giọng lạ dữ chưa? Sao loài yêu ma tinh lại "hiện" giữa ban ngày?

                Võ Minh Thần vội đưa mắt ngầm bảo Kình nên giữ lời, nhưng Nam Khấp đã phát âm lạnh lùng:

                - Thời loạn âm loạn dương, rừng sâu nặng âm khí, ma quỷ sống lâu với người thường, ma thuộc khí âm, nhưng nếu nó hấp được nhiều nhân khí, thọ khí thiên hương, nó hiện giữa thanh thiên bạch nhật, có gì lạ? Biết ai người ngợm, tà ma? Mà đâu chắc chúng là loài ma. Như ta chẳng hạn, các ngươi cũng có thể tưởng là ma tinh được chứ.

                Hai thầy trò Minh Thần nhìn nhau, cũng kinh nghi, thầm nghĩ:

                - Hình tuyết ngồi lù lù, không là ma thì là giống gì? Không lẽ là... quái vật thành tinh như Tỳ Bà tinh, Thạch Cơ trong tích Phong Thần.

                Đang nghĩ vẩn vơ, bỗng Nam Khấp lôi "rắc" trong mình ra một cây đại phù, bản to bằng cái quạt xoè, lẩm bẩm:

                - Chép lên cái này chắc đủ. Cầm tay tiện lắm. Nào! Bắt đầu! Cho mượn cái kính hiển vi!

                Vừa nói y vừa lôi ra một cái kim khá lớn khâu bao, mũi nhọn hoắt, đoạn đỡ lấy kính "lúp" Tây Gầm đưa nhét dính vào lỗ mắt, thản nhiên soi vòng lên bắt đầu chép.

                Võ Minh Thần quan sát thấy Nam Khấp ngồi lù lù, đứng dưới thung lũng trông thấy rõ, chàng trai vội bảo:

                - Tiên sinh nên ngồi xế vào trong! Chỗ này lộ mục tiêu, nó có thể "tỉa" súng!

                - Không hề gì! Chính ta đang muốn bắn trước, còn có cớ gây sự. Nhưng nó không bắn ngay đâu.

                Võ lại bảo:

                - Chỉ ngại nó bắn vỡ tan vòng. Không ăn được nó đạp đổ!

                -

                Vừa nghe mấy tiếng "vỡ tan vòng", Nam Khấp bỗng giật lên một cái như đỉa phải vôi. Thầy trò Võ Minh Thần chỉ thấy loáng, khối trắng di động, dòm lại, chỉ còn thạch bàn không, ướt đầm đìa, còn Nam Khấp đã ngồi lù lù sát vách núi phía trong, khuất sau tảng đá, khiến ai nấy đều lấy làm quai gở về thân pháp của Ma Nam, rời chỗ như gió thoảng.

                Sực nghe rõ tiếng Tây Sắc tinh quân hét gai gai:

                - À! Mặt sắt ngu đần... Sao dám đem bảo vật cho hắn xem. Nam Khấp, Tây Gầm! Ma vương Chúa theo sục mặt sắt khắp mấy dải biên thùy. Muốn tròn hòa khí, các ngươi khắc rời ngay đầu núi, Ma Vương sai quân lên bắt hắn, bằng cưỡng lời, chớ trách Ma Vương.

                Chợt có tiếng Ma Quân Bá Diện hét léo nhéo:

                - Tây Sắc! Đâu đã đến lần mi? Quả nhân gặp hắn đã mấy tuần trăng, giờ mới tìm lại được, mi quyền gì động tới? Tây Sắc! Nhà mi nên lui về, kiếm món khác. Thế gian này còn hai vòng càn khôn nữa! Ta nhường mi đó.

                Tây Sắc cười thét:

                - Ma trăm giọng! Mi tới số rồi mới đòi "vòng điểm huyết"! Ta lên bắt nó, mi có giỏi cứ lên! Vào bụng sói, chớ trách Ma Vương này độc ác!

                Tây Gầm hô như sấm:

                - Phải đó! Việc ai nấy làm. Bọn mi cứ tính xong chuyện dưới đó đi. Kẻ nào thắng, lên đây chơi không muộn.

                Nam Khấp ngồi xó núi lúc này như không buồn để ý chi tới bọn Tây Sắc, Đông Âm phía dưới, y cứ soi "lúp" dòm ruột vòng, chép lia lịa. Thỉnh thoảng lại phát ra một vài tiếng nghe khoái trá hết sức, rõ ràng cả thung lũng, trời đất, người vật, quân thù đã biến sạch, chỉ còn y với những hàng chữ loằng ngoằng khó hiểu.

                Võ Minh Thần bước lại gần xem, không khỏi sửng sốt, thấy y vừa dòm vừa cầm kim vạch lia lịa trên mặt lụa, đường kim đi tới đâu thành đường rãnh sâu hoắm, mà đi rất mau, có lẽ còn nhanh hơn thần cầm bút thảo trên mặt giấy vậy. Chàng lại để ý những hình tượng thú, điểu, núi non, cây cối, suối khe... hình nào y cũng chỉ vach lia một nét loằng ngoằng theo đúng lối vẽ nét liền xem chừng còn khắc lẹ hơn cả Bạc Khao Lan dùng mũi châm khắc lên mặt nứa.

                - À! "Ma Nam" này quả trang họa sĩ có hoa tay khác người! Y thảo mau thế này, may xẩm tối xong.

                Bèn để mặc y ngồi đó, chàng trai vọt ra mé ghềnh, chiếu ống dòm quan sát, bỗng hơi chột dạ thấy cả hai cánh quân Đông Âm, Tây Sắc vụt biến đâu mất. Rê ống dòm khắp dưới trên thấy thế núi dựng đứng giống hình con hạc uống nước từ cổ xuống đuôi, từ lưng chừng núi lên thành đá có chỗ thoải lại cũng chưa hẳn tốt trước tài khinh thân đăng sơn của bọn giỏi võ. Bèn bảo Tây Gầm, Quản Kình:

                - Bọn chúng lần đâu mất rồi? Địa thế này nếu chúng leo lên phía sau núi rồi kéo ào xuống đây, thật khó lòng ngăn nổi.

                Quản Kình quan sát, thấy lo nhưng Tây Gầm đã vuốt râu bảo:

                - Bọn ta ngồi phơi mình chỗ này cốt nhử cho chúng mò lên đó. Thầy trò ngươi chớ ngại. Dẫu nó có đủ ba đầu sáu tay cũng không lo. Đàn cẩu quẩy, quân giặc không ngán, chỉ ngán Tây Sắc, Đông Âm thôi.

                Tây Gầm vừa dứt, chợt Nam Khấp kêu lớn:

                - Đông Âm, Tây Sắc không ngán, chỉ ngán tạo hóa và chủ cái vòng thôi. Ngọc đặc rắn như thế này, chẳng hiểu "ngài" làm thế nào viết nổi chữ tượng hình li ti như con kiến vào tận ruột ngọc được. Ôi chao! Chép hoài mới được mấy hàng!

                Tây Gầm nói vọng vào:

                - Ma Nam! Nhà ngươi quên đây là cái vòng càn khôn rồi sao? Nhà ngươi mới bảo "Càn khôn, can khôn, hựu càn khôn. Càn khôn đảo lộn". Chủ cái vòng tất là bậc thông thiên quán địa, biết nhiều bí mật, sá chi cách chép chữ ruột ngọc?

                Ngay lúc đó, dưới thung lũng, bỗng có tiếng Tây Sắc tru trú gai rợn:

                - Mặt sắt! Ta cho ngươi năm phút suy nghĩ. Cả Tây Gầm, Nam Khấp nữa. Quá năm phút, Ma Vương Chúa cho thú binh lên núi, bọn ngươi muốn xuống cũng muộn rồi.

                Võ Minh Thần quát vọng xuống:

                - Tinh sói! Ta khuyên mi nên rút về động sói, ta sẽ tìm đến mi, chậm lắm mùa hè tới. Giờ ta có việc cần đi nhưng nếu mi cố theo đoạt vòng, cứ lên đây không cần đợi năm phút.

                - Mặt sắc ngu tiếc vòng hơn mạng. Thân xác mi vào bụng sói, vòng ngọc ích chi!

                - Ta sẽ đập nát vòng trước khi mất mạng, nhưng đã chắc gì? Nếu trong trời đất này còn thiên đạo, ta sẽ tru diệt hết loài sài lang độc ác, tru diệt mi trước.

                - Ha ha! Thổ rừng ngu! Trận tru tinh Bát Quái Mê Hồn của cha con lão tù trưởng Bạc còn không kham nổi Ma Vương, mi sức được bao nhiêu dám tính chuyện vá trời. Năm phút nữa, Ma Vương sẽ lên núi.

                Rồi im lặng mênh mông trùm thung lũng. Bỗng phía tả, lại có tiếng Ma Quân Bá Diện vang âm hàng chục giọng:

                - Tây Sắc! Ngươi không được lên núi trước! Thánh quân đuổi theo han mấy cánh rừng sâu, Thánh Quân lên trước. Nếu nhà ngươi xua chó làm càn, Thánh Quân cho tắm nước cường toan hết.

                Tây Gầm đang chống súng đứng sau cành lá cũng thầy trò Võ Minh Thần dòm xuống thung lũng, vừa nghe dứt lời Đông Âm, Tây Gầm nảy ra một mẹo nhỏ, quát trỏ xuống như lệnh vỡ:

                - Phải đó! Ma trăm giọng nói đúng. Cả Đông Âm, Tây Sắc đều muốn chiếm đoạt vòng, vậy muốn cho tiện việc hai người cứ tính chuyện với nhau cho xong đã, rồi sẽ nói đến bảo vật! Bọn ta ngồi trên này đợi... Không hề gì!

                Có tiếng Đông Âm thét;

                -Tây Gầm! Quả nhân quyền uy trùm mấy cõi không đánh giặc thuê cho nhà nước Đông Dương! Mi tưởng làm ngư ông thủ lợi, xúi ngao cò tương tranh, dễ làm sao?

                Tây Gầm giọng oang oang:

                -Tây Sắc đâu? Còn đợi gì không lên núi? "Ma trăm giọng" sợ bóng sợ vía mi rồi đó!

                Không nghe tiếng sài lang chúa đáp, chỉ thấy xào cành lá, bao nhiêu sơn cẩu lớn nho biến sạch. Võ Minh Thần không khỏi rờn rợn chiếu ống dòm quan sát khắp rặng núi, khẽ bảo Tây Gầm.

                - Hình như "nó" xua chó sói lên núi! Nó có thể vòng mặt sau, vượt lên ngọn đồi rồi đổ sườn núi xuống đây. Để mỗ thử lên ngọn kia xem!

                Vẫn điềm nhiên, Tây Gầm xua tay:

                - Bất tất! Nhà ngươi cứ đứng đây đợi Nam Khấp chép xong. Chính ta mong nó xua quân thú lên đây. Thầy trò ngươi đi đường xa mệt, tiện thể ngồi nghỉ ngơi không ngại.

                Dứt lời bỗng nghe tiếng Đông Âm thét lảnh giọng nữ:

                - Thượng sơn! Điện tiền chỉ huy chấp lệnh!

                - Xin vâng mạng! Thánh quân vạn tuế! Kỵ bộ cổ kim nam nữ sửa soạn, có tiếng Tửu Chúa sang sảng, lập tức, phía tả thung lũng bỗng co tiếng cồng khua trống giục, ngựa hí, quân reo ầm ầm như có đủ thiên binh vạn mã, lẫn tiếng loa đồng rền rĩ vang âm trong ánh hoàng hôn rừng, rồi từ dưới các tàn cây xòa đập tiếng súng lên cò, ngựa khua rầm rập.

                Rồi nào cuối thung, bỗng nhô lên bóng tàn tán sặc sỡ cao khỏi ngọn cây đến hai thước, một bóng người mặc áo dài đen thắt lưng xanh, chít khăn điều vụt nhô lên trên ngọn lá, cao lênh khênh tưởng chừng đi trên cây, người này bắc loa gọi lê thê, truyền thượng lệnh, miệng loa bằng miệng thúng cái, cứ khua đảo tít, nghe như gọi loa dẹp đường cho đám rước đi.

                - Tấ... ấn... ấn! Bi... in... inh... inh!

                Quản Kình chĩa súng, gọi giật chủ:

                - Cậu hai! Nó sắp đánh lên! Võ Minh Thần chiếu ống dòm, tiếng loa vừa hô dứt thì hai tiếng "thượng đội", chợt chàng trai hơi dội người ngạc nhiên, thấy từ các tàn cây thung tả vụt nhô lên khá nhiều lính cổ, lính kim tay múa tít súng trận, tất cả đều ngất nghểu vượt khỏi tàn cây, như một đội binh đi trên ngọn lá vậy.

                - Mục tiêu vừa tầm súng... Ngon dữ à! Nổ chứ cậu hai? Võ xua tay, Tây Gầm vuốt râu cười khà, vẻ đắc ý hết sức:

                - Cứ để coi nó giở trò gì đã! Thầy trò ngươi cứ ngồi xem. Bữa nay ta làm gỏi luôn cả "con ma trăm mặt"!

                Minh Thần, Quản Kình đã biết rõ sức lợi hại của Tây Sắc, Đông Âm, thấy Tây Gầm đầy vẻ khoái chí như tự tin vào khẩu kích pháo của y hết sức, chàng trai khẽ bảo:

                - Quân người, quân thú đông như rươi. Tây Sắc, Đông Âm đi như gió thoảng, xuất quỷ nhập thần. Một khẩu súng thần tốc mấy cũng khó lòng ngăn nổi. Chỗ ta đứng đây, lại chưa quét thẳng cả tứ phía. Mỗ lấy làm lo ngại...

                Tây Gầm cười bí mật, đập hai ngón tay lên hai ngôi sao cầu vai, làm hiệu. Ngay khi đó, trên tàn cây, lũ binh cao ngất nghểu vụt biến sạch, chỉ còn người gọi loa "hạ đội". Lập tức tiếng trống chiêng chuyển nhịp. Bọn Minh Thần thấy thung tả vọt ra một đội binh kim cổ nữa, kẻ cưỡi ngựa, người đi bộ, khiêng nhiều tấm phên, thang, dây thừng móc, coi rất có trật tự, không khác một đội binh cận đại chuẩn bị công thành.

                Quản Kình cau mày lẩm bẩm:

                - Quái! Chúng làm gì thế kia? Minh Thần quan sát, khẽ bảo:

                - Hình như chúng chuẩn bị thượng sơn!

                Nhưng đầu núi này cao hàng năm, bảy chục thước, thang ngắn kia sao bắc tới?

                Lòng vẫn gờm Tây Sắc, Minh Thần đưa mắt quan sát phía thang lửa, vụt bảo Tây Gầm:

                - Chó sói lên núi không kém sơn dương! Tây Sắc có thể cho quân bọc hậu hoặc đánh từ đuôi hạc lại. Núi này nhiều điểm tựa, mấy tay súng ngắm không dễ gì! Ta nên tính trước!

                Tây Gầm vẫn ung dung, xua tay, tiến lại chỗ Nam Khấp, cúi dòm y chép. Nam Khấp phát âm chìm:

                - Tượng hình này chắc từ thời thượng cổ, coi như chữ ma chữ quỷ. Tụi nó sắp lên chưa?

                Tây Gầm vuốt râu, vỗ chát vào cây súng lớn:

                - Có cái này tiễn chúng rồi! Riêng Tây Sắc, Đông Âm phải cậy tay nhà ngươi mới được! Món này có lẽ vô dụng với chúng! Nhà ngươi chép được nhiều chưa?

                - Chưa được nửa! Nhưng nhà ngươi yên trí, tụi nó thính hơi lắm, chưa dễ gì đưa đầu quân gia ra cho ngươi bắn đâu!

                Vừa dứt lời, bỗng nghe tiếng quát "Thượng sơn", bon Minh Thần nhìn về cánh thung tả, vụt thấy nhiều bóng vọt ra cao lêu nghêu trên tàn cây, mãi khắc đó, mới hay bọn này toàn đi cà kheo, ít nhất có đến bảy, tám chục tên, đi chậm không cần gậy chống, nhưng mỗi bước dài cả chục thước tây, dập dờn, lắc lư múa tít súng. Đội này tiến ra đi lẫn với đội mang phên, thang theo tiếng loa gọi, chợt dàn hàng ngang, theo hình cánh cung ôm lấy khu đầu núi. Bất thần Tây Sắc hét "À, Tây Gầm giỏi!" Nam Khấp đang chép vùng bảo:

                - Đó thấy chưa? Ta đoán không sai! Nó ngửi thấy mùi lính khó xanh khố đỏ rồi!

                Quả nhiên, phía thung tả tiếng Tây Sắc kéo lê góc rừng:

                - Đông Âm! Nhà mi định thí quân, tham vòng ngọc xua nó vào miệng súng Quỷ phương Tây! Đội quân mã Đông Âm đang rầm rộ vượt qua thung lũng bao lấy đầu núi, bỗng nẻo hậu quân có tiếng quát chói tai, quân mã dừng cả lại.

                Từ phía tả rừng, bất thần vọt ra một chiếc càng gấm, co tán vàng tán tía che rợp, vừa hiện ra đám tàn tán, cáng đã chạy phốc lên trước trận, loằng ngoằng cứ lướt trên mặt đất vài mươi bộ, lại bắn vọt lên cao coi rất lạ mắt.

                - Cáng "Ma trăm mặt"

                - A! Tên ma quân này đến ngày tận số rồi. Dám cả gan xuất đầu lược trận trước họng súng Tây Gầm. Để ta thả cho một viên nếm mùi kích pháo!

                "Quỷ phương Tây" xốc áo, quay luôn mũi súng lớn xuống thung, nhưng Võ Minh Thần đã đưa tay ngăn lại:

                - Khoan! Đông Âm ẩn hiện như ma quái, càng gấm chẳng có gì trong đâu!Ngu mỗ đã bị hắn lừa mấy lần, nã tung cáng, như bắn vào không khí!

                Tây Gầm nhún vai, vỗ lên miệng súng, cùng thấy trò Minh Thần dòm xuống, thấy chiếc cáng gấm có tàn che vừa lướt ra trước trận, bỗng trọng bọn đi theo co năm, sáu tên chạy vụt len phía đầu núi chỗ bọn Minh Thần đang trấn trên, chỉ còn cách khoảng bảy, tám chục thước tây chợt cả mấy tên cùng dàn hàng ngang, sát nhau, cúi khom mình hết, ngước lên nhất loạt, lập tức bao nhiêu cây cà kheo ghép đôi vụt theo người chúng vụt lên nối làm một, cao ngất nghểu gấp đôi trước.

                Bọn đi cà kheo vừa nhô cao lập tức có năm, sáu tên xách thang tre chạy vù tới giật cạch nối dài gấp hai, ba lần đặt phịch lên hai vai tên đi kheo. Bọn này nhanh gọn, răm rắp không khác bọn người máy, không chậm nửa khắc, đến nỗi bọn Võ Minh Thần chỉ kịp thấy loang loáng từng động tác, còn đang ngạc nhiên chưa hiểu chúng làm trò gì đã thấy cáng gấm tàn tán chạy vụt tới. Nhìn kỹ mới hay cáng gấm có hai cô gái khiêng cáng, và mấy gã đàn ông che tàn tán, tất cả đều chạy bộ nhanh hết sức.

                Khi cả bọn tới gần chỗ thang bắc, lập tức nhảy vèo lên bậc thang thứ bảy, thứ tám, và chạy vùn vụt lên ngọn thang, nhanh không kém loài khỉ, vượn. Vừa tới ngọn thang, cả bọn lập tức bắn lên không, không khác đạp phải lò xo.

                Và từ trên cao cả đám tàn tán cáng nhè nhẹ hạ xuống y hệt lũ người cầm ô dù cản gió nhảy.

                Ngay khi đám cáng tàn vọt lên cao, bọn dưới lại xách thang, lướt cà kheo chạy vù về nẻo khác cũng hướng vào ven núi. Thang cao vội để đám cáng tàn chạy tới leo lên ngọn, vọt bắn lên không.

                Cứ thế, hết chỗ nọ đến chỗ kia, bọn này lao về nẻo cuối gió, sát khu hữu thuộc quân Tây Sắc, cuối cùng lại xẹt về chỗ cũ, mất dạng sau cây lá. Bỗng có tiếng hét vang hàng chục dặm:

                - Tây Sắc! Nhà tinh báo cho thánh quân biết có quân bạch quỷ, ngăn thánh quân thượng sơn, là có ý chi?

                Phía hữu thung, tiếng Tây Sắc vọng âm:

                - Ma Vương chúa không thích quân ngươi chết uổng! Tiếng Bá Âm cười thét:

                - Còn nhà tinh?

                - Ta? Hà há! Sao dám ví với quân ta? Ngọn Pi A Ya cao ngất trời, quân Ma vương vượt trong nháy mắt, sá chi rặng núi thấp này? Đông Âm! Ta thấy quân ngươi khiêng vác đồ lên núi, coi nặng nề bất tiện. Vậy để ta lên núi, bắt thằng mặt sắt, xong nhà ngươi gặp ta, cũng đủ rồi.

                Tiếng Bá Âm hét giận:

                - Chúa sài lang nhà tinh mi dám coi thường lính thánh quân thế sao? Hãy đợi dưới thung, quả nhân lên, xuống sẽ gặp nhà tinh không muộn!

                Hai bên từ hai đầu thung tiếp tục đòi lên núi trước, không ai chịu nhường. Quân Tây Sắc ẩn kín, riêng quân Đông Âm chập chờn ẩn hiện xa xa. Tây Gầm đứng lên sốt ruột, vùng hô như lệnh vỡ bằng tiếng Thổ:

                - Dài dòng vô ích! Kẻ nào đòi lên trước, đã sợ không dám đánh nhau hao lực lượng sao hai tên chúa trùm không đánh tay đôi cho gọn.

                Nam Khấp đang mải ghi chép vừa nghe dứt lời Tây Gầm, Nam Khấp vùng nói lớn:

                - Ôi chao! Con két con vịt còn bay trên trời, hai đứa đã đánh nhau chí tử, đòi nấu măng, bỏ lò, tưởng không gì ngu bằng. Tây Sắc, Đông Âm là phường quỷ quái khi nào mắc mẹo nhà ngươi? Tây Gầm nhà ngươi cứ lau súng cho kỹ có việc dùng đến nơi rồi đó.

                Bọn Võ Minh Thần chưa hiểu y nói có ý chi lạ không bỗng lại nghe Nam Khấp gọi:

                - Tây Sắc! Đông Âm! Mẹo các người không lừa nổi ta đâu! Tây Gầm bố trận kín như bưng, nhường cho hai lối đi về âm phủ đó. Tiếc ta đang bận xem vòng. Này Tây Sắc, Đông Âm, các người có tên nào đọc được chữ tượng hình không? Nếu không hãy về học trước sẽ kiếm vòng đọc sau là hơn!

                Lời vừa dứt, bỗng nghe Tây Sắc hét vang động sơn lâm, tiếp theo một tràng tru hú cực kỳ phẫn nộ:

                - À! Thằng mặt sắt ngu nhất cõi trần! Sao lại cho "con ma khóc" đó xem vòng càn khôn? Xem xong nó sẽ cho mi nghe bài kèn đám ma! Tiếng tru hú kéo lê thê nhọn hoắt, đầy phẫn khí, rõ ràng Chúa Sài Lang chỉ sợ kẻ khác sẽ khám phá được điều bí mật quan hệ trong chiếc vong kỳ dị. Võ Minh Thần nghe tiếng quát Tây Sắc bất giác giật mình nghĩ:

                - Nghe giọng "nó" rõ ràng nó đã biết điều bí ẩn yểm tàng trong chiếc vòng càn khôn. Vòng này một bộ ba chiếc, Tây Sắc tài nghệ lợi hại phi thường, chẳng rõ thuật ma hay quỷ công? Người lịch duyệt như vị chúa Pi A Ya cũng chưa dám quyết đoán nó theo pháp môn nào? Biết đâu tài thuật của nó như vầng huyết khí tiết ra bao bọc xác thú chẳng luyện từ bảo pháp môn bí kíp vòng càn khôn? Nên "nó" mới tỏ vẻ cực phẫn vì sợ kẻ khác cùng phát giác ra điều đó trong vòng ngọc. Mà lạ kỳ, Tây Gầm còn có quân sao im lặng? Tây Sắc, Đông Âm đều là quân xảo, lẽ nào cứ mất thì giờ cãi vã suông đòi lên trước lên sau? À thì ra...

                Chàng trai vụt đảo lia ống dòm nhìn khắp mấy ngọn núi đá quanh mình, thình lình quân Đông Âm mất dang, rồi từ trong tàn lá, chiếc cáng gấm xẹt ra, hét:

                - Tây Sắc! Tây Gầm! Nam Khấp! Trai điển! Ma vương chúa lên bắt vòng xanh!

                Theo tiếng hét, từ sau lùm cây thung hữu vọt ra một cỗ kiệu sơn son thếp vàng, mấy mặt rèm che kín, kiệu do bốn con cơn cẩu to lớn ghé vai khiêng hai chân như người.

                Ngay khi đó có nhiều tiếng sói tru, trống giục, cồng khua, quân reo, ngựa hí hai đầu thung lũng phía trước. Quản Kình hăm hở hoành ngang cây trung liên, lăm le khạc đạn, vọt ra bờ đá rậm cành lá, cười khà:

                - Ôi! Tụi này ngu dữ à! Kiệu cáng nghênh ngang lượn trước mặt Tây Gầm... Hà hà! Hai phút là tan kiệu cáng! Coi đây!

                Vừa lúc đó, Quỷ phương Tây chụp vội một viên, quỳ xuống, tỳ phăng bàn đạp vào một mỏm đá, chúc mũi súng, vác vai, chực thả. Bỗng nghe Nam Khấp phát tiếng trầm trầm.

                - Quỷ phương Tây! Nhà ngươi chê nó ngu, mà nhà ngươi thấy kiệu cáng định nổ đó ư? Ôi! Gầm thế không sợ nó cười sao? Liệu thổi kèn chào đi! Nó kia kìa!

                Võ Minh Thần, Quản Kình thấy hình tuyết Nam Khấp ngồi trong kẹt đá, đang lúi húi soi soi chép chép, không trông ra, cứ nói như "xó". Hai thầy trò cũng Tây Gầm đều ngạc nhiên nhìn quanh dưới thung, kiệu son cáng gấm xẹt ngang xẹt dọc nhanh như tên bắn, ào ào như sắp tấn công bất thần lại nghe tiếng hét trên cao léo nheo hàng chục giọng đúng tiếng Bá Diện Ma Quân.

                - À sài lang chúa! Ta đoán không sai mà! Giở trò Hàn Tín đánh Trần Thương, định đoạt tay trên!

                Thầy trò Võ Minh Thần giật mình trông lên ngọn núi xế trốc đầu, thoáng chiếc cang gấm hiện ra sặc sỡ y hệt chiếc dưới thung, tưởng chừng đó là cái "phách" dưới bốc lên.

                Sực lại thấy trên mỏm đá cao chót vót ngang đấy, vụt thò lên hình thù một con hồng cẩu quẩy to lớn đi hai chân lông vàng óng như tơ, bờm sư tử, đúng hình con tinh Chúa sài lang tứ túc Hồng Cẩu Quay Hấp Tinh Quân Tây Sắc Ma Vương.

                Võ Minh Thần đứng trong lùm cây rậm ngó lên, không ngờ Tây Gầm lại phản ứng nhạy bén đến thế, tiếng cười của Tây Sắc chưa kịp ngân, y thả liền hai trái đạn lớn nhanh như chầy máy.

                Chỉ nghe cạch bùng cạch bùng, cả hai mỏm đá chỏm Tây Sắc, Đông Âm vừa hiện đã bay phăng đi như có bàn tay vô hình bốc ném xuống thung lũng. Mỏm đá bay lẹ đến nỗi mắt thầy trò Võ đều thoáng thấy cả hình đá cùng hình động vật vụt hiện rồi vụt biến mất, chẳng rõ có bị đạn pháo trực xạ ném đi không?

                Mới cách đây ít phút, Võ Minh Thần đã được thấy tận mắt tài trực xạ kích pháo cực kỳ chính xác của Tây Gầm, bắn bay luôn mỏm đá hình chó bên kia thung, giờ lại thấy cả hai mỏm đá Tây Sắc, Đông Âm đứng bay mất, tâm trạng chàng trai thật là trái ngược.

                Vừa mừng dứt được hai mối nguy lớn trong thiên hạ, vừa lo mất hy vọng tìm ra nguồn gốc thân thế mình, them nỗi xót xa không tự tay giết được con tinh thú, chàng trai buột miệng kêu lớn:

                - Trời! Chúng đâu rồi? Không lẽ chết tiêu? Tây Gầm cầm trái đạn cánh quạt gãi râu sồn sột, hai con mắt mèo quét trọn ngọn núi, thình lình nghe sau núi đột dậy tiếng sói tru, người hú vang động lẫn từng trang súng nổ đì đẹt, vụt có tiếng ma âm nhọn hoắt cất lên, rõ tiếng Tây Sắc lẫn cả giọng Đông Âm:

                - Quỷ Tây! Mi bắn nhanh như máy, nhưng súng ống nhà nước mi không phạm nổi chúa sài lang đâu!

                - Tây Gầm! Mi bắn trộm lẹ đó! Nhưng thánh quân Bá Âm Bá Diện đâu có thể bị súng tây tru diệt. Hà hà! Lính tráng nhà mi liệu ngăn nổi thánh quân không?

                Võ Minh Thần nghiêng tai nghe ngóng, vụt bảo Tây Gầm, Nam Khấp:

                - Quân ma quái đã lên sườn núi! Cả hai đều đánh tập hậu! có lẽ chính Đông Âm, Tây Sắc mở đường.

                Vừa lên tiếng, chàng trai đưa mắt nhìn Nam Khấp, thấy hình tuyết khối vẫn ngồi soi soi chép chép, mê man như không nghe cả rặng núi đang chuyển động ầm ầm như sắp vỡ đôi.

                Chợt nghe y phát âm:

                - Này trai điển! Ruột cái vòng này coi vậy mà nhiều chữ tượng hình như đàn kiến, xem chừng lát nữa mới xong! Cảm phiền nhà ngươi ngồi chơi đợi bọn ta chút!

                Chang trai ngó qua nói lớn:

                - Quân chúng thượng sơn rồi. Loài quỷ mắt đỏ vượt núi nhanh hết sức, bọn ta phải dời lên cao điểm mới được...

                Thản nhiên hình tuyết vẫn chép lia lịa:

                - Trai điển! Chúng đánh lộn nhau đó! Nhà ngươi chưa biết "Quỷ phương Tây" sao? Hắn đi đâu cũng đặt cối xay quanh mình, mấy đứa vượt được, trừ Tây Sắc, Đông Âm.

                Thầy trò Võ Minh Thần lắng nghe, tiếng súng đì đẹt từ hai đầu núi sau, mỗi lúc gần thêm. Nhưng từ ngọn nui đổ xuống vẫn yên lặng, chỉ có mặt tiền sơn, dưới thung lũng, vẫn thấp thoáng ẩn hiện hai cánh quân quái nhân, dị thú đang kéo qua thung như sắp tấn công dữ, nhưng cả hai đám này cũng thưa dần, chừng luồn rừng vòng ra sau núi phụ lực bọn đánh tập hậu.

                Và tít ngọn cao chót vót cũng chẳng thấy bóng Tây Sắc, Đông Âm đâu nữa. Thế núi từ khu chúng xuất hiện nhìn xuống khu đầu bị cắt thành một vực rộng, vách dựng đứng y hệt chỗ gáy cổ con hạc cúi uống nước.

                - Địa thế này chưa dễ gì chúng nhảy xuống được trong nháy mắt! Để mỗ lên chỗ cao quan sát xem sao? Chú Quản trấn dưới này!

                - Vậy để ta đưa nhà ngươi lên coi chơi! Võ Minh Thần lập tức xách dù theo Tây Gầm vọt ra phía sau núi, mới hay phía này cũng bị cắt vòng cổ, dưới con thung rộng, nhưng mình hạc ăn ra loe đúng chỗ này, chỉ thấy một khoảng thung chót vót từ dưới lên cũng chỉ độ năm, bảy thước! Tuy vậy, chẳng thấy bóng giặc nào, sườn núi cũng vắng hoe, quân giặc lại vòng sang tới mình hạc đánh lên.

                Không khỏi ngạc nhiên, Võ bảo Tây Gầm:

                - Lạ dữ! Sao nó không đánh thẳng lên chỗ ta trấn, lại lên chỗ cao mua thêm gian hiểm?

                Tây Gầm vuốt râu:

                - Chỗ này thấp sườn lại dựng ngược. Có chỗ nào lên được ta đặt cối xay rồi còn đâu? Nào! Ta lên mình hạc.

                Vừa nói lão vừa ra hiệu, dẫn Võ len lỏi qua các kẽ đá, mảng ghềnh, cây rậm, leo vùn vụt lên trên.

                Tây Gầm tuy người to lớn, leo nhanh hết sức, rõ tay từng chuyen luyện võ nghệ Á Đông khiến Võ Minh Thần bất giác lấy làm lạ, vì từ nhỏ, chàng đã theo sư phụ đi nhiều xứ, chưa hề thấy một nhân vật võ lâm nào lại là người Tây phương.

                - À thì ra đây là một viên tướng Tây. Chắc ông Tây này từng lăn lóc rừng già Á châu. Xem ngôn ngữ, cử chỉ nhiễm đầy vẻ "dân Châu Á". Nếu vậy Nam Khấp cũng chẳng phải là ma quái chi cả. À! Ta hiểu rồi. Dị nhân! Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu... Tứ dị biên thùy. Lạ thật, xem Tây Gầm đầy vẻ tự tin trận thế lắm, chắc binh mã phải đông, nấp đâu kín dữ à?

                Bèn ngầm phát điện công, giơ bàn tay ra, quyết thử một đường quanh sườn đá. Đang vượt núi, ngoảnh trông lại, Tây Gầm hoi:

                - Nhà ngươi làm gì thế? À! Phát điện sờ động vật, tìm quân ta? Bất tất! Lên sẽ thấy!

                Võ Minh Thần cùng Tây Gầm vượt ngọn núi trên nhìn xuống, quả đúng như lời Nam Khấp nói, chỉ thấy quân Tây Sắc, Đông Âm đang tranh nhau đứng lên núi, vừa vượt vừa nổ súng, xáp lại gần nhau và đã lên đến lưng chừng sườn núi. Phải nhìn thật kỹ mới thấy bóng người, bóng thú ẩn hiện sau cành lá và phía dưới thung vẫn thấy bóng vọt lên lố nhố. Sườn đá bên này cũng thưa cây, nên có thể quan sát bao quát cả một vùng.

                Không thấy Tây Sắc, Đông Âm đâu, Võ Minh Thần đưa mắt tìm quanh, bỗng thấy đá vụn, cành lá từ sau một ngọn núi trong rặng sơn bắn ào ào lên không, quay tít như có cơn lốc dữ. Chàng trai quay bảo Tây Gầm:

                - Tây Sắc, Đông Âm đang tử chiến tranh đường. Phải đề phòng chúng có thể lao thẳng tới đây!

                Tây Gầm vụt bảo:

                - Nó mải quần nhau sau mỏm đá kia... Ha ha! Để ta cho no mấy phát! Minh Thần vừa xua tay làm hiệu ngăn đã thấy Tây Gầm thả "cạch" viên đạn vào họng súng. Y bắn nhanh, bất thần đến độ chàng trai phải lạ lùng. Thì ra vừa nói, y đã vừa dùng mắt phỏng định tọa độ, chính xác het mức. Liền hai phát đạn vọt lên theo lối bắn vòng cầu, rót trung luôn chỗ có đá vụn, cành lá bay lên. Ầm ầm! Đá, đất, cành lá bắn loáng sầm mục tiêu. Võ Minh Thần đứng nhìn không chớp mắt, tưởng chừng đập địch thủ nát tiêu hồn xác. Nào dè, chỉ mươi khắc sau, bỗng nghe tiếng hét vang âm, sau mỏm núi còn gần hơn chỗ vừa rồi.

                -À! Quỷ phương Tây gớm thật! Nó nấp làm cách nào trông thấy trên này mà bắn. Đông Âm! Ta với mi hoãn chiến, bắt chúng xong sẽ đánh. Để ta sai "trành" đi coi chúng nấp đâu?

                -Được! Ta cũng thả "gà" ra xem sao! Võ Minh Thần chột lòng, bảo Tây Gầm:

                -À! Đông Âm có "ma gà", Tây Sắc có "ma trành", lợi hại gớm ghê. Giờ vẫn còn dương khí, trành, ma chưa làm gì được, nhưng nó có thể dò ra vị trí ta, báo cho chủ tới. Ta làm cách nào ngăn nổi?

                Tây Gầm vỗ mạnh vai chàng trai cười khà:

                - Dục tốc bất đạt! Nhà ngươi chưa biết chính ta muốn chúng kéo lên gần chỏm núi mới nổ. Hà hà! Cối xay đã đặt sẵn, chỉ còn chờ đợi lúa đổ vào, là... Ô! Lạ dữ chưa kìa... Chó bắn súng! Coi! Chó bắn súng như người.

                Tây Gầm nhô hẳn mình khỏi chỗ nấp, trỏ xuống triền dưới, mắt mèo trợn ngược. Võ Minh Thần dòm theo quả nhiên thấy phía trận tuyen Tây Sắc, thỉnh thoảng lại thấy một bóng sơn cẩu vượt lên, tranh đường với quân Đông Âm, khí thế có phần hung tợn hơn.

                Còn quân Đông Âm đang vượt đi, vừa quăng mình lên vừa bắn chặn quân Tây Sắc. Vì từ thung tả vòng đầu núi đánh tập hậu nên quân Đông Âm đoạt thượng phong, đường tiến gần đầu thác hơn. Còn quân Tây Sắc vì vòng mỏm núi, nên lâm hạ phong, nhưng đàn quái thú này xem chừng vượt núi nhanh hơn đội binh dị, đã vượt lên trien cao hơn hai mươi bộ và đang tiến chếch lại, có con ngăn chặn đường dị binh.

                Nhưng vì núi này là loại núi đá lẫn đất như hầu hết núi trên thượng du, trừ những rặng núi đá vôi mạn Gián Khẩu Đế Viên Ninh Bình, nên sườn ke đá có nhiều cây cỏ, chỗ rậm, chỗ thưa, nên chỉ thoáng thấy bóng người, vật mấy giây lại khuất vào cây đá mất.

                Tây Gầm đầy vẻ hứng khởi hỏi Minh Thần:

                - Này trai điển! Nhà ngươi đã thấy chó bắn súng bao giờ chưa? Vo gật đầu:

                - Ngu mỗ mới thấy đêm qua! Cũng quân Tây Sắc!

                Tây Gầm đưa cả họng kích pháo gãi sồn sột:

                - Lạ dữ! Khỉ vượn bắn súng, ta đã thấy, nhưng chưa thấy chó bắn bao giờ! Trước nghe chúng bảo, ta vẫn cho chuyện hoang đường! Giống chó tuy trí khôn không thua khỉ, vượn nhưng chân nó ngón ngắn, cứng, chụm như chân cọp, làm sao điều khiển súng ống được? Ta ngờ người đội lốt!

                Võ nói, vẻ đăm chiêu:

                - Nhưng tiên sinh không thấy chúng chỉ lớn nhỏ như thường thôi, trừnhững con đầu đàn trưởng đội. Người đâu chui vừa lốt chó? Ngay Tây Sắc tinh quân, nó còn ghê gấp trăm người ta!

                - Muốn rõ, cứ bắn gục, nhặt xác xem là biết ngay! Trận này sẽ lượm được nhiều xác chúng.

                Võ Minh Thần lắc đầu:

                - Chuyện đó không khi nào xảy ra! Tien sinh đừng đợi mất công! Giống sơn cẩu này có thói quen ăn thịt tất cả giống sinh vật nào gục chết! Con sơn cẩu nào bị đạn không dậy nổi, đồng loại lập tức xúm vào nuốt chửng không còn một cái lông. Tiên sinh đã quen sao?

                Tây Gầm lại gãi râu. Thình lình nghe tiếng tru sởn óc, triền dưới tiếng súng đột dậy lên dữ dội, vẳng tiếng thét lê thê. Võ Minh Thần đảo luồng nhãn, bỗng giật thoắt mình thấy trên ngọn núi xế trước mặt, cách vài ba bộ, vọt bắn lên một hình đỏ chót như máu, rồi lại thấy một hình đen thui như than Tàu từ ngả khác bắn xẹt ra. Cả hai bóng chao loằng nhoằng như con ong vẽ, rồi cùng lao vút vào một mỏm đá cành xóa mất dạng. Bỗng nghe "ầm, bùng" như sấm nguồn vang, âm, cành lá, đá vụn, hoa cỏ bắn lên tung tóe, cả khu đó vụt sầm lại như có từng vũng máu đỏ, mực Tàu bốc ngụt. Tây Gầm vừa ló đầu ra dòm, "chíu chíu" đạn réo muốn bỏng chỏm núi, y rut luôn đầu vào, vỗ đốp miệng kích pháo, nói oang oang:

                - Ôi! Lũ này vượt núi nhanh như khỉ vượn! Nó kéo tới kia rồi! Phải mở cối xay mới được! Dứt lời, Tây Gầm rút luôn trong túi dết ra một chiếc kèn đồng, đưa lên miệng thổi một tràng.

                Âm đồng vừa dứt, thình lình nghe khắp bốn phương tám hướng tiếng kèn nổi lên gấp gấp, "đùng" tiếng nổ lớn. Võ Minh Thần đưa mắt nhìn khắp bốn bề đã thấy cờ hiệu mọc lên như nấm, rải rác mấy hàng ngang từ đầu núi đến cuối, cách ngọn chừng vài mươi bộ.

                - Ô! Cờ quạt gì mà lắm thế này? Tiên sinh làm mẹo gì chăng? Chàng trai vừa dứt lời đã nghe tiếng súng nổ ran tứ phía. Loạt đầu là súng cối xay, súng tay, từ trên núi bắn xuống tuyến Đông Âm, Tây Sắc. Lập tức các bọn người, vật phía dưới vụt biến mất, và đạn từ dưới vãi lên như mưa rào, rót cả vào mỏm đá chỗ Võ Minh Thần, Tây Gầm đứng.

                Tây Gầm lẩm bẩm "Nó nấp sau điểm tựa roi", y gãi đầu sồn sột, đưa loa kèn lên miệng thổi "tò te".

                Lập tức, tiếng cánh quạt sè sè trốc đầu lẫn từng vệt nhỏ, bắn tung loang loáng trên triền, lẫn những xác người, xác thú bắn tung, quay lộn như những hình "hàng mã" tưởng chừng trái núi sắp nổ tung theo.

                Giữa cảnh đạn phá nhiều tiếng người vật kêu tru rợn óc, Võ Minh Thần đứng chiều ống dòm quan sát, hỏi Tây Gầm:

                - Pháo từ các rặng núi quanh rót sang?

                - Vài dàn kíp pháo, phóng lựu thôi! Chúng bắn luân phiên. Võ Minh Thần để ý thấy đạn nổ thẳng từng hàng ngang từ đầu núi tới cuối núi, đều như kẻ một "đường nổ" chẳng khác nào chôn mìn xong giật dây vậy. Bỗng "đùng, đùng" liền một trang đạn nổ từ phía cuối núi chạy đều tới đằng đầu, cứ cách khoảng mười lăm bộ một phát, và đạn nổ chạy dần về phía hai người đứng. "Đùng" phát cách chỗ Võ Minh Thần chừng mười lăm bộ. Chàng trai vội cùng Tây Gầm nấp sau phiến đá, ngửa mặt dòm lên, chỗ đứng tuy kín mấy mặt, nhưng lại lộ thiên, chàng trai vội nắm tay Tây Gầm giật giọng:

                - Chúng rót tới đây! Chạy mau!

                - Chớ ngại! Nó không nổ tới nữa đâu! Tuy thấy Tây Gầm điềm nhiên như thường, chàng trai vẫn không thể yên lòng được. Chỉ chực vọt, nào ngờ quả nhiên tới đó, đường đạn ngừng ngay lại, "đùng" phát nổ xế bên, cách xa hơn phát trước mười lăm bộ và cứ thế tiếp tục nổ theo lố chân chữ "V".

                Không khỏi ngạc nhiên, Võ Minh Thần ghé mắt quan sát mấy phía, Tây Gầm đưa cả cây kích pháo lên cằm gãi râu xồm, cười khà đắc ý.

                - Thấy chưa? À nhà ngươi ngạc nhiên? Ồ! Có gì đâu? Chỗ này là "tử giác", ta đã định trước khi lấy tọa độ rồi. Khà khà. Tụi lục lâm thảo khấu ma quái biên thùy nó gọi ta là "Tây Gầm" vì trong cơ binh ta, bọn pháo đều bắn giỏi như "đánh đáo lỗ", khắp biên thùy chỗ nào có mặt ta là phải có gầm. Hà hà! Mỗi tiếng gầm là...

                Bất thần, đang cười khoái chí, nói dở, y bỗng giật mình, đập vào vai Võ Minh Thần kêu "nó kìa". Võ nhìn vội theo tay y trỏ, vụt thấy bóng đỏ đen quái đản từ sau một mỏm đá cũng vọt chếch về phía hai người đứng, luồn qua tầm đạn pháo nổ theo hình chữ "V". Hai bóng này xẹt vụt vào sau một ghềnh đá rậm cây mất dạng. Tây Gầm lẹ như chớp rót luôn một phát cầu vồng, nổ trúng chỗ hai con quái vừa lăn vào, gọn như "cả cái" vào "lỗ đáo".

                Đúng lúc nhanh và chính xác đến nỗi Võ Minh Thần phải "ồ" khẽ, nín thở, tưởng phen này hai bóng quái nổ tan, nào dè tiếng nổ vừa dứt, vùng nghe cả tiếng Tây Sắc lẫn Đông Âm vụt hét dữ:

                - À to gan bắn trộm! Tiếng pháo Tây Gầm!

                - Nó nấp sau phiến đá... vai hạc kia Minh Thần không khỏi kinh dị, chĩa luôn súng phòng hờ, giục Tây Gầm tháo lui, nhưng đã muộn.

                Giữa tiếng nổi đì đùng, từ hai phía, hai hình đen đỏ cùng vọt lại, loáng cái biến sau cành lá, nhũ ghềnh và đã vượt qua khỏi tầm đạn pháo.

                - Nó khoác áo đỏ, áo đen?

                - Không phải áo! Đó là vầng khí kết cực kỳ lợi hại! Không thể để chúng xáp lại! Quả không hổ danh Tây Gầm, nghe Võ nói, y gật đầu, tay phải cầm đạn thả vào miệng súng, tay trái đưa kèn tây lên miệng thổi tò te, tò te.

                Âm động vang dậy núi cao, lập tức đã nghe tiếng cánh quạt se sẽ trốc đầu, rồi thấy từng vùng đá, đất, cành, lá bắn tung, tạo thành một đường nổ dày đặc, và giữa vùng đạn nổ, thoáng có bóng đỏ, đen xẹt vùn vụt, ẩn hiện chập chờn... Rồi mất dạng.

                Tây Gầm dừng tay cùng Minh Thần nhìn theo đường nổ chạy dần xa, Tây Gầm thở phì:

                - Dồn nó tháo ra xa rồi. Giờ ta có thể xuống dưới! Tụi chúng khó lòng lên đây nổi. Giữa tiếng đạn nổ đì đùng đì đẹt, Võ Minh Thần cùng Tây Gầm lao xuống chỗ đầu núi nhìn lúc phải khom mình nằm rạt xuống tránh luồng đạn vãi đậu.

                Xuống đến nơi, vẫn thấy hình tuyết Nam Khấp đang ngồi mải mê ghi chép lia lịa như không hề biết đến cảnh đạn nổ như vỡ núi quanh mình. Quản Kình chống súng đứng xem, vẻ khắc khoải hết sức.

                Võ Minh Thần vừa toan cất lời, bỗng lại nghe tiếng Tây Sắc hét đầu núi trên:

                - Tây Gầm! Mi pháo giỏi! Nhưng chỉ ngăn nổi quân gia, khong ngăn nổi Ma Vương đâu!

                - Quỷ Tây! Bữa nay thánh quân đem binh ít, bị pháo mi cản, nhưng cản sao nổi thánh quân. Có gan dừng quân nói chuyện với thánh quân.

                Tây Gầm quát:

                - Đã biết pháo gầm, sao chưa rút đi cho quân đỡ chết?

                Tiếng Bá Âm cười thét:

                - À nếu còn thích đánh, thánh quân tiếp chiến. Tây Sắc! Hợp binh chứ?

                - Được! Quân đánh quân, tướng đấu tướng. Nay ta ra điều ước: Ta, ngươi hoãn xung, cùng xuống tính xong bọn chúng sẽ hay! Tây Gầm dòm lên, thụt luôn hai phát... Nhưng chẳng thấy ai. Cả giận y thổi kèn ra lệnh cho đội pháo "gầm" nhất loạt, bắn tứ tung đầu cánh hạc. Dưới triền núi, súng lại nổ dữ, không còn nghe hai hình quái Tây Sắc, Đông Âm đâu. Hoàng hôn đổ xuống núi đèo, thung lũng. Cảnh trận giữa lâm tuyền như mờ xóa sau lớp khói sương.

                Võ Minh Thần thấy trời xầm tối. bảo:

                - Tây Sắc tinh, Bá Diện ma đều hợp âm, trong đêm tối chúng càng lợi hại.

                Phải làm cách nào... gấp mới được.

                Bỗng Nam Khấp phát âm:

                - Gần xong rồi. Này quỷ Tây, dồn tụi quân nó về phía cuối núi là việc của ngươi đó. Tây Sắc, Đông Âm sắp tới đây, nhà ngươi gầm mấy cũng không ngăn nổi đâu.

                Tây Gầm cười khà:

                - Ta hiểu chứ! Nãy giờ ta chỉ làm việc phụ, còn việc chính ta cậy ngươi. Nếu không ta đâu chịu lặn lội cầu ngươi như Lưu Bị cầu Gia Cát. Dứt lời, dứt kèn thổi lệnh luôn.

                Tiếng súng dội lên, xa dần về cuối núi. Bỗng có tiếng Bá Âm trên ngọn núi cánh hạc hét xuống.

                - Nam Khấp! Nhà ngươi nên lui, cho quả nhân bắt vòng xanh! Nhà ngươi làm gì kín tiếng thế?

                Hình tuyết không đáp, cứ cắm cúi chép, miệng lẩm bẩm:

                - Tụi này định hù cả mình. Đứng núi này, nói núi nọ. Sắp xong rồi!

                Võ Minh Thần nhìn xuống thung lũng trước mặt, chẳng thấy còn bóng quân Đông Âm nào, bỗng lại nghe tiếng Bá Âm hét như đóng búa vào tai:

                - Tây Gầm! Dạ thần xuống rồi! Pháo đội nhà ngươi còn bảo vệ chủ tướng được không? Đêm nay thánh quân sẽ cho ngươi tắm "Cường toan bạch cốt"! Tây Gầm quát oang oang:

                - Bản chức đã có pháo lửa, cối xay đặt sẵn quanh đây, muốn mất mạng cứ mò xuống!

                Tiếng Bá Âm cười thét:

                - Pháo lửa soi sao nổi ma trành ma xó? Cối xay bắn sao nổi hồn ma? Ha ha! Bạch cốt! Bạch cốt! Tiếng nói tận chỏm núi trên hất xuống. Tây Gầm chiếu tướng thụt luôn hai trái đạn pháo.

                Lúc đó, hoàng hôn đã bôi lọ núi rừng, súng vẫn nổ đì đẹt đì đùng phía sau núi đổ xuống cuối thung. Giữa tiếng súng nổ, có tiếng cười quái gở của Ma Quân Bá Diện, bọn Minh Thần đang trấn gần con thác, bất thần trong cảnh tranh tối tranh sáng, từ đâu nhảy vọt xuống một hình thù quái gở lắc lư khật khưỡng chờn vờn ngay trước mặt họ.

                Hình thù này vọt xuống nhanh kỳ dị, chỉ nghe tiếng xé gió đến "vụt" cái, đã thấy rõ sừng sững ngay cách chừng mười lăm sải tay. Trời nhá nhem tối, ai nấy vẫn nhìn thấy rõ đó là một bộ xương trắng hếu, hai con mắt lân tinh xanh lè nhấp nháy lao liên, ống xương tay xương chân lêu nghêu, xương sườn xương quai xanh khua lục cục, coi phát gớm.

                Tây Gầm hơi giật mình chĩa luôn khẩu bích kích pháo định thả đạn, nhưng Võ Minh Thần đứng bên đã giơ tay ngăn lại, thì thào:

                - Khoan! Chỉ là bộ xương khô! Chớ mắc lừa hắn.

                Lời vừa dứt đã thấy bộ xương khô nhảy tót mấy cái rồi bất thần nghe "vụt" tiếng, nó vụt nhảy biến đâu mất.

                Nam Khấp bỗng phát giọng âm trầm:

                - Đừng bắn nữa Tây Gầm! Điec tai vô ích! Đuổi chúng dang xa xa đủ rồi, giành đạn lát bắn, giờ để ý tới Tây Sắc, Đông Âm! Chúng sắp tới đó!

                Tây Gầm có vẻ trọng lời Nam Khấp hết sức, vừa nghe dứt y đưa luôn kèn lên miệng thổi. Tiếng kèn vang đong hoàng hôn, lập tức ba bề bốn bên kèn đồng đáp ứng vang rền. Súng im lập tức.

                Cả thung lũng vụt rơi vào yên lặng. Thứ yên lặng rờn rợn như có bước chân của loài âm vật đang mò tới.

                Sực nhớ đến Bạch Cẩu, Hắc Cẩu, chàng trai Võ khẽ kêu lên mấy tiếng. Hai con chó núi to lớn từ chỗ buộc ngựa kín chạy vụt tới quẩn chân Võ, Kình kêu "hí hí".

                Bỗng cả hai chồm lên phía sau Võ, ai nấy dòm lại, "vút" từ đâu hình thù bộ xương khô nhảy xuống, cách hai mươi sải, lắc lư, lêu nghêu, đu đưa hai ống tay trắng hếu, mắt lân tinh dòm quanh, hai con chó chực nhảy vọt ra vồ, Võ vội ra hiệu cản lại. Bộ xương lại nhẩu vút đâu mất.

                Rào cành lá, đã lại thấy nó nhảy xuống, lần này đứng lù lù ngả nghiêng trên một tàn cây thấp, rồi lại nhảy đâu mất. Võ thì thào:

                - Hắn đứng đâu "thả" bộ xương dụ ta đó! Tây Gầm nói nhỏ:

                - Cứ để nó xuất hiện, cho nếm mùi cối xay.

                Bỗng nghe tiếng Bá Diện vọng tới:

                - Tây Gầm! Ngươi còn cậy vào cối xay pháo gầm? Hà hà! Xay được "trành" "xó" không?... Ngươi tưởng thánh quân không biết ngươi chôn cối xay quanh đầu hạc thác này sao? Này! Bốn phía bốn cái xay!

                Vừa nghe dứt Tây Gầm giật nảy mình kêu khẽ:

                - Ồ! Con ma trăm mặt này nói như ma xó! Sao nó lại biết bốn khẩu ta chôn kỹ!

                Thầy trò Võ cũng ngạc nhiên, ngó quanh, thử phát điện rê một vòng, không thấy âm ba nhân điện dội lại, chàng trai bèn đảo móc tay xuống kẹt đá, mới phát giác bốn khối nhân điện chìm. Thì ra quanh đây có bốn ổ súng cối xay, nhưng tất cả đều "chôn" sâu dưới hốc, rê sơ trên mặt đá không thấy. Chàng trai bất giác rúng động tâm thần, nghĩ:

                - Hắn nói không ngoa! Súng ống lính tráng địch sao nổi "xó trành"? Phàm ma quỷ tinh tiệm, trành xó... vv... thuộc loài âm, chúng vượt khỏi cả định luật vật lý trăm cõi hữu hình, súng ống vô công bất quá chỉ xô dạt nó đi chốc lát, sao diệt nổi? Tây Sắc và Đông Âm đã lợi hại, nay nếu nó khiến "trành, xó" lên vật, Tây Gầm tất nguy!

                Bèn ghé sát tai cặp chó núi, ra hiệu. Bạch, Hắc cẩu vọt đi luôn, êm như ru, đảo quanh đầu hạc. Cả hai thầy trò đều khắc khoải, quét tia luồng nhãn tuyến khắp bốn bề, chỉ thấy bóng lá đen lay động, mỗi lúc một đen thêm. Quản Kình thì thầm:

                - Trăng hạ tuần chưa đến, bóng núi đổ tối om đến nơi! Chắc chắn "nó" lảng vảng đầy thung lũng...

                Võ liếc nhìn về phía Nam Khấp, thấy trời đã sập tối, hình tuyết vẫn soi soi chép chép lờ mờ trong cảnh tranh tối tranh sáng, có hai bàn tay tám ngón đỏ như gạch nung, cầm chiếc vòng giơ lên, cái vòng điểm huyết coi cũng rực lên lạ mặt, còn hình thù y trắng xóa như hình tượng bằng vôi tỏa.

                Đang cơn khắc khoải đợi chờ phút hiểm nghèo, bỗng nghe Nam Khấp thở phì một hơi dài, phát âm trầm nhưng đầy hứng khởi.

                - Vạn cảm! Vạn cảm! Xong rồi! Xong rồi! Ôi! Càn khôn, càn khôn hựu càn khôn, càn khôn biến hóa! Đời như kiếp phù du, bóng ngựa qua cửa sổ... Ôi! Đời ta không phù du! Từ nay ta còn hy vọng. Hy vọng còn hơn vô vọng. Ôi! Đến lúc ta trả ơn rồi đây!

                Ai nấy quay lại, trong bóng mờ, thấy bàn tay y vẫy vẫy, cả ba vọt luôn tới. Nam Khấp cầm vòng trao trả Võ Minh Thần, bảo:

                - Này! Người bạn trẻ! Khấp này xin hoàn lại kỷ vật thiêng liêng cho người bạn! Cảm ơn! Cảm ơn!

                Võ Minh Thần thấy y cúi đầu xuống, vẻ cung kính hết sức, chàng trai vội đưa tay đỡ lấy cái vòng và cũng cúi đầu xuống tỏ dấu cung kính đáp lễ lại, dịu dàng:

                - Có gì đâu tiên sinh phải nặng lời! Rất tiếc mỗ đây chẳng có hoa tay để chép giúp tiên sinh. Nay đã xong vậy mỗ xin cất đi ngay cho chắc!

                Vừa nói, Võ vừa nhét vòng điểm huyết vào mình, còn thấy nóng ran da thịt. Chợt nghe Nam Khấp vùng bảo:

                - À này! Khấp lấy làm lạ: Sao tụi Tây Sắc Đông Âm không hỏi mượn người bạn mà chép mà lại gây chiến dữ dội? Người bạn có tiếc gì đâu?

                Võ Minh Thần buột miệng:

                - Tây Sắc còn sục mỗ hạ sát, kể chi việc đoạt vòng. Vả có mượn, mỗ cũng không đưa vì chính nó là kẻ đại cừu giết mẹ... Còn Đông Âm, vốn gặp đã thị oai hách bách!

                - Nhưng sao người bạn lại cho ta mượn? Chàng trai hơi lúng túng:

                - Mỗ đây đâu có để tâm đến càn khôn, mỗ chỉ giữ kỷ vật... Có lẽ cũng vì tiếng kèn của tiên sinh. Mỗ nghĩ một kẻ bất luận thuộc chủng loại nào, đã mang lòng sầu dương thế, biết khổ kiếp phù sinh, tất chẳng thể là hạng tham tàn đê tiện. Thường kẻ đã đê tiện đều là kẻ không biết đến kiếp phù sinh, coi tài vật như của ở muôn đời với y...

                Nam Khấp bỗng cười thét:

                - Bất luận chủng loại nào? Hà há! Thế người bạn cho Khấp là giống quái gì đây?

                Võ đang thắc mắc, chưa dám quyết y vật gì trong vòng hàn băng khí, chàng định cất tiếng hỏi, bỗng Nam Khấp bảo:

                - À! Nó sắp lên đây rồi. Giờ mặc Khấp đền tình tri ngộ. Tây Gầm mau cùng người bạn rút khỏi chỗ này, bằng chậm trễ sẽ nguy như bỡn. Hai đứa nó hợp sức đồng công sắp sai ma trành ma xó tới. Khấp giao chiến chế ngự hai đứa lẫn bầy trành xó không phải dễ. Rút mau. Khấp cản nó cho! Đoạn thì thào dặn như thế, như thế... Võ Minh Thần rất muốn thoat khỏi "vùng ma quái", nhưng vốn tính trung hậu, bèn lo ngại hỏi:

                - Nếu rút cả đi, còn một mình tiên sinh đây thì sao? Tụi chúng cực kỳ lợi hại. Mình Tây Sắc, trận "Bát Quái Mê Hồn Tu Tinh" của chúa Pi A Ya hết sức ghê gớm còn chưa vây khốn được nó, huống chi lại thêm Đông Âm.

                Nam Khấp xua tay:

                - Chớ ngại! Khấp đã nhận lời giúp Tây Gầm trừ Tây Sắc, tất đã có mẹo riêng tùy cơ ứng biến. À người bạn biết nhận ra hướng đi chứ? Minh Thần gật đầu, Nam Khấp phất tay, Tây Gầm y lời ra hiệu cho bốn ổ súng cối xay rút xuống sau núi. Mấy ổ súng này vừa triệt xong thì trời tối sập. Võ Minh Thần, Quản Kình, Tây Gầm vừa rời khỏi khu giữa đầu hạc, ra chưa tới mép ghềnh bỗng từ trong con thác nhảy vụt ra bộ xương khô.

                Bộ xương khô khật khưỡng trôi trên mặt đá lồi lõm khua lục cục. Nó đảo tứ phía như tìm kiếm ai rồi đi thẳng về phía Nam Khấp ngồi. Được mười bộ, nó dừng lại, lắc lư đảo như đồng rồi lại khật khưỡng quay mạt đi về phía con thác xế bên tả.

                Phải tinh mắt lắm mới nhận ra một lãnh phong đẩy tới đẩy lui, vì lúc đó trên núi cao gió thổi rì rào, lá cây xào xạc lẫn lộn cả. Thầy trò Minh Thần bất giác giật mình nghĩ:

                - Mới mấy tháng trước, lãnh phong phát ào ào đẩy xương khô, giờ thu nhỏ hẳn kình lực này, chẳng hiểu có phải luồng ma phong hay...

                Bỗng bộ xương nhảy chồm chồm, nhảy loạn tứ tung, nhảy sát tới chỗ bọn Minh Thần đứng, tay đung đưa quất vào cành lá. Bọn Minh Thần cứ mặc, bỗng nghe Nam Khấp thét chìm:

                - Bá Âm Bá Diện! Muốn đến cứ lên, còn sai nó mò mẫm gì nào? Sao nhà ngươi không làm sẩm sờ có tiện không? Này, hai đứa! Ta đợi đây sao chưa lên? Tưởng ta tin hai đứa đang đứng trên ngọn núi kia ư? Này! Ta tặng kèn quý, nghe vào ắt tăng tuổi thọ! Nghe chơi!

                "Vút"! Bộ xương nhảy vào con thác mất dạng. Tiếng kèn Nam Khấp nổi lên giữa chốn hoang sơn tối đen bóng núi, rừng rú âm u, tiếng kèn đưa đám nghe thê thảm đến nỗi da gà, tưởng chừng ma quỷ nằm dưới lòng đất cũng động niệm "sinh sinh hóa hóa cái hình phù du" mà đội mồ chui lên... khóc theo.

                Thầy trò Võ đã từng được nghe tiếng kèn này, nhưng ban nãy còn hoàng hôn, nghe còn đượm cả nỗi sầu man mác. Giờ chẳng còn man mác gì nữa, mà nghe thê lương muốn chết rã người. Đúng là kèn đưa ma, đưa luôn thính giả xuống mồ. Qua mấy cung thảm sầu, cung sau không chỉ là âm thảm nữa mà mỗi tiếng "ồ, ồ, ò, è" lại còn là một nhát búa bổ vào màng tai, thân xác, hồn thính giả. Nhưng kèn chỉ trỏ về ba mặt, chừa mặt hậu xế nên sức bùa đóng dùi xiên cũng nhẹ. Nhưng cả bọn Minh Thần, Quản Kình, Tây Gam cũng vừa nghe qua đã buồn rũ cả người, động niềm tử biệt sinh ly. Cả mấy người cùng mấy con vật vùng sa nước mắt. May thay Quản Kình lật đật kéo áo Minh Thần, Tây Gầm giục khẽ:

                - Rút mau cậu hai! Kèn ma gọi! Chúng sắp tới! Võ Minh Thần, Tây Gầm vội cùng y lau nước mắt, giắt ngựa chó rút vội xuống triền núi thoải. Nhưng vừa xuống mép ghềnh, đã nghe tiếng Chúa sài lang hét vang âm:

                - Tiếng kèn chi khốn kiếp như kèn đưa ma. Ôi! Nam Khap! Mi là giống gỗ đá sao mà lại thổi cung kèn kinh tởm thế? Mi không còn khúc nào dễ nghe hơn ư? Khúc gì đó?

                Tiếng Nam Khấp nói như khóc rống:

                - Lâm Khốc đó! Ôi! Cuộc thế phù du, đời người ngắn ngủi, đời chó lại còn ngắn hơn. Nội khắp muôn loài muôn vật, loài nào mà chả lâm cảnh... phải nghe kèn đưa ma? Đông Tây Kim Cổ bao giờ chả thế? Lâm khốc, lâm khốc, lâm tai, lâm nạn, lâm bệnh, lâm tử, lâm ly, lâm gì chả vậy?

                Tiếng kèn lại rống lên. Lại nghe tiếng hét "Chúa Ma Vương hòa theo", tiếp liền có tiếng đàn tỳ nổi lên bổng trầm ai oán thổi! "Thánh quân góp ban nhạc bá âm" rồi lập tức như có cả một ban đại hòa tấu góp vào đủ thứ loại nhạc cụ. Tây Gầm than:

                - Ôi! Gẩy đàn, hòa nhạc! Ai ngờ hai đứa lại thạo cả nghề cầm!

                Chợt bên tai có tiếng truyền âm:

                - Nó mắc mẹo ta rồi! Xuống núi mau! Bọn Võ không dám chậm, lập tức đưa nhau xuống núi như giông.

                Bên tai vẫn nghe tiếng hòa Tàu thê lương. Bỗng im. Rồi tiếng kèn lại nổi lên, thê thảm còn hơn khúc trước. Khi bọn Minh Thần xuống lưng triền núi, nghe tiếng Tây Sắc hét:

                - Cung kèn khốn đốn chi nghe thảm khốc thế?

                - Hu hu! Đó là khúc My My thời Thương mạt đó!

                - Láo! Thánh quân nghe bài đó đã thất truyền từ ngàn vạn năm. Mi sao biết nổi?

                - Bá Âm! Từ Thái Sư Quyên tới đời Thương mạt Trụ Vương cách bao nhiêu thế kỷ? Sao Thái Sư Quyên học được đàn của Thái Sư Diện? Ngươi cũng là kẻ hiểu âm, sao chẳng biết: Kẻ hiếu âm hữu duyên có thể học được đàn người đã thác? Bài này do Trụ vương cùng với viên quan coi nhạc triều là Sư Quyên làm ra. Vào thời Tấn Bình Công làm bá chủ, Vệ Linh Công đi phó hội với vua Tấn, khi đến sông Bộc Thủy, nhân trời tối phải ngủ lại bên sông. Nửa đêm, bỗng gió thổi hắt hiu, từ dưới sông bỗng vẳng đưa lên tiếng đàn trầm bổng nghe hay lạ. Vua Vệ bèn gọi Thái Sư Quyên dậy. Quyên nghe xong bảo nếu được nghe lần nữa thì có thể họa được.

                Vua Vệ bèn truyền ở lại Bộc Thủy đêm nữa. Quả nhiên lại nghe tiếng đàn dưới sông vẳng đưa lên. Thái Sư Quyên lấy đàn ra họa được. Khi tới gặp Tấn Bình Công, vua Vệ đem chuyện lạ kể cho vua Tấn nghe. Vua Tan vốn thích nhạc, có đem theo một cây đàn hay nhất đương thời. Vua Tấn bảo Quyên gảy. Cung đàn như gió. Vua Tấn nghe thích lắm, nhưng Sư Khoáng vội xua tay bảo:

                - Thôi, thôi! Chớ gảy khúc đàn vong quốc đó! Hai vua hỏi, Sư Khoáng đáp:

                - Đó là khúc My My! Trụ Vương cùng Sư Quyên đặt ra khúc này. Sau mất nước với nhà Châu. Trụ Vương thiêu trên lầu Trích Tinh, còn Sư Quyên ôm đàn chạy đến Bộc Thủy nhảy xuống nước chết. Từ đó hễ ai hiếu âm đi qua thường nghe tiếng đàn dưới sống Bộc Thủy vẳng lên khúc My My.

                Tiếng kèn nức nở kêu than, làm bọn Minh Thần tê tái cả tầm hồn. Bỗng lại nghe tiếng đàn tỳ, tiếng nhạc hòa tấu cùng cất lên trầm bổng cả cánh rừng, lá cây muốn rũ xuống.

                Giây khắc im. Rồi lại nghe thấy tiếng đàn Nam Khấp nổi lên, lần này lại còn hay, thảm hơn cả khúc My My, tưởng như dòng nước chảy triền miên cuộn trăm vạn nỗi sầu dương gian. Đến nỗi bọn Võ Minh Thần đang thả ngựa xuống núi gập ghềnh, nghe tiếng kèn lại tưởng mình đang trôi trên dòng băng giang mùa nước lũ. Tiếng kèn tha thiết bỗng cuộn cuộn ào ào, cảm giác hệt như đang cưỡi thuyền độc mộc, đổ thác bà thác ông mien Lục Yên Châu. Kèn im. Võ Minh Thần đang bàng hoàng trong cảm giác bềnh bồng, bỗng hơi giật mình lấy làm lạ, chợt nghe tiếng Ma Quân Bá Âm kêu chói tai đủ giọng đúng hệt đám hát tuồng:

                - Ôi chao Nam Khấp! Ngươi thổi điệu kèn chi quái gở dữ! Nghe như đổngười ta xuống thác bà thác ông! Khúc chi hay dữ thế? Rõ quả nhân chưa nghe bao giờ!

                Có tiếng Nam Khấp cười khà:

                - Thanh Thủy! Chính khúc Thanh Thủy Sư Khoáng đã dạo cho Tấn Bình

                Công, Vệ Linh Công nghe đó.

                Trong hơi gió rừng đêm, lại nghe tiếng Tây Sắc hét vang âm:

                - Ma Nam loạn ngôn! Mi tưởng Chúa sài lang Ma vương không thông âm nhạc sao? Ma Vương học cả trăm nhạc cụ, làu cả ngàn cung kim cổ Đông Tây. Tai chưa từng được nghe khúc đó lần nào? Khúc Thanh Thủy đã that truyền từ đời nhà Châu sao mi biết được.

                Võ Minh Thần quay bảo Tây Gầm:

                - Tiên sinh nghĩ sao? Nam Khấp sao lại biết cả cung thất truyền?

                Quản Kình lên tiếng giục: "Đi thôi cậu hai". Ba người vừa bíu đá đổ triền, lại nghe tiếng Nam Khấp quát lớn:

                - Ta đã học được khúc My My sao không học nổi khúc Thanh Thủy? Nguyên sau khi xua tay bảo Thái Sư Quyên đừng dạo khúc My My, và kể rõ lai lịch khúc đàn vong quốc này, Sư Khoáng bèn ôm đàn dạo khúc Thanh Thủy cho hai vua Tấn, Vệ nghe. Sư Khoáng vốn là tay đàn hay, thạo âm luật nhất nước Tấn, nhất cả thiên hạ đương thời. Trước Sư Khoáng học nhạc đã hay lắm nhưng vẫn cho là dở, tự bảo: "Đàn chưa hay là vì tâm còn rộn. Tâm còn rộn là vì đôi mắt hãy còn nhìn thấy ngoại vật". Bèn lấy ngải cứu xông mù đôi mắt. Từ đó nghề đàn không ai bằng, đến độ siêu thần nhập hóa, nghe đàn hiểu được cát hung thịnh suy. Tấn Bình Công phong làm quan coi về nhạc, thường dẫn đi theo. Sau khi gẩy khúc Thanh Thủy, hai vua vỗ tay khen nức nở, cho là tuyệt diệu, hay nhất đời. Điệu này Sư Khoáng không truyền. Sau khi Bình Công mất, Sư Khoáng đem theo xuống suối vàng. Nhưng cũng như Sư Quên ôm khúc My My nhảy xuống sông Bộc, hồn thiêng Sư Khoáng vẫn lang thang trong cõi u minh, không chịu siêu sinh. Những đêm trăng mờ sao nhạt, giá lạnh sương sa, hồn hiếu âm thường lẩn tới những miền thác lớn. Tưởng cung Thanh Thủy hậu thế kẻ nào hiếu âm thường nghe thấy. Ta đây chu du thiên hạ, một đêm đến bờ sông Hoàng Hà, được nghe tiếng Sư Khoáng mà học được cung xưa đó.

                - À! Dạo lần nữa cho ta cùng họa.

                Tiếng kèn nổi lên, tiếp luon tiếng đàn tì, rồi tiếng bá âm nổi dậy, cung âm trầm bổng như có hàng trăm nhạc công đại hợp tấu. Rừng sâu như biến thành cả trăm dòng đại giang, thác lũ ào ào. Rồi đàn im.

                Bọn Võ Minh Thần đổ triền, còn cách mặt đất hơn chục bộ, bỗng lại nghe tiếng Ma Quân, Ma Vương cùng hét:

                - Ha ha! Có lẽ không còn cung nào hay bằng cung Thanh Thủy này nữa! Điềm nhiên tiếng Nam Khấp vang lên:

                - Khúc Thanh Thủy này tuy hay nhưng cũng chưa hay bằng khúc Thanh

                Đốc!

                Có tiếng Bá Âm quát:

                - Ma Nam tuyết! Nhà ngươi nói sao? Thanh Đốc còn hay hơn Thanh

                Thủy? Ngươi biết chăng?

                Lạnh lùng, Nam Khấp trầm lời:

                - Biết chứ! Ta đã gặp hồn Sư Khoáng hiện trên sông Hoàng Hà, cùng khách tri âm như Tử Kỳ gặp Bá Nha, tất Sư Khoáng phải truyền Thanh Đốc chứ!

                Tiếng Tây Sắc cười thét:

                - Đại ngôn! Ta tưởng mi đặt ra gán cho Sư Khoáng! Nếu quá hay, thử dạo nghe xem!

                Lạnh như băng, Nam Khấp đanh giọng:

                - Khúc này chỉ bực vua chúa có đức mới nghe được! Bọn ngươi bạc đức, lại chẳng phải bậc vương giả, chớ nhắc tới!

                Ma Quân Bá Âm hét giận:

                - Nam Khấp! Sao dám dùng lời khi quân với ta? Ta đây là bậc thánh quân, ngự trị một cõi giang sơn, có đủ văn võ quần thần, tàn vàng tán tía, còn Tay Sắc cũng là hạng Ma Vương Chúa sài lang, có thừa cung điện, đủ lục viện tam cung, quân gia đầy tớ, uy danh trùm biên thùy. Không vua cũng chúa, chẳng chúa cũng vua, sao không nghe được? Thanh Đốc là khúc gì? Mau thổi nghe coi!

                Tiếng Nam Khấp dõng dạc:

                - Bọn ngươi chỉ là giả vương giả chúa, đức bạc như vôi. Nghe Thanh Đốc sẽ mang họa như chơi! Ta khuyên chớ dại. Tấn Bình Công xưa bá chủ chư hầu, vì xây cung Tư Kỳ để dân gian khổ nhọc. Sư Khoáng cho là đức bạc, không chịu gẩy. Vua Tấn không chịu, Sư Khoáng thở dài bảo:

                - Chúa công nghe khúc này e mang vạ vào thân! Vua Tấn bảo:

                - Ta nay già rồi, được nghe điệu đàn hay dầu có chết cũng cam.

                Sư Khoáng buồn bảo:

                - Khúc Thanh Đốc này xưa Hoàng đế hội chư thần nơi núi Thái Sơn mà đặt ra. Về sau vua đức bạc tài hèn không điều khiển nổi chư hầu mà người và thần xa cách. Nay gẩy khúc này, các thần hiện xuống tôi e mang họa.

                Nói xong đành miễn cưỡng ôm đàn gẩy. Khúc Thanh Đốc vừa nổi, tự nhiên mây đen kéo tới, trời đất sa sầm, giông tố nổi dậy ào ào, cát bay đá chạy, cây nghiêng cành gãy, chớp loè sấm động ầm ầm. Rồi mưa đổ xuống như trút nước, ngập cả mấy thước dài, người người kinh sợ. Tan Bình Công hoảng hồn vội truyền bãi tiệc cùng vua Vệ xuống đài. Về sợ quá mang bệnh ít ngày rồi thác.

                Tiếng Tây Sắc hỏi:

                - Nam Khấp! Ta có đọc sách cổ thấy ghi Sư Khoáng còn dạo khúc Thanh Thương bi thảm. Sư Khoáng không truyền cho hay sao?

                - À! Thanh Thương bi ai đó ta đã hợp cùng hai cung Khấp đạo trước My My, ngươi không nghe biết ư?

                - Tây Sắc nhiều lời! Để y thổi Thanh Đốc mau! Thủa xưa khúc dậy có thần hiện xuống. Nay, giờ khúc đó thổi, liệu có ma quỷ thần thánh nào xuống chăng? Ôi! Ngươi làm quả nhân cảm hứng quá lắm rồi! Thổi đi!

                Lạnh khô Nam Khấp thét:

                - Ma quỷ kéo về đây sau khúc Thanh Thủy, không phải đợi Thanh Đốc. Thanh Đốc! Thanh Đốc! Vua Hoàng Đế hội chư thần, đặt ra dạo cho chư thần nghe, bọn ngươi toàn đồ ma quỷ tính chuyện nghe cung thần, có phen mất mạng. Nghe ta nói chứ? Đi mau đi! Đi cho khuất! Chớ nghe Thanh Đốc! Thanh Đốc nổi lên sẽ có chớp loè sấm động lở long, chư thần hiện về gầm rống, nổi trận lôi đình, đập tiêu ma quỷ, bọn ngươi biết điều đi mau.

                Võ Minh Thần vốn tay nhanh trí, nghe giọng Nam Khấp quát bọn Tây Sắc, chàng giật mình, chợt hiểu ý giục bọn chàng, vì "không chờ Thanh Đốc, đi mau cho khuất, ma quỷ đã kéo về đây". Chàng lật đật kéo áo Tây Gầm giục, Tây Gầm lia lịa bảo "Ta hiểu". Cả ba dắt ngựa rút nhanh xuống núi.

                Vẳng nghe tiếng Ma Quân thét giục. Nam Khấp vùng quát:

                - À! Bọn ma quỷ đòi nghe cung thần đây! Ta thổi Thanh Đốc bọn mi khá đứng cho vững, coi chừng thiên lôi, chớ trách ta không báo trước.

                Lời vừa dứt thì bọn Minh Thần cũng vừa đổ hết triền núi, dắt ngựa, dắt chó, nhảy vèo xuống thung lũng. Bốn bề quạnh vắng lạ lùng, có một toán lính dắt cành cây chạy vù lại đón Tây Gầm. Cả bọn đứng sau bụi mây, dòm ra phía cánh rừng đầu núi, thấy cành lá đen lay động vật vờ nhè nhẹ. Bỗng Võ Minh

                Thần để ý thấy mấy luồng lá cây hoa cỏ nhất loạt rạp về phía trước như có kỳ phong thổi, luồng lá rạp cứ thế chạy chếch vót lên ngang núi, chỗ cổ họng, cứ chạy tới đâu, phía sau lá lại lật ngay ngắn như cũ, phảng phất như có những luồng hắc khí vút qua, âm phong lạnh lẽo lạ thường.

                Chàng trai thì thào:

                - Hồn ma bóng quỷ nương cây cao bóng tối dạt cả lại chân núi đằng kia rồi!

                Tây Gầm khẽ bảo:

                - Sửa soạn lên đường mau! Nam Khấp thổi kèn dụ ma, thầy trò ngươi chỉ còn lo tính lũ quân canh.

                Rat nhanh, tất cả kiểm soát lại dây nịt ngựa, súng ống, khoác hành trang, khiên giáp. Thình lình tiếng kèn trên núi cất lên, âm thanh uy mãnh lạ kỳ, nghe ào ào như có phong ba bão táp kéo về, suốt từ chân núi đổ lên, cây cối bỗng ngả nghiêng lay động, bụi cát bay loạn, không khí như bị đè ép nặng nề. Bọn Võ Minh Thần đứng ngoài vòng áp lực còn cảm thấy khí lạnh thấu xương. Quản Kình trợn mắt thì thào:

                - Tiếng kèn ma quỷ! Kèn gì nghe như gió tuyết lạnh thấu xương. Khúc Thanh Đốc đời xưa lại có thể dữ đến thế ư?

                - Không phải vậy đâu! Khúc này Nam Khấp phải vận hết hàn băng cương khí áp đảo tụi nó. Nào! Ra thung! Sắp đến hồi sấm nổi rồi đó. Mau! Tây Gầm cầm khẩu kích pháo cùng toán lính dắt lá cây giục thầy trò Võ dẫn ngựa, chó, nhẹ gót rời chân núi tiến vọt ra phía Tây rừng.

                Thung lũng không một bóng người, vật vờ tàn lá đen lay động. Được chừng hơn năm mươi bộ, bỗng trên núi tiếng kèn dồn dập rống lên như muốn vỡ màng tai. Giữa khi cát đá bay loạn, Tây Gầm dừng lại, chĩa luôn kích pháo lên đầu núi thả "cạch", trái nổ "đùng". Lập tức cả khu sơn lâm kích pháo từ mấy mặt nhất loat khai hỏa rót lên chỗ Nam Khấp, chặn đánh cắt ngang thung lũng, ầm ầm như trời long đất lở.

                Tây Gầm vỗ mạnh vai Võ:

                - Thượng lộ bình an! Lên đường được rồi! Thầy trò Võ Minh Thần chợt hiểu Tây Gầm theo kế Nam Khấp kê đạn làm rào cản hậu. Cả hai lật đật nhảy vọt lên ngựa. Súng nổ đì đùng, lửa thuốc lập loè. Đất cát, đá lớn đá nhỏ bắn tung rào rào, cành cây gãy răng rắc. Vẳng trong tiếng nổ vẫn nghe tiếng kèn thổi rống lên như vu bão. Rất lạ là lẫn vào tiếng kèn lại có cả tiếng đàn tỳ, tiếng bá âm đại hợp tấu xoắn lấy nhau, cùng một cung điệu, cực kỳ uy mãnh.

                Thầy trò Võ Minh Thần ngoái cổ dòm lên đầu núi, bóng núi bóng cây in vào nền trời mờ tối, rõ từng khoảng đen đậm vật vờ nghiêng ngả như có phong ba bão táp lớn trên đó. Chú mục mấy giây, hai người nhận ra các tàn cây ngả rạp về phía thung hữu mặt trước, ngả nhất loạt theo một đường vạch chếch rồi lại bật ngả trở lại, đường nét cao thấp nhấp nhô vật vờ, thoáng cái lại biến hình, chỉ nhác qua nét kỷ hà chợt biến đổi, cũng biết ngay cành lá cỏ hoa mỏm đá bị đạn pháo chấn gãy đổ. Chàng trai bất giác lấy làm lạ, nghĩ thầm:

                - Đạn nổ dữ dội ngang đầu núi! Tây Sắc, Đông Âm vẫn lẩn quất quanh đó hòa nhạc đấu công, bất chấp súng nổ! Lạ thật, quái nhân quái vật cả hai xem ra đều là hạng hiếu âm biết lắm món tài hoa. Không lẽ lại mê nhạc đến độ không biết súng nổ ầm am.

                Đang thắc mắc, bỗng lại nghe tiếng tỳ im, có tiếng Tây Sắc hét nhọn hoắt:

                - À! Ma Nam! Dám dùng nhạc lừa ta thổi kèn gọi lính Tây Gầm bắn súng!

                - Hà hà! Ta đã nói trước. Khúc Thanh Đốc là khúc ông Hoàng đế hội chư thần nơi núi Thái Hằng mới đặt ra làm lễ nhạc hội thần. Tấn Bình Công là bá chủ chư hầu nghe còn thấy thần hiện về hô phong hoán vũ. Nay các ngươi toàn đồ dở ma dở quái, dở người dở ngợm, còn cố đòi nghe khúc nhạc thần. Ôi! Đời nay thần chưa kịp hiện thì bạch quỷ gầm thay, tà ma hội họp có gì lạ đâu?

                Tiếng Nam Khấp vừa dứt, giữa tiếng súng nổ có tiếng Ma Quân hét "Trai điển đâu?" Tiếng Nam Khấp "Hắn ngồi đánh cờ tướng với Tây Gầm sau lưng ta, bọn ngươi đừng hòng đụng tới!"

                Võ Minh Thần vừa quay mặt, giục Quản Kình lướt đi ra phía tả thung. Bỗng nghe đạn nổ ập gần, rồi đường đạn ầm ầm kê đi ngang núi ra thung tả ngay hướng hai người sắp thoát đi.

                Đan chần gần quá đến nỗi bọn Minh Thần phải lùi ngựa lại, quay nhìn Tây Gầm lực lưỡng. Lúc đó Tây Gầm cũng đã cùng tốp thuộc hạ ngụy trang đầy cành lá thót lên ngựa từ khắc nào rồi. Y dựng cây pháo lên yên, gãi râu sồn sột, đảo nhìn tứ phía, và khi đạn nổ ngay phía trước, Tây Gầm lại vỗ đôm đốp vai Võ, hô trầm:

                - Mạnh giỏi! Người anh em! Tụi nó quét đường kia... Đi mau cho yên ổn.

                Quả nhiên, tiếng đạn "chần hoa cải" xa dần chút. Vo Minh Thần chợt hiểu, lòng bồi hồi cảm động, dợm tay cương, khẽ nói:

                - Còn nhị vị tiên sinh? Tây Sắc, Đông Âm lợi hại khó lường...

                - Chớ dài dòng! Chuyện đó Nam Khấp đủ tài đối phó. Đi mau! Coi chừng lộ!

                - Kẻ này xin kính chúc tiên sinh! Gửi lời tạ ơn Nam Khap, đường đời mong có phen gặp lại!

                Lời vừa dứt, Tây Gầm đã vỗ bôm bốp bàn tay hộ pháp vào hông ngựa, con vật chồm lên, hai thầy trò Võ Minh Thần rạp mình lao thốc ra phía súng nổ ầm ì. Bạch cẩu, hắc cẩu chạy sát trước ngựa.

                Ngựa chạy êm ru, thoắt đã phi non trăm thước. Thấy súng vẫn chắn sát trước, cả hai phải hăm nước ngựa đợi tầm đạn ra xa chút mới giục ngựa phóng đi.

                Nhưng lúc này không thể chạy thẳng được, vì có nhiều cành cây gãy đổ, đạn cầy lồi lõm, ngựa phải chạy quanh co. May hai con ngựa vốn nòi ngựa chiến, rất bạo súng, nên cứ cao đầu chồm véo, không vấp ngã.

                Chạy được chừng một trăm bộ nữa, chợt gặp một con suối chảy ngang trước mặt rừng cây tối. Nhờ ánh sao mờ Võ Minh Thần định thần quét luồng nhãn tuyến khắp tả hữu, chợt khẽ bảo Quản Kình:

                - May dữ! Quả nhiên lũ xó trành đã bị kèn đám ma Nam Khấp dụ cả tới đầu núi Hạc rồi. Chỉ còn ngại sơn cẩu hoặc quân lính Đông Âm. Vậy chú lùi lại đi sát phía sau, để tôi quét mấy đường phòng vệ.

                Hiểu ý, Quản Kình hoành ngang trung kiên, lùi lại. Võ Minh Thần vọt lên, đạn vẫn nổ xế trước. Ngựa vọt qua suối, chàng trai quấn cương chồm yên, nằm rạp xuống, đánh vụt hai tay ra, quét nhầu phía trước theo đường cánh cung rộng.

                Trong đêm, tiếng liễu đao xé gió đi "véo véo" xỉa vào các tàn cây rũ, bờ bụi, chém sát mặt cỏ, khí thế mạnh hết sức.

                Được năm chục bộ, chợt Võ thu đao, tay trái xoè ra sờ trong đường cầu vồng từ dưới đất lên khoảng hơn hai thước, lá cành gãy rung rào rào. Ánh sao có lúc chỉ còn trắng mờ giữa nền lá tối. Mắt Võ đã luyện thôi miên, khi vận điện công có thể trông thấy đại khối vật thể cách vài chục thước không cần sờ.

                Đang phi nhanh theo đường tay quét, không chạm vật gì có sức nóng, Võ cứ tiếp tục cho ngựa phóng đều. Nhưng bỗng chàng giật nảy mình, sực thấy một vệt thân cây dựng thẳng vút về bên tay hữu, cao ngất nghểu và chỉ to bằng ngón chân cái.

                - Rừng này toàn cây lớn, làm gì có cây nhỏ xen vào mà lại cao đến thế? À, hai vệt, không phải một.

                Ý nghĩ lóe lên trong đầu, nhanh như chớp, chàng trai phát luôn một nhát, "Chát" cả hai đường thẳng đứt lìa, từ trên cao tít ngọn cây đổ vụt xuống: một khối đen xì, rào dập cành rũ. Khối này tuy đổ bất ngờ vẫn đủ tài dính luôn vào đầu cành rũ, dập dềnh như khỉ đậu cành tre.

                Trong đêm mờ, Võ kịp nhận ra đó là một bóng người, đúng lúc ngựa phi xốc tới, bóng người này chĩa súng xuống bắn, nhưng Võ đã tiện đà dao lia vớt ngay một nhát ngược từ dưới lên, đứt lìa cánh tay. Cái đầu nhảy xuống đất, xac cụt đầu đổ ụp suýt trúng đầu Quản Kình.

                Ngay khi đó con Bạch cẩu chạy về trước, bỗng chồm lên cắn quần Võ. Chàng trai trông ngay thấy một đường tối mờ chạy ngay trước mặt xa hút. Cả hai thầy trò kịp thời quất ngựa nhảy vọt qua. Quản Kình thoáng thấy một vật loáng bay tới, hụp vội đầu. "Phập"! Có tiếng giáo cắm vào thân cây bên đường, Kình rút luôn lưỡi dao lá lan dắt vành khăn, thả vút về phía giáo phóng ra. Có tiếng rú cắt ngang, một bóng người nấp sau một thân cây lớn đổ gục xuống.

                Hai thầy trò vọt ngựa đi, tiếng pháo cũng vừa tắt phía trước. Ngựa vừa ra tới một con thung khác, rất thưa cây, bốn bề quạnh quẽ, đìu hiu. Dưới ánh sao mờ, sơn lâm mở rộng, núi đồi nhấp nhô trùng điệp khắc đậm vào nền trời.

                Hai người quay nhìn lại phía sau, bỗng thấy đạn lửa bay vun vút, vẳng nghe tiếng sói tru vang lừng, gai gợn, đại pháo vẫn chắn đều ngang núi. Cả mừng, Quản Kình bảo chủ:

                - Ta phải rút khỏi vùng này cho mau! Tây Gầm, Nam Khấp đương vây đánh chúng.

                Võ Minh Thần không khỏi lo cho hai nhân vật lạ kỳ. Cảnh Tây Sắc phá trận Mê hồn trong thách động thất Pi A Ya, nhưng lại nghĩ Tây Gầm, Nam Khấp đều là tay khét tiếng trong "Tứ dị", rất đủ tài đối địch với Tây Sắc, Đông Âm nên chàng trai tặc lưỡi giục ngựa cùng Quản Kình phi như gió cuốn.

                Nhờ sức ngựa bay, đôi chó tinh khôn, cả hai cứ theo đường mòn đi không bị nghẽn lối. Đường mòn chạy lên phương Bắc. Hai người đi được hơn một giờ, ngựa chạy tới một miền sơn dân khá trù mật, bèn kiếm lối tạt sang nẻo Tây Bắc, đi miết cho đến lúc trăng lên mới cho ngựa nghỉ chốc lát. Mãi lúc đó mới yên trí thoát khỏi vùng săn đuổi của sài lang chúa.

                Hai thầy trò ngồi nghỉ, nhắc tới Tây Gầm, Nam Khấp, cả hai còn chưa hết lạ lùng. Tuy chưa rõ Nam Khấp là nhân vật chi, nhưng cả hai không khỏi cảm động về tính nết kỳ dị, buồn thê lương của "hình tuyết trắng", đặc biệt là tính sòng phẳng thủ tín của hai nhân vật kỳ dị này. Quản Kình thở phì, lắc đầu:

                - Cả thiên hạ chém giết nhau cốt đoạt vòng. Thú thật lúc cậu hai đưa vòng cho "cục tuyết quái gở" đó, tôi cứ tưởng thế nào y cũng cướp trốc tay. Tôi giận cậu hai hết sức! Thật không ngờ tình thế lại đảo ngược hẳn vì cử chỉ quá thật thà ngờ nghệch của cậu. Thì ra trên đời này, không phải thật thà là ngu dại cả. Chả trách các cụ vẫn dạy "thật thà là cha quỷ quái". Nhưng tại sao vừa gặp cậu hai dễ tin như thế? Có thấy mặt y là gì đâu mà bảo xem tướng?

                Võ Minh Thần bâng khuâng:

                - Thực ra tôi cũng chẳng rõ tại sao lại có thể xử như thế. Có lẽ vì tiếng kèn thê thảm và khẩu khí của Nam Khấp. Tôi là kẻ bạc phận, buồn đau cuộc thế nên sinh lòng kính trọng tin ngay. Vì lẽ dẫu chưa rõ giống chi mà ôm lòng buồn ghê gớm cho thân phận người ta, buồn cho giống nòi gặp hội tang thương, tất linh hồn phải thanh cao, dẫu cần mấy cũng không thể làm điều ô trọc, xấu xa. Nhưng có lẽ chỉ là "phúc chí tâm linh họa lai thần âm" nên tự nhiên tôi tin y lạ thường, nhờ thế mới thoát nạn.

                Hai thầy trò nghỉ ngơi giây lát, lại lên ngựa đi miết về phía Tây xế. Trăng hạ tuần vừa lên, núi rừng hoang vắng, gió đìu hiu như trong mơ. Bóng nhân mã hiện trên ngọn đèo cao, in vào nền trời trăng khuyết, coi như hai bóng hồn đi trên mây.

                Ôm lòng đau thân thế, thù giết mẹ, hiểm nghèo rình rập, chàng tuổi trẻ nghĩa tử mình linh họ Võ quyết lần đến miền động lạ Thanh Âm, tìm bà chúa ngàn thiêng học bí thuật kỳ môn, giết loài linh chúa hòng rửa nhục hờn cho mẹ.

                Comment


                • #9
                  Hồi Thứ Chín



                  Duyên... Oan Trái



                  Khi nghỉ khi đi, đường trường rong ruổi, toàn noi theo thượng đạo xuyên sơn, không gặp chuyện chi nguy hiểm. Ngày kia hai thầy trò Võ Minh Thần chợt đến một miền địa, bản dân rải rác lưng đồi, cảnh lâm tuyền kỳ tú, sương mờ quyện vào cả vó ngựa quan san. Hai người bèn cho ngựa đi bước một, gặp một bọn thổ dân trong rừng ra, đón lại hỏi mới hay đây là miệt Chang Poung.

                  Võ Minh Thần bèn lấy tấm bản đồ của Chúa tể miền Mười Vạn núi Vân Nam ra coi, lại thấy vùng động Thanh Âm ghi trên giấy nằm giữa Chang Poung Đồng Văn gần biên giới, ngay giữa vùng thâm sơn Tây Côn Lĩnh thượng, giáp các rặng Phi Mã chếch Tây Bắc.

                  Tính đường chim bay vào khoảng ngày ngựa, nhưng muốn đi từ mạn Chang Poung tới vùng này phải qua nhiều đường xuyên sơn chắp nối, chưa biết bao nhiêu dặm, đường mòn không ghi hết nhưng có chú nhiều điểm chính về địa hình địa vật, với kẻ quen xuôi ngược thượng du, cũng không lấy gì làm khó.

                  Nhìn kỹ bản đồ mới hay hai thầy trò đã lạc đường, đi hướng khác, vì từ bữa thoát vòng vây Tây Sắc, Đông Âm, hai người cứ đi theo đường chạy lên Đông biên thùy.

                  Võ hỏi Quản Kình:

                  - Vùng này chú đã đi lần nào chưa? Kình nhìn quanh, gật đầu:

                  - Miền này tôi có qua hai lần thì phải, nhưng không phải mạn Tây Nam Chang Poung. Tôi đi từ mạn Cóc Pan, Loung Lan tới Chang Poung, roi vượt biên giới sang Tàu. Một lần, "động" nhà đoan và lính khố xanh phục gắt, mới phải đi xuyên sơn theo hướng Tây Bắc, vào sâu rặng núi đá hiểm tiếp giáp Đồng Văn. Nay ta cứ đi chếch lên Bắc xế Chang Poung, nếu gặp địa thế trước, tôi sẽ nhớ ra đường, chắp nối ít nhất cũng tới được vùng Thanh Âm, không cần hỏi thăm.

                  Võ Minh Thần mừng rỡ, ngước nhìn lên trời:

                  - Hay lắm! Giờ mới giữa trưa, ta kiếm bản nào nghỉ ngơi, người ngựa ăn uống xong sẽ lên đường.

                  Hai thầy trò lẩn vào một ngôi nhà lớn nhất, nghỉ nhờ chốc lát và hỏi mua thực phẩm cho người, vật. Chủ nhà là một viên lý Thổ trước có đi lính Tây đóng đội, biết nói cả tiếng Kinh, tiếng Tây bồi. Gặp thầy trò Võ, lão tiếp đãi rất nồng hậu, sai người nhà làm gà thiết khách, lại đem rượu cẩm pha mật ong ngâm mật gấu ngựa ra đãi, chuyện trò vui vẻ.

                  Lại cung cấp đủ thóc ngon cho ngựa. Khi biết khách có việc phải đi liền, lão lý Thổ lại sai sửa soạn thêm thức ăn đường rất chu đáo. Nhờ vậy hai thầy trò Võ cũng được thư thái nhiều phần, tạm quên những phút hiểm nghèo.

                  Cơm nước, nghỉ ngơi xong, vào khoảng đầu giờ Mùi, hai thầy trò lại từ biệt chủ nhà ra đi. Quản Kình lấy bạc " ôxoè trả, nói mấy lão lý Thổ cũng không chịu nhận. Hai thầy trò đành lên ngựa rời sơn thôn, đi ngược lên mạn Bắc.

                  Quả đúng như Quản Kình phỏng đoán, chỉ đi chừng năm dặm, đã gặp đường xưa. Quản Kình nhận ra địa thế núi đèo, cả mừng, lập tức đưa tiểu chủ xuyên sơn, vừa đi vừa phăng lần thượng đạo, chắp nối các đường liên, đường bản buôn lậu, suối khe. Nhờ vậy, hai thầy trò vượt nhiều vùng hoang dã không cần kiếm thổ dân hỏi thăm đường.

                  Quanh co vượt suối băng đèo, đi tới hoàng hôn, kiếm hang hốc ngủ qua đêm, mai sớm lại lên đường, càng đi càng vào sâu các đợt núi điệp trùng hoang vắng, không một bóng người qua.

                  Vào khoảng ba giờ chiều, vừa xuyên qua mấy rặng núi hiểm, bỗng hai người thấy phía trước mở ra một miền sơn lâm thủy tú, thác đổ ào ào, núi đá dựng thành cao vời vợi, suối khe róc rách. Tuy vào cuối đông, nhưng cảnh lâm tuyền như vào độ xuân, hoa cỏ tươi tốt hết sức, bốn bề chim kêu vượn hú, mặt trời mây che, sương mỏng chăng ngang sườn đá, coi không khác bức tranh thủy mặc Tàu, vẽ cảnh thần tiên nơi thạch động của một vị đạo sĩ, tiên ông nào.

                  Võ Minh Thần, Quản Kình cảm thấy nhẹ nhõm hẳn tâm thần, bao lo toan lắng xuống, lòng khách lữ hành bỗng lâng lâng như lạc tới cảnh sơn kỳ thoát tục.

                  Chàng trai cho ngựa bước một trên lối mòn cỏ non, rải rác đầy hoa rừng, bất giác bảo Quản Kình:

                  - Người ta thường bảo chỗ nào phong cảnh đẹp, hoa nở tốt tươi, thường là chốn cao nhân ẩn trú. Cứ theo lời vị Chúa Thập Vạn Đại Sơn thì bà chúa động Thanh Âm cốt cách thanh cao phóng khoáng như tiên cô, tuy võ công, bí thuật, kỳ môn dị pháp cao cường, ma tâm hồn lại chỉ ưa cảnh nước chảy chim kêu, hoa trôi vượn hú, không khác bậc ẩn sĩ. Nơi đây cảnh trái khác thường, quả là chốn linh địa, hợp với người cao khiết. Có lẽ đã đến miền động Thanh Âm rồi chăng?

                  Quản Kình bảo chủ giở bản đồ ra coi, quan sát địa thế, thấy con đường mòn chạy ôm chân núi đã thành, hai thầy trò đang đi vào một cánh rừng phong quang nhiều hoa dại. Bạch cẩu, Hắc cẩu xem chừng cũng có vẻ thích ý, chạy tung tăng đi trước, sà cả vào bờ bụi hít hoa thơm.

                  Thầy trò Minh Thần đang xem xét thế núi, bỗng thay hai con sơn cẩu phóng lộn lại như giông, nhảy lên cắn ống quần hai người. Biết có chi lạ, cả hai giục ngựa xẹt luôn vào chân núi, nấp sau lùm cây rậm.

                  Bỗng nghe có tiếng chân chạy rầm rập, lẫn cả tiếng nhạc đồng khua loong coong, lẫn cả tiếng chim vỗ cánh phành phạch, tiếng quạ kêu inh ỏi, lại có cả tiếng hú gầm dữ tợn, vẳng tiếng quát tháo the thé.

                  Võ Minh Thần vạch lá chiếu ống dòm quan sát phía Nam, thấy lố nhố bóng người, thú, vừa phi vừa quần thảo nhau như vũ bão, thoắt cái mấy bóng mất dạng. Chừng nửa phút, lại thấy một bóng đen cưỡi thú đen vọt về phía Minh Thần, phía sau có hàng đàn chim dữ, quạ khoang, ó cắt, chèo bẻo, diều hâu... rượt theo từng bầy, xẹt xuống vọt lên không khác đoàn khu trục nhào lộn bắn phá. Phía sau đàn quái điểu có hai bóng áo xanh, áo da bò, cưỡi thú rượt theo gấp gấp.

                  Nhưng xem chừng bóng ao đen không có vẻ hoảng chạy, cứ mỗi quãng lại đảo lại, đánh loạn với hai bóng kia, coi rất dữ dội.

                  Võ Minh Thần lấy kính chiếu xem, nhờ cánh rừng thưa nhìn khá rõ, loáng mắt bóng áo đen đã vọt lại gần, chỉ còn cách non trăm bộ, trong ống kính bóng đen hiện rõ. Đó là một nữ nhân mặc quần áo đen, khoác một mảnh vải đen lòa xòa, mặt mày dữ tợn coi phát gớm. Nữ nhân cầm một lá cờ đen, mỗi lần phất ra, phát những tiếng "bùng, bùng" như sấm nổ, quái điểu rụng lả tả, không dám sà xuống làm dữ. Võ bật giọng bảo Quản Kình:

                  - Kìa!... Cô gái quỷ gặp Hồ Ba Bể đêm nào!

                  Quản Kình coi ống dòm, gật gù:

                  - Đúng rồi!... Cậu hai! A! Cách mấy tháng, xem ra bản lãnh cô ta lợi hại dữ à!

                  Võ Minh Than chăm chú theo dõi cuộc động chiến, gật gù:

                  - Đêm nọ, nàng ta có cờ Lôi Phong đã bị Giao Long Chúa đốt ra tro, nay chắc mới luyện được cờ khác. Xem chừng nàng ta không có vẻ bại trận, sao lại phải vừa đánh vừa chạy?

                  Nháy mắt, cuộc chiến đã chuyển lại gần trong ống kính, bộ mặt bóng đen, thấy rõ mồn một. Quả đúng là quỷ nữ đã từng giao chiến với thuồng luồng tinh Hồ Ba Bể. Cô gái có bộ mặt cực kỳ xấu xí, dữ tợn, với cử chỉ ngôn ngữ khác người đến nỗi Võ Minh Thần cứ tưởng nàng là gái phi phàm thuộc giống yeu ma nào đó đi tìm thù báo oán. Nhưng sau được biết quỷ nữ đó liên hệ với Bạc công chúa. Chàng trai căn cứ vào lời Tửu Chúa, đoán được quỷ nữ chính là đứa bé đẻ rơi mười bảy năm xưa trong quán nước Hồ Ba Bể giữa hôm mưa to gió lớn. Người đàn bà sơn cước mặc quần áo Thổ đi cùng người chồng Kinh mặc quần áo ka ki vàng. Hai vợ chồng bị mấy phái quân thù rượt bắt, đã sinh ra trên đường chạy trốn đã được bà già Dao kỳ dị cứu đem đi. Vo Minh Thần mới đỡ ngỡ nàng ta là giống phi phàm, mặc dầu nàng chưa hề xác nhận điều chi, ngay cả khi giao chiến với Giao Long Chúa. Và hiếu tử xót hiếu nữ, Võ đã liều thân cứu nàng gái quỷ lạ lùng kia, đến nỗi thọ đòn Giao Long suýt vong mạng, lại bị nàng ta mắng nhiếc thậm tệ.

                  Giây khắc, quỷ nữ đã chạy tới gần chỗ bọn Minh Thần nấp, cách chỉ còn chừng non ba mươi bộ chếch. Hai người càng nhìn rõ mặt, quả trên đời này không còn cô gái nào xấu phát ghê rợn hơn thế, trái ngược hẳn dáng thân đẹp thon thon như tượng nặn. Bất giác Võ nghĩ:

                  - Theo lời Tửu chúa, cả hai vợ chồng công chúa Bạc đều đẹp, sao có thể có người con gái xấu dữ đến thế? Theo lời Tửu Chúa, có lúc lão đã tới gần chỗ vợ chồng công chúa Bạc nấp, lão đã thấy mặt đứa trẻ mới sinh. Lão bảo đứa trẻ đó mặt mày đẹp như ngọc chuốt... Nếu phải nàng là con Bạc công chúa, sao lại biến dạng khác hẳn? Có dịp, ta phải hỏi mới được!

                  Ngoài kia, cô gái phi vòng qua chỗ thầy trò Võ nấp. Hai luồng nhãn tuyến quét kia dọc chân núi, thầy trò Võ phải kéo cành lá lòa xòa che trước ngựa. Cô gái quỷ xẹt qua xế chỗ hai người đứng. Thình lình nghe tiếng cười the thé ngay đầu núi, âm vang thung lũng, gai rợn như lưỡi dao nạo mặt nứa:

                  - Nhỏ con chạy đâu đó? Hé hé! Nương nương đứng đây chưa thấy sao?

                  Võ Minh Thần nghe tiếng hét the thé quen vội ghé mắt dòm theo quỷ nữ, thấy nàng ta đang giục beo phi như gió, bất thần đảo xẹt qua nẻo thung ngoài.

                  - Quỷ cà kheo! Hấp Huyết quỷ nương! Lại gặp con đàn bà cà rồng kia rồi... Cô gái nguy mất!

                  Võ Minh Thần bật kêu khe khẽ, thoang lo cho cô gái quỷ. Quản Kình nhác dạng bóng cà kheo giật mình thì thào:

                  - Ôi chao! Lại mụ chuyên hấp huyết! Lôi thôi to! Cậu hai, ta phải cẩn thận!

                  Lời vừa dứt, đã thấy bóng Hấp Huyết quỷ nương vụt hạ thấp mấy nấc kheo, xẹt thốc về phía cô gái quỷ, lấp ló sau ghềnh, đưa tay vẫy:

                  - Nhỏ gái lại đây! Chị đưa về động!

                  Gái quỷ thét:

                  - Cà kheo! Đừng hòng lung lạc! Khi không đón đường gây sự còn nói chuyện rủ rê thừa lời. Muốn bắt cứ đến bắt, tưởng ta sợ mi sao?

                  Hấp Huyết quỷ nương cười ré:

                  - À con nhỏ bướng bỉnh. Gái bướng luyện tinh mới tốt. Về chị truyền thuật lạ còn hơn luẩn quẩn bơ vơ, nhỏ con xấu xí, còn muốn kén chồng nữa sao? Hé hé!

                  Dứt lời Quỷ Nương di động cặp cà kheo. Chỉ thấy loáng, bóng trắng chập chờn như con bướm bay, hình Quỷ Nương đã đứng sát bên kia mỏm đá, thò tay vồ gái quỷ.

                  Cô gái thét lên, phất lá cờ trên tay, nghe "bùng bùng", cả hai giật lùi mấy bộ.

                  Nhưng như tên, Quỷ Nương hú lên một tràng vang âm, dơi kêu chí chóe, đập cánh ào ào bay cắn. Quỷ nữ cả giận đợi Quỷ Nương lại gần, lập tức nhảy vọt ra, vỗ beo, quay vụt một vòng, phất cờ xoè vải khoác, miệng hô "sát" nhọn hoắt.

                  Quỷ Nương đã đề phòng lập tức phát kình phong quật đỡ. Cả một khu khá rộng thình lình như có chớp loè sấm động, khói bay, gió thốc, áp lực nặng nề, đá chạy cát bay, cành gãy, từng khối lửa bay vun vút từng trang liên thanh khạc thập phần dữ dội.

                  Thầy trò Võ chú mục dòm lên, thấy giữa tiếng động ầm ầm, Hấp Huyết quỷ nương chỉ loáng một cái, cả hình lẫn cà kheo đã biến đâu mất, chỉ còn một mình quỷ nữ cưỡi beo lồng xẹt như tên. Liền đó Hấp Huyết quỷ nương xua đàn dơi tràn tới, tình cảnh cô gái quỷ thập phần nguy kịch.

                  Chẳng hiểu sao Võ Minh Thần thấy nôn nóng khác thường, như chính chàng bị vây khốn, chàng trai vũng kêu khẽ:

                  - Quỷ cà kheo lợi hại lắm! Cô ta nguy đến nơi rồi. Phải ra giúp một tay mới được.

                  Dứt lời, toan giục ngựa vụt ra, nhưng Quản Kình đã nắm vội lấy tay cương nhanh giọng:

                  - Khoan đã... cậu hai! Chớ nên hấp tấp! Để coi...! Quay nhìn Quản Kình, chàng trai chẳng biết nên buồn hay giận, khi đọc thấy ngay ánh mắt người quản gia "tất cả sự thương yêu, lo lắng trọn vẹn dành cho tiểu chủ".

                  Lại thấy Quỷ Nương cà kheo đứng sau mỏm đá, thì tay quái phát trảo vồ sang, cô gái quỷ lập tức phất lia lịa lá cờ dị trên tay chặn trảo kình lại. Sức cờ tuy mạnh, cô gái quỷ cũng bị dạt lùi mấy bộ, quỷ nữ hét lên một tiếng "sát" lanh lảnh, vỗ đầu beo vụt boc ra vị trí trống.

                  Võ Minh Thần thấy nàng ta liều lĩnh phơi mình trước mũi cường địch, không khỏi nhột lòng lo ngại, bỗng thấy cả con beo lẫn gái quỷ chợt biến mất, chỉ còn mảnh vải trùm kín một khối như tổ kén khi vừa vụt ra khoảng trống.

                  Chợt hiểu người, vật đã cuộn tròn tấm "giáp pháo hỏa phong liên châu tiễn", Võ Minh Thần cùng Quản Kình cùng nhảy vọt xuống, kéo cả ngựa nằm rạp xuống. Quả nhiên đã thấy "tổ kén lớn" bốc lên khỏi mặt cỏ non thước, quay tít hai vòng, đúng lúc cường địch tứ phía cùng lao tới. Bất thần, từ tấm "giáp pháo", đạn thường, đạn lửa, tên thường, tên lửa bắn vãi ra bốn bề như vãi đậu, đồng thời từng khối lửa, khói vút ra cháy bùng bùng, cả một khu thung vụt nhoáng hào quang, lửa lóe lên, từng vật bay vi vút lẫn tiếng đạn "chíu, chíu" xé gió. Chung quanh quỷ nữ khói bắn ra từng luồng, luồng xám, luồng trắng đi nhanh như tên, khí thế còn dữ hơn lần trước. Thầy trò Võ Minh Thần phục sau mỏm đá thấp cũng bị luồng tên đạn bắn túa vào, may cả hai đã kịp giơ khiên che trước đầu ngựa, chỉ bị một, hai pháo vào khiên còn hầu hết vút trốc đầu, hoặc găm trước mặt, gay cành, rụng lá... rào rào. Hai người ghé mắt dòm ra.

                  Thầy trò Võ Minh Thần nằm theo dõi cũng bị một luồng khói bắn vào chỗ hai người, luồng khói xám nhỏ như giây võng xói trúng mép khiên Quản Kình nghe "xoảng" tiếng như đá vụn bắn vãi, sạt cả bên vai Kình. Giật mình, Quản Kình vừa hít hơi thở đã bật kêu:

                  - Ôi! Khét dữ à! Mùi gì như mùi a xít! Võ Minh Thần nghe kêu, liếc sang mấy mép khiên, có hai lỗ thủng cả vải bọc, dùi luôn lần thép, lúc đó mới hay chính hệt nước cường toan. Còn đang kinh ngạc, đã nghe tiếng quát như sấm ngoài kia, hai người trông xa, thấy đang kia quỷ nữ cũng bị kình phong đẩy lùi mấy bộ về phía Quỷ Nương Hấp Huyết ngay khi tấm "giáp pháo" khạc đạn. Tên Quỷ Nương là tay lợi hại, không cần coi, mụ chỉ lắc mình một cái, thân hình trắng toát như bươm bay vụt vào một ghềnh núi khuất mất dạng, mặc tên lửa vãi như mưa rào cành lá, chỉ còn trơ cặp cà kheo bằng xương cắm đó như hai ống chân ma, cùng với mảnh vải trắng xóa giống như con bướm đậu. Bắn xong loạt tên đạn, quỷ nữ hé mép vải, thấy hình bướm đậu loáng thoáng lại tưởng Quỷ Nương vẫn đứng đợi, gái quỷ phất vờ đánh luôn Quỷ Nương, một khối lửa trúng cánh bướm cháy rực. Quỷ Nương trông thấy định dập tắt, bỗng thấy gió mạnh quật ào, mụ vội nổ kình ngăn lại, đẩy bắn gió đi, nhưng cặp cà kheo vẫn bị đảo như lên đồng, mảnh vải cháy rui mất. Quỷ nữ còn lia thêm mấy luồng khói độc, đúng lúc Quỷ Nương ló đầu ra, bị một luồng "a xít" bắn thốc qua mũi, khét lẹt. Quỷ nữ mở giáp choàng thân dòm ra không thấy Quỷ Nương vùng kêu lên kinh ngạc:

                  - À con quỷ cà kheo đâu rồi? Chỉ có áo khoác! Chẳng lẽ mụ rớt xuống bụi cây?

                  Vừa kêu, nàng ta vừa xẹt vòng bao lại gần cặp cà kheo, đảo mắt dòm bờ bụi, kẹt đá quanh đó, bỗng giật thót mình nghe có tiếng cười thét hắt xuống:

                  - Chị đây! Chị rơi trên sườn núi! Giờ chị xuống đón em đây! Theo tiếng cười, một bóng trắng từ đâu vọt ra đậu ngất nghểu trên ngọn cà kheo, tà áo phấp phới. Bộ mặt đẹp như yêu tinh, vành môi đỏ như máu, lồ lộ trong cảnh rừng hoang dã, không ai khác chính là Quỷ Nương Hấp Huyết. Giật mình, cô gái quỷ dạt vội sau tảng đá cao gần đấy, tay cầm lá cờ phất vụt cái, bắn ra mấy khối lửa trứng gà nhằm Quỷ Nương bay thốc tới. Nhưng Quỷ Nương đã rú lên một tiếng quái gở, luôn tay vồ nghiến trái lửa như cầu thủ bắt banh, và được trái nào, mụ ném lại phăng trái đó, mạnh phi thường, khiến gái quỷ phải phất cờ gạt. Còn đang gạt đã thấy bầy rắn độc lớn nhỏ từ trong kẹt đá, bụi rậm phóng ra đông như rươi, tấn công cô gái quỷ. Loài rắn vốn trườn đã nhanh, rắn Quỷ Nương lại là giống đã được chuyên luyện, cực tinh khôn, bất thần phóng ra như mớ tên, khi thấy, chúng đã cập kề. Lại thêm trên đầu đầy trăn gió, nhất tề phóng xuống quấn người, vật nhanh như "ném thòng lọng". Nếu khi cô gái quỷ kịp thấy rắn, lại đang bận gạt trái lửa thì dưới chân đã đầy rắn độc lúc nhúc khắp tứ bề. Nhưng nàng ta không phải tay thường, trong cơn nguy cấp, nàng ta đã kịp thò tay phát điện công "quét" rắn. Con beo khôn cũng ngóng mõm, khua chân, táp gạt. Có mấy con kịp phóng vào mình, đều bị quăng đổ. Cô gái quỷ vũ động lá cờ dị quất Quỷ Nương, vọt beo chếch chân núi, đồng thời khoa rộng tấm giáp khoác trùm người và vật, trong mấy cử động gọn vô cùng. Ngay khi giáp vừa trùm, từ trên tàn cây rũ một con trăn gió đã quăng vèo mình xuống, quấn nghiến "tổ kén" như sợi dây thòng lọng xiết cổ bò. Vút! Một con nữa quấn chéo. Cô gái quỷ bên trong biết ngay, lập tức vận lực dùng sức điện công vỗ mạnh lòng giáp, cả hai con trăn gãy xương rụng liền. Nhưng hàng chục con trăn khác đã quăng mình xuống vây kín mấy vòng, lại một mớ rắn phóng lên quấn chân beo, con vật bị kéo rạp xuống đất. Cả người và vật chống cự không kịp, hạ được con này, con khác đã nhào lại, đang cơn lúng túng, Quỷ Nương lắc mình một cái đã đứng sừng sững, cao lênh khênh ngay xế trước mặt cô gái quỷ. "Chát", cặp cà kheo đã hạ thêm mấy nấc, quái nữ cười ré:

                  - Gái nhỏ! Nào chị đưa về động phủ! Trăn, rắn quấn chặt, cô em còn định chạy đâu?

                  Vừa nói vừa thò tay chụp. Từ chiều cao chếch xuống cách chừng bảy, tám sải tay, bàn tay quái nữ phát trảo kình nghe vút tiếng, đã vồ láy búi tóc cô gái quỷ kia. Đang bị trăn rắn làm ngat, kéo ghì xuống, dùng đòn tấn công đánh từ trong ra không xuể, con beo cũng bị rắn quấn chân, cô gái hé mắt trông ra, lập tức phất mạnh lá cờ nghe "bùng" một tiếng, kình phong, lửa khối, a xít luống lại tia vọt ra vun vut, khiến nữ quỷ phải rụt tay lại, lắc mình tránh nhưng đồng thời lẹ tay vồ lấy lá cờ làm cô gái phải múa đảo nửa vòng tránh trảo thủ, tay kia vẫn áp đánh độc xà lúc nhúc bao quấn quanh mình. Nhưng phải chống đỡ Quỷ Nương, sức bị phân chia nên cô gái bị bầy trăn phóng xuống, lôi ngã vật ra đất.

                  Vừa chồm beo dậy lại bị Quỷ Nương chụp. Tình thế hiểm nghèo, chỉ chậm chút sẽ mất mạng vì quái nữ. Võ Minh Thần nấp trong thấy thế bèn bảo Quan Kình:

                  - Cô ta nguy hiểm rồi! Mình phải giúp một tay!

                  Quản Kình chẳng biết tính sao cho tròn, kêu "Ối chao", vừa lúc quỷ nữ lại bị trăn rắn kéo ngã. Thấy nàng ta lúng túng, Võ Minh Thần buột miệng kêu lớn:

                  - Giải y nhị thoát! Sao không làm như Lưu Bá Ôn? Chừng cô gái đang mải thoát nguy, chưa nghe rõ. Võ hô xong, vẫn thấy nàng ta lúng túng trong tổ kén đánh trăn. Quỷ Nương lấp ló ẩn hiện thừa cơ vồ bắt. Minh Thần lại thét:

                  - Sao không trút vải khoác? Sao không rời lưng beo? Lần này cô gái mới nghe rõ, lập tức từ trong tổ kén phát ra tiếng thét lanh lảnh ròn như thủy tinh vụn, tiếp theo mấy tiếng "bùng bùng, tặc tặc, coong coong, tách tách", đạn tên, lưa khói, a xít bắn ra nhanh như chớp. Hàng năm hàng bảy con trăn bắn tung xa, từng khối lửa xé gió lao vút tứ phía. Cả "tấm giáp pháo" đang bị trăn siết chặt bỗng nở phình ra, nới hẳn, các khúc trăn quấn còn đeo riết, rồi từ trong tổ kén, một bóng đen thanh tú bắn vọt lên cao như chiếc pháo thăng thiên. Tấm giáp pháo đổ xuống một mớ trên lưng beo, nhưng con beo nghe hiệu cũng đã dùng tận lực táp rắn, vung chân kịp thời nhảy chồm vào bên ghenh đá gần đấy. Vừa vọt lên, cô gái quỷ đã vũ động lá cờ đánh thốc vào phía Quỷ Nương, nhưng Quỷ Nương đâu mất, chỉ còn lại cặp cà kheo. Chừng cô gái quỷ hạ chân xuống lưng beo thì mụ quái nữ đã từ đâu vọt ra đậu ngọn kheo, quăng vút ra một vật loằng ngoằng thắt nghiến luôn cả người lẫn thú, nhạy không thua day "khổn tiên thằng" của Phàn Lê Huê trong truyện Chinh Tây.

                  Sự việc diễn ra nhanh vô cùng, Thầy trò Võ Minh Thần vừa kịp nhác thấy, cô gái quỷ đã bị nghiến chặt, trói gô cả hai cánh tay vào mình, bắt quàng qua bụng con beo. Quỷ Nương đắc chí cười the thé:

                  - Cô em tài giỏi dữ à! Không tay chị, đứa nào bắt nổi. Đừng cựa quậy vô ích. "Dây xích thần" của chị còn chắc hơn dây tam cô. Hé hé! Cô gái vùng vẫy, dùng tận lực bứt dây. Quả nhiên dây dai kỳ dị, còn quá gân cọp. Cả người, vật bị kéo xềnh xệch về phía Quỷ Nương. Lúc đó Thầy trò Võ Minh Thần nấp chân núi, cách chênh chếch khoảng sáu, bảy chục lộ.

                  Không cần suy nghĩ, chàng xốc vụt khiên, giật luôn súng, dù cắp nách nhảy vèo ra đứng sau một mỏm đá thấp, thoáng trong không gian thấy một đường chỉ chạy từ người gái quỷ chân núi kế bên. Võ Minh Thần nảy cò liền. Tặc! Tặc! Quả tài bắn xạ kích môn đồ vô địch than xạ tướng quân, "dây xích thần" đứt liền.

                  Quỷ Nương đắc chí nắm chắc con mồi trong tay. Dây đứt bất ngờ, mụ bật ngửa về phía sau, suýt đổ cà kheo. Nhưng mụ đã kịp vung tay lấy lại thăng bằng, thét lớn:

                  - A, đứa nào dám bắn đứt "xích thần" của ta?

                  Đạn đã ra khỏi nòng, không thể giấu tung tích, Võ Minh Thần vùng kêu to:

                  - Đằng này có điểm tựa, chạy lại đây mau! Dứt lời, chàng trai chĩa luôn dù súng, bắn xối ra chỗ cô gái quỷ, quét lia đan trăn, rắn đang quăng khúc lại quấn nàng ta. Thoáng thấy bóng trắng phấp phới sau ghềnh đá rậm xế Tây Bắc, chàng quay luôn mũi súng nhả "tặc tặc". Quỷ Nương đã kịp thời xẹt sau mỏm đá khuất, vẫn bị liến xoạc vai áo nong rát da thịt. Không đợi tiểu chủ bảo, Quản Kình cũng vọt ra trấn sau một mô đá tốt, chĩa mũi trung liên quật nhầu lên đám dơi, ác điểu, trăn gió, rắn độc. Quản Kình ngừng tay. Võ Minh Thần sợ Quỷ Nương xông ra vồ cô gai quỷ nên cứ bắn cầm chừng hai phát một. Cô gái đang nguy, thấy dây đứt, cũng mất đã ngã rạp cả beo. Vốn tay nhanh trí, nàng lập tức giật dây trói, dùng trảo thủ nhón trăn rắn vừa chết quăng ra xa, nhưng lúc này chỗ đó có đến hai ba chục con lúc nhúc khắp dưới trên, tuy nàng bứt lẹ tay, cũng không kịp. Đúng lúc đó, Quỷ Nương lại nấp trong ghềnh đá xế trong chân núi, cách hơn chục sải, tay áo phất phạch ra một luồng quái phong định lôi nàng ta vào, gái quỷ nhác thấy, phải phất cờ cản lại, con beo vẫn chưa vọt đi nổi.

                  Võ Minh Thần nấp sau mỏm đá xế phía nam đằng này, thuộc vị trí trung độ giữa Quỷ Nương, không trông thấy mụ nhưng thấy cử động của cô gái kia. Võ đưa mắt lựa tầm địa thế, thấy còn cách khoảng sáu mươi bộ, chàng bèn xet vụt chân núi rậm thâu quãng ngắn, vung tay thả ra một ngọn liễu đao chém mấy con trăn gió, độc xà đang đeo chân beo.

                  Tài phóng liễu đao của Võ rất chính xác, "véo véo" lưỡi đao nhoáng vòng cầu mấy cái đã chém đứt luon mấy con độc vật thành mấy khúc, tiện đà phạt thốc một đường cực mạnh lại chỗ Quỷ Nương ẩn.

                  Rào rào, phập phập! Cành lá đứt lìa, Quỷ Nương đứng sau mỏm đá rậm, đang vồ mồi bỗng thấy ánh thép nháng vòng cầu chém thốc vào, mụ không kịp đỡ, vội hụp đầu tránh, lắc mình vọt cà kheo sang chỗ khác, ghé mắt dòm tìm địch thủ.

                  Không phí nửa giây, cô gái quỷ vỗ beo đen lao thốc về phía có tiếng người gọi, tuy chưa biết kẻ nào. Nhưng vừa lao được hai, ba thước, nàng ta sực nhớ ra, quay vụt lại, vừa lúc tấm "giáp pháo" rớt nằm trên cỏ có mấy con trăn quấn bỗng nhảy vọt lên như có người đội.

                  Giật mình, quỷ nữ lật đật vừa vọt beo lại vừa thò tay chụp lại, thoắt tấm giáp bốc lên khỏi mặt cỏ chừng nửa sải, thì trảo kình Quỷ Nương túm được. Tấm giáp xoay ngang lờ lửng, một đầu hướng vào gái quỷ, một đầu quay vào núi. Thì ra Quỷ Nương tìm địch, sực trông thấy tấm giáp lạ nằm trên cỏ, mụ thò tay nhón lén, may gái quỷ kịp nhìn thấy.

                  Cứ thế hai bên giằng co, nhưng có lẽ kình lực Quỷ Nương hơn, tấm giáp cứ lên cao dần, lôi cả tay gái quỷ với theo. Nàng ta chưa kịp phất cờ đánh, lại bị bầy độc vật quăng vèo tới một bầy, hơn hai mươi con dơi dơi tách đàn vỗ cánh bay vù xuống mổ gái quỷ, tình thế ngặt hết sức.

                  Võ Minh Thần nhác thấy, chưa kịp ra tay thì Quản Kình đã quay súng sang quạt một tràng, dơi dơi rụng như sung. Minh Thần cả mừng vung luôn tay phải nhằm hướng chém "véo" ngọn liễu đao vớt ngược vào chân núi. Tuy không thấy mục tiêu nhưng mắt lượng chiều của Võ rất chính xác, liễu đao sà xuống trúng ngay chỗ Quỷ Nương ẩn, nhắm giữa bàn tay mụ thò ra bay tới, khiến mụ phải rụt vội tay lại, kình lực bất cản yếu hẳn, gái quỷ thừa thế giật mạnh một cái, túm ngay lại được tấm giáp.

                  Nhưng vẫn còn hai, ba con trăn, rắn đeo quanh, quỷ nữ dùng hết sưc rũ mạnh một cái, mấy con độc vật không bám nổi bị hất tung đi, quật cả vào thân cây chết tươi. Gái quỷ cả mừng, khoác lộn lên mình, giục beo vọt.

                  Quỷ Nương bị mất giáp pháo, mồi thơm, nổi giận hét như điên:

                  - À tên khốn nào dám cứu gái dạ xoa, tao cho dơi hút hết máu mày. Soạt! Mụ rút phăng ra một lưỡi hái nhỏ, lưỡi dài hơn gang, hình dao bầu, sáng rỡ. Mụ xẹt sang mỏm khác, nghiêng ngó dòm xa gần, thấy quỷ nữ giục beo chạy về phía Nam chân núi, mụ ré lên như dao cạo:

                  - Chạy đâu? Muộn chạy đi đâu, để đầu lại đã! "Véo" lưỡi hái chém xả từ trên xuống, luồng đi vun vút cực nhanh, mạnh. Quỷ nữ đã rút ngoài bẩy mươi bộ, ngoái lại, lật đật dắt cờ, rút ra một cây búa khá lớn, định quai đỡ nhưng Võ Minh Thần đã đề phòng, lập tức chém xả liễu đao ngăn lại. Đúng lúc lưỡi hái bay tới cách gáy gái quỷ độ hai sải, chạm liễu đao. "Chát" cả hai khối thép bật văng trở lại, cả hai địch thủ cùng chấn động châu thân. Quỷ Nương đảo tay chém nhát nữa vẫn bị đao cản, đến nhát thứ ba thì gái quỷ đã vọt ra sau ghềnh đá cây lá rườm rà mất dạng.

                  Võ Minh Thần thu đao, gọi to:

                  - Đây! Phía này, phía này! Vừa gọi chàng vừa vọt lui về phía phục ngựa. Quản Kình vẫn ôm súng trấn xế ngoài chút, phòng có kẻ ẩn theo chân núi. Nghe tiếng gọi quen quen, gái quỷ vừa giục beo chạy tới, vừa cất tiếng hỏi lớn:

                  - Ai đó? Đâu? Ai đó... Đứng đâu? Phường săn? Buôn lậu? Hay quan chức?

                  - A! Ngu mo! Mỗ đây mà! Đây! Phía này! Cứ dọc theo chân núi! Vèo! Beo đen cuốn gió luồn dưới tàn cây lòa xòa, chạy tắt bìa đá nhấp nhô, thoắt đã lại gần. Võ Minh Thần ẩn sau mỏm đá khuất, thấy bóng gái quỷ cả mừng, giơ tay vẫy vẫy:

                  - Đây! Chạy thẳng tới đây, chúng không làm gì nổi! Chỗ này có nhiều điểm tựa tốt!

                  - Ai đó? Tiếng quen quen... Lời vừa dứt, beo đã mang gái quỷ vọt tới. Nhác thấy có bàn tay, đầu người lấp ló sau mỏm đá, gái quỷ vỗ beo chồm lại. Rập! Beo dừng.

                  Hai người đối diện. Lúc này Võ Minh Thần không đeo mặt nạ, quỷ nữ vừa trông thấy đã sững sờ, trợn mặt, kêu lên:

                  - Ôi chao! Tưởng ai... Hóa lại là gã trai điển đêm nào dưới Hồ Ba Bể! Sao đi đâu cũng nhà anh?

                  Võ Minh Thần không giận, từ tốn bảo:

                  - Vâng, mỗ đây! Thầy trò mỗ có việc vưa đi tới đây, thấy chúng đang rượt cô nương. Cô nương không bị thương tích gì chứ? Cô nương nấp vào đây! Mỏm đá này làm điểm tựa tốt lắm.

                  Miệng nói, tay ra hiệu trỏ, cô gái quỷ "hừ" lạnh, xẹt beo quay lại, vẻ bực dọc het sức:

                  - Bất tất! Ai có thân lo, trai điển nhiều lời! Hừ! Nhà anh tưởng đánh lừa được gái này sao? Ôi! Bạch diện thư sinh lang tâm tú sĩ! Dứt lời, nàng ta cũng beo định vọt thẳng. Nhưng vừa lướt qua mặt Võ, lại đụng mấy con vật, gái quỷ nạt lên một tiếng, vòng luôn ra sau mỏm đá.

                  Tuy không giận nhưng thái độ quá ư miệt thị của nàng ta cũng làm chàng trai họ Võ sững sờ, ngạc nhiên hết sức. Nhưng lúc đó chợt nghe tiếng Quỷ Nương hét, bắn núi. Võ vội giơ tay, điềm đạm:

                  - Cô nương cẩn thận! Chúng có thể bắn sẻ đó. Quỷ cà kheo tài nghệ lợi hại, coi chừng nó lẩn bờ chui bụi, vồ trộm đó. Cô nương nghe mỗ này, hãy bảo trọng lấy thân, sơ sẩy lọt tay lũ quái kia... nguy dữ à.

                  Gái quỷ cũng có vẻ ngài ngại mấy phía địch thủ, nhưng nàng ta chỉ đảo vào sau một mỏm đá nhỏ khác dòm ra, quay vào cười nhạt:

                  - Cám ơn! Nhưng lọt tay quái chưa bằng mắc mẹo sa tay quỷ mặt trắng. Hừ! Nam nữ thụ thụ bất thân, không quen thuộc, sao nhà anh cứ đón đường gây rối.

                  Võ Minh Thần thấy nàng dạ xoa xấu xí quá, không nỡ làm nàng ta tủi, chỉ mỉm cười khoan dung như đứng trước cô bé trái tính, nhưng Quản Kình đứng xế chịu ngoài không nhịn nổi, Kình xách súng nhảy vọt vào, gái quỷ hơi giật mình, giơ luôn cây búa lên, Kình thở phì nhăn mặt:

                  - Ôi chao! Cô nương này nói toàn câu ngược tai, không ai nghe nổi. Cậu hai tôi mấy lần liều thân cứu nạn cô cho cô, đến nỗi bị đòn thuồng luồng tinh suýt mất mạng, đã không được lời cám ơn, lại còn nói toàn lời bạc bẽo, miệt thị ân nhân, còn trời đất quỷ thần nào chứng cho cô nữa. Phải biết... cô phải biết...

                  Chừng tức quá, Quản Kình tắc họng, nuốt ực nước bọt, thở phì. Cô gái quỷ cười lạnh:

                  - Biết sao? Biết không quen thuộc, tự dưng lại nhảy ra cứu, không ai khiến! Suýt mất mạng? Ôi chao! Bi đát đến thế ư? Cứu ta chủ ngươi suyt mất mạng? Còn biết gì nữa? À! Biết đàn ông thấy gái như mèo thấy mỡ, không vồ được lại vờ ra ơn cứu nguy để gái cám ơn, mỡ hiến miệng mèo khỏi tốn công vồ nấp. Biết gì nữa?

                  Võ xua tay ra hiệu cho người quản gia, nhưng Quản Kình tức quá không nhịn nổi, vùng nói oang oang:

                  - Ôi tức như bò đá! Cô nương này thật khong biết người biết mình gì cả. Cậu tôi từ ngày xuống núi, đến đâu, gái đẹp như tiên mê, cậu còn không thiết, lại phải bầy trò lấy lòng cô sao? Chao ôi! Cô không khi nào soi gương sao? Ồ! Phải biết... Phải biết cô xấu như quỷ dạ xoa, mặt mày dúm dó, môi chề nang chĩa, con nít trông thấy hết hồn, đàn ông nào cũng chạy. Cậu hai tôi đui con mắt hay sao mà lại mê cô quỷ? Chẳng qua cậu tôi có thù yêu quái, thấy cô đồng cảnh ngộ thì thương, thấy cô nguy, cậu tôi liều thân cứu giúp, vậy thôi. Chớ nào phải cô chim sa cá lặn gì mà cậu tôi theo đuổi.

                  Tưởng không còn câu nhiếc nào thậm tệ hơn, gái quỷ nghe ắt nổi cơn thịnh nộ, nào dè nàng ta lại cười thét, trỏ Kình bảo:

                  - Nhà chú không được ăn học, nói toàn câu khó ngửi! Ta xấu xí như dạ xoa? Ô... Ngu! Không biết xưa này nhiều gã vua chúa, nhà giàu, hào kiệt mất ngôi, mất mạng, tan cơ nghiệp toàn vì gái xấu hay sao? Ôi! Sao chúng lại không điêu đứng vì gái đẹp? Thế nhà chú không thấy cả từ con thuồng luồng dưới nước đến tụi đầu râu tóc bạc như bọn Tửu Chúa kia, đến cả con mụ cà kheo nó cũng theo ta như bọn cố liều mạng, tốn công rượt bắt ta làm gì? Nhà chú biết vì sao không? Sao chúng không đi tìm đứa đẹp? Gái đẹp nhiều như chó con sao không bắt? À, chỉ vì ta xấu! Ôi! Nhà chú ngu dữ, ngu dữ! Đàn ông gì mà ngu như bò! Xưa nay gái càng đẹp làm đổ quán xieu đình, mà gái xấu càng làm khuynh thành khuynh quốc, tan nhà mất cửa còn hơn gái đẹp. Ấy chỉ vì gái càng xấu lại càng là gái đẹp, đàn bà càng xấu, dạ xoa càng làm tụi đàn ông mê như điếu đổ, nhà chú không biết điều đó ư? Ôi! Ngu như heo!

                  Lời nói của gái quỷ làm Quản Kình đứng ngẩn mặt ra, dòm nàng, rồi quay dòm Minh Thần như thầm hỏi. Nhưng Minh Thần càng ngẩn hơn. Cô gái quỷ lạnh lùng "hừ" một tiếng khô khốc, cười nhạt:

                  - Ngu! Khong biết tại sao ư? À! Thế nhà chú có biết tại sao mấy gã đàn ông thường chết mê chết mệt vì con đàn bà hôi nách không? À, đó! Chúng mê mùi hôi nách hơn mùi thơm, cũng tỷ như thiên hạ Đông Tây kim cổ xưa này nó thường chỉ nghiện chua, cay, mặn, chát, nghiện "mắm tôm", "nậm phia", "bọ hóc", mắm ngóe phó mát khắm, ròi bọ, chứ có mấy ai nghiện đường, nghiện chè? Đó! Cho nên đàn ông mê gái xấu, cậu hai chú cũng giống đàn ông, gái dạ xoa như ta đây lại không làm chủ chú sanh lòng càn rỡ được ư?

                  Lần này, Quản Kình chết đứng hẳn. Lời nói của gái quỷ nghe lạ tai hết sức, nhưng lại khiến Kình nghĩ ngay đến thói quen quái gở của người đời, của Kình, vì chính y từ nhỏ đã nghiện mắm tôm. Hồi tiền Nhật đi lính sang Tây, chú đội Kình xưa đã hai lần suýt bị lột lon vì mê hai cô đầm hôi nách. Câu nói của gái quỷ làm quá khứ kéo về lớp lớp giữa cảnh lâm tuyền biên giới Việt Trung trong gió chiều thoảng đưa mùi hoa ngàn cỏ nội, mũi y như có cả mùi đầm quái gở tận bên Tây "hiện" về.

                  Bất giác, người quản gia buột miệng kêu "thật vậy sao", ngoảnh nhìn tiểu chủ. Võ Minh Thần thở phào, hơi bực vì bị ngờ có ý mê dạ xoa như thiên hạ nghiện mắm tôm, hôi nách. Chàng trai chỉ còn biết giơ hai tay kêu "Quái gở! Quái gở!".

                  Nhưng đến lúc cô gái quỷ giục beo định vọt đi, chàng trai chẳng đành lòng để mặc nàng ra chỗ nguy hiểm, vội giơ tay cản lại, giọng thành khẩn bảo:

                  - Cô nương chẳng nên cố chấp, nghi ngờ quá thế! Neu không muốn đứng sau mỏm đá này với ngu mỗ, cũng nên ẩn sau tảng khác. Cô nương không thấy mụ quái nữ cà rồng vẫn chặn đứng ngoài kia sao?

                  Cô gái quỷ vén cành, vừa ghé mắt dòm ra, bỗng vút, rào, từ đâu một mũi giáo phóng xuyên cành lá, cắm phập ngay vào cành cây nàng ta vịn, sát bàn tay. Cả giận, nàng ta giật luôn ngọn giáo, vọt lên vẹt cành, phóng vút ra ngoài thung lũng trước mặt, đoạn vòng luôn lại, nấp sau tảng đá xế bên thầy trò Võ Minh Thần cười gằn:

                  - Hừ! Đứa đực nào thấy gái cũng như mèo thấy mỡ! Đi đâu cũng gặp đứa theo như bọ chó, đực nào cũng như nhau. Hừ! Bao giờ cõi đời này mới tiệt giống đực chó!

                  Quản Kình nghe nàng ta phàn nàn đi đâu cũng bị đàn ông theo, lại ví đàn ông như bọ chó. Kình ta tức như bò đá, đưa cả mũi súng lên cằm gãi sồn sột, chỉ trực nói lại. Nhưng chú ta rất ngán khoản ăn nói ngược tai của gái quỷ, biết mình không đủ mồm miệng đối địch lại. Tuy vậy, chỉ nhịn được mấy khắc, lại buột miệng nói to:

                  - Cô nương này ăn nói thật hồ đồ, trái tai không chịu nổi. Cô bảo đàn ông người ta theo cô như bọ chó, thế chắc cô... cô là...

                  Chú định nói "cục phân" trả thù cho bõ tức, nhưng lại thấy tiếng đó có bề thô quá, thêm có tiểu chủ đứng đấy, không tiện, chú ta lúng túng ngừng bặt, định kiếm tiếng nào nói bóng dễ nghe hơn. Nào ngờ cô gái quỷ đã chõ sang, điềm nhiên nói toạc móng heo:

                  - Là cục phân chứ gì? Phải chú muốn nói cục phân? À, phải nói là "đống phân" mới phải! Có là phân sống, bọ mới ưa bu. Chính ta là vậy đó. Nên mới bị lũ bọ đực nhau nhau theo đuôi vây lấy, chứ còn gì nữa.

                  Vậy là quá nước rồi. Quản Kình trợn mắt tắt họng luôn.

                  Võ Minh Thần đang chiếu ống dòm quan sát mấy phía, thấy Quỷ Nương mất dạng. Chàng liền huýt cặp chó đồng cho đi thám thính, tai vẫn nghe gái quỷ nói với Quản Kình, chàng trai bèn ngoảnh sang, điềm đạm bảo:

                  - Cô nương vì quá đau thù mẫu thân, lại bị bọn ac nhân theo bức bách, nên mắt nhìn đàn ông thiên hạ có phần lệch lạc đó thôi. Thực ra xưa nay nam nữ bao giờ chẳng có nhiều hạng. Quỷ Nương kia rất có thể lắm, nhưng Liễu Hạ Huệ, Vân Trường chẳng phải không có. Chẳng lẽ vì Văn Khương, Võ Hậu mà quyết cho thiên hạ thiếu Bá Cơ, hay cô gái giặt vải bên sông Lạc Thủy. Vả chăng, nếu đàn ông hiếu sắc hơn hiếu đức thì tất phải xu phụng mỹ nhân, lẽ nào mất công mất nghiệp vì người không nhan sắc? Tưởng cô nương chẳng nên quá bận tâm nghi hoặc nhiều mới phải.

                  Cô gái quỷ cười khanh khách:

                  - Ôi chao! Nhà anh này tối dạ, không kém chú gia nhân. Đúng thầy nào tớ đó. Nói toàn chuyện ngược đời. Đã chẳng hiểu tình đời, lại không thuộc sử. Đọc vài cuốn sách của mấy anh ngốc sĩ, cứ tin như chết không cần rõ thực hư. À! Nhà anh cứ nhất định bảo lũ đàn ông mê nhan sắc, mà chẳng hay cái sắc ra sao, cứ tưởng mắt phượng mày ngài mới làm chúng đảo điên mất nghiệp, mất của, mất đầu. Cứ tưởng mấy ả làm đảo lộn thiên hạ đều đẹp cả. Này, xưa nay những hạng đàn bà làm chồng tan cơ nát nghiệp, trong ngàn mụ, được mấy ả chim sa cá lặn, hay hầu hết toàn thị chó sủa bò kêu, ngựa lồng cú chết? Được mấy nàng mắt phượng mày ngài, da ngà sâu róm, môi thâm, da thiết bì, khô đét như cá mắm lại mập như chum? Chân không bằng chĩnh lại giống chân lươn, ống đồng. Ôi! Nếu như nhà anh bảo đó là xấu, không nhan sắc, thì sao phá nổi nghiệp chồng, sao làm lũ đàn ông điêu đứng? Muốn làm điêu đứng, tất nó phải mê, nếu nó không mê, làm sao phá đổ? Vậy là các mụ đều có nhan sắc, mỗi người mot vẻ, vẻ nào cũng chết mệt đàn ông. Cái nhan sắc huyền bí phi thường tiềm ẩn trong cái vỏ mèo kêu cú chết, mà chỉ gã đàn ông nào mê mới khám phá ra! Và chính cái nhan sắc phi thường cú chết đó mới làm đảo điên thiên hạ nhiều hơn cái sắc mắt phượng mày ngài tẻ ngắt mà nhà anh vẫn tưởng đẹp lắm.

                  Ôi! Như ta đây, trời ban "xú sắc phi thường", ngược xuôi thiên hạ khác nào hoa lạ rớt chuồng bọ, lúc nhúc đầy bọ đực, lại có thể an nhiên tự tại không biết đề phòng lũ háo sắc ư?

                  Từng lời dõng dạc, nghiêm chỉnh, cô gái quỷ nói thao thao, rõ ràng đã hun đúc ý nghĩ lạ lùng đó từ khi cô lớn lên, từng lời như búa bổ vào đầu óc hai thầy trò Võ Minh Than, làm cả hai đứng ngẩn người nhìn nhau trước lời lẽ lạ tai đảo lộn hết cả mớ định luật thông thường về nhan sắc xưa nay! Cả hai bất giác nghĩ thầm:

                  - Cứ như lời nàng ta thì xưa nay đàn ông thường chết mê chết mệt vì người đàn bà xấu chứ không phải vì người đẹp như người ta vẫn nói, sử sách từng ghi. Những mỹ nhan tuyệt thế như Tây Thi, Dương Ngọc Hoàn làm đổ nghiệp đế vì cái mặt nhăn nhó dúm dó đó, chớ không phải vì mặt ngọc tươi.

                  Còn những bà như Võ, Lã, Tây thái hậu khuynh đảo thiên hạ cũng vì mặt xấu. Tề Tuyên háo sắc khét tiếng, mê chọn nàng Chung Vô Diệm vì mê cái xấu. Cái "xú sắc" phi thường toát ra từ cái xấu, cứ như nàng ta nói, đàn bà có hai thứ nhan sắc, một là đẹp, mắt phụng mi tằm, hai là sắc xấu, mắt lồi mày sâu róm chẳng hạn.

                  Không bảo nhau cả hai thầy trò cùng đưa mắt nhìn cô gái quỷ chằm chặp, như cố khám phá ra cái "xú sắc" phu thường tiềm ẩn trên mặt mày thân thể. Nhưng dòm mãi vẫn chẳng tìm ra, chỉ thấy càng nhìn càng phát gớm vì bộ mặt dạ xoa mồm méo nanh chìa, mắt xếch ngược, mặt dúm, da đen thui, kẻ bạo gan cũng ớn, còn con nít nhác thấy cũng phải khóc thét.

                  Đó là từ cổ họng lên, còn tử cổ họng xuống lại khác hẳn, vì đúng là thân dáng tuyệt đẹp, hài hòa, cân đối không khác gì một pho tượng khắc thật tinh xảo, ngựa căng đầy sinh khí, tay tròn khúc rắn, bụng thắt, mông bành, bàn tọa nở nang, đùi than dài trong ống quần bó, tóm lại là một thân hình tiên co lại mọc ra một cái mặt quỷ gớm ghiếc, tác phẩm cực kỳ trớ trêu của tạo hóa.

                  Nhưng trước mắt thầy trò Võ, thân hình tuyệt mỹ cũng không sao làm nhẹ được vẻ gớm của bộ mặt xấu như ma quỷ, chỉ cần nhác thấy hai cái răng nanh chìa bên mép cũng đã phát ớn rồi. Hai thầy trò có nhìn mãi cũng chẳng thấy vẻ chi gọi là "xú sắc" như nàng ta vừa bảo. Quản Kình thở phì gãi cằm sột sột, buột miệng than:

                  - Ôi chao! Càng nhìn càng ngắm càng ghe. Chẳng thấy vẻ gì gọi là "xúsắc" cả. Từ thủa cha sinh mẹ đẻ tới giờ thật Kình này chưa hề nghe ai nói tới món đó. Ôi! Vậy chi có tiếng nhan sắc, gái đẹp, đẹp như tiên, xấu như ma mút lại đẹp như tiên, càng xấu càng đảo điên thiên hạ, lạ dữ à? Tưởng gái xấu làm người ta chết khiếp, sao chết mê chết mệt nổi? Ôi chao! Cứ như cô nói chắc sắp tận thế rồi, cái đẹp hết thời rồi!

                  Võ Minh Thần thấy Quản Kình nói đầy giọng mỉa mai chế diễu, sợ cô gái quỷ kia tủi, chàng trai vội đưa mắt cho người quản gia, suỵt khẽ, nào dè cô gái đã chẳng giận, lại có vẻ hài lòng, gật đầu lia lịa, bảo:

                  - Chính thế! Chính thế! Nhà chú coi đần độn mà lại còn sáng dạ hơn anh nhà chú đó. Nhưng không phải ngày xưa gái đẹp đắc thời, giờ hết cho gái xấu đắc thế đâu. Thật ra xưa nay gái có nhan sắc đều đắc thời, nhưng hạng có xú sắc đời nào cũng được đàn ông thèm nhiều hơn, vì chúng mê met nhiều hơn.

                  Cũng tỷ như chúng thích, nghiện chua cay mặn chát, say đắm mùi mắm tôm, bọ hóc, phó mát khắm, nghiện mùi hôi nách, nặng hơi, ít nghiện đường, hương thoảng là vậy. Cho nên xưa nay vẫn có chuyện tức cười là tên đàn ông nào cũng thích gái đẹp, háo hức gái có nhan sắc, nhưng cuối cùng hắn lại mê gai xấu, hắn rước con mụ thật xây về thờ làm vợ, trung thành đến chết, mất cơ nghiệp, mất cả danh dự, mà vẫn không lỗi đạo thờ bà. Ấy chỉ vì giống người phần lớn có thói quen xấu xa, hèn hạ, keo bẩn ác độc hơn là say me làm việc tốt lành, thanh cao rộng rãi có nhân có nghĩa, nên hắn thường say đắm những thứ xấu xa, mê gái mèo gào chó sủa. Bởi thứ xấu nào cũng có ma lực làm hắn đắm say, gái càng xấu càng nhiều ma lực làm hắn càng đảo điên, cái đó chính là "nhan lực", "xú sắc". Cái đó còn cuốn hắn hơn nhan sắc nhiều. Lại còn điều huyền bí nữa, là cái xú sắc đó có muôn hình muôn vẻ, mỗi xú phụ có một vẻ, phàm kẻ ngoài cuộc không ai nhìn thấy, chỉ có đứa trong cuộc mới thấy thôi, đã thấy là mê, đã mê là chết cũng được.

                  Này! Nhà anh, nhà chú thường thấy đó, có những tên đàn ông điển trai, giàu có, có học, con nhà khá giả, gái đẹp không mê không lấy. Nó lại mê một ả đã xấu lại vô tích sự, đã không được nết lại con nhà thường, nghĩa là một ả cả họ cả làng cả nước thấy là không xứng, ai cũng tức thay. Nhưng chẳng ai gàn nổi, cả làng cho là nó điên, nó bị bùa mê, trong khi chính nó lại cho cả làng là ngốc, là đui mắt không thấy cái đẹp tuyệt trần của ả nó thờ... chỉ vì nó chẳng bị bùa mê gì cả, mà chỉ có nó mới cảm thấy cái "xú sắc" phi thường đó thôi. Ôi! Tạo hóa chí công, chí tài! Nếu sinh xú phụ lại không ban cho xú sắc, có lẽ mấy ả mỹ nữ cướp hết chồng trong thiên hạ, mà xú nữ thời nào chẳng mốc meo, tỉ tê khóc lụt cõi đời, có đâu lại đắt hạng như mắm ngấu?

                  Gái quỷ nói một tràng trơn tru, không khác một "con đồng thuộc", cứ ngồi vào chiếu, ngửi mùi hương, nghe cung văn trỗi giọng mũi, là "ốp" liền, "đảo" luôn không chậm nửa giây.

                  Giọng nàng ta lại thánh thót dễ nghe, lời nói bộc trực không cần gọt giũa, rất tự nhiên, thao thao bất tuyệt làm Quản Kình lại tắc ngôn kỳ lộ, chỉ còn nước gật đầu, đâm phân vân, ngẩn mặt ra nghĩ thầm:

                  - Ờ ờ! Lạ dữ! Cô ta nói xem ra cũng có nhiều câu đúng thiệt. À! Xưa nay gái xấu đắt chồng đáo để! Ơ! Mà thế thật, gái đẹp không lấy lại rước gái xấu về cho nó hành hạ, chính mắt ta cũng thấy mấy đám lạ dữ à, "xú sắc" nhưng sao càng nhìn càng thấy khiếp, chẳng thấy xú sắc chỗ nào? Ô! Thủa nay xú ma lại đẹp. Kể cũng kỳ!

                  Còn chàng trai họ Võ nghe nàng ta nói một tràng chứng minh xú sắc có uy lực phi thường lôi cuốn người ta hơn nhan sắc, chàng trai tuy cũng chịu nàng ta có tài biện thuyết kỳ quặc nhưng chàng trai vẫn không đồng ý, nghĩ:

                  - - Xưa nay cũng nhiều trường hợp đàn ông mê kẻ không nhan sắc, cũng có lắm đàn bà chẳng đẹp gì vẫn sai khiến được đàn ông, làm đảo lộn cả thiên hạ. Thực ra họ tuy chẳng đẹp tuyệt trần nhưng chắc cũng bình thường, được điểm nọ, mất điểm kia, hoặc cứng vía hơn anh đàn ông kia, hoặc tuy chẳng đẹp tuyệt, nàng đó vẫn có điểm nào khiến anh mê, hoặc lại nắm được yếu điểm, tội xấu nào đó, mới sinh yêu tác quái nổi! Hoặc lại có "duyên thầm", hoặc có điều bí mật phòng the, thiên hạ sao hiểu nổi. Nếu nói "có cái nghiệp", "nợ nhau", hoặc "hợp khí tương đồng" mới xảy ra chuyện... Nhưng nhất định không thể là gái xấu xí quá độ. Xấu quá, thấy mặt đã ghê còn mê nổi gì! Còn xú nữ xú phụ mà lại có xú sắc, thì thật... lạ đời, giờ mới nghe là một!

                  Tuy Võ Minh Thần nghĩ vậy, nhưng tình thế đang ngặt, chàng cũng không muốn cãi lý với cô gái kỳ dị kia, chỉ từ tốn bảo:

                  - Thực ra đàn bà xấu hay đẹp đều phải giữ gìn danh tiết, cô nương cẩn thận lưu tâm đề phong thế là phải lắm, vậy mới đúng là gái có hạnh! Còn như ngu mỗ đây, nghĩ mình cũng có cưỡi ngựa, bắn súng, thấy ai bị khốn cũng phải liều thân cứu, chẳng cứ nam nữ, già trẻ, xấu đẹp! Ngu mỗ đây chỉ biết giúp người bị nạn để đền đáp lại những bậc đã cứu mỗ, vậy thôi, xin cô nương chớ ngại.

                  Cô gái quỷ lạnh lùng:

                  - Không ngại thế nào được? Xưa này cái buồn lớn lao cũng đã bắt đầu từcái vui nhỏ, cái họa to bao giờ cũng khởi đầu bằng cái ơn nhỏ. Giống cái để chịu ơn giống đực là nguy hiểm, lỡ nó đòi nợ, đòi hoa nguyệt, là rất khó xử. Ta phải lấy đó làm gương!

                  Quản Kình nghe tức tai quá, lại vùng kêu lên:

                  - Ôi chao! Cô nương khéo lo xa, lo trời sụp. Dầu có đòi cũng chẳng ai đòi. Ngày nọ trên biên thùy Trùng Khánh, cậu hai tôi đánh đuổi quỷ mũi vẹt đười ươi cứu cô chúa nàng Pi A Ya đẹp như tiên. Sau gặp lại, chúa nàng quý mến bằng trời cậu hai tôi vẫn như khong, bỏ đi luôn. Cô nương như vầy, còn lo nỗi gì mà lo.

                  Cô gái vùng trợn mắt:

                  - À thì ra chủ ngươi vẫn có thói cứu đàn bà con gái! Không ai khiến cũng cứu, tất có dự mưu, ta đây đề phòng là đúng lắm. Như ta lại càng phải giữ mình hơn! Nhan sắc đâu bằng xú sắc!

                  Thấy cô gái kỳ dị vẫn nhất định cho mình có xú sắc khiến đàn ông dễ sinh lòng tà tâm chiếm đoạt, Võ Minh Thần vội đưa mắt ra hiệu cho Quản Kình chớ nên dài dòng cãi lý với nàng ta, đoạn chàng trai khẽ chép miệng thở dài bảo:

                  - Cô nương là gái, có lòng lo xa cẩn thận thế cũng phải! Nhân tâm nan trắc, lòng người hắc bạch khó phân. Nếu cô nương biết được nỗi nhục thù ghê gớm trùm lên cả cuộc đời, thân thế ngu mỗ, cô nương có thể tin được là trên cõi đời đau đớn nhục nhã này, không thể có thứ nhan sắc, xú sắc nào làm ngu mỗ động tâm nổi. Ngu mỗ tình cờ gặp, giúp cô nương cũng chỉ vì cùng chung cảnh khổ đó thôi.

                  Cô gái quỷ vẫn lạnh lẽo hất hàm:

                  - Á, nếu vậy nhà anh là Liễu Hạ Huệ tái sanh rồi. Nếu không bán thân bất toại, chắc nhà anh luyện được thuốc vô tình!

                  Võ Minh Thần ngửa mặt nhìn trời chiều hoang sơn, như nói để mình nghe:

                  - Đất trời này rộng mênh mông nhưng nỗi nhục thù của kẻ này lại mênh mang trùm cả trơi đất! Tâm hồn kẻ này nhỏ bé quá, chứa đựng mối nhục thù chưa đủ, còn chỗ nào chứa đựng tình yêu?

                  Giọng chàng trai âm thầm đìu hiu như hơi gió rừng chiều hoang vắng làm cô gái quỷ đang tới lui vụt dừng lại, đăm đăm nhìn Võ, và mãi khắc đó nàng ta mới chợt lưu ý nhiều tới bộ mặt điển trai lạnh băng như ẩn chứa cả bốn trời tuyết giá. Tự nhiên giọng nàng ta vụt trở nên hiu hắt lạ:

                  - Trên cõi đời này còn có kẻ mang mối nhục thù thống thiết hơn cả gái này được sao?

                  Võ Minh Thần quay lại nhìn cô gái quỷ, khẽ thở dài:

                  - Cô nương tưởng trên đời này chỉ mình cô nương đau thù huyết hận? Đứa hài nhi đẻ rơi trong quán nước năm xưa ít nhất còn biết mình là giọt máu của "Bạc công chúa trên Tây Bắc", còn đứa bé lên hai ngồi trong túi da đeo ở cổ ngựa, lạc loài trong thiên hạ mười bảy năm rồi vẫn chưa biết họ tên nguồn gốc.

                  Cô gái quỷ vùng hỏi:

                  - Sao biết... Bạc công chúa? Sao hay giọt máu đẻ rơi?

                  - Ngu mỗ tình cờ được biết chuyện quái nhân quái vật vây bắt vợ chồng công chúa Bạc. Ngu mỗ đi tìm quân thù đêm nọ bên Hồ Ba Bể, thấy cô nương tử chiến Giao Long tinh, nên đoán biết.

                  Như bị chạm đến niềm đau chất chứa trong linh hồn rướm máu, cô gái quỷ vùng quay mặt đi, hai vai rung mạnh, nghẹn ngào:

                  - Thôi thôi, đừng nói nữa! Giọt máu đẻ rơi... nay đã lớn khôn, mà nhục thù còn nguyên vẹn... Thù chưa rửa nổi, mẹ cha đã là người thiên cổ... còn bao giờ thấy mặt song thân...

                  Vẻ đau khổ của cô gái quỷ làm Quản Kình tự nhiên cứ đưa mũi súng lên cằm gãi sồn sột. Chú ta có vẻ hối hận đã cãi lẽ nói với nàng hơi nặng. Võ Minh Thần cũng chạnh lòng tưởng nhớ tới thân thế mình, lòng thêm ái ngại, bèn tiến lại gần, ngậm ngùi bảo:

                  - Cô nương chớ quá bi lụy! Cô nương dầu sao cũng còn hy vọng gặp lại song thân, còn ngu mỗ đành vô vọng vì hài cốt mẹ trên vai. Ngày đó lệnh song thân chỉ bị con tinh bắt đem đi, đến nay người chắc vẫn còn sống...

                  Vừa nghe tới đó, cô gái quay vụt lại, mắt còn đẫm lệ, run lời:

                  - Còn sống? Không! Không cần nuôi hy vọng hão huyền! Mười bảy năm khổ nhục, cha mẹ tôi đã chết dưới gông xiềng loài tinh độc!

                  Nghiêm mặt, Võ trầm giọng:

                  - Lệnh song thân còn sống! Cô nương chưa rõ, đêm đó khi cô nương mải tử chiến với giao long, tôi và Quản Kình nấp gần đấy, đúng chỗ giao long thuyền lướt qua. Tuy sương mù trắng nhạt, bọn tôi có thoáng thấy bóng người trong khoang, ánh đèn soi in rõ vào mai gấm, hình như là bóng nữ nhân. Rồi có lần, lại nghe mơ hồ có tiếng đàn bà văng vẳng vọng lên bờ. Quản Kình cũng nghe thấy.

                  Cô gái nhìn Kình, người quản gia gật đầu, nói luôn:

                  - Tai tôi thính lắm. Ngoài tiếng đàn bà, tôi còn nghe mơ hồ cả tiếng xiềng xích khua!

                  Cô gái thở dài:

                  - Có khi chỉ là vọng âm từ tiềm thức! Khi thấy giao long thuyền, tôi đã cất tiếng gọi, nếu có, đã có người thưa!

                  Minh Than từ tốn:

                  - Cô nương cũng nên biết Quản Kình đã mạo hiểm nhảy xuống hồ độn thủy lần tới bên mạn Giao Long thuyền. Nếu không bị lộ vì nhục đồng lưới móc chung quanh, y đã lọt được vào khoang thuyền quái đầy thuồng luồng, rõ ràng nó canh giữ bà công chúa, kềm hãm bà không cho lên tiếng.

                  Vừa nghe đến đây, cô gái quỷ rút phắt cây búa dài run giọng kêu: "Ôi! Nếu vậy cha mẹ còn sống đợi con tới chặt xiềng nô lệ!" đoạn chém véo không khí, vỗ beo, lao chồm về cuối thung Nam.

                  Giật mình, Võ Minh Thần lật đật vươn tay dùng trảo thủ chụp đại lấy được đuôi beo, lôi nghiến lại, con beo rống lên, ngoái cổ chực táp. Ngay lúc đó, bỗng rào cành lá, một mũi giáo xuyên qua tàn rũ phóng thốc vào sườn beo. Cô gái thuận tay búa chém chát một phát, văng luôn ngọn giáo. Minh Thần tiện tay gạt cả người lẫn thú nằm rạp xuống, vừa kịp tránh hai phát đạn từ ngoài bắn vào.

                  - Trời! Cô nương liều uổng mạng! Ta bị chúng vây phủ mà! Phải triệt hạ chúng, mới ra ngoài được chứ!

                  Cô gái sực nhớ ra, thở phì. Cả bọn ẩn sau mỏm đá dài, điểm tựa rất tốt, che cả được mấy con vật. Minh Thần bảo khẽ:

                  -Im lắm! Không nghe thấy bóng chim, dơi cũng đâu mất! Chắc chúng kiếm thế xáp lại gần! Cô nương coi phía Nam, Kình phía giữa, tôi phía Bắc. Coi chừng rặng núi sau lưng!

                  Ba người trấn ba mặt, súng chĩa lăm lăm. Thung lũng hoang vắng, nắng chiều thoi thóp, gió hắt hiu, sương bắt đầu dăng. Rờn rợn! Cô gái quỷ chợt thì thào:

                  - Im lâu quá! Chắc nó men vòng đánh tập hậu! Ta nên rút lên cao... vững hơn. Ngựa beo cứ để nằm dưới!

                  Cả hai tán đồng luôn. Rặng núi này cao chót vót, chỗ dựng thành, chỗ lồi lõm, may sườn dưới thoai thoải hơn vài chục sải, cả ba đều thạo khinh công lại nhờ cây rậm, trèo lên êm ru, kiếm được một khoảng làm điểm tựa rất tốt, có hốc, lại có cả đá tảng che cản, vững hết sức, nấp trên có thể kiếm soát được cả cánh thung và hai đầu núi.

                  Bỗng nghe chó sủa rộ bên Bắc, rồi một cặp dơi to lớn từ đâu bay sà trước mặt, dòm xuống dưới.

                  - Dơi thám thính!

                  Võ vừa thốt cặp dơi đã đảo vụt qua cách khoảng mười lăm sải. Cô gái quỷ quăng véo cây búa dài. Chóe chóe, một con dơi đứt bay đầu, rụng liền. Minh Thần khen:

                  - Cô nương thả búa hay dữ, nhưng thả thế lộ mục tiêu mất. Phải thả sao cho búa vọt từ dưới lên trên, nó tưởng ta đứng dưới.

                  Vừa dứt lời một đôi chim chèo bỏ từ trong tàn cây sau núi bay xẹt qua chỗ ba người nấp, bay xa ra ngoài thung. Lẹ như chớp, Võ Minh Thần thả vụt ra một lưỡi dao đánh xuống mặt cỏ vòng ngược lên, hớt bay đầu hai con chèo bẻo rồi lại đâm bổ xuống đất mới quay về tay Võ.

                  Chợt nghe tiếng chó sủa phía dưới. Cả ba nhìn theo phía Bắc núi, bỗng thấy một bầy hơn ba mươi con dơi xuất hiện, bay đảo loằng ngoằng, nhích tới chỗ mấy con vật ẩn, bất thần "cạch", rào tàn cây lay động, từ trong khóm lá xanh, vụt nhô ra một bóng trắng toát, xiêm y phấp phới đậu trên ngọn cà kheo ngất nghểu sừng sững lấp ló giữa các tàn cây, "rào" cái nó lại hụp mất dạng, mươi khắc lại nhô vụt lên, cách không đầy bốn mươi sải. Nhanh như cắt, cô gái quỷ giơ búa định thả nhưng Võ lẹ tay tóm ngay được:

                  - Suỵt! Chớ mắc lừa! Cô gái sực nhận ra hình người trên cà kheo ngất ngưởng cứng đơ, bỗng nghe tiếng lá cọ thoáng xế dưới mươi bộ, thoáng có bóng xanh đu vắt vẻo sườn núi xẹt tới như con vượn. Quỷ Nương không ngờ bọn Võ Minh Than lại thoát vây nhanh đến thế. Kịp thấy đàn dơi, ác điểu kêu ré lên báo hiệu, ào ào đuổi theo, bọn quái nhân quái nữ này biết rõ, thì bọn Minh Thần đã vọt đi được bảy, tám chục bộ. Quỷ Nương lập tức nhảy vèo xuống ngọn cà kheo, xua dơi dơi, độc xà rượt gấp. Chân núi nhiều cây cối rậm rạp, bọn Minh Thần thừa biết đang rút trước tầm súng địch hết sức nguy hiểm, nên cứ lao sau các gốc cổ thụ bờ bụi. Nhưng cả ba cùng nấp kín chưa chịu lộ diện, dơi dơi, ác điểu bay đuổi, sức vận tốc nhanh như tên bắn thoắt đã có mấy bầy vượt lên trước ào ào chặn đánh. Lần này chúng lại tinh khôn, toàn lên trốc tàn cây, bất thần đâm bổ xuống, nhưng bọn Võ Minh Thần đều có bản lĩnh, toàn dùng phản phong, đao búa chém, chim dơi cũng chẳng làm chi được. Ngại nhất đạn địch, trước sau đều vừa tầm, nếu ra chỗ trống. Võ Minh Thần ngoái dòm lại, bỗng thoáng thấy bóng Hấp Huyết quỷ nương chập chờn ẩn hiện giữa các tàn cây, chàng trai quay súng dù "tặc, tặc", Quỷ Nương nhác thấy, phải hạ cụt cà kheo ấn vội, đạn cũng xói gãy cành cây, trốc đầu mụ, khiến mụ phải thận trọng không dám đuổi bừa lộ diện. Nổi giận, mụ chìa súng bắn theo, nhưng cây rậm, bọn Võ Minh Thần ẩn hiện loang loáng, bắn không nổi.

                  Vì Quỷ Nương là tay súng giỏi, có thể bắn trúng chim bay. Nhanh trí chàng khoát tay, thấp giọng:

                  - Ra khoảng kia, có mấy mặt đeu trống! Nhất định có bọn quái nấp sau cồn gò bên trái kia! Ta cứ chạy xông vào giữa mấy con gò, nhưng phải lăn khiên, cuốn giáp như chúng cứu mấy con vật! Được chứ!

                  Cô gái quỷ gật đầu. Xịch đã tới khoảng trống, Võ Minh Thần xuất hiện, lập tức quát vèo ngựa lao thẳng ra, còn mình nhảy vọt chếch sang trái, cốt hứng mấy phát đạn đầu cho cô gái quỷ. Quản Kình vọt ra, theo một thế tuyệt vời, toàn thân cuộn tròn trong cặp khiên, không khác con trai nằm thu mình trong vỏ, đã lãnh liền mấy phát đạn tả, hữu, sau, chát chát chát, mạnh đến nỗi lạng cả người đi. Con ngựa không người cưỡi cứ thế chạy lồng, chẳng ai buồn để ý nữa.

                  Chân vừa hạ xuống cỏ, chàng trai đã dùng tận sức khinh công, cuộn khiên văng đi vùn vụt coi không khác con trăn khổng lồ chạy lóc sóc trên mặt đất. Đoàng đoàng! Liền mấy phát nữa bắn trúng. Khiên Võ cứ lăn vèo vèo, coi hết sức đẹp mắt. Kế tiếp liền là Quản Kình. Kình cũng quất ngựa, rời yên, động tác giống hệt tiểu chủ, mặc đạn bắn.

                  Võ Minh Thần, Quản Kình dạo lần sang Thập Vạn Đại Sơn tìm Chúa núi Mã Dầu Quảng Tây, đã được viên chúa soái miền Mười Vạn núi truyền cho phép đánh khiên này, phòng lúc tung vây, bị vãi đạn, tên giáo mác. Chúa núi Vân Nam đa dạy đủ cách chơi khiên, đơn kép vô cùng lợi hại.

                  Hai người mới luyện được ít ngày, nhưng nhờ sẵn có võ nên có thể nhảy vào giữa vòng tên đạn như không. Khi mang khiên kép, khiên úp kín bưng, Quỷ Nương chỉ bắn súng vỏ sò. Hai thầy trò vọt ra, cô gái cũng vọt theo. Nhưng nàng không rời lưng beo đen, vì beo nhỏ, thấp, tấm giáp pháo lại rộng như tấm chăn, vừa vụt ra đã chùm như tổ kén, đỡ liền mấy phát.

                  Riêng Bạch, Hắc cẩu cứ len lỏi dọc chân núi, bờ bụi, vọt song song với cặp ngựa. Chỉ thấy ba bóng cuộn tròn khiên giáp lao đi chênh chếch, bất thần, Võ né khiên, bắn vãi lên chân núi mấy phát. Kình xoay mình, nổ trúng ống quần Quỷ Nương.

                  Thất kinh, mụ quái nữ vội xẹt vào chỗ khuất nhưng vẫn đủ tài bắn ra ba phát trúng cả ba mục tiêu di động. Nhưng cả ba đều có khiên giáp che kín, không ai bị thương.

                  Bọn Minh Thần vội hú gọi mấy con vật, nhất loạt nhảy lên lưng beo, ngựa phi như gió. Ngại quái nữ đi dọc chân núi, ba người chạy xẹt chếch xa xa, qua mấy dãy thung, gò nữa thì lại đụng rặng núi đá chạy vòng cung hiện ngay phía trước.

                  Rặng núi này mọc rất lạ, quanh co vòng thung. Bọn Minh Thần thấy có con đường mòn chạy quanh núi, nên cứ theo đường phi đại, đi được mươi phút thế núi ăn vòng dần lên phương Tây Bắc.

                  Đưa mắt nhìn quanh, cả ba đều lấy làm lạ, thấy phong cảnh đẹp hết sức, núi rừng, thung lũng, cỏ hoa, cây cối, suối khe, vương vất nhiều khóm mây trắng đang ngả nắng chiều tà, coi như bức tranh vẽ cảnh sơn lâm thần tiên nào đó trong hoàng hôn đông khan.

                  Cảnh sơn thủy kỳ tú làm bọn Võ thấy nhẹ hẳn người, cùng nhau lướt phóng, chạy kiệu băm. Bốn bề quạnh quẽ, gà rừng gáy khò khè, chim lôi sào sạc, suối khe róc rách, vượn hú véo von, cảnh u tích ngấm vào lòng lữ khách.

                  Võ Minh Thần hít một hơi dài hương rừng thơm thoảng nhẹ lâng lâng, quay bảo cô gái:

                  - Không thấy bóng Quỷ Nương, chắc mụ đinh ninh ta không chạy theo đường mòn dọc núi!

                  Quản Kình thấy thoát khỏi vòng nguy, nghĩ luôn tới chuyện của tiểu chủ, vùng hỏi cô gái:

                  - Dạ... giờ cô nương tính đi đâu?

                  Cô gái quỷ đáp gọn:

                  - Biên! Dứt lời nói "cám ơn", giục beo đi thẳng, không thêm nửa lời. Thay trò Võ nhìn nhau, Quản Kình giơ hai tay lên trời, Võ Minh Thần mỉm cười, đoạn hai người cứ lóc cóc đi ngược chân núi.

                  Được một quãng, cô gái chợt ngoảnh nhìn lại, thấy hai người lẽo đẽo phía sau, bèn dừng lại, hất hàm, ngạc nhiên hỏi:

                  - Kìa, hai thầy trò đi đâu?

                  - À! Bọn mỗ đi... Tây Bắc!

                  Cô gái trợn mắt:

                  - Ồ sao không nói? Tây Bắc cùng đường, đi cho vui! Quản Kình thở phì, tuy rất ngán nàng ta, nhưng chẳng dám hé môi.

                  Ba người lại tiep tục lộ hành. Đi được thêm hai dặm ngàn, tới một khu thung lũng đẹp, xế tả có mấy trái gò, đồi xinh, thưa, cỏ non mơn mởn. Bên hữu núi đá dựng thành cao vút, mây chăng ngang sườn, xế trước có một con thác vắt từ tren núi xuống như dải lụa bạch trên trời buông xuống, coi hùng vĩ lạ.

                  Ba người chạy kiệu nhỡ, đang ngắm cảnh, thình lình nghe tiếng kèn Tây trống Tây dập dình xa xa. Ngạc nhiên, đi thêm quãng nữa, bỗng nghe tiếng kèn đồng noi hiệu truy phong, rồi tít trên rặng gò, đổi bên vụt nhô lên nhiều bóng nhân mã lố nhố, cao vọt hẳn lên, lại có bóng tán vàng tán tía đi vùn vụt.

                  - Bá Âm Bá Diện Ma Quân! Rút mau!

                  Võ Minh Thần vừa bật khẽ bỗng nghe liền mấy loạt súng nổ, cô gái quỷ la lên một tiếng, lảo đảo muốn dụi trên lưng beo. Thất kinh, Võ Minh Thần vừa lướt ngựa lên, vừa nói:

                  - Khiên giáp! Quản Kình, Võ Minh Thần giật vội khiên che kín, cùng vượt lên, nhưng cô gái quỷ bị đạn khá nặng, theo đà beo phóng đã đổ dụi xuống, tấm giáp móc khoác hở bên vai phải, cô gái cố đưa tay kéo lên, mãi chưa được.

                  Võ Minh Thần vừa lướt được lên, thì đạn từ phía trái lại vãi tới, rào cành lá, "chíu" bên tai, "chát" vào giáp, cô gái gục hẳn xuống gáy beo, coi vẻ muốn ngã.

                  Không dám chậm trễ, Võ Minh Thần xẹt luôn một tay túm vội lấy lưng cô gái, kéo thốc sang lưng ngựa, một tay cầm mép giáp giúp choàng quanh mình nàng, còn thừa ít choàng cả ngoài khiên, lo lắng:

                  - Cô nương, cô nương có sao không?

                  Cô gái chợt giẫy lên, chực nhảy chồm xuống nhưng không nổi, phải tựa vào Võ, thở dốc, phều phào:

                  - Nó bắn bất ngờ... hình như vào gần nách... Võ đưa mắt nhìn ra, thấy bóng nhân mã phi ao ào vãi đạn, cũng còn cách độ hai, ba trăm bộ, nhưng lại xế sau. Biết tình thế nguy ngập, Võ Minh Thần giữ chặt cô gái trong lần áo giáp, giục ngựa phi như gió thẳng phía trước, lần sau bờ bụi gốc cây gần núi. Đạn bắn đì đẹt vãi cả vào mặt khiên. Quản Kình thấy quân dữ đỗ tới, lập tức vọt ngựa lên, chìa súng bắn cản, cố ý che cho tiểu chủ. Sực nghe tiếng hét hàng chục giọng giống như đóng búa lỗ tai:

                  - Đúng y kia rồi! Có đứa bị nan! Không được bắn chết! Đứng lại! Gặp quả nhân còn hơn gặp Tây Sắc! Biên thùy hẹp lắm, ngươi chạy đâu cho thoát?

                  Thầy trò Võ nhìn ra, thấy quân mã lố nhố chạy xé ngang thung ào tới, cứ cách quãng lại có một toán mai phục riêng, toán khố xanh, khố đỏ, xà cạp trắng toàn áo nâu, nón chóp như lính thú đời xưa, giữa quân mã nhô hẳn lên bóng tàn tán dập dờn. Võ Minh Thần bất giác kinh dị:

                  - Lạ thật! Sao y lại có thể biết được lộ trình của ta mà chặn bắt? Dẫu có "xó" cũng chưa dễ gì. Nếu vậy chắc y không là giống quái, tất cũng phải tay thần toán như Hi Di Trần Đoàn đời Tống. Nay cô gái này bị thương, Đông Âm quân đông, ta hai tay súng cự sao lại? Chỉ còn cách một đường chạy mau, may kiếm được ngả hay đánh lạc hướng y mới xong...

                  Bèn hối Quản Kình chạy miết, được vài trăm thước thì Đông Âm Bá Diện đã tới đường mòn, cũng thuộc hạ đuổi riết như đàn két. May nhờ vùng chân núi rậm rạp, sẵn mỏm đá nhô, nên hai thầy trò Minh Thần không lộ mục tiêu hứng đạn. Nào dè đang chạy, bỗng sịch thấy ngay đầu gò xế trước mặt hiện ra hơn hai mươi bóng nhân mã xổ ào ra chặn đường. Vì con gò này sat núi đá nên khi hai người vừa lao tới gần khu thác thì bọn kia đã cập đến đường mòn, tình thế cực kỳ nguyên hiểm, tiến thoái lưỡng nan, trước sau đều thọ địch. Quản Kình vùng bảo:

                  - Nguy kịch rồi! Không còn cách nào nữa! Để tôi bắn chặn chúng, cậu hai vọt lên núi đá... may thoát.

                  Xế ra thung không được, hai người dưng cạnh thác nước ào ào, cách mấy chục bộ nước còn bắn tung tóe vào người ngựa. Núi cao ngất, thác nước chừng tích nước cả một dãy núi hoặc có mạch đùn, tuy về đông, thác này đổ mạnh như vào mùa hạ mưa lũ, con suối chảy ngang chỗ này thành một cái vung đầy đá tai mèo, chẳng rõ nông sâu.

                  Ngựa dừng bên hướng vào chân thác. Bạch cẩu, Hắc cẩu, hắc báo đứng bên chân ngựa câm nín, không con nào kêu một tiếng. Từ hai ngả, tiếng súng vừa ngừng, bỗng lại nổ đì đẹt, luồng đạn chạy "chíu chíu" dọc ngoài chút, cách chỗ người ngựa đứng độ sáu, bảy thước.

                  Võ Minh Thần ngửa mặt nhìn lên núi. Núi nhiều chỗ dựng thành, vác cô gái vượt lên không kịp nữa. Mà tiếng quân hò, ngựa chạy, đạn nổ nghe đã gần, không còn hơn trăm thước mỗi phía. Muốn chiếm điểm tựa chống cự, trớ trêu thay! Cả khu chấn thác này chẳng có điểm nào tốt có thể che cả cho người, vật.

                  Quản Kình quay họng súng, định bắn. Võ Minh Thần giữ cô gái nghẹo đầu, ngất khắc nào rồi, luồng nhãn tuyến chàng trai quét tia vòng rộng, dừng chân thác bạc. Đúng lúc tiếng ngựa cập kề, chàng trai chợt lóe ngay ra một kế, trở vọt ve phía chân thác, buông gọn:

                  - Độn thủy! Quản Kình quay dòm mành thác cao vút, đổ vũng tung bọt xóa, mành thác dày cả mấy phía, y chợt hiểu. Võ Minh Thần hú hiệu khẽ, vỗ ngựa lao thẳng xuống suối, thốc ngay vào mành thác, tay cuốn tấm giáp pháo che kín cô gái quỷ, lại kẹp khiên đội đầu. Rầm! Mành thác đổ xuống như búa bổ, cả người ngựa chìm nghỉm trong lòng thác. Rất tinh khôn, hai con sơn cẩu cùng còn beo đen lao vọt luôn vào bụng ngựa. Quản Kình phóng vụt theo, mất hút liền. Cả vùng sơn lâm, cây cối, quần hô đạn nổ như vụt chìm vào dĩ vãng. Hai thầy trò Võ Minh Thần nhắm nghiền mắt, có cảm giác rơi vội vào một thế giới khác đời nào, thế giới chỉ có tiếng thác đổ ầm như tiếng thiên binh vạn mã. Sức nước từ lưng trời đổ xuống mạnh lạ thường, tưởng chừng đánh quỵ luôn con ngựa xuống. May hai người đã lường trước ngay khi ngựa bén dòng, cả hai đã vận sức kình đẩy rạt nước về đằng trước cho rẽ ngang bên, con ngựa khôn vội cuốn cổ về sau, tay vậy sức nước đổ cũng làm nó loạng choạng giây khắc. May ngựa cũng mặc giáp nên đỡ được nhiều, vừa chui vào mành thác, rời mỏm đá, ngựa đã sa vào vùng ngập tới bụng.

                  Võ Minh Thần sợ lạc Quản Kình, vội đưa cây súng dù rẽ về đằng sau, chừng mươi khắc, chạm ngay phải đầu ngựa. Cả mừng, Võ thọc mạnh mũi dù làm hiệu cho Quản Kình. Trong bóng tối mành nước, Kình nắm được mũi dù. Võ móc cán vào cổ mình, giục ngựa đi sâu nữa.

                  Vụng nước lồi lõm, ngựa đi chật vật hết sức. Nước đổ xuống mặt khiên ầm ầm như khua chiêng, đánh cồng, âm thanh kỳ lạ. Mành thác này chiều dày đến bốn, năm thước. Võ nghĩ thầm:

                  - Càng vào trong, càng đỡ thẳng, chừng đụng chân núi sẽ hay. Bèn cứ giục ngựa đi sâu một, hai thước, rồi bốn, năm thước.

                  Áp lực nhẹ dần. Bỗng Võ Minh Thần cảm rõ con ngựa đang bước khệnh khạng nặng nề, chợt nó chồm lên. Võ cảm rõ nước vụng hạ xuống, rầm rầm, mành thác đổ mặt khiên vụt biến đâu mất. Bên tai Võ tiếng ầm ầm thác dội như chợt lui về cõi xa xăm nào, hơi thở nhẹ bỗng, rồi toàn thân cũng nhẹ lâng, bên tai có tiếng chó sủa ngựa hí.

                  Lạ lùng, Võ Minh Thần chợt mở choàng mắt ra, chàng kêu lên tiếng "ồ" kinh ngạc trước cảnh lạ thường. Vì người ngựa đã thoát khỏi mành thác từ lúc nào, và đang đứng giữa một vùng sơn kỳ thủy tú, trước mắt là cảnh một rặng núi xanh đậm lơ lửng những tổ chim phượng hoàng, hoặc những chuồng câu màu sắc rực rỡ như trong mộng. Như chạm phải điện, Võ ngoái phắt đầu nhìn lại, Quản Kình đang ngồi trên lưng ngựa, ướt như chuột lột, mặt mày ngơ ngác như mơ ngủ, và sau lưng y chừng năm, sáu thươc là mành thác đổ ào ào.

                  Trước mắt hai người, cặp sơn cẩu và con beo vừa rũ lông vừa chạy tung tăng, con beo chồm tới bên ngựa Võ, giương mắt dòm lên, kêu nhỏ như muốn hỏi về thương thế nữ chủ nó.

                  Hai thầy trò nhìn nhau cũng bàng hoàng, nhưng cả hai đều mừng rỡ thấy tự nhiên thoát khỏi cảnh truy sát hiểm nghèo. Võ Minh Thần nghĩ ngay đến thực cảnh, vụt bảo Quản Kình:

                  - Chắc mành thác là cửa vào một miền hang động kỳ dị hà! Vợ chồng Chúa Mười Vạn Núi có dặn: Thanh Âm động của bà Chúa ngàn cũng có cửa mành nước bí ẩn, miệt biên thùy vẫn thường có hang động, sắc dân, rừng thẳm như vậy. Ta nên rời chỗ này, kiếm nơi kín đáo đã! Cô gái này hình như "bị" khá nặng!

                  Dứt lời, chàng trai giục ngựa tiến luôn vào miền thế giới lạ kỳ. Chạy qua chừng năm thước hang, người vật đã đứng ngay bên thung.

                  Có lẽ chưa bao giờ hai người thấy một cảnh thổ lạ lùng đẹp đến thế. Phải nói là cảnh trí thần tiên mới đúng. Vì một mùi lạ phả vào mũi, lẫn với kỳ hoa dị thảo, gợi ngay mùi tết bình nguyên, mùi hoa thủy tiên! Nhưng hương thơm thoát túc làm hai người nhẹ hẳn nỗi sầu dương thế, tưởng mình đang gạn lòng trần lụy, đi vào cảnh sắc Bồng Lai.

                  Cả một vùng mọc đầy thủy tiên, hoa nở trắng mởn bạt ngàn sơn dã, với những loài hoa khác, muôn màu, cách chỗ người ngựa đứng ngót trăm bộ. Ngay trước cửa hang, có con đường mòn chạy qua, hai bên trồng đầy thủy tiên, và xa xa, lối mòn chi chít như bàn cờ, mỗi lối lại trồng một thứ hoa, nằm dưới các tàn cây xanh tốt. Xế trái có một dòng suối róc sách, nước trong như lọc, hải đường nở mơn mở bên dòng, cá chầy từng đàn bơi lội, cóc sòng rải rác phơi mình như những con rùa vọng hoa. Hai bên bờ suối, tùng bách sum suê, từng bầy công đang xoè cánh múa, như muốn vui nốt quãng ngày tàn trước lúc hoàng hôn xóa nhòa cảnh đẹp.

                  - Ôi!... Cảnh trí thần tiên... Nhà treo sườn núi mây chăng... Bỗng cô gái thơ phào, cựa mình ú ớ. Võ Minh Thần sực nhớ thực trạng, vội giục ngựa chạy dọc lối mòn, băng qua suối dáo dác ngó quanh. Quản Kình vọt đi trước, được chừng một trăm năm mươi bộ, bỗng y dừng lại vẫy. Võ phi tới, mới hay chân núi chỗ này có một cái hốc khá rộng. Không chậm trễ, chàng trai bồng luôn cô gái nhảy xuống, chạy vào hốc. Hành trang ướt hết,

                  Quản Kình vơ lá trải tạm cho Võ đặt nàng xuống. Y moi sắc lấy thuốc men ra, lại kiếm cành khô nhóm lửa sưởi cho cô gái. Nàng nằm ngửa thở, ngực phập phồng, mắt nhắm nghiền. Mãi lúc đó hai người mới kịp thấy máu tuôn ướt giáp, một bàn tay nàng áp vào chỗ bị đạn, đỏ lòm. Máu thấm mấy lần áo.

                  - Trời! Vết thương nặng lắm, không trách nàng ngất đi! Võ Minh Thần khẽ kêu, quay bảo Quản Kình:

                  - Chú nấu cho ít nước rửa vết thương! Vừa nói, chàng vừa cởi áo ngoài, rồi tới áo giáp. Trong áo giáp là áo len nhồi bông, cởi áo bông, là tới lần áo trong bằng xa tanh trắng. Tự nhiên, Võ ngần ngừ, ngó cô gái lạ. Áo trong có tay, viên đạn dùi nách áo, sát mép giáp vào, nếu chỉ hạ xuống một chút sẽ vào giáp, vô sự. Nhưng đạn lại trúng mép giáp, chếch từ trên xuống, vì kẽ bắn cưỡi ngựa cao, nàng cưỡi beo thấp. Cứ theo dấu đạn, hình như đạn đi ra đằng trước, ngay cạnh nhũ hoa.

                  Võ thoáng bối rối, mới mạnh tay cởi áo xa tanh. Nách áo đẫm máu, trong lại còn một lần "may ô" rồi mới đến áo lót. Võ ngừng lại đắn đo. Nàng vẫn nằm bằn bặt, nhưng vết thương vẫn rỉ máu. Quản Kình đang lấy dụng cụ nấu nước, ngó vào hiểu ý bảo:

                  - Cứu thương như cứu hỏa, cậu hai còn chờ gì nữa?

                  Võ khẽ thở dài. Lời cô gái nói ban nãy vang trong trí nhớ, dẫu sao cũng làm Võ ngại ngùng, tuy lòng Võ vẫn không vẩn đục.

                  Kình giục đến lần thứ hai, Võ mới tặc lưỡi lẩm bẩm:

                  - Nam nữ thụ thụ bất thân, nhưng mạng nàng đang nguy... Xin quỷ thần chứng minh cho. Dứt lời, Võ cởi nốt "may ô", pho tượng ngà bán thân hiện ra, chỉ còn nịt "su chiêng" bằng lãnh đen, càng làm nổi bật làn da trắng minh như mỡ đông.

                  Mình mẩy nàng đẹp lạ thường, cánh tay tròn khúc rắn, ngón tay tháp bút, cổ cao, vai muốt, ngực căng đầy sức sống. Trong cơn bằn bặt, ngực nhấp nhô theo nhịp thở không đều, dưới đôi cánh bướm đến đậu khuôn ngà bóng đôi chim uyên thổn thức như chỉ chực vỗ cánh bay vuột khỏi lồng ngực thở thơ đào. Có lẽ ngoai tài điêu khắc thần sầu của Hóa Công, trên đời không thể có tay điêu khắc nào làm nổi một thân hình cân đối, lằn thịt đẹp tuyệt vời đến thế.

                  Nhưng chàng trai không còn thì giờ để ý đến gì nữa ngoài vết thương. Chàng cúi xuống dòm, nâng hẳn nửa mình nàng lên, vẫn không thấy đâu, chỉ thấy máu thấm ướt loang lẫn nước suối thác, có chỗ đã xỉn lại vì lạnh... Ngạc nhiên, Võ phải đưa hai ngón tay luồn dưới nách sờ tim nhè nhẹ. Vẫn chỉ thấy làn da loang máu, lấy làm lạ. Chàng trai vội xé vải băng lau sạch máu. Máu loang nhiều về đằng trước, chứng tỏ vết thương nghiêng về đằng trước ngực, cả rãnh ngực cũng có máu.

                  Mải chú ý đến việc lau máu tìm vết thương, Võ Minh Thần quên khuấy cả cả chuyện khác, cứ theo dấu máu, luồn về trước ngựa lau chùi, bỗng chạm phải vật phập phồng, mới sực nhận ra đụng nhằm bóng chim uyên. Võ vội rụt tay, không dám lau nữa. Nhưng cả làn da ngà sạch máu, vẫn không thấy vết thương, mà "su chiêng" vẫn ướt máu rỉ.

                  - Lạ thật! Không vết thương đâu? Có lẽ chỗ gầm... ngực chăng? Chàng trai chợt khó xử lạ. Chàng cúi nhìn khuôn ngực căng phây nếp nhũ, lòng bối roi hết sức. Võ từ lớn chỉ biết võ thuật, rừng cây bóng núi, chưa biết chuyện tình, nhất tâm hồn Võ lại trong sáng, chỉ nung nấu hận thù, lẽ ra

                  Võ có thể tự nhiên săn sóc cho nàng ta, như săn sóc bạn đồng tính, nhưng khốn nỗi từ đêm gặp trên Hồ Ba Bể, nàng ta toàn tỏ vẻ nghi ngờ Võ định lợi dụng nữ nhi, nên Võ cũng mất vẻ tự nhiên, tuy lòng vẫn trong sáng như thường.

                  Quản Kình nhìn vào hiểu ý, nhưng chính y cũng ngán gái quỷ, thủ thân giữ ý là hơn, chỉ quay bảo:

                  - Cứu mạng như cứu hỏa. Cậu hai để chậm, máu ra nhiều, cô ta sẽ chết. Cậu hai hối hận à! Cậu cởi áo lót ra! Nước sắp sôi rồi! Võ đành tặc lưỡi, luồn ngón tay xuống gầm ngực lần tìm.

                  Dẫu sao làn da mịn cũng làm Võ khó chịu, phải ngoảnh mặt đi, nhưng vì không nhìn, tay đưa lạc vị trí, bỗng đụng phải vật đanh tròn, Võ giật mình như chạm phải điện, rụt vội tay lại.

                  Có lẽ từ ngày khôn lớn, chưa lần nào Võ Minh Thần thấy kinh hoàng kỳ lạ đến thế! Còn hơn cả chạm vào tổ kiến lửa, ong bầu vẽ. Cũng chẳng hoảng như người thò tay vào lỗ cua bị rắn nằm trong mổ. Đúng là chạm phải điện.

                  Không phải điện trời, điện đất bình "ắc quy", nhưng chẳng hiểu sao cũng làm chàng tuổi trẻ giật bắn người, muốn tê dại toàn thân. Vì thực ra đó là "âm điện", bàn tay Võ vốn có "dương điện", chạm vào nhũ hoa là một bộ phận tích phát nhiều "âm điện", hai luồng âm dương điện chạm phải là vật thiêng liêng của phái nữ, một thứ bất khả xâm phạm, đối vơi kẻ quang minh chính đính. Và tuy không gợn tà tâm, chỉ là vô tình đụng phải, Võ Minh Thần cũng có cảm giác hoảng hồn, khó chịu đã lỡ đụng trái cấm, chỉ sợ mắc hàm oan ngay với lương tâm.

                  Nên chàng trai vụt phắt tay lại, sau tiếng "ôúy nhỏ, không dám sờ tìm vết thương nữa.

                  Tuy vậy, chỉ mấy khắc, chàng đã hoàn hồn đề nhận ngay thấy bổn phận bắt buộc của mình trước cảnh mạng nàng đã treo trên sợi chỉ mảnh. Lúng túng, khổ sở, chàng trai vùng gãi đầu than:

                  - Ôi chao... rắc rối! Làm thế nào bây giờ? Quản Kình đang nấu nước nghe kêu, vội ngẩng nhìn vào, ngạc nhiên hỏi:

                  - Gì đấy cậu hai? Võ Minh Thần thở dài, nhăn mặt:

                  - Chưa thấy vết thương... mà hình như ơ xế đằng ngực... phiền quá!

                  Quản Kình nghểnh cổ chút, thấy cô gái nằm ngửa chỉ còn mảnh lãnh lót đen như hai cánh bướm khuôn ngà ẩn hiện muốt như mỡ đông dưới ánh lửa quện chiếu hắt vào. Kình hiểu ngay tâm trạng chủ, chưa kịp nói chi, Võ Minh Thần vùng gọi:

                  - À chú Quản... vào coi vết thương giúp... mau! Để tôi nấu nước Quản Kình lắc đầu lia lịa:

                  - Úy! Tôi vụng tay, làm gì được? Băng bó còn chưa xong mà! Cậu hai khéo tay... mới được chứ! Có khi đạn còn nằm trong, phải gắp à! Vả lại... va lại...

                  Chú ta còn muốn nói: "Vả lại rất ngán cô quỷ cái, bắn địch cứu cô, cô còn ngờ huống hồ đụng vào người cô... Vả lại cậu hai tiện hơn", nhưng chú ta im luôn, sợ Võ hiểu lầm mình chuyên đùn cái khó cho chủ. Lại thấy Võ cứ ngồi ngó xuống chân cô gái, chú ta vội lấy giọng tự nhiên bảo:

                  - Cứu thương như cứu hỏa! Coi kia! Máu chảy dòng... cậu hai! Chắc vết thương trong áo lót đó.

                  Minh Thần ngoảnh nhìn lên phần trên cô gái, quả nhiên trên lồng ngực trắng ngà chàng vừa lau sạch lại có một dòng chảy quanh co đang trôi xuống "rãnh". Cả mảnh quai "su chiêng" ướt đẫm, chẳng còn biết xuất phát chỗ nào. Nàng vẫn nằm bằn bặt, đầu nghẹo sang bên, lồng ngực phập phồng theo nhịp thở.

                  Lòng thương xót người đồng cảnh đơn côi thọ nạn, Võ Minh Thần lật đật cúi xuống, lấy bông lau vội máu, đoạn thò hai ngón tay nhón mảnh quai "su chiêng" kéo trễ uống. Bên trong máu ướt sũng. Chàng lau vội mấy cái, phát giác ngay vết thương. Thì ra viên đạn bắn chếch nách, sau khi chạm mép giáp đã trườn ra đằng trước, kéo một đường nhỏ hơn đốt tay, rồi dùi trong lằn quai lãnh sâu hoắm, có lẽ nằm trong đó.

                  Và chắc chắn, nếu không có mép giáp cản lại, nàng ta đã chết tươi vì viên đạn sẽ phá vỡ lồng ngực.

                  Vừa lật quai lãnh, máu tuôn xối xả, Võ Minh Thần vụt nhớ ngay lại chuyện "Cả Trọng bắn người hẹn đúng giờ chết" hồi cụ Đề Thám kháng chiến chống Tây và chàng trai nhanh trí kéo vội mảnh lãnh nịt lại như cũ.

                  Nay thấy dây nịt "Su chiêng", Minh Thần sực nhớ chuyện xưa, kéo vội dây thun xuống cho đè lên vết thương, dây này có cả thun, nịt chặt, thiếu nữ ưa dùng, nhờ vậy máu cô gái này ra ít. Kéo xong, Võ kêu lên:

                  - Đạn chạy từ nách ra cạnh nhũ! Nặng lắm! Khéo nguy mất! Có lẽ đạn còn nằm trong!

                  Tuy ngán cô gái, nhưng thâm tâm Quản Kình cũng chẳng ghét chi nàng, còn có thiện cảm với thiếu nữ là khác, nên vừa nghe tiểu chủ kêu nặng, chú ta vọt ngay vào:

                  - Giờ phải tạm cầm máu đã... rồi sẽ liệu. Chú phụ một tay... mau! Hạ giùm "sắc" trên vai! Chất củi cho nước sôi! Quản Kình theo lời. Minh Thần lôi các dụng cụ ra. Khách võ lâm giang hồ bao giờ cũng phải mang theo các món trị thương, băng bó.

                  Minh Thần từng được tôn sư dạy nhiều môn, kể cả môn trị thương gắp đan, tuy không thạo như các bác sĩ thượng hạng về giải phẫu, nhưng cũng có thể hiểu rõ cơ thể người, vật, các đường kinh mạch, yếu huyệt, vì võ học mặc nhiên có học cả về y khoa, cơ thể học, y khoa căn bản nên chàng có đủ đồ thông dụng trị thương.

                  Nhưng phiền nhất là vương rớt đâu mất lọ thuốc tê Nam dược, thuốc này xưa Lãn Ông Thánh Y Việt Nam chế ra, cùng vào đâu chỗ đó tê liệt, máu dạt đi, không khác thuốc tê Tây y hiện giờ. Đảo sục mãi không thấy, Minh Thần đành rửa tay, xức thuốc cầm máu cho cô gái, lại dùng bông lau sạch máu rây trên ngực nàng.

                  Thuốc cầm máu này cũng là Nam dược, kiến hiệu như thần. Chẳng phải chế biến gì cả, vì đây chỉ là lông con "cu li", dân sơn cước, đồng bằng, vẫn dùng từ xưa.

                  "Cu li" như con vượn con, lông màu nghệ đậm, "cu li" có tính thẹn, hay lấy tay che mặt khi bị chê xấu, nhưng lông nó mủn như tro, đắp vào vết thương lớn mấy cũng cầm máu, ít lâu ăn da non, tuyệt không bao giờ nhiễm trùng, làm độc, vì lông "cu li" có chất kháng độc, sát trùng sẵn. Quả đắp vào máu cầm luôn.

                  Nhưng khi cầm bông băng định buộc, Võ Minh Thần lòng đầy phân vân, nhíu mày suy nghĩ. Bảo Quản Kình:

                  - Viên đạn hiện nằm trong. Giờ nếu gắp ra mới được yên tâm. Nếu để chậm, rất nguy. Nhưng nếu gắp, mình hiện mất thuốc tê, vết thương lại ở chỗ quan hệ?

                  Quản Kình đáp càn:

                  - Nếu cần cậu hai cứ làm gấp là hơn! Tôi nghe nói đạn nằm chỗ hiểm dễ sinh biến chứng, đây lang thang giữa rừng, đâu ra thầy giỏi? Xưa Quan Công ngồi đánh cờ cho Hoa Đà nạo xương trị tên độc, nay có khi người ta cưa chân không thuốc tê, thuốc mê gì còn được mà.

                  Võ nhìn cô gái nằm bằn bặt, lo ngại lắc đầu:

                  - Cô ta giỏi võ, có điện công mà chỉ một viên đã ngất xỉu, tình hình đáng lo lắm. Biết đâu nó không phá bên trong?

                  Tuy nói vậy, nhưng Võ Minh Thần vẫn thấy cần gắp ngay viên đạn ra, nhất là xem kỹ vết thương. Đắn đo mươi khắc, chàng vùng tặc lưỡi:

                  - Không thể để lâu được! Giờ mới bị phải lấy ngay! Đành liều vậy! Quản Kình đứng lên, xách súng ra ngoài cửa hốc, miệng bảo "Tôi canh chừng, cậu hai cứ yên trí chạy chữa". Võ Minh Thần nắm lấy cổ tay cô gái, chẩn qua mạch, lại áp tai sát ngực nghe, bỗng kêu:

                  - Lạ thật! Mạch đập như người ngủ. Không có vẻ loạn mạch! Hơi yên tâm, Võ Minh Thần luộc sơ sanh kim chích, đưa thuốc tiêm cho nàng hai ống hồi sinh lấy sức. Gắp dao kéo, đồ gắp, dụng cụ cần thiết bày sẵn, Võ sửa soạn mọi thứ xong, bèn tìm chỗ cởi áo lót. Nhưng có lẽ từ nhỏ chưa hề thấy áo lót đàn bà bao giờ, Võ lúng túng mãi chưa tìm được chỗ cởi.

                  May sao Quản Kình đã trông vào hiểu ngay, vùng bảo:

                  - Khuy cúc sau lưng mà cậu hai! Mấy thứ đó bao giờ cũng cài sau lưng. Võ Minh Thần nâng nhẹ người nàng lên, lần kiếm, phải ghé dòm mới cởi được khuyết. Mảnh lãnh lót trôi xuống bụng khỏi nửa thân ngà với những nét tỳ bà cong vút, ngực căng tràn sức sống thanh tân, lưng ong thắt đáy, nhũ tròn đang mơn mởn đào tơ, tưởng không còn khuôn dáng mỹ nhân nào có thể sánh kịp, tượng điêu khắc hình bán thân vệ nữ cũng còn thua, đường nét đăng đối tuyệt vời, thật hoàn toàn trái ngược hẳn bộ mặt xấu xí lạ thường. Lúc này kề gần càng rõ, không còn ngờ gì nữa. Đúng la một bộ mặt thực méo mó, dúm dó, sạm nắng, chẳng khác có bàn tay trớ trêu nào đã chặt cái đầu Dạ Xoa đem lắp vào cổ nàng tiên hạ giới. Tấm thần lẳn đẹp đến điên đảo lòng người, khỏa lộ đến độ làm cho bộ mặt Da Xoa bỗng trở nên xa xôi không lên hệ gì nữa, tưởng chừng gỗ đá cũng... nổi loạn như chơi. Nhưng lúc này, trước mặt Võ Minh Thần, thân dáng khỏa của cô gái đã trở nên vô hồn vô sức, cả đến hình nhũ đang phây sức thanh tân cũng hóa thành hình căng vô hồn vô nghĩa, hệt một pho tượng đá trắng vô tri, không cảm giác gì. Khi ý chí và định kiến đã lên tới một mức độ nào, thì tất cả sức rung động trước hình dị đều "ngủ kỹ", cả hương sắc cung như xa lạ với giác quan, chẳng khác người ta nhốt kỹ con lợn trong chuồng vậy. Đó chẳng qua như một ý chí thôi miên, như một viên thầy thuốc yêu nghề, lúc chữa cho nữ bệnh nhân, lúc đó chỉ có vị thầy với con bệnh, còn tên đàn ông của thầy thuốc đó đã ngủ kỹ để không thấy người nữ của con bệnh. Minh Thần cũng vậy, chàng lại từng học thôi miên nên ý chí rất mạnh, lúc này không còn thấy gì nữa, chỉ còn vết thương của người con gái đồng cảnh đơn côi mang thù phụ mẫu.

                  Võ lau vội mớ lông "cu li" rồi đắp luôn kéo vào vết thương. Đầu kéo gắp mới thọc vào bỗng "cạch" chạm phải vật rắn nằm ngang. Võ ước lượng, mừng rỡ, bật reo khẽ:

                  - À! Đây rồi! May dữ! Thì ra mép giáp đã đỡ hết sức mạnh, đạn nằm ngay xương sườn, vào đúng huyệt nên nàng ngất xỉu! Võ đang lựa chiểu lấy viên đạn ra thì cô gái bỗng thở phào một hơi dài, giật mình mở choàng mắt ra. Ánh mắt ngơ ngác đảo lia từ Minh Thần xuống ngực, nàng giật nảy người, hốt hoảng định chồm dậy.

                  Mạng cô gái sẽ nguy nêu để nàng chồm dậy. Võ Minh Thần đành đè chặt lấy vai nàng, nghiêm mặt khẽ kêu:

                  - Nằm yên! Động mạnh máu ra có thể chết được! Viên đạn nằm trong sườn ngực.

                  Nhưng qua mấy khắc bàng hoàng, cô gái đã tỉnh them, thấy rõ mấy đường cong nhọn nhấp nhô vẽ vào vách đá dưới chân, nàng vùng ngóc đầu lên, và khi nhận ra mình cởi trần, nàng ta giật nảy người kinh hoàng, vừa hét, vừa gạt tay Võ ra, bật nhỏm dậy như chiếc lò xo:

                  -Trời! Buông... Ngươi... Ngươi... Võ Minh Thần không ngờ nàng có thể nhỏm dậy, nên chẳng đề phòng gì cả, bị hất văng cả tay kéo gắp, chàng trai còn đang lúng túng đã bị nàng co cẳng đạp cho một cái trúng đầu gối, ngã bật ngửa, và đứng xổ lên dáo dác tìm áo mặc, miệng vừa kêu vừa mắng thậm tệ. Kịp thời Võ Minh Thần lấy lại được thăng bằng thì vết thương xế gần nhũ cô gái lại vọt máu đỏ tong tong. Thì ra viên đạn xói trúng huyệt làm nàng xỉu đi, lúc Võ lùa kéo vào tìm viên đạn, tuy chàng vẫn có điện công truyền cả vào mũi kéo, tình cờ chạm phải huyệt nên cô gái được hóa giải thêm. Phản ứng kinh hoàng của nàng trinh nữ khi thấy mình ngực trần nằm trươc mặt đàn ông, cô gái đã vùng dậy như người mạnh, chẳng còn biết thương thế gì nữa. Nhưng vì cử động, máu lại bắn vọt ra, cô gái vùng lảo đảo cả mắt, cuống cuống nắm

                  vội manh áo toan chạy ra ngoài. Võ Minh Thần thấy máu vãi, thất kinh, vội đưa tay túm được cổ tay nàng, miệng kêu lớn:

                  - Trời! Cô nương bình tâm... Máu băng, máu băng! Đạn nằm bên huyệt đạo.

                  Cô gái khựng lại ngó xuống, thấy máu rỉ long tong, vẫn không biết sợ, lập tức vụt tay, phá chạy khỏi Võ Minh Thần, nhưng chàng trai lại không dám ôm lấy, hai người đang dằng co, may sao lúc đó Quản Kình vừa xách súng ra dọc núi quan sát, trở lại thấy, hiểu ngay, vùng kêu giật:

                  - Sao cậu hai không điểm huyệt? Tiếng quát của người quản gia gọi Võ về hiện canh. Chàng trai dùng luôn chỉ điểm nghiến luôn vào mạch môn cô gái. Bình thường Võ có thể điểm cách không cũng trúng, nào dè bắn liền hai cái, cô gái vẫn trơ trơ, cứ vùng vẫy, giằng co, chửi mắng hổn hển, máu càng ra nhiều. Võ Minh Thần sực nhớ đêm cứu nàng ở Hồ Ba Bể, cũng điểm không nổi, chỉ vì nàng có thoa một thứ bí truyền chi đó vào những yếu huyệt phơi ngoài, ngăn được đòn điểm. Không dám chậm trễ, Võ dùng tay thọc vụt ngón tay trỏ vào huyệt nách cô gái, miệng nói nhanh, "Bỏ lỗi! Bỏ lỗi!" Huyệt này đêm nào bên Hồ Ba Bể chàng đã điểm, quả nhiên vừa thọc trúng, cô gái rùng mình một cái, đờ như tượng gỗ, mắt mở trừng trừng. Võ Minh Thần lap tức đỡ ngang lưng nàng, đặt nằm ngửa trên lá khô.

                  Võ Minh Thần lại dùng lông "cu li" đắp vết thương cho cầm máu, miệng bảo:

                  - Cô nương để mỗ trị thương... chớ ngại! Nếu cô nương có mệnh hệ nào vì viên đạn vô tình, lấy ai trả thù cho lệnh song đường? Thiên địa chứng minh, kẻ này chỉ biết có nhục thù phụ mẫu, thấy cô nương cùng cảnh không thể làm ngơ... Ngoài ra mỗ không thấy gì khác.

                  Cô gái bị điểm tuy cứng đờ nhưng lần này không bị điểm ngất gục nên nàng vẫn tỉnh, chỉ đành giương mắt nhìn Võ. Quản Kình vào giục:

                  - Sao cậu hai không cho cô nương ngủ một giấc cho tiện chữa? Võ điềm đạm nói vọng ra:

                  - Chính tôi có ý để cô nương đây vẫn tỉnh. Cô nương có thể... thấy cảnh trị thương!

                  Kình hiểu ý không nói nữa. Lời đối đáp của hai người vẫn lọt vào tai cô gái. Hình như nàng chợt hiểu ra chàng tuổi trẻ để nàng tỉnh đặng kiểm soát hành động của chàng trong lúc cứu chữa. Ánh mắt nàng thoáng dễ chịu, lại đỡ kinh nghi nhiều.

                  Lông "cu li" quả là môn thuốc cầm máu thần hiệu, máu đang tuôn, vừa đắp vào lập tức cầm ngay, không khác lỗ đê vỡ được đắp đất vào. Giây lát, Võ quay vào dịu dàng bảo cô gái:

                  - Giờ mỗ gắp đạn! Nhưng không có thuốc tê, chỉ sợ cô nương chịu không nổi vì đau!

                  Tuy không nói, nhưng ánh mắt nàng khiến Võ hiểu, chàng giải luôn huyệt đạo cho nàng. Quả nhiên, được giải, nàng không làm dữ nữa, cứ nằm yên nhìn Võ mấy khắc, chợt khẽ thở dài, nói trống không, giọng mệt mỏi:

                  - Không cách nào hơn... cứ gắp vậy, còn biết sao? Lần này nàng chợt nói tiếng Kinh, nghe như gái "kẻ chợ" hoàn toàn. Võ hơi ngạc nhiên nhưng không nói gì, cứ lẳng lặng dùng bông ướt lau sạch lông "cu li", đoạn lùa luôn kéo vào gắp viên đạn. Đạn đi qua lần mép giáp mới vào người, đã nhẹ mười phần, nhưng lại điểm khác, vì chệch qua mép giáp, đạn bị biến hình, đâm gồ ghề có cạnh góc nên mắc giữa kẽ xương, gắp ra hơi khó. Võ Minh Thần phải lưa chiều lôi ra cho khỏi mắc, mũi kéo tây chạm thịt xương, đau hết sức, cô gái phải cắn chặt hàm rặng chịu đau, cố không rên.

                  Thấy nàng biến sắc, Võ ái ngại khẽ hỏi:

                  - Cô nương đau lắm không? Nếu đau cứ kêu lên, mỗ còn liệu tay kéo! Nàng cố nhe răng cười phào rung giọng:

                  - Không sao... tay kéo cũng... không... Nhưng chỉ ngó sắc diện cũng thừa rõ nàng đau ghê gớm, thở hộc nhát gừng, lồng ngực phập phồng, cặp nhũ đang run bần bật, tưởng chừng sắp nhảy ra ngoài khuôn ngà. Phiền nữa là đạn bắn thường mút da thịt, lỗ thủng ngoài rất nhỏ trong to, chạm xương càng rắn càng phá dữ. Viên này bị giáp cản, khi chui vào đó nằm đó đã hết đà mạnh rồi, nên không phá quá. Nhưng gắp đạn, thường phải mổ vết thương rộng ra cho dễ dàng, nay vì thiếu thuốc tê, Võ cứ nguyên thế lùa kéo vào miệng vết thương nhỏ mũi kéo lùa căng da thịt càng đau. Biết vậy, nhưng hoàn cảnh không thể lùi được nữa, máu chảy, chậm sẽ nguy, nên Võ Minh Thần đành cứ lùa mũi kéo lựa chiều rút đạn. Mãi mới lựa được, chàng trai từ từ lôi ra, viên đạn lại nằm chiều ngang chếch, phải vừa lôi vừa xoay xuôi cho vừa lỗ thủng phía ngoài. Cô gái rất gan, nhưng vết thương lại nằm ngay bộ phận nguy hiểm nhất là trái tim, nên sức đau càng dữ, nàng nghiến răng ken két, oằn mình đi, cố kìm, vẫn phát ra tiếng xuýt xoa nho nhỏ. Thoắt viên đạn đã ra gần miệng. Cả mừng, Võ lôi nhè nhẹ nhưng tự nhiên đạn không chịu ra nữa, như mắc lại tuy đã ra khỏi kẽ xương. Võ xoay nghiêng tay kéo, tự nhiên cô gái biến hẳn sắc, quằn quại, uốn cong lồng ngực, nhũ run bần bật, miệng nàng phều phào rên khẽ:

                  - Chao... đau chết mất thôi...

                  Nín thở, lòng xót thương, Võ Minh Thần lại mạnh tay, rõ tay cầm như thấy có vật gì đứt phựt bên trong, cô gái rú lên một tiếng, viên đạn đã theo đầu kéo gắp ra khỏi da thịt còn ướt đẫm máu đào.

                  Minh Thần thở phào kêu mừng "đây rồi", trông lại máu tuôn xối xả, cô gái đau quá đã chết ngạt sau tiếng kêu thảm. Thì ra viên đạn có cạnh xốc thịt theo ra, thịt níu giữ kéo lại. Võ lôi mạnh, đứt luôn miếng thịt nhỏ đó. Tuy nhỏ nhưng cũng đủ máu băng như tháo cống cùng với các yếu mạch vừa cầm máu lại bật ra.

                  Ném kéo, Võ chụp vội lấy mớ lông "cu li" đắp vào vết thương. Máu vẫn ra, đắp lần nữa, máu còn ri rỉ rồi ngưng chảy nhờ sức cầm thần diệu của lông "cu li".

                  Thở phào như trút được gánh ngàn cân, Võ lau vội lồng ngực, mình mẩy cô gái, đoạn lấy bông băng buộc vết thương lại. Mãi khắc đó, nguy hiểm lui dần, chàng tuổi trẻ mới kịp nhận ra rằng trước mặt, dưới tay chữa trị của mình, là một khuôn ngực trinh băng, đao tơ mơn mởn tròn phây nét kỷ hà như chứa đựng cả tám trời hương sắc ẩn hiện chập chờn nơi bồng đảo, Đào nguyên, như mời mọc tây phàm Lưu, Nguyễn...

                  Rất mau, chàng tuổi trẻ nịt vội dây băng, vừa đắp được mảnh "su chiêng" vào lồng ngực, bên ngoài bỗng nghe tiếng Bạch, Hắc cẩu sủa rộ, rồi Quản Kình hiện ngoài cửa hốc, gọi vọng vào:

                  - Có quân dữ xông tới! Toàn Mán!

                  Võ Minh Thần không khỏi giật mình, xốc vội cô gái lên, cài khuyết, mặc nhanh áo, giáp.

                  - Sao để chó cắn?

                  - Chúng đi thám, gặp hùm beo rượt vồ! Mán xua beo đi trước! Đông dữ à! Xong chưa cậu hai?

                  - Xong rồi! Gần chưa?

                  - Chỉ còn năm mươi bước mỗi bên! Hình như chúng biết ta trong hốc. Beo cọp "đanh" thấy hơi ngựa! Ít nhất phải hơn trăm tên.

                  Võ thu vội vật dụng, lấy giáp quấn quanh mình cô gái, đoạn khoác khiên, quơ súng dự phòng, sực thấy chó, ngựa, beo chạy ùn vào hốc, Quản Kình vừa xua vừa hỏi:

                  - Cậu hai tính sao? Cố thủ hay tung vây?

                  Võ chưa kịp đáp, bỗng có tiếng quát hung dữ vọng vào, lớ giọng Mán nghe khô khan:

                  - Ra đây mau! Hai cái đứa cưỡi ngựa có beo có chó! Dập bã trầu, cái tao đốt!

                  Quản Kình quát lớn:

                  - Cái quan lạc rừng, lạc đường nước vào đây, không có ý làm hại cái dân ngươi a... Hồng Thần, Sơn Đầu!

                  - Không cái đứa nào được vào động thiên! Ra mau, dập bã trầu, cái tao đốt.

                  Võ Minh Thần vọt ra cửa hốc, nép sau mỏm đá, cành xòa, dòm ra càng ngại, thấy lố nhố một toán mang cung nỏ, mũi lao, lại một toán mang súng, không phải hỏa mai khai hậu mà toàn súng trận, có cả trung liên, kích pháo, người ngựa đầy đàn men dọc chân núi tiến lại. Chàng trai bất giác ngạc nhiên lẩm bẩm:

                  - Quái! Động thâm sơn nào mà lại có cả liên thanh, kích pháo? Tình thế này, tung quân không phải dễ, lại mắc cô gái bị thương nữa... mới phiền! Đang tính kế, bỗng nghe một toán hô líu lô dữ tợn:

                  - Vào bắt! Lập tức, có tiếng hùm beo gầm rống, rồi giữa vùng cây cỏ bơ bụi, sịch hiện ra hàng đàn mãnh thú nhe nanh múa vuốt chồm hung tợn xế ngoài chỉ chực nhảy vào "cõng người đi. Rập! Bọn mới tới nhất loạt xuống ngựa, hàng trăm cái mộc cùng dương, tên nỏ súng ống chĩa ra tua tủa. Một tiếng hô nữa, lập tức cả trại chuyển mình, nối đuôi nhau chạy xé vòng cung qua cửa hốc, cách độ bốn mươi bộ, cứ thế, vừa lướt qua vừa bắn tên lửa, quăng các ống chứa đồ dẫn hỏa vùn vụt vào hốc. Cả trăm cái như một, bay vút vào cửa hốc như đánh đáo. Võ Minh Thần, Quản Kình vội dùng khiên trấn cửa, vừa quạt kình phong vừa lấy khiên gạt bắn ra ngoài, nhưng được loạt này loạt kia đã tới, thoắt đã năm, bảy mớ lửa lao vào hốc cháy ngùn ngụt. Bỗng "vút" một mũi tên còi kêu xé gió bắn thốc vào, nơi đầu mũi có một quả "trứng gà". Minh Thần giơ khiên gạt ra, "bốp", trứng gà vỡ, tỏa ra một làn khói trắng, mũi hai người thoáng ngửi thấy mùi thơm kỳ dị. Minh Thần kêu khẽ:

                  - Khói mê! Coi chừng, chú Quản! Bế huyệt mau!Quản Kình theo lời, lửa bay túa vào, "bốp bốp", trứng gà nổ liền hai, ba quả nữa. Tuy nhịn thở bế huyệt, Quản Kình vẫn thấy choáng váng, hoa cả mắt.

                  Minh Thần biết tình thế nguy ngập khó xoay xở, vừa ra hiệu cho Quản Kình thì mấy con vật đã rống lên, ngã gục.

                  Không chậm trễ, Minh Thần xốc phăng cô gái quấn giáp sẵn, cùng Quản Kình lao vụt ra ngoài như hai con chim. Chân chưa hạ, tay súng đã rê mấy phía. "Tặc tặc"! Nào dè đạn vừa khạc, bỗng ngay trên sườn núi cửa hốc đã chực sẵn hàng chục tên dữ nhất loạt tung vãi trái mê vào đầu hai người. Bất ngờ, cả hai đều hít mạnh vào buồng phổi, lảo đảo, hoa cả mắt. Chân vừa chạm đất, đã bị hàng chục tấm lưới gai tắm máu chó, lưới gân cọp quăng xoe úp chụp từ đằng sau.

                  Lần này, khói mê thơm hắc có sức công kích rất lạ, cả hai kịp phát giác ra có người sau lưng thì đã muộn! Đầu choáng, tứ chi bủn rủn, lưới trùm úp chụp, thắt nghiến lại. Minh Thần vận lực định chem xả liễu đao nhưng sức khói mê này công kích ngay tạng phủ nhanh như sấm sét, cả hai gục xuống. Súng, khiên, cô gái rụng lớp lớp.

                  Từ khắp ngả, hùm beo ùa tới lượn quanh gầm gừ, quân địch kéo ùa lại, bu quanh mấy tấm lưới, tên nào tên nấy mặt mày hung tợn như chực ăn tươi nuốt sống khách lạ.

                  Mặt trời cũng vừa hạ xuống non Tây, sương mờ, bóng dạ thần chụp lấy miền thung động thâm sơn như tấm màn bí ẩn t
                  ng trùng...

                  Comment


                  • #10
                    Hồi Thứ Mười



                    Nữ Chúa Rừng Sâu Truyền Bí Thuật






                    Đột nhiên chàng tuổi trẻ bừng tỉnh giấc mê, mở choàng mắt, ánh đỏ khé làm chói mắt, chàng vội đưa tay dụi, mới hay mình bị trói chặt như bó giò, chân bị xiềng lòi tói to bằng cổ tay người và nằm ngửa trên một tấm thạch bàn rộng.

                    Sực nhớ lại chuyện chiều bị thuốc mê lưới chụp, chàng trai vội lăn mình nằm sấp, dòm quanh, mới hay bị nhốt trong một căn nhà đá, chừng một cái hang đục lòng núi, bốn bề vắng lặng, trên vách có cắm một thoi nhựa trám lớn hắt từng vùng sáng đỏ khé nham nhở, khắp lòng hang trống trơn chẳng có vật chi khac ngoài hàng chấn song to như cây tre chắn ngay trước mặt. Bên ngoài chấn song, là một khu hang nữa ăn thước thợ hun hút.

                    Không một bóng người. Không cả tiếng động. Cũng chẳng thấy Quản Kình cùng cô gái quỷ kia đâu.

                    Dòm quanh mình, súng ống, khiên giáp, hành lý, ngựa, chó cũng đâu mất. Cả đến áo giáp cũng bị lột đi, di vật, vòng điểm huyết cùng sợi dây chuyền mang trong mình cũng biến sạch. Sực nhớ đến bọc di hài mẹ để dưới giỏ hành trang, chàng trai vụt thấy đau nhói tim lo ngại xót xa.

                    - Bao phen vào sinh ra tử đều thoát khỏi, không ngờ mới lạc đến vùng động dữ này, lại bị chúng bắt dễ như không! Lạ thật! Sao có thể bị khói mê chóng đến thế? Dẫu mình có hít phải một chút, huyệt đạo có mở ra mấy khắc lúc vọt ra đánh giải vây, mọi khi đâu ngất ngay được? Hừ! Thuốc khói mê loại gì lại ghê đến vậy? Sẩy chút sa cơ liền! Xem chừng bọn này lợi hại dữ.

                    Chàng trai nghieng đầu lắng tai nghe, hình như đêm khuya chỉ có tiếng gió vi vu xa xa, mơ hồ vọng về một vài tiếng hoẵng kêu hoang vu. Thoảng lại có tiếng chim khắc khảm từ ngọn núi cao rớt xuống, giọng chim vang nghe cũng mơ hồ xa xôi... ra rời bâng khuâng...

                    Thình thịch... bỗng có tiếng chân nặng dậm nền hang, rồi thấy hai con cọp vằn mộng lững thững bước vào, giương mắt dòm, rồi lại lững thững đi ra mất dạng.

                    Võ Minh Thần xoay mình ngó vào trong, bỗng phát giác bên hữu có một cái cửa thông nhỏ ăn sang một gian tối mờ. Chàng trai khẽ gọi, đến lần thứ ba, chợt nghe tiếng Quản Kình:

                    - Cậu hai! Cậu hai! Nó "bó giò" chặt dữ à! Cậu hai! Có cô nương kia đấy không? Cậu có bị điểm huyệt không?

                    - Suỵt! Khẽ chứ! Để coi! Chàng trai nghe Kình hỏi, sực nhớ ra, lập tức thử vận hơi lấy sức, mới hay chỉ bị khói mê, không bị điểm huyệt. Chàng cúi xem dây trói, mới hay toàn gân cọp, thứ dây trói chắc còn hơn dây thép, dây gai tắm máu chó. Bèn vận lực kình bứt dây trói, nào dè dây gân cọp nhuyễn đến lạ lùng, hình như còn được chế luyện thêm, nên dai kỳ dị, càng dùng sức, dây gân càng thắt nghiến chặt thêm, không chịu đứt.

                    - Hừ! Không ngờ dây chúng dùng lại dai đến thế! Trước đã có lần ta bứt đứt dây gân cọp, giờ chắc là thứ dây gân đặc biệt! Có lẽ phải dùng sức nóng?

                    Võ Minh Thần lóe mưu, lập tức vận luôn sức điện công hỏa lực trong mình, truyền ra nung các vòng dây gân. Quả nhiên, sức nhân điện nóng làm gân cọp mủn dần, giây khắc, bứt mạnh cái đứt bung luôn.

                    Cả mừng, chàng trai vùng đứng dậy. Dây lòi tói tuy to nhưng không nghĩa gì nữa. Chàng trai dùng cương khí giật lọi ngay khóa xiềng, tung luôn xích gông. khoá Phù. Võ phẩy tay tắt luôn ngọn lửa trám, chạy sang gian bên. Gian này ăn xế vào trong chút, chỉ có Quản Kình, không thấy cô gái.

                    Chỉ mươi khắc sau, hai thầy trò Võ đã vọt ra chấn song, bẻ cong veo, chui ra.

                    Thung lũng hiện ngay trước mặt, đồi cây hoa cỏ nằm bặt dưới trăng khuya đông khan. Cả miền động lạ im lặng sâu thẳm chỉ có tiếng hoẵng kêu xa xa. Chợt từ đâu có tiếng cồng nổi âm thanh chìm bổng lan gợn màn sương trắng, nghe huyền bí như dư âm từ thủa du mục hoang sơ vọng về.

                    Tình à tang... tang à tình... Như một cung đàn chơi vơi, hư hư thực thực, cung âm chưa bao giờ hai người được nghe... chập chờn đứt nối. Cả hai cùng lấy làm lạ, nhưng như hùm thoát cũi không có thì giờ nghe âm dị, thung lũng thênh thang đang chờ hùm về ngàn. Võ Minh Thần, Quản Kình thấy bốn bề vắng lặng, không một bóng người vật, lập tức vẫy nhau, nhẹ gót tiến ra ngoài cửa hang. Nào ngờ vừa đặt bước xuống bậc đá, bất thần cả hai bị đẩy thốc trở vào. Giật nảy mình, cả hai vùng dạt sang bên vách thủ thế, dòm. Vắng ngắt, chỉ có bóng cỏ cây hoa lá sương vờn. Bỗng nghe tiếng quát chìm âm u:

                    - Đi đâu? Hai cái người này? Vào trong nằm!

                    Võ thả vội một nhát chỉ phong "véo" vào cõi không. Hai thầy trò lướt theo ra. Nào ngờ một bàn tay vô hình đã túm ngực đẩy mạnh vào, sức khỏe phi thường làm cả hai phải bật lại.

                    - Không được ra khỏi đây! Còn ra bị vật! Cả hai phát chợn. Quản Kình thì thào:

                    - Xó! Ma xó! Xó Hồng Thần... Minh Thần lùi nửa bộ. Hồng Thần đã dữ, ma xó Hồng Thần còn dữ gấp mười. Nhưng cả hai không chùn, nhớ ngay lại phép cự "xó" của cha con vị chúa Pi A Ya truyền. Lập tức bấm độn chú, nạt lên mấy tiếng Mán, lừ lừ tiến ra, song song. Quả nhiên ra ngoài cửa không bị cản trở. Nhưng "rap", vừa đặt chân xuống mặt đất, thình lình từ trên một tấm lưới ập xuống, kéo luôn hai người xuống. Cả hai vừa chạm đáy hầm, dòm lên, đã thấy lố nhố đầy người in hình vào nền trắng sương mờ nhạt, vật vờ bóng cây, bong lưới. Chưa kịp nhảy đã bị khói mê phun xuống, tiếp theo luồng nước thơm ngát dội ụp. Cả hai vận hơi chống, nhưng vẫn bị hoa mắt, rủn gân rồi mê đi rất chóng. Lần này tỉnh dậy cũng mau. Hai người thấy mình bị nhốt chỗ cũ, không bị trói. Nhưng hỡi ôi! Gân lực đã tiêu, chẳng hiểu bị triệt điểm hay bị thuốc dữ, vận khí lên không nổi. Và chuyến này, chúng mặc hai người tự do trong hai gian nhà đá. Như cọp thiêng bị chặt đứt nanh vuốt, hai thầy trò đành thúc thủ ngồi nghe tiếng động đêm dài sang cạnh. Tuy vậy vẫn còn thấy may là không bị chúng giết luôn, vì Hồng Thần xưa nay vốn nổi tiếng giết người lạ như ngóe. Nhưng nghĩ tới cô gái dòng máu rơi của "Bạc công chúa", Võ Minh Thần không khỏi lo ngại nhiều cho tính mạng nàng, hiện đang mang thương tích chỗ yếu huyệt. Chừng hơn giờ sau, đang yên vắng, bỗng nghe mơ hồ có tiếng tù và rúc xa xa, tiếng cồng khua âm u, lẫn tiếng hùm beo tây tượng gầm rống, tuy rất xa, nhưng nghe như động rừng, động núi, mãnh thú lần về.

                    Ngạc nhiên, hai người ngồi lắng nghe, chừng mươi phút sau, động lạ lại rơi vào im lặng.

                    - Lạ thật! Sao lại nghe tiếng tù và thổi? Hay tiếng tù và của Ma Quân? Đang thắc mắc bàn nhau, bỗng lại nghe có tiếng Mán líu lo "đi"vào, hai người vờ nằm ngủ, hé mắt thấy một lũ Hồng Thần bước vào, đứng ngoài song dòm, lố nhố có cả đàn bà con gái.

                    Một cô gái Hồng Thần quấn xà cạp, đeo tiểu liên, dao quắm, hỏi một gã trung niên chừng tướng trấn sơn đã bắt bọn Võ:

                    - Có hai cái người này? Mán trấn sơn đáp:

                    - Còn một cái đàn bà quỷ nữa. Nó có hai cái nanh chìa mép, coi như ma! Hắn nói líu lo, nhỏ quá, không nghe lọt, mới chỉ thoáng nghe có câu: "nguy hiểm... lẻn vào cửa thác... có cả khiên giáp... súng ống lạ...". Chang nghe gái Hồng Thần nói chi, chợt thấy cô ta bỏ ra, chừng vài phút, quay vào, mang theo một bộ khiên giáp, cặp súng... của Minh Thần. Gái Hồng Thần soi lửa xem, bỗng nhanh giọng bảo: "phải cẩn thận, cái người này đáng ngờ, phải báo Chúa Ngàn ngay" đoạn tất cả bỏ đi mất. Thầy trò Võ nghe chúng bàn nhau "đáng ngờ", lòng càng lo ngại, hai thầy trò bàn nhau không hiểu "Chúa Ngàn" là người thế nào? Lát sau, hai người nằm quay ra cố ngủ cho lại sức. Đang thiu thiu, bỗng nghe tiếng chân rầm rập rồi bọn Hồng Thần kéo ập vào, mở cửa nói líu lo, khẩn cấp:

                    - Dậy! Dậy! Hai cái người này! Lên hầu Chúa Ngàn! Thầy trò Võ lẳng lặng nhỏm dậy, đi theo chúng. Ra đến ngoài đã thấy một toán ngót chục gái Hồng Thần võ trang, tất cả độ vài chục thổ dân nam nữ cho hai thầy trò lên ngựa, áp giải đi luôn. Mới hay chỗ chúng giam là giữa khu núi đá thâm u, ngồi ngựa, cả lũ đưa hai người đi quanh co qua một vùng thung lũng đồi nương trùng điệp, rồi lại qua một vùng toàn hoa thơm cỏ lạ, phần nhiều trồng hoa thủy tiên, bạt ngàn sơn dã, mùi thơm ngát gợi phong vị mùa xuân ăn Tết đầm ấm của người ta, người Tàu, làm hai thầy trò có cảm giác như đây không phải là miền đất nước Nam nữa. Vì bên Nam vẫn thường phải mua cả cây thủy tiên bên Tàu về tỉa ăn Tết, xưa nay chưa nghe nói miền nào trồng ở ta. Nhưng đồng thời, Võ Minh Thần cung sực nhớ ra lời dặn của Chúa "Mười Vạn Núi" từng cho biết Thanh Âm Động thuộc miền có thủy tiên. Võ chợt lóe tia hy vọng được dịp sẽ hỏi thăm bọn sơn dã dị kỳ này. Rừng thủy tiên trải ra bạt ngàn, tưởng chừng như ca miền trồng hoa vương giả. Cứ thế bọn sơn nhân giải hai người đi miết qua những vùng kỳ thú, cuối cùng đến khu trồng đủ kỳ hoa dị thảo, qua vườn phong lan, dừng dưới chân rặng núi cao chót vót, khung cảnh thần kỳ hiện dưới trăng vơi gần sáng.

                    Thang mây dập dềnh quanh co thành sơn đạo chạy dọc ngang chi chít như màng nhện suốt từ lưng chừng núi cao, từng khu nhà treo lơ lửng sườn đá mây vờn như một thế giới kỳ lạ.

                    Dưới chân núi, vườn hoa bát ngát, hùm beo tây tượng nằm đứng lố nhố, nhiều vô kể, tưởng chừng thú dữ biên thùy tụ tập cả chỗ này.

                    Cả lũ xuống ngựa, đứng giữa bầy mãnh thú. Thầy trò Võ nhìn nhau, không khỏi lấy làm lạ trước cảnh vật dị kỳ. Gái Hồng Thần chừng bộ tướng Chúa Ngàn, hú lên một tràng. Từ trên cao buông xuống một khúc thang mây.

                    Nữ bộ tướng Hồng Thần ra hiệu lên thang. Nàng ta đi trước, tới thầy trò Võ, viên tướng Sơn Đầu trấn sơn và hai, ba tên nữa, còn tất cả ở lại phía dưới. Sơn đạo quanh co vắt vẻo chênh vênh không có tay vịn, hai thầy trò Võ đã bị điểm triệt võ cong, lúc này như người thường, vượt lên rất chậm và khó nhọc.

                    Nữ tướng Hồng Thần luôn miệng giục, cả tên Sơn Đầu đi sau cũng ép dữ, làm Quản Kình nổi giận mắng lớn:

                    - Bọn mi đã triệt sức của thầy trò tao, còn giục gì nữa? Muốn mau sao không cõng bọn tao?

                    Tưởng nó giận, nào dè gái Hồng Thần đã kêu "phải" ra hiệu cho lũ trai Sơn Đầu hai tên lực lưỡng sấn lên ghé lưng cõng luôn hai người leo phăng phăng. Quản Kình to như con bò mộng, vậy mà tên Sơn Đầu cõng vẫn đi vùn vụt, quanh co dập dềnh giây lát, cả lũ đã tới khu nhà treo.

                    Đúng là một bản động trên mây. Nhà treo san sát từng chòm xóm, ánh đèn le lói, hiện trước hiện sau, trên mái đều có hoa coi rất đẹp. Sơn đạo trên này rộng hàng mấy thước, hai bên đều có luống đất trồng hoa thơm ngào ngạt, nhiều giống lan rừng, thủy tiên, dị thảo.

                    Điều lạ nhất là dưới hiên nhà, sơn đạo, hùm beo sừng sững qua lại. Trên mái cầy, cáo, mèo rừng, sóc, vượn, khỉ nhởn nhơ coi như bầy gia súc, làm hai người càng lạ tưởng lạc tới một thế giới huyền kỳ, người, thú sống với nhau.

                    - Dưới động Pi A Ya Bạc, người sống với sơn cẩu tinh khôn, dễ dạy. Đây Chúa Ngàn là nhân vật thế nào lại có lắm thú dữ thế này, toàn giống dữ khó sai khiến.

                    Đang nhìn quanh, nghĩ vơ vẩn, bọn Sơn Đầu đặt hai người xuống. Gái Hồng Thần đưa cả bọn qua khu nhà treo ngang dọc tả hữu như phố xá, thấp thoáng chỗ nào cũng có bóng người, toàn bóng nữ. Khỏi khu nhà treo này, còn vượt một đoạn sơn đạo lên nữa mới tới một khu biệt tịch, cũng toàn nhà treo, có nhà ăn vào ghềnh đá, điếu kiều đầy dãy.

                    Cả bọn dừng trước một khu nhà rộng mênh mông nằm dựa núi, hình như còn ăn sâu vào ruột đá nữa, có sân, có cổng, điếu kiều rất lạ mắt. Người thú lố nhố, cung tên súng ống tua tủa, cờ quạt phấp phới, ánh sáng rực rỡ như ban ngày ngoài cổng. Nhưng khi bọn này dẫn hai người vào căn nhà lớn, thì ánh sáng vụt đổi màu, chuyển sang ánh dịu, nhưng sáng soi rõ từng sợi toc.

                    - Đứng dậy! Tên tướng Sơn Đầu ra hiệu, còn bọn gái Hồng Thần đi thẳng vào trong.

                    Hai thầy trò nhìn vào nhà sâu hun hút, bàn ghế từng dãy, quần nữ Hồng

                    Thần, Sơn Đầu, Mán Tiền, Mán Cóc, Mán Cao Lan, Thổ, Thái, H"mông, Lô Lô, Nhắng, Kha, lố nhố dàn từng đội, gươm giáo súng ống tuốt trần coi rất uy nghi, nhác qua hầu hết các sắc dân bộ tộc Mán, Thổ đầy vẻ gan góc, thiện chiến.

                    Im phăng phắc. Không tiếng động. Tít trong cũng có một bục cao nhiều bậc gỗ, rèm đỏ đã vén lên, để lộ một cái ghế tay ngai cao lênh khênh, trước có một cái bàn thấp, rộng, trên đặt nhiều đồ vật... xế bên ghế còn có giá binh khí cắm đủ thứ cổ kim. Ghế tay ngai không ngươi, sau ghế còn hai thước nữa mới tới bức màn đỏ buông cờ treo rủ hai lá cờ lớn. Bỗng có tiếng cồng nổi âm u, khoan nhặt, nghe dõng dạc chơi vơi lạ. Cồng dứt, có tiếng một nữ tướng Hồng Thần hô lảnh giọng Mán Hán:

                    - Chúa Ngàn! Chúa Ngàn! Quân nữ các sắc cùng mấy tên Sơn Đầu nam giật sững người. Chỉ nhác qua quang cảnh đã biết đối với chúng Chúa Ngàn là một vị cực linh thiêng, linh còn hơn cả sơn thần, vì sơn thần còn phải do Chúa Ngan tù trưởng phong chức. Thầy trò Võ đang chú ý dòm vào, chợt nghe thình thịch chân dẫm sàn, rồi một bầy hơn chục cọp beo lững thững đi ra, đứng sững một dãy sau ghế tay ngai dòm ra, con nào con nấy to như bò mộng. Bỗng nghe tiếng nhạc vàng, vòng bạc, hoa tai, xà tích khua "xoảng, coong" một tiếng tổng hợp thoáng nhẹ như hơi gió, tên Sơn Đầu trấn cửa đứng xế sau thúc nhẹ vào lưng thầy trò Võ, khẽ hô "quỳ xuống", hai người dòm vào bỗng hơi giat mình thấy đã có bóng người ngồi vắt vẻo trên ghế tay ngai, lẹ như "hiện" lên, hai người chỉ thoáng thấy một vật sặc sỡ như cái mống bay từ trong ra, đủ biết thân pháp bóng kia kỳ ảo đến bực nào.

                    - Quỳ xuống mau! Chúa Ngàn!

                    Nghe tiếng Sơn Đầu hô chìm khẩn cấp, Võ đưa mắt nhìn quanh, thấy quân nữ, nam đều bồng khí giới chào, và từ từ cúi đầu tôn kính hết sức.

                    Hai thầy trò cứ đứng trơ trơ, dòm vào. Đúng lúc Sơn Đầu lại hô "quỳ xuống", bóng trên ghế chợt giơ tay vẫy, truyền "vào đây", tên Sơn Đầu vội hừ một tiếng, đẩy hai người vào. Theo lối đi hun hút đến bốn mươi bo nữa, hắn mới dừng lại chỗ cách ghế chừng hai mươi bộ, chìm giọng vừa hô vừa ấn vai xuống:

                    - Quỳ mau! Lúc này hai thầy trò đã nhận rõ mặt người trên ghế tay ngai. Cả hai chợt động lòng trước sắc diện của Chúa Ngàn. Vì đó chỉ là một nữ nhân, chẳng rõ thiếu phụ hay thiếu nữ, trông mặt trạc vào hai nhăm, hai sáu, đẹp như thiên tiên giáng hạ, mặc quần áo ngũ sắc rực rỡ như tiên cô, tóc búi đỉnh đầu, lược dắt trâm cài, hoa tai lủng lang lấp lánh sáng chói kim cương, cổ tay cổ chân đều đeo nhạc vàng nhỏ như hạt đậu, mỗi khi cử động phát ra những tiếng vang thoảng âm trong vắt. Mắt phượng hơi xếch, mày ngài dài quá mắt không vẽ, mi cong, môi cung san hô, mũi dọc dừa, ngoài vẻ nhan sắc tuyệt trần còn phảng phất nét uy nghi, hai con mắt sáng như sao, phát tia điện vô cùng thần bí, khiến kẻ ngang ngược mấy cũng phải nể kính. Võ Minh Thần thấy bà Chúa Ngàn đẹp uy nghi chợt sinh lòng kính trọng, bỗng tên Sơn Đầu lại thúc "quỳ", chàng trai bực mình ngoảnh lại mắng:

                    - Ta không biết quỳ! Mi muốn quỳ cứ quỳ đi!

                    Hắn có lẽ sợ thất kính với Chúa Ngàn nên phải nín, chỉ trợn mắt, thò tay ấn định ấn xuống, nhưng Quản Kình thấy y phạm tới chủ mình, vùng quát lớn:

                    - Bọn mi dùng thuốc mê hạ thầy trò tao, lại bế cả sức, còn nạt nộ gì nữa? Có gan cứ giải võ đi! Thầy tao không biết quỳ! Mi phải biết, oai như chúa "Mười Vạn Núi" còn chưa biết quỳ nữa là!

                    Tên Mán giận lắm, chưa kịp nói chi bỗng nữ Chúa Ngàn cất tiếng lảnh như Thánh Gióng, truyền:

                    - Gian ngay chưa rõ sao dám thất lễ với khách lạ? Lấy ghế cho khách ngồi! Giải huyệt ngay cho khách! Tên Sơn Đầu này dạ ran, hối thủ hạ đem ghế ra mời hai thầy trò ngồi. Võ vừa ngồi xuống bỗng thấy bà Chúa Ngàn phẩy tay hai cái. Hai người thoáng cảm rõ một luồng khí điện nóng, thoảng mùi thơm kỳ

                    ảo, cả hai rung mình một cái, yếu huyệt mở liền, sức quy hồi như cũ. Sinh lòng nể vì, Võ Minh Thần cất cao giọng nói một tràng tiếng Kinh:

                    - Cảm ơn ba Chúa đã cho ngồi, còn giải huyệt cho!

                    Bà Chúa Ngàn này hiểu biết tiếng Kinh, đăm đăm quan sát Minh Thần, chợt quay hỏi:

                    - Đem đồ binh giáp của khách lạ ra đây!

                    Từ trong, mấy nàng sơn nữ đội một mớ hành trang đặt lên bàn. Tên Sơn Đầu ứng tiếng:

                    - Bẩm Chúa Ngàn, hành lý đồ vật của cả ba đều để nguyên vẹn, chưa dám tự tiện khám xét. Có cả hành lý của gái quỷ!

                    Bà Chúa Ngàn cầm khiên, giáp lên xem, chợt giơ cao dây súng dòm, chân mày thoáng cau lại. Chúa Ngàn rút hẳn cặp súng cối ra, lật coi, quay tít trên hai đầu ngón trỏ vẻ thiện nghệ vô cùng, chợt quay nhìn Minh Thần, vùng hỏi lớn:

                    - Khiên giáp này là của Thập Vạn Đại Sơn, cặp súng nay là cap súng thần của Chúa Mười Vạn Núi, Thần xạ vô địch tướng quân. Người quý cặp súng này như sinh mạng, sao khách lại có?

                    Võ điềm nhiên đáp:

                    - Bà thật tinh mắt! Đúng của vị chúa núi Vân Nam! Chính người đã tặng ngu mỗ làm kỷ niệm đó!

                    Bà Chúa Ngàn thoáng tươi nét mặt:

                    - Vô địch tướng quân tặng? Lạ thật! Mấy năm nay "người" đâu có về Nam? Chàng trai cứ thực bảo:

                    - Ngu mỗ gặp "người" tại bản doanh, ngu mỗ được "người" cũng phu nhân cho nhiều vật!

                    Nghe chàng đáp, Chúa Ngàn vẻ mặt bâng khuâng thoáng nét vui pha trộn u hoài, chợt hỏi:

                    - À! Nếu vậy khách phải là người quen lớn với vợ chồng người? Nhưng đi đâu lại lạc vào cấm động? Khách có biết đây là đâu chăng?

                    Minh Thần kể qua lại chuyện ba người chạy giặc, quân truy sát, tình cờ vào mành thác ẩn, nhất nhất nói rõ, đoạn lễ phép bảo:

                    - Thực tình bọn ngu mỗ không biết đây có người ở! Bọn mỗ chạy dọc lối mòn rồi lọt vào, lại mắc gắp đạn cho người đồng hành. Ngu mỗ đi từ miệt núi Pi A Ya ngược Đồng Văn có ý đi tìm động Thanh Âm, đang đi gặp giặc.

                    Bà Chúa vụt sáng hẳn mắt, hỏi dồn:

                    - Sao? Đi kiếm Thanh Âm động làm gì?

                    - Thưa có chút việc, do chúa Mười Vạn Núi chỉ dạy!

                    -Việc chi?

                    -Việc riêng bà chẳng nên hỏi tới! Việc này mỗ chỉ có thể thưa với bà chúa động Thanh Âm!

                    Chúa Ngàn cất tiếng thánh thót như suối đàn:

                    - Chính ta là chúa động Thanh Âm đây! Nhưng nếu Vô địch tướng quân

                    Thần Xạ bảo tới, chắc phải có vật làm tin?

                    Võ Minh Thần mừng rỡ chẳng cùng, reo:

                    - Trời! Thế ra đây là động Thanh Âm! Trách sao đêm nằm cứ nghe tiếng lạ như tiếng đàn cồng! Ôi chao! Giờ mới nhớ ra, ân huynh, tỷ tỷ có dặn: Phu nhân thường mặc áo ngũ sắc, cưỡi cọp mộng. Người có trao cho một lenh tiễn để trong giỏ hành trang.

                    Bà Chúa Ngàn vẫy hai người lên. Võ Minh Thần lục sắc, mừng hết sức, thấy bọn Sơn Đầu chưa lục soát mảy may. Mũi lệnh tiễn còn để trong. Bèn rút ra, hai tay kính cẩn trao bà Chúa.

                    Bà Chúa đỡ lấy liếc coi, mặt vụt hiện vẻ xúc động lạ thường, lẩm bẩm "ôi! đúng nét chữ của "người" đây". Võ lại lục được mảnh họa đồ Chúa Thập Vạn vẽ phác đưa bà Chúa, bà ta xem, ngồi lặng giây lát, chợt quay hỏi:

                    - Mấy năm cách biệt, chẳng hay vợ chồng người có được mạnh chăng?

                    - Dạ mạnh! Còn cháu Hồng Kiệt giờ đã cưỡi ngựa đi săn được!

                    Đoạn nhân thể, Võ Minh Thần kể qua chuyện gặp gỡ vợ chồng chúa Mười Vạn Núi và lễ phép bảo:

                    - Người có nói không chừng sẽ sang Nam và có dặn kẻ này vấn an phu nhân!

                    Bà Chúa Ngàn truyền mang ghế lên cho hai thầy trò ngồi đối diện, nhưng Quản Kình giữ lễ, đứng hầu. Võ Minh Thần không đợi bà Chúa hỏi, vội chắp tay, ngỏ ý tầm sư học thuật trả thù nhà, cúi đầu xin bà chấp nhận.

                    Từ lúc biết Chúa Ngàn chính là bà chúa động Thanh Âm, "người vợ không bao giờ cưới" của vị chúa Thập Vạn, lòng Võ dâng lên một niềm kính trọng mênh mông. Vì chàng cũng đã được nghe qua cuộc nhân duyên kỳ lạ của hai người, thâm tâm rất cảm phục đức hi sinh thanh cao của bà ta; yêu chúa Thập Vạn ghê gớm, mà vẫn chịu nhường Phượng Kiều nêu duyên trước, còn mình chiếc bong cô đơn sống trong động thầm đếm từng mùa hoa rụng mang mang. Nên vừa cúi đầu ngỏ ý xong, Võ sụp ngay xuống, tâm thành nhớ đến thâm cừu, mắt vùng sa lệ. Không chút đắn đo, nữ chúa Thanh Âm sà xuống kéo Võ lên bảo:

                    - Chớ quá thủ lễ! Em đã được phu quân chị coi là nghĩa đệ, cũng như em chị! Thù nhà em cũng như thù nhà chị! Em đã có công lặn lội, chị sao thể từ nan. Từ nay hãy ở lại động này, chị sẽ truyền hết bí thuật cho! Cứ an lòng luyện tập.

                    Bất ngờ thoát nạn, lại được gặp ngay người mình đang tìm kiếm khó khăn, lại được bà Chúa Ngàn nhận truyền bí thuật rừng thiêng, Võ Minh Thần vừa mừng vừa cảm kích, sụp luôn xuống làm lễ tôn sư. Nhưng nữ chúa động Thanh Âm đã phất tay nâng thốc chàng lên, dịu dàng bảo:

                    - Bình sinh ta không hề thu nhận môn đồ! Phu quân ta muốn ta dạy em ít bí thuật để báo cừu phụ mẫu, ta sẽ hết lòng truyền bí pháp. Phu quân ta đã coi em như nghĩa đệ, ta cũng muốn được em coi như một người chị lớn, chớ xử theo lễ trọng. Em năm nay bao nhiêu?

                    - Dạ, gần hai mươi.

                    - À, vậy chị chỉ hơn em có năm, sáu tuổi, càng không nên như thế! Ngồi xuống kể qua chuyện đời em cho chị liệu sức kẻ thù ra sao.

                    Võ Minh Thần, Quản Kình ngày ở bên Vân Nam vẫn cứ tưởng bà chúa động Thanh Âm ít nhất cũng độ tam thập, cứ như uy danh lừng lẫy, tài nghệ phi thường, nào ngờ gặp mặt thấy bà ta còn trẻ không khỏi ngạc nhiên. Lại nghe chúa động coi mình như em, Minh Thần chẳng còn biết sao hơn đành chắp tay vái, ngồi xuống ghế. Chợt nữ chúa động cất tiếng lảnh như Thánh Gióng hướng xuống dưới:

                    - Công tử đây chính là nghĩa đệ của soái gia Thần xạ vô địch từ Vân Nam sang tìm ta. Trong mình có cả lệnh tiễn, bút tự của soái gia, tướng trấn sơn Khiêu La sao bắt giữ?

                    Viên tướng có tên Khiêu La tiến lên, cung kính:

                    - Thưa Chúa Ngàn, lúc đó có mấy đám quân lạ kéo tới bắn nhau ngoài mành thác. Khiêu La thấy bóng lạ vượt qua mành thác vào ẩn trong hốc, mới đem quân trấn sơn đến bắt, đem về nộp Chúa!

                    Nữ chúa nhìn Minh Thần, chàng trai ngại bà xử phạt bọn Sơn Đầu, Hồng Thần, nên vội từ tốn thưa:

                    - Bọn em bị quỷ Cà Kheo Hấp Huyết rượt, chạy tới mành thác, lại bị Ma Quân Bá Diện xua quân chặn bắt, đang chạy, một người bị đạn xuyên mép giáp, lại bị một bọn lạ khác ào ra chặn lối, túng thế đành vọt vào mành thác ẩn nấp, nào ngờ lọt qua cửa hang, vào động, bởi kẻ đồng hành bị thương, nên vội vào hốc đá gắp đạn, sẩy gặp quân động tới vây bắt, bị khói mê ngất liền. Cũng chỉ là ngộ nhận, dám mong nữ chúa bỏ qua cho.

                    Bà chúa Thanh Âm hỏi Khiêu La:

                    - Còn người bạn công tử đâu?

                    Tướng Sơn Đầu cung kính:

                    - Thưa Chúa, cái người gái dạ xoa bị thương, đội tuần núi dã đem đến nhà bệnh, coi sóc.

                    Nữ chúa hơi nhướng mày quay ngó Võ:

                    - Gái Dạ Xoa? Tại sao vậy? Bạn đồng hành của em có gái Dạ Xoa? Minh Thần lễ phép gật đầu:

                    - Dạ đúng vậy! Đó là một cô gái, em đã quen miền hồ Ba Bể, mới gặp lại chiều qua. Cô ta xấu xí như Dạ Xoa, nhưng lòng dạ ngay thẳng quang minh, lại cũng chịu cảnh cha mẹ bị hại, đang đi tìm cừu báo oán, tình thật xót xa.

                    Dứt lời, Võ Minh Thần kể qua lại chuyện kỳ ngộ cô gái quỷ trên hồ Ba Bể, chuyện nàng tử chiến với Giao Long chúa, rồi lại bị Quỷ cà kheo rượt... nhất nhất kể hết, kể luôn cả tính nết kỳ khôi giữ tiết của nàng, cùng vết đạn vô tình bắn trúng nách. Nhân dịp Minh Thần định kể luôn chuyện mình cho bà chúa nghe, nhưng bà chúa đợt đứng lên bảo:

                    - Để lát nữa, chưa muộn! Giờ phải xem bệnh tình cô gái đó ra sao đã. Vết thương tuy không quá nặng, nhưng lại vào huyệt yếu, nếu vô ý chút, có thể trở thành bán thân bất toại như không đó. Peng Lang! Cho nữ binh về trại nghỉ! Sửa soạn võng cáng! Dọn sàn nhà khách trên Phượng Hoàng dinh.

                    Một nàng Thổ, Thái chi đó mặc áo chẽn coi rất xinh tiến ra cúi đầu lĩnh mệnh, cồng đồng khua rền rĩ, các đội nữ binh Thổ Mán tung hô chào nữ Chúa Ngàn cùng quý khách xong, lập tức kéo theo các nư tướng Hồng Thần, Sơn Đầu, Mán Cóc, Cao Lan, Mán Tiền, Thổ, Thái, H"mông, Kha, Nhắng lục tục kéo khỏi sảnh đường,

                    Bà chúa Thanh Âm phất tay truyền:

                    - Đem tất cả hành trang, beo, ngựa, sơn cẩu của công tử tới khách dinh. Mấy nàng sơn nữ chạy ra, nhanh nhẹn vớ lấy mớ hành lý, súng ống, khiên giáp để trên bàn. Từ lúc mê sực tỉnh, Minh Thần vẫn nơm nớp sợ mất các món di vật thiêng liêng, nay lại thấy bà chúa truyền đem đi, chàng trai vội tiến lên cầm lấy hành lý, súng ống. Bà chúa khuyên để gái động mang cho tiện, Minh Thần cực chẳng đã phải khẽ thưa:

                    - Trong sắc em có ít di vật thiêng liêng... quan hệ tới nguồn gốc, nên lúc nào cũng phải mang theo bên mình...!

                    Bà Chúa khẽ cười bảo:

                    - Không hề gì! Nếu là di vật thiêng liêng càng nên để chúng mang về dinh khách! Không kẻ nào qua được mắt "xó" động đâu! Minh Thần nghe nói đến "xó", nghĩ ngay tới con "xó" canh hang giam, yên lòng ngay, để cô gái động mang đi.

                    Đoạn hai thầy trò theo nữ chúa Thanh Âm ra sân, Khiêu La tướng Sơn Đầu tiến lại cúi đầu kính cẩn:

                    - Khiêu La coi núi, không biết công tử là người của chúa soái Mười Vạn

                    Núi, công tử bỏ tội cho Khiêu La!

                    Minh Thần cười, vỗ mạnh vai y:

                    - Chính tôi phải cảm ơn chú bắt, mới gặp được Chúa Ngàn chứ! Chú chỉ làm phận sự mà! Nhưng thuốc mê dữ lắm. Bình sinh, khi tôi bế huyệt, thuốc độc cũng khó vào.

                    Bà chúa động dịu dàng bảo:

                    - Động Thanh Âm có nhiều thứ trấn thủ! Thứ nào cần có để cự thù, rồi đây ta sẽ truyền cho em! Lòng cảm kích, Minh Thần cúi đầu bái tạ. Bà chúa hú một tiếng, một bầy thú rừng sịch tới, bà truyền tất cả lên lưng thú. Thầy trò Võ Minh Thần chưa sống lẫn với hùm beo, nhưng đã sống với sơn cẩu Pi A Ya nên cũng không lạ mấy, trèo lên liền.

                    Một đoàn ngót chục gái động, cùng bọn Khiêu La nhất loạt "phò" bà chúa, quý khách xuống núi. Thú rừng toàn con lớn, cuốn vó chạy như giông, vượt qua vùng

                    "Phượng Hoàng dinh", lướt trên sàn dọc mây treo, dập dềnh, êm ru như ngựa phi kiệu đại. Hai thầy trò Võ cưỡi hai con cọp mộng không yên cương. Quản Kình khổ người cao lớn vạm vỡ, chân muốn quét sàn. May cả hai đều tay kỵ mã có hạng nên không rụng.

                    Nhìn gái động thấy từ bà Chúa đến gái tùy tòng ai nấy đều ngồi vắt vẻo gác hai chân sang bên mông dính hờ trên lưng thú, êm như ngồi trên sập, khiến hai người phải khâm phục.

                    Thoáng... bầy thú đã xuống mặt đất. Bọn Khiêu La vọt đi trước, Minh Thần, Quản Kình đi sau bà Chúa, hướng theo lối quanh co vượt qua những vùng đầy kỳ hoa dị thảo, các sơn thôn tuyệt đẹp, tới chân núi Tây đã thấy một vùng doanh trại nhà cửa san sát, quân mã lố nhố. Khiêu La đưa bà Chúa, thầy trò Võ vào một căn nhà rộng lớn bằng gỗ hai tầng, thấp thoáng nhiều bóng nữ.

                    - Đây là trại bệnh thương cho cả động điều trị.

                    Bà Chúa dẫn khách lên lầu, các y sĩ Thổ Mán cúi chào kính cẩn, cả bọn đi dọc hành lang dài hút, tới một khu tĩnh mịch, vào một căn phòng ấm cúng. Đã thấy hai, ba cô sơn nữ cùng một mụ Mán Tiền trung niên quây quanh một chiếc giường xinh xắn trải vải trắng, trên giường có một cô gái xấu như quỷ đang nằm.

                    Bà Chúa lại gần nhìn cô gái, không khỏi ngạc nhiên trước bộ mặt xấu kinh hồn, có cả nanh chìa, cam trên một dáng thân đẹp như tượng thần vệ nữ. Võ nói luôn:

                    - Nàng đó! Thưa, mặt nàng tuy xấu xí dữ tợn nhưng tấm lòng chí hiếu khác thường, nàng có cha mẹ bị Giao Long chúa tróc hãm, nên rất thù ghét "giống đực".

                    Mụ Mán Tiền thầy thuốc kêu lên:

                    - Đúng vậy à! Cái cô gái quỷ này vừa tỉnh, thấy bóng đàn ông là nhót lên đấm đánh, suýt có người gãy xương, mụ phải bơm thuốc mê cho ngất à. Nữ chúa Thanh Âm lại sát bên, ngắm cô gái giây khắc, gật đầu bảo:

                    - Trên đời này quả thật khó có cô gái nào coi xấu xa dữ tợn, có cả răng nanh như nàng. Kể cũng khác đời. Thôi, để ta xem qua mạch đã! Dứt lời, ra hiệu cho tất cả ra ngoài, chỉ để mụ Mán Tiền ơ lại.

                    Nữ chúa Thanh Âm rửa tay, chẩn mạch, nghe mấy phút, đoạn sai cởi áo xem kỹ vết thương. Nhờ đắp "lông cu ly", đã cầm máu từ hôm qua, nhưng miệng tím bầm, còn rộng ngoác. Bà sai rửa sạch các vết thương bằng thuốc sát trùng, đưa tay vuốt thử các yếu huyệt, kinh mạch, dùng thủ thuật "nghe" các luồng điện khí trong mình cô gái, chập bảo mụ Mán Tiền:

                    - Đúng viên đạn chạm huyệt! Chỉ một, hai bữa nữa là bán thân sẽ bị liệt rất khó chữa. Đẻ ta phải trị ngay kinh huyệt mới được!

                    Bèn dùng điện công xoa nắn một hồi, đoạn lấy ra một lọ thuốc bột đỏ như chu sa ra rắc vào vết thương, sai băng bó lại như cũ, xong, bước ra ngoài hiên, bảo Võ:

                    - Quả đạn chạm huyệt, bán thân còn chịu được hai ngày nữa sẽ liệt hẳn. Nhưng ta đã trị! Minh Thần nghe nói cũng yên tâm. Rồi, bà Chúa sai võng cô gái lên khu dinh treo.

                    Nữ chúa Thanh Âm động cùng mọi người xuống thú, truyền võng cô gái quy vào một căn nhà xinh xắn khu nữ khách, đoạn dịu dàng bảo nàng nữ tướng Thổ thân tín:

                    - Peng Lang! Hãy tạm trao cả việc binh cho nữ đầu lĩnh Hồng Thần Sơn Đầu Theng Phay! Em có việc giúp ta ngay từ đây, hãy thay ta chăm sóc công tử, gia tướng của người và cô nương. Công tử và cô nương đây đều thuộc dòng chúa Tây Bắc, gặp gia biến lạc tới Thanh Âm. Công tư đây, soái gia và phu nhân Mười Vạn núi đã gửi gắm cho ta truyền bí thuật.

                    Nàng nữ tướng Thổ cúi đầu lĩnh ý. Chúa Thanh Âm lại bảo:

                    - Cô nương đây hơi trái tính vì ra đời giữa cơn sấm sét gió mưa. Mới lọt lòng đã phải lìa cha mẹ. Vậy em khá yên tâm, hãy làm cô nương yên lòng khi tỉnh dậy.

                    Dứt lời, nữ chúa vẫy thầy trò Võ Minh Thần theo sơn đạo sang khu dành cho khách nam. Đã thấy mấy nàng sơn nữ hầu cận túc trực sẵn cúi đầu chào kính cẩn.

                    Vừa theo nữ chúa bước lên thềm, hai người hết lòng mừng rỡ, thấy hai con ngựa con beo, đôi sơn cẩu đã buộc sẵn hồi nhà. Gặp lại chủ, mấy con vật vẫy đuôi, muốn giật dây xích nhảy lên mừng đón.

                    Nữ chúa mỉm cười bảo:

                    - Mấy con vật này tinh khôn lắm! Giờ có thể cởi dây xích được rồi! Minh Thần, Quản Kình tháo dây bảo con beo:

                    - Nữ chủ mi đang dưỡng thương bên kia, mi có thể sang thăm, hãy ngoan ngoãn chớ gây sự với đồng bạn tốt của mi đó! Lạ thay, con beo như hiểu tiếng người, nó dáo dác dòm theo tay Võ trỏ, hếch mũi đánh hơi, rồi kêu "hí hí" chạy vụt sang khu nữ khách. Đám gái hầu đưa ba người vào nhà. Căn nhà rất xinh xắn, ấm cúng, đầy hoa lá, phong lan, thủy tiên nở thơm ngát, không khí núi cao nhẹ lâng lâng.

                    Hành trang, vật dụng để sẵn trên giá. Quản Kình thu để gọn vào buồng, thấy mọi thứ vẫn y nguyên. Bèn lấy chiến vòng điểm huyết và sợi dây chuyền buộc nửa đồng tiền vàng, đưa chúa Thanh Âm. Đoạn nghe bà chúa truyền gái hầu ra ngoài, rồi thánh thót bảo:

                    - Đây là nhà của em! Ta là Giáng Tiên! Giờ em có thể kể lại thù nhà cho ra rõ.

                    Gái hầu dâng trà nước rồi đi ra. Võ Minh Thần cầm chiếc vòng điểm huyết và chiếc dây chuyền vàng dâng nữ chúa:

                    - Nguyên do, nguồn gốc, dĩ vãng, đầu đuôi, thảm cảnh hình như do mấy vật vô tri này... Khởi đầu huyết hận thâm cừu vào khoảng thời gian không biết, chỉ biết rằng chuyện thê thảm nhục nhằn đó xảy ra vào một buổi hoàng hôn trên biên thùy Trùng Khánh, chuyện hấp sát cực kỳ ghê gớm, dã man, quái gở, khó lòng tưởng tượng nổi... Em là đứa bé không biết mẹ không biết cha, không biết cội nguồn, không biết quê hương, cũng không biết chắc mình thuộc dòng giống nào, sắc dân nào: Thổ, Thái, Mán, Kinh hay Tàu, Kha, H"mông, Nhắng... Cho đến nay vẫn chẳng biết tên họ thực là gì. Cái tên Minh Thần họ Võ chỉ là tên nghĩa phụ đặt buổi hoàng hôn thê thảm đó, khi người nhận đứa con nít lên hai ngồi trong túi da lạc loài giưa đàn Hồng Cẩu Quẩy. Hơn mười bảy năm rồi... chiều hôm đó...

                    Giọng nói Võ Minh Thần càng lúc càng rung mạnh; tay cầm chén trà bốc hơi, chưa vào chuyện nước mắt chàng tuổi trẻ đã chảy ròng ròng.

                    Cho đến khi chàng trai nghẹn ngào kể đến mấy tiếng cuối cùng, thì hai má chàng trai đã ướt đẫm lệ thảm và cả hai vạt áo sớm phong trần đã sũng nước như mưa sa.

                    Ngoài khung cửa sổ, một tầng mây đặc sệt kéo qua, cả căn phòng sa sầm lại. Chén trà trong tay Võ Minh Thần rung mạnh, "rắc", vỡ tan, nước bắn tung tóe, chàng trai giật mình, gạt lệ:

                    - Xin bà tha tội! Em thật vô lễ, khóc trước mặt bà... lại làm vỡ cả chén quý...

                    Nãy giờ ngồi yên nghe, nữ chúa rừng thiêng bỗng chớp mắt nhìn Võ, đưa tay ra, rung lời:

                    - Không không... em có lỗi gì đâu! Hãy gọi ta bằng chị! Chuyện đời em thảm quá... Minh Thần! Qua màng lệ, chàng trai ngó đôi mắt long lanh của bà chúa ngàn, đôi mắt phượng cung đầm đìa.

                    Bồi hồi xúc động, Võ đứng lên, dùng cả hai tay nắm lấy bàn tay trắng ngà của nữ chúa có những ngón búp măng tuyệt đẹp:

                    - Chị... mong ân chị bao dung... em cô độc trên đường đời... không cha mẹ chị em... nghĩa phụ cũng không còn... bao giờ... trả được nỗi thù chung thân.

                    - Em... đời người thật lắm oan khiên... đầu xanh em tội tình gì mà sớm chịu đau thương chất chồng? Chị sẽ giúp em.

                    Như thế khá lâu, hai người nắm tay nhau, không noi, nhưng nỗi lòng thầm cảm thật sâu xa. Quản Kình cảm động ngoảnh mặt che giấu mấy giọt lệ sa trên bộ mặt sạm nắng rắn đanh.

                    Chợt Võ Minh Thần buông tay nữ chúa Thanh Âm, bước vào buồng bên, đem xách giỏ hành trang ra. Ngạc nhiên, Giáng Tiên khẽ hỏi:

                    - Gì thế em? Chàng trai không đáp, lẳng lặng moi ra một cái hộp, mở và lôi ra một khối sáp ong vàng, chợt nhìn ra, thấy bóng gái hầu thấp thoáng xa xa, chàng lại cầm cả vào buồng thắp ba nén hương, vái lạy lầm rầm. Nữ chúa Thanh Âm ngạc nhiên bước vào, thấy Minh Thần lấy dao rạch mấy đường khâu trên khối sáp và lật nhac ra từng mảng lớn. Bỗng chàng trai lôi xoạc ra một khối đen đen trắng trăng, rũ phạch một cái, phát ra một tiếng "rục" dòn, và nữ chúa Thanh Âm bỗng giật thót mình kinh sững lạ lùng vì giữa vùng ánh sáng mờ nhạt, trên tay Minh Thần đã hiện ra một hình thù cực kỳ gớm ghiếc, đúng hơn là một cái xác đàn bà mặc phá lãnh Thái thủy ba kim tuyến chỉ còn da bọc xương, mặt mày chỉ còn xương sọ, coi cực kỳ gớm ghiếc.

                    - Trời! "Cái túi da người"!...

                    - Vâng! Đúng cái túi da người. Chính di hài mẹ em đó! Theo lời chúThoòng Pạc Hoọc chúa núi Đầu Ngựa Quảng Tây và nghĩa phụ em thì trước đó mấy phút mẹ em còn là một tuyệt thế giai nhân, tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy đã biến thành "cái túi da" này sau mấy phút hấp sát và trước khi chết thảm, nó đã hành hạ mẹ em đủ điều tủi nhục. Nó dùng tà thuật, vũ khí chi đó khiến đàn bà như hóa điên, cam chịu nhục nhã, lạy van xinh hiến hình hài cho nó. Hơn mười bảy năm rồi... âm khí vẫn chưa tan. Có một đêm hồn "người" đã hiện về báo mộng cho em... đúng như lời chú Thoòng kể lại.

                    Bị rượt, biết không thoát, bà đã bỏ em vào túi da bên cổ ngựa thả đi còn bà cầm súng bắn cả bầy "quỷ đỏ mắt", nhờ thế em còn tới ngày nay...

                    Nói xong, nước mắt chảy dòng. Nữ chúa Thanh Âm kính cẩn đỡ lấy di hài người đàn bà xấu số, ngắm hồi lâu, lại đặt nằm trên bàn, lật áo, tóc, xem xét thật kỹ, miệng lẩm bẩm "ghê thật", "thật là khủng khiếp", "quái đản", xong thở phào một hơi dài, lòng thương xót vô cùng, bà ngó cái xác da bọc xương lổn nhổn, ngó chàng trai bất hạnh ngậm ngùi:

                    - Thật ngoài sức tưởng tượng! Không còn nanh ác tàn độc hơn nữa! Trước thỉnh thoảng chị có nghe nhắc đến chuyện "con tinh tứ túc hấp sát" nhưng cũng chưa mấy ai thấy xác nạn nhân. Sau được tỏ hành vi quái đản của Ma Vương Sắc, thường bắt gái đẹp đem về làm vợ, không ngờ mẹ em lại là nạn nhân của nó! Âu là nghiệt số không may. Thôi! Dẫu sao chuyện đã xảy ra, giờ phải cố nén sầu đau, tính cách rửa hờn, trừ hại cho dân gian là hơn. Em biết thêm gì về Tây Sắc, cứ kể tỉ mỉ cho chị rõ, để chị còn liệu đo lường sức lợi hại của nó đến bực nào, còn luyện thuật cho em.

                    Minh Thần lãnh ý, kể lại từng chi tiết phi phàm quái dị đã được chứng kiến trong mấy lần gặp Tây Sắc Ma Vương, Nữ chúa ngàn vừa nghe vừa chăm chú quan sát lại di hài người đàn bà quốc sắc bị hấp sát, lật ngang, ngửa, lần soi từng huyệt đạo, thất khiếu.

                    Chừng Minh Thần kể hết, bà chúa lộ vẻ trầm ngâm suy nghĩ rất nhiều, lát sau bảo:

                    - Thôi! Em hãy gói di hài mẫu thân lại, nghỉ lát ăn cơm, mai sẽ liệu. Đoạn từ giã hai thầy trò, bà rời khu nhà khách, trở lại biệt dinh. Minh Thần gói di hài lai, bọc sáp như cũ, cất kỹ, cùng Quản Kình ngồi uống nước, nói chuyện. Gần trưa có gái hầu vào mời hai thầy trò sang biệt dinh nữ chúa. Hai người cho cả Hắc Bạch cẩu đi theo. Đã thấy bàn tiệc san sàng. Nữ chúa Thanh Âm, có thêm nàng Peng Lang cùng hai thầy trò vào tiệc rượu. Quản Kình thủ lễ, cố từ chối không được, phải cùng ngồi. Nữ chúa động tuy rất uy nghiêm ngự trị cả miền lãnh địa thâm sơn huyền bí, nhưng lại rất tự nhiên phóng khoáng nên tiệc rượu đầm ấm lạ. Nhờ vậy hai thầy trò Minh Thần không phải quá gò bó trong mớ lễ nghi phức tạp của các dòng vương gia tù trưởng miền núi. Giáng Tiên còn được khắp các thổ dân Man miền động phủ Thanh Âm tôn kính, vượt cả ngôi nữ vương sơn cước, đến độ sùng tín như đối với một vị nữ thần thiêng liêng. Càng nhìn lâu, hai thầy trò càng thấy bà ta có một cốt cách thần tiên thanh thoát kỳ lạ, từ mat mũi, dáng thân, cử chỉ lời nói, đều toát ra một vẻ thanh cao khác thường, nhất là lại mặc xiêm y rực rỡ nhiều màu coi càng giống tiên trong tranh cổ. Hai thầy trò Minh Thần có biết qua mối duyên lai kỳ diệu của bà vơi chúa Mười Vạn Núi, mãi lúc này mới hiểu tại sao bà có thể hi sinh nhường chồng chưa cưới kết duyên cùng Trần phu nhân để sống cô đơn trong động thẳm. Trong tiệc, Giáng Tiên hỏi thăm rất nhiều về hai vợ chồng vị Chúa soái lạc thảo bên Vân Nam. Minh Thần cũng cho bà biết từng chuyện nhỏ. Khi nhắc đến phong độ cùng cuộc sống của vị chúa Mười Vạn Núi, hai con mắt phượng sáng long lanh, chừng như chính bà là Trần phu nhân vậy. Và trong

                    ánh mắt, tuyệt không vẻ chi ghen, tiếc như phần đông những người đàn bà không được chung sống với người yêu.

                    Minh Thần cũng cho là lạ, nhân vui chuyện bèn buột miệng hỏi về tâm sự của bà, bà mỉm cười khoan dung, kể cho hai người nghe chuyện cũ, mới hay mối duyên lai của bà chúa ngàn với Thần xạ vô địch tướng thật huyền kỳ, không kém thần thoại.

                    Nguyên phu thân nàng cùng tôn sư tướng Thần xạ là một gia môn chính phái. Tôn sư Thần xạ phiêu bạt xuống tận miền Nam Băng Dương, tình cờ hải thuyền bị cuốn vào một dòng thủy lưu giữa vùng biển đầy băng nổi không tàu nào qua đươc.

                    Luồng thủy lưu đưa hải thuyền tới một hòn đảo lạ, giữa đảo là một miền bốn mùa xuân, cây cỏ xanh tươi mơn mởn, khí hậu tốt lành, sống rất lâu. Tôn sư cùng đoàn thám hiểm gọi nơi đó là đảo Thần Tiên, bèn định cư tai đây. Sau lại khám phá ra một luồng thủy lưu đổ qua Băng Dương ra Đại Dương, tôn sư bèn xây dựng đảo thành một thế giới riêng, cứu vớt những kẻ đắm tàu hoặc đón những kẻ tình cờ lạc vào thủy lưu, đủ mọi sắc dân Âu A Phi Mỹ Úc, đủ mọi nhân tài tới đây không ai muốn rời nữa, cứ thế mở mang dần cuộc sống, mọc lên Thần Tiên đảo thành một thế giới ngũ đại châu thu hẹp, với nhịp sống thần tiên, và tôn sư thành đảo chúa đảo Thần Tiên miền Nam cực địa cầu.

                    Trong khi đó phụ thân Giáng Tiên đi chu du thiên hạ, rồi về khám phá ra động Thanh Âm đầy hoa thủy tiên, với kỳ hoa dị thảo, khí hậu mát mẻ quanh năm như mùa xuân. Ông bèn ẩn cư chốn này, quy tụ các sắc dân Thổ Mán, chẳng bao lâu thành một động phủ lạ, động Thanh Âm có tên Thủy Tiên cung miền "Phượng Hoàng dinh" với những mái nhà treo trên mây. Sinh thời, ngoài tài văn võ tuyệt học bí thuật, ông còn là bậc nho y lý số rất giỏi toán dịch, chiêm tinh như thần. Ngày sinh Giáng Tiên, ông lên ngọn núi xem sao, tính cả toán dịch, đã biết rõ người chồng của con gái là ai.

                    Nên mới vẽ mấy bức tranh để lại, treo đầu giường Giáng Tiên, bức chính vẽ miền Thủy Tiên cung, nhà treo, hoa nở, có một chàng tướng núi ngang tàng nằm mọp trên lưng ngựa bờm sư tử lạc tới động phủ, ngày... tháng... năm rõ ràng.

                    Trước khi chết, ông chỉ bức tranh tướng núi nằm lưng ngựa, cho biết đó là chồng Giáng Tiên.

                    Tranh còn kèm một bức hình bán thân họa khuôn diện một chàng trai uy võ. Giáng Tiên ngồi đợi duyên lại. Quả nhiên đúng ngày, đúng tháng, năm đó, năm nàng vừa hai mươi theo đúng lời ghi chú, có một tướng núi đeo sung, lạc tới động phủ: Ngựa bờm sư tử, cặp súng trễ sườn, vai dắt gươm, quần áo chàm, mặt mày giống hệt người trong tranh vẽ. Đó chính là Thần xạ vô địch cưỡi con Hắc Phong Câu, bị phục kích, chạy lạc tới. Giáng Tiên chạy chữa cho "người chồng tiền định". Lúc chàng tỉnh, nàng trỏ tranh vẽ hai mươi năm xưa cho hay tự sự bàng hoàng. Thần xạ cùng Giáng Tiên đính hôn, nhưng đính ước xong chàng lại phải ra đi. Nào hay đường đời xoay chuyển, nàng hi sinh cho phu quân kết duyên cùng Trần Phượng Kiều để trả thù hai họ, còn nàng lẻ loi chiếc bóng sống nơi động thẳm với hình ảnh "người chồng chưa bao giờ cưới" đếm từng mùa lá rụng thâm sơn/

                    - Chắc em lạ tại sao ta sống được? Đó là vì em chưa yêu! Nếu yêu tuyệt vời em sẽ rõ tình yêu tuyệt vời không phải là chiếm đoạt. Yêu là hi sinh tất cả cho người mình yêu. Ta yêu phu quân, ta sống với hình ảnh người, ta sống bên hạnh phúc của phu quân, ánh lửa tình thiêng liêng đó không đủ sưởi ấm lòng ta sao? Đó mới thực là tình yêu thuần thành.

                    Võ Minh Thần chỉ còn biết cúi đầu kính cẩn cảm phục tấm lòng thanh cao của nữ chúa ngàn, nhưng chàng trai tự nhiên khẽ thở dài nghĩ thầm:

                    - Duyên lai kỳ dị, đẹp như tình sử dệt bằng hoa gấm! Nhưng dẫu sao đoàn tụ vẫn hơn, sống cô độc với mối vọng tình sao cho khỏi lạnh lùng mang mang. Như mình đây, mang di hài, hình bóng mẹ trên vai, trong lòng, sao bằng nếu được thấy mặt, nghe giọng nói, được hầu hạ sớm khuya...

                    Tuy nghĩ vậy, nhưng Võ chẳng dám hé môi gợi sầu cho bà chúa. Tiệc tan, hai thầy trò về nghỉ. Tối đó lại được mời dự tiệc với hang động, bà chúa cho tổ chức dạ hội mừng khách phương xa, có cả rượu cần, ca hát. Trong tiệc, các nam, nữ tướng Thanh Âm thay nhau chúc mừng thượng khách, tình thật thắm thiết, khác hẳn lúc đầu, Sơn Đầu, Hồng Thần như chỉ muốn nuốt tươi kẻ lạ. Minh Thần, Quản Kình từng giao tiếp với dân rừng nên cũng không lấy làm lạ. Nếu nghi ngờ, coi ai là địch, dân thâm sơn thường xử rất dữ, nhưng khi coi là bạn, khách lại hết lòng quý mến, không tiếc thứ chi, kể cả dám đem sinh mạng ra giúp khách. Các sắc dân Thanh Âm vốn tôn sùng bà Chúa Ngàn như thần linh, xưa nay lại het sức tôn kính vị chúa Mười Vạn Núi Vân Nam, giờ biết hai khách lạ được chúa núi coi như thân thích nên ai nấy đều một dạ tin yêu. Nhờ vậy, hai thầy trò cũng thấy lòng ấm lại sau những ngày lận đận gian lao khắp mấy rưng già hoang liêu đầy bất trắc. Gần nửa đêm, dạ hội mới tan, Võ Minh Thần, Quản Kình cưỡi cọp theo Giáng Tiên chúa ngàn, Peng Lang nữ tướng Thổ, Theng Phai nữ tướng Hồng Thần cùng đám bộ tướng về khu Phượng Hoàng dinh. Gio rừng khuya lạnh ngắt. Vừa tới ngang khu nhà khách, thình lình nghe có tiếng quát tháo lanh lảnh lẫn tiếng thú dữ gầm gừ, lẫn cả tiếng binh khí quật chan chát.

                    Vẳng rõ tiếng cô gái quỷ, Minh Thần không khỏi thất kinh kêu lên:

                    - Trời, cô ta đã tỉnh... đang làm dữ. Đoàn người thú vọt vào khu nhà khách. Giáng Tiên, Peng Lang, Minh Thần đi trước. Quả nhiên vừa tới cổng sàn treo dòm vào, đã thấy cô gái quỷ cầm cây búa đang quần thảo với mấy nàng sơn nữ, trong nhà ngoài hiên lố nhố gái Hồng Thần, Thổ, Nhắng. Thì ra thuốc trị thương của bà chúa Thanh Âm vô cùng thần hiệu, vết thương đang ngậm miệng không còn đau nhức mấy, bà Chúa lại dùng thủ thuật, linh đơn điều trị trong khi nàng ngủ tựa lối chữa của Lãn Ông tái thế. Bất ngờ cô gái đã choàng tỉnh, sưc nhớ chuyện ngộ nạn, thấy gái Hồng Thần, Thổ, Nhắng, chụp búa chém liền, phá chạy. Bọn sơn nữ phải ùa vây cản lại, giải thích, nhưng nàng ta không tin, đang quần thảo thì mụ Mán Tiền chạy tới. Bọn đàn bà rừng này toan tay giỏi võ nhưng không cự nổi cô gái quỷ, nàng ta chém nhầu một búa, nhảy vọt qua cửa sổ trông ra sân, con beo lướt tới, nàng ta thót lên lưng, mấy con thú trấn quanh khu này cũng phóng tới gầm gừ. Võ Minh Thần thấy thế toan tạt vào can, nhưng Giáng Tiên đã ngăn lại:

                    - À cô em này có căn lắm! Thương tích chưa lành đã xông xáo mạnh dữ, có lẽ trong mình nàng điện khí súc tích khác người nên tỉnh sớm hơn dự tính.

                    Minh Thần chỉ lo xảy chuyện chẳng lành, nhưng Giáng Tiên cứ đứng cổng nhìn vào. Bỗng "chát chát", liền hai nàng sơn nữ bị cô gái quật bay dao quắm. Cô gái múa tít cây búa, nhảy vọt qua đầu một con cọp vằn, lao vụt ra cổng nhanh như tên bắn. Sực thấy bóng người lố nhố chặn lối, cô gái hết lên một tiếng, giục beo phóng thốc tới, chém vèo búa vào đầu Giáng Tiên. Minh Thần đứng xế sau khuất cành xòa giật mình la lên "khoan" dợm xốc thú xông lên cản.

                    Nhưng không kịp nữa! Con beo đen đã lao vút ra, chân cách mặt đất hơn thước tây, lưỡi búa sáng quắc đã bổ xuống đầu Giáng Tiên. Bà chúa vẫn đứng im, chỉ thấy đến loáng một cái, cả cô gái, con beo, tay búa đã dừng phắt lại, sát bà chúa, rồi cứ thế rớt xuống đứng sững như hình nộm nhồi trấu, tay cô gái vẫn còn giơ cao chực bổ.

                    Thầy trò Minh Thần kinh dị hết sức, nhất Minh Thần lại đứng xế bên bà chúa, tuyệt không thấy bà ta phác một cử động nhỏ. Đến nỗi khi cô gái, beo rớt xuống, không ngã, chàng vẫn tưởng nàng gò lại, chừng dòm kỹ mới thấy bốn mắt trợn trừng bất động như mắt bi ve, Võ mới kinh sững bật kêu khẽ:

                    - Trời! Sao lại thế kia?

                    Vừa kêu chàng vừa lật đật tiến lên dòm kỹ, ngoái lại hỏi:

                    - Nàng bị điểm cách không? Nhưng em đâu thấy cử động?

                    Bà chúa tiến vào, bọn bộ tướng nữ cũng ùa tới xung quanh. Bà chúa mỉm cười, thánh thót:

                    - Không phải điểm huyệt bằng chỉ phong! Điểm chỉ cũng phải động thủ, địch thấy. Đây thuộc "Mê hồn công bí pháp", gọi "Thần công phù", "Mê công phù". Bí pháp này cũng tựa như đòn "Khẩu phong lôi" thần công của Thần Xạ vô địch soái gia Thập Vạn, nhưng "Khẩu phong lôi" chủ dùng uy lực sấm sét, còn "Thần công phù" chủ dùng kình khí. Đây cũng là một bí pháp môn "Vô ảnh công" hạ địch không cần động thủ.

                    Nghe mấy tiếng "Mê hồn", "Vô ảnh thần công", Minh Thần bất giác rúng động tâm can, vì chàng đã được nói qua về bí pháp thượng thừa này, nhưng chưa kịp nói lời nào, thì đã xây xẩm mặt mày đứng ngây ra như tượng gỗ, không biết gì nữa.

                    Quản Kình thấy thế, phát ghê thay bí pháp của bà chúa ngàn. Kình vừa tiến lại bên chủ, thì Minh Thần lại tỉnh, cử động được như thường.

                    - Kỳ diệu! Kỳ diệu! Như trong cơn mê...

                    Giáng Tiên mỉm cười, bảo:

                    - Còn cô em này, nên vực vào nhà bệnh cho tĩnh dưỡng qua đêm! Minh Thần thưa:

                    - Xin cho em kể qua cuộc hạnh ngộ này đã! Lời vừa dứt, đã thấy cô gái chớp mắt tỉnh như cũ, tay búa khoa len, con beo cũng gầm gừ lùi lại.

                    Cô gái hét lên một tiếng, chém luôn Giáng Tiên. Minh Thần xốc tới, giơ tay hô:

                    - Cô nương! Chớ vọng động! Chưa trông thấy mỗ sao? Đây là bà chúa động Thanh Âm ân nhân cứu tử đó!

                    Cô gai dừng tay, ngơ ngác nhìn thầy trò Minh Thần, chừng trí giác vẫn mông lung, mấy khắc mới kêu lên:

                    - Kìa thầy trò trai điển! Sao lại ở trên mây? Đây là đâu? Dương gian hay âm phủ? Tôi bị đạn... tưởng vong mạng! Quỷ cà kheo, Ma Quân Bá Diện đâu?

                    Vừa hỏi nàng ta vừa liếc xuống miền thung lũng sâu hun hút mờ trăng sương, rồi ngó vùng nhà treo kỳ lạ. Biết nàng mê mê tỉnh tỉnh từ khi bị đạn gục, nay sực thấy cảnh trí "khác phàm" còn ngỡ ngàng, nên Võ Minh Thần vội ứng tiếng kể qua mọi chuyện, đoạn trỏ Giáng Tiên bảo:

                    - Bà chúa, chính bực ngu mỗ vẫn đang lặn lội đi tìm, nay trời run rủi gặp, bà rất thương ta mang thù phụ mẫu chưa báo nổi.

                    Cô gái nhìn sững Giáng Tiên. Dưới ánh trăng, vẻ đẹp uy linh phảng phất nét huyền bí trong lớp xiêm y tiên cô, hai con mắt phượng long lanh biếc như hai vì sao sáng trong đêm tăm tối, làm nàng ta vụt sinh lòng kính phục, bao nhiêu tính bướng lạ đời chợt biến đâu mất. Phúc chí tâm linh, nàng ta bỗng trở nên ngoan ngoãn khác thường, vùng cầm ngang cây búa, nhảy tót xuống phuc luôn, dập đầu thỏ thẻ:

                    - Gái mồ côi này ôm hận từ buổi lọt lòng, mẹ cha bị hại, một thân lủi thủi đường đời, đầu óc hoang mang, tâm hồn đen tối, ngờ vực loài người, nhìn ai cũng thành quân độc ác nham hiểm, thấy gì cũng tưởng âm mưu... nên gặp bực cao nhân không rõ, có khi ngạo mạn, xin cả lòng bao dung cứu vớt, thật cam chịu tội thất lễ, dám mong bà chúa rộng tình tha thứ.

                    Có lẽ lần đầu tiên từ đêm gặp gỡ, thầy trò Minh Thần đem nay mới nghe cô gái dạ xoa này mở miệng nói những lời lễ độ khiêm tốn dịu dàng đến thế, giọng nàng nói tiếng Thổ lại líu lo trong vắt như tiếng chim phượng, thấy hoàn toàn khác hẳn bộ mặt Chung Vô Diệm, làm thầy tro Võ cũng thấy lạ tai, nhưng lòng thấy thoải mái. Cả bà chúa Thanh Âm cùng đám nữ bộ tướng miền núi nghe động lòng, bà chúa nhảy xuống đỡ nàng lên, dịu dàng ngậm ngùi bảo:

                    - Không nên quá thủ lễ! Chuyện khổ của em ta đã biết qua! Nay tình cờ cùng Minh Thần lạc tới đây, âu cũng là duyên kỳ ngộ. Em cứ an lòng tịnh dưỡng cho mau hồi phục. Đáng lẽ phải một đêm nữa mới khô, ba ngày nữa miệng vết thương mới liền, bắt đầu ăn da non, nhưng sức em dồi dào, tỉnh dậy vận công quá sớm, vết thương có thể lại bật máu, lực hao mòn, người bị chấn động đó. Thôi! Hãy vào nhà nằm! Peng Lang! Hãy ở lại đây làm bạn với nàng.

                    Nói đoạn bà chúa quay từ giã Minh Thần, về biệt dinh. Nào ngờ cô gái quỷ vừa cúi đầu chào, bỗng la lên một tiếng, ôm ngực, lảo đảo ngã dụi xuống. Bà chúa lẹ tay đỡ ngay được, bồng thốc lên, nói gọn:

                    - Vết thương tái phát! Đoạn đem thẳng vào nhà bệnh, đặt nằm ngửa trên giường mây, thoăn thoắt cởi áo, cởi băng. Thầy trò Võ thấy thế vội lảng ra ngoài thềm. Quả nhiên vết thương ra máu xối xả, cô gái nằm mê man. Bà chúa vội truyền Peng Lang sang dinh lấy ngay túi y dược linh đơn, đổ thuốc bột vào vết thương cho cầm máu, đoạn cho uống linh đơn. Xong xuôi, kéo chăn đắp cho nàng. Minh Thần nhẹ bước vào, lo ngại hỏi:

                    - Chẳng hay có nguy lắm không?

                    - Cũng hại, nhưng không sao đâu! Thương thế cũng nông, thuốc rất hiệu! Lần này cho nàng ngủ ba ngày ba đêm! Thôi! Em cứ về ngủ cho khỏe!

                    Thầy trò Võ Minh Thần tiễn bà chúa ra tận sơn đạo mới quay về nhà riêng. Rượu ngà ngà, lòng mừng gặp kỳ nhân, cả hai không ngủ ngay được. Chàng trai nghĩ mông lung xa gần. Đem di hài mẫu thân ra, thắp hương khấn vái lâm râm. Quản Kình lấy đen cầy ra nấu nước pha cà phê, trà tàu ướp sói, ngồi nói chuyện mãi mới đi nằm.

                    Gió cao sơn ru hồn hai người đàn ông phong trần vào giấc ngủ mang mang.

                    ... Sáng hôm sau, hai người tỉnh dậy lúc bình minh. Đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài đã thấy mây hồng lơ lửng ngoài trời, chim kêu vượn hú véo von, gió mát lạnh như gió xuân, không giá buốt như mùa đông ngoài biên thùy. Phương đông ửng hồng, báo hiệu một ngày đẹp trời.

                    Hai người chưa kịp nấu nước uống, đã thấy gái hầu đưa tới gặp bà chúa động Thanh Âm. Bà chúa ngàn ánh mắt đầy thương mến, dịu dàng bảo:

                    - Tây Sắc Ma Vương luyện ma pháp, rất giỏi kỳ môn dị thuật. Ngoài trí lực phi thường, cứ mỗi một con trăng, lại tăng gấp bội. Em muốn báo thù, phải thạo nhiều môn. Hãy ở đây, chị sẽ truyền cho mấy pháp môn bí thuật rừng sâu cùng kỳ công Thanh Âm động.

                    Võ Minh Thần sụp xuống làm lễ tôn sư, nhưng bà chúa đỡ lên, bảo:

                    - Phu quân chị coi em như nghĩa đệ, chị không là chị của em được sao? Em còn cần học nhiều kỳ môn, cứ gì phải tôn sư mới được.

                    Ngay đêm đó, bà chúa ngàn bắt đầu giảng dạy về bí thuật rừng thẳm, lại vì Tây Sắc bị ngờ là con tinh Hong Cẩu Quẩy, bà chúa giảng cho Võ nghe rất kỹ về các giống tinh, các loại trành, xó rừng thiêng. Theo truyền ngôn thâm sơn, các giống ác thú cứ vồ hơn trăm người ăn thịt đều linh mẫn, thành tinh được, bất luận hùm beo sói.

                    Bà chúa Thanh Âm truyền các khẩu quyết, phép tắc phù chú, hô ma, bắt hồn, luyện xó, gà, quỷ xó, cùng các chú linh đánh ma xó, quỷ xó. Lại dạy các dị thuật về chài ngải, trù ếm, chống bị trù ếm...

                    Mở đầu về ly thuyết, ngôn từ khẩu quyết, cách thức, thứ đến thực hành, hòa ôn các điều đã dạy. Học được ba ngày thì cô gái quỷ tỉnh dậy, hồi phục, vết thương ăn da non.

                    Bà chúa lại cho nàng uống mấy viên linh đơn gia truyền, khỏe trông thấy.

                    Sau hai, ba ngày nữa, khi biết Võ Minh Thần bắt đầu được chúa Thanh Âm truyền bí thuật, cô gái hiện nét mừng cho Võ, pha trộn ít u hoài, bảo:

                    - Thiếp sinh ra trong một chiều mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm, cha mẹ đang chạy nạn, đẻ rơi trong quán nước bên đường hồ Ba Bể. Cũng như đại huynh, không biết tên. Đêm được ân sư cứu vớt, đem đi khắp sơn lâm giang hồ. "Người" thường ôm thiếp, nựng đùa là "gái bạc mệnh của bà đây", rồi bà đặt tên thiếp là Giao Long nữ để ghi nhớ đinh ninh kẻ hại mẹ cha là thuồng luồng tinh hồ Ba Bể. Lại còn tên là Bạc Mệnh Nương, lấy họ Bạc vì "người" chỉ nghe chúng kêu "Bạc công chúa". Thiếp rất ưa tên này, hợp với mạng số lọt lòng đã khổ. Thù riêng canh cánh, lòng oán đàn ông, khinh thường giống đực, mang ơn huynh mấy lan cứu giúp mới thoát nạn dữ. Nay huynh đã tìm được danh sư học thuật. Vậy thiếp có lời mừng và xin bái biệt!

                    Tần ngần, Võ hỏi:

                    - Giờ cô nương tính đi đâu?

                    Giọng buồn rầu, cô gái lạ khẽ đáp, mắt nhìn đám mây trắng trôi trên không:

                    - Thù nhà chưa báo nổi, thiếp định đi tìm bậc danh sư học thuật quyết sao giết nó, rửa nhục thù song thân. Mây trôi trên trời còn biết dạt về đâu, nhất định...

                    Chàng trai ngó nàng, lòng ngậm ngùi suy nghĩ, chợt bảo:

                    - Giao Long chúa lợi hại kém gì Tây Sắc. Bà chúa Thanh Âm tài thuật dị thường, danh sư nào vượt nổi? Để ngu mỗ xin "người" dạy cô nương. Cô gái mừng hết sức, nhưng lại e bà chúa không nghe.

                    Võ Minh Thần lập tức đi kiếm bà chúa ngàn ngỏ ý xin bà dung nạp cô gái đồng cảnh ngộ. Bà chúa có vẻ ngẫm nghĩ, dè dặt, sau Võ nói mãi, bà ái ngại cảnh gái côi, bèn nhận lời dạy cả cho nàng.

                    Mừng rỡ, Minh Thần vọt chạy đi báo tin cho cô bạn Dạ Xoa, dẫn nàng vào bái tạ.

                    Từ đó, cả ba người cùng được bà chúa Thanh Âm dạy bí thuật. Giao Long Nữ Bạc Mệnh Nương tuy rất xấu nhưng lại thông minh, chịu gian lao cơ cực rất giỏi nên vẫn theo kịp Minh Thần, riêng Quan Kình tài trí kém hơn nên không theo kịp. Nhưng Quản Kình lập phò tiểu chủ, cố học tập, bà chúa lại cử Peng Lang kèm thêm, lúc rỗi, Minh Thần cũng bảo, nên cũng theo tạm được.

                    Nhờ tinh lực, thần khí tạo uy lực sẵn trong người, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ học bí thuật rất có kết quả.

                    Bí thuật rừng của bà chúa ngàn lại có nhiều điểm thần bí, có hiệu lực mạnh hơn cả bí thuật Pi A Ya, nên chỉ sau mấy tháng bọn Minh Thần đã thành pháp sư rừng có hạng.

                    Bà chúa Thanh Âm lại bắt đầu truyền bí thuật bí pháp thu phục sai khiến mãnh thú. Từng loại hùm, tây, tượng, gấu, lợn lòi, chồn cáo... nhất nhất bà đều truyền dạy cho. Trước Võ đã học được phép thu dụng sai khiến sói, ngựa, nay mới rõ thu phục các loại dã thú kia còn khó hơn nhiều.

                    Các giống này, mỗi giống đều có "ngôn ngữ" riêng, và nhiều giống dùng biểu tượng thay ngôn ngữ... Các giống này thường kém linh mẫn hơn chó sói, lại sẵn tính hung dữ của dã thú. Nói chung không chịu khuất phục, ưa sống tự do, vô kiềm tỏa. Giống sống có đàn như voi còn dễ, giống quen sống đơn độc như lợn lòi, rất khó. Lợn lòi đần, cục, thật khó bảo.

                    Nhưng bí thuật Thanh Âm vốn là một "khoa dạy thú" thần tình bí truyền từ xưa, bọn Võ lại sẵn thông minh, uy lực, võ nghệ, nên lãnh hội được het, tuy lúc thực tập không kém phần nguy hiểm. Khi thu dụng được giống nào, cũng đều phải cho tay vào mõm nó, thử sức phục tòng, nếu có dở chứng bất ngờ, còn liệu. Vì thú dữ cũng như người, có con mắc bệnh điên vì thần kinh, vì ăn phải chất độc, phát tác không lường. Nên nghề sai khiến thú dữ vẫn có những chuyện bất ngờ, chết như bỡn.

                    Bà chúa Thanh Âm còn dạy cả cách phòng hờ đủ trường hợp, cả thuốc trị bệnh thú.

                    Thấm thoắt, bọn Minh Thần đã lưu lại miền động thẳm bốn, năm tháng. Bà chúa Thanh Âm truyền cả bí thuật sai khiến độc vật như các loài ong, rắn rết, dơi dơi, bọ cạp, còn khó hơn cả thu phục mãnh thú một tầng.

                    Bữa kia, bà chúa gọi mấy người lại bảo:

                    - Phu quân ta bên Vân Nam gửi em sang có ý bảo ta truyền bí thuật để chống cự lại con tinh chúa có tà pháp chó đàn, trành dữ. Nay các em đã thông bí thuật pháp môn, không còn ngại đàn Hồng Cẩu Quẩy, trành, cùng tà pháp khí yêu của nó nữa. Nhưng xét ra vẫn còn thiếu nhiều món cần thiết vì Tây Sắc Hồng Cẩu Quẩy tinh và Giao Long chúa đều là hai con tinh chúa lợi hại hết sức. Như Tây Sắc có vầng huyết khí, Giao Long cũng có luồng vuốt khí móc thủng được cả giáp sắt, chưa rõ là pháp môn chi. Bàng môn tả đạo? Huyền môn kỳ bí thuộc võ học bí mật? Bất biết. Nhưng nó phải có uy lực phi thường, hai em có đến gần nó cũng chưa lấy gì hạ thủ. Nên còn phải học nữa. Nay ta có môn kỳ công bí pháp trấn sơn bí mật lưu truyền trong dòng sơn chúa Thanh Âm động, xưa nay chưa hề truyền ra ngoài. Lòng ta rất chua xót thương hai em chịu nỗi nhục quá lớn, nay ta mật truyền cho hai em, Quản Kình, đồng thời truyền cho Peng Lang, khá luyện cho kín đáo, chỉ khi nào khẩn cấp mới dùng đến. Đó là "Mê Hồn công" và "Mê Công phù", thuộc huyền môn "Khẩu phong lôi". Đòn này vô ảnh vô hình, rất lợi hại, làm địch trở tay không kịp, nhưng phải giữ thật kín mới đắc dụng.

                    Bọn Minh Thần cảm kích khôn cùng. Từ đó, cả năm người gia công tập luyện môn kỳ công kỳ bí này.

                    Nguồn gốc là các thứ hương kỳ hoa dị thảo, tổng hợp lại là một thứ "Mê hồn hương" vô cùng hiệu nghiệm, chỉ ngửi thoáng chút, mê liền. Khác hẳn các loại mê hồn hương của giới hac đạo, hương mê này gốc ở hoa, người nằm ngủ trong buồng kín, hít phải, sẽ ngủ luôn giấc ngàn năm. Đặc biệt đây có mấy loại hoa thơm như thủy tiên, các loại lan rừng, hoa sói... rất sẵn tại động Thanh Âm.

                    Hấp thụ các tinh hoa, tinh thảo vào người cho hòa hợp tụ kết rồi phát ra theo luồng điện kình, kích thẳng vào thất khiếu, các lỗ chân lông, yếu huyệt, làm lá gan địch khép lại. Việc luyện không dễ, vì nếu vụng, sau một chút sẽ bị phản tác, chính hương mê công kích ngay tạng phủ, ngất liền, mạnh có thể chết.

                    Nhưng Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Quản Kình, Peng Lang, đều đã chuyên luyện võ công, nên luyện kỳ môn rất thông. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ đã có thể thu luồng kình khí nhỏ như cái roi đánh thốc vào lỗ huyệt kẻ đứng cách năm, sáu thước, người đứng ngoài không nghe rõ tiếng động "vù" đi.

                    Thấm thoát đã hết xuân qua hạ, sang thu. Trời nổi gió vàng hiu hắt. Võ Minh Thần nhìn lá ngô đồng rụng, lòng sầu mang mang tưởng đến thâm cừu... chiều xưa trên biên thùy lá rụng trên đường quan san, trời cũng vào mùa tà huy vàng úa sơn lâm...

                    Một chiều, nghỉ luyện tập, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, xuong thung dạo chơi, hai người thơ thẩn đến bên dòng suối giữa rừng, nhìn nước chảy nao nao dưới chân cầu tre, hai người cùng nóng lòng báo phục, nhưng chưa dám ngỏ với bà chúa ngàn. Lững thững leo lên đứng trên cầu mơ màng, Võ Minh Thần khẽ thở dài ngâm:

                    Ngô đồng nhất diệp lạc

                    Thiên hạ cộng tri thu

                    Tiếng chàng tuổi trẻ buồn hiu hắt nghe như ẩn chứa cả nỗi sầu thu mang mang từ vạn cổ.

                    Đứng bên, Giao Long Nữ tự nhiên khẽ thở dài, đìu hiu như hơi gió đầu mùa xào xạc lá ngô đồng bên khe. Bỗng cả hai hơi giật mình, nghe có tiếng đàn bà thánh thót bên tai trong vắt như tiếng suối đàn:

                    - Hai em muốn lên đường? Võ Minh Thần, Giao Long Nữ chưa kịp ngó lên đã thấy bóng hình thanh tú của bà chúa ngàn lung linh đáy nước, ngay cạnh Minh Thần. Cả hai xoay mình lại chào, thoáng vẻ lúng túng, sững sờ trước thân pháp êm thoảng như gió của bá chúa trẻ đã nhìn thấu tâm can hai người. Võ khẽ hỏi:

                    - Nghĩa tỷ vừa tới? Bọn em mải ngắm cảnh không hay, thật vô lễ. Em thấy lá ngô đồng rụng, lại nhớ mùa thu.

                    Bà chúa Thanh Âm dịu dàng bảo:

                    - Chị biết hai em nóng ruột muốn đi. Thấy lá mùa thu rụng lại nhớ đến thâm cừu. Chính chị đã định nói với hai em.

                    Đoạn bà chúa bước lại đứng giữa, đặt tay lên vai hai người, nghiêm sắc mặt nói luôn:

                    - Thần công bí thuật mênh mông, không lấy chi định được đạt thành. Nhưng tài nghệ hai em nay cũng có thể đương đầu với kẻ thù cùng bọn quái nhân dị vật trên giang hồ, rồi sẽ tùy cơ ứng phó luyện tập thêm mãi. Tuy vậy, Tây Sắc tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy cùng Giao Long chúa tiếm xưng hồ Ba Bể đều là quân lợi hại, tài thuật của chúng e ngày càng gia tăng nhờ luyện được bí pháp chi đó, nên hai em phải thận trọng lắm mới được. Ấy là chưa kể đến chuyen chúng đều có trảo nha độc vật hàng đàn, nhiều con sử dụng được cả súng. Vậy trước khi đối đầu, hai em phải luyện ngay mấy môn cần thiết nữa mới có thể tìm gặp chúng được.

                    Cả hai cúi đầu lĩnh ý. Ngừng mươi giây, bà chúa ngàn lại bảo:

                    - Phải thu phục độc vật, mãnh thú. Càng nhiều càng tốt. Nhưng không phải luôn đem theo bên mình, mà là tới đâu thu đấy, rồi lại thả nó lại một vùng rừng núi nào đó, rải khắp nơi, càng nhiều càng hay, đặc biệt quanh miền sào huyệt chúng, phòng ứng dụng bất cứ vùng nào gặp chúng thình lình. Và chỉ đem theo mình ít con tinh thục nhất. Lưu ý đặc biệt khỉ vượn là vật do thám, ong, rắn rết, bọ cạp, dơi, các loài nhỏ để bỏ túi đem theo. Phải luyện quỷ xó, ma gà, ít nhất là một cặp thật dữ.

                    Võ Minh Thần, Giao Long Nữ xin tuân. Bà chúa ngàn lại tiếp:

                    - Chưa hết! Hai em còn phải luyện một môn cần thiết để phòng thân, phòng dùng đến khi vào vùng sào huyệt chúng. Lui, tẩu càng đắc dụng. Kìa! Hai em hãy nhìn lên đỉnh núi Đông! Thấy gì không?

                    Võ Minh Thần, Giao Long Nữ dòm theo tay bà chúa trỏ, chỉ thấy rặng núi ngất trời xanh, sương mờ chăng từng dải.

                    Còn đang ngạc nhiên, sực nghe tiếng bà chúa gọi, hai người quay lại, sững sờ chẳng thấy bà ta đâu nữa. Rõ ràng bà ta vừa đứng giữa hai người va mới lùi lại sau chút. Hai người ngơ ngác dòm quanh. Khu suối thưa cây cối, vài cây tùng bách xum suê, mấy khóm hoa rừng, ít cây ngô đồng... rải rác, gió thu rì rào, sương mờ khí đất...

                    Cả hai vội tìm quanh bờ, nhìn kỹ bụi cây, tán lá, vẫn chẳng thấy, chợt nghe tiếng bà chúa ngàn cười khanh khách, rồi dáng hình rực rỡ tiên cô từ trong một khóm sương mờ đặc vọt ra như một trò quỷ thuật. Bà ta cười bảo:

                    - Đây là thuật ẩn thân. Dùng khói sương che kín mình như dùng tạc đạn khói mù.

                    Minh Thần trầm trồ:

                    - Thuật này, chính tôn sư em đã dùng khi cứu em, che mắt con tinh cùng đàn "quỷ mắt đỏ" như rươi. Người bảo em chưa nên học vì hao chân khí và nguy hiểm. Phải hơn hai mươi mới học được.

                    Bà chúa gật đầu:

                    - Đúng! Vì phải vận khí hàn băng toát ra như trời rét, hà hơi thành khói! Nếu địch biết nó đánh thẳng vào, khó đỡ, vì chính mình cũng không thấy rõ nữa. Nhưng hai em đã học "Mê hồn công" rồi, không sao. Và lại có khói nhân tạo dự vào. Điều khó là làm sao khói không có mùi lạ

                    Dứt lời, bà ta lấy trong mình ra một ống sắt tây bằng hai ngón chân cái đưa cho hai người coi:

                    - Ống này chứa một thứ khói có mùi cây được chế luyện đặc biệt, không tỏa cao, không loãng mau, màu giống hệt sương mù. Để phòng khi vội, chưa kịp tiết khí hàn trong người ra. Đã sẵn điện công học mau lắm, mặc dầu đây là một bí pháp khác thường. Chị sẽ truyền cho, cả cách chế khói nữa.

                    Minh Thần, Giao Long Nữ mừng khôn xiết, lòng cảm kích chẳng nói nên lời. Tưởng hết, nhưng bà chúa đã ra hiệu lên cầu, trỏ xuống nước bảo:

                    - Còn một món quan hệ nữa! Không gioi, hai em không thể tới sào huyệt được. Bơi lội, lặn hụp. Nhất Giao Long Nữ, kẻ thù là loài thủy quái. Cả Giao Long chúa lẫn Tây Sắc, cung động chính chắc chắn ở dưới nước. Hoặc ít nhất đường vào cung động chúng cũng ẩn chìm dưới nước. Nên chưa ai khám phá được sào huyệt nó. Sông hồ sâu thẳm đã che kín miền phủ động. Nếu không bơi lặn giỏi, tới sao nổi?

                    Cả Minh Thần, Giao Long Nữ đều cho biết đã bơi khá. Minh Thần lại được Hải Sơn Vương Voòng trùm hải tặc và cả chúa Mười Vạn Núi luyện thêm. Nhưng bà chúa lắc đầu:

                    - Riêng đối đầu với hai con tinh chúa, nghề bơi đó đâu đủ. Không kể chuyện vùng vẫy, hai em phải làm sao lặn hụp dưới đáy sông hàng giờ, hàng ngày mới được. Đeo bình dưỡng khí, lộ ngay. Cắm ống cao su càng bất tiện mà nguy hiểm. Nếu bị cắt ống, vây hãm dưới sâu, chac sẽ chết ngạt. Vậy phải bơi lội như rái cá, và phải ở dưới đáy nước như loài thủy tộc mới được.

                    Cả hai ngó nhau, thất vọng:

                    - Sức người nhịn thở thường chỉ mười lăm phút. Em luyện gắng, có thể lâu gấp đôi là quá rồi. Sao nhịn thở hàng giờ, hàng buổi?

                    Bà chúa Thanh Âm gật đầu:

                    - Em nói đúng! Sức người tài đến mấy cũng khó lòng nhịn thở được hàng giờ dưới nước. Nhưng xưa Quận He, Bá Vành lặn dưới nước cả buổi, nhờ tài thuật nào? Quận He Nguyễn Hữu Cầu khởi nghĩa đánh chúa Trịnh có lần bại binh, thuyền chiến đắm hết, bị Phạm Đình Trọng vây kín tại Cửa Lộc, Quận He phải nhảy xuống sông chạy trốn. Cửa Lộc ngã ba rộng mênh mông, thuyền chiến trieu đình đậu như lá tre. Phạm Đình Trọng đích thân cùng các tướng ngồi thuyền nhẹ xuôi ngược dọc sông, trên bờ quân kỵ quân bộ đóng dài, tất cả chỉ đợi Quận He hết hơi trồi lên là xạ tiễn. Nhưng hàng giờ, rồi cả ngày đêm không thấy tăm dạng Quận He đâu. Nguyễn Hữu Cầu đã lặn sát lòng sông, và đã bơi một mạch từ Cửa Lộc ra tận cửa Ba Lài.

                    Phan Bá Vành khởi nghĩa chống triều đình nhà Nguyễn Minh Mạng, làm rung động cả đất Bắc. Có lần bại binh bị quân triều rượt theo bén gót, Bá Vành hết đường chạy, cứ thế một mình chạy ra bể Quất Lâm. Quân triều thấy Bá Vành chạy tới bãi là mất hút. Lúc đó mặt biển vắng hoe, không một bóng thuyền mảng. Quân trieu sục sạo cả ngày đêm, không thấy, đành rút đi, tưởng Bá Vành đã chết chìm. Nhưng chính Bá Vành đã trầm mình xuống cát sát lợi nước. Thủy triều lên, Bá Vành lại một mạch ra khỏi đám mảng, chạy về vịnh Hạ Long, họp giac khách, du đãng, lại nổi lên đánh phá. Và lần thoát khỏi quân triều đình, Bá Vành đã lặn sâu dưới nước nhiều giờ. Cũng như tại nước Nam ta, thỉnh thoảng vẫn có một dân thuyền chài có tài lặn hụp mấy giờ liền mới troi lên, trước khi lặn uống hàng bát nước mắm cho khỏi thiu người.

                    Vậy Quận He, Bá Vành, các bậc kinh nghệ tưởng cũng như Yết Kiêu, Dã Tượng đời Trần kia, đã lặn dưới nước sâu hàng buổi phải chăng nhờ thiên tài nhịn thở? Không phải! Vì dầu có tiết kiệm không khí đến mấy, thì hai buồng phổi không khí có sẵn cũng không nuôi nổi bộ máy tuần hoàn hàng giờ.

                    Vậy muốn trừ kẻ thù, hai em phải thật thông thủy tính, giỏi nghề độn thủy mới được. Phải tìm học bí thuật độn thủy, vùng vẫy lặn cả ngày không cần lên mặt nước.

                    Võ Minh Thần, Giao Long Nữ ngó nhau. Cả hai đều thấy rõ lời bà chúa ngàn rất chí lý. Giao Long Chúa là thuồng luồng tinh, loài thủy quái chúa tể dưới nước, động phủ nhất định phải dưới hang sâu vụng thẳm nào đó. Còn Tây Sắc Hồng Cẩu Quẩy, chính Đổ Bác Thần, Nam Khấp cung từng cho chàng biết cung động Ma Vương tứ túc này cũng dưới nước, hay ít nhất cũng trong lòng hang động sâu thẳm nào, mà cửa vào ẩn chìm dưới bao nhiêu thước nước. Và tất nhiên còn kèm theo lắm thứ nguy hiểm quanh đáy nữa, không có tài lặn hụp vùng vẫy như Giao Long thì vào sao nổi. Chàng trai chép miệng nói như than:

                    - Ân tỷ dạy thật đúng. Nhưng trên đời này chúng em biết tìm đâu bực cao nhân có bí thuật kỳ diệu đó?

                    Nghiêm sắc mặt, bà chúa ngàn khẽ gật đầu, thánh thót:

                    - Có! Chị biết trên đời này, có kẻ biết bí thuật đó. Không xa đâu, ngay tại miền thượng du đất Bắc này, và không chừng cũng chẳng xa hồ Ba Bể là bao. Kẻ này độn thủy còn ghê hơn cả loài Giao Long. Nếu được y dạy, các em có thể coi như các cõi sông hồ vụng dữ nhất đã nằm trong lòng tay. Nhưng có điều nguy hiểm hết sức, gặp y sơ ý chút có thể mất mạng như chơi.

                    Minh Thần khẳng khái:

                    - Đời chúng em nào có sá chi, chỉ mong đủ sức báo cừu rửa nhục, nguy mấy, khó mấy cũng không hề gì. Xin ân tỷ chớ ngại.

                    Bà chúa nét mặt đượm bâng khuâng:

                    - Kẻ không sợ chết thường thành đại sự. Nhưng nếu chết vì kẻ thù, lại khác. Đằng này các em đi tìm thầy học thuật, báo cừu, mà chịu nguy mạng là điều oan uổng. Ta chỉ nghĩ thế thôi. Vì kẻ này cứ thấy bóng người là chỉ muốn giết, nói chi đến dạy.

                    Giao Long Nữ ngạc nhiên hỏi luôn:

                    - Thưa, có lẽ người đó hung tợn lắm sao?

                    - Gọi là người, không đáng. Vì y đã lạc nhiều nhân tính và y không ở trên mặt đất. Y ở dưới nước, đêm ngày lặn hụp vùng vẫy như loài cá. Gọi là cá cũng không đúng vì y có hình thể tứ chi ngu quan như ta. Có lẽ phải gọi là

                    "người rái cá" mới đúng. Vì y có hình người mà sống lặn hụp độn thủy suốt ngày như con rái cá. Ngừng giây phút, bà chúa ngàn chậm rãi bảo:

                    - Chưa ai rõ nguồn gốc, nhưng ta cứ tạm cho là người cho tiện. Vì rái cá nuôi từ nhỏ, hay vì thích nước, hoặc vì tiền thân thuộc loài dưới nước, hay vì một lẽ nào đó chưa rõ, y bỏ cuoc sống loài người, xuống nước sống như loài thủy tộc. Y thuộc loài máu nóng, mà lại chuyển dần ra như loài máu lạnh, lặn hụp dưới nước cả ngày không thiu người, cảm lạnh. Phải chăng cái gì làm nhiều quá cũng hóa quen? Khoan bận tâm! Có điều rõ nhất là: Y đã hấp thụ được tất cả tinh hoa nghệ thuật bơi lội lặn hụp của các loài thủy tộc, cũng như rất giỏi võ công quyền kiếm. Y bơi lội nhanh như xé nước, lặn ngầm dưới đáy nước hàng ngày là thường. Y di chuyển dưới lòng sông, thuyền bè đi trên không hay. Có thể nói hai bốn giờ, y ở dưới nước tới mười bảy giờ. Và y chỉ thích ở các thượng nguồn, nước xiết, lắm đá ngầm, thác, vụng. Y cũng thích ở trên cạn. Có lẽ y là con rái cá hoặc giống kình ngư sinh lầm ra kiếp người? "Người rái cá" ấy là chúa tể bơi lặn, biết bí thuật hít nước lọc dưỡng khí, thở dưới nước.

                    Minh Thần nghe nói, lạ hết sức, lẩm bẩm:

                    - Thưa, hay kẻ đo tình cờ sinh ra có bộ phận đặc biệt giống mang cá? Bà chúa lắc đầu:

                    - Khi nghe dân gian đồn đại, ta cũng nghĩ như thế. Nhưng sau chính ta đã được thấy nhân vật thần bí này vọt lên bờ, ta được chứng kiến nhãn tiền, mới rõ y có bí thuật thở dưới nước.

                    Giao Long Nữ tò mò hỏi khẽ:

                    - Thưa đại tỷ, chẳng hay "người rái cái" bí ẩn đó... có danh tính gì chăng? Và hiện ở vùng nào?

                    - Dân chài lưới gọi là "Con Nam năm đầu", "Ngũ đầu Nam", còn khách thương hồ gọi "Liên Hoàn Quỷ", "Ngũ quỷ liên hoàn".

                    Ngạc nhiên, hai người đồng thanh hỏi:

                    - Sao lại "Liên Hoàn", "Ngũ Quỷ"?

                    Bà chúa Thanh Âm không đáp ngay, vẻ trầm ngâm suy nghĩ giây phút, mới dịu dàng bảo:

                    - Ngũ Quy Liên Hoàn thường lặn lội khắp miệt sông rừng Bằng Giang, KỳCùng, sông Chảy, sông Lô, sông Gầm, Hắc Giang, sông Bờ... sông nước nào cũng nhởn nhơ lặn ngụp, có khi lại đi tới các vùng suối thác, thường tại các thượng nguồn sông, những khúc vắng người chảy giữa miền sơn lâm hùng vĩ.

                    Ta gặp cách đây mấy năm, tại thượng nguồn sông Lô, khúc gần biên giới Việt-Trung. Nay ta được tin Liên Hoàn Quỷ đã về vùng vẫy tại sông Gầm, nhưng hiện chưa rõ khúc nào, vì y thường di động như loài cá. Ta đã nghĩ ra cách khuất phục y, theo tâm tính. Các điều khác không kể, có đieu phiền phức nhất đối với em là y lại có máu mê cờ bạc. Mà các em chắc không biết nghề này. Nếu không thạo, khó lòng học nổi bí thuật của y.

                    Minh Thần lễ phép:

                    - Quả thật bọn em không biết chuyện đỏ đen, nhưng Quản Kình lại là vua cờ bạc bịp. Đêm nọ, Kình đã giúp em đánh bịp Đổ Bác Thần một canh mới thoát nạn. Đổ Bác Thần không ngờ tới.

                    Nữ chúa Thanh Âm cả mừng, tươi nét mặt:

                    - À vậy được! Bịp nổi Đổ Bác Thần là gớm rồi! Nếu vậy, tối nay hai em cùng Quản Kình đến biệt dinh, chị sẽ căn dặn các điều cần thiết. Nhưng chớ quên Liên Hoàn Quỷ cực kỳ linh mẫn, thấy bịp, sẽ hỏng việc ngay.

                    Minh Thần, Giao Long Nữ cúi đầu lĩnh ý, cùng nhau lên Phượng Hoàng dinh.

                    Ngay tối đó, ba người tới biệt thất bà chúa động Thanh Âm. Bà chúa bèn đem "Ẩn thân bí pháp" ra truyền dạy cho cả ba, tường tận từng ly từng tý. Từ đêm đó, bọn Minh Thần yên lòng ở lại Thanh Âm động, luyện thuận "ẩn thân", học luôn cả cách chế khói mù đặc biệt.

                    Lúc nhàn rỗi, trà dư tửu hậu, bà chúa ôn lại các điều đã dạy, và đem các sở học sở kiến ra truyền bảo, lại chỉ bảo cách thức đối phó với Ngũ Quỷ Liên Hoàn sau này. Lòng thành truyền dạy, đức bao dung của bà chúa ngàn tưởng người ruột thịt cũng không hơn, khiến bọn Võ Minh Thần nhiều phen cảm động đến chảy nước mắt, lòng đôi trai gái đơn côi này cũng vơi đi rất nhiều nỗi xót xa oán trời hận đất.

                    Thấm thoát đã vào giữa mùa thu. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Quản Kình đã luyện tạm xong "Ẩn thân bí pháp". Tính đốt ngón tay, đã lưu lại miền động thẳm này gần một năm trời và cả ba đã học được khá nhiều bí thuật huyền môn.

                    Tài nghệ cả ba đã vượt lên mấy bậc, đặc biệt về huyền môn công và bí thuật rừng thiêng. Một bữa, bà chúa động Thanh Âm gọi bọn Minh Thần tới bảo:

                    - Võ học huyền môn bí pháp, cũng như văn học nghệ thuật đều vô cùng vô tận, chẳng biết lấy chi làm tuyệt mức. Chị biết các em mang thù huyết hận kéo dài mười bảy, mười tám năm ròng nên luyện tập là giỏi lắm. Chị biết các em nóng lên đường. Vậy các em có thể dời động phủ, tùy tiện vừa đi tìm học nghề độn thủy vừa thu luyện mãnh thú độc vật, gà, xó... liệu chuyện báo thù. Nay đang độ trăng thượng tuần, các em đi rất tiện. Chị đã sửa soạn cho mọi thứ cần thiết, mai có thể lên đường.

                    Bọn Minh Thần cảm động chẳng nói nên lời. Ngay chiều đó, bà chúa truyền mở tiệc tiễn hành, họp cả chức sắc nam nữ tướng sĩ hàng động, chung vui, người người lưu luyến.

                    Sớm mai, hàng động lại đưa khách ra tận cổng, tình rất thiết tha. Nơi đây là một cửa khẩu bí mật có mấy trục vận chuyển từng khối đá lớn, về hướng Đông, ba chúa Thanh Âm cùng bọn nam nữ tướng Peng Lang, Theng Phai, Khiêu La... đưa ba người ra tận rừng ngoài. Bọn Võ còn ngoảnh lại nhìn vùng động lạ Phượng Hoàng dinh nhà treo chót núi, lòng mang mang hắt hiu biệt ly.

                    Ra đến rừng ngoài, tuy biết tính bà chúa Giáng Tiên không ưa chuyện lễ nghi câu thúc quá nhưng lòng thầm cảm ân sâu dào dạt, ngậm ngùi phút chia tay, bọn Võ Minh Thần sụp xuống lạy ba lạy, báo ân dung dưỡng truyền dị thuật.

                    Bà chúa đỡ lên, căn dặn hết lời. Vẻ mặt uy nghiêm lộng lẫy như tiên cô ám mây mờ, bà ngậm ngùi bảo:

                    - Các em đi, phen này lần tới các miền thập tử nhất sinh, hãy bảo trọng lấy thân, biết cơ tiến thoái, tùy cơ ứng biến. Trời sẽ không phụ kẻ hiền lương chịu điều oan khổ. Vạn nhất có điều chi cần thiết, cứ trở lại Thanh Âm gặp chị. Thôi! Lên đường mạnh giỏi.

                    Dứt lời, Giáng Tiên nhảy lên lưng cọp. Bọn Minh Thần vừa lên ngựa, ngoảnh lại, chang thấy bà chúa ngàn đâu nữa, chỉ còn thoáng bóng bầy cọp vằn lao vào chân núi.

                    Vái vọng thêm mấy cái, bọn Minh Thần giục ngựa rời miền động lạ, lòng bồi hồi lưu luyến, thỉnh thoảng ngoái lại trông dáng núi phiêu phiêu in vào nền trời mây trôi.

                    Ba người ba ngựa, dẫn theo beo đen, Hắc Bạch cẩu trung thành, theo con đường mòn chắp nối, vó câu lóc cóc ngược lên mạn biên thùy Trung- Việt, tìm đến miền thượng lưu sông Gầm.

                    Ngày đi đêm nghỉ, ba người vượt biên sang tận đất Tàu, rồi mới đổ ngang ngọn sông, theo dòng xuôi về Nam.

                    Gâm Giang do nhiều nhánh sông đổ lại. Riêng từ thượng nguồn về ngã ba Lô Gầm khoảng Quảng Nạp, Tuyên Quang đã có đến năm con sông nhỏ, nhánh thứ nhất bắt nguồn bên đất Vân Nam chảy sang ta, xuyên giữa các rặng

                    Si Công Linh (Tây Côn Lĩnh), Pi A Ya (Phi Mã Yên Sơn), nhánh thứ hai cũng bắt nguồn từ Vân Nam, chảy xẹt chéo hẻm biên Quảng Tây rồi đổ vòng sang, nhánh thứ ba bắt nguồn tại miệt Tây Côn Lĩnh thượng chảy vòng qua vùng Yên Minh. Cả ba nhánh này đều đổ chụm về mạn Cóc Pan, Bảo Lạc, thành hai ngã ba cách nhau ba mươi dặm rừng. Nhánh thứ tư bắt nguồn từ Phi Mã Ác Sơn (Pi A Úac) chảy qua vùng Chợ Rẽ về mạn Na Hàng. Còn nhánh thứ năm bắt nguồn tại vùng hạ Tây Côn Lĩnh đổ về Chiêm Hóa và cả bốn nhánh đều đổ thành nguồn chạy dọc từ đất Tàu sang. Nam qua dải Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn tới ngã ba Lô Gầm và còn chảy xuống nữa. Nên bọn Minh Thần phải lần từ nhánh thượng nguồn thứ nhất, xuôi sang ta về tơi ngã ba, để một người lại, rồi hai người lần ngược lên thượng nguồn nhánh thứ hai, rồi lại về ngã ba, lần xuôi theo dòng chính, cứ tới ngã ba lại lần ngược nhánh, cứ thế, tới đâu dò la, nghe ngóng quan sát tới đấy.

                    Nhưng nguồn sông thăm thẳm, chảy qua bao nhiêu miền sơn lâm hùng vĩ, hỏi các sắc dân trong vùng, chẳng thấy tăm hơi "người rái cá" kỳ dị đâu cả.

                    Ba người lại theo dòng chính lần xuôi dần xuống miệt ngã ba thượng Na Hàng. Nhưng vẫn chẳng thấy gì. Thấm thoắt đã đến tuần trăng hạ tuần cuối tháng.

                    Chiều đó bọn Võ Minh Thần tới một bến đò rừng, thấy thuyền bè qua lại khá vui, bèn vào quán nghỉ chân, chờ đò sang sông. Quản Kình dắt mấy con vat ra bờ sông cho uống. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ ngồi trong quán uống nước.

                    Dân Kinh, Thổ cùng các khách thương hồ thấy Võ Minh Thần mặt đẹp như ngọc chuốt lại đi với một cô gái xấu xí dữ tợn như quỷ Dạ Xoa, lại có cả beo đen, chó sói, ai nấy đều lấy làm lạ, có kẻ tưởng gánh xiếc xúm quanh soi ngó. Giao Long Nữ từ dạo đi với Minh Thần tính đã thuần nhiều, nhưng nhiều lúc vẫn nóng nảy, thấy chúng nhân, con nít bu lại dòm, giận hết sức, định mắng. Minh Thần phải khuyên can nàng mới chịu ngồi yên:

                    - Chúng nhân thường có tính hiếu kỳ, thấy bọn ta có cả thú dữ, họ tưởng gánh xiếc, nên mới dòm ngó đó thôi.

                    - Đâu phải, họ là lũ người ngu không biết xú sac nên thấy thiếp, bọn họ lấy làm lạ, Võ Minh Thần nghe nàng nói chỉ cười khoan hòa, nhưng thâm tâm không khỏi ái ngại.

                    Quản Kình đang cho mấy con vật uống nước, bỗng thấy bè mảng, thuyền chài từ nẻo thượng nguồn hốt hoảng chèo chống gọi nhau ời ời, hò nhau chạy cho mau xuống hạ nguồn, rải rác khắp khúc sông có hàng trăm chiếc chài chạy như vịt, có cái tạt vội vào bờ, nhìn mặt ai nấy đều nhớn nhác kinh khiếp. Lấy làm lạ, Quản Kình vùng hỏi lớn:

                    - Chuyện chi đó? Bà con? Làm gì như... ma đuổi thế? Một đám chài đang chờm vào, mấy kẻ đồng thanh hét lớn:

                    - Cho ngựa lên bờ mau... ông khách. Sông có con quái... chẳng hiểu con chi mới bắt hai người. Đang vãi chài bị "nó" lôi nghiến xuống.

                    - Thuồng luồng, dải thì phải. Nó quẫy sóng to đến thế. Một lão chài áp, nhảy tót lên bờ, trợn mắt vừa thở vừa nói:

                    - Khiếp quá! Tôi trông thấy con quái, đầu nó thấp thoáng dưới chân sóng... đen đen dài dài như con trăn. Dắt ngựa lên mau! Ông khách.

                    - Nếu vậy là con thuồng luồng rồi! Một người cãi. Quản Kình gọi chủ. Minh Thần, Giao Long Nữ chạy ra, thấy cảnh tượng lạ lùng, chúng nhân chạy như đàn vịt, cả hai ngạc nhiên, cô gái quỷ vụt sáng mắt bảo:

                    - Thôi! Đúng thuồng luồng rồi. Hay Giao Long Chúa? Chắc nó xuống sông

                    Gầm. Chú Kình, thuê chiếc chài... mau. Ta ra ngã ba.

                    Điềm tĩnh hơn, Minh Thần xua tay nói nhỏ:

                    - Khoan, cô nương. Nếu đúng Giao Long Chúa nó không đi một mình. Ta bơi chưa thạo, chớ đánh dưới nước. Phải đánh nó lúc nó lên bờ. Dưới nước ta sao hạ nổi. Mà đã chắc gì thuồng luồng? Có thể con dải lớn. Biết đâu không phải "kẻ" ta đang tìm kiếm? Người rái cá... con Nam... biết đâu?

                    Lòng háo hức, cả ba đứng bên bờ nhìn xuống sông. Sông Gầm vào mùa thu đông, không có mưa lũ nên dòng chảy bình thường tha thiết. Về chiều gió heo may nổi khá mạnh, sương lam bay từng khóm trên sông lạnh. Sóng xô bờ róc rách. Vài mươi phút sau, thuyền bè dạt đi hết, cảnh song nước lại vắng lặng, đìu hiu. Chúng nhân đứng từng đám dòm, bàn tán, trầm trồ hỏi chuyện bọn thuyền chài. Lát sau, sông Gầm vẫn êm xuôi, bọn Minh Thần bèn quay vào quán uống chè tươi. Mặt trời ngả núi Tây, sương che mờ, đỏ lừ. Bọn chở đò vẫn chưa dám sang sông. Khách thương hồ cũng sợ, bên kia sông, bến đò có chòm xóm vui hơn, ai cũng muốn sang mướn nhà trọ. Bọn Minh Thần lại gọi đò ngang, nhưng không ai dám sang. Nhờ Quản Kình nói cứng, mới có một số cho chài ra vãi lưới, lái đò mới sang ngang.

                    Bến đò rừng này khách quá giang nhiều, nên có cả thuyền tam bản gỗ. Bọn Minh Thần xuống thuyền. Thuyền, chài đi gần nhau, ra tới giữa dòng, mặt sông vẫn lặng yên. Lúc đó khách quá giang mới đỡ sợ, trò chuyện vui vẻ.

                    Mấy con vật nghểnh cổ nhìn sông nước, con beo đen chồm hai chân trước lên mạn thuyền tam bản, miệng hí hí, vẻ thích thú hết sức. Giao Long Nữ đứng bên, vuốt ve, một khách buôn thấy thế bảo:

                    - Sáng nay có thủy quái mò về, cô nương chớ cho beo đứng thế, lỡ con quái nó bắt mất.

                    Giao Long Nữ cười bảo:

                    - Có chủ nó đứng đây, quái nào dám bắt? Võ Minh Thần vui miệng nói đùa:

                    - Cô nương nói hệt Tiêu Khâu Tố đời xưa. Này. Khâu Tố xưa cũng nói như cô rồi cũng bị bắt luôn mất ngựa đó.

                    - Vậy sao? Nhưng y là hạng nào lại để bắt ngựa dễ thế?

                    - Tiêu Khâu Tố người Đông Hải, vốn tay dũng sĩ đường thời. Ngày kia sang nước Ngô dự đám tang một người bạn. Khi đi đến bến Hoài Tân, Tố dắt ngựa xuống sông cho uống nước. Viên tản lại coi sông bảo: "Khúc sông này có một vị thủy thần hay bắt ngựa, ông chớ cho ngựa xuống".

                    Tố cười bảo: "Có ta đứng đây, thủy thần nào dám". Nhưng rồi thủy thần bắt mất ngựa Tố. Tố cả giận nhảy xuống đánh nhau với thủy thần, suốt năm ngày đêm mới trồi lên, bị mù một mắt. Giao Long Nữ cười lớn:

                    - Tiếc thay sông này không còn thủy thần nữa. Thuyền đang nhấp nhô trườn sóng, dòng đang êm ả, bất thần có một con sóng lớn vùng dang lên đội hẳn mấy con thuyền lên hơn thước, nghiêng hẳn mạn, nước bắn tung tóe cầu vồng. Mọi người thất kinh la lớn, bỗng con beo đen kêu ré lên một tiếng, vùng sa xuống nước mất dạng. Nhiều người trông thấy giữa làn nước tóe cầu vồng có một con vật đen đen trắng trắng thoáng hiện, thoáng biến mất, nhanh như chớp. Giao Long Nữ giật mình dòm lại, con beo đen đã chìm nghỉm. Người người kinh sợ, thuyền dập dềnh nghiêng ngả chòng chành. Cô gai quỷ vừa kinh vừa giận, hét lớn:

                    - À! Con quái nào dám bắt vật yêu quý của ta?

                    Dứt lời, nàng rút phăng cây búa, trút "giáp pháo" nhảy vụt xuống sông, đầu lao thốc xuống chỗ con beo vừa mất hút. Võ Minh Thần gọi giật không kịp, vùng quát: - - Quản Kình! Cầm chèo lái mau! Trong thuyền còn ai, sang mũi. Hiểu ý, Quản Kình giật tay chèo, bảo mọi người ngồi cả xuống lòng thuyền, theo sóng gợn, xốc tới. Khách trên thuyền kinh sợ kêu rú lên. Quản Kình quát lớn:

                    - Ngồi cả xuống! Không sợ! Nhốn nháo ụp bây giờ. Lời vừa dứt, lòng sông đang gợn sóng bỗng nghe "ùm" một tiếng, xế trước mũi thuyền tam bản chừng hai, ba sải vùng nổi lên một cây nước cao độ sải rưỡi, tóe cầu vồng tứ phía, giữa vùng nước tóe vụt thấy bóng Giao Long Nữ bắn lên, tay cầm cây búa bổ xuống, người nàng trùm đầy nước, xế dưới non thước thấp thoáng có vật chi đen đen trắng trắng loằng ngoằng như con trăn, nhấp nhô vòng quanh nàng, hình như có mấy cái vòi kỳ dị như chân bạch tuộc, phát ra một thứ âm cực kỳ quái gở, rõ ràng là một cái vòi nước cuốn phăng lấy tay búa cô gái lôi nghiến xuống, sức mạnh lạ thường. Cảnh tượng diễn ra chỉ độ năm, bảy giây rồi lại vụt biến như mộng ảo. Quản Kình cùng đám khách quá giang vừa kịp la "coi kìa", bóng cô gái lẫn dị vật đã chìm nghỉm, chỉ còn sóng cuốn nhấp nhô. Ai nấy đều kinh, không biết con gì. Minh Thần vọt lên mũi thuyền, tuốt soạt lưỡi gươm, rất nhanh thả vội súng ống, đồ vật mang trên lưng, ngó chòng chọc xuống nước. Nhưng rất lạ, là mặt sông Gầm lại vụt phẳng lặng sau mấy đợt sóng cuộn, hình như cô gái đã bị cuốn theo dị vật xuống lòng sông. Thầy trò Quản Kình nín thở, hết sức lo cho cô bạn đồng hành, vì tuy nàng bản lãnh hơn người nhưng phải đánh nhau với loài dị vật dưới đáy nước là điều hoàn toàn bất lợi. Thình lình mặt sông lại nổi sóng rồi vụt thấy hai ống chân cô gái đạp thốc lên khỏi mặt nước, rồi một vòi nước tia vọt, hai ba cái vòi vút cao đến mấy thước tây, hai ống chân chìm mất, sóng nổi dập dồn càng dữ dội, bắn mũi thuyền lên.

                    Quản Kình trỏ, kêu:

                    - Coi! Nước tia như cá ông voi! Lạ chưa! Cậu hai... Lời chưa dứt hẳn, đã thấy Võ Minh Thần quát "đứng trên thuyền", toàn thân đã vọt từ mũi thuyền tam bản lao "tõm" xuống chỗ có vòi nước tia, nhanh như mũi tên phóng mất dạng.

                    Chỉ mươi khac, mặt sông lại phẳng lặng hết sức. Quản Kình chèo thuyền vẩn vơ, mắt đăm đăm nhìn xuống nước. Bọn khách quá giang ngồi sụp xuống lòng thuyền, mặt mày xám ngắt, im thít. Bỗng cách mười lăm sải, mặt sông vùng nổi sóng cuồn cuộn, có lúc sóng dâng cao hơn sải, nước bắn tung tóe lẫn những tia phọt lên trời như tia nước cá ông phun. Sóng nhấp nhô, cuồn cuộn chạy vòng thúng một khoảng khá rộng, có khi đến năm, bảy ngọn nước nhảy, Quản Kình chồm thuyền lại gần, giật cây súng gá bên ngựa, chĩa theo lượn sóng, lòng đầy lo ngại, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra dưới nước. Bỗng nghe "bõm" một tiếng như cá lớn quẫy, rồi từ đáy nước nhô lên một hình thù đen thui. Ngọn súng Quản Kình chĩa vụt theo nhưng nước tung tóe vừa trút hết, có nhiều tiếng réo "con beo". Quản Kình rúc lên mấy tiếng gọi, lướt thuyền tới, người lái đò đánh bạo vớ con sào đưa xuống nước, con beo ngoạm lấy ngọn sao nhưng không sao vọt lên nổi, vẻ mệt mỏi hết sức. Quản Kình lướt lại, cúi xuống tóm được chân con thú lôi thốc lên thuyền. Con vật trợn mắt, há hốc mồm thở hộc. Quản Kình túm ngay hai cẳng sau dốc ngược lên, nước ộc ra từng vũng, vừa mửa hộc nó đã chụp mạn thuyền, nhìn xuống sông, vẻ lo sợ cho người dưới đó, khiến bọn khách qua sông đều lấy làm lạ. Giữa dòng sông vẫn cuộn nhô dữ dội, có lúc nổi cao đến hai mươi sải. Bỗng nhiên nước bắn tung tóe, giữa lớp sóng dâng, bóng Võ Minh Thần đội nước bắn vọt lên, tay kiếm chém phạt sau lưng một đường vòng cung. Nước chưa trút hết, Quản Kình đã thấy miệng tiểu chủ cắn ngang lưỡi búa, nách trái cặp Giao Long Nữ, chàng trai đảo mắt dòm quanh, mặt hướng phía hữu ngạn. Nhanh như cắt, Quản Kình nhả luôn một tràng ngắn, đạn vãi lõm bõm sau lưng Võ Minh Thần. Quản Kình lẹ tay vớ luôn lấy con sào gác bên, ném bẹt xuống nước, quát giật giọng:

                    - Cậu hai! Phía này! Con sào! Kình vừa gọi đến tiếng "trước mặt" thì Võ Minh Thần đã hạ chân xuống nước, nhưng chàng trai đã kịp trông thấy, lập tức đâm xỉa thốc mũi kiếm trúng ngọn sào vừa ném xuống nổi lềnh bềnh. Mũi kiếm đâm trúng sào, lẹ như con chim, chàng trai đã nhân điểm tựa ấn mạnh tay, quăng vút mình lao vèo tận thuyền tam bản, hạ chân xuống êm ả.

                    Bọn khách qua sông, lái đò thảy đều kinh dị, trợn tròn mắt nhìn bọn Võ như nhìn quái vật, có kẻ kêu "người chim". Vừa hạ chân, Minh Thần hô giật:

                    - Vào bờ mau! Đừng bắn nữa!

                    Quản Kình dừng tay, vớ vội chèo, người lái đò cũng nhanh nhẹn thọc chèo khua nước. Thuyền tam bản chồm đi, nhưng bất thần một con sóng nổi vút sau thuyền. Có kẻ kêu: "nó đuổi". Quản Kình tay trái khua chèo, nách phải cắp súng lên, vừa xoay mình lại vừa hỏi lớn:

                    - Con gì đó... cậu hai? Cô nương sao thế?

                    Vừa đặt Giao Long Nữ xuống, Minh Thần vừa ngẩng nhìn ra giữa dòng sông, đưa tay vuốt mặt, nói nhanh:

                    - Không rõ giống gì. Nhưng hình như một đàn... khỏe lạ thường. Đừng bắn. Chặn quanh thuyền.

                    Quản Kình chẳng rõ ý chủ ra sao, nhưng cũng cứ tuân lệnh bắn vòng sau đuôi thuyền, chòm sóng cuộn tới sát thuyền vụt hạ thấp, rồi mặt sông lại bằng phẳng như thường. Võ Minh Thần vừa toan cúi xuống, bỗng con thuyền tam bản nhô hẳn lên, như bị sóng dồi dội.

                    Chàng trai xoay phắt người chém "véo véo" xuống gầm thuyền. Quản Kình thả mấy phát "bõm bõm" dọc mạn bên kia, tự nhiên con thuyền bị một ngọn sóng lớn dội thốc đuôi định ụp.

                    Bọn khách, lái đò hoảng hốt la lên, tình hình nguy ngập. Võ Minh Thần thấy rõ mũi thuyền sắp đâm chúc xuống, lập tức vọt lên đầu, xoè rộng hai bàn tay, đánh thốc xuống nước hai phát kình phong vát chếch về phía sau. Bùng bùng, hai bên mũi nước lõm sâu xuống thành hai cái vũng lớn ép mạnh, đẩy hẳn mũi thuyền lên cao, vừa ngóc, thuyền vừa bắn đi như ngọn lao, thoát vút ra ngoài tầm sóng dữ.

                    Đường kình ép tuyệt vời làm thuyền lấy lại thăng bằng, mấy tay chèo bơi miết. Quản Kình bỏ súng, bắt chước tiểu chủ, đánh thốc hai nhát kình phong đẩy thuyền lướt đi. Hai thầy trò ngó quanh thuyền không chớp mắt, nhưng từ đo mặt sông phẳng lặng không thấy sóng nữa.

                    Thoắt, thuyền cặp bờ. Mọi người túa lên bờ, đã thấy dân chài, khách thương, dân quanh vùng kéo tới chực sẵn, người người đều kinh dị. Quản Kình xua ngựa, beo, sơn cẩu lên bờ. Vo Minh Thần bồng Giao Long Nữ xẹt đám đông tìm chỗ trú tạm.

                    - Cô nương sao thế... cậu hai?

                    - Hình như nhịn thở lâu quá ngộp hơi thì phải! Lại dùng quá sức. Hai người vọt vào một quán nước, mượn chủ quán căn buồng nhỏ. Minh Thần bồng cô gái vào buồng. Quản Kình thắp vội cây nến cắm đầu chõng rồi quay ra, khép cửa lại, trấn ngoài. Chúng nhân bàn tán, lắc đầu lè lưỡi, vừa sợ loài thủy quái, vừa ghê tài lạ.

                    Minh Thần đặt Giao Long Nữ trên giường tre. Cô gái nằm bằn bặt. Sợ nàng nhiễm hàn, chàng trai phải cởi vội áo giáp, áo ngoài, vắt nước xong mặc vào thật lẹ, đoạn làm cử chỉ hô hấp, truyền nhân điện, lại cậy miệng cho uống một viên linh đơn.

                    Quả nhiên chừng vài phút, Giao Long Nữ sực tỉnh. Nàng thở phào một cái, mở choàng mắt, bật nhỏm dậy, kêu lớn: "Con quái, tao chặt đầu mày dám bắt beo đen". Quản Kình nghe tiếng chạy vào. Minh Thần cười bảo:

                    - Cô nương dũng mãnh lắm! Nhưng "nó" không bắt được beo đâu! Mình vào bờ rồi.

                    Giao Long Nữ ngó quanh, tỉnh hẳn, cười e thẹn. Minh Thần bảo Quản Kình đem hành lý vào, luân phiên nhau thay quần áo khô, đoạn ra ngồi sưởi lửa. Quản Kình cùng mọi người xúm hỏi, mới hay khi cô gái nhảy xuống nước thì con beo đã bị con quái vật lôi xuống sáu, bảy thước. Vốn đã luyện quen, co gái mở mắt được, nhưng chỉ thấy mờ mờ như nhìn qua màng lệ, lố nhố những khối đen đen trắng trắng xám xám, loằng ngoằng, lê thê, vòng vèo vùng vẫy giữa làn nước cuồn cuộn tối mờ, vì lúc đó đã hoàng hôn trên sông. Ro nhất khối đen hình con beo, đang bị "nó" lôi dìm, cô gái lao tới đánh và bị những vòi quái có sức khỏe dị thường, lao xé nước, mỗi lần vồ hụt, tiếng xé bén nhọn như dao chém, sức ép đẩy dạt nàng ra. Có lần bỗng bị cuốn vào giữa mớ vòi, chân chi đó, suýt nguy, may kịp thời bắn mình lên thở. Khi Minh Thần nhào xuống, chém dị quái như rắn hai đầu, cả trước cả sau ứng chiến. Võ cũng chỉ nhận thấy lờ mờ như nàng, vì dưới sâu nước tối mờ xám đục, phải tinh mắt lắm mới cự nổi.

                    Minh Thần xỉa một nhát vào cái vòi túm con beo, làm nó phải buông ra, chàng trai liều mạng phóng thốc vào khối dị vật, lia kiếm quanh mình, mới chụp được cô gái lúc nàng sắp ngất, bị một cái vòi thò ra vồ.

                    Nghe xong, ai nấy đều lè lưỡi, bàn tán không thôi. Minh Thần, Giao Long Nữ hồi tưởng lại, vẫn chưa đoán nổi "nó" là vật gì. Quản Kình chợt hỏi:

                    - Sao cậu hai không cho bắn? Võ trầm ngâm, dáng suy nghĩ:

                    - Không phải thuồng luồng, không phải mãng xà, càng không phải con tuộc. Cứ như hình thể đó biết đâu không phải "con Nam năm đầu"? Rất có thể đó là "Ngũ Quỷ Liên Hoàn". Cứ xem ý "nó" như đùa bỡn nhởn nhơ, sức vùng vẫy đó, ngờ là "người rái cá" chưa chừng.

                    Giao Long Nữ, Quản Kình nghe lòng đầy nghi vấn, nhưng cũng thấy mừng, tuy vậy, thấy chúng nhân xúm quanh chỉ nói qua loa. Nhưng bọn người đứng đấy, nghe nhắc "con Nam năm đầu", "Ngũ Quỷ Liên Hoàn" thấy càng kinh hoảng, bọn chèo đò cũng chẳng ai dám qua sông nữa. Trời sập tối, Quản Kình theo hiệu Minh Thần móc túi trả tiền, đoạn mấy người lên ngựa rời quán. Đi khỏi khu xóm bến, Võ lên tiếng bảo:

                    - Đêm nay ta không ngủ nhà. Đi lại sông, kiếm chỗ tốt cắm "tăng", còn tiện theo dấu " ô thủy quái". Bà chúa có dặn: Liên Hoàn Quỷ thường hay lên bờ vào dịp có trăng. Nay vào hạ tuần.

                    Giao Long Nữ gật đầu:

                    - Phải đó. Nhưng chỗ này ngã ba dòng thượng nguồn Bắc, mé Nam Kuông ta đã đi khỏi, giờ còn dòng xuôi thẳng xuống mạn Na Hàng Chiêm Hóa và nhánh ngược chếch Đông qua vùng chợ Rá, tới tận Tĩnh Túc, Châu Nguyên Bình, ta nên đi ngả nào trước? Có nên chia ra canh dọc bờ? Biết đâu "nó" chẳng ngược lên ngả Nam Kuông.

                    Ba người ngẫm nghĩ. Minh Thần vụt bảo:

                    - Có một cách tiện nhất. Kèm theo một cái đưa mắt làm hiệu, chàng trai giơ vụt tay. Quản Kình, Giao Long Nữ hiểu ý, làm theo. Cả ba, một dùng Lục Nhâm đại độn, một dùng độn Khổng Minh, một dùng Trương Lương độn, cũng đánh quẻ. Và cả ba quẻ ứng đều hướng về Đông.

                    - Điềm linh ứng. Vậy chúng ta theo nhánh lên Tĩnh Túc. Đêm đó, ba người cắm trại bên sông, nghỉ ngơi, cơm nước xong, bèn chia phiên nhau đi dọc bờ, quan sát, tìm dấu vết thủy quái trên nhánh sông Gầm. Nhưng suốt đem mặt sông phẳng lặng, dòng chảy êm xuôi, chỉ thấy vài con thuyền ngơ ngác, tuyệt không thấy một con sóng lạ. Gần sáng, ba người về ngủ, hôm sau nhổ trại. Cứ thế, khi đi khi nghỉ. Bọn Minh Thần noi theo dòng, ngược mãi sông rừng quanh co uốn khúc chảy qua các miền cư dân, các vùng vắng vẻ. Ngày kia, ba người đã ngược tít lên mạn thượng nguồn, tới phần đất Châu Nguyên Bình, vẫn chẳng thấy tăm hơi. Chiều nọ, ba người đi qua vùng Tĩnh Túc. Tĩnh Túc tuy là miền có mỏ, nhưng không giống đất mỏ độc. Tĩnh Túc sơn kỳ thủy tú, khí hậu tốt, lắm nơi phong cảnh đẹp lành, nhất phái nữ da dẻ hồng hào như gái Trùng Khánh phủ, thổ dân và dân làm mỏ sống khá đông vui. Bọn Minh Thần đang buồn vừa qua miệt Tĩnh Túc bỗng vui hẳn lên, nghe dân vùng đang xôn xao bàn tán về "con quái con quỷ dưới nhánh sông Gầm mới lần về làm đắm mấy con thuyền".

                    Nhưng hỏi kỹ, cũng chưa kẻ nào thấy rõ mặt, từ hai bữa nay, không ai dám qua sông, thuyền bè đều phải neo bờ. Có một dân thuyền chài cho Quản Kình biết: Chính bác ta đã gặp con thủy quái tại khúc sông thượng nguồn, bơi đến đâu sóng cuộn lên cả thước và bác còn nghe vẳng có tiếng cười nói dưới sông.

                    Bọn Võ Minh Thần quyết lần theo dấu vết thủy quái, bèn dự bị đủ thứ, rời khỏi miền Tĩnh Túc, lội theo bờ sông đi ngược lên mạn thượng nguồn. Tối nọ ba người đến một cảnh thổ xinh đẹp, núi rừng trùng điệp, nguồn nước chảy giữa các rặng Pi A Úac mang tất cả hương hoa khí đá nơi triền Phi Mã Ác xuống dòng xanh tả hữu ngạn, khúc này mấy dặm không có bản dân nào.

                    Trăng hạ tuần chưa lên. Ba người kiếm một khu khuất tịch cách sông non dặm "hạ trại" nghỉ ngơi, ăn uống no nê xong, để ngựa lại với những đồ cồng kềnh, chỉ đem theo khí giới với một vài thứ thiết yếu (Võ mang cả di hài mẹ) kéo nhau ra bờ sông, và dùng cặp sơn cẩu, con beo làm "liên lạc".

                    Cũng cần nói thêm là từ ngày rời Thanh Âm động, lần theo các nhánh sông Gầm, bọn Minh Thần cũng nhân dịp thu phục được ít thú dữ, thả rải rác và chỉ đem theo mỗi người một túi đựng độc vật.

                    Ba người lững thững men ngược nguồn, đi dọc bờ phía Đông, khúc sông này thế nước thẳng từ Bắc đổ dọc xuống Nam. Lúc đó khoảng nửa đêm, trăng chưa mọc. Tới một khu bóng núi tối mờ, gió đêm lạnh ngắt, ba người dừng bước.

                    Đêm vắng lặng sâu thẳm. Sông khuya thao thức, sóng xô bờ đơn điệu róc rách triền miên. Bên kia sông, rặng núi in đậm vào nền trời, bên này núi chạy vát chếch Đông Nam. Vài trái đồi thưa vọng nguyệt, một cánh rừng tĩnh mịch, vọng vài tiếng chim buồn tênh. Ba người ngồi dưới một tàn cây có khóm hoa dại ngát hương, bâng khuang nghe tiếng động đêm rừng.

                    Bỗng dưới sông nổi lên nhiều tiếng bì bõm rồi nghe "ùm" một tiếng thật lớn, sóng nổi ba đào, đập bờ bì bạch. Bọn Võ Minh Thần nằm rạp xuống, nhìn ra, nhưng bóng núi đổ khúc sông mờ mờ, vận nhãn tuyến, chỉ thấy từng lượn sóng giữa dòng tung tóe, không thấy gì thêm.

                    - Có vật chi vùng vẫy dưới sông! Đúng "con Nam" đó rồi! Hay dữ!

                    Cả ba nín thở. Thình lình nghe dưới sông tối có tiếng con nít cười như nắc nẻ, mơ hồ lại có tiếng chờn vờn.

                    - Trăng sắp lên... hí hí... khúc này vắng vẻ, lên nhảy múa chơi...

                    Ùm ùm, lại nghe tiếng bà già móm mém cười như nhai bỏm bẻm từng tiếng:

                    - Trăng lên nhảy múa, xem trăng thích lắm.

                    Bì bõm! Ùm ùm! Bỗng vẳng nghe gần bờ sông có tiếng con gái cười rú lảnh vụn như tiếng thủy tinh vỡ:

                    - Ha ha! Thèm ăn thịt nướng, thịt nướng! Ăn goi mãi chán mồm. Có tiếng cười ré lên, đủ mấy thứ âm nam phụ lão ấu, chờn vờn nghe đúng tiếng quỷ cười rú, làm bọn Minh Thần toàn tay gan lỳ cũng phải rờn rợn tưởng loài âm vật "hiện" trên sông rừng.

                    Ba người nằm rạp nghe ngóng. Nhưng rồi lại im bặt, sông khuya lại phẳng lặng như cũ. Lát sau cô gái Giao Long Nữ thì thào:

                    - Lạ dữ à! Hình như có một bầy, một lũ! Ngũ Đầu Nam...? Bà chúa có tả rõ hình dạng không?

                    - Không tả rõ, bà chỉ nói y có thuật Liên Hoàn Khiên rất lợi hạ. Ta cứ chờquanh đây.

                    Ba người lại ngồi kiên nhẫn đợi, hơn nửa giờ sau trăng lên. Sương lam, khí đá từng khóm bay lơ lửng trên mặt nhánh sông Gầm, nước phẳng trôi thao thiết, mảnh trăng hạ tuần vừa nhô khỏi núi Đông, hình liềm như lưỡi hái tử thần treo trên sông khuya bỗng trở nên bí ẩn lạ lùng.

                    Đang nghe ngóng, bỗng Quản Kình khều nhẹ tay, thì thào:

                    - Coi kìa! Cậu hai, cô ba! Hai người dòm theo tay Kình trỏ, phía Bắc nẻo thượng nguồn thấy hai bóng nhân mã đứng lù lù trên ngọn đồi thưa, hình thù in đậm vào nền trời trăng bệch úa, im như tượng đá dựng đó từ đời nào.

                    Thoắt, hai bóng biến mất, phút chốc lại thấy hiện bờ sông, lóc cóc thả ngựa dọc bờ, đi thẳng lại chỗ ba người ngồi.

                    - Vào trong.

                    - Chớ! Cứ nằm rạp là hơn. Võ thì thào, cùng nhau nằm phục sát đất. Hai bóng cưỡi ngựa lững thững tới, hai kỵ sĩ ngó ra sông, chợt dừng dưới một tàn cây. Ánh trăng mờ chiếu xuyên chếch soi tỏ mặt mày, hai thầy trò Võ cùng ngạc nhiên khi nhìn ra chính Song Ma, hai quái nhân đã theo đuổi định đoạt vòng bên trấn Hồ Kiều ngày nọ, chợt nghe một gã nói:

                    - Nó chỉ quanh quẩn khúc này thôi, chắc chưa đi khỏi đâu. Có kẻ gặp nóqua miệt Tĩnh Túc mà. Ta cứ đợi quanh đây.

                    - Hầy à! Ta bảo cứ thả một trái mìn là nó tức hơi phải trồi lên.

                    - Tỉu nà! Làm bừa vậy sao được việc. Ngươi không biết tính nó sao?

                    Hai bóng quái thì thào nhỏ to, rồi chợt quay ngựa lộn về nẻo thượng nguồn mất dạng. Võ Minh Thần chau mày lẩm bẩm:

                    - Quái, chúng đến đây làm gì? Có ý tìm bọn ta hay cũng kiếm Liên Hoàn Quỷ?

                    Ba người ghé sát nhau bàn tán. Khoảng mười lăm phút sau, bất thần nghe "ùm" một tiếng lớn, giữa dòng có một cây nước nhô lên, rồi cây nữa, thoáng năm cây tóe cầu vồng rào rào, có tiếng cười rú âm u hết sức quái gở, ai nấy trợn mắt dòm ra, vụt thấy năm khối đen đen loằng ngoằng nhấp nhô vùng vẫy, vẳng có tiếng đàn bà lảnh lót:

                    - Lên kia! Kiếm thịt ăn! Trên rừng có con thịt.

                    Cả mấy thứ giọng cùng cười rộ, khối quái dị hụp lặn mất.

                    Bọn Minh Thần nín hơi, bỗng sinh hồi hộp lạ, im bặt đợi. Nhưng không phải đợi lâu, chợt giữa dòng vụt nhô lên một hàng năm ngọn sóng chạy cuồn cuộn, cao dần, vút từ giữa phọt lên năm tia nước cao đến năm, sáu thước tây, ngọn sóng năm đầu cứ thế chạy vèo vèo về phía Đông, cách mười sải lại một hàng năm tia nước vút lên. Loáng mắt đã chạy vào còn cách bờ vài thước, đầu sóng dội cao, quật đổ "rầm" vào bờ, nước bắn tung tóe vòng cầu, "ùm ùm" mấy tiếng tổng hợp nổi dậy. Từ dưới sông, còn cách bờ cỏ vài bộ, bất thần bắn vụt lên một khối loằng ngoằng đen đen trắng trắng khoang khoang nham nhở như trùm nguyên màn nước sông khuya.

                    Loáng đã thấy khối dị đứng trên bờ. Nó vùng mạnh một cái, bắn tóe rào lá cây. "Xoảng", nó vùng cái nữa, "xoảng" tiếng xiềng khua. Cái khối lố nhố năm cái đầu đen thui xoã sợi xẹt lung tung, rồi cười ré lên, chạy vụt vào rừng, phát những tiếng xoảng xoảng gai người.

                    Bọn Võ nín thở ngó theo, nó chạy ngang trước mặt, cách khoảng năm mươi sải, dập dờn nhấp nhô, nhanh đến nỗi ba người chưa nhận rõ hình thù, chỉ thấy năm cái tựa năm cái vẩy phe phẩy lấp lánh, tuy đêm trăng cũng nhận được đủ năm màu xanh đỏ trắng tím vàng.

                    Hình dị lao vút vào cánh rừng bên, ba người lúc đó mới nhận ra trong đó có một tòa cổ miếu nhỏ, chừng miếu sơn thần.

                    Xoảng xoảng, rõ tiếng xiềng nghiến khua rợn óc. Vụt cái, đã thấy mớ đen trắng thu lại, vụt chồng lên nhau, cười sằng sặc, quay tít thò lò, cao lênh khênh gấp ba tòa cổ miếu, nó lại lao vù ra bờ sông, dừng phắt lại, đứt từng khúc, rụng dần, thoắt cái dưới trăng đã hiện rõ một khối hết sức quái dị: Thuồng luồng? Rái cá? Không phải. Vì ngoài các dây mơ re má chằng chịt, nó có năm cái mình trắng hếu coi giống con cá người, có hai cánh tay, trên có năm cái đầu người, mặt người, cái nào cũng có tóc mun xoã buông chùng, có dòng chấm gót. Năm hình đứng quay tròn, "xoảng", loáng nó xẹt hàng ngang chợt hiện tách ra, co cái cẳng đứng xoạc từng bộ, nó dòm lên mảnh trăng khuyết, cười sằng sặc, hình thù nhễ nhại đầy nước loang lổ ánh trăng soi.

                    Hình thủy quái từ lúc nhảy vọt từ dưới sông rừng lên di động nhanh vùn vụt, thoắt lao về phía miếu sơn thần, thoắt chồng lên nhau cao lêu nghêu lại tản ra lố nhố, bọn Võ Minh Thần nấp nhìn ra mãi chưa định rõ được hình dáng, chẳng hiểu giống chi, nhất khi hình thù thủy quái này di động phá ra những tiếng "xoảng xoảng" giòn tan, hệt tiếng xiềng xích khua, làm ai nấy đều cho là quái gở.

                    Ca ba nín thở nằm rạp xuống, giương mắt ngó trừng trừng, tự nhiên thấy tò mò hồi hộp lạ. Nước bắn tung tóe tới cả chỗ mấy người nấp. Lúc này, mảnh trăng hạ tuần hình lưỡi liềm mới treo trên ngọn núi Đông, chảy xuống rừng một thứ ánh sáng bềnh bệch, hư ảo lạ. Gió hiu hiu ngăn ngắt. Dưới trăng khuyết, cảnh trí như trong giấc mơ hồng hoang xa xăm nào, với sự xuất hiện bất thần của "con thủy quái chưa hề thấy từ đời thạch khí". Kịp khi con quái dừng lại gần sát bờ nước, cả ba trừng mắt nhìn kỹ, lại càng thấy lạ, vì cũng chẳng rõ hình "con" gì nữa.

                    Năm khối không đều, khối bé con, khối cao lớn, khối trung bình, từ nửa phần dưới coi từa tựa hình con người, nhất là hai ống cẳng đúng ống chân người, chân vượn lột. Có lẽ phải gọi là vượn lột mới đúng, vì cả năm khối trắng nhễ nhại, đẫm nước, dưới ánh trăng chiếu soi loang loáng như những tấm kính tráng thủy. Nhưng lên đến phần trên, coi thật phi phàm. Vì từ chóp xuống, có những tấm như vây trùng nhuyễn, phe phẩy như vây cá tai tượng, loằng ngoằng hàng chục cái vòi ngo ngoe, chằng chịt với nhau bằng những khúc mềm như chân bạch tuộc sáng quac.

                    Những tấm vây trùng mỗi khối lại một màu khác, hình dị này vừa đứng xoạc đã vùng mạnh một cái, phát tiếng "xoảng" gai người, cả năm khối đã xẹt ngang xẹt dọc quấn quýt lấy nhau, hình thù thủy quái nhảy ùm xuống nước mất dạng, để lại mấy luồng nước tóe cầu vồng và mấy cái xoáy lớn cách bờ vài con sào.

                    Bọn Võ Minh Thần chưa kịp nhìn rõ, giật mình, ngóc vội cổ lên dòm, ngẩn ngơ tiếc, tưởng "nó" lặn đi mất.

                    Nhưng không, chỉ mười lăm giây, lại thấy sóng cuộn nhấp nhô chạy loăng quăng, rồi chợt thấy năm vòi nước từ dưới đáy nước tia lên cao vút. Vụt cái, con quái dị hình lại theo tia nước bắn vọt lên bờ, dội theo cả mấy làn nước tóe.

                    "Xoảng xoảng", thủy quái vùng mình, phát cười rú lên, chạy vụt vào khu miếu sơn thần, vọt nhảy cả lên nóc miếu, vòi quắp cả lên cành cây. Dưới trăng loang lổ, lúc này coi lại giống con bạch tuộc biết đánh đu.

                    Tiếng cười rú càng nổi dữ, dưới trăng rừng nghe thật quái gở, không khác một con quỷ nước lên bờ cười với trăng khuyết lưỡi liềm.

                    Từ chỗ bọn Minh Thần nấp vào chỗ con quỷ đánh đu nóc miếu khoảng cách độ sáu bảy mươi sải, chỗ này cây cối lòa xòa, nhưng ba người vẫn thấy rõ hình thù con thủy quái, cả ba bất giác cau mày, cố định nhãn tuyến nhìn cho rõ.

                    Bỗng rào tiếng cành cây bật, thủy quái đã buông mình xuống cười khanh khách, chạy tủa vào rừng, vẳng nghe rõ tiếng đàn bà kêu lanh lảnh:

                    - Vui quá! Vui quá! Chạy nhảy vui quá!Lại có tiếng con nít hét:

                    - Vừa nhảy vừa hát mới thích! Lại có tiếng già móm mém:

                    - Tao thèm rượu thịt rồi. Cả ngày đêm hụp nước, tao thèm rượu, đi kiếm con thịt.

                    Tiếng rú tiếng cười kéo lê thê, lại nghe tiếng bà lão hét:

                    - Nhảy múa rồi đi kiếm rượu thịt. Tao ngửi thấy mùi thịt tươi rồi. Bọn Võ Minh Thần lắng nghe, đầu óc càng điên đảo, lại nghe nó nói "ngửi thấy mùi thịt tươi", Quản Kình chỉ khều nhẹ tay chủ một cái, Giao Long Nữ lẩm bẩm "quái gở"... nhưng nhìn vào chẳng thấy bóng quái nước đâu. Bỗng tiếng cười rú lên, xoảng xoảng, tiếng xiềng khua rộn càng nổi rõ rồi bỗng có tiếng kèn nổi lên, chẳng biết kèn gì, nhưng nghe thật lạ, ồ ề ồ ề rõ điệu kèn âm. Dứt tiếng kèn, lại tiếng trống bập bùng, rồi lại tiếng địch, tiếng sênh tiền... kế tiếp cuối cùng, các thứ âm thanh đó cùng một loạt, hợp thành một cung hòa tấu, chờn vờn ồ ề, nỉ non, tỉ tê nghe như tiếng ma cười quỷ hú, như biểu lộ tất cả cam xúc hồng hoang sơ khai còn đầy mùi man dại thủa hồng thủy xa xôi hun hút nào. Rồi tiếng hát cất lên, lẫn tiếng "xoang xoảng" đệm, véo von, líu lo, đủ giọng nam phụ lão ấu nổi chìm vang âm khắp vùng sông rừng cô tịch, khiến người nghe phải lấy làm quái gở, tưởng chừng đó là tiếng hát của bầy quỷ vờn trăng khuyết. Lắng nghe âm điệu rõ, nhưng thổ âm thổ ngữ rất khó nhận, tuy thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng được tiếng chăng, có lẽ đến năm ba thứ tiếng Thổ, Kinh, Nùng. Bỗng "xoảng" con quái từ trong rừng lượn vụt ra khu bờ sông, xẹt ngang dọc loằng ngoằng, vẫn phát âm tiếng hát phi phàm, rồi theo tiếng hát hú, hình quái lượn vút lên ngọn đồi trước mặt bọn Minh Thần.

                    Thoắt hình dị loáng nước dã vụt đi rồi hiện trên ngọn đồi cỏ thưa, hình dáng vẽ đậm lên nền trời trăng khuya hạ tuần, vật vờ lượn lờ múa may, lúc này coi lại càng giống hình bóng loài quỷ nào từ cõi u minh hiện lên, vờn trắng bệch. Giao Long Nữ thì thào:

                    - Lạ dữ à! Ngũ Đầu Nam... À năm đầu! Phải nói năm cái mình mới đúng! Mỗi đầu mình lại phát ra một thứ tiếng. Con quái gì nhỉ?

                    Quản Kình cũng trầm trồ, Minh Thần mắt nhìn lên đồi, vẻ trầm ngâm lẩm bẩm:

                    - Liên Hoàn Quỷ! Ngũ Quỷ Liên Hoàn! Xích Quỷ! "Xoảng xoảng", à hiểurồi, Xích quỷ sông Gầm người rái cá này không phải chỉ... Đang nói, bất ngờ hình thù quái đã từ ngọn đồi lao vụt xuống, nhanh như tên bắn, hướng thẳng chỗ ba người nấp.

                    Bóng con quái này chạy rất nhanh, rất lạ thường, hình thù chập chờn nhấp nhô vút cao đã xịch đứng cách non ba mươi bộ, khi di chuyển âm thanh hợp tấu vẫn phát ra lẫn tiếng "xoảng xoảng" dòn nặng như tiếng xiềng khua...

                    Giật mình, bọn Võ Minh Thần đã tưởng lộ, nhưng bóng ma quái năm đầu lướt đến cách độ hai mươi trượng thì dừng hẳn. Âm thanh tắt, tiếng cười nổi lên lanh lảnh, ồn ào, the thé, rè rè, đục đục, nghe như bốn, năm nhân vật cùng cười.

                    Cả năm khối dị này nhảy nhót múa may xẹt ngang xẹt dọc, những cái vòi ngo ngoe, mớ ngũ sắc phía trên phất cờ như cánh bướm màu, thấp thoáng giữa mớ vây có năm cái đầu đen đen trắng trắng thập thò giống hệt như đầu bướm khuất sau cặp cánh.

                    Theo nhịp nhảy múa, năm cái đầu này phát ra những tiếng hát thật lạ tai, mới nghe đúng chẳng khác tiếng âm giọng quỷ hát lên những lời quái gở của yêu tinh, không phải âm điệu người trần, làm kẻ bạo dạn cũng phải ớn mình, tưởng khúc hát phi phàm mang hồn người vào cõi u minh. Nghe thêm chút, tiếng hát lại véo von huyền bí như chứa tất cả nét đẹp phiêu lộng mênh mang kì bí của những miền thủy tú, đại dương, sông, hồ, ngòi, lạch, ao, chầm, đầm, vịnh, hình ảnh những đợt sóng trùng trùng nhap nhô, những dòng xanh uốn khúc, lửa chài hiu hắt trong khối nước trăng khuya, bóng núi lung linh, những chùm hoa lục bình trôi nổi... Bọn Võ Minh Thần bị cuốn vào điệu hát lạ đời, bài hát chưa bao giờ được nghe, cung âm chìm nổi vật vờ như kết tinh của trăm thứ âm ba trên sông nước thượng nguồn.

                    Bỗng tiếng hợp ca im bặt. Mớ hình quái nhảy nhót múa may càng nhanh, đảo xẹt lấp loáng như ánh sương phản chiếu trăng khuya, không sao nhận rõ được đường nét.

                    Vụt cái, tiếng địch cất lên chơi vơi tầng trăng sầu vời vợi, rồi vụt tắt bất ngờ trên sông đêm, khiến bọn Võ Minh Thần tưởng chừng bị ném từ chín tầng mây xuống đáy nước.

                    Rồi lại đến tiếng kèn tiếng trống cứ thế kế tiếp độc tấu. Bọn Võ Minh Thần cố chú mục dòm kỹ nhưng hình thù loang loáng di động nhanh vùn vụt, hình nước nước phản chiếu ánh trăng, thêm khó nhận.

                    Rồi cả bọn bị cuốn vào vũ khúc phi phàm chừng mươi phút, bỗng hình quái bất ngờ nhảy ùm xuống sông vùng vẫy mấy cái rồi lặn hụp mất. Nhưng bất thần nó lại vọt lên bờ đứng im, phát cười rũ rượi chừng thỏa chí vùng vẫy nghịch nước, vờn trăng phát gió, nó cười sằng sặc rồi bỗng dàn hàng dọc năm khối, cùng đứng lù lù dòm lên vành trăng khuyết treo ngọn đồi.

                    Lúc này mọi âm thanh tiếng động vụt im bặt, chỉ còn tiếng nước sông rừng vỗ róc rách nhẹ nhàng thoảng vùng sơn thủy rơi vào tịch mịch vô cùng. Hình con "Ngũ Đầu Nam" quái dị đứng bất động coi như hình vẽ nổi vào tường thủy mặc đêm trăng khuya hồng hoang.

                    Bọn Võ Minh Thần trông rõ mồn một, bất giác cả ba cùng giật mình kinh ngạc không ít. Vì lúc nãy con quái nước có hiệu Ngũ Đầu Nam, Ngũ Quỷ Liên Hoàn đứng ngửa mặt dòm trăng, cách xế chỗ mấy người nấp chỉ độ năm mươi bộ già, vây vẩy vòi đều buông thõng, không ngo ngoe ve vẩy nữa, toàn khối hình thù không động đậy, mới hiện rõ từng đường nét, từng bộ phận nhãn tiền. Bất giác Giao Long Nữ khẽ thích Võ Minh Thần một cái, thì thào:

                    - Lạ dữ! La dữ! À giờ mới hiểu thế nào là Ngũ Quỷ Liên Hoàn! Quái gở! Quái gở! Quản Kình cũng ngóc hẳn đầu lên, trợn mắt dòm. Minh Thần phải thò tay ấn vội đầu y xuống,

                    Vì con thủy quái "người rái cá" này không phải là một con quái, mà là năm con. Cũng chẳng phải thủy quái, mà chính là năm hình người tạo thành. "Ngũ Đầu Nam" hay gọi "con Nam năm đầu" này là năm người kết lại làm một.

                    Hoàn toàn là những hình người đủ đầu mình chân tay mặt mũi, và hình nọ xích chặt vào hình kia bằng những khúc xích lớn bằng thép sáng quắc như gương. Xích là những vòng tròn móc liền nhau thành lòi tói, vòng nào cũng to bằng miệng chén. Năm khúc xích, mỗi khúc dài hàng chục sải, một đầu đóng dính vào cổ tay trái còn đầu kia móc liền vào một cái vòng tròn thép to bằng cái mâm, thành một chùm.

                    Còn năm hình nhân kia, đứng ngoài đầu phía bọn Minh Thần nấp là một hình bé loắt choắt, đúng hơn là một đứa con nít coi khoảng lên mười, mười hai chi đó cởi trần trùng trục, đóng độc cái khố bằng da rái cá giống khố của các tay lưc sĩ tập thể dục tại sân vận động, tóc nó để lòa xòa như bờm sư tử, da trắng nhễ nhại như da vượn mới làm lông. Tuy hình thù kỳ quái, nhưng mặt đứa con nít này rất xinh, giống đực, miệng tươi mắt sáng như sao ẩn hiện, no kỳ bí khó tả tưởng chứng nó không phải là giống người trên bộ sinh ra. Ngay cạnh nó là một nữ nhân, cứ nhìn mặt trạc mười chín đôi mươi, chẳng rõ thiếu phụ hay thiếu nữ, dáng coi giống hệt một phụ nữ mặc đồ tắm bien với ba cánh bướm đen đậu trên người, màu đậm càng làm nổi bật màu da trắng đến... rợn người, thân dáng nữ lang này tuyệt đẹp, đúng vẻ đẹp của loại phụ nữ hay bơi lội, mình mẩy chắc lẳn, thon hết sức, hai cái đùi dài, thuôn lẳn giống hai cái búp hoa quỳ, bàn tọa nở bạnh phính dưới cái bụng thắt, ngực căng sức sống của kẻ hay bơi lội, thêm cặp nhũ phây đanh như dôi chim dữ chỉ chực sổ lồng bay vụt ra, hai bờ vai thuôn, cổ cao ba ngấn, cánh tay tròn như khúc trăn gió, đến khuôn mặt cũng khác gái trên bộ, miệng hơi rộng, môi cánh cung đỏ như máu, mũi dọc dừa thẳng, hai cánh mũi phập phồng gợi hình ảnh cái mang cá. Nữ lang này tóc buông dài chấm gót, đen mun, xoã lòa xòa ôm lấy khuôn diện trăng càng bật rõ hai con mắt xếch, sâu thăm thẳm bí ẩn như dòng sông đêm phản chiếu hai vì sao lấp lánh tận đáy vụng sâu hun hút; nhìn ai, kẻ đó tưởng mình bị đắm xuống đáy vực mat. Đúng cặp mắt thần bí đẹp hót người như ánh mắt gái liêu trai.

                    Đứng kế bên nữ nhân này là một ông già râu dài, tóc xoã bạc phơ, hình dung cổ quái, mũi gồ trái dô, hai con mắt đỏ lừ, hết sức tinh nhanh nghịch ngợm; cũng chỉ đóng một cái khố nhỏ nhưng lại là khố của dân đô vật quen dùng, thành thử nhác coi lão không khác một ông già còn trẻ tính với áo bơi thi hay đánh vật với bọn trai tráng trong ngày hội nào.

                    Kế bên lão quái nay là một chàng trai tuổi trạc hai lăm, hai tám, dáng cũng đặc bơi lội chuyên môn, cao lẳn tầm thước, tóc cũng để dài sù không búi càng làm tôn thêm bộ mặt điển trai tinh quái lạnh lùng, thứ bạch diện thư sinh tưởng như mới từ trong ruột một con bạch xà hay một con chồn đen chui ra, có sức lôi cuốn đàn bà kỳ dị, thứ khôi ngô phong nhã đến... nổi da gà nhi nữ.

                    Và bên chàng trai này là một bà lão trạc bảy, tám chục tuổi, mồm đã móm, da nhăn nheo, đầu bạc xoã sợi, đặc biệt hai con mắt long sòng sọc hau háu còn tinh hơn cả mắt những bà mẹ chồng sống ngót bách niên vẫn còn thừa sức để cầm quyền nội trợ hết cả phần nàng dâu. Khác với nữ nhân, bà già móm này lại mặc yếm, thứ yếm đàn bà đồng quê đất Bắc, Trung hay dùng, còn nửa phần thân dưới bà già quái này lại cuốn một mảnh da rái cá ghép, chấm gần gối, coi không khác bà ta mặc váy quai cồng bắt cua, hoặc váy dân tộc Mường vậy.

                    Bọn Võ Minh Thần nằm rạp đất nhìn ra, cố định nhãn tuyến ngó kỹ từng ly từng tí, nhận ra năm hình quái nước này, mỗi hình tay có cầm một tấm khăn dài ngót hai thước rộng bản, mỗi thứ một màu, lấy trùm đầu hoặc múa, nhác trông lại tưởng cái vây. Đổ mắt nhìn xuống tay kia lại thấy mỗi hình cầm một thứ khác nhau, coi như đồ chơi con nít. Đứa nhỏ cầm một cái lá bằng bàn tay, nữ nhân cầm một cái vỏ ốc, ông lão cầm một cái ống trắng hếu, chừng xương ống tay người, chàng trai cầm một cái sừng sơn dương, tê giác chi đó, còn bà lão móm cầm một cái sọ, chẳng rõ sọ khỉ, vượn.

                    Sực nhớ đến mớ âm thanh kèn trống bập bùng ồ ề vừa rồi, bọn Minh Thần không khỏi động lòng, chợt hiểu, chỉ suýt nữa Quản Kình đã buột miệng kêu sửng sốt:

                    - Ôi chao! Hình thù đã quái, nhạc cụ còn quái hơn. Thủa nay mới thấy kẻ lấy đầu lâu hoa cái người ta làm trống làm mõ. Lạ dữ à.

                    Võ Minh Thần lại thò tay ấn đầu y xuống. Thực ra chàng trai cùng Giao Long Nữ cũng ngạc nhiên hết sức trước hình thù Xích Quy cùng các món nhạc khí đặc biệt của "người rái cá".

                    Đầu sọ bịt da làm trống, hàm dưới làm trống con như trống ếch, sừng dê rừng, tê giác làm tù và khóet lỗ thổi; ống xương tay rỗng khóet lỗ làm ống địch. Vỏ ốc phát âm thay kèn, lá cây gập lại thay "harmonica", chắc lại còn kèn mũi, đàn mồm, trống mép, gõ sọ làm mõ, khua xiềng đập nhịp, các món nhạc khí này mới tạo nên mớ âm thanh phi phàm đến thế.

                    Chợt bà lão quỷ tự nhiên nhảy dựng, "xoảng" một cái, bửa đôi chiếc sọ ra, múa ngón tay gõ boong boong, lốc cốc, cười rú:

                    - Múa đi! Múa đi! Múa nhiều ăn ngon! Trống một, một trống, một hát, hát một. Múa hát còn ăn. Có con thịt rồi. Đánh hơi thấy mùi thịt tươi rồi. Múa hát đi, trăng già hơn mụ.

                    Bọn Võ nghe chột dạ, hích nhau, đã thấy Liên Hoàn Quỷ nhao nhao cười rú lên, nhảy nhót như ư lũ oan hồn uổng từ. Có tiếng nữ nhân hát lanh lảnh rồi "Ngũ Đầu Nam" chạy vù lên ngọn đồi nẻo thượng nguồn mất dạng.

                    Những tiếng "trống đầu lâu" vẫn nổi chìm bập bùng xa xa vọng về, rồi tiếng hát nổi gần thêm, thoắt ào ảo xoảng xoảng tiếng xiềng khua lẫn tiếng cười rú từ sau miếu vọng ra. Bỗng tất cả lại im bặt, giữa đêm trăng vơi hạ tuần vụt có tiếng bà lão móm hét chìm ra như ngấu nghiến từng lời:

                    - Mấy con thịt kia núp đây làm gì? Lần này có tiếng mon men hét thé lảnh như dùi xiên lỗ nhĩ, khiến bọn Võ

                    Minh Thần nấp xó ngoài bờ sông không khỏi giật mình tưởng bị phát giác. Nhưng ba người cứ nằm im đợi. Bỗng lại nghe tiếng đàn bà trẻ cười rú lên:

                    - Mấy con thịt đen thui như cá nướng. Ra coi! Ra coi! Ha ha! Con thịt này có mùi cầy hôi.

                    Dứt lời, lại có tiếng con nít hét:

                    - Làm lông cầy hôi! Ném cầy hôi xuống sông tắm rửa. Bắt cầy hôi nhảy vào đống lửa múa hát cho vui. Lập tức có nhiều thứ tiếng nam phụ lão ấu cũng cười rộ lên hò hét "cầy hôi, cầy hôi" inh ỏi góc rừng như điên.

                    Bọn Minh Thần nhìn vào thấy bóng Xích Quỷ xẹt ngang xẹt dọc loang loáng giữa vùng trăng sương đến gần tòa miếu, chợt Xích Quỷ dừng lại cười rũ rượi, vây lấy miếu theo hình cánh cung, chợt có tiếng già đực quát như sấm:

                    - Cầy hôi không ra, đánh đổ cái miếu đè cầy hôi. "Đánh đổ miếu", "hà hà", có nhiều tiếng hưởng ứng, rồi dưới trăng loang bóng Xích Quỷ lố nhố nhảy nhót phát ra những tiếng "xoảng xoảng" coi rất lạ. Võ Minh Thần thì thào:

                    - À không phải bọn ta. Chắc Song Ma nấp trong miếu. Coi! Xích Quỷ sắp mở "Liên Hoàn công" đó. Đòn Liên Hoàn lợi hại hết sức, không biết cách phá, chết ngay.

                    Quản Kình vừa lẩm bẩm "miếu đổ mất" bỗng nghe trong miếu có tiếng quát lớn:

                    - Không phải phá miếu. Ta tới tìm Nam, sao không ra mặt. Ta có ý để Nam vui chơi thỏa thích đã.

                    Dứt lời, từ trong bắn vọt ra hai cái bóng cao, đen, đứng sững giữa khu bãi trống trước miếu, cách Xích Quỷ khoảng bốn, năm mươi bộ. Không ai khác Song Ma.

                    Dưới trăng vang bệch, Ma Khách tối nay mặc áo sườn xám quét gót, Ma Kinh mặc áo ngăn tay toang, cả hai mặt cô hồn lạnh lẽo từ từ dòm Xích Quỷ từ phía rừng sau miếu vọt ra đừng dàn hàng ngang cách nhau non sải, đối diện Song Ma chừng mười lăm bộ. Đứa con nít hét:

                    - Cầy hôi muốn tắm mát? Cầy hôi rình xem trộm? Ma Kinh cười khà khà:

                    - Bọn ta cầy hôi, còn lũ ngươi cá ươn cá thối? Xích Quỷ dưới nước, Song

                    Ma trên bờ gặp nhau là điều hạnh ngộ, sao không nói được câu tử tế?

                    Nữ lang khua "xoảng" tay buộc xích:

                    - Hai đứa là hai con ma biến giỏi, biến tao coi! Ma Kinh hất hàm:

                    - Lũ ngươi là mấy con quỷ nước, quỷ cũng biết biến, biến trước xem. Ôi chao! Chúng gọi thế thôi, ta với lũ ngươi cũng là giống người mà.

                    Nữ lang bỗng nổi giận khác thường, khua "xoảng" tay xích hét:

                    - Đứa nào bảo tao là quỷ? Đứa nào bảo tao là người? Hai con ma này đến đây làm gì? Sao nấp nhìn trộm? Ai cho mi đến đây?

                    Bà lão móm vỗ long bong vào mặt trống đầu lâu, cười ré:

                    - Nói không hay! Ném xuống sông, làm lông, chặt ra từng khúc cho cá ăn. Con thịt cầy hôi, ăn không được.

                    Lập tức cả đám reo "phải đó, phải đó" nhất tề sấn lại, xích kêu xoang xoảng. Song Ma vọt lùi mấy bộ. Ma Kinh quát:

                    - Khoan! Ta có điều muốn nói.

                    Đứa bé hét:

                    - Nói gì? Đến đây làm gì? Không muốn xuống âm ty?

                    Ma Kinh nói lớn:

                    - Chúng ta lần mò ngàn dặm tìm Ngũ Đầu Nam đâu phải đánh nhau. Hảo

                    ý. Chúng ta đến đây kết bạn với Ngũ Đầu Nam.

                    Đứa con nít cười ré:

                    - Bạn? Kết bạn? À! Hai con ma muốn xuống sông chơi với ta? Nào nào. Xuống sông! Xuống sông!

                    Dứt lời nó hô lên một tiếng, cả năm hình quái nhân đã nhất loạt bắn vụt tới theo đường vòng cung cách độ vài thước, cũng xẹt ngang cách nhau năm bước, chùm xích quét lê dưới đất, coi không khác chùm lưới bao lấy Song Ma.

                    Rồi lừ lừ bước lại. Song Ma lùi, lùi mãi, bất thần nhảy vọt qua vòng xích, khoảng giữa đám con nít, nữ lang, ông lão.

                    Nào dè khi Song Ma vọt lên tầm cao vài thước, thì cả đứa bé, nữ lang, lão quái, chàng trai, bà móm đã nhất loạt vọt lên, lù lù chặn trước khiến Song Ma lật đật vung tay phát kình đẩy thốc, lấy đà bật lùi lại. Nhưng đám quái dị này đã giơ tay lên, nghe "bùng bùng" hai tiếng. Song Ma bật dội lại hai sải, hạ xuống đất, chỉ thấy vệt nước sáng như gương, dòm lại, đã thấy Xích Quỷ Ngũ Đầu Nam đã vây tron Song Ma vào giữa, cười rũ rượi. Ma Kinh nói lớn:

                    - Khoan! Ta chỉ muốn tặng vật... tỏ ý tốt...

                    - Cái đầu. Cái đầu. Vụt! Xích Quỷ từ năm phía xông lại. Song Ma rút soạt kiếm, múa, chém giải vây. Bọn Minh Thần núp trông ra, chỉ thấy bầy hình thù quay tít như đèn cù, thỉnh thoảng lại thấy bóng Song Ma vọt lên cao, xoảng, long bong, ồ ề, âm thanh quái gở nổi giữa tiếng xiềng khua, người hét. Bất thần nghe Xích Quỷ cười rú lên mấy tiếng, dưới bong trăng vơi cả một đám bóng quái đen đen trắng trắng vùng chùm xích sáng rỡ quay tít, phát tiếng kêu xoảng xoảng, rồi bắn vọt ra bờ sông, rớt "ùm" xuống nước. Một khối nước bắn lên tung tóe, bọt trắng xóa, vẳng tiếng cười rú quái gở, rất nhanh tất cả hút chìm, sóng dập bờ róc rách. Rồi mặt sông phẳng lặng, trăng soi gợn nước lăn tăn như đàn rắn vàng bơi lội. Cảnh sông rừng lại chìm vào cô tịch thẳm sâu, vẳng tiếng chim khuya rớt xuống buồn tênh.

                    Bọn Minh Thần ngóc cổ dòm theo, không khỏi lạ thay thế chiến liên hoàn của Ngũ Đầu Nam. Quản Kình khẽ kêu:

                    - Ghê thật! Hai con ma bị chìm nghỉm trong nháy mắt...! Võ Minh Thần thì thào:

                    - Ma Kinh, Ma Khách không phải tay thường, nhưng bị lôi xuống đáy sông, mất mạng như bỡn. Khôn hồn phải kiếm thế lên bờ ngay. Xích Quỷ quả nhiên lợi hại thật. Bà chúa nói không sai. Xích Quỷ sống lâu dưới nước, nhân tính lu mờ nhiều, không khơi dậy khó bề giao thiệp nổi. Cứ nghe lời nói đủ biết.

                    Ba người đang bàn luận, bỗng nghe "ùm ùm" hai tiếng, nước bắn vung lên cách chừng ba mươi sải, bóng Song Ma liên tiếp vọt lên, bơi vào bờ. Song Ma vừa lên, Ngũ Quỷ Liên Hoàn đã bắn vút lên theo cực kỳ hung tợn, cười rú:

                    - Đi đâu? Đi đâu? Tắm mát đã! Song Ma lăm lăm tay kiếm, ướt sũng, quát lớn:

                    - Ngũ Đầu Nam! Tắm mát đủ rồi. Bọn ta có tặng vật đây.

                    Ngũ Quỷ dừng lại, cách mươi bộ, coi mặt mũi vẫn hồn nhiên, quái gở. Nữ lang cười lảnh:

                    - Cái đầu! Cái đầu! Cho ta cái đầu! Ngâm rữa thịt da tủy óc, làm cái trống. Bà già móm giơ luôn trống đầu lâu lên gõ long bong mấy tiếng, cười thé:

                    - Ngâm xong phơi khô nạo mỏng, kêu như trống của ta.

                    Cả lũ lại hô "cái đầu làm trống", sấn tới. Song Ma lùi mấy bộ, chống kiếm. Ma Kinh quay bảo Ma Khách:

                    - Đưa món đó đây. Ma Khách lật vạt áo sườn xám, lấy trong bọc ra hai cái hộp khảm xà cừ, dùng mũi kiếm nậy tách tách, mở nắp. Bọn Minh Thần chưa rõ hộp gì, thấy

                    Song Ma dùng hai ngọn kiếm gài chéo nâng hai chiếc hộp mở lật, chầm chậm tiến lại gần Xích Quỷ, cao giọng:

                    - Tặng vật này của báu nhất thế gia. Ngũ Đầu Nam dùng nó mua được đủ thứ. Xuôi ngược sông hồ, đến đâu cũng mua được.

                    Ngũ Quỷ Liên Hoàn tiến lại, nghển cổ dòm, đứa con nít nhảy dựng lên coi, hỏi:

                    - Gì đó? Vỏ ốc? Vò sò? Vỏ trai? Ma Kinh nhe răng cười, trợn mắt:

                    - Không biết món gì? Vàng bạc đấy. Rượu nồng dê béo, nhà cửa áo quần... món gì cũng mua được à.

                    Theo lời nói, hai ngọn kiếm đưa hộp thêm gần, đứa con nít cùng nữ lang thò tay ra nhón lấy hộp, bốc dòm, rồi bất thần hốt tung tóe từng mớ. Dưới trăng bọn Võ nhận ra toàn vàng lá, bạc " ôxoè lấp lánh. Đứa con nít, nữ nhân vừa cười vừa bốc tung loảng xoảng:

                    - Vỏ ốc, vỏ sò... rượu nồng dê béo... dưới sông không cần đồ vô dụng này. Từng mớ ném vung vãi tứ tung, bắn cả lại chỗ bọn Minh Thần nấp. Giao Long Nữ thò tay vớt được một lá vàng, Quản Kình quơ được đồng " ôxoè bay qua đầu, dòm quả vàng bạc thật. Ba người ngó Song Ma thấy cả hai vẫn chống kiếm đừng ngó lừ đừ. Lão quái cũng thò tay bốc, nãy giờ chỉ có chàng trai câm nín không nói chi, bỗng xẹt lại cách năm, sau sải, thò tay chụp lấy hộp vàng ném vụt xuống sông, ném luôn hộp bạc. Từng lá vàng đồng bạc rớt theo bay "bõm bõm" chìm nghỉm. Xích Quỷ xẹt ngang, cười sằng sặc. Bất thần "bùm bùm" từ chỗ hộp chìm, liền hai tiếng nổ phát lên, nước bắn tung tóe, nổi sóng to quật bờ bì bạch. Ngũ Quỷ Liên Hoàn vùng hét:

                    - Hai con ma này bỏ cốt mìn vào hộp. Bắt nó dìm nước! Dìm nước! Song Ma lùi lại, quát lớn:

                    - Không phải mìn! Pháo mê! Bọn ta chỉ muốn học nghề lặn!

                    Lời chưa dứt, Xích Quỷ đã bắn vọt tới, xoảng xoảng, vây Song Ma vào giữa. Soẹt xoẹt. Năm hình quái dị nhất loạt giật ra năm lưỡi gươm dài nhỏ bản quấn quanh bụng, mềm như bún, sáng lòa, nhác trông biết ngay loại gươm quý.

                    Véo véo, lưỡi thép chém không khí. Xoảng xoảng xiềng khua. Bảy cái bóng xẹt đảo loang loáng, vọt lên, hạ xuống, vi vu vi vút, ánh thép chói lòa bao bọc, trăng vàng nhảy múa. Song Ma quả cao bản lãnh, tuy bị xoắn giữa năm đường gươm dữ vẫn nhảy múa dọc ngang như thường.

                    Chưa đầy hai hiệp, bỗng lại nghe tiếng trống nổi lên bập bùng, ồ ề, sực có tiếng Song Ma hét to như sấm, bọn Võ trông ra đã thấy Song Ma vọt ra ngoài vòng Ngũ Quỷ. Nhưng chưa, Xích Quỷ chỉ đợi có thế, bỗng nghe tiếng cười, tiếp theo tiếng thét rợn người, vùn vụt loang loáng những bóng sáng đan qua lại, rồi bất thần dừng phắt.

                    Im lìm mấy khắc. Sông khuya đột nhiên rơi vào cô tịch, buồn tênh, gợn tiếng sóng nhẹ xô bờ róc rách.

                    Bọn Minh Thần hơi nhỏm mình dòm ra, đã thấy Ngũ Quỷ Liên Hoàn đứng năm goc lù lù, lưỡi kiếm mỏng còn rung, và Ma Khách, Ma Kinh đã bị nhiều khúc xích trói xoắn quanh mình, đứng sững như hai khúc giò bó dựng đó, tay vẫn còn cầm kiếm. Chú ý nhìn mớ xích, thấy cả năm khúc, khúc nào cũng xoắn lay Song Ma, khúc xoắn tả, khúc xoắn hữu, xoắn đơn, xoắn kép, chằng chịt như mớ bòng bong. Võ Minh Thần thì thào bảo hai người:

                    - Kia chính xích trói liên hoàn đó. Ngũ Quỷ dồn Song Ma vào thế trận liên hoàn, rồi bất thần đổi vị trí, xẹt chéo góc, tự nhiên xích nghiến lại trong chớp mắt. Song Ma tài nghệ chẳng vừa vẫn bị sa thế liên hoàn, đủ biết liên hoàn lợi hại vô cùng. Ta phải cẩn thận lắm mới được. Nhớ thế phá chứ? Coi kìa, Song Ma chết đến nơi rồi.

                    Cả hai gật đầu. Ngũ Quỷ phát cười rũ rượi nghe phát ớn, cả năm lừ đừ đi ngang đi dọc, xích kéo căng suốt từ đầu gối lên tận ngực Song Ma. Dưới trăng, Song Ma trợn ngược mắt, cố vẫy vùng, miệng kêu ú ớ, nhưng vẫn đứng sừng sững, không lảo đảo.

                    Quản Kình bất giác kêu khẽ:

                    - Xích liên hoàn trói kể lợi hại thật, nhưng các sợi xích chỉ bằng ngón chân cái, tưởng sức hai con ma kia thừa sức giật bung chứ. Ngày gặp chúng bên Ho Kiều, coi tài nghệ chúng kém gì Tửu Chúa...

                    Võ Minh Thần thì thào:

                    - Chú không thấy Song Ma đã bị đòn tiêu lực rồi sao? Coi các khúc xích đều bị kéo căng, mặt Song Ma đang phì to, đủ biết.

                    Quả như chàng nói, bản mặt Song Ma càng lúc càng phì lớn như mặt người thắt cổ, hai con mắt đỏ như tiết trợn ngược như sắp lồi ra ngoài. Xích Quỷ cười rũ rượi, vẻ thích thú hết sức. Bà móm chợt giơ cao trống đầu lâu gõ long bong, miệng hét:

                    - Bó giò mỡ để nóng thiu! Phải có lạnh mới đông!

                    - Phải phải! Ta ăn giò mỡ rồi, càng đông càng ngon. Càng ép càng ngon. Coi kìa, hai khúc giò muốn nói. Cho nó nói!

                    Cả năm hình quỷ liên hoàn cùng đưa tay về phía trước chút, hai cái mặt Song Ma xẹp dần, mươi khắc, cả hai cùng thở hộc phào, mệt nhọc nhát gừng:

                    - Cởi xích... bọn ta chỉ định nhờ... Nam dạy nghề bơi lặn...! Ngũ Quỷ nhìn nhau cười ré. Đứa con nít hét: "dạy bơi dạy lặn", bỗng thấy Song Ma giật mình cái, hệt như hai phỗng gỗ giật dây, Ngũ Quỷ hú một tràng, chạy vụt ra bờ sông nhảy ùm xuống nước. Bọn Minh Thần ngó theo, thấy cả khóm hình quái chìm nghỉm, chừng mười lăm khắc, chợt bắn vọt lên khỏi mặt nước, cứ thế vùng vẫy như bầy rái cá. Ngũ Quỷ năm góc nhấp nhô bơi lội, Song Ma ở giữa, thỉnh thoảng lại bắn vọt lên cao hàng thước tây, thân hình vẫn cứng thẳng đơ như hai khúc giò, dưới ánh trăng, mặt mày nhợt nhạt, mắt trợn trừng, mồm há hốc, coi thật thê thảm. Bỗng cả chùm hụp lặn, rồi bất thần từ dưới nước vọt lên bờ. Ngũ Quỷ cười rú, bắt đầu nổi âm quái gở, kèn trống vang lừng, cả năm hình nhảy múa mấy vòng, rồi nhảy tại chỗ, đứng im, dòm Song Ma, vừa cười vừa hòa tấu, cảnh tượng thật kỳ quái chẳng khác một lũ âm hồn đang say sưa trong vũ khúc phi pham. Giữa vòng xích quấn, Song Ma ú ớ, mắt trợn ngược dần, chợt từ thân thể sũng nước khói trắng bốc lên mờ mờ, mỗi lúc một thêm dày. Mơ hồ trong lớp khói bao quanh Song Ma vẳng có tiếng ú ớ phều phào "vòng càn khôn...". Bọn

                    Minh Thần nấp trông ra, bất giác cả ba cùng động lòng trước cảnh tượng quái gở. Chàng trai khẽ chép miệng:

                    - Lại vòng càn khôn. Ham đoạt vòng chết uổng, mưu thâm họa diệt. Song Ma thác đến nơi rồi. Xích Quỷ "bó giò, ướp đông" chơi, truyền khí lạnh hàn băng vào sợi xích, công lực đã bế tiêu, sinh mạng còn gì. Tuy bình sinh chúng nuôi lòng tà ác, nhưng mắt thấy... kể cũng tội. Chúng cũng chưa hại mình.

                    Giao Long Nữ thì thào:

                    - Đại huynh lầm rồi. Chính chúng đã dự vào việc rượt đuổi theo song thân thiếp đó. Nếu không nghĩ tới kẻ đại thù, có lẽ thiếp phải ra mặt giết chúng mới đúng.

                    Võ Minh Thần vụt sáng mắt:

                    - Nếu vậy, chúng ta đợi gì không thu phục Song Ma? Bình sinh chúng có bản lãnh, dữ, khôn, tất thành "xó quỷ" rất lợi hại. Một đôi "xó dữ" này, cũng được viec lắm đó.

                    Giao Long Nữ gật đầu:

                    - Nếu vậy, đại huynh và chú Quản hãy ra tay. Minh Thần lắc đầu:

                    - Hoàn cảnh này, thu rất khó. Cô nương phải thu lấy một. Ta còn mắc chuyện Xích Quỷ, không thể làm một lúc, phải cầm hồn chúng lại, rồi sẽ liệu. Việc này khá nguy hiểm, vì sẽ lộ ngay, phải đối phó với Xích Quỷ ngay lập tức.

                    Ba người trông ra, Xích Quỷ vẫn nổi âm phi phàm, múa may, cười rú, như đang chứng kiến một trò vui đặc biệt. Rõ ràng nhân tính Ngũ Quỷ Liên Hoàn đã bị pha trộn nhiều thú tính. Mơ hồ tiếng Song Ma kêu ú ớ, run rẩy, làn khói xông mù mịt, thoắt chỉ còn thấy hình dạng lờ mờ.

                    Bỗng từ trong làn khói hàn có tiếng rú nghẹn tắc. Võ Minh Thần vụt nói khẽ:

                    - Coi! Chúng đã lìa trần. Linh hồn Song Ma sắp rời khỏi xác. Chú ý, cônương thu Ma Kinh, mỗ thu Ma Khách. Sửa soạn. Tinh lạc sắp xuất. Cả ba nín thở. Không khí rợn. Đêm trăng khuyết, tử khí chờn vờn. Hơi lạnh sông khuya ngăn ngắt.

                    Ngũ Quỷ vẫn nổi âm thanh, say sưa trong vũ khúc phi phàm. Bỗng xích nghiến xoảng, từ trong làn khói trắng vụt hiện ra hai đốm sáng bằng hai quả trứng gà. Khối sáng xua đuổi khí hơi mờ, vật vờ nơi tam tinh tuệ nhãn của Song Ma, rồi từ từ bay ngược lên đỉnh thiên linh cái, vật vờ như đốm ma trơi trong đêm giá.

                    Xích Quỷ vụt ngừng tiếng kèn trống. Đứa con nít cười ré lên giơ tay trỏ:

                    - Hai con đom đóm to quá. Hai con đom đóm ma. Bắt hai con đom đóm ma.

                    Vừa kêu nó vừa chạy thốc tới thò tay vồ. Nhưng chợt nó kêu ré lên, giật lùi lại và tay như bị mớ lửa đốt. Hai đốm sáng chao qua chao lại.

                    Nấp đằng xa, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ đứng vụt lên vùng đưa tay bắt quyết. Quản Kình vọt lùi lại phía sau, đầu óc căng thẳng, quét lia nhãn tuyến một vòng rộng. Minh Thần, Giao Long Nữ đọc chú, bốn con mắt long sòng sọc, bỗng trở nên dữ tợn lạ thường.

                    Hai đốm sáng trong suốt như hai cục lân tinh vật vờ trên thiên linh cái Song Ma, chính là hai khối tinh lạc của cặp quái nhân này. Khí hàn băng đã làm đông máu Song Ma, thêm xích nghiến tắt thở. Song Ma đã chết.

                    Cuộc sống của hai sinh vật vừa chấm dứt, như ngọn đèn vừa tắt, nhân điện kết khối xuất khỏi cơ thể, mang theo hồn phách.

                    Hơi lạnh quanh xác tan mau vì sức nóng của tinh lạc. Từ trong hình Song Ma, bỗng có hai khối hình y hệt thoát ra, vụt nhập vào khối tinh lạc, sức thoát nhập nhanh như điện, coi như cái bóng Song Ma do trăng chiếu. Thường thường tinh lạc hồn phách chỉ đủ vật vờ giây lát, rồi vụt chìm vào cõi u minh và chỉ hiện về cõi dương trong trường hợp đặc biệt. Trong giây khắc đó, hồn phách như người ngái ngủ đang chìm đắm trong giấc mơ tiềm thức. Và hồn phách vụt tỉnh nếu nghe chú gọi. Lúc này, mang tất cả sức mạnh của một giống vô hình và cả sức hung tợn của tiền thân tiềm thức nhiều đời tiền kiếp.

                    Tiếng chú gọi cùng chỉ quyết pháp sư kỳ diệu của Võ Minh Thần, Giao Long Nữ phát uy lực vô hình đánh mạnh vào hồn phách Song Ma.

                    Đang vật vờ thiên linh cái, lập tức hai khối tinh lạc bay vút theo chiều gió rồi đảo một vòng rộng như tìm hướng phát uy lực kia. Chúng xẹt trốc đầu Ngũ Quỷ, khiến Ngũ Quỷ cùng ngửa trông lên, thò tay định chụp, nhưng lão quỷ đã cười sằng sặc, hô:

                    - Không phải đom đóm ma. Cái tinh hai con thịt. Bó giò ướp đông, hai con ma chết rồi, cái tinh nó bỏ chạy đó. Đuổi bắt chơi.

                    Vút vút, Ngũ Quỷ xẹt ngang xẹt dọc, loáng cái mấy khúc xích đã cởi thây Song Ma. Ngũ Quỷ vọt theo hai khối tinh lạc ra phía bờ sông. Hai cái xác Song Ma vẫn chết đứng, vì điện khí "đóng đinh" hút lấy dương điện dưới đất trong khắc xuất hồn mãnh liệt.

                    Hai khối tinh lạc đã rút ra ngoài sông hơn hai con sào, bỗng đảo vụt lại, chừng gặp sức nhân điện của Ngũ Quỷ, hai khối tinh lạc lao thốc xuống nhanh như tên bắn.

                    Đang bắt quyết, đọc chú, Võ Minh Thần không khỏi giật mình lo cho Ngũ Quỷ, vì xem ra Ngũ Quỷ chưa hiểu rõ sức ghê người của khối oan hồn mới thác, nghe tiếng "chú" gọi. Sức nóng tinh lạc có thể đốt chay người, oan hồn chết bất đắc kỳ tử có thể làm hộc máu chết tươi kẻ chọc phá nó mà không có chú quyết giữ vững cung bản mệnh.

                    Ngoài kia, hai khối tinh lạc vừa táp xuống, Ngũ Quỷ rút luôn gươm chém, "rẻng rẻng" cả mấy thanh gươm bị quật ra, bắn tung, cắm cả xuống đất, màu đen cả lưỡi thép. Khối tinh lạc lại hắt vù xuống, lần này có vẻ lạ lùng, lùi xẹt sát bờ. Minh Thần cùng bắt quyết hô giật:

                    - Ma Kinh, Ma Khách! Mau phục lệnh pháp sư!Lạ thay, tiếng quát có một sức mạnh phi phàm, hai khối tinh lạc lập tức đảo xẹt lại nhanh như hai vì sao lạc và đâm thốc xuống chỗ bọn Võ đứng.

                    Ngũ Quỷ ngoắt nhìn theo, ánh tinh lạc sáng rỡ chiếu soi rõ hình ba người đứng sững giữa vùng cành lá lòa xòa. Ngũ Quỷ lại cười rú lên:

                    - Kia có ba con thịt nữa. Bó gió ướp đông. Lại bắt bó gió. Xoảng xoảng, Xích Quỷ nhảy nhót tiến lại, nhưng có lẽ vẫn còn sợ tinh lạc, đến cách mươi thước lại cùng xẹt hàng ngang sát bờ sông, sửng sốt. Vì trong vùng cành lá lòa xòa, sáu con mắt vụt đỏ rực như than tàu lừ lừ dòm ra.

                    Võ Minh Thần, Giao Long Nữ đợi hai khối tinh lạc bay tới gần mới tập trung hết uy lực điện khí, múa tay bắt "quyết" theo bí thuật rừng sau, quát chìm:

                    - Song Ma! Không được phạm thượng. Đứng lại nghe chúa thầy. Oan hồn vất vưởng, chúa thầy cho nương tựa. Bằng nghịch lệnh, chúa thầy đánh tiêu hồn phách, đời đời tịch diệt, không kiếp siêu sinh.

                    Khối tinh lạc bắn vụt xuống, sức mạnh ghê người. Bọn Võ vẫn đứng yên bất động, vững tay ấn quyết. Hai khối tinh lạc bỗng phát tiếng vo vo tựa sáo diều, rồi dừng lại lơ lửng cách độ hai sải, chao qua chao lại, mấy khắc, đứng yên, lập là lập loè như đom đóm. Tay quyết bọn Võ vung lên dữ dội, rung mãi, như đang chống lại bóng vô hình, miệng lẩm nhẩm đọc chú, tay quyết xoắn vào nhau, đan chỉ từng ngón.

                    Đang cơn nguy hiểm, Ngũ Quỷ lại lừ lừ tiến lại, kéo lê xiềng xoang xoảng, cách bốn tám bộ... Ngũ Quỷ đi vòng vào đằng Đông, mắt dòm hau háu, tò mò, chực đưa tay bắt. Quản Kình xoay người, ngầm thủ thế, bảo vệ cho tiểu chủ và Giao Long Nữ. Cả hai người mắt vẫn trừng nhìn tinh lạc, không hề rời tay quyết, bỗng cả hai cùng hét lên mấy tiếng uy mãnh, buông tay đánh "chát" nhát "quyết" tối hậu, quát:

                    - Oan hồn! Mau phục lệnh.

                    Tiếp liền mấy lời chú hô theo khẩu quyết bí truyền của dòng chúa pháp sư rừng như mang theo huyền diệu vào cõi vô hình. Quả mãnh lực thần kỳ, hai khối tinh lạc lập tức dừng phắt lại, đậu lơ lửng đầu cành, rồi bỗng nhiên bé lại, nhỏ mãi, chỉ mấy khắc chỉ còn bằng hai hạt đậu xanh. Văng vẳng trong không gian vật vờ trăng khuyết chợt có tiếng hú kỳ dị nổi lên, như khóc như than, nổi chìm hư hư thực thực, khiến người nhát gan phải rùng mình sởn gáy. Tiếng hú của oan hồn.

                    Ngũ Quỷ Liên Hoàn ngửa mặt nhìn hai đốm đậu xanh lè, có vẻ ngạc nhiên, nhưng chỉ thoáng qua, Ngũ Quỷ không buồn để ý nữa, nhất loạt nhìn bọn Võ Minh Thần. Bà già móm hét:

                    - Còn mấy con thịt này nấp nhìn trộm. Hé hé. Nói chuyện với đom đóm ma. Bắt nó thành đom đóm.

                    - Bó gió ướp đông! Lôi xuống sông tắm mát! Ngũ Quỷ cùng cười rú, dàn hình cánh cung xông tới. Còn cách độ bảy, tám thước tây, rào một cơn gió khuya, âm phong lạnh lẽo khác thường, dưới hai hạt đậu xanh lè chợt hiện lên hai cái bóng đen ngòm đứng lơ lửng dưới không khí. Phảng phất lac lư lòa xòa như sương khói tụ, chỉ mấy khắc đã thu gọn các nét lòa xòa, nổi thêm đậm giữa không khí, có một làn sương trắng vờn quanh, tiếng hú cũng rõ thêm, tuy vẫn mơ hồ như tận cõi xa xăm vọng về. Và khi Ngũ Quỷ xong tới chỗ bọn Minh Thần đứng, hai bóng âm u này cũng theo "ngọn đèn tinh lạc" lừ lừ trôi thẳng tới. Rào cơn gió vờn cành, Ngũ Quỷ, Song Ma gặp nhau giữa giao điểm, cách chỗ ba người đứng hơn hai thước. Đứa con nít và bà già móm trông thấy, cùng hét lên, vung tay đánh chụp, trong khi mấy hình kia xông tới bắt bọn Minh Thần. Đang giữ "quyết" trấn áp oan hồn, lại bị tấn công, bọn Minh Thần cũng chưa thất kinh bằng thấy nhị quỷ bất thần chụp đanh oan hồn, vì chưa biết sự hung tợn của thứ oan hồn vừa uổng tử bị "chú quyết" triệu lên có thể vật chết tươi cả pháp sư non tay ấn, chưa nói đến kẻ khác. Trong cơn khẩn cấp, Quản Kình đã nhanh trí thả vụt ra liền hai luong kình phong chặn Xích Quỷ lại. Và Minh Thần, Giao Long Nữ vội chuyển phăng tay quyết, bảo ấn cho Xích Quỷ, đồng thời vừa đẩy oan hồn ra, vừa hô giật giọng:

                    - Ma Kinh, Ma Khách, không được hại Nam. Lui vào bóng mát đợi lệnh chúa thầy.

                    Nhưng đã muộn. Thấy bóng Ngũ Đầu Nam xông tới, cặp oan hồn dữ, tiềm thức sực nhớ ra hình thù tiền sát trong kiếp sống vừa qua, lập tức nó táp vụt lại, đúng lúc nhị quỷ nhảy lên, chụp đánh, bọn Minh Thần, Giao Long Nữ ra ấn lệnh. Đứng ngoài chỉ thấp thoáng hai khối âm u táp xuống rồi biến mất.

                    Xoảng xoảng, tiếng xích bỗng khua mạnh giữa tiếng hét Ngũ Quỷ nổi dưới trăng, bỗng cả năm khối hình dị một mớ bắn vụt lên cao non hai thước, lộn ngược đầu, tụ thành một chùm kéo lê xích sắt, bay vút ra quật "ùm" xuống sông không khác có bàn tay khổng lồ vô hình quơ một xâu ngóe quăng xuống nước vậy.

                    Vẫn nắm vững tay ấn, bọn Minh Thần nhìn theo, đọc chú, quát lên mấy tiếng dưới trăng, hai ngọn đèn leo lét lại hiện ra với hai bóng âm hồn.

                    - Chúa thầy tạm cho cây cao bóng mát nương tấm u hồn, đợi lệnh! Bằng nghịch lệnh, lộng hành cõi thế, chúa thầy trị tội hồn phách tiêu tan.

                    Chú quyết, thần khí hai người quả uy mãnh. Vừa hô xong, hai hồn dữ Song Ma lập tức cùng hai ngọn đèn tinh lạc bay vút lên ngọn cây cao xế miếu sơn thần, biến mất. Tiếng hú dị cũng tắt theo, chỉ còn hai cái xác không hồn đứng giữa trời trăng sương.

                    Ngay khi đó, Xích Quỷ đã từ dưới sông nhảy vọt lên, hét như sấm. Xích Quỷ chỉ tức bị ném sông, không biết vừa thoát chết hộc máu nhờ sức uy mãnh linh nghiệm của chú quyết. Tạm cầm được hai hồn dữ trên cây, bọn Minh Thần mới thở phào, buông tay quyết. Đêm sông rừng thu lạnh, cả ba mồ hôi lấm tấm, mừng thoát cuoc thử thách gay go. Cả ba lau mồ hôi, vận tinh lực, sóng hàng ba tiến khỏi vùng cành lá lòa xòa, sẵn sàng nhận cuộc thử lửa thứ hai, không đợi Ngũ Quỷ xông tới. Ba người vừa bước ra, thì Ngũ Quỷ Liên Hoàn cũng vừa dưới nước vọt lên. Hai bên đứng dọc bờ sông, cách bờ năm bảy bộ, cách nhau khoảng bốn mươi thước. Đã có mưu kế sẵn, bọn Minh Thần lập tức vận hết sức thôi miên, nhân điện phát lên sáu con mắt vụt trở nên đỏ khé như than tàu. Sáu luồng nhãn tuyến chiếu thẳng vào Xích Quỷ, tia nóng bỏng. Đang hét, Ngũ Quỷ im bặt, cùng giương mắt nhìn, chân bước lừ lừ tới. Bọn Minh Thần cũng lừ lừ tiến lại, càng gần, luồng nhãn tuyến càng đỏ rực, long sòng sọc như đốt da thịt Ngũ Quỷ. Thoắt còn cách hai mươi bộ, rồi mười lăm bộ, bọn Võ cứ đi, nhưng Ngũ Quỷ chợt dừng, cách chừng mười lăm bộ, bọn Võ còn tiến thêm mấy bước nữa mới dừng lại.

                    - Vợ quỷ chồng tiên đầy tơ người, tới đây làm gì? Biết biến không?

                    Cả lũ lại cười. Giao Long Nữ nghe tiếng y kêu, đỏ cả mặt, nhưng đã có chủ ý, cứ làm thinh dòm đứa bé. Lão quái lại lên tiếng hỏi, rồi chợt hô cả đám vào bắt quỷ có nanh, tuy vậy, cả lũ vẫn chưa hết tò mò, chỉ lừ lừ tiến lại gần chút dòm ngó. Võ Minh Thần vụt phát âm trầm:

                    - Chào chư vị quý hữu. Đêm nay gió mát trăng vàng, nước trôi sóng vỗ, rừng núi đẹp như tranh vẽ. Bọn mỗ tới đây để kết bạn vui chơi. Quý hữu an lòng.

                    Xích Quỷ nghe, vẻ thích chí, cười rộ. Nữ lang hét:

                    - Quý hữu! Ha ha! Quý hữu! Êm tai, êm tai. Hình như đã nghe... quý hữu là chi? Chư vị? Gió mát trăng vàng, nước trôi sóng vỗ... Ha ha! Trai tiên nói êm tai.

                    Xích Quỷ cười rộ. Chỉ ngó qua mười con mắt Xích Quỷ, bọn Minh Thần đã mừng thầm, biết Xích Quỷ không hề biết thôi miên thuật. Tuy vậy, trong mình tích điện công, mắt Xích Quỷ cũng rực nhân điện, xanh biếc khí thủy hàn, coi đầy uy lực.

                    Thấy Xích Quỷ không làm dữ ngay, có vẻ tò mò bị sáu con mắt thôi miên, bọn Võ cứ tiếp tục phát uy lưc chiếu nhãn tuyến vào mắt Xích Quỷ. Bỗng đứa con nít khua xoảng xiềng, chớp mắt, cười ré, trỏ hét:

                    - Ba con thịt này ngộ dữ. Ngộ dữ. Một cái mặt tiên, một cái mặt quỷ, một cái mặt người. Ba con thịt đeo ba cái nón.

                    Cả năm cùng cười rộ, rồi lừ đừ nhích lên, ngó thêm kỹ, chừng bộ mặt Minh Thần, Giao Long Nữ làm cả năm có vẻ ngạc nhiên hết sức. Nữ nhân nhìn không chớp mắt nét mặt điển trai của Minh Thần, hoàn toàn tương phản với vẻ mặt xấu xí dữ tợn của Giao Long Nữ làm nàng ta thêm lạ, trỏ vụt tay bảo đồng bọn:

                    - Trai tiên gái quỷ. Coi kìa. Đúng tiên trên núi xuống. Coi kìa. Đúng quỷ dưới đất lên.

                    Cả lũ dòm, bàn tán, có kẻ giục bắt ném sông, kẻ bảo khoan. Đứa con nít trầm trồ:

                    - Coi! Quỷ cái có hai cái nanh chìa. Bắt nhổ hai cái nanh quỷ chơi. Nhưng nữ nhân đã giơ tay ngăn lại, dòm Minh Thần. Lập tức chàng tập trung nhãn tuyến chiếu vào mắt nữ nhân. Giao Long Nữ ngó đứa con nít. Bỗng chàng trai cười thét:

                    - Trước khi xuống nước, các bạn thường nghe "quý hữu" là bạn quý. Bọn mỗ ba kẻ đứng trước mặt đây rất quý các bạn. Ta vui chơi dưới trăng rừng. Ngày nào năm nào chưa xa đâu, các bạn còn ở trên bờ, các bạn cũng vậy, hãy nhớ lại coi. Đêm trăng thanh gió mát, xóm làng phố xá yên vui... gặp nhau cười đùa...!

                    Giọng ôn tồn, uy nghiêm, đầy điện lực, chàng trai đưa dần Xích Quỷ về dĩ vãng, gợi lại nhân tính bằng cách đưa họ vào những hình ảnh xưa nằm trong tiềm thức.

                    Quả nhiên Xích Quỷ bị cuốn theo lời Võ, thỉnh thoảng lại lên tiếng phụ họa theo. Nhưng chàng đang đưa dần họ vào giấc ngủ thôi miên, bất thần bà già móm hét lên the thé, tay khua xiềng, tay vỗ trống long bong:

                    - Trò này không thích. Con thịt này là loài yêu quái, rủ ta lên bộ sống với sài lang. Bắt nó dìm sông như hai con ma vừa rồi.

                    Giao Long Nữ cười thét:

                    - Bọn này đến kết bạn, không phải đến đánh nhau. Trăng thanh gió mát, bầy trò chơi, thích không?

                    Đứa con nít hét:

                    - Quỷ cái có nanh chắc lắm trò lắm phép. Để quỷ làm trò, bắt chúng ném sông sau. Cả lũ nhất trí, nhảy dựng lên có vẻ khoái chí hết sức.

                    Bọn Võ Minh Thần thấy kết quả lòng càng phấn khởi. Giao Long Nữ cất tiếng lanh lảnh hỏi:

                    - Giờ thích trò gì cứ nói. Bọn này thần thông biến hóa, học đủ bảy mươi hai phép huyền công, nhiều trò lắm phép không nhớ nổi. Nội trên trời dưới đất, vũ trụ nằm trong tay, muốn gì cũng được.

                    Ngũ Quỷ ngó cô gái quỷ, ngó nhau, vẻ kinh nghi hết sức, chừng cả đám đều cho nàng có nanh là quỷ hiện hình thật, vì bộ mặt nàng ta, thoạt nhìn, chính thầy trò Võ cũng còn tưởng mặt ma quỷ. Lại nghe nàng nói khoác một tấc thấu mây, khoe học đủ bảy mươi hai phép như Tề Thiên Đại Thánh, Nhị Lang Thần, hai thầy trò càng phát hoảng, nhưng chẳng dám nói ra, chỉ đưa mắt nhìn.

                    Ngay khi đó, đứa con nít vùng hỏi lớn:

                    - Quỷ cái có phép thần thông, phép gì hay nhất, kể nghe? Biết biến không?

                    Giao Long Nữ cười ngất:

                    - Đã gọi thần thông, phép nào chả hay? Hú gió gào mưa, mửa ra sét hét ra lửa, kể sao cho xiết. Đưa người lên động Bồng Lai, ngao du nước Nhược. Cùng tiên tắm nước Ngọc Tuyền, dẫn bạn xuống chốn thủy cung, uống rượu với Đông Hải Long Vương Ngao Quảng, đem nhau lên tận vườn đào Tây Vương Mẫu, coi Tề Thiên Đại Thánh ăn vụng đào tiên, cưỡi xe mây vân du tứ hải, đến gặp Na Tra đi hỏa xa luân lên cửa nhà trời... Ôi chao, kể sao cho hết. Còn như biến hóa chỉ là trò chơi, có gì là lạ?

                    Thầy trò Minh Thần nghe Giao Long Nữ nói một tràng khoe khoang phép Phong Thần, càng phát hoảng. Minh Thần vội tiến lại gần, toan làm hiệu cho nàng ta dẹp ngay trò khuếch đại. Nào dè vừa nghe dứt, cả Ngũ Quỷ đã nhảy nhót reo hò, khoái chí hết sức, nhất loạt hét: "biến coi, biến coi".

                    Điềm nhiên, Giao Long Nữ hất hàm:

                    - Biến hả? Nhưng thích xem biến từng người, hay biến cả ba một lúc?

                    - Cả ba! Cả ba một lượt!

                    Giao Long Nữ dõng dạc:

                    - Được! Bọn này sẽ cho xem phép thần thông biến. Nhưng phải đứng cách ba mươi bộ mới được.

                    Ngũ Quỷ đồng thanh hét "đứng xa", rồi lập tức nhảy vút ra đúng ba mươi bộ. Giao Long Nữ hất hàm bảo thầy trò Võ:

                    - Nào! Đại huynh! Giờ trổ phép màu cho Ngũ Đầu Nam biết tài tiên thánh động Thanh Âm.

                    Nghe nàng hô lúc đó hai thầy trò Minh Thần mới sực nhớ tới "phép" ẩn thân của bà chúa ngàn dạy, cả hai suýt phì cười, phải làm mặt nghiêm cùng nàng trổ "phép lạ".

                    Giao Long Nữ đưa mắt làm hiệu, cả ba ngầm vận băng công. Cô gái vụt trỏ ra giữa dòng bảo Ngũ Quỷ:

                    - Mau nhìn ra kia! Gầm giang nước chảy... sẽ có chuyện thần thông. Ngũ Quỷ nhất loạt dòm theo tay nàng trỏ, vẻ háo hức như con nít sắp được coi trò ảo thuật. Không chậm trễ, Giao Long Nữ vùng đọc một tràng thần chú, đến câu "thần phục vọng tôn sư, xác phàm mau bi... ế... ến" cả bọn lập tức xẹt mấy phía, bấm tách ống khói mù trong mình, đồng thời vùng khai huyệt đạo, phát tiết khí hàn băng. Khói mù xì hơi, hơi lạnh trong người toát ra như sương mờ. Chỉ trong nháy mắt, quanh mình đã có một làn khói mờ bao kín, coi như một đám sương mù, chẳng còn thấy bóng hình đâu nữa. Càng may cho ba người, đêm đó sông rừng vào đo thu trọng, về khuya, mặt sông, mặt đất có nhiều sương lam, khí núi vẩn vơ từng khóm là là, nên mấy khóm hơi mù nhân tạo cũng một màu với sương trời, hòa vào nhau trông rất tự nhiên.

                    Giao Long Nữ phát cười. Ngũ Quỷ nhất loạt xoay mình lại. Và cả năm cùng sửng sốt thấy ba người đã biến mất. Đứa con nít hét:

                    - Ma quỷ! Ma quỷ! Rõ vừa đứng ca đây. Nữ nhân trợn mắt kêu "biến đâu rồi". Cả đám xôn xao quay nhìn tứ phía. Chỗ này bãi sông khá rộng, thưa thớt một vài cây cao bụi thấp, ánh trăng chiếu tỏ mồn một, chỉ thấy hai cái xác Song Ma vẫn còn đứng sững đó. Bà già móm hét:

                    - Nó trốn lên cây? Nó chạy vào rừng? Cả lũ kéo lê xích sắt, chạy tứ phía sục tìm. Bọn Minh Thần đứng trong sương mờ nghe tiếng xích khua, dạt tránh, di động cả khóm sương, coi càng tự nhiên.

                    Đợi Ngũ Quỷ chạy vào gần miếu, Giao Long Nữ vùng gọi lảnh:

                    - Quý hữu vào đó kiếm ai? Bọn này vẫn đây mà. Nghe gọi, Ngũ Quỷ xoay mình lại, nhìn ra, vẫn chẳng thấy ai, cả lũ chạy bổ ra, ngơ ngác kêu "gái quỷ trai tiên đầy tớ người, ba đứa là ma quỷ". Giao Long Nữ ho lên một tiếng, xuất kỳ bất ý, cả bọn bế huyệt, đoạn công, đóng ống khói, nhảy vọt từ đám sương ra, đứng lù lù bên cạnh xác Song Ma, ngay sau lưng Ngũ Quỷ.

                    Thấy cả năm vẫn dáo dác dòm các tàn cây bụi cỏ, Giao Long Nữ phủi bay mấy sợi sương mờ còn vương quanh mình, cười khà:

                    - Bọn này đây mà, tìm đâu nữa?

                    Xích Quỷ quay phắt lại, giật mình, thấy cả ba hình đứng sững. Xích Quỷ lùi lại, kêu lên, rồi nhất loạt cười thét, khua xích loảng xoảng:

                    - Ma quỷ biết biến, trò này hay dữ. Hay dữ. Phải bọn ngươi là quỷ? Đứa con nít coi bộ thích chí nhất, nó dịch lại dòm tận mặt, cười tít mắt:

                    - Trai tiên vợ quỷ trò hay. Phép biến này không phải quỷ. Học được không?

                    Biết nó đã mê trò, Minh Thần dịu bảo:

                    - Học được! Trò này chưa hay, còn nhiều trò khác, coi thích mắt hơn.

                    Cả đám nhao nhao hỏi "trò gì". Giao Long Nữ hô lớn, tay trỏ Ngũ Quỷ dạt ra bờ sông:

                    - Coi đây! Biết bảo bối gì đây không? Soạt! Nàng ta lôi trong người ra cây "Lôi Phong kỳ" đen sì, phất phất nhẹ trước mặt Ngũ Quỷ Liên Hoàn. Ngũ Quỷ dòm, cùng bảo "lá cờ". Giao Long Nữ dõng dạc:

                    - Phải! Lá cờ! Nhưng không phải cờ thường của thiên hạ vẫn dùng. Đây làcờ phép, vẫn dùng để trấn "cửa nhà trời", xưa đã đốt Tề Thiên Đại Thánh trong lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân. Cờ này do bà Ngũ Hành nương nương chế ra gọi là "Lôi phong thủy hỏa tru tinh kỳ", nói nôm là "cờ sấm sét, nước, lửa, gió để trị các loại tinh ác". Cờ này còn lợi hại hơn cả cây quạt Ba Tiêu của Thiết Phiến công chúa vợ của Ngưu Ma Vương xưa, chính Ngũ Hành nương nương ban cho đó.

                    Ngũ Quỷ ngó lá cờ đen, vẻ tò mò nghi hoặc, hình như trong bầy chỉ có lão quái, bà móm là nhớ mang máng những tieng "Ngũ Hành nương nương, Thái Thượng Lão Quân...". đã có nghe từ đời nào rồi. Đứa con nít háo hức hét:

                    - Làm trò đi! Làm đi! Nói nhiều không thích. Giao Long Nữ lập tức xẹt đứng xế ngang trước bụi cây hồi nãy ba người nap, ngấm ngầm vận kình lực, hô lên một tràng lanh lảnh như đọc chú, đến bọn Minh Thần cũng không hiểu nàng ta đọc thứ tiếng quái quỷ nào. Dứt tiếng quát, nàng ta phất vụt lá cờ ra, phất lia liền mấy cái. Ào ào, cuồng phong đánh ra, cành lá ngả nghiêng gãy rắc, ngã rạp xuống. "Bùng bùng", "đoàng đoàng" đạn phá bắn ra, tiếp theo từng khối lửa từ lá cờ phụt ra bắn vào khóm cây đến "bùng" tiếng lớn, lửa bốc thành một khối lớn trùm ca khóm cây bụi cỏ, rộng đến gần ba thước, cao đến bốn thước, lửa gặp gió cháy rần rần, chỉ trong chớp mắt, cả một cây lớn đã thành "cây lửa" cháy bừng bừng coi rất lạ mắt. Đến thầy trò Minh Thần cũng phải ngạc nhiên vì lửa bốc nhanh ngoài sức tưởng tượng của người. Cây cờ lạ này Võ đã biết vốn được chế rất tinh vi, cộng thêm kình lực của Giao Long Nữ, tuy có lợi hại hơn hồi tử chiến với thuồng luồng tinh, nhưng không thể đốt bùng cả một khóm cây trong nháy mắt. Nhưng nếu hai người lại biết khi nấp đâu đó, Giao Long Nữ đã có chủ ý nên đã bí mật rắc chất dẫn lửa đặc biệt vẫn mang trong người, chắc cả hai không còn ngạc nhiên nữa. Ngọn lửa cháy đùng đùng. Cô gái quỷ dừng tay, cuốn luôn cờ dắt vào người. Ngũ Quỷ Liên Hoàn thấy cờ phất hô kỳ phong sấm sét, lửa cháy, phục sự uy mãnh ngoạn mục, cả năm trố mắt nhìn. Kịp khi cô gái dừng tay, lửa bốc ngụt thành "cây lửa" soi sáng cả một khu sông đêm, Xích Quỷ càng khoái chí, nhảy ùa lại, chạy quanh cây lửa, nổi luôn kèn trống, ống địch, lá cây, vừa nhảy múa vừa cười rú, vừa ca hát líu lo coi như một bầy quái vật đang mê say trình diễn vũ khúc phi phàm dưới "cây lửa ma".

                    Bọn Minh Thần thấy thế, mừng hết sức, không ngờ mấy trò quỷ thuật lại thành công đến nước đó. Rõ ràng trò quỷ đã kéo dần tâm hồn lũ quái nhân ra khỏi "vùng cảm giác phi nhân đầy lãnh khí" và nhân tính, lý trí con người dần trở lại. Ngũ Quỷ đang dần vào nhiệt khí. Vì đời sống quá thiên về độn thủy, tháng năm lặn hụp khắp sông hồ thăm thẳm cách biệt thế giới loài người trên bộ, chính đời sống trầm hà này với những luồng nước chảy, âm thanh, cảnh trí, màu sắc, các loài thủy tộc, chính cái "thế giới dưới sông hồ" đã đe bẹp, bôi xóa dần nhân tính.

                    Tuy cũng có lên mặt đất, nhưng lên rất ít, lại toàn lên những miệt sông rừng hoang dã, khuất tịch nên những phút lên bộ này cũng chỉ hun đúc thêm lòng cô độc xa lạnh, ghét bỏ, nghi kỵ loài người. Cuộc sống nhởn nhơ dưới đáy sông biến đổi dần cơ thể tâm hồn Ngũ Quỷ cũng chẳng khác rừng hoang đã làm biến đổi dần hình thù những kẻ ngậm ngải tìm trầm mất thuốc giải, lạc đường thành con Chàng Niên vậy.

                    Bọn Ngũ Quỷ cứ say sưa múa hát theo nhịp trống đầu lâu, kèn lá, như quên cả bọn Minh Thần đứng đó. Mãi lúc cả tàn cây lớn cùng khóm cây cỏ thấp dưới gốc đã cháy rụi thành cây than hồng đỏ rực, lửa tắt, Ngũ Quỷ Liên Hoàn mới dừng lại.

                    Đứa con nít vẫn còn mê, múa may, cười thét:

                    - Làm nữa! Làm nữa! Gió to, sấm nổ, sét đánh, lửa cháy đùng đùng, vui ghê.

                    Cả lũ nhất loạt hò reo, giục. Giao Long Nữ xua tay, lắc đầu:

                    - Phất chơi một lan đã có tội rồi. Làm lần nữa, Thiên Lôi đả chết. Cờ này chỉ để tru tinh. Phất cái thành than hết. Còn nhiều trò hay nữa.

                    Vừa nó, nàng ta vừa làm hiệu sét đánh, cố ý dọa khéo Ngũ Quỷ. Nhưng xem chừng lũ này không ai để ý, chỉ mải nghĩ đến trò hay, cả năm nhất loạt hò reo đòi xem trò.

                    Quản Kình bỗng ngửa mặt trông trăng khuyết, chép chép miệng:

                    - Trò hay cũng chẳng thích bằng rượu thịt. Đêm khuya sương lạnh này, nhắm rượu với thịt nướng thật khoái.

                    Xích Quỷ hít hà. Lão quái kêu lớn:

                    - Thèm rượu! Thèm rượu! Đi kiếm. Đi kiếm. Bắt con cá nướng cây than. Bà móm vùng hô:

                    - Ăn cá chán mồm! Bắt con thịt kia đem nướng. Miệng nói, tay trỏ phăng vào Quản Kình, lăm le xông lại.

                    Kình nhe răng cười, xua tay:

                    - Thịt mỗ dai như đỉa đói, nuốt vào không tiêu. Mỗ có đem rượu thịt đây, quý hữu có uống, mỗ đãi một bữa, uống xong xem trò.

                    Ngũ Quỷ thích chí nhảy dựng lên. Quản Kình có mang theo mấy bầu rượu thật ngon, lập tức chạy tới bụi rậm phía Nam, lấy xách lại với hai cái đùi nai lớn, loại đùi sau, mỗi đùi cũng tới mười lăm ký.

                    Chú ta đặt gần cây than còn đỏ rực, vẫy gọi:

                    - Nào quý hữu! Lại đây uống chơi. Rượu này ngon nhất thiên hạ, uống vào khoái như uống rượu tiên. Ngũ Quỷ dòm nhau, rồi kéo ùa lại, đứng cách bọn Minh Thần năm, bảy bộ. Bọn chàng rủ ngồi, Xích Quỷ không chịu, hô "uống nhảy", "nhảy uống".

                    Ba người có ba bầu rượu, mới đem ra ba. Bèn cùng nhau rót đầy ca sắt tiến lại trao Ngũ Quỷ. Để tỏ lòng ngay, cả ba cùng nếm trước rồi mới đưa. Ngũ Quỷ thò tay cầm lấy ca rượu, uống một hơi cạn sạch.

                    Quản Kình bỏ đi nướng thịt nai.

                    Than đỏ rực, loáng thịt đã chín. Kình chặt hai cành nhọn, cắm hai cái đùi thịt nướng trước mặt Ngũ Quỷ. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ luôn tay rót rượu mời "quý khách". Bọn này uống mỗi kẻ hai, ba ca rượu, tới ca thứ tư, bỗng cả năm rút soạt gươm, xỉa vụt vào đùi nai. Bọn Minh Thần đứng cách "cây thịt" non thước, ngó theo mũi gươm, cả ba cùng giật mình, lòng thầm phục. Vì thủ pháp sử dụng gươm thật tài tình, gươm mỏng mảnh, dài như kiếm Tây, đâm ra một nhát rung bần bật, ba người thấy cây thịt vẫn không động đậy. Lưỡi gươm rung một hồi độ mươi giây, hai cái đùi nai đa mòn vẹt, chừng cả năm dừng tay, dòm lại, mỗi mũi thép đã xâu gọn hàng ba mươi miếng thịt mỏng, to bằng bàn tay.

                    Bọn Võ Minh Thần bất giác rúng động tâm thần, đưa mắt cho nhau. Vốn tay kiếm giỏi, cả ba chỉ ngó qua đường kiếm xỉa đã hiểu ngay Ngũ Quỷ Liên Hoàn đều là tay kiếm khách kỳ tài, chỉ rung một hồi đã vừa xẻo vừa xóc hàng mấy chục miếng thịt. Nếu là cuộc chiến, năm mũi thép rung kia sẽ thừa sức thần tốc đâm chém hàng chục nhat trong chớp mắt.

                    Ba người còn đang âm thầm rượt sẵn thế phá, đã thấy Xích Quỷ vít cong mũi gươm, táp thịt ăn ngấu nghiến, coi ngon lành còn hơn thú dữ táp mồi. Ăn hết xâu thịt, lại nốc từng ca rượu, cả năm đều uống khoe, nhưng xem chừng chú bé, nữ nhân và bà móm là tay ẩm thực dữ hơn cả.

                    Hai bên đứng dàn ngang. Võ Minh Thần đối diện nữ nhân và đứa bé, chàng trai thường rót rượu cho hai quái nhân này, vì cả hai luôn đưa ca ra, có lần Giao Long Nữ tiện tay cầm bầu rượu rót, nữ nhân có vẻ không thích, giật luôn ca về, chĩa sang phía Minh Thần. Mỗi lần rót rượu, nhìn ánh mắt, Minh Thần thấy hai cặp mắt biếc lạnh như băng đã thoáng ẩn hiện ánh dịu dịu khôn khôn đỡ man dại nhiều, nếu không muốn nói là "có tia thiện cảm với trai tiên", ánh mắt phảng phất nữ tính. Minh Thần thay thế, trong lúc đối ẩm, chàng không quên vận nhân điện thôi miên vào cặp mắt, nhìn nàng ta chòng chọc để thử đưa nàng vào "giấc ngủ thôi miên" khơi dần nhân tính.

                    Nhưng hai con mắt nàng ta cũng như mắt đứa bé kia, tuy không có thuật thôi miên mà điện tuyến lại hết sức mạnh mẽ, cứ ngó trừng trừng, không bị "ru ngủ" dễ dàng. Tới lúc bắt đầu có kết quả lại bị đồng bọn xen vào phá hỏng. Ngũ Quỷ không chịu đứng nguyên chỗ, rượu được vài tuần lại vừa xẻo thịt ăn uống, vừa nhảy nhót ca hát líu lô quanh hai cái đùi nai nướng.

                    Loáng đã hết sạch rượu thịt. Xích Quỷ vẫn còn thèm thuồng. Cặp già chụp luôn hai cái đùi nai gặm, hét inh ỏi:

                    - Bữa rượu này ngon. Đang ngon hết rượu thịt. Đi kiếm. Đi kiếm. Cả năm rượu mới ngà ngà, nhất tề rủ nhau tìm uống nữa. Có lẽ vẫn mò vào các bản Thổ vét rượu, cả lũ cùng trỏ vào cánh rừng, sau tiếng hét "trong kia, trong kia" rùng rùng định bỏ đi.

                    Quản Kình hô lớn:

                    - Còn rượu. Còn rượu. Rượu này ngon hơn. Muốn uống, bọn này đãi nữa.

                    Xích Quỷ khua xiềng reo hò inh ỏi. Nhưng khi Quản Kình chạy vào bụi, bê hai bầu rượu đầy ra, đứa bé lại vùng hét to:

                    - Còn rượu hết thịt, uống vào đói. Đi kiếm con thịt về uống. Bà móm cười rộ:

                    - Có con thịt rồi, còn kiếm đâu nữa? Con thịt ôm rượu... kìa. Con thịt này mập!

                    Vừa hét, bà già quái này còn trỏ phăng vào Quản Kình, làm cả bọn sửng sốt. Ngũ Quỷ dòm "con thịt", chẳng rõ kẻ nào hô lẫn tiếng xiềng khua "bó giò". Quản Kình ôm rượu đặt xuống mặt cỏ, nhe răng cười, xua tay:

                    - Thịt này thịt người dai như cao su, nhai vào mỏi miệng. Rượu ngon này uống đủ rồi. Võ Minh Thần cũng lớn tiếng phụ họa. Nhưng trong Ngũ Quỷ vẫn có hai, ba kẻ đòi thịt.

                    Bọn Võ đang bối rối, chỉ lo Xích Quỷ bỏ đi. Giữa cơn sinh tử, may sao đúng trời xui đất khiến, thình lình từ cánh rừng sau miếu bỗng nghe có tiếng "hoăng hoăng" vang vọng đêm trường.

                    Giao Long Nữ vụt reo: "Hoẵng! Có hoẵng! Để tôi đi bắt". Dứt lời, xốc áo toan vọt vào rừng. Bỗng lại nghe "cà uôm, cà uôm", tiếng cọp gầm vang động sơn lâm, rồi từ phía rừng trăng sương, thoáng có bóng một con hoẵng lớn cuốn vó vểnh sừng chạy vùn vụt ra phía bờ sông.

                    Con vật hoảng sợ lao xế qua hồi miếu, đâm sầm vào chỗ Ngũ Quỷ đứng, còn cách năm, bảy thước, nó mới sực trông thấy bóng người đứng lố nhố, lập tức nó kêu ré lên, chạy xé vòng qua chỗ bọn Minh Thần đứng.

                    Bà già móm đứng xế trong nhảy vèo tới vồ, hụt. Con hoẵng nhanh như tên bắn, thoắt đã vòng ra hàng hai mươi thước, phóng ra phía bờ sông. Sau lưng nó, lại có hai con cọp mộng rượt theo như hai cơn lốc dữ.

                    Nhanh như điện, Võ Minh Thần xoay mình theo, thả vụt liễu dao đúng lúc nó xẹt qua gốc cây. Phập! Ngọn dao xiên qua cẳng lôi cả con hoẵng cắm dán vào gốc cây. Lần này chàng không thu dao lại. Quản Kình chạy vọt tới bắt con hoẵng đang vùng vẫy không thoát nổi.

                    Ngay khi đó, hai con cọp mộng lông vằn cũng vừa từ sau miếu phóng ra. Đang rượt con mồi, sực thấy bóng người lố nhố dưới trăng, hai con mãnh thú dừng phắt lại, gầm gừ, lựa thế vồ tạp. Xích Quỷ vụt xoay hàng ngang chặn lối. Nữ lang hét "hai con thịt này cũng ngon". Cả năm lừ lừ tiến lại. Chợt nảy ý, Giao Long Nữ vùng hô lảnh:

                    - Khoan! Đã có thịt hoẵng ngon rồi. Chớ giết hai con thú dữ này. Có trò hay. Trò hay. Ngũ Quỷ cùng quay nhìn sang. Bất ngờ hai con cọp vằn quất đuôi, nhảy vụt lại, tát véo véo nhanh như hai con cắt. Minh Thần hô "coi chừng", nữ lang, đứa bé ngó lại, hụp tránh, vuốt cọp tát sạt mặt.

                    Hai con thú vừa hạ chân xuống, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ đã nhảy vèo lại, chặn trước mặt. Chúng bỏ Xích Quỷ, quay sang gầm gừ bọn Võ. Xích Quỷ ùa lại toan đánh giết. Giao Long Nữ vội hô:

                    - Đừng giết, để làm trò. Bọn này làm trò xem chơi.

                    Nghe nói "trò hay", Xích Quỷ khoái chí dừng lại.

                    Minh Thần, Giao Long Nữ giở luôn bí thuật rừng thiêng ra thâu phục mãnh thú trước mặt Ngũ Quỷ. Cả hai dùng "Mê hồn công" làm chúng đứng ngây, nhưng vừa được giải chúng lại xông tới. Cả hai lập tức hú lên một tràng âm dị vang động bờ sông, khiến Ngũ Quỷ cùng ngạc nhiên trố mắt dòm. Chỉ một đòn quần thảo chớp nhoáng, cùng bí thuật truyền âm thú, hai con cọp mộng này đã chịu cúi đầu khuất phục cặp trai gái dòng chúa ngàn này. Không đầy năm phút, và trước những con mắt lạ lùng của Xích Quỷ, bọn Minh Thần bắt luôn hai con cọp há mõm nanh lởm chởm như răng bừa, cả hai đút cả nửa đầu vào "gọng kìm" nhọn hoắt.

                    Hai con vật vẫn há hốc suông, không đớp. Bọn Võ nhảy tót lên lưng, biểu diễn mấy vòng. Xích Quỷ thích chí cười ré lên:

                    - Trai tiên gái quỷ hay dữ. Chơi với cọp, cọp không ăn thịt. Hai người hú âm sai cọp làm vài cử chỉ như sai người, bảo Ngũ Quỷ:

                    - Đây là đôi vợ chồng cọp! Nãy chúng tát quý hữu, giờ xin tạ tội và dâng con thịt làm vật chuộc tội.

                    Nói đoạn cả hay nhảy xuống, hú mấy tiếng hiệu, lập tức hai con cọp này lù lù bước lại trước mặt Ngũ Quỷ phục xuống gật đầu lia lịa, lại lấy chân trước tát vào mặt chúng như tỏ vẻ ăn năn làm Ngũ Quỷ khoái chí cười ré lên, cũng gật đầu lia lịa.

                    Tạ lỗi xong, hai con cọp quay ra. Quản Kình thả con hoẵng, con này tập tễnh phá chạy, hai con cọp vụt theo vồ nghiến, cõng luôn lên vai đem lại "dâng" Ngũ Quỷ.

                    Ngũ Quỷ thích chí cười sằng sặc, nhất đứa bé, nữ lang, hai quái khua xiềng loảng xoảng, hét:

                    - Trò này hay! Cọp biết lạy chào, cọp khôn hơn cá. Tối nay mấy giống trên bộ làm trò vui quá. Nào. Nướng con thịt này uống rượu mau. Cho hai con cọp vợ chồng này ăn nữa.

                    Rắc rắc, cả hai bẻ nghiến cặp sừng. Quản Kình hô "để đây làm thịt, nhanh lắm" và giơ tay đỡ lấy con hoẵng hóa kiếp, lột da, quạt cây than nướng, mùi thịt mỡ thơm lừng. Kình vốn tay thạo làm heo, mổ bò, ngả cầy, làm thịt hoẵng rất mau, bỏ hết bộ lòng, phút chốc đã xong.

                    Võ Minh Thần sai chặt hai đùi trước cho hai con cọp, đoạn hô to:

                    - Nào! Mời các quý hữu vào..."tiệc". Không hề biết làm khách, Xích Quỷ keo ùa lại, tiếp tục ăn uống như long cuốn thủy. Vừa ăn vừa nhảy múa ca hát líu lo, chừng lâu lắm mới được bữa tiệc với người trên bộ. Bọn Minh Thần chỉ uống cầm chừng. Nhiều lần gợi chuyện để đưa dần Xích Quỷ về bản tính người, nhưng Xích Quỷ chỉ ăn uống nhảy múa ca hát, không chịu chuyện mấy.

                    Chỉ có nữ lang và đứa bé đôi khi cũng bắt chuyện một vài câu nhát gừng, không mạch lạc, rồi lại quay ra nhảy múa. Chừng như chỉ có nhởn nhơ lặp hụp, nhảy nhót hát xướng, uống rượu ăn thịt là lôi cuốn được tâm hồn họ, thêm những "trò vui" lạ mắt nữa.

                    Tuy vậy, trong cuộc đối đáp, Minh Thần được biết lờ mờ vài điều đặc biệt, như Ngũ Quỷ đều là những nhân vật khác người, sinh ra lớn lên giữa vùng trời nước, "có máu thích nước" như các loài thủy tộc, vì chuyện nào đó đã kết bè kết chùm với nhau không rời, xa lánh loài người, sống đời cá nước nhởn nhơ khắp các sông hồ thượng du, lâu dần đổi tính chất.

                    Càng nhìn tay kiếm Xích Quỷ xẻo lóc thịt, bọn Minh Thần nghĩ tới cái chết "tự nhiên" như không của Song Ma, lòng càng phát ớn. Cũng may trước khi "hạ sơn" tìm Ngũ Đầu Nam này, mấy người đã được bà chúa động Thanh Âm nghiên cứu và truyền cách đối phó thu phục Xích Quỷ sẵn, nên cả ba bình tĩnh đối ẩm với năm "quái nước" này.

                    Vừa uống cầm chừng, vừa quan sát tay gươm họ, phòng ứng chiến. Vì điều khó khăn của bọn Minh Thần không phải là dùng hết sở học, võ công bí thuật để giết Ngũ Đầu Nam mà là cố sao khuất phục được Nam bằng mọi cách, sao cho Nam chịu truyền dạy nghề bơi lội, lặn hụp độn thủy dưới đáy nước như loài cá.

                    Nhân lúc Ngũ Quỷ đang mải say sưa ăn uống, ca hát nghêu ngao, Võ Minh Thần dùng tiếng lóng riêng bảo hai người:

                    - Xích Quỷ gặp người thường giết ngay. Coi cái chết thảm của Song Ma đủ rồi. Nhưng nãy giờ lại chịu đối diện với bọn ta, chưa làm dữ, kể như ta thành công được một nửa rồi. Xem ý trong Ngũ Quỷ này, nữ lang và đứa bé lại bị ảnh hưởng nhiều nhất. Hai kẻ này xem ý khoái xem quỷ thuật, đã có cảm tình với bọn ta, ta sẽ tùy cơ ứng biến. Vạn nhất có đấu chiến, nhớ kỹ: Nhất ngũ-ngũ tam- tam nhất-tứ nhị- nhị tứ- ngũ tam- tam ngũ- hoàn nguyên vị.

                    Giao Long Nữ gật đầu:

                    - Nhớ! Dọc hàng một kia, bắt đầu vào thế chiến Liên Hoàn. Ngũ Quỷ vây quanh địch thủ theo hình ngũ giác một, hai, ba, bốn, năm. Đứa bé số một, nữ lang số hai, lão quái số ba, chàng trai số bốn, bà móm số năm. Khởi cuộc, ngũ diện đồng công. Nếu không "ăn" mới đổi phương vị. Đứa con nít số một vừa đánh vừa chuyển sang chỗ bà móm số năm gọi Nhất Ngũ. Lão quái số ba chuyển sang chỗ đứa bé số một gọi Tam Nhất. Chàng trai số bốn đổi nữ lang số hai gọi Nhị Tứ. Bà móm đổi sang số ba gọi Tam Ngũ. Lão quái đổi sang chỗ bà móm số năm gọi Tam Ngũ. Như vậy là hết một đòn, hoàn nguyên vị. Vị đây không phải vị trí cũ, mà là phương vị tính theo một, hai, ba, bốn, nam. Cứ thế liên miên, vừa đánh vừa đổi chỗ, đồng loạt di động, ngũ diện đồng công.

                    Quản Kình tiếp:

                    - Trong lúc di chuyển, vòng qua sườn địch, tự nhiên đã gài địch vào thếxích liên hoàn để lòng thòng dưới đất. Nếu địch gỡ được thế ngũ diện đồng công, lại có thể mắc vào xích liên hoàn. Hết một hồi, chuyển chỗ, Ngũ Quỷ chỉ cần xẹt vụt ra năm phía, hoac giật mạnh tay xích thu ngắn, đồng thời nâng lên là địch thủ bị xoắn nghiến, trói chặt lại rồi. Vậy nếu đứng quanh quẩn giữa vòng thọ địch, nháy mắt sẽ bị gài vào thế hiểm. Nên lâm chiến, lập tức phải lựa chiều đánh sấn vào một trong năm quỷ ngay khi y vừa xẹt vòng lại tấn công và lướt đi đổi chỗ. Nếu dùng kiếm gài được y hoặc dùng Nhu đạo hay món vật Việt Nam vừa quật y vừa vọt ra ngoài vòng càng tốt. Nếu không cũng phải cố sấn theo hướng y di chuyển, chân phải dẫm ngoài đường xích lê dưới đất, vừa đánh gạt các đường kiếm khác vừa kiếm thế vọt ra ngoài. Thật nhanh. Tối kỵ đứng trong vòng lâu và phải tìm cách nào tránh thế ngũ diện đồng công liên hoàn của họ.

                    Minh Thần gật đầu:

                    - Đúng! Nhưng còn điểm quan hệ này phải nhớ thật kỹ: Chớ bao giờchém đứt xích của Ngũ Quỷ. Họ có lời nguyền độc địa xích liền gắn bó nhau năm thành một, lặn hụp nhởn nhơ dưới nước suốt đời. Nếu chém đứt xích không khi nào còn mong họ truyền nghề "độn thủy" nữa.

                    Ba người bàn luận, bỗng bà móm vừa chặt đứt một cái đùi gặm nham nhở, vừa nhai nhồm nhoàm hét:

                    - Hé hé! Trai tiên gái quỷ nói tiếng chi nghe như ma kêu quỷ nhái? Không nói tiếng âm ty. Nhảy múa! Nhảy múa!

                    Lập tức cả đám reo hò inh ỏi sấn lại. Nữ lang thò cánh tay trắng muốt đến rợn người nắm luôn lấy tay Võ Minh Thần, rung xiềng nhảy như điên. Mấy quái kia cũng vậy. Giao Long Nữ bị chàng trai lôi. Quản Kình còn đứng ôm bầu rượu ngơ ngác bị bà móm túm lấy hét "con thịt người này nhảy múa với tao" và lôi chú ta đi xềnh xệch.

                    Cả bọn không khỏi phát hoảng, chỉ sợ Ngũ Đầu Nam nổi tính dữ bất tử, lừa ra đòn "làm thịt" như Song Ma vừa rồi. Nhưng cự tuyệt không tiện, ba người đành phải hùa theo, trong ngầm vận lực, bế huyệt sẵn phòng bất trắc.

                    Nhưng quả Ngũ Đầu Nam không hề biết đánh lừa, quắt quéo như người trên bộ. Cả năm nhảy múa ca hát vang lừng, lôi bọn Minh Thần theo nhịp bước, mồm Xích Quỷ vừa nhai thịt nướng bóng nhoáng mỡ, vừa nổi nhịp kèn trống bập bùng, dưới trăng xiềng khua loảng xoảng, trống đau lâu hoa cái, địch ống xương tay phát âm quái gở, coi không khác tám con quỷ dưới âm ty mò lên vờn điệu vũ phi phàm.

                    Có điều ớn là bàn tay Xích Quỷ đều lạnh như bàn tay ma. Tượng đồng cũng không lạnh bằng. Thoạt đầu bọn Minh Thần lại tưởng Xích Quỷ dùng hàn băng công hại mình, sau mới hay đó là cái lạnh tự nhiên của loài máu lạnh.

                    Nữ lang nắm tay Minh Thần dưới cánh tay thật đẹp, tròn như khúc rắn, da mịn màng, nãy giờ lên bộ đã khô, mười đầu ngón tay tháp bút xinh lạ, nhưng lạnh như đồng, tưởng không còn tí máu nóng, nhân điện nào trong, khiến chang trai có cảm tưởng như đang nhảy nhót với một con ma cái, hồ ly nào. Trong cơn say vũ khúc, hai con mắt biếc của nàng ánh rõ nét đam mê man rợ thật quái gở, coi như áng mây giao hoan, làm chàng trai bắt rùng mình, chực giat ra.

                    Tuy vậy, chàng cũng cố gắng làm mặt gan, cứ nhảy, liếc sang chỗ Giao Long Nữ đang bị chàng trai túm nhảy múa cũng vậy. Cô gái kỵ đàn ông đang cố chịu đựng, nàng nghĩ tới mối thù song thân chưa báo nổi. Đến Quản Kình coi càng thảm, y cao lênh khênh, bị bà móm, có khi cả đứa bé lôi kéo nhảy nhót như đánh đu lên người y, y phải cúi khom mình cho vừa tầm, mặt mày nhớn nhác, hai mắt láo liên, mồ hôi vã như tắm. Đến nỗi cảnh đang nghiêm trọng mà Minh Thần, Giao Long Nữ ngó thấy cũng muốn phì cười ái ngại.

                    Cả bọn cố bấm bụng tham dự vào "vũ khúc phi phàm" nửa như nhảy "ôxoè Thái, nửa như "vông" Lào, phần như lên đồng, múa hầu dâng, múa bài bông, phần lại như nhảy đầm, chẳng còn ra lề lối nào cả. Tuy vậy, qua vài nhịp tiến thoái, bọn Minh Thần vốn sống lâu ngày tại miền núi, lại phiêu bạt nhiều xứ cũng khá thạo về môn vũ, cả ba không khỏi lấy làm lạ vì nhận ra vu khúc quái gở của Xích Quỷ này cũng có đủ nhịp nhàng sống động, biểu hiện đúng cảm xúc lâng lâng man dại giữa cảnh sông rừng hoang vu.

                    Loáng, rượu thịt hết sạch, Bà móm, lão quái, đứa con nít giật phanh thây con hoẵng nướng trơ xương, kẻ cầm đùi, kẻ xách cái đầu gặm nhồm nhoàm, nhai rau ráu, cười hét vang lừng. Bất thần Xích Quỷ ré lên, nữ lang giật cái đầu, đứa con nít và bà móm cầm đùi tống đại vào mồm bọn Minh Thần hét "gặm nốt, gặm nốt, nhường ngươi", cả lũ giật phăng bầu rượu, ngửa cổ tợp nốt chút cặn thừa. Bọn Minh Thần vờ gặm mấy cái, rồi đồng loạt ném cho hai con cọp mộng. Đứa con nít quăng bầu, hét:

                    - Vui quá! Vui quá! Bảo bọn cọp làm trò, làm trò! Cả đám quăng bầu dừng lại. Hết vũ phi phàm, bọn Minh Thần thở phào, mừng như trút được cả ngọn Phi Mã trong mình, nhưng nữ lang vẫn nắm tay

                    Võ không dời; ánh mắt nàng ta xanh biếc long lanh, phảng phất vẻ say sưa thích chí lạ. Minh Thần vội nói lớn:

                    - Cọp làm trò không hay. Sâu bọ rắn rết dơi dơi làm trò mới lạ. Để mỗ cho coi nào.

                    Đoạn nhè nhẹ rút tay khỏi "bàn tay đồng", chàng trai cùng bọn Giao Long Nữ lui ra xa chừng mươi lăm bộ. Nữ lang, đứa bé láo liên hét:

                    - Sâu bọ rắn rết biết làm trò? Sâu bọ đâu?

                    Minh Thần làm hiệu:

                    - Quý hữu đứng dang ra cho căng xích sắt, mỗ cho sâu bọ ra làm trò. Xích Quỷ làm theo, háo hức dòm. Minh Thần kín đáo mở túi da beo, hú lên mấy tràng mật âm gọi độc vật, vung tay áo hô lớn, trỏ lên trời hét "Coi kìa! Chúng tới! ". Xích Quỷ dòm theo, độc vật trong túi da beo bay vù lên, loáng thành một vầng mây độc, lúc nhúc đủ loại ong, rết, kiến, bọ cạp, sâu độc, dơi... từng bầy, cứ con có cánh lại con không cánh, vo vo, chít chít, chí chí, phát đủ âm dị, bay đảo trên cao. Võ hô tiếng nữa, độc vật dàn hàng năm bay vù xuống đậu lơ lửng trước mặt Xích Quỷ, bay tại chỗ, khua mõm múa càng, kêu chí chóe, rồi từ từ lại gần Xích Quỷ. Cả đám vươn cổ dòm, bàn tán, gọi tên mấy loài độc vat, chỉ trỏ ngắm nghía, cười rú. Minh Thần hô:

                    - Quý hữu muốn sai gì chúng? Đứa bé hét:

                    - Đậu xích múa coi? Võ hú hiệu, độc vật sà xuống đậu trên các sợi xích căng, dàn hàng nhảy nhót, múa vòi, vểnh râu, khua càng, ngoay đuôi, đập cánh. Lão quái rút ống xương thổi, bà móm gõ trống sọ, Ngũ Quỷ đua nhau nổi dị âm, độc vật càng nhảy nhót múa may, di chuyển trên dây xích. Phía sau, đứa bé vỗ tay hét: "lên đầu cọp, đầu hai con ma múa coi"

                    Võ lại hú hiệu, độc vật làm theo. Ngũ Quỷ cười ré. Nữ lang hét:

                    - Gái quỷ có vật làm trò không?

                    - Sao không! Bọn này ai cũng làm được hết! Bọn này thần thông trên bộ mà.

                    Giao Long Nữ nói lớn, cũng hú hiệu, cùng Quản Kình "ra trò" tuôn thêm hai bầy độc vật nữa, cứ thế cho chúng biểu diễn bộ ba mười lăm toán. Ngũ Quỷ thích chí cười sằng sặc, hét "Trò hay! Trai tiên gái quỷ đầy tớ người, trò nào cũng hay". Mấy phút sau, trò dưt, bọn Minh Thần thu hồi độc vật.

                    Nào dè Ngũ Quỷ nhảy dựng lên, hò hét: "Vui quá! Vui quá! Đêm nay vui quá, ăn uống thỏa thuê, xem trò thích mắt" rồi nhất loạt kéo xiềng nhảy "ùm" luôn xuống nước.

                    Bọn Minh Thần sợ họ lặn đi mất, vùng gọi lớn. Ngũ Quỷ Liên Hoàn bèn nhảy vọt lên hét:

                    -Còn trò nữa? Không lẽ bầy trò hoài, Minh Thần nhìn Giao Long Nữ, cô gái khoa tay:

                    -Còn nhiều trò hay, nhưng quý bạn cũng phải cho bọn này xem trò gì chứ?

                    Ngũ Quỷ ngẩn mặt dòm nhau. Cô gái nói luôn:

                    - Như trò lặn hụp chẳng hạn. Ngũ Quỷ gật lia, kêu "À được! À được!" đoạn lao "um" xuống sông, vùng vẫy, lặp hụp một hồi, tốc độ thật kinh hồn, lẹ như cá kình xẹt nước, tia phun cao ngất trời. Mươi phút lại vọt lên bờ. Giao Long Nữ kêu:

                    - Hay dữ! Nhưng quý hữu lặn đáy nước bọn này có thấy hết đâu? Nữ lang vẫy:

                    - Vậy xuống sông coi.

                    - Bọn này đâu biết lặn. Vả đêm dưới đó tối mù thấy sao được.

                    Ngũ Quỷ lại ngơ ngác. Đoạn bảo "thôi" định nhảy xuống nước. Minh Thần vội bảo:

                    - Còn trò nhiều. Tối mai lên đây, bọn này kiếm thật nhiều rượu thịt.

                    Ngũ Quỷ gật đầu, rồi nhảy ùm xuống sông lặn đi mất. Bọn Võ dòm theo. Minh Thần lẩm bẩm:

                    - Thú tính đã bớt, mai họ sẽ lần lên, không nên gấp quá. Phải kiên nhẫn từ từ mới được. Giờ ta tính chuyện Song Ma.

                    Giao Long Nữ, Quản Kình khen phải. Đứng thêm mươi phút nữa, thấy mặt sông vẫn phẳng lặng như gương, trăng khuyết hạ tuần đã lên cao bạch nhật, ba người biết Xích Quỷ đã độn thủy đi khúc khác rồi. Ba người bắt tay vào việc luyện "xó quỷ" Song Ma.

                    Nhờ bí thuật bà chúa động Thanh Âm truyền dạy, thêm trước đó Võ Minh Thần, Giao Long Nữ đã từng được học khá nhiều về huyền môn này, uy lực giờ thêm tăng tiến sau những tháng luyện tập tại Thanh Âm, nên việc thu luyện "xó quỷ" không còn khó khăn nữa.

                    Trong khi hai người luyện xó Song Ma, Quản Kình vào cánh rừng bên đẵn gỗ, làm luôn hai cỗ quan tài độc mộc mỏng nhẹ, thêm bàn độc, bát hương, bài vị thờ "xó quỷ".

                    Gần sáng, trăng xế, gà bắt đầu gáy, bọn Minh Thần liền thỉnh oan hồn và khiêng luôn xác Song Ma đặt đứng sững trong quan tài độc mộc, bàn độc đóng liền nóc quan, đậy nắp ván thiên vào, coi như hai khúc gỗ.

                    Cả bọn bèn di chuyển quan tài xó về chỗ hốc để ngựa. Hốc này chật chội, đợi lúc trời sáng hẳn, Quản Kình bèn đi dọc chân núi, kiếm một cái hang khác, vì cả bọn phải lưu lại miền này đủ bách nhật, tuần tiết nhất định trong việc luyện "xó quỷ". Người từng sống chốn sơn lâm, kiếm hang hốc rất dễ, chỉ việc lần dọc chan núi, hú vọng vào, chỗ nào có vọng thanh càng vang càng rõ càng có hang hốc sâu. Chỉ giờ sau Quản Kình đã kiếm được một cái hang rất tốt, cửa tò vò, trong loe rộng, nhiều thạch nhũ, có cả cái hốc ngách trong cùng. Hang này cách khu miếu sơn thần chừng dặm rưỡi, tới vùng có sơn thôn độ vài cây số. Quản Kình vốn giỏi nghề đồn điền ruộng rẫy, làm nhà rất khéo. Chưa đến một buổi, cả bọn đã biến hang đá thành một căn nhà khá ngăn nap, đủ sàn buồng lót phên, bếp lửa, chỗ để hành trang, vật dụng, lương thực... đâu vào đấy, hai cỗ quan tài để xó ngách trong, phía ngoài hang có mái hiên lợp cỏ tranh làm tàu ngựa, chuồng thú. Hai vợ chồng cọp vằn, cặp Hắc Bạch Cẩu, con beo đen, mấy con ngựa sống với nhau rất hòa thuận.

                    Từ khi rời Thanh Âm, bọn Minh Thần đã thu phục rải rác được ít thú dữ, lại tha luôn tại chỗ, nhưng chưa có con nào to lớn và dữ như cặp hùm này. Ngay ngoài miếu bên sông, bọn Võ đã thả đuổi chúng đi, không ngờ vào lúc xế trưa bỗng thấy một bầy hàng chục con cọp kéo tới, bọn Võ trông thấy lại tưởng mãnh thú đến phá, nào dè cả bầy đã phủ phục xuống đất gật gật đầu, kêu nho nhỏ. Dòm kỹ mới hay hai con cọp tối qua. Thì ra là cọp đầu đàn tại khu rừng này, chúng đi gọi thêm cọp khác đến, "cõng" theo một con hươu sao, một con lợn lòi, một con sơn dương đến dâng "chủ" tỏ dầu phục tòng.

                    Quản Kình chỉ lấy một nửa còn lại cho chúng ăn và ra hiệu về rừng. Nhưng chúng cứ quanh quẩn không rời, Minh Thần phải hú lệnh:

                    - Đây cũng gần sơn thôn, bọn mi tụ tập hàng đàn, kinh động lỡ việc chủ. Vậy chia phiên từng đôi đi trấn quanh hang, còn tất cả vào rừng. Bọn mi đã làm quân thú, từ nay không được vồ người ăn thịt nữa.

                    Bầy cọp rừng tinh khôn vẻ vẩy đuôi tỏ ý mừng rỡ. Từ đó ngày đêm có một cặp canh phòng quanh khu hang, hợp cùng beo đen, Hắc Bạch cẩu thành lũ quân canh đắc lực. Bọn Minh Thần cũng yên tâm, đỡ ngại kẻ thù bất ngờ tới phá. Chúng lại "cõng" con thịt vè dâng chủ, nhờ vậy ba người đỡ phải đi săn, chuyên tâm luyện tập.

                    Thu xếp chỗ ở xong, Quản Kình muốn lần đến vùng dân cư mua các thứ cần dùng làm tiệc đã Ngũ Quỷ. Minh Thần bảo:

                    - Chúng ta còn ở đây hàng trăm ngày, rồi đây cũng phải luôn luôn đổi chỗ. Cần nhất phải giữ kín hành tung trong thời gian học thuật. Chú từng trải hơn tôi, khỏi cần dặn, nhưng có lẽ chú nên đeo mặt nạ vào phòng lỡ gặp gia nhân tặc đảng. Chơ quên nhiều kẻ đang hòng kiếm chúng ta.

                    Quản Kình y lời, lấy ngựa lần về sơn thôn, đóng vai khách buôn rừng, cho cả chó theo phòng thông tin.

                    Tuy vậy, tới chỗ có người ở, lân la dò hỏi, mới hay vùng này lâu không có khách lạ, vì hầu hết khách đi qua mạn hạ nguồn chỗ vùng Tĩnh Túc mới có các lộ giao thông, còn khu này khuất tịch vì trái lối. Quản Kình mua nhiều rượu ngon, thóc gạo nếp, mấy thứ cần dùng, lại quay về ngay.

                    Đêm đó, luyện xó xong, bọn Minh Thần ngồi uống trà đợi trăng lên mới đem các đồ tửu khí, rượu, đồ nhắm ra khu miếu sơn thần chờ Xích Quỷ.

                    Lần này bọn Võ cắm trại trước tòa cổ miếu chừng mười lăm sải, bày sẵn các đồ tửu khí trên phên nứa. Quản Kình xếp củi nhóm lửa, cắm sẵn hai cái cọc, xiên con hươu lột da từ nhà để trên phên. Thêm hai cái đùi sơn dương, mấy con gà mái tơ, hai cái đùi sau lợn lòi. Thấy hai cái đùi sau lợn lòi, thấy Quản Kình đem cả chảo cùng nhiều đồ gia vị, Minh Thần ngạc nhiên hỏi:

                    - Chú đem nhiều thứ cồng kềnh chi cho mệt? Lại có cả nấm hương mộc nhĩ?

                    Quản Kình nhe răng cười đáp:

                    - Nãy xuống núi, tình cờ gặp một bọn buôn thực phẩm, lâm sản, tôi cómua một ít, để làm cậu hai cô ba ăn cho đỡ khan miệng. Dạo này mình ăn nhiều thịt nướng quá. Tôi nghĩ: Ngũ Đầu Nam tuy thông minh lợi hại, nhưng bỏ trên bộ, xuống nước lặn hụp lâu quá rồi, tâm tính đổi khác, trong người nhiều tính rợ. Nên tôi đã mua được hai lít mật ong nguyên chất, đã chế vào mấy bầu rượu. Còn đồ nhắm, con người văn minh cũng còn phải để ăn lên đầu tứ khoái, đủ hiểu "ăn là nhất", "dĩ thực vi tiên", huống chi như Ngũ Đầu Nam. Tối qua ta đãi đồ nướng rồi. Tối nay, tôi định đãi họ mấy món khác cho lạ miệng. Nội các con thịt, ngon nhất là thịt lợn lòi, thịt hươu, thịt don, thịt con móng, thịt sơn dương, thứ tới mới đến thịt hoẵng, nhím, gấu, nai... không gì ngon bằng thịt lợn lòi làm tái đậu tương bóp hành dấm. Nhân có cả sơn dương, tôi làm hai món đó, uống với rượu tiết dê thật tuyệt. Còn mấy con gà, một nửa gói lá lốt làm chả rán, còn nửa nhét nam hương mộc nhĩ, hạt sen gạo nếp, miến, thêm một mớ thịt heo đã trộn nấm hương làm mọc, đem ninh hầm với súp lơ, su. Cái món Tàu Ta ô hợp, để ăn sau cùng chắc Nam thích lắm. Bữa nay có cả xôi đồ trứng kiến cho lạ miệng. Các cụ vẫn bảo "miếng ngon nhớ lâu, đến đâu nhớ kỹ". Xích Quỷ ăn uống ngon miệng chắc khó tuyệt tình, có đấu kiếm liên hoàn cũng đỡ. Nếu họ nghiện món ngon càng tốt.

                    Giao Long Nữ vỗ tay cười lớn:

                    - Chí lý! Chí lý! Cái mẹo chú cao hơn cả mẹo Khổng Minh. Người Trung Hoa là dân chuyên dùng mẹo "hảo sực", giao thiệp với ai là giở luôn món này. Việc khó đen đâu, cứ mời người ăn được một bữa... là xong tất, việc gì cũng xong. Miếng ăn quá khẩu thành tàn, xưa nay nhiều kẻ "há miệng mắc quai" là thế. Mẹo chú Kình miếng ngon vào miệng lẽ nào Xích Quỷ từ chối không dạy nghe riêng? Để tôi giúp một tay. Trăng sắp nhô khỏi ngọn núi Đông rồi đó.

                    Cả bọn xúm nhau làm món ăn. Minh Thần lăn thịt hươu nướng. Giao Long Nữ làm gà nhồi mọc, hầm thêm rau. Quản Kình thái thịt lợn lòi, sơn dương làm tái rắc đậu tương thơm phức. Xong lại giã thịt gà gói lá lốt rán. Chõ xôi bằng gốc cây mít lớn đặt lên, rắc đầy trứng kiến bóng loáng như mỡ.

                    Nhờ mọi thứ đã làm sẵn tại hang, mấy món này làm rất mau. Giây lát sau cả khu cổ miếu đã thơm lừng mùi thịt nướng, chiên. Nhìn lên, vầng trăng khuyết đã treo ngọn núi Đông. Mặt sông Gầm nhánh phẳng như gương.

                    Lòng khắc khoải, Võ Minh Thần ra bờ sông đưa mắt nhìn quang cảnh sông lặng lờ tưởng chừng Ngũ Đầu Nam chỉ là một bóng ảo ảnh chập chờn không hề có thực.

                    Đang nóng ruột, thình lình thấy giữa dòng bắn vọt lên năm tia nước cao hàng mấy trượng, cứ thế chạy dần vào bờ. Rồi "ùm" tiếng lớn, nước cầu vồng rụng lả tả, dòm lại thấy Ngũ Đầu Nam Xích Quỷ đã đứng sừng sững trên bờ, cười sằng sặc:

                    - A bọn tối qua đây rồi! Trò đâu?

                    Võ Minh Thần thấy Ngũ Quỷ đúng hẹn mò lên, lòng mừng hết sức, vội nghiêng mình chào, dịu dàng bảo:

                    - Trò vui thiếu gì, xem cả tuần trăng chưa hết. Nhưng hãy uống rượu đã. Tối nay bọn này kiếm được nhiều món ngon, không muốn hưởng riêng, nên đem đến cùng quý hữu vui chung. Đang nấu nướng trong kia.

                    Xích Quỷ dòm theo tay Võ trỏ, cả lũ khua xiềng chạy ùa vào khu miếu sơn thần. Mùi thịt nấu nướng thơm lừng. Bữa nay Quản Kình còn giã tỏi nhét đầy vào các thớ thịt sơn dương, nướng lên càng dậy vị. Mùi thịt nướng quyện lẫn thính đậu tương, gà hầm, mọc ninh làm Ngũ Quỷ chảy nước miếng. Cả đám kéo quanh bếp lửa dòm hau háu, hít hà, chỉ chực vồ ăn nghiến ngấu.

                    Quản Kình, Giao Long Nữ chào xong, cứ làm lơ đứng quạt than, mỡ rỏ xèo xèo, khiến Ngũ Quỷ rỏ rãi, cánh mũi phập phồng, đứng nuốt nước bọt. Bỗng nghe đến "xoảng" tiếng lẫn tiếng "vút" gió lạnh người. Quản Kình dòm sang đã thấy đứa bé con cầm ngược thanh kiếm sáng quắc, có một miếng thịt hươu nướng bằng ngón tay rung bần bật đầu mũi thép. Nó đưa lên miệng táp nghiến, nhai nhồm nhoàm, bất chấp thịt còn nóng bỏng.

                    Võ Minh Thần liếc thấy cả bọn quái kia, quái nào cũng mân mê đốc gươm, chàng trai biết Ngũ Quỷ đói ngấu rồi, lập tức giơ tay, hô lớn:

                    - Xong rồi! Nào, bắt đầu ăn uống! Lời vừa dứt, Quản Kình đứng gần con thịt nướng đã nghe "vút vút" tiếng gươm xé gió lẫn tiếng xiềng khua, Kình ta dòm vào đã thấy đùi sau con hươu vẹt đi mảng lớn. Xích Quỷ đưa cả mớ gươm lên miệng đớp thịt nhanh hơn cá mập táp mồi.

                    Quản Kình vội hô to, tay trỏ sàn nứa rộng thay bàn ăn:

                    - Khoan! Ăn tái lợn lòi trước đã. Ngũ Quỷ dòm sang thấy đầy bàn thịt, ùa lại luôn, dùng gươm xóc từng xâu ăn liền. Thịt lợn lòi mềm, da lợn lòi dày hàng bốn, năm ly, mềm dòn hết sức, bóp thính đậu tương thơm phức, vốn là món thịt rừng ngon lạ hơn thịt bê thui nhiều. Ngũ Quỷ tuy từng ăn nhiều thịt cá nhưng có lẽ chưa được nhắm món lợn lòi tái thính thơm ngon, lạ miệng, cả đám luôn tay múa gươm xóc ăn, miệng khen ngon rối rít, làm một hơi hết luôn năm, bay ký. Bọn Minh Thần rót rượu mời. Rượu có pha mật ong nguyên chất, Ngũ Quỷ mềm môi làm một hơi hết năm, sáu lít. Cứ thế hết tái lợn lòi đến thịt hươu nướng, thịt gà giã bọc lá lốt nướng, vừa uống vừa nhắm, Kình lại giở chõ xôi trứng kiến cho ăn kèm. Xôi một chõ nếp cẩm đồ, một chõ loại nếp đặc biệt của rừng già. Ngũ Quỷ tuy ít ăn ngũ cốc vậy mà nếm thử món này "dậy mùi dĩ vãng có dùng ngũ cốc", cả lũ ăn hết hai chõ lớn. Sưc ẩm thực của Ngũ Đầu Nam làm bọn Minh Thần lấy làm kinh dị, tưởng chừng năm quỷ này có bộ máy tiêu hóa khác người, ăn bao nhiêu tiêu nghiến bấy nhiêu. Xưa nay tại xứ ta các tay lực điền thường ăn khỏe, nhưng cũng chỉ bốn, năm lít là nhiều, còn loại ăn "nồi bảy quăng ra, nồi ba quăng vào" như Lê Như Hổ rất hiếm. Đương thời, thiên hạ kể viên tù trưởng Mường Cẩm Thủy Hà Trường Nguyệt là tay ăn khỏe nhất có lần ăn một hơi hết một thung sò huyết, một thúng xôi nhỡ nhỡ và bốn cái thủ lợn chấm muối. Tuy thân thể họ Hà có to nhưng cũng chẳng quá tám mươi ký, còn Ngũ Quỷ này cả năm khổ người đều vừa tầm thước lại ăn như long cuốn thủy, kể thật phi phàm.

                    Loáng đã gần hết rượu thịt. Quản Kình múc gà hầm mọc ninh ra chậu đồng, đưa mỗi quỷ một cái muỗng lớn, nhưng Ngũ Quỷ chỉ múc mot, hai lần, nóng nảy bê luôn cả chậu đồng, chảo ninh húp ừng ực, nước còn sôi sùng sục, làm ba người cũng phát ngán.

                    Bữa "tiệc" kéo dài. Tàn cuộc, trăng khuyết đã lên cao. Bữa đó, Ngũ Quỷ Liên Hoàn ăn uống no nê, ngon miệng hết sức, khen "trai tiên gái quỷ đầy tớ người" có trò nấu nướng hay. Lại kéo bọn Minh Thần nhảy múa ca hát nghêu ngao.

                    Tuy vẫn "hồn nhiên man dại" nhưng nhiều khi đã phát lộ nhân tính rất rõ, với những câu hỏi đặc biệt làm ba người phải sửng sốt.

                    Thì ra Ngũ Quỷ đều thông minh, cảm quan nhạy bén cả, nhưng quá chán ghét ngờ vực người đời, cùng nhau kết chùm xuống nước sống lâu rồi biến tính dần đi. Nay gần bọn Võ, gợi lại dần tính xưa, trí cũ mới lần trở lại, tuy tim óc vẫn đậm chất

                    "hồng hoang thủy quái".

                    Múa chừng mười lăm phút, Ngũ Đầu Nam lại đòi trò hay nữa.

                    Bọn Minh Thần lại phải bịa ra một, hai trò lạ mắt nữa, xong đòi Ngũ Quỷ làm trò độn thủy, tia nước cho xem. Nhân lúc Ngũ Quỷ cao hứng, Võ Minh Thần hỏi:

                    - Loài cá có mang mới lặn sâu dưới nước được! Quý hữu cơ thể cũng giống bọn này, sao có thể ở mãi dưới đáy sông không chết ngạt?

                    Xích Quỷ cười sằng sặc, khoe:

                    - Bọn ta có phép thở dưới nước.

                    Minh Thần khen:

                    - Lạ dữ chưa, sao không chết sặc? Đứa nhỏ cười ré:

                    - Sặc sao được? Thiếu gì cách thở.

                    - Vô lý! Thở bằng mũi là sặc.

                    - Sặc thế nào được. Thở bang mũi, hít nước vào, tia đằng mồm, lọc lấy dưỡng khí. Thở bằng lỗ chân lông, hút dưỡng khí vào phổi. Ở cả ngày dưới nước cũng được.

                    Minh Thần khen:

                    - Thích nhỉ! Học được không? Bọn này học được, thỉnh thoảng xuống nước chơi với các bạn, tha hồ vui.

                    Ngũ Quỷ đồng thanh nói lớn:

                    - Học được! Học được! Bọn ta truyền phép thở hít cho, nhưng phải xuống nước, kết chùm xích ở với bọn ta, không sống trên bộ nữa.

                    Bọn Minh Thần nghe nói, lòng mừng hết sức, biết Ngũ Đầu Nam đã có cảm tình đặc biệt với bọn mình, điều này rất hiếm, cứ coi Song Ma chỉ vụng chút mất mạng liền vì tính nết quái gở của Ngũ Đầu Nam. Trong thoáng giây cả ba cùng nghĩ:

                    - Ngũ Quỷ đòi phải nhập chùm kết bè xuống ở dưới nước mới chịu truyền bí thuật, vậy là thành Bát Đầu Nam rồi còn gì. Xưa nghe có chuyện "Bát tiên quá hai", giờ lại "Bát quỷ quá giang". Chắc không ổn rồi vì mình không sống mãi dưới nước như họ được. Nhưng muốn được việc, tại sao ta không vờ nhận kết chùm kết xích nguyện làm quái nước cho họ thích, chừng học được bí pháp rồi, lúc đó bứt xích bỏ lên bộ, bọn họ cản sao nổi? Phải đó. Xưa nay muốn thành việc lớn, thường phải bỏ qua việc nhỏ, không tùy cơ sao nên việc báo cừu?

                    Ba người đưa mắt cho nhau. Quản Kình gật gật đầu, Minh Thần hiểu ý y chỉ nghĩ tới chuyện báo cừu bất kể chuyện khác, nhưng chỉ thoáng giây, chàng trai quay bảo Ngũ Quỷ:

                    - Tiếc thật! Bọn này còn nhiều chuyện quan hệ, chỉ xuống nước chơi ít bữa, chứ không thể ở hoài dưới đó như các bạn được.

                    Ngũ Quỷ khua xích cười rú "quan hệ, quan hệ". Nữ lang giang rộng cánh tay, rướn cong mình, cười man dại, mặt ngửa nhìn vầng trăng khuyết đầy vẻ đẹp hồng hoang:

                    - Ha ha! Độn thủy bơi lội các ngọn sông rừng, đêm lên bờ uống rượu xem trăng, còn gì quan hệ hơn?

                    Võ Minh Thần chép miệng:

                    - Bọn này thấy các bạn vui chơi vùng vẫy thèm hết sức! Nhưng bọn này còn chuyện quan hệ hơn, chưa thể vui được! Các bạn đây nếu một, hai bạn bị kẻ nào giết chết, các bạn có bơi lội ca hát nữa chăng?

                    Cả năm cùng múa tay, hét:

                    - Hát không được! Phải tìm giết nó, rồi mới hát!

                    Minh Thần gật đầu:

                    - Phải thế! Chính bọn này mắc việc đó nên chưa xuống nước ở được. Còn đau nhục hơn nữa, vì lại là thù cốt nhục, kẻ thù sát hại bậc sinh thành bọn này. Vừa nghe Minh Thần nói dứt, bỗng nữ lang vùng nói một câu làm cả ba người không khỏi giật mình, chịu thay sức linh mẫn của nữ quái Xích Quỷ.

                    - À ta hiểu rồi! Bọn ngươi có lắm trò hay, thần thông biến hóa mà vẫn chưa trả thù được, vì kẻ thù chúng ở dưới nước, bọn ngươi không xuống được.

                    Mấy quái kia cũng dòm Võ, ba người ngó nhau, chưa biết nói sao cho tiện, bỗng đứa con nít xẹt lại hỏi:

                    - Phải nó ở dưới sông dưới hồ?

                    Mũi tên đã bắn, Minh Thần bắn liền phát thứ hai:

                    - Quả không sai! Quý hữu thông minh lắm. Tài phép quý hữu chỉ để vùng vẫy chơi còn bọn này lại ao ước được một phần không được. Nếu thở dưới nước được, bọn này sẽ báo nổi thâm cừu. Sào huyệt nó dưới mấy tầng nước xoáy vụng sâu. Nó là giống thuồng luồng tinh cực kỳ lợi hại, nó có thể lặn dưới đáy nước hàng ngày, bọn này đành chịu. Nếu được quý hữu dạy cho nghề lặn hụp, thật quý vô chừng.

                    Quản Kình bồi luôn:

                    - Của ngon vật lạ trên đời, bọn này kiếm ra hết. Món mai còn ngon bằng mấy đêm nay. Quý hữu dạy nghề, ngày đêm mấy tiệc cũng có "mâm xôi con gà".

                    Ngũ Quỷ dòm nhau, lẩm bẩm "hiểu rồi" có vẻ đắn đo khó nghĩ, nửa không muốn truyền thuật lạ, nửa lại tiếc bọn lắm trò hay, nhiều của ngon vật lạ. Lão quái xua tay:

                    - Đứa nào biết lặn, nó lặn xuống đáy sông còn gì vui thú.

                    Cả đám xúm nhau, mỗi kẻ một phách, bàn tán líu lo, cuối cùng bà móm chợt hét:

                    - Muốn học phép lặn, phải đánh trận hay, thoát năm tay kiếm. Mỗi ngày một món, mỗi món khác nhau. Mỗi đêm một canh, ba canh được hết. Ngũ Quỷ khua tay hò inh ỏi "Thoát trận liên hoàn, mỗi ngày mười món, ba canh được hết, sẽ lặn cả ngày, thuồng luồng cũng chết".

                    Không nghĩ ngợi, Võ nhận lời liền. Xoảng xoảng! Xích Quỷ cười rú khua xiềng vọt tới, múa kiếm đâm chém nhanh như máy, kẻ non tay sẽ chết trong nháy mắt, nhưng bọn Võ toàn tay cao bản lãnh, đã có định sẵn thuật chiên, nên xuất kiếm chặn liền. Ngũ Quỷ vây thành hình ngũ giác liên hoàn, bọn Võ dùng thuật tam giác liên công cũng dàn hàng ngang, quần đến nửa giờ, Ngũ Quỷ vẫn không hại nổi ba người.

                    Nhưng nguy nhất, Ngũ Quỷ dùng sang thế "Trực thăng hạ kích" vọt chếch lên, vừa đâm chém vừa xoắn xích trói, chừng khỏi đầu, cả năm lại dùng luôn sợi xích căng làm bàn đạp, chuyển thế tấn công xuống, nhanh như năm con chèo bẻo. Tuy vậy, bọn Võ đều tay có nghề, vừa tương thế biến thế, vọt cao hơn, giáp công một phía, đạp phăng xích, bắn ra, hoặc luồn phía dưới vọt ra tập hậu... khó nhất là đánh thật dữ lại phải tránh gây thương tích Ngũ Quỷ, nhất tránh chặt đứt xích thường vắt vẻo như mớ dây rợ giữa rừng, tránh được đã mất nhiều tâm lực. Nên Minh Thần, Giao Long Nữ co lần đã bị mũi kiếm liễu sạt má. Quản Kình bị một mũi sạt chót vai mất mảnh áo bằng ngón tay.

                    Nhưng cuối cùng, cả ba ngầm dùng bửu thức "Mê hồn công" làm Ngũ Quỷ choáng váng, đánh rụng được kiếm. Nào dè Ngũ Quỷ bị rớt kiếm giận như điên, chụp lấy kiếm, nhảy ùm xuống sông lặn mất tăm. Quản Kình sợ bầy quái nhân này bỏ đi luôn, nhưng Giao Long Nữ lại mừng bảo:

                    - Tính người đó! Con nhà võ nào cũng thế! Mai họ sẽ mò lên, không đi biệt đâu. Ta cứ liệu trước là xong. Ba người kéo nhau về. Quản Kình sửa soạn "đồ nghề" đợi đêm trăng lên, cùng nhau ra khu cổ miếu, bày sẵn rượu thịt đợi.

                    Quả nhiên, trăng vừa ló dạng, Xích Quỷ đã từ dưới sông rừng vắng lặng vọt lên, vừa đặt chân lên bờ thấy bọn Minh Thần, Ngũ Quỷ đã cười rú lên, hét:

                    - Trai tiên gái quỷ đầy tớ người giỏi! Đánh bạc! Đánh bạc! Bọn Võ lại rủ "đánh chén đã". Hai bên đối ẩm. Bữa nay Kình lại bầy mấy món khác, xào xáo khá ngon miệng. Ngũ Quỷ ăn uống rất hăng, lấy làm khoái chí, quên cả chuyện rớt kiếm. Vừa uống, vừa lân la hỏi chuyện, mới hay Ngũ Quỷ xuống nước, chỉ còn mê nhất trò giải trí bằng đánh bạc, thường rủ nhau lên bờ chơi, có khi đánh ngay dưới lòng sông hang hốc, hay chơi nhất đánh cờ, xóc đĩa, cò quay, tài xỉu... Tàn cuộc rượu, Quản Kình giải chiếu, bày "đồ nghề" ra, thỉnh Ngũ Quỷ vào cuộc. Bảy "con bạc" chia hai phe, nhap chiếu "sát phạt". Bọn Minh Thần chỉ có Quản Kình thạo nghề đổ bác, còn Võ chỉ biết đánh cờ tướng, Giao Long Nữ thì mù tịt. Canh bạc cực kỳ gay go, Quản Kình không ngờ Xích Quỷ lại có thể đánh cao đến thế. Kình phải trổ hết tài nghệ ra địch với bọn quái nhân này. Canh bạc "khó nuốt" không kém canh bạc chơi với Đổ Bác Thần. Cuối cùng Quản Kình phải trổ hết ngón bịp ra mới đánh bại nổi Ngũ Quỷ.

                    Mặt trăng khuyết liền ngả bệch, gà rừng bắt đầu gáy. Ngũ Đầu Nam bỗng hất tung đồ nghề, nhảy dựng lên cười sằng sặc:

                    - Bọn này giỏi! Trò nào cũng giỏi! Muốn giỏi trò lặn hụp, mai giờ này, đến đây. Bọn ta dạy nghề làm cá tra.

                    Bọn Võ mừng hết sức, chưa kịp nói thêm, Xích Quỷ đã lao ùm xuống sông mất dạng. Quả nhiên Ngũ Đầu Nam y hẹn, nửa đêm mai, ba người tới, chốc lát đã thấy bầy quái chùm kỳ dị này vọt lên.

                    Từ đó Ngũ Quỷ Liên Hoàn bắt đầu truyền bí thuật độn thủy cho bọn Võ Minh Thần, toàn về đêm.

                    Ngày nào cũng vậy, Quản Kình lần vào thôn xóm xa gần mua sắm các món thực phẩm, nhân tiện nghe ngóng động tĩnh, nửa đêm ba người mặc quần áo rái cá, đêm món ăn lần ra khu cổ miếu đợi Ngũ Quỷ, ăn uống xong học thuật. Cứ mỗi đêm, do gần bọn Minh Thần, tính người của Xích Quỷ lại phát lộ thêm chút ít. Bọn Võ thấy thế cũng mừng. Xích Quỷ dạy hết nghề dị, không giấu, càng gần xem ra càng mến bọn Minh Thần, mà bọn chàng cũng rất mến bầy quái nhân này. Bọn chàng nhận ra năm quái này tuy sng man dại, sinh hoạt khác người nhưng cả năm đều mang tâm trạng kỳ dị chán ghét cuộc sống bon chen trên bộ mà họ cho là đang giết dần sinh thú, và chỉ có đời sống dưới nước là thảnh thơi khoái chí, giúp người lạ tìm lại được những thứ đã mất.

                    Cả năm còn cho là con người trên bộ đang dần đi vào... tận thế, vì ngày càng biến tính càng xa bản tính giống người. Nên Ngũ Quỷ rất ghét người, lâu dần nhìn con người không khác con người nhìn con cá, con thịt vậy.

                    Khiến bọn Minh Thần bất giác nghĩ tới những phái tu "dã thú" xưa, có những triết nhân vào rừng sống và đi bốn chân như loài thú vật để đi tìm ánh sáng chân lý. Nhất là nhớ tới một truyền thuyết cho là giống người chính từ dưới nước lên, và phải chăng Ngũ Đầu Nam đang lần về nguồn gốc xa xăm.

                    Nhờ đã thạo bơi lội, giỏi võ công, được dạy tận tình, bọn Minh Thần luyện tập nghề độn thủy rất mau chóng, chỉ hết tuần trăng đó đã có thể thở dưới nước.

                    Ghe! Những đêm đầu Ngũ Quỷ đem ba người tới ghềnh đá khuất nằm chúc đầu xuống, dạy tập hít thở lọc dưỡng khí cực kỳ khó khăn, chỉ lọc được chút dưỡng khí đã uống hàng lít nước. Lâu số nước uống bớt dần, cuối cùng đã đay được ra hết đằng miệng sau khi dùng hai lỗ hít nước vào.

                    Rồi Ngũ Quỷ lại dạy phép "thở hít lấy dưỡng khí bằng các lỗ chân lông". Nhờ đã thạo điện công, bọn Võ học được bí thuật này không khó mấy. Khi đã hít thở được rồi mới xuống nước lặn hụp. Cả ba phải tập sao cho thành cử động hô hấp tự nhiên, vừa vùng vẫy quần thảo, vừa thở hít như không.

                    Thời gian thấm thoát tính từ đêm gặp Ngũ Đầu Nam, tới nay đã hơn ba tháng. Bọn Võ đã học thành thạo dị thuật độn thủy và đã luyện xong cặp xó Xích Ma dữ, không chuyện gì xảy ra.

                    Đêm khuya vào khoảng thượng tuần mùa Xuân, ba người làm một bữa tiệc thịnh soạn đãi Ngũ Đầu Nam, gọi tiệc chia tay. Ngũ Đầu Nam bắt lên mấy con cá chép, ốc, sò, "ba ba núi" nướng, hầm, làm gỏi, cùng nhau ăn uống ngả nghiêng.

                    Uống xong, ba người nắm tay nhau nhảy múa. Đêm đó, dưới trăng vui, tiếng kèn, trống, địch, tù và, harmonica, lá cây chờn vờn thê thiết lại âm thanh man dại làm mủi lòng.

                    Mãi khi trăng lặn, bọn Võ mới ngỏ lời cáo biệt. Minh Thần thấy Ngũ Đầu Nam có vẻ buon, vùng nói lớn:

                    - Sông dài, biển rộng, trời đất mênh mông, truyền dị kỹ ắt có phen tái ngộ, việc chi phải buồn câu chia biệt? Nay bọn mỗ đi tầm thù báo oán, nhờ lòng tốt quý hữu đá truyền nghề độn thủy, dẫu quân thù có ẩn dưới tới trăm trượng nước sông, vực thẳm, bọn mỗ cũng lặn thấu. Thù cha mẹ báo xong, bọn mỗ sẽ đi tìm quý hữu, ngày gặp lại không lâu.

                    Dứt lời, xá ba xá, cả bọn nhảy lên lưng ngựa, beo đen, cọp vằn, Hắc Bạch Cẩu nhất loạt gật đầu bái biệt. Ngũ Quỷ nắm tay cả bọn không rời, nói lời khích lệ, vó câu khẳng khái lên đường.

                    Ngựa bước đi, người còn ngoảnh lại, kiệu băm rồi kiệu nhỡ, bọn Minh Thần ra roi kiệu đại, bên tai van nổi chìm âm thanh kỳ dị vờn theo vó ngựa đăng trình viễn phương...

                    Đi khá xa, bọn Minh Thần lên gò cao, ngó lại khu cổ miếu... mang mang...

                    Tít trên ngọn đồi thưa bên sông, bóng Ngũ Quỷ Liên Hoàn đứng dàn hàng ngang nhìn theo hút ngựa, năm hình thù, năm sợi xích vẽ đậm vào nền trời trăng nhạt, coi như năm chùm bóng tù lưu đày đứng giữa "ngục trần gian" vọng về tiền kiếp...

                    Âm thanh quái gở vẫn chập chờn, bốc tận trăng sầu với vợi, bất thần đổ gục xuống mặt sông rừng... nghẹn mắc nước thượng nguồn...
                    Last edited by binhyentrongtim; 01-06-2013, 04:24 PM. Lý Do: sai chu

                    Comment


                    • #11
                      Hồi Thứ Mười Một



                      Cung A Phòng Dưới Đáy Hắc Giang




                      Tây Bắc biên thùy!

                      Độ Xuân, cữ tháng giêng, hai tuần hạ. Xứ Thái Sơn La, Lai Châu đang vào hội mùa Xuân.

                      Rượu cần chảy như suối, "khèn" lan dìu dặt, âm thanh nguyên thủy uốn khắp rừng ngoài rừng trong, những hình dáng các cô nàng Thái đen, Thái trắng đang chờn vờn lả lướt theo nhịp "xòe" chùm "xòe" cặp tiếng ca chuốc rượu của cô sơn nữ bốc lên cao vút như tiếng linh hồn đồi núi chơi vơi... Tây Bắc thần tiên mơ mộng, hội tung còn rách giấy hồng điều, trai gái bói nhân duyên.

                      Dòng Hắc Giang uốn khúc giữa núi đồi trập trùng, hai bên bờ hoa "bướm" nở trắng xóa rừng xuân, con sông vẫn khét tiếng "nghịch" nhất biên thùy, về mùa này, nước chảy lững lờ thao thiết cũng dịu "tính rừng" trong tiết Xuân thiêng.

                      Một buổi chiều...

                      Mây quang lảng vảng, trời đẹp, không gian trong như ngọc lưu ly.

                      Con sông Hắc trôi dưới nắng, khúc thượng nguồn Tây Bắc cực Lai Châu, hai bên bờ đồi núi trùng trùng hoang dã, vẫn không mất vẻ thần tiên.

                      Vào khoảng bốn giơ chiều, bỗng có một con thuyền độc mộc từ đâu nhô ra, lướt về thượng nguồn.

                      Trên thuyền có hai người Thổ, Thái chi đó, một trung niên, một già đăm chiêu lạnh lùng như không biết đến cảnh sông xuân tươi đẹp. Cả hai ngoi câm nín, thỉnh thoảng lại nhìn lên các ngọn núi hai bên bờ những hình quái vật hồng hoang đứng soi mặt dưới đáy nước sâu thăm thẳm, trên con thuyền độc mộc, có đặt một cỗ quan tài mộc, một đôi chó con đen con trắng đứng ngay đầu quan tài, tất cả im lìm. Mới trông, ai cũng tưởng con thuyền đưa xác đi chôn.

                      Hình như thuyền từ mạn Lai Châu trấn lên vừa bữa nay đang lần ngược dòng trườn lên thượng nguồn, đã qua mạn Mường Tè từ lâu, giờ ngược sâu vào vùng hoang vắng có nhiều khúc "dữ" có tiếng.

                      Trời chiều chợt sa sầm, mây đùn lớp lớp, khí đá bốc mù, mặt trời bỗng trương phình lên đỏ gay như mặt người thắt cổ, gục xuống rặng núi tây.

                      Chợt từ nẻo thượng lưu, có một chàng Mán hối hả xuôi xuống, lướt sát mạn thuyền độc mộc, lão chài trạc lục tuần trợn mắt, nói vang vang:

                      - Quay lại mau! Khúc trên mới có bầy thuồng luồng dữ lắm! Chớ đi nữa. Ông già trên thuyền độc mộc cao giọng:

                      - Cám ơn! Nghe đồn khúc trên nó có ma thiêng dữ lắm, phải không? Lão chài hạ giọng, vẻ sợ hãi:

                      - Hình như vậy! Nhưng mãi trên ngã ba! Thuyền đắm nhiều lắm! Khúc đó có nhiều vụng xoáy, lâu nay không ai dám đi qua. Hai bác tới đó... nguy! Hai bác đi lên đó làm gì?

                      - Kiếm chỗ tang thủy! Vũng sâu mới tốt! Chiếc chài xuôi đi, thuyền độc mộc cứ ngược. Cảnh chiều sông ảm đạm, huyền bí, hình như hai người Thổ kia có vẻ hài lòng... Chừng hai mươi phút, chợt lại gặp một chiếc chài nữa, trên chài có một chàng Kinh gầy gò xanh xao, người này cũng khuyên chớ ngược nữa... áp mạn, thấy cỗ quan, người này có vẻ ái ngại, hỏi vài câu, đưa tay vuốt nhè nhẹ trên mặt ván thiên. Người Thổ trung niên vạm vỡ đang ngồi khua chèo, bất thần xòe tay chặt xuống một nhát nghe "rắc" một tiếng, cổ tay người chài Kinh gãy liền! Y vừa lảo đảo gục, đã bị người Thổ túm lấy mạch môn, phát giọng khô khan:

                      - Tự nhiên mi gây sự, định vuốt nát xác người trong quan, phải mi là thủ hạ của Ma Vương? Cung động nó đâu? Gã kia nhổ toẹt bãi nước bọt, nghiến răng két, mặt xám xịt, mềm nhũn, cạy miệng ra xem thì ra y đã nuốt cả chiếc răng nanh giả chứa đầy thuốc độc.

                      Người Thổ trung niên chép miệng, ném cái xác sang chài, bồi một nhát. Thuyền độc mộc lướt đi, chiếc chài chìm nghỉm. Người Thổ lẩm bẩm:

                      - Đúng rồi! Đã vào vùng sào huyệt tinh. Ông già gật đầu, mặt vẫn lạnh như xác chết.

                      Lúc sau, tới một khúc rừng hoang vắng lạ, con thuyền dạt vào bụi lau kín, người Thổ lao vụt xuống nước mất dạng. Hơn giờ sau mới thay trồi lên, lắc đầu. Ông già buông gọn:

                      - Đợi khuya! Giờ tìm chỗ thật kín!

                      Rồi dạ thần trùm áo đen xuống vùng sông Hắc.

                      Con thuyền chở quan tài lại hiện trên dòng, lướt trên sông lạnh sương mờ, không khác một bóng oan hồn đi tìm xương cốt cũ.

                      Hai người lạ mặt này không ai khác thầy trò Võ Minh Thần, chở quan tài "quỷ xó" đi tìm miền cung động Ma Vương. Ngày nọ, sau khi rời vùng sông Gầm nhánh, bọn Võ rời vùng Tĩnh Túc xuống miệt chợ Rạ, rồi chia tay hai ngả. Giao Long Nữ dẫn beo đen, chở xác "xó Ma Kinh" xuyên sơn sang mạn hồ Ba Bể, còn bọn Minh Thần dẫn Hắc Bạch Cẩu, Ma Khách xuyên rừng, sang miệt Tây Bắc Lai Châu.

                      Và trải nhiều đêm ngày vất vả, hai thầy trò ngược dòng sông Đà qua xứ Thái, vượt nhiều khu hiểm hóc, chiều nay dò theo tăm cá, hai người hóa trang lần mãi lên miệt thượng nguồn sông Hắc, lòng mừng biết đã tới "miền lanh địa Ma Vương Sắc", nhưng sông rừng bí ẩn trùng trùng, chưa biết đích cung động Sói tinh ở đâu.

                      Chỉ biết động ở tận dưới đáy sông Hắc, thượng nguồn, thế giới riêng Ma Vương Sắc có cả một "Cung A Phòng" đầy đàn mỹ nữ, toàn hoa khôi các bộ tộc thượng du, một nơi huyền bí như trong truyền thuyết, chưa kẻ nào tới nổi. Vì "Cung A Phòng" này có mấy "hàng rào thần chết", kẻ nào bén mảng tới là bị thần chết đến thăm luôn "không bao giờ báo trước".

                      Có điều lạ là thần chết thường hay viếng khách lạ, bất luận quan binh, du khách, giới giang hồ tứ chiếng, khách buôn... còn thổ dân vẫn sống yên ổn. Sông Hắc, chính là thượng nhánh sông Đà với nhiều nhánh bắt nguồn bên Vân Nam và bên Việt, từ miệt Mường Lẹo Tẩu chảy qua vùng biên địa xuống mạn Mường Tè xuống xuôi nữa, vốn là con sông "dữ", ghềnh thác hang vụng nhiều, có lắm thủy quái hung tợn như giao long, dải, táp cả người đi thuyền lôi xuống đáy nước ăn thịt, trên bờ lại không thiếu mãnh thú, cướp rừng, thổ phỉ biên thùy... nên xưa nay vùng thượng nguồn Hắc Giang vẫn là "vùng nước nghịch" hạng nhất biên thùy. Từ dạo khách qua miệt sông biên này thường mất tích bí mật, trong dân gian có tin đồn ngầm về "một cung động bí mật của một con tinh chúa phi phàm", thì miền đất giang biên Tây Bắc xứ Thái này càng trở nên "lãnh địa của tử thần", khách phương xa co việc tới vùng Mường Tè không dám ngược lên miệt "đất chết" này nữa".

                      Nhưng hai thầy trò Võ Minh Thần đã đi khắp mấy dòng phụ lưu sông Hắc, và tối nay, hai người đang lầm lũi đi sâu vào lãnh thổ tử thần như hai bóng oan hồn "dò theo bóng chim tăm cá" đi tìm cung động Ma Vương.

                      Sông rừng quạnh vắng, núi dựng trăm hình thù quái dị xuống dòng Hắc Giang, nhưng đợi đến lúc trăng hạ tuần lên, vẫn chẳng thấy gì lạ cả. Sông núi rừng già như ngậm kín bí mật trùng trùng không chịu nhả ra một dấu vết nhỏ.

                      Võ Minh Thần khẽ bảo Quản Kình:

                      - Lạ thật! Theo quẻ độn Lục Nhâm và các điều dò hỏi được, nhất định sào huyệt Tây Sắc tinh phải nằm về nẻo thượng nguồn, khúc trên Mường Tè, dòng chính, không phải phụ lưu. Ta đã đi qua Mường Tè, sắp tới ngã ba rồi, sao vẫn chưa thấy gì? Ít nhất phải vào vùng ngoại cứ của "nó" chứ? Tên chài chiều qua chính quân giữ mặt ngoài.

                      Quản Kình nhìn sông trắng im vắng thì thầm:

                      - Nghe đồn cung động Ma Vương dưới đáy nước hang sâu vụng thẳm. Nhưng "nó" có cả quân người. Vậy quân người chắc ở trên mặt đất, đóng vòng ngoài cung động và có le đóng khá xa, có thể ở trong hang núi hoặc ở nhà hầm đào vào đồi đất, nên bề ngoài vẫn không thấy gì cả. Tôi ngờ ta chưa vào cứ địa nó. Ta đã cố tìm con tinh tại sao không ra mặt nhử chúng, bắt một tên hỏi đường?

                      - Ra mặt sợ "động ổ" chúng. Vả tụi quân người, chắc gì đã biết cung động ở đâu. Con tinh dùng thủ hạ, chỉ cho biết từng chuyện một.

                      - Cậu hai nói đúng! Nhưng ít nhất cũng kiếm được chút đầu mối, còn hơn cứ mò mẫm trong bóng tối như mấy ngày nay. Để mình tôi ra mặt đủ rồi.

                      Minh Thần ngẫm nghĩ giây phút, đành để Quản Kình đi thám sát. Hai người khiêng quan tài Ma Khách đặt vào hốc núi cho Quản Kình lấy thuyền chèo ngược lên nẻo thượng lưu.

                      Đem trăng nhạt, con thuyền độc mộc trôi giữa dòng sông Hắc, lát sau đã tới ngã ba phụ lưu. Quản Kình vừa chèo vừa hát nho nhỏ mấy câu đồng dao. Bốn bề vắng lặng, trăng khuyết lồng bóng nước nhấp nhô gợn sóng.

                      Đang vơ van nhìn mặt sông rừng huyền bí, bất thần để ý thấy có một ngọn sóng khác thường từ phía bờ Đông chạy ra.

                      - À có con cá lớn? Hay người đang bơi dưới nước? Cá cắn câu chăng? Kình ngồi bên mạn, khua nhẹ tay chèo, gợn sóng chạy quanh rồi chợt mất. Bất thần, con thuyền độc mộc nghiêng hẳn lại, rồi dưới nước có một vật loằng ngoằng bắn vọt lên, túm nghiến cổ Kình kéo xuống nước, coi không khác chân vuốt thuồng luồng, vòi tuộc vậy. Quản Kình lộn cổ xuống sông. Và chỉ hai phút sau đã thấy y vọt nhô lên, nách cắp một người trần trùng trục chỉ đóng có mỗi cái khố.

                      Hắn bị điểm huyệt, mở mắt trừng trừng nhìn Quản Kình. Giải huyệt, Quản Kình lạnh lùng hỏi:

                      - Cung động Tây Sắc đâu? Nếu mi nói ta thề sẽ tha mạng. Tên này cười dữ tợn, nói tiếng Mán:

                      - Mày có cánh cũng không bay được vào cung Chúa Sài Lang. Trành sẽ bắt mày.

                      Quản Kình cười gằn, vừa toan vuốt huyệt, bắt nó khai, đã thấy nó trợn ngược hai mắt, sùi bọt mép, "đi" luôn. Xem lại tên này cũng có một cái răng giả nhét đầy độc dược.

                      Tặc lưỡi, Quản Kình buộc một hòn đá lớn, thả "tõm" xuống giữa ngã ba, đoạn quay thuyền về bảo Minh Thần:

                      - Chỉ một tên độn thủy định lật thuyền, bắt người lạ, nhưng nó cũng nuốt độc chết liền. Bắt ánh mắt nó, hình như sào huyệt con tinh mãi phía biên thùy, có "trành" canh gác.

                      Minh Thần ngẫm nghĩ, bảo:

                      - Tất nhiên cung động nó cực kỳ bí mật, có "trành xó" canh và nhiều thứ nguy hiểm nữa. Vùng này chắc xa sào huyệt chính, có đi cũng chỉ hạ được mấy tên canh gác rải rác dọc sông, bất lợi lắm. Mai ta rà trên bộ ngược tận biên thùy.

                      Hai người bàn bạc giây lát, đoạn cho thuyền về nẻo hạ lưu. Sớm mai, trời vừa hửng sáng, đã thấy con thuyền độc mộc chở quan tài lướt ngược dòng Hắc Giang, trên thuyền có mỗi Quản Kình ngồi chèo trong lốt người Thổ trung niên. Còn Võ Minh Thần cưỡi ngựa đi trên bờ trong lốt một ông già có mấy chòm râu muối tiêu. Lát sau qua khỏi ngã ba sông, Quản Kình cũng vờ khiêng thuyền lên, giấu vào hốc núi, dựng quan tài xó, để các món nặng lại, đoạn cưỡi ngựa, đem theo Hắc Bạch Cẩu, vai đeo cung tên, tiến về nẻo biên thùy. Thượng nguồn Hắc Giang khúc này từ vùng núi Vân Nam đổ sang chảy chếch từ Tây sang Đông, tới ngã ba mới chảy xuôi vát Đông Nam xuống Mường Tè Lai Châu vốn miền sơn kỳ thủy tú, càng lên gần biên giới ba nước cảnh trí càng hùng vĩ hoang sơ. Nhưng hai thầy trò Võ Minh Thần vẫn đinh ninh đây là lãnh thổ ngầm của Ma Vương Sắc, nên nhìn đâu cũng thấy phảng phất vẻ quái gở lạ thường. Hai người men theo bờ sông đi được một quãng, chợt gặp một lối mòn chạy từ trong núi ra. Lối đi cỏ bị dẫm khô héo, chứng tỏ vẫn có người qua lại, Minh Thần bảo:

                      - Theo bản đồ, đây chắc lối đi lên biên thùy, tới miệt bản Cao Lan. Cao Lan cách xa Hắc Giang, ta không nên đi hướng đó. Nhưng chỗ này núi chắn, ta cũng phải theo lối này một quãng rồi sẽ liệu.

                      Bèn bắt ngựa vào đường mòn. Đi hơn dặm, quả nhiên gặp một con đường từ mạn Tây Bắc chạy tới, hai người rẽ luôn sang.

                      Vó câu lóc cóc xuyên qua nhiều cánh rừng sơn lâm trùng điệp, vào khoảng giữa trưa, vẫn chẳng thấy nhà cửa bản dân nào.

                      Vừa tới gần một con suối khá rộng, chợt từ đâu có một con trĩ lớn bay qua. Quản Kình bắn luôn một phát, một con trĩ xòe cánh rớt ngay xuống bờ suối. Hai người cùng tiến đến định nhặt con trĩ, nhân tiện cho ngựa uống nước, bỗng hai con chó chạy xồ lên, sủa rộ, tiếp liền mấy tiếng "cà uôm" vang động, trông sang thấy hai con mãnh hổ đứng sừng sững giữa bụi lau bên kia bờ, cách khoảng ba mươi bộ xế. Xoạt! Quản Kình rút phắt ngọn lau thép cài bên sườn ngựa, định phóng. Võ Minh Thần vùng hô "Khoan! Để bắt sống". Kình dừng vội.

                      Hai con hổ này toàn hùm xám, còn to hơn hai con bên sông Gầm trong rặng Phi Mã. Chúng lừ lừ dòm người, vật, mắt tia đỏ coi rất dữ, đầu hơi lắc lư. Minh Thần nhảy xuống ngựa, cùng Quản Kình tiến lại, hú lên một tràng âm dị. Chẳng hiểu sao hai con hùm xám kia vùng rống lên, xoay mình nhảy chồm qua khóm lau dày, bỏ chạy.

                      - À lạ dữ chưa! Sau chúng nghe hiệu âm lại phá chạy? Đuổi bắt! Hai con cọp này khôn lắm.

                      Hai người vội lên ngựa, phóng qua suối rượt theo. Hắc Bạch Cẩu vọt trước. Hai con cọp cứ cong đuôi chạy, bị kẹp hai đầu, chúng cứ theo đường mòn xuyên thung lũng lao như gió.

                      Qua một rặng núi, bỗng cảnh hoang sơn đột biến, trước mặt vụt mở ra một cảnh lâm tuyền cẩm tú, hoa "bướm" nở trắng xóa như hoa mai, rụng đầy đường mòn, mặt cỏ. Hai con cọp bỗng trốn biến đâu mất.

                      Bọn Minh Thần dừng ngựa bên một dòng suối rộng, đưa mắt nhìn quanh. Hai con ngựa thở phì, gặp suối mát, bước ngay lại cúi mõm định uống. Trong khi đó, Hắc Bạch Cẩu đã vọt qua, đang sục sạo phía trước.

                      Tình cờ, Võ Minh Thần cúi nhìn xuống dòng suối xuân, vừa lúc hai con ngựa ghé sát mõm sắp uống. Bóng người ngựa lung linh đáy nước, về mùa xuân, dòng suối lại đục lờ vì nước chảy qua rặng núi có nhiều chất vôi làm bóng nhân mã cũng mờ mờ. Chàng trai giật vội tay cương, la:

                      - Suối nước độc!

                      Quản Kình cũng kịp làm theo. Hai con ngựa thở phì phì, hếch mõm. Bất thình lình bên suối có tiếng chó kêu rống vút. Hai người giật mình trông sang, đã thấy Hắc Bạch Cẩu bị treo ngược bốn vó lên ngọn cây, đang giãy giụa.

                      - Chó mắc bẫy treo! Vùng này có người ở!

                      Quản Kình kêu lên. Trên sơn cước, thổ dân vẫn dùng cạm bẫy bắt thú, đào hầm phủ cỏ lá, hoặc vít các cành dẻo, nhất các loại tre, vẫn gài bẫy dưới phủ kín, thú rừng dẫm phải, lập tức bị dây trói nghiến bốn vó bật vụt lên, treo lơ lửng. Mãnh thú hung tơn mấy đạp nhằm bẫy gài cũng chịu phép. Và trên rừng, chuyện đánh bẫy bắt thú là thường.

                      Thấy hai con vật trung thành bị treo ngược, bọn Minh Thần bèn vọt qua suối, chạy tới cứu. Còn cách mươi sải, Minh Thần đưa mắt quan sát, thấy gần đấy có nhiều tre xần, cành xòa, chàng trai vội giơ tay làm hiệu, cả hai vung tay đánh thử mấy đường phản phong vào quanh chỗ hai con thú bị treo.

                      Bùng, bùng, rào, rào! Lập tức rải rác hàng chục cành bật lên, tung tóe cỏ, đất sát bên chân ngựa. Hai người giật cương, dạt sang phía hữu.

                      Bất ngờ "sụp sụp", mặt đất bỗng tụt ngay xuống thành hầm sâu, cả hai con ngựa sa theo nhanh như ảo mộng. Khi hai thầy trò Minh Thần kịp biết thì người ngựa đã rớt sâu hai, ba sải giữa khu cành lá um tùm.

                      Nhưng cả hai đều cao bản lãnh, đã kịp thời vọt thẳng lên, bám được cành trên cao. Dòm xuống, thấy hai con ngựa rớt sâu tít, lưng đầy đất, cỏ, lá. Rừng vẫn vắng lặng như không.

                      Đang định nhảy xuống cứu mấy con vật, bỗng nghe mấy phía xôn xao, rồi đến ba bốn chục tên mặc quần áo chàm xách súng ống, giáo mác, lưới rọ, câu liêm, móc sắt, đổ tới như bầy thú dữ.

                      Quản Kình, Minh Thần cùng bíu một cây, sang cành khác, thấy quân lạ kéo tới, Kình làm "chú quyết", Minh Thần xua tay. Bọn kia reo hò thích chí, lũ vít cần xuống bát chó, lũ đem câu liêm, thòng lọng lại bắt người ngựa, đứng lố nhố dưới gốc cây. Mấy tên chợt kêu:

                      - Chỉ có hai con ngựa, không có người. Lại coi! Lại coi!

                      - Rõ thấy cả người ngựa rớt xuống mà! Hay nó vọt được? Chúng bu quanh hầm, cúi dòm, nhiều tên ngửa mặt dòm lên cây cối.

                      Không thấy bóng người, cả lũ ngơ ngác kêu "ma quỷ", chợt nghe tiếng quát xa xa:

                      - Cứ đem ngựa lên, khám đồ vật xem! Tìm chúng sau! Thầy trò Võ vẫn nấp trên cây. Nhưng hai người đã giở thuật "ẩn thân" dùng sương mù nhân tạo bao phủ nên chúng không thấy. Chỉ mấy phút sau, chúng đã lôi được ngựa lên. Thầy trò Minh Thần định dùng "Mê hồn công" đánh bọn áo chàm này, bỗng nghe tiếng quát rợn người:

                      - Hai tên phạm cấm địa, không ra mặt, trong mười giây sẽ bị đạn quét! Tản!

                      Tiếng hô dứt, tự nhiên bọn áo chàm vùng xa hết, để cả ngựa, chó lại. Minh Thần, Quản Kình đứng trên nghe tiếng quát không khỏi kinh tâm, khó nghĩ. Nhảy trên sẽ bị đạn quét, nhảy xuống lấy khiên, súng dài cũng có thể cự địch được, nhưng phải hi sinh mấy con vật. Thả độc vật cũng không kịp, hai người định xuất đầu nhử địch rồi bất thần hạ thủ. Thình lình tiếng quát rõ giọng đàn bà:

                      - Bọn ngươi làm gì ồn ào thế?

                      Có tiếng đáp đầy vẻ cung kính:

                      - Bẩm chúa nàng, có hai tên Thổ lạ vào vùng cấm lâm. Chúng nô bộc đã giật hầm bẫy được ngựa, chó, còn chúng trốn đi mất.

                      Tiếng đàn bà quát:

                      - Sao bọn ngươi dám chắc họ là gian tế? Có khi người ta lạc đường, lạc lối hoặc đi săn bắn là thường. Nếu không, dại gì cưỡi ngựa, dắt chó, đi giữa ban ngày cho bọn mi vây bắt? Hừ! Ta đã dặn, phải thận trọng kẻo giết oan người vô toi, bọn mi đã quên sao? Lui!

                      Có tiếng dạ ran, rồi bốn bề im phăng phắc. Nhưng hai người vẫn cứ ẩn trên cây. Bỗng nghe tiếng nhạc ngựa khua vang, rồi có tiếng gọi thánh thót:

                      - Hai người khách phương xa nấp đâu sao chưa ra lấy ngựa? Đúng tiếng suối, đàn cũng không trong hơn giọng nói, nghe thánh thót, êm ái hết sức, có mãnh lực quét sạch bầu không khí dữ tợn quanh khu rừng. Hai thầy trò Võ nghĩ mươi khắc, đoạn tặc lưỡi, giải tỏa sương mù nhan tạo, dòm xuống. Bọn áo chàm đã đi đâu hết. Xa xa có một bóng nhấp nhô phi tới, thấp lè tè sát đất, ẩn hiện sau cành lá. Thoắt bóng này đã tới chỗ hai con chó bị mắc bẫy vẫn bị túm bốn vó nằm trên cỏ, hiện ra một thiếu nữ mặc lối Thái đen cưỡi một con cọp mộng lông xám có cái bờm sù. Thiếu nữ dừng cọp, khuôn mặt lộ hẳn sau cành lá. Đó là một cô gái đẹp lạ thường, xiêm y toàn lãnh đen tuyền, nẹp cổ tay cổ áo chần kim tuyến, "phá" gấm thủy ba cũng bằng kim tuyến chấm gót, chân đi hài sảo, ngực phây căng nét nhũ, bụng nhỏ thắt đáy, mông bạnh, chân tay mình mẩy đều thon lẳn, coi bằng khổ người Giao Long Nữ nhưng khuôn mặt nàng này tuyệt đẹp, không xấu xí như nàng kia. Mắt phượng, mày liễu, mũi thon dọc dừa, môi cong, da dẻ trắng ngà. Cô gái trạc mười bảy, mười tám, coi rất thông minh, nhưng không có vẻ chi điêu ác, dáng đúng gái quý tộc miền núi.

                      Nàng vừa dừng cọp, đã thấy hai con chó bò dậy sủa. Cô gái ngước mắt trông lên cây. Võ Minh Thần, Quản Kình buông mình xuống ngồi trên lưng ngựa, chưa kịp nghiêng mình chào cô gái, nàng đã chào luôn thỏ thẻ:

                      - Hai quý khách miền nào tới? Bọn gia nhân đầy tớ mạo phạm, xin khách thể tình tha thứ cho.

                      Minh Thần, Quản Kình ngó chòng chọc, lòng đầy nghi vấn, chẳng hiểu nàng là hạng gái nào mà lại ở ngay cánh rừng bị coi là "lãnh địa ngầm" của Ma Vương Sắc. Tuy vậy, thấy nàng ăn nói dịu dàng lễ phép, Võ Minh Thần cũng vuốt râu, lịch sự bảo:

                      - Chúng tôi đi săn voi, tê giác, hổ báo, gấu ngựa. Chúng tôi từ Lai Châu, Mường Tè tới. Vừa đuổi hai con cọp xám, tự nhiên bị sa bẫy. Chẳng hay đây là đâu? Sao lại cấm người lạ vào?

                      Cô gái mỉm cười:

                      - Đây là đất của bộ tộc Thái đen. Nhưng hai ông khách không phải là ông lão có râu dài. Hai ông đeo mặt nạ da người.

                      Thầy trò Võ giật lòng sửng sốt, không ngờ hóa trang khéo hết sức, nàng ta vẫn biết. Chợt nàng lại tiếp:

                      - Nếu không có việc cần, hai ông đi săn sao phải hóa trang? Hóa trang thường bị ngờ định làm điều ám muội.

                      Võ Minh Thần biết đã đến lúc phải ra mặt, bèn đưa mắt cho Quản Kình, cả hai cùng thò tay bóc hẳn tấm mặt nạ da người, từ tốn:

                      - Chẳng dám giấu cô nương, bọn ngu mỗ cũng có chút việc, nên buộc lòng phải đeo mặt nạ, phòng quân gian ám hại bất ngờ. Bọn mỗ tính lên biên giới.

                      Cô gái nhìn chàng khách trẻ tuổi có bộ mặt khôi ngô lạnh lùng khó tả, chừng như nàng ta có cảm tình đặc biệt, dịu dàng bảo:

                      - Chuyện riêng, thiếp chẳng dám quan tâm. Nhưng nếu ông khách muốn nghỉ ngơi chốc lát, xin mời quá bộ thêm quãng ngắn nữa. Chốn này giáp ba biên giới, thổ phỉ, giặc cỏ, thú dữ nhiều nên chúng nô bộc phải canh phòng cẩn mật, xin ông khách cứ an lòng. Bộ toc thiếp rất vui sướng được tiếp rước khách phương xa. Hai ông không phải người Thổ?

                      Câu hạ bất thần của cô gái lạ làm thầy trò Minh Thần không khỏi chột dạ. Cô gái cười tiếp:

                      - Hai ông cũng không là thợ săn, vì thợ săn phải có súng khai hỏa, thợ săn thoát sao được hầm bẫy.

                      Minh Thần đành cười nhẹ:

                      - Cô nương tinh mắt lắm. Bọn mỗ không phải thợ săn thật. Nhưng cũng gọi là thợ săn được vì cung đi... săn giống vật, một thứ rất khó săn, hay chui tận hang sâu động thẳm.

                      Cô gái nhìn hai người, chừng như không lưu ý nhiều về câu nói đó, nàng cười tươi bảo:

                      - Vùng này rừng nhiều nghịch lắm, lâu nay ít người tới săn. Nhà tôi cũng gần đây, mời hai ông tới nghỉ chân.

                      Hai thầy trò Minh Thần thấy cô gái đẹp cùng với một toán quân rừng xuất hiện tại vùng lưu vực thượng nguồn Hắc Giang, nơi đồn có động Ma Vương, hai người hết sức ngơ vực, nhưng đã quyết xuất đầu tầm cừu, chưa thấy tăm hơi, ngay nghe nàng ta mời, bèn nhận lời ngay, không chút do dự.

                      Cô gái thấy khách lạ nhận lời có vẻ thích lắm, lập tức nghiêng mình vẫy tay, thánh thót:

                      - Nào, mời hai ông!

                      Đoạn giục cọp mộng, quay đầu, đi về hướng Tây Bắc. Hai thầy trò Võ Minh Thần cố ý đi sau giữ phép, nhưng được mấy bước, cô gái lạ bảo:

                      - Vùng này chúng tôi đặt nhiều cạm bẫy, hầm hố, có cả địa lôi phục nữa đó. Hai ông phải đi sát bên tôi mới được. À quên! Hai ông phải bảo mấy con vật đi bên, chớ chạy lung tung và chớ uống nước bậy bạ. Suối nước tại đây về phía hạ lưu đều có bỏ thuốc độc, uống vào cấm khẩu, chết liền, khó thuốc trị.

                      Nghe nàng bảo, hai thầy trò không khỏi kinh tâm, sực nhớ dòng suối vừa qua, lờ nước hến, không tinh ý chút, chắc nguy rồi. Bèn đưa mắt nhìn quang cảnh, lâm tuyền, nơi lưu vực sông Hắc dưới trời xuân coi hết sức kỳ tú thần tiên, tuyệt không có vẻ chi dữ dội. Lại lấy làm ngạc nhiên sao nàng ta chỉ vạch cho mình hết cạm bẫy yểm tàng. Bọn Võ vội giục ngựa lên, nhìn nàng như dò xét. Quản Kình hơi lui lại một chút, nói luôn:

                      - Thưa, tôi là kẻ theo hầu tiểu chủ.

                      Thản nhiên như không, nàng mỉm cười:

                      - Tôi biết từ lúc nãy. Minh Thần hỏi:

                      - Sao cô nương có nhã ý cho biết điều bí mật trong miền? Sao miền này nhiều cạm bẫy thế?

                      Vẫn tự nhiên, cô gái lạ mỉm cười:

                      - Hình như tôi đã nói với ông vùng Hắc Giang này "nghịch" lắm. Lãnh thổ tù trưởng phải là nơi khó xâm phạm. Còn những thứ cạm bẫy đó để phòng gian tế cừu nhân, đâu phải để hại khách lạc hướng như hai ông. Vả chăng với người như ông, các thứ đó cũng là đồ vô dụng.

                      Minh Thần không nói gì. Chàng nghĩ: Nàng này không phải gái thường, hoặc hiểm hơn rắn độc, hồ ly, hoặc hồn nhiên phóng khoáng, lòng như tờ giấy trắng.

                      Hai thầy trò theo nàng đi qua khỏi cánh rừng, vừa lên một trái đồi, bỗng thấy trước mặt mở ra một khu sơn đình tuyệt đẹp, nhà sàn nằm như bát úp, bóng người, ngựa, gia súc, gà vịt, chim câu rải rác đầy đàn, quang cảnh hết sức tấp nập, có lẽ từ khi xuống núi, chưa bao giờ Võ Minh Thần gặp một sơn thôn, sơn trại như thế. Ngay khu đồn điền của nghĩa phụ chàng để lại dưới Yên Bái cũng còn kém xa.

                      - Chà! Vùng sơn thôn tuyệt đẹp. Không ngờ tại miền lưu vực Hắc Giang gần biên thùy hẻo lánh mà lại có khu dân cư đông đúc lạ thường. Cô nương ở đây đúng cảnh "biên thùy một cõi".

                      Cô gái cười khanh khách, khoát tay trỏ quanh:

                      - Vậy mà tôi lại cứ tưởng chốn sơn đình này là một nhà tù lồng son giam hãm chim sơn ca. Tôi chỉ muốn phá hết đi, chia hết cho gia đinh, lính tráng rồi cưỡi hổ đi rong chơi khắp mấy miền sơn cước thủy, tìm thênh thang như giống chim người.

                      Minh Thần theo nàng đi qua thung lũng, vào khu sơn trại đầy hoa thơm cỏ lạ, chàng trai cười bảo:

                      - Cảnh đẹp thế này mà cô nương lại muốn bỏ đi, nhưng ai cấm cô nương? Cô gái cười:

                      - Thói quen bộ tộc! Tôi phải thay cha mẹ, nối chức tù trưởng. Bỏ đi, bộ tộc tan, không đành lòng.

                      Con đường đá đưa vào khu trại, quân rừng cúi chào kính cẩn, thảy đều gọi "chúa nàng", qua mấy xóm cư dân, bọn Võ thấy có cả đàn bà, trẻ con qua lai, ai nấy rạp đầu cung kính. Nàng cứ dẫn khách đi hết con thung lên một rặng đồi tươi đầy hoa nở, vào một vùng có tường gỗ lim phiến bao quanh, có cả hào lũy, đồn canh, coi đúng khu dinh tiểu vương sơn cước lại giữa "pháo đài rừng" không kém phần kiên cố.

                      Từ trên vọng lâu, chợt nổi lên một hồi cồng đồng khoan nhặt, tiếp theo một hồi tù và chìm nổi âm u. Từ trên lũy, hạ xuống một chiếc điếu kiếu bắc qua hào. Quân canh đứng hai hàng bên cần trục. Điếu kiều bắc lên một dãy hành lang chạy vòng từ ngoài vào vọng lâu như chiếc cầu vồng dài.

                      Cô gái đưa hai người tới bên hào, leo qua điếu kiều, đi thẳng vào "pháo đài dinh", qua khỏi vòng ngoài pháo đài, bên trong lại hiện ra một cảnh trí hữu tình, tòa ngang dãy dọc, hoa viên, vườn tược, võ trường, tàu ngựa, chỗ đóng quân, nhà thủy tạ giữa ao hồ nhân tạo, một lạch nước uốn quanh, cỏ cây tươi tốt, khu chính dinh có cả điếu kiều vào tận nơi, coi vừa xinh, vừa lạ mắt.

                      Bọn Minh Thần theo nàng vào, nhìn trên dưới đường xuyên qua vườn hoa trước có hàng chục cọp beo lững thững đi lại, nhiều con nằm lim dim dưới gốc cây. Hai người nhớ đến hai con cọp khôn ban nãy, không khỏi phục thầm tài dạy thú của cô gái lạ.

                      Nàng đưa khách vào tiền sảnh, tiến vào một căn phòng rộng rãi trần thiết rất uy nghiêm thanh lịch. Bọn Minh Thần thấy cảnh thâm nghiêm, lính rừng lấp ló, không khỏi chột dạ nghĩ thầm:

                      - Tình thế này, nếu nàng dụng tâm đánh lừa đưa mình vào tròng, bất thần hạ độc thủ, kể cũng đáng ngại lắm. Tốt hơn hết là cứ kèm sát bên nàng, có gì ta làm luôn Phàn Khoái dự Hồng Môn hội ẩm, Tào Muội hiếp Tề Hoàn Công cho tiện.

                      Nghĩ vậy, nên cứ nghiễm nhiên theo nàng vào. Quản Kình rút luôn cả cây trung liên xách theo, mắt ngó cô gái coi phản ứng nhưng nàng ta không hề lưu ý tới, vẫn tươi cười uyển chuyển an tọa.

                      Võ Minh Thần ngồi vào ghế, Quản Kình giữ lễ, nhất định chống súng đứng "hầu" sau lưng chủ. Một bầy gái hầu từ nẻo hậu dinh chạy ra, cô nào cũng chỉ trạc mười sáu, mười tám, xinh xắn, tươi tỉnh, lễ phép, đúng cung cách gái hầu trong nhà các tù trưởng tiểu vương sơn cước.

                      Cô mặc lối Thổ, Thái trắng, cô mặc lối Thái đen, bộ tộc miền núi mặc quần áo đen tuyền để phân biệt với dòng Thái trắng chứ không phải vì da đen. Không cần khảo sát, thầy trò Minh Thần chỉ nhác qua dáng dấp, đã biết ngay toàn hạng gái có võ, quen chuyện súng gươm cũng như têm trầu, dâng nước.

                      Đám gái hầu cúi chào khác, cô bưng khay trầu, cô bưng điếu, cô bưng đồ trà toan dâng khách. Cô chủ phất tay bảo:

                      - Trầu điếu để đó, còn đồ trà hãy đem vào. Công tử đây quen giang hồ đây đó, tất là bực ẩm giả sành trà, để ta phải tự tay nấu nước pha trà đãi khách. Các ngươi khá đem hỏa lò vào đây. Hai ba em theo ta vào lấy bộ đồ trà đặc biệt cùng "Diệp sương liên", "Phi Mã trà".

                      Gái hầu dạ ran, thừa lệnh răm rắp, thoăn thoắt đi vào nẻo hậu cung, còn cô gái chủ cùng hai, ba gái khác để khách ngồi lại, kéo nhau đi về phía hữu phòng. Nhà sàn các tù trưởng thượng du to lớn, rộng mênh mông, có cái chứa hàng ngàn khách chỉ mới đầy một gian, mỗi cây cột to mấy vòng, đục làm tủ đứng, tủ gương đựng võ khí, căn sàn dinh này lại kiến trúc pha lối Tây, Kinh, trông càng đồ sộ nguy nga, từ chỗ khách ngồi tới căn phòng kế cận dài hun hút.

                      Lòng đấy áy náy bất an, Quản Kình thấy cô nàng dẫn gái hầu đi vào, cũng xách cây trung liên đi theo liền. Cô gái chủ quay nhìn lại chợt hiểu, nhướng mày cười bảo:

                      - Chú ngại gì mà phải theo bén gót? Cứ yên lòng ngồi lại phòng khách, tôi vào lấy đồ trà đó thôi. Lòng thành đãi khách, nếu có âm mưu, đâu có cần đưa khách vào tận nơi đây mới hại được. Tôi đã nói vùng này đầy cạm bẫy. Nếu chú chẳng ác tâm, để tôi mất công triệt vậy.

                      Dứt lời, nàng bảo Quản Kình lui lại chỗ Minh Thần, đoạn bước tới bên cây cột lớn, vỗ chát một cái, hô lảnh:

                      - Vệ đội! Triệt cơ quan, rút khỏi chính dinh! Reng reng, liền hồi chuông trong tủ nổi lên, vụt nghe rầm rầm sập sập liền năm, bảy tiếng, cả khu nhà khach như chuyển động, từ hai bên vách ván gỗ hé mở, phóng vút ra hàng chục mũi giáo nhọn, là là sát mặt sàn lên tới đầu người, cứ hàng giáo này phóng sang vách bên kia mất hút, đạn xuyên qua hàng loạt tên độc, bắn chéo kín phòng, trừ chỗ hai người ngồi. Trên trần năm, sáu tấm lưới chụp xuống, rồi sàn gỗ mở, bật lên năm sáu tấm. Từ dưới, hàng chục tay súng rừng lùi lùi nhô lên, hàng năm, sáu con mãnh thú trồi lù lù, lừ đừ sừng sững đi ra phía cửa tiền hết.

                      Ngoài hành lang, bọn gác cũng xách súng bỏ đi. Cô gái vỗ tủ, rút hết lưới lên, đóng các cơ quan cạm bẫy lại, cười bảo:

                      - Các thứ này trước do phụ thân tôi chế ra, phòng quân gian đột nhập, chúng quân vệ vẫn giữ lệ cũ. Không muốn làm tiên sinh kinh động nên tôi chỉ lẳng lặng để tiên sinh ngồi chơi nơi tử giác. Giờ chắc hai thầy trò đỡ ngại, tôi có thể đi lấy đồ trà được chứ? À quên, còn tủ súng nưa.

                      Dứt lời, nàng lại ngồi nơi bộ ghế cẩn đá xế bên bộ hai người và vỗ vào tay ghế một cái. Nghe cạch hai tiếng, từ hai gốc cột tủ, bỗng mở ra một đường rộng hơn phân, ló dạng hàng mũi súng đen ngòm chĩa vào khu ghế nàng ngồi.

                      - Nếu vỗ hai tiếng, súng khai hỏa luôn. Dứt lời, nàng ta cũng gái hầu bỏ đi về phía hữu.

                      Hai người nhìn theo bóng uyển chuyển mất hút sau rèm, thật tình vẫn chưa biết nữ chúa rừng xanh này là loại hảo nữ hay hồ ly đột lốt. Vì nếu nàng có thể thành thực tiếp khách không ác ý, nàng ta vẫn có thể là tay "cao đòn" cho biết năm, bảy món "bảo bối" và làm cách nào biết được nàng còn giữ lại vài ba món khác nguy hiểm gấp mười để chờ dịp ra tay? Quản Kình lẩm bẩm: "một cô gái khó hiểu". Minh Thần bâng khuâng "bí mật như thượng nguồn sông Hắc" và chàng trai quyết tâm dò hỏi thực hư.

                      Rất kín đáo, chàng trai đưa tay phát điện nhè nhẹ quanh chỗ ngồi, quả không còn chạm một luồng nhiệt khí nào nữa. Bèn thử rê vào tận cửa thông, bỗng hơi giật lòng nghe trong phòng có tiếng cô gái chủ thánh thót vọng ra:

                      - Tiên sinh này đa nghi như Tào Tháo. Tôi một lòng thành thực tiếp khách, chàng cứ mãi ngờ vực lòng người, gái này còn biết tính sao cho chàng khỏi nghi?

                      Giọng nàng ta có vẻ hơi trách móc, lại bị bắt quả tang đang dò trộm, Võ Minh Thần ngượng hết sức, vội co tay, gãi cằm, cười xòa bảo:

                      - Xin cô nương miễn trách. Nhất nhật tương kiến, lại gặp cô nương trong cảnh khác thường, nên ngu mỗ lấy làm... thắc mắc vậy thôi. Nếu có lòng như Tào A Man, chắc ngu mỗ chẳng dễ tin mà vào chơi trong "pháo đài kỳ lạ" này.

                      Cô gái cười khanh khách, cầm bình trà cùng bọn gái hầu uyển chuyển bước ra. Đám thị nữ khác cũng vừa mang hỏa lò tới. Cô gái xua tay cười bảo:

                      - Thôi! Bỏ chuyện nghi nan áy náy đi. Tiên sinh! Ta uống trà cho vui. Đời người nhiều oan trái. Gặp gỡ bất ngờ ngàn năm dễ lấy gì mua nổi.

                      Minh Thần nghe nàng nói, bỗng nhiên lòng cảm động lạ. Bề ngoài coi tươi tỉnh, cứ nghe khẩu khí, cô gái này chẳng phải gái quý tộc chỉ quen vui hưởng đời sống cơm bưng nước rót, ra giày vào dép, nàng vẫn còn có tâm hồn vô cùng phong phú, tế nhị, thiên về đời sống tinh thần và hình như còn một tâm sự u uẩn mang mang, thật khó hiểu.

                      Có điều kỳ khôi nhất là chỉ một câu nàng vừa nói, tự dưng chàng trai thấy hết nghi ngờ, sinh vững dạ hơn, mặc dù chưa rõ nàng là hạng gái nào. Tần ngần ngồi ngắm nàng quạt hỏa lò than nấu nước và các "đồ nghề", rõ ràng nàng ta đã quen sinh hoạt lối người Kinh và rất sành "điệu nghệ" uống trà của giới phong lưu ẩm giả dưới xuôi, có thể nói đã thông thạo "trà đạo".

                      Ấm thuộc loại "Cò bay" có "kim hỏa " để tính độ nước sôi "mắt tép, mắt cua"; bộ đồ trà nàng vừa đem ra thuộc loại cổ, khay khảm ấm chén đều cổ, bốn cái chén trôn quýt, một cái chén tống, thứ nào cũng đặt trên đĩa cổ, vào bộ, có mảnh vải điều phủ; ấm có ba cái, một cái độc ẩm bé như ngón chân cái, một song ẩm và một quần ẩm, gọi là quần ẩm nhưng cũng chỉ vài ba ẩm giả vậy thôi; đặc biệt cả ba đều thuộc bộ "Ngọc phủ" màu chu sa đỏ thắm như vành môi nữ chủ.

                      Thứ nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Đức Bội, thứ ba Mạnh Thần (Đức Bội là Thế Đức, Lưu Bội). Liếc sang bàn nước, bình trà, chàng trai nghĩ thầm:

                      - Bàn nước kia là "Diệp sương liên", "Diệp thủy tiên dạ vũ", trước tôn sư vẫn dùng, sau trận mưa đêm, lá sen sạch sẽ tinh khiết còn đọng lại vài giọt nước mùi hoa lá, sáng sớm chèo thuyền ra hứng từng giọt nước sau cơn mưa đêm, gọi "Diệp thủy tiên dạ vũ" hoặc với những giọt sương đêm còn đọng trên lá sen gọi "Diệp sương liên", tay ẩm giả ít khi vớt sương đọng trên cánh, đài sen, sợ mùi vị sen thơm quá "giết chết" hương trà. Món này, trước mình vẫn phải đi vớt về dâng tôn sư uống trà sớm. Nhưng con "Phi Mã trà" chẳng hiểu trà gì? Thường nghe người ta nói "Trảm mã trà" cho ngựa đói ăn trà ướt, chặt cổ mổ bụng lấy trà pha uống, trà ướp thêm "chất trong bụng ngựa" uống vào tuyệt ngon, thiên hạ đồn Tây Thái Hậu hay dùng như món óc khỉ, chuột sâm bao tử. Nhưng quả mình chưa nghe nói "Phi Mã trà" bao giờ.

                      Tuy nghĩ vẩn vơ, nhưng chưa tiện hỏi, và vừa khi có nước sôi, cô gái lấy trà pha, đưa khách chén "tống khẩu", cười bảo:

                      - Tiên sinh uống thử coi thứ trà này ngon chăng? Từ trước, thiên hạ vẫn ca tụng trà hái trên ngọn Vũ Di Sơn, tôi cũng đã uống được đúng thứ trà khỉ hái trên ngọn đỉnh. Nhưng tôi lại thấy thua thứ trà "Phi Mã" này. Do chuyện tình cờ, một bữa tôi cùng phụ thân lên rặng Pi A Ya chơi, có đem theo mấy con vượn lớn rất khéo. Đàn vượn leo lên ngọn Phi Mã cao hơn 2000 thước, kiếm trái ăn và bứt xuống một cây trà rất lạ. Thân bằng cổ chân, lại thấp lùn chỉ sáu, bảy chục phân, cành cũng to, sù sì, coi như loại cây cảnh có những chiếc lá, búp nhỏ bằng nửa trà thường. Bèn hãm sống uống thử, thấy ngon, đem sao ướp, uống vào tuyệt hảo. Có lẽ đất xứ ta vốn trồng trà rất ngon, thứ thượng sơn trà này mọc đỉnh núi đã lâu nên hấp thụ được lắm màu mỡ, khí trời cao sơn nên mới ngon hơn trà Vũ Di bên đất Quý Châu.

                      Thầy trò Minh Thần uống thử, quả thấy ngon đậm lạ thường, không sai lời nàng nói. Lúc này Quản Kình cũng đã yên trí đôi chút, cùng ngồi uống. Chủ khách uống trà đàm đạo rất tương đắc, nhưng toàn chuyện trà nước, sơn thủy, phong tục gần xa, nàng chẳng đả động gì tới chuyện "lạc lối" của khác. Võ Minh Thần chợt hỏi:

                      - Chẳng hay lệnh song thân đâu, không thấy? Ngu mỗ ước được bái yết, tiện chăng?

                      Cô gái dịu dàng đáp:

                      - Song thân tôi đi vắng đã mấy ngày chưa về! Người xuống Lai Châu. Tôi hiện chỉ có một mình, còn chú em cũng đi vắng.

                      Võ lại hỏi:

                      - Cô nương có thể cho biết quý danh? Rất tự nhiên, nàng đáp:

                      - Tôi tên Nguyệt Kiều, họ Đèo! Còn tiên sinh?

                      Không cần dấu, chàng trai đáp liền:

                      - Ngu mỗ Minh Thần, họ Võ, người dưới Yên Bái. Còn đây là chú Kình.

                      - A! Thế ra tiên sinh người Kinh gốc, tôi thấy, đoán ra ngay. Coi tiên sinh hình như lệnh từ mẫu là người miền núi.

                      Minh Thần chịu nàng tinh mắt, cười bảo:

                      - Còn cô nương tuy công chúa Thái đe, ngu mỗ coi chắc lệnh từ mẫu là người Kinh.

                      Cô gái mỉm cười:

                      - Tiên sinh thấy tôi giống người Kinh nhiều sao? Nhưng điều này, ông đoán sai rồi.

                      Minh Thần ngạc nhiên nghĩ:

                      - Không có máu Kinh sao coi giống Kinh rất nhiều. Chẳng lẽ cha họ Đèo lại là dân ta? Hay nàng du học lâu dưới xuôi?

                      Chàng trai uống từng ngụm nhỏ trầm ngâm, đang mơ màng nghĩ cách hỏi dò thêm, sực nghe cô gái họ Đèo vùng hỏi:

                      - Chẳng hay tiên sinh lên miền thượng nguồn sông Hắc này có chuyện chi?

                      Như được gãi đúng chỗ ngứa, Võ ngó cô gái họ Đèo, không đáp ngay mà chậm rãi hỏi:

                      - Chẳng hay cô nương ở đây có biết miệt lưu vực Hắc Giang nguồn thượng này có sào huyệt một con tinh cực kỳ nguy hại?

                      Nàng nhướng mày:

                      - Một con tinh? Tiên sinh muốn nói loài quái vật thành tinh? Chàng trai mắt ngó thẳng mắt nàng:

                      - Vâng! Một con tinh, chó sói thành tinh, thiên hạ vẫn gọi "Tinh chúa tứtúc Hồng Cẩu Quẩy", một trong hàng tứ khoái tứ hung, cực kỳ độc ác. Chính ngu mỗ đang đi tìm cung động Tây Sắc Ma Vương.

                      Mặt vẫn không đổi sắc, cô gái hơi nhíu mày, liền hỏi:

                      - Có chuyện chi quan hệ, tiên sinh có thể cho biết chăng?

                      Giọng u buồn, Võ nói chậm muốn nghẹn hờn:

                      - Nó giết hại sinh linh, gieo oán khắp biên thùy, nó hấp sát mẹ mỗ, sau khi đã tàn hại gia đình, còn tìm tận diệt ngu mỗ từ lúc chưa rời vú mẹ. Oán ấy tích đã mười bảy, mười tám năm, mỗ chỉ sợ chết đi chưa được moi gan mổ ruột nó tế vong hồn cha mẹ. Cô nương ở miền này có nghe chuyện nó?

                      Cô gái họ Đèo khẽ thở dài:

                      - Nếu vậy thật là điều bất hạnh cho tiên sinh. Quả tôi có nghe nói tới nhân vật kỳ bí đó, nhưng hình như ở mãi tận bên kia hữu vực mạn gần ba biên giới, vùng A Pa Chải, Pam Pou Txe, có khi bên kia đất Vân Nam, hay Phong Salỳ chưa ai biết rõ. Xưa nay, miền này chưa bị nhân vật đó phạm tới. Tôi có nghe nói nơi Ma Vương ở vô cùng bí mật, xưa nay chưa ai tới nổi, hình như có cả ma trành, ma xó canh gác nữa. Lũ âm binh này sẽ vật chết tươi kẻ nào tới gần. Chắc ông cũng biết? Vào chỗ đó là vào "cửa tử thần", sao ông không đợi cơ hội đợi hùm thiêng ra khỏi hang?

                      Minh Thần ngậm ngùi:

                      - Cừu hận kéo dài ngót hai mươi năm rồi, nay gươm mài đã sắc, không thể đợi thêm.

                      Chủ khách ngồi đàm đạo, xem ý nàng ta có vẻ lo ngại cho khách gặp phải kẻ thù vô cùng lợi hại, nên nàng cũng không khuyên bỏ đi. Tàn tuần trà, Đèo Nguyệt Kiều mời thầy trò Võ Minh Thần dùng bữa tiệc đủ món sơn hào.

                      Rượu cẩm hạ thổ lâu năm ngon lạ, hai người uống mềm môi, còn muốn uống cho đến say mềm. Nhưng nữ chủ pháo đài vẫn không để khách quý say, thầy trò Võ cố ý vờ say, Đèo Nguyệt Kiều thấy thế mới hết nghi ngại,

                      Xong tiệc, Minh Thần cáo từ ra đi. Nàng lưu lại không được, bèn đưa tiễn hai người ra tận cửa rừng. Lúc đó, trời đã xế chiều.

                      Lời cô gái họ Đèo vẫn không căn cứ. Hai người bàn nhau không đi ban ngày nữa, lộn vô chỗ để quan tài, chờ đêm xuống để ngựa lại, dẫn theo hồn "quỷ xó" nương đêm sương lạnh rừng già, đi ngược lên thượng nguồn.

                      Vào khoảng giờ Hợi, đã tới khu giang biên vẫn chẳng thấy chi lạ. Tới ngay vùng ranh giới trông sang lãnh địa Vân Nam, giữa cảnh sơn lâm thiên hiểm, bỗng gặp mấy con đường mòn ngang dọc cũng ra mạn Hắc Giang. Thượng nguồn thác réo, bốn bề hoang vắng không một ánh lửa nhà sàn, giang biên trùm bí mật, núi đồi chớm chở khắc đậm vào nền trời thành hình quái thú. Nhìn thế núi sông hiểm cố, Minh Thần bảo Quản Kình:

                      - Coi thế sơn thủy này là nơi lập sào huyệt tốt lắm. Biết đâu không phải nơi có hang động "nó". Trên bờ hoang vắng, tịch liêu, biết đâu dưới nước không là Cung A Phòng Tây Sắc? Tinh chúa khôn quỷ, làm vẻ hoang sơ, không quân gác vì nó có trành xó rồi. Ta đợi quanh đây.

                      Quản Kình đưa mắt nhìn tứ phía, bảo chủ:

                      - Chỗ này địa thế, thủy thế đều hiểm trở, có thể là vùng thiết lập cung động chúa tinh. Đêm nay, ta cứ phục đây, nếu chẳng thấy chi lạ, mai ta sang lưu vực bên kia. Tôi nghĩ cậu hai cứ khiến "xó" tới sát biên giới, phòng có việc dùng ngay.

                      Minh Thần gật đầu:

                      - Rất tiếc "xó quỷ" không thể lìa xác được xa, phải chi ta có đủ thì giờ luyện "gà", "gà" có thể thám sát hàng trăm dặm. Nhưng đấu chiến, "xó quỷ" này lợi hại nhiều, vậy ta cứ triệu tới. Có lẽ cho cả cặp sơn cẩu đến.

                      Khoảng gần giờ Tý, hai người đã ngồi trên một ghềnh núi cao, ngay bên con đường xuyên biên hiểm trở, gần bờ Hắc Giang, sát biên thùy.

                      Biên địa chập chờn âm khí. Bốn bề quạnh vắng không một bóng sinh vật, ngoại trừ tiếng "khắc khảm loọng sôi" hai bên đầu núi, tiếng chim oan gia "trót thì bóp" gọi đôi rót vào linh hồn chàng tuổi trẻ cô đơn gợi oán sầu mồ côi thê lương. Gói thi hài mẹ bọc sáp ong vẫn đeo dính sau lưng, chàng tuổi trẻ ngồi bó gối nhìn xuống dòng sông Hắc nhấp nhô ghềnh thác, nước réo ào ào như tiếng... mơ hồ từ cõi xa xăm...

                      Quạnh quẽ, hoang vu, man dại, khắc khoải... Đến lúc trăng lên, vẫn hoang vắng vô cùng, mảnh trăng khuyết nhô khỏi rặng núi Đông, chảy mảnh vàng vọt xuống vùng Hắc Giang, sương khuya từng dải trôi lơ lửng, cảnh trí coi càng quái gở như trong thế giới hồng hoang. Minh Thần lẩm bẩm:

                      - Lạ thật, que độn Lục Nhâm ứng "giang biên hữu sự hung cát bất phân" sao... vắng vẻ mãi thế này? Con đường mòn tuy cỏ mọc cao, nhưng vẫn có mùi cỏ dập chứng tỏ vẫn có người đi, không lẽ thổ dân?

                      - Đã sao, mình cứ nấp đây... mai sẽ đảo vùng khác... Hay thử thám sát một vòng?

                      Quản Kình vừa dứt lời, thình lình từ nẻo trăng lên, có tiếng chó sói tru một tràng, âm nhọn hoắt vãi lên không trung vàng vọt, tỏa rộng khắp biên thùy, Quản Kình nắm vụt lay tay chủ, thì thào:

                      - Sài kíu! Sói hoang hay có chủ?

                      - Tiếng tru mạnh tợn, có lẽ Hồng Cẩu Quẩy. Vùng này vẫn có chó sói...

                      Minh Thần vừa dứt lời, lại nghe vẳng tiếng sói tru tràng nữa. Vừa dứt, dư âm chưa ngấm hẳn vào ánh trăng mờ, bỗng xế nẻo thượng lưu sông Hắc có tiếng sói tru nhọn hoắt, vãi lên không liền hai tràng. Rồi cả vùng sơn thủy hiểm cố lại rơi vào im vắng sâu thẳm, bặt cả tiếng khảm khắc.

                      Cặp Hắc Bạch Cẩu phục bên Võ hếch mũi lên đánh hơi, chúi mõm vào chàng, kêu "hí hí" nhỏ.

                      - À nó báo có người. Hắc Bạch! Xuống coi mau! Minh Thần ghé tai truyền mật hiệu, hai con sơn cẩu phóng vụt xuống núi như hai mũi tên đen trắng, thoắt mất dạng. Nhưng chưa đầy ba phút, đã thấy hai con vật tinh khôn này vọt về, cắn áo phát âm nhí nhí. Minh Thần vỗ đầu chúng, người vật phục im sau ghềnh đôi cành xòa. Vụt đã nghe tiếng vó ngựa rầm rap chuyền sịch tới. Rồi từ sau núi, hiện ra một tốp nhân mã rầm rập đi thẳng ra bờ sông Hắc. Chỗ này đường mòn lượn ngay dưới chân núi bọn Võ phục rồi chạy quanh co sát lợi nước về nẻo thượng lưu giữa những mỏm đá nhap nhô cao thấp không đều, rất thưa cây cỏ. Thấy tốp người ngựa đi tới, Võ Minh Thần, Quản Kình vội rời chỗ ẩn, men xuống dưới. Chỗ này kín, nhiều mỏm đá che chắn hết sức thuận lợi, hai người cùng Hắc Bạch Cẩu vọt xuống còn cách mặt đất độ mười sáu thước thì tốp người ngựa kia cũng vừa ra tới bờ sông. Cả đám dừng lại, hướng cả về phía dòng trăng. Chừng hơn chục bóng khỏe mạnh, cưỡi ngựa, đeo súng, dàn đứng hàng một, tất cả mặc quan áo chàm rừng, chít khăn Mèo. Bọn này hộ tống một chiếc "cáng" lớn đóng trên lưng hai con ngựa khỏe giống Nước Hai. Cáng dài ngót hai thước, rộng khoảng bảy mươi phân, toàn bằng thổ cẩm màu sặc sỡ, mảnh phủ có tua, viền thủy ba màu, có một khoảng dệt trống làm cửa sổ hình tròn nhật nguyệt, trong còn có bức rèm trúc nhỏ, mỗi cơn gió thổi, trúc mành khua lách tách dòn khô. Phía sau càng có hai cô gái cưỡi ngựa Thổ nhỏ nhắn, mặc lối Mèo, chít khăn nhiễu vành như cái rế, chân quấn sà cạp trắng, đeo "xà tích" khua loảng xoảng. Cuối đoàn có một người Mèo trạc ngũ tuần, râu ba chòm lưa thưa, đi với hai gã cao lênh khênh, cưỡi ngựa cũng cao, hai tên này mặc quần áo đen tuyền, mặt trùm vải đen, chỉ hở hai con mắt coi âm u quái gở như hai bóng cô hồn vì cả hai con ngựa cũng trùm vải đen hệt ngựa kéo xe đòn đám ma. Dưới chân ngựa còn có hai con sơn cẩu lớn nữa. Cả bọn coi đung đoàn lữ hành từ miền xa tới, vì người ngựa đều ướt loáng mồ hôi, yên sau có cả hành trang. Vừa dừng lại, lão Mèo nói chi với hai gã trùm mặt, hai gã cúi xuống ra hiệu, hai con sơn cẩu vùng lên đi hai chân khật khưỡng tiến ra sát bờ sông, trèo lên một mỏm đá trống, ngửa mặt tru mỗi con một tràng "quăng quăng" âm nhọn vãi về phía mặt trăng lạnh. Lập tức có tiếng sói tru đáp ứng. Minh Thần thì thầm:

                      - Trùm mặt, sói tinh đi hai chân... đúng quân Ma Vương Sắc rồi. Không lẽ nó ngồi trong cáng? Nó thường ngồi kiệu, có chó đàn đi theo. Bọn Mèo kia là bọn nào đây?

                      Lúc này, cả người vật đều bôi thuốc không sợ sói đanh hơi, hai thầy trò Minh Thần ẩn sau ghềnh, chiếu nhãn tuyến quan sát đoàn lữ hành lạ, cả hai mừng khôn xiết, cố đợi nghe lỏm, nhưng tất cả câm nín như lũ oan hồn.

                      Bỗng nghe có tiếng kêu "kia rồi", lão Mèo cùng hai tên trùm mặt tiến ra phía bờ sông. Từ sau mỏm đá thượng lưu xế Bắc ngạn, phóng vụt ra một con sài kíu to lớn thuộc giống Hồng Cẩu Quẩy mắt đỏ, trên lưng "cõng" một bóng lòa xòa đen thui. Hình người sói chờn vờn dưới trăng khuyết, coi huyền bí hết sức, thoắt đã tới sát đoàn lữ hành, bóng lòa xòa nhảy xuống. Đó là một tên khổ người tầm thước, gầy đét, khoác mảnh chăn đen, cũng trùm kín mặt.

                      Tên này vừa nhảy xuống, hai tên kia lập tức nhay xuống theo, cúi rạp chào, vẻ kính cẩn hết sức, lão Mèo cùng toán người cưỡi ngựa hộ tống cáng cũng rạp chào xuống đất.

                      Một tên cao trùm mặt phát âm:

                      - Phìn Mường La Nam Cương trên núi cao đem con gái quý tiến cung, xin

                      Quỷ Môn Tiền Độn Thổ cung tiếp nhận.

                      Tên này nói giọng Thổ, nói xong quay lại bảo lão Mèo:

                      - Đây quan Chưởng vệ trấn cửa tiền vương cung Thủy! Phìa cứ nói. Giờ bọn này hết nhiệm vụ, phải quay lại cửa rừng.

                      Dứt lơi, bọn này định đi luôn, lão Mèo gọi giật:

                      - Chưa mở mắt mà! Tới sao chưa mở mắt? Hai tên này lừ lừ tiến lại cạnh lão Mèo. Mãi lúc đó, bọn Minh Thần mới kịp để ý thấy lão Mèo Phìa cùng bọn hộ tống, cáng gái hầu, ke nào mắt cũng dán tem đen. Hai tên này dùng thứ bông gòn tẩm thuốc riêng quét lên mặt tem trước khi bóc. Xong quay đi liền. Bọn Minh Thần mừng hết sức. Trên Mèo, ông Phìa cũng như chức chính tổng dưới Kinh, và Phìa là một chức quan coi một vùng lãnh thổ. Mường La nằm trên sông Nậm La thuộc Vân Nam, Nam Cương thuộc đất Việt vùng biên thượng.

                      Phong Thổ là miền sơn lâm trùng điệp và cũng như các miệt thượng du suốt từ Lĩnh Nam sang tới Quý Châu, Tứ Xuyên, sắc dân Mèo ở rải rác trên các ngọn núi đồi chót vót mờ sương.

                      Gái Mèo mắt hơi xếch coi giống mắt phượng, đùi dài thuôn lẳn, bụng thắt, nhũ căng đầy sức sống, nước da hồng hào vì khí hậu cao sơn rất tốt, xưa nay xứ Mèo thường sinh nhiều gái đẹp.

                      Vậy nay lại chính ông Phìa miệt Mường La, Nam Cương phải thân dẫn con gái tới tiến dâng cho Tây Sắc. Dẫu Phìa nhỏ hơn tù trưởng lớn, nhưng cũng là một thứ tù trưởng nhỏ địa phương, cũng đủ để bộ tộc thí mạng đương đầu.

                      Hai thầy trò Minh Thần bỗng sinh tò mò muốn coi mặt cô gái tiến cung. Sực nghe tên gầy đét có chức "Quan Chưởng vệ trấn cửa tiền" hỏi dõng dạc kho âm bằng tiếng Mèo:

                      - Phìa được lệnh Chúa Ma Vương cho tiến cung con gái, có thẻ bài chăng? Lão Phìa Mèo gật đầu moi trong mình ra một... miếng xương trắng hếu, có lẽ là xương người, mài giũa rất nhẵn, chừng trên có khắc hình chữ chi đó, nấp trên không thấy rõ. Chỉ thấy tên kia vừa cầm lấy soi ánh trăng coi qua, chợt kêu lên sửng sốt:

                      - À thẻ bài huy hiệu Tây Cung. Tây Phi mới mất, con gái Phìa được phong phi cung Tây.

                      Kêu xong, tên "quan Chưởng vệ" này lại cúi chào lão Mèo, đoạn xăm xăm tiến lại chỗ cáng đậu, nói một tràng tiếng Mèo:

                      - Chưởng vệ quỷ môn tiền, Độn Thổ cung nô tướng, xin bái yết Tây Phi và thỉnh Tây Phi nhập cung môn.

                      Bên trong có tiếng khóc thút thít đưa ra, lão Phìa Mèo đứng bên cáng vùng sa nước mắt bảo tên Chưởng vệ:

                      - Phìa hiếm hoi, trên ba mươi mới sinh được mụn con gái này. Nó tên Kheng Lan, mới mười tám tuổi, từ nhỏ chưa hề xa nhà, nay Chúa Sài lang tứ túc truyền đem tiến cung, nó sợ lắm, khóc suốt ngày đêm, xin Chưởng vệ tâu với Chúa Sài lang hãy rủ lòng bao dung, dạy dỗ. Phìa đội ơn.

                      Dáng vẫn lạnh lùng âm u, bóng đen lòa xòa có tôn hiệu "quan Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn" hơi nghiêng mình, lễ phép:

                      - Soái Vương Tinh vốn có thiên tính thích mỹ nữ lưng eo như Sở Linh Vương Hùng Kiều xưa. Nội trong Ngũ Cung Thập Viện, các nương nương cai quản cung viện đều thuộc bực "Tế Yêu Nương", cả năm cung đều là "Tế Yêu Cung" phi hậu. Lệnh Kheng nương đã được Soái Vương Tinh phong phi, cai quản cung Tây, đứng đầu hàng trăm mỹ nữ khắp hai viện, chẳng những đã được vương gia sủng ái, tất nhiên oai quyền trùm cung thất, không còn phải ngại điều chi nữa. Xin cho bái yết nương nương.

                      Dứt lời, y gọi con sài kíu lớn tới, cả người vật phủ phục luôn xuống đất, coi không khác thần dân, quan chức làm lễ triều phục trước ông hoàng, bà chúa vậy.

                      - Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn Độn Thổ cung xin bái yết Tây Phi Chúa nương nương trường thọ.

                      Thầy trò Võ Minh Thần nấp ngay ghềnh núi xế trên nghe y "tấu yết" không cười nổi. Cử chỉ ngôn ngữ y kể ra cũng đầy vẻ trào lộng, giữa vùng biên hoang dã, nhưng lòng hai người đang hồi hộp, chỉ thấy rõ là miền biên địa quạnh hiu vắng vẻ này chỉ có bộ mặt hoang sơ cô tịch, nhưng bên trong là cả một triều đình bí ẩn, với đủ thứ quái nhân, quái thú, cạm bẫy, ma xó, ma trành ẩn nấp tiềm tàng dưới đất, dưới nước và tuyệt đối trung thành với Ma Vương Sắc như lũ thiêu thân say mê nhảy vào "ngọn lửa ma".

                      Chợt nghe trong cáng có tiếng phụ nữ Mèo vọng ra líu lo, giọng vẫn đầy nước mắt:

                      - Thôi thôi! Mi đứng dậy, không phải lấy lời ngon ngọt lừa ta nữa. Đàn bà con gái vào cung Tây Sắc, còn gì mà chúc sống lâu! Chúa Sài Lang nhà mi chuyên hấp sát đàn bà con gai, vào cung Chúa Sài Lang ghê hơn vào địa ngục. Ta còn lạ gì thân phận gái tiến cung.

                      Nói xong, lại nghe tiếng hắt ra bi thảm hết sức, làm lão Phìa Mường La Nam Cương thương con gái quá, lại vùng sa nước mắt, miệng kêu "Kheng Lan con ơi"!

                      Tên "Chưởng vệ" cô hồn đứng dậy, tiến lại sát cáng, vẫn lễ phép bảo:

                      - Tây Phi nương nương lầm rồi! Mỹ nữ trong Thập viện sao sánh nổi các bậc "Tế yêu nương nương" trong Ngũ cung? Mỹ nữ Thập viện như loài hoa bứt đem cắm lọ, và "Tế Yêu Nương" Ngũ cung là những đóa hoa vương giả đời đời đậu nguyên trên cành để vương gia thưởng ngoạn nâng niu. Trong Ngũ cung đâu không có tiếng cười, chim ca hoa nở. Tế Yêu Nương đi một bước chuong khua nhạc nổi, đi hai bước hoa nở gót hài. Dương Quý Phi ở cung Đường, Tây Thi ở Cô Tô Đài Ngô Cung cũng đến thế thôi! Hàng vạn mỹ nữ trên đời ôm giấc mộng vàng son chưa được, dưới Cung Thủy chỉ có năm bậc quốc sắc mới được phong phi, hậu. Đời thục nữ tiến cung làm phi hậu là điều đại hạnh, hoa nở vườn thượng uyển càng thêm hương sắc, cớ sao lại héo sầu? Tây Phi hãy vui lên, để kẻ nô bộc này rước xuống Cung Thủy, vui duyên A Phòng.

                      Giọng y nói tiếng Mèo rất hay, tuy vẫn lành lạnh, mà nghe êm hết sức, hình như cũng làm gái tiến cung trong cáng đỡ lo buồn, héo hắt, kinh mang.

                      Thầy trò Minh Thần đều thông nhiều thổ ngữ sơn cước, nghe rõ từng lời tên "Chưởng vệ" cô hồn kia nói. Chàng trai bất giác thoáng ngạc nhiên nghĩ thầm:

                      - À tên cô hồn này xem chừng không phải chỉ biết nghề canh cửa cho Ma Vương. Y nói văn vẻ, chải chuốt như hạng "xuất khẩu thành chương", chứng tỏ đầu óc phong phú khác người. Ma Vương Sắc không hổ tiếng "thành tinh", đến kẻ nô bộc của nó cũng là tay điệu nghệ, còn nói chi nó nữa. Người như tên này cam tâm thờ Tây Sắc, chẳng hiểu do "ngải yêu" hay chỉ vì liệu tài hâm mộ? Tối nay, không ngờ lại nắm được "đường dây mật" đi cung động Ma Vương, phải cẩn thận giấu tung tích lắm mới được.

                      Đang bế điện, nín thở, theo dõi, chợt thấy mành trúc sào sạc, rồi bưc rèm che khung trống vén hẳn sang bên, có một khuôn mặt đàn bà lấp ló, nghển trông sang.

                      Chừng cảnh sơn thủy thượng nguồn Hắc Giang dưới trăng khuyết đầu xuân làm nàng xúc động, người nữ nhô hẳn cả nửa mặt ra với bơ vai thon lẳn. Ánh trăng xiên chiếu chếch khung cửa sổ, soi rõ mặt hoa rừng làm hai thầy trò Võ Minh Thần trông thấy phải khen thầm là trang mỹ nhân biên thùy, tuy mặt nàng vẫn che một lần "voan" mỏng như tơ trời, coi như gái Thổ Nhĩ Kỳ che chàng mạng. Dầu vậy cũng trông thấy dung nhan. Đó là một cô gái Mèo trạc mười bảy, mười tám, mắt hơi xếch, sáng long lanh, mũi thon, mặt hoa còn hoen nước mắt sau lần "voan" rất thưa, mỏng coi mờ mờ huyen ảo đẹp như bông hoa rừng còn ướt sương sớm.

                      Nàng đưa một tay lên nắm mép "voan" trùm, cất tiếng líu lo thánh thót như chim sơn ca:

                      - Đây là đâu... chú "vệ"?

                      Tên quan "Chưởng vệ" ngó lên hơi cúi đầu như không dám nhìn thẳng vào mặt Tây Phi sợ mòn mất nhan sắc Tế Yêu Nương của Chúa Sài Lang Tinh:

                      - Dạ, đây là thượng nguồn Hắc Giang ngoại cung thủy.

                      Cô gái Mèo tên Kheng Lan này đưa mắt nhìn cảnh sơn thủy nằm bặt dưới trăng khuya sương mờ, khẽ hỏi:

                      - Cung động đâu? Sao chỉ thấy núi đồi rừng cây như bên Mường La?

                      - Thưa nương nương, cung Thủy mãi dưới đáy sông Hắc phía trên nguồn nước kia.

                      Tên cô hồn "Chưởng vệ" đưa tay trỏ xuống Hắc Giang nguồn thượng xa xa chút, nơi sóng rừng cuồn cuộn, đá nhọn nhấp nhô ngăn dòng lưu thủy thành từng ngọn nước bạc đầu như hình quái nhân quái thú từ dưới vụng vừa chui lên chực nuốt người bội thủy.

                      Nghe y bảo cung động dưới sông, cô gái Mèo đầy vẻ kinh ngạc, lên tiếng hỏi nhưng tên này không đáp, có lẽ y vừa sực nhớ đã đi ra ngoài nhiệm vụ trấn nhiệm tiền môn, nên vội giang tay nói lớn:

                      - Giờ xin rước Tây Phi qua tiền môn, kẻ nô bộc này còn bào cho dưới cung Thủy lên đón. Còn Phìa và gia nhân có thể quay về Mường La. Phìa thân dẫn Tây Phi tiến cung tới tận tiền môn này, là tròn bổn phận rồi. Soái Vương Tinh sẽ hài lòng, chac sẽ tặng Phìa nhiều châu báu.

                      Lão Phìa Mèo nói luôn:

                      - Phìa không cần châu báu vàng bạc. Nhà Phìa có. Phìa chỉ cần đưa đứa con gái quý của Phìa xuống cung Thủy dâng cho Chúa Sài Lang là Phìa vui. Dẫn Phìa đi.

                      Tên cô hồn trùm mặt nghiêm giọng:

                      - Xưa nay vẫn có lệnh "nội bất xuất, ngoại bất nhập", "ai muốn vào chặt đầu để ngoài". Không có lệnh Chúa, kẻ này không dám dẫn. Phìa hãy trở về. Dưới Độn Thủy cung, ma trành, ma xó vật chết người. Kẻ này cũng còn chưa biết cung Thủy mà.

                      Lão Phìa xua tay:

                      - Không không! Phìa phải đưa con gái Phìa xuống gặp Chúa Sài Lang. Chúa đã bảo Phìa. Phìa không trao con gái Phìa cho ai đâu. Nếu không gặp Chúa Sài Lang, cha con Phìa về Mường La.

                      Tên cô hồn "Chưởng vệ" vẫn không nghe, chỉ một mực đòi thỉnh Tây Phi xuống Độn Thủy cung, có lẽ vì y quá sợ cấm lệnh của Ma Vương. Y dùng hết lời lẽ ngọt ngào khuyên lão Phìa, viện đủ điều khó khăn nguy hiểm, nhưng lão Phìa cũng nhất quyết đòi trao con gái tận tay Tây Sắc Tinh. Cuối cùng, chợt lão Phìa nói lớn:

                      - Chúa Sài Lang đã có lệnh cho Phìa đưa con gái xuống cung động. Nay "vệ" coi cửa ngoài cứ đòi Phìa về, một mình đem Tây Phi đi, hay "vệ" có ý như Phí Vô Cực? Phìa đã đọc Đông Chu, Phìa biết mẹo Phí Vô Cực à.

                      Chẳng hiểu sao, nghe lão Phìa Mèo nhắc tới chuyện Phí Vô Cực tráo hôn, tên "Chưởng vệ" cô hồn bỗng thất kinh, trợn tròn hai mat, không dám một mình lãnh gái tiến cung nữa, chắc y cũng chột dạ sợ mang vạ vào thân.

                      - Kẻ này không dám đem Phìa theo chỉ vì cấm lệnh. Để Phìa theo, phạm cấm điều, một mình lãnh Tây Phi còn lo tai vạ hơn nữa. Vậy cũng đanh dẫn cả

                      Phìa tới Độn Thủy cung để trong đó định liệu. Thôi. Phìa cùng hai thể nữ mau rước Tây Phi theo kẻ này, còn toàn quân hộ tống hãy theo bọn tiền sát trở ra.

                      Lão Phìa cả mưng, vội truyền đám gia đinh lập tức quay ra, mắt vẫn bịt kín, đoạn cùng hai cô gái hầu "phò" nàng Kheng Lan theo tên "Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn" đi thẳng lên nẻo thượng nguồn Hắc Giang.

                      Đợi bọn này đi khỏi quãng ngắn, hai thay trò Võ Minh Thần bèn truyền "xó quỷ" mở đường, dẫn Hắc Bạch Cẩu theo hút luôn chúng.

                      Nhờ có hồn quỷ xó Ma Khách và cặp sơn cẩu thính hơi, bọn Minh Thần phát giác ra được tất cả các trạm gác ngầm dưới đất, trong kẽ đá. Khu này cũng chỉ có một vài trạm gác, có lẽ vì đã lọt nội cung, thủ hạ đóng ngoài vòng đai. Nhờ tại dạ hành điêu luyện, hai người đã vượt êm thắm không hề bại lộ.

                      Tên Chưởng vệ dẫn đám lão Phìa đi dọc bờ sông quanh co ẩn hiện giữa mỏm đá, cây cỏ, bờ bụi, chừng nửa dặm nữa, chợt dừng lại, con Hồng Cẩu Quẩy vênh mõm tru lên ba tiếng dài, tiếng sói tru trăng khuyết đêm sương lạnh, kẻ bạo gan nghe cũng phát rợn vì âm gai quái gở như trong ác mộng hồng hoang. Lập tức có tiếng sói tru đáp ứng giữa sông.

                      Bọn Minh Thần đứng cách đó chứng 20 thước ẩn trong bụi rậm đưa mắt quan sát, thấy khu này địa thế, thủy thế hiểm hóc, vừa cẩm tú lạ thường. Hai bên tả hữu ngạn, núi đồi rừng rú trùng trùng điệp điệp, nhấp nhô hình quái tượng, tuy về cữ giêng, hai không có mưa nguồn nước lũ, Hắc Giang khúc này coi vẫn "nghịch" hết sức, nhiều ngọn bạc đầu, vụng xoáy đựng đầy ánh trăng, nước réo ào ào phát ra một thứ âm rất lạ tai, nghe ầm ừ như tiếng thú dữ "gừ" mồi, có lẽ xói vào những hốc ghềnh chìm nổi dị thể.

                      Bọn Minh Thần đảo mát nhìn, phỏng đoán có lẽ khúc này nằm giữa hai lãnh thổ, bốn bề tuyệt không ánh lửa le lói. Sực nghe tên Chưởng vệ trùm mặt bảo lão Phìa, tay trỏ ra sông:

                      - Cung Thủy dưới đó.

                      Cả hai cha con lão Phìa cùng hai cô sơn nữ tỏ vẻ kinh ngạc, cô gái được phong Tây Phi vén rèm trúc, thò hẳn đầu ra dòm:

                      - Cung Thủy đâu? Có thấy căn nhà nào đâu?

                      Tên Chưởng vệ phát ra tiếng chìm âm u:

                      - Quỷ tiền môn Độn Thủy cung đến đây là hết nhiệm vụ kẻ này. Từ đây lên phía thượng nguồn Tây Bắc thuộc "vệ" khác. Từ đây xuống dưới thuộc Độn Thủy cung. Kẻ này cũng chỉ biết cung động soái vương Tinh Quân dưới đó, kẻ này trấn đã mười năm trên này, vẫn chưa được thấy cung son. Lệ của Tinh Quân Chúa, đàn ông cứ hầu một giáp sẽ được xuống xem thủy cung.

                      Hai cha con lão Phìa vẫn chưa dứt kinh nghi sửng sốt, lão Phìa chợt bứt râu than:

                      - Ôi chao! Cung ma cung quỷ gì lại xây dưới nước như lâu đài vua Thủy Tề. Chúa Sai Lang ngự được, con gái lão là người cõi thế, xuống bội thủy mất thôi.

                      Tên Chưởng vệ lạnh lùng:

                      - Chúa Tinh Quân cho ai xuống, kẻ đó có kỳ duyên được ở động thần như trên mặt đất. Dưới cung A Phòng có cả Ngũ Cung Thập Viện, đầy chim kêu hoa nở, kỳ diệu như miền nước nhược non Bồng, giống như cung vua điện chúa trên trần.

                      Y vừa nói xong, bỗng nghe đến "ùm" một tiếng lớn dưới sông Hắc, ai nấy giật mình trông ra, không khỏi lạ lùng thay từ dưới đáy nước bắn lên một con đại chiêm ngư cực kỳ quái gở. Con cá bắn mình lên khỏi mặt nước hơn sải, mang theo cả một khối nước trắng xóa theo chiều chếch 45 độ, quạt nước thốc về phía đuôi coi như cái dải quạt. Khi nước tóe cầu vồng đã trút hết xuống, con đại chiêm ngư mới vật mình nổi phờ trên mặt sông, bơi vụt vào chỗ lão Phìa đứng. Dưới trăng khuya, thì ra không phải con cá quái, mà là một cái thuyền độc mộc không mái, hình thuyền coi như con quái nước kỳ dị. Trên thuyền có hai bóng người đen thui, mũi thuyền sơn son, có thiếp vàng chạm trổ lấp lánh coi như thuyền thờ.

                      Hai bóng người đứng cứng đơ, thỉnh thoảng mới ngoáy bơi chèo nhẹ chọc xuống nước, coi như hình gỗ đá. Nhưng chỉ vài mái chèo chọc nước, con thuyền sơn son đã lao vụt vào bờ, nhanh xé nước.

                      Bỗng nghe "bựt" một tiếng, ai nấy nhìn xuống đã thấy thuyền bật lên một cái núm gấm lam, trùm uốn cửa tò vò che kín một khoảng đuôi thuyền.

                      Sự vọt xuất đột ngột của con thuyền son làm cả bọn lão Phìa lẫn bọn Võ đều có cảm giác chứng kiến một cảnh phi phàm. Tên Chưởng vệ cô hồn trỏ tay, giọng trở nên háo hức:

                      - Coi kìa! Thuyền son dưới cung Thủy lên rước Tây Phi. Ngồi trong cáng, nàng con gái ông Phìa nghe nói có người lên đón, có vẻ xúc động, vén rộng mành trúc, thò cả đầu ra dòm, miệng hỏi "đâu, đâu? ". Còn lão Phìa lật đật bước theo tên "quan Chưởng vệ Độn Thổ cung" ra sát bờ sông. Nấp xế gần cáng, bọn Võ Minh Thần chú mục trông ra, thấy con thuyền quái từ dưới đáy sông vọt lên, bao nhiêu nước trong lòng thuyền chảy ồ xuống sông hết, y hệt thuyền độc mộc đổ thác Bà thác Ông miệt Lục Yên châu, và khi thuyền hạ xuống theo đà chèo lao đi vùn vụt theo một vệt thẳng băng kẻ chếch từ ngoài vào, hai thầy trò không khỏi khen thầm cho tài chèo thuyền của hai bóng đen thui. Võ Minh Thần nghĩ ngay đến sức đẩy khác thường, ghé tai bảo Quản Kình:

                      - Dưới nước, nếu không do một sức đẩy phi phàm, tất dưới đó có dây cáp cần trục đầy lên. Chắc còn nhiều cạm bẫy.

                      Chàng vừa dứt lời, con thuyền dị đã cập bờ, lượn vòng thúng, đậu quay mũi vô hướng thượng lưu, mặt nước cách mặt đất độ ba thước cao, hai bóng đen chỉ lắc nhẹ một cái đã vọt lên đứng cạnh tên Chưởng vệ trên bộ.

                      Hai bóng này đứng lù lù như tượng đá, câm nín như cô hồn. Nhìn gần, bọn chúng trông càng giống tượng, coi càng gớm ghiếc, vì thân thể chúng không mặc quần áo, mà lại bọc một thứ sáp hay chi đó, tựa thứ nhựa của sắc dân Mán sơn đầu vẫn dùng để làm "bê rê nhựa". Suốt từ bàn chân lên đầu đều bọc một thứ nhựa sáp đen thui, vẫn giữ nguyên hình tứ chi mình mẩy, cái đầu nhẵn thín hệt Mán sơn đầu, chỉ có các khớp xương chính là có đường để cử động. Dưới ánh trăng khuyết, coi cái mặt chúng, kẻ bạo gan cũng phát rợn, vì mặt bọc nhựa và giữ nguyên hình mồm miệng mũi mắt, nhưng đã hóa một cái mặt nạ có mấy lỗ mắt mũi mồm tai như mấy lỗ huyệt, sau lần nhựa sáp, hai cặp mắt chúng đỏ khé như mắt thú rừng ăn đèn săn, coi không khác hai cái "xác ướp" giữ mồ Kim Tự Tháp vừa đội mồ sống lại sau mấy ngàn năm đứng trong lòng đất Ai Cập.

                      Không chậm trễ nửa khắc, tên "Chưởng vệ Độn Thổ cung" nói:

                      - Đây ông Phìa Mường La đem gái tiến cung. Soái Vương chúa sắc phong Tây Phi, chưởng quản cung tây Tế Yêu. Còn đây là quan Chưởng vệ Độn Thủy cung tiền môn dưới cung Thủy.

                      Hai bóng vẫn đứng như xác ướp giữ mồ, phát âm trầm khô:

                      - Kiểm chứng! Khách quý có tín bài?

                      Lão Phìa lấy mảnh bài ngà xương chi đó trao cho hai tên bọc nhựa. Tên cao hơn chút đỡ lấy, lật đi lật lại coi, đoạn trả lại lão Phìa, hai tên nhất loạt tien lại bên cáng phục luôn xuống kính cẩn:

                      - Độn Thủy cung Chưởng vệ hạ quan nô thuộc xin bái yết Tây Phi, chúc nương nương sống lâu trường tồn.

                      Cô gái tiến cung thò tay ra xua lia lịa, kêu líu lo:

                      - Ôi chao! Còn bày chuyện lễ lạy, phi phi nương nương là gì cho thêm tủi người ta. Chúa Sài Lang các người bắt ta phải nạp mình hầu chăn gối Sài Lang, không chịu cả nhà bị chó sói ăn thịt, có vinh hạnh gì đâu mà các người cứ mãi xưng hô bái lễ mãi. Nay ta đã đến đây, mau đưa xuống động ma động quái cho xong kiếp hồng nhan. Hai tên vẫn phủ phục, một tên ngước trông lên, nghiêm giọng:

                      - Tây Phi chưa biết cung Thủy nên nói vậy đó thôi. Cung Thủy của vương chúa nhan sắc là miền nước Nhược non Bồng trên trần, cung vua điện chúa chưa sánh kịp. Nương nương được phong Phi, chưởng quản Tế Yêu cung Tây, địa vị tôn quý không ai bằng, trăm ngàn my nhân vọng ước suốt đời chưa được. Tế Yêu cung tháng ngày chỉ có tiếng đờn ca, chim hót, hoa nở, rượu ngon, yến tiệc vàng son, gấm vóc; mỗi bước Phi đi gót nở hoa vàng... Kẻ nô bộc này tưởng nương nương xuống cung Thủy một lần, suốt đời không muốn trở lên cõi thế trên bộ nữa.

                      Dứt lời, cả hai gã "người bọc nhựa" nhất loạt đứng dậy. Võ Minh Thần nấp nghe, không khỏi ngạc nhiên, thầm nghĩ:

                      - Lạ dữ chưa! Tụi cô hồn canh cửa Tây Sắc Tinh sao tên nào ăn nói cũng văn hoa bóng bẩy, xuất khẩu thành chương? Hay Tây Sắc bắt chúng học thuộc lòng? Hừ! Cứ nghe lời chúng ta, cung A Phòng của Tây Sắc là miền hoan lạc như chốn Bồng Lai, ai dám chắc là cái "lò hấp sat", "ngục giam giữ đời hoa"?

                      Sực lại nghe một tên "người bọc nhựa" lên tiếng thỉnh Tây Phi sửa soạn xuống cung Thủy. Tên Chưởng vệ trên bộ bảo:

                      - Phìa muốn theo dẫn Phi xuống gặp mặt Soái Vương gia. Phìa bảo Soái Vương gia đã cho lệnh tại Mường La.

                      Hai tên quái nhân bọc nhựa sáp cũng sợ phạm cấm lệnh. Lão Phìa nhất định đòi theo con gái, nói mãi không được, lão lại đem chuyện Phí Vô Cực tráo hôn nàng Mạnh Doanh ra dọa, gã "bọc nhựa sáp" lúc đó mới chịu nghe lời. Cực chẳng đã, tên cao Chưởng vệ Độn Thủy cung phải chép miệng bảo:

                      - Xuống cung Thủy rất khó khăn, cách trở nước sông, hang sâu vực thẳm. Vậy Phìa và nương nương hãy cho gái hầu trở về, còn theo kẻ nô thuộc này. Ngựa cũng phải để lại trên bộ.

                      Cô gái ngồi cáng nói vọng ra:

                      - Thị nữ sẽ hầu ta dưới đó, ngươi cứ dẫn cả theo. Chúa Sài Lang không trách phạt đâu.

                      Hai tên bọc sáp ngó nhau mấy khắc. Tên cao vùng cao giọng:

                      - Đêm khuya rồi! Thỉnh Tây Phi xuống thuyền, còn tới "lò nấu sáp"!Lão Phìa ngơ ngác nhắc "lò nấu sáp". Tên cao phát âm Thổ:

                      - Cung Thủy không giống trên bộ. Ai cũng phải nấu sáp mới xuống dưới đó được.

                      Lão Phìa Mèo Mường La lại gần cáng, nói vọng vào:

                      - Kheng Lan con! Theo cha! Giờ phải xuống thuyền! Để nó tháo cáng, cuốn lại!

                      Hai gái hầu lập tức lấy ra một cái thang gấp nhỏ, bắc dựng len ngựa. Nàng Kheng Lan vén rèm phủ, bước qua lưng ngựa, xuống thang. Cặp gái hầu nhanh nhẹn tháo cáng, cuốn lại cùng một bó hành trang.

                      Dưới trăng vơi, hai thầy trò Võ Minh Thần lúc này mới nhận ra nàng Mèo Kheng Lan mặc lối Mèo hoàn toàn, chân có quấn cả xà cạp, nhưng có điểm khác là xà cạp cùng màu với khăn chít, màu cá vàng, rất ăn ý với bộ quần áo Mèo tay rộng, màu xanh không phải xanh chàm cố hữu mà là màu xanh đậm. Minh Thần thì thào:

                      - Chú thấy không? Nàng Mèo tiến cung này văn minh lắm. Vẫn dùng y phục bộ tộc mà màu sắc lại phảng phất lối cô dâu Kinh bên Nam. Kể cũng không lạ. Bên Tàu đất rộng, nhiều vùng biên thường giao tiếp với bên Nam nhiều hơn nội địa. Dân Mèo sống trên núi cao, biên giới bị họ xóa nhòa là thường. Cô Mèo này lọt mắt Tây Sắc Tinh kể cũng khổ. Gái đẹp phải làm vợ chó sói.

                      Quản Kình im bặt, quay nhìn tiểu chủ, chàng trai vừa thở dài, cắn chặt hàm răng. Hình ảnh dĩ vãng lại hiện về, đầy nắng quái hoàng hôn nơi biên thùy Trùng Khánh phủ mười bảy, mười tám năm xưa, người đàn bà quốc sắc thuộc bộ tộc Thái, Thổ chi đó bị Chúa Sài Lang hấp sát thành cái "túi da người" chỉ vì không cam tâm thờ chó sói... Người đàn bà đã chết thảm nhục giữa thời xuân sắc, để lại trên đời một giọt máu mồ côi với mối thù chung thân chưa báo được.

                      Hai thầy trò Võ trông theo, thấy con thuyền không theo hướng cũ, mà cứ lướt vùn vụt lên thượng lưu. May khúc này cũng quang, trăng chiếu nên vẫn thấy rõ. Đợi cho tên Chưởng vệ trên bộ khuất hẳn, hai người mới truyền "xó Khách", Hắc Bạch Cẩu đi trước mở đường, rồi mới theo sau. Nhưng may từ chỗ này đi, không còn trạm độn thổ nào nữa.

                      Hai người nương bóng tối mờ, vọt theo thuyền cung Thủy, chừng trăm thước, không thấy đâu nữa, bèn lướt thẳng tới, phát giác con thuyền đậu sâu một ghềnh đá, lau lách mọc đầy, dưới thuyền chẳng còn bóng nào. Nhưng với "xó Khách", chó thính, bản lãnh cao, hai thầy trò Minh Thần cũng tìm luôn được chỗ hai tên Chưởng vệ cung Thủy đưa cha con lão Phìa Mèo vào, cách chỗ thuyền đậu chỉ độ ba mươi thước xế.

                      - Cậu hai! Tôi làm cậu buồn! Bậy quá!

                      - Có gì đâu. Hừ! Loài cẩu trệ! Đêm nay tôi sẽ làm cho vong hồn mẫu thân được ngậm cười trong cõi u minh.

                      Ngay khi đó, tên Chưởng vệ trùm mặt cúi chào bọn lão Phìa, nhảy lên lưng sói, dắt ngựa lộn ra phía ngoài, lao vọt qua chỗ hai người nấp. Hai tên dưới cung Thủy thỉnh bọn Phìa Mèo xuống thuyền cáng mui gấm vóc. Thuyền quái lướt ngược dòng Hắc Giang.

                      Đó là đầu dải núi, mấy bề cây cỏ um tùm, nơi chân núi có một cái cửa tò vò đen ngòm như cửa địa ngục.

                      Hai tên cung Thủy "bọc sáp sơn dầu" vẫn đứng xế bên cửa tò vò với bọn lão Phìa Mèo như chờ đợi chi, đứng xa xa thầy trò Võ thấy tên cao chỉ trỏ làm hiệu, chừng như đang căn dặn điều chi.

                      Chừng mười phút, bỗng trong cửa tò vò lừ đừ đi ra hai bóng đen lòa xòa, trùm mặt. Tên chưởng vệ Độn Thủy cung vùng cao giọng:

                      - Mọi thứ xong rồi! Giờ Phìa có thể đưa Tây Phi vào lò nấu sáp. Xin chớquên lời dặn. Coi chừng sơ ý có thể nguy hiểm.

                      Lão Phìa Mèo lập tức cùng cặp gái hầu đưa cô gái Kheng Lan vào bốn lò nấu sáp. Hai tên chưởng vệ cung Thủy vẫy tay, truyền hai bóng lòa xòa kia cùng đi ra phía bờ sông đợi.

                      Minh Thần, Quản Kình tò mò, chẳng hiểu trò "lò nấu sáp" có chi lạ. Hai người đứng vài mươi giây, Minh Thần nảy ý muốn vào do thám xem sao, bèn bảo Quản Kình đứng ngoài, đoạn đi vòng sang phía hữu, nương bóng tối lách vào cửa tò vò.

                      Tối mờ, nham nhở. Trước mắt Võ có một bức rèm màu đỏ buông sát nền chia đôi gian đá. Trong màn, lửa cháy rừng rực, hắt soi mấy bóng nữ đen ngòm, cao lêu nghêu như bóng quỷ nhập tràng. Có nhiều tiếng líu lo thánh thót hắt ra, toàn tiếng Mèo.

                      Chàng trai rón rén bước lại bên rèm, nhẹ kéo hở chút, ghé mắt dòm vào. Thì ra là lò nấu sáp. Mot cái bếp rất to, bếp kiềng đường kính rộng hơn thước, chiếu cao non thước không đậy vung. Bếp đốt củi thông, lửa bốc cao liếm thành chảo, trong chảo đang sôi sùng sục một thứ chi đặc sệt như cháo kê, cạnh đấy có máng nước chảy ồ ồ và một bể đá, bên kia là cái bể nữa đựng những cục vàng vàng, đen đen như sáp ong, nhựa đường. Cô gái Mèo tiến cung và cặp gái hầu đứng bên bếp, một cô gái cầm gáo múc nước đổ vào chảo, còn một cầm xẻng xúc sáp nhựa đổ vào.

                      Chảo sáp sôi sùng sục xông mùi hắc, chợt nghe một cô gái hầu lên tiếng giục:

                      - Sáp chảy hết rồi kìa, xin "cô nàng" thay xiêm áo.

                      Vừa nói, cô sơn nữ này vừa lại xách lấy một mớ quần áo mỏng như giấy, đứng gần Kheng Lan.

                      - Nào thì thay! Vừa nói, Kheng Lan vừa lần tay cởi khuy áo.

                      Chợt cặp gái hầu khiêng trong hốc đá ra ba pho tượng gỗ. Giật mạnh một cái tượng bể làm hai, mới hay tượng rỗng. Cặp gái hầu áp luôn vào mình mẩy Kheng Lan. Chát! Pho tượng rỗng "ăn mộng" vừa khớp, nàng đã chui vào ruột tượng.

                      Rất nhanh, hai gái hầu lại giúp nhau chui vào ruột tượng, thoắt cả ba đều hóa ba pho tượng gỗ đứng lù lù.

                      Hai cô gái kêu "giờ bắt đầu đổ khuôn", và mỗi cô vớ lấy một cái gáo múc nhựa sáp đang sôi sùng sục đổ rót luôn vào đỉnh đầu tượng, nơi có một lỗ thủng bằng đồng xu, cắm một cái phễu sắt.

                      Võ động lòng, chợt hiểu:

                      - À! Chúng đổ khuôn mặc quần áo sáp nhựa cho gái chủ. Sôi sùng sục thế kia nêu không có chất chi kỵ nóng chắc thành heo luộc mất. Bọn gái Mèo lúc nãy coi ủ ê sướt mướt, giờ coi mạnh bạo không sợ hãi chút nào, kể cũng lạ.

                      Hai gái hầu đổ một chập mấy chục gáo đặc sệt, phát tiếng "ọc ọc" như đổ chè đặc vào chai, bỗng nghe âm âm có tiếng cười từ tượng gỗ vọng ra:

                      - Ha ha! Không đến cái cung chó má này làm sao được nếm mùi "đúc tượng đúc chuông"? Kể Chúa Sài Lang cũng khôn dữ à. Đã cho mặc áo phèn chua, lại còn hồ cả người bằng "xà phòng" thơm phép thần thông giỏi lắm! Nào! Xong chưa để ta đổ khuôn cho?

                      - Dạ cũng gần xong! Bỗng thấy hai cô gái hầu dừng tay, trao gáo cho Kheng Lan, nàng Mèo múc sáp nhựa đổ khuôn cho cặp gái hầu. Xong, lại gói các thứ xiêm y cùng thổ cẩm vật dụng thành mấy gói, lấy giấy sơn quang dầu bọc lại, đem bọc sáp het. Giây phút xong, cả ba tháo khuôn tượng cho nhau. Tượng gỗ vừa bể đôi, trong lò nấu sáp đã hiện ra ba "xác ướp giữ mồ" coi gớm ghiếc. Chợt nghe tiếng lão Phìa gọi gian bên, Võ Minh Thần vọt luôn ra, vừa kịp lão Phìa bọc sáp cùng ba gái Mèo ra ngoài, lúc này coi cứng nhắc đúng bốn pho tượng sáp.

                      Bốn hình bọc sáp nhựa vừa ra, hai tên trùm mặt coi lò nấu sáp lập tức đi vào cửa tò vò. Nghe "rịch" tiếng nặng, cửa tò vò biến mất, thầy trò Minh Thần trông vào chỉ thấy vách đá lạnh lùng như ngậm kín bí mật Hắc Giang.

                      Bọn lão Phìa Mèo Mường La Nam Cương theo hai tên Chưởng vệ cung thủy bước xuống con thuyền quái có căng khoảng mui gấm.

                      Hai thầy trò Minh Thần nhìn theo, thấy chúng lấy dưới sạp ra mấy bình dưỡng khí đeo cho bọn lão Phìa, sáu người sáu chiếc như các tay thợ lặn vẫn dùng, nhưng nhỏ gọn hơn.

                      Ngay khi đó, hai tên Chưởng quản đã vớ bơi chèo khuấy nước, con thuyền rời khóm lau sậy lướt chếch ra ngoài dòng.

                      Ánh trăng vàng nhạt chảy đầm đìa mặt Hắc Giang, sương mờ từng dải kéo lê trên bờ dưới nước, bốn bề quạnh quẽ tiêu sơ gió lùa lau lách đìu hiu... con thuyền chạy vát thượng lưu ra tới giữa dòng thì có ngọn nước bạc đầu nhấp nhô, bỗng nghe "bùm" như tiếng mìn nổ dưới nước, khói xám tỏa rộng mặt sông, chắn mất tầm mắt hai người.

                      Nửa phút sau, khói tan hẳn, nhìn ra giữa dong chỉ thấy một vùng sông nước đìu hiu, nguồn đổ ào ào, sương đêm vương vất, chẳng thấy con thuyền quái dị kia đâu nữa.

                      Sực nghe tiếng thét gai rợn như vuốt nhọn cào tai người:

                      - Mùi cỏ dập hăng, có đứa nào vừa đi qua đây! Bọn mi canh "Lò nấu sáp" không thấy? Tụi gác cung độn thổ biết chưa? Hai thầy trò Võ Minh Thần nghe rõ mồn một, lòng không khỏi ghê thay tài đánh hơi ma quái của con tinh chúa.

                      Bỗng nghe tiếng người đáp giọng Thổ cực kỳ cung kính, như tâu với vua chúa:

                      - Khải Chúa thần thông, không gì qua mắt chúa. Mùi cỏ dập đó quả mới có khách đáo lâm, kẻ nô bộc này cũng vừa đóng cửa lò!

                      Có tiếng Ma Vương hét:

                      - Khách nào?

                      - Khải Chúa, Chưởng vệ Độn Thổ cung mới dẫn vào một đám khách bên Tàu sang, xưng Phìa Mường La, đem Tây Phi tiến cung. Chưởng vệ cung thủy tề đã cho mở lò nấu sáp!

                      Có tiếng "à" lớn, tiếp liền giọng Ma Vương Sắc dịu hẳn đi, đượm nhiều hứng khởi:

                      - Phìa Mường La Nam Cương mới tới? Hà hà! Lão Phìa này biết uy lệnh Chúa Sài Lang, đáng thưởng nhiều vàng bạc! Tây Phi đâu?

                      - Khải, nấu sáp mặc áo độn thủy xong, nương nương đã được Chưởng vệ cung thủy đưa xuống cung thủy. Khải, thuyền mui gấm đi khỏi, có cả Phìa cùng hai gái hầu nương nương.

                      - Cho bay lên! Có tiếng dạ ran, tiếp liền tiếng tru lảnh nhọn, lập tức đàn Hồng Cẩu Quẩy chồm đi nhấp nhô như sóng cuộn. Nhưng chỉ bước lững thững, riêng cỗ kiệu son vừa di chuyển vừa lướt chếch ra sát bờ sông Hắc, thoắt đã đi qua xế chỗ bọn Võ nấp.

                      Võ Minh Thần xách áo bảo Quản Kình:

                      - Chú cùng cặp sơn cau ở trên này! Tôi đem "xó" xuống tùy cơ ứng biến. Giờ phải bọc súng, quần áo lại! Quản Kình chỉ muốn theo, nhưng thấy chủ có lý, đành chịu phép. Minh Thần cởi phăng quần áo, súng lục, dụng cụ thiết yếu bỏ vào một mớ, dùng sáp đem theo sẵn bọc kín lấy cho khỏi ướt.

                      Đoạn mặc quần áo chẽn bằng da rái cá ghép, đeo gói di hài mẫu thân, chàng tuổi trẻ vỗ mạnh vai Quản Kình. Kình nắm lấy tay chủ, cả hai câm nín, nửa phút mới buông nhau ra. Minh Thần bắt quyết gọi "xó", truyền khẩu lệnh xong, chàng trai lao "bõm" xuống dòng Hắc Giang đêm mất tăm.

                      Người quản gia dẫn Hắc Bạch Cẩu vọt vào bóng cây biên địa, sông rừng chỉ còn trăng khuya treo đầu núi như lưỡi hái tử thần lăm le hạ xuống cổ kẻ nào tò mò dám lần tới vùng "lãnh thổ Ma Vương".

                      Ngay sau khi lao xuống dòng sông lạnh, Võ Minh Thần lập tức vận sức điện công cho ấm người, cứ thế chiếu hướng lao chênh chếch ra phía chiếc thuyền son vừa mất dạng. Sông hồ càng dưới sâu càng ấm, khí lạnh sông hàn thường chỉ có phía trên.

                      Hắc Giang thượng nguồn có lắm đá ngầm nên dưới sâu có nhiều luồng xiết kỳ dị cùng những vụng xoáy sâu thẳm chỉ chực uốn xoắn người vào các nhũ đá tai mèo, răng cưa, kẻ không giỏi bơi lặn bị nước xoáy chạm phải sẽ nát mình như bị hàng trăm lưỡi dao sắc băm vằm, không kém kẻ lội qua suối bị ngã, nước cuốn vào đá ngầm vậy.

                      Nhờ đã học được thuật độn thủy của Xích Quỷ Ngũ Đầu Nam, Võ Minh Thần cứ lao vùn vụt xuống đáy sông, trườn lách qua khu đá tai mèo tìm kiếm cửa động. Khi đã phỏng ước đến chỗ thuyền mất dạng, Võ mới nhô đầu lên quan sát thuy thế, rồi lại hụp ngay, lao hẳn đến khu hiểm hóc.

                      Chỗ này quá giữa sông, nằm xế bên tả, đá ngầm, đá nhô khỏi mặt nước trùng trùng. Võ bám sát đá ngầm nhè nhẹ nhô lên, tai nghe âm thanh dưới nước thật lạ, nhờ đêm trăng, nước về xuân không có lũ nên trong vắt, thấy được lờ mờ.

                      Võ Minh Thần lần vách đá trồi lên suýt đụng phải chùm thủy lôi thả chìm dưới mặt nước khoảng một thước tây xuống, trái thấp trái cao không đều, chàng trai phải lách giữa mớ thủy lôi để nhô lên vì ngay bên có một tấm lưới thép đen xỉn khác hẳn nước chỗ khác.

                      - À lọt vào khu cạm bẫy! Nếu vậy các mỏm đá chắc cũng có tẩm thuốc độc! Có lẽ phải kiếm đúng khu chiếc thuyền trồi lên, mới ra cửa động!

                      Minh Thần nhờ học được nghề bơi lặn của Ngũ Đầu Nam, lúc này chàng có thể vẫy vùng, thở ngay dưới nước như loài thủy tộc nên chuyện độn thủy không còn khó khăn nữa, thoắt chàng đã nhô lên mặt sông lượng định vị trí.

                      Nhưng vừa thò đầu lên chàng đã phát giác ngay một con Hồng Cẩu Quẩy ngồi chồm chỗm giữa khe đá khuất, thò đầu lên dòm mặt trăng khuyết, nửa mình nó in vào nền trời vàng úa, thoạt nhìn có thể lầm tưởng đó là một mỏm đá giống hình con chó sói. Minh Thần nhô xế bên sườn nên nó không hay, chàng trai lại lặn luôn, vòng sang phía tả ngạn.

                      Bỗng chạm phải một sợi dây cáp, dưới chiều sâu khoảng ba thước.

                      - À! Ta hiểu rồi! Chiếc thuyền son ban nãy đã chạy trên dây cáp này, do một bộ máy hay có sức khỏe đẩy lên. Nếu vậy, cuối dưới dây cáp này có thể là cửa động.

                      Minh Thần cả mừng lập tức độn thủy lao chúc đầu theo đường "cáp" xuống mãi. Nhưng chỉ hai sải, dây "cáp" lại chạy ngang sang mỏm đá khác, rồi mới ăn chênh chếch xuống nữa, chỉ chừng mười lăm độ. Chàng cứ theo đường dây lao vun vút mãi, được chừng mười sải, chợt lòng sông tối sầm lại.

                      Vận nhãn tuyến trông, mới hay đang vào giữa kẽ đá, chừng một cái hốc vụng lộ thiên, vách đá có chỗ chỉ cách dây độ thước tây. Chàng có đeo kính lặn có cả đèn rọi, nhưng không bật đèn, sợ lộ. Cứ lần dây lao xuống, thỉnh thoảng dừng lại thở hít lấy khối lọc dưỡng khí vào phổi. Đường xuống cung động Ma Vương này hiểm hóc vô cùng, nếu phải nhịn thở độn thủy chắc khó lòng nín hơi lần tới đích.

                      Lướt vào hẻm đá lộ thiên chừng năm, bảy sải chếch, bỗng trước mặt tối om, trông lên không thấy vệt nước sáng trên mặt sông nữa. Và trên dây "cáp" đậu lù lù một con thuyền cổ quái. Hình thuyền mờ mờ hiện ra với nét quen quen, đúng con thuyền vừa lên đón cha con lão Phìa Mèo.

                      Có một con đường vòng uốn cong như cái cầu vồng nối liền hai vách đá. Minh Thần lướt lên trốc thuyền đi, vận hết nhãn lực quan sát, mới hay đó là một tấm biển. Sờ thử, đó là biển đá nhẵn như mài, trên có một hàng chữ Hán cẩn vàng nổi lấp lánh giữa cảnh tranh tối tranh sáng, hình như chữ bằng vàng y. Chàng ghé mắt nhìn, nhưng đêm trăng nhạt, dưới đáy Hắc Giang tối mờ trông không rõ đủ nét, chàng bèn thò ngón tay sờ thử từng chữ một: "A PHÒNG CUNG" Nét chữ nổi sắc như dao cắt truyền qua xúc giác Võ Minh Thần vang âm trong trí chàng trai thành ba tiếng gọi cực kỳ quyến rũ, khiến cặp mắt chàng trai vụt sáng tia hận thù sau lần kính lặn.

                      - À! A Phòng! Hang A Phòng dưới đáy Hắc Giang sào huyệt của con tinh chúa tứ túc Hồng Cẩu Quẩy đây rồi! Đội ơn thiên địa đã run rủi kẻ mồ côi khốn khổ này tới được cửa Ma Vương Sắc! Song thân oan khuất, hồn có linh xin về chứng kiến giọt máu rơi này vào hang tinh sói, báo thù chung thân!

                      Tự nhiên máu như sôi sục, Võ Minh Thần hiểu ngay đây đã bắt đầu vào cửa tử thần, chàng trai đưa tay bấm cung, triệu "xó quỷ", tay kia bịt kín miệng hú khẽ truyền quyết lệnh:

                      - Ma Khách xó! Đã tới cửa động Ma Vương Tinh Hồng Cẩu Quẩy, khá đi trước dẫn đường cho thầy! Coi chừng cạm bẫy ma trành! Gặp trành xó, phải báo ngay cho thầy bắt nhốt! Chớ để nó thoát đi báo cho Ma Vương!

                      Có tiếng âm âm "tuân lệnh" bên tai, rồi một bóng mờ vọt vào cửa động thủy, tan biến trong bóng tối nước dập dờn.

                      Minh Thần đứng bên mạn thuyền chừng nửa phút, bỗng thấy tít cùng trong một hang có một đốm xanh lè như hạt đâu xé nước lao ra, đậu bên tai, mơ hồ có tiếng Khách Quảng Đông:

                      - Cửa thủy đạo này dài sáu mươi thước! Ngay cửa này có cái máy bẫy thuyền, từ đây đi vào là đường dây cáp khác. Đầu mối cạm bẫy đó, chạm vào sẽ có giáo đâm súng tên bắn, sang tả có nhiều thủy lôi nhỏ thả giữa kẹt đá, phải đi sang ngả hữu, đường "cáp" tối mò! Xó nô dẫn lối, thầy chớ chạm dây "cáp"!

                      - Bật đèn rọi được không?

                      - Cũng được! Nhưng chỉ bốn mươi thước, đến khúc quẹo thầy tắt đi, trong đó có hai con xó trành canh cửa cung! Vào đó xó nô sẽ hiện báo thầy.

                      Minh Thần bật đèn rọi, vệt sáng quét tấm bảng đá cầu vồng, sáng lòa ba chữ "A Phòng Cung" vàng rực. Chàng trai lao mình vào phía hữu dây cáp chăng giữa ruột hang.

                      Ruột hang sâu hun hút, ăn lên ăn xuống không đều, Vừa trườn vừa chiếu đèn sang tả, quả thấy vách đá đầy thủy lôi, mũi giáo, mũi súng lắp sẵn, tên nhô tua tủa, lướt qua cũng thấy gai người.

                      Thoắt đã tới khúc quẹo, Võ tắt đèn, đóm xanh hiện ra, xé nước lao trước dẫn đường, xó Ma Khách rất khôn, cứ lướt sát dây cáp cho chủ liệu chiều độn thủy. Chừng hai mươi thước, bỗng đốm xanh táp vào vách tả đậu sau hốc đá.

                      Ruột hang tối, nhưng phía trong hắt ra một thứ ánh sáng la làm nước đỏ lờ như máu loang, từ chỗ Võ nấp vào trong vài thước, nước réo cuồn cuộn, sông ngầm sói vách đá, phát ra một thứ âm kỳ dị nghe vừa như tiếng biển sóng ngầm vừa như tiếng chạm nước xoe xóe làm mặt hang như sôi sục.

                      Võ Minh Thần quan sát, nhờ ánh sáng le lói chiếu ra, chàng chợt phát giác hai bên vách dựng hai cỗ quan tài độc mộc, mặt ván thiên ghép kính dày, trong quan tài đứng sừng sững hai xác người mặc quần áo rừng núi, một cái nữ quấn xà cạp trắng đeo xà tích, đầu đính khăn Mèo, còn hở một mảng trọc lóc, chừng đàn bà Mán cóc; còn cái kia xác nam, chít khăn chàm, chừng Nùng, Thổ chi đó. Cả hai đều đứt lìa cổ họng, vết lìa còn in ro khuôn nanh răng nhọn, chắc bị Hồng Cẩu Quẩy cắn chết.

                      Sau lần kính nước lung linh đỏ màu máu, hai con xó trành này mắt mở trừng trừng như đang bặt thiếp trong giấc ngủ ngàn đời.

                      Rất nhanh, Võ Minh Thần đưa tay bắt quyết đọc chú. Đúng lúc, mắt xó trành vụt long lên sòng sọc, nhìn ra xó tối, chừng như nó đã phát giác có người lạ đột nhập cung cấm. Võ nghe rõ hai tiếng xé nước lao tới, chàng trai lập tức đứng thẳng người, chân kẹp mỏm đá, quắc mắt bắt "quyết" chặt hai tay vào nhau.

                      Tiếng xé nước dừng trước mặt. Đốm xó Ma Khách xẹt ra chặn hậu. Đáy nước réo sôi, phát âm dị, sóng quật vách đá, dưới nước trọng lượng nhẹ đi, Võ chao động người, đứng giư tay ấn. Cuộc vật lộn kinh hồn vô ảnh diễn ra chỉ độ mươi khắc, bỗng nước đỏ cuốn réo, hiện ra hai đốm xanh lè bằng hạt đậu, sà xuống nền hàng như hai con đom đóm bị gió thổi bạt. Minh Thần thở phào, che tay lên miệng quat:

                      - Đem nó nhốt vào quan tài! Hai mươi bốn giờ sẽ thả! Nếu nó kháng cự, cho mi tru diệt.

                      Vút! Hai đốm xanh lao vào quan tài. Minh Thần múa quyết cầm xó xong, cùng xó Ma Khách lướt vào. Mới hay đã tới cửa cung Thủy! Giữa một hang có một cái guồng đao quay tít hàng mấy chục lưỡi thép sắc như gươm chém nước xoe xóe liên miên. Xó Ma Khách vụt vào, hãm phắt guồng đao. Hiện rõ một con đao ba mươi sáu lưỡi to bản áp sát nóc trần, có một khoảng trống vừa người hẹp.

                      Võ theo xó trườn vào. Qua hai thước nước nữa, hang đá ăn chếch lên, chỗ này vừa hết hang thủy đạo. Trước mắt, xế trên cao, hiện ra một cái cửa tò vò hai bên có hai tòa thạch thất nhỏ, trong ánh sáng đổ vật vờ. Trên cửa tò vò có một tấm biển uốn cầu vồng nữa bằng đồng hun đen bóng, có cẩn hàng chữ vàng rực. Lần này không là Hán tự mà là quốc ngữ, viết kiểu "La Tinh" hang trên nhỏ hơn hàng dưới:

                      "Động Thủy Cung" A Phòng Chúa Ma Vương Tây Sắc. Không bóng người vật, nhanh như cắt Võ Minh Thần vọt luôn lên bờ, ẩn luôn vào chỗ khuất, chàng trút vội bộ quần áo da rái cá, bỏ bọc sáp lấy quần áo chàm, lau khô mình mẩy, mặc giáp sắt, tra đạn, đeo súng cối, dắt gươm sau lưng, cài liễu dao... Chỉ hơn phút sau, đã gọn ghẽ trong bộ quần áo chẽn chít khăn thổ, dận giày Tàu, đội mũ sắt kéo sụp mặt, vụt trở nên một hình thù dữ tợn. Chàng tuổi trẻ đeo di hài mẹ sau lưng, chụp khiên thép Thập Vạn Đại Sơn, đứng trong bóng tối bắt quyết triệu "xó Khách", đọc chú, chìm giọng hô âm lệnh:

                      - Quỷ xó! Thầy nuôi dưỡng xó mấy tháng trời không như pháp sư chủ khác bắt xó truyền đời hầu hạ! Thầy có mối hận thù với con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, báo cừu xong sẽ giải nguyền giải chú, làm lễ siêu sinh cho xó hoàn nguyên âm hồn, đi đầu thai kiếp khác. Bình sinh xó là người giỏi võ tinh khôn, nay khá đem tài linh mẫn giúp thầy cho thiêng! Giờ đây thầy bắt đầu tiến vào cửa động Ma Vương Sắc, đêm nay thập tử nhất sinh, vì thầy phải tìm bắt chúa tinh tứ túc, truy nguồn gốc. Trước khi ra tay báo cừu, hành động phải thật êm, "xó" hãy theo sát thầy, lưu ý nhất "ma trành" của nó. Nếu gặp ma trành phải báo thầy biết ngay, chớ để bại lộ.

                      Quỷ xó Ma Khách đã vào cõi u minh, bên tai Võ có tiếng âm u:

                      - Thầy cứ yên lòng, có xó nô hầu hạ. Xin thầy cho xó đi trước mở đường.

                      - Không nên! Tây Sắc Tinh Hồng Cẩu Quẩy trí cao thuật cường. Cung A Phòng này là hang động nó nhốt gái đẹp, có nhiều chỗ "khoán". Xó đi một mình lỡ sa vào bùa "khoán" nguy ngay! Phải đi bên, lỡ gặp thầy còn giải "khoán".

                      Quỷ xó vâng lệnh, từ đó theo sát bên mình người thầy trẻ cao tay. Ánh sáng đỏ khé từ trong hai căn nhà đá nhỏ hắt ra. Võ Minh Thần men vách đá, vừa tới bên cổng, quả nhiên đã phát giác ngay nóc tò vò, dưới chữ "A Phòng Cung" có dán một đạo bùa "khoán" nét vẽ loằng ngoằng, dấu son đỏ chót trên giấy vàng, sau lần đồng trụ có treo một ngọn đèn lồng vải điều, dưới đèn có chăng một tấm lưới ngũ sắc chạy vòng sau tấm biển, đứng phía trước không trông thấy. Giơ tay làm hiện, Võ Minh Thần bắt quyết nhẩm đọc chú giải, đoạn cắn chót lưỡi, nhảy lên đu nóc cổng tò vò, phun phì máu vào lá bùa, tấm lưới ngũ sắc. Lạ thay. Máu vừa bắn vào lập tức loang rộng, lá bùa, tấm lưới ngũ sắc bỗng xông khói, rồi bốc cháy bùng, đốt tiêu luôn cả chiếc lồng đèn xế trên. Võ Minh Thần vẫy tay, thầm gọi xó, vừa lọt qua cổng tò vò, bỗng nghe trong căn nhà đá có tiếng người bật lên giọng Thổ:

                      - Quái! Sao đèn lồng cháy tanh mùi máu? Ra coi! Tiếng kêu vừa dứt thì Minh Thần đã xẹt vào bên cửa, từ trong căn tả, có hai cái bóng đen thui chạy vụt ra, nhìn lên nóc cổng tò vò. Dưới vùng sáng tối nham nhở, Minh Thần nhận ra hai tên hình người bọc sáp coi như hai xác ướp giữ mồ Ai Cập. Chưa biết tà thuật chúng đến mức nào, Võ Minh Thần quất vụt luôn hai ngọn chỉ phong điểm cách không, pha cả "Mê Hồn Công". Hai bóng đen bọc nhựa này cũng vừa phát giác Minh Thần, chúng mới giật nhẹ mình vì sửng sốt, trúng đòn, thủng luon lần nhựa bọc, đổ dụi xuống như hai khúc cây, không kịp kêu một tiếng. Minh Thần vọt vào, đứng bên cửa hữu. Hai bóng sáp nữa chạy ra, bị chặt liền hai phát, gục theo, không kịp phản ứng trước tài xuất thủ thần tốc của chàng trai. Võ nhìn vào nhà đá, mỗi gian chỉ có một cây đèn đất có lồng vải to như cái thang treo trên vách với vài món khí giới, điếu cày... cả hai gian không còn tên nào. Lục soát qua, chẳng thấy chi khả nghi, Võ bước, lôi cả bốn bóng nhựa vào. Cả bốn đều ngất lịm, có kẻ tim ngừng đập, sờ thử, có hai bóng sáp còn ẩm ướt, mới hay trong bọn có hai tên xưng Chưởng vệ Độn Thủy cung vừa lên đón cha con lão Phìa Mường La. Võ nhặt tên cao nhất, thò tay búng vỡ lần sáp nhựa bọc mặt, nhắc ra từng mảng lớn. Ánh đèn nham nhở hắt vào mặt thật vừa hiện rõ, đó là một bộ mặt sần sùi đầy sẹo, còn như in vết dao rạch nát, nổi bóng như mơ, coi phát ớn.

                      Tên này nãy nghe y nói văn hoa đúng con nhà văn tự hào hoa sao mặt mũi lại ghê thế này. Minh Thần búng vỡ mặt nạ nhựa tên khác, cũng vậy. Vẫn bộ mặt sẹo chằng chịt xấu xí bất thành nhân dạng. Đầu óc lóe ý ngờ, chàng búng luôn nơi hạ bộ, chạm bộ phận sinh dục khám như thầy thuốc thăm bệnh, bật kêu khẽ:

                      - À! Đoán không sai! Bọn này đều là hoạn quan. Rạch nát mặt mày hủy hình dung, thiến cho hầu dưới cung A Phòng để tránh chuyện thông dâm với mỹ nữ. Hừ! Tây Sắc Tinh áp dụng luật khuê phòng cung cấm còn gắt hơn cả vua chúa đời xưa. Xưa vua chúa chỉ hoạn các quan hầu cận, hoặc chọn kẻ ái nam ái nữ, còn Tây Sắc lại cho hủy cả hình dong, cho dứt hẳn cảm tình của mỹ nữ, kể tàn bạo hơn nhiều. Bọn này xem ra toàn kẻ có chữ nghĩa, sao lại cam tâm để tàn thân hoại thể thế này. Không lẽ chúng có chí Thụ Điêu?

                      Bèn giải huyệt cho tên cao tỉnh lại, lôi hắn ngồi dậy. Tên này trợn mắt kinh hoàng, Minh Thần dịu hỏi:

                      - Chỗ con tinh Tây Sắc đâu? Trỏ, ta sẽ tha mạng, cứu ngươi thoát móng vuốt sài lang. Mi là "Chưởng vệ Cung Thủy" này?

                      Tên Chưởng vệ lạnh lùng lắc đầu:

                      - Ta không biết! Biết sao được chỗ chúa ngự! Mà có biết cũng không trỏ đâu.

                      Minh Thần cau mày:

                      - Tây Sắc hủy mặt, thiến giống, tàn hại đời ngươi, ngươi không oán sao? Tên Chưởng vệ mặt lạnh cười khô:

                      - Oán? Hà hà! Mi không điên rồ sao thốt lời ngu ngốc thế? Ta đây dốc lòng thờ Chúa, chết còn chẳng tiếc, tiếc gì cái giống. Mi tưởng Chúa thiến bọn ta sao? Không, bọn ta tự nguyện đó.

                      Võ Minh Thần không khỏi cho là lạ, lắc đầu bảo:

                      -Mi bị yêu thuật tinh chúa rồi! Nói đi, trỏ chỗ nó, ta sẽ giải độc cho. Tên Chưởng vệ nhếch mép cười:

                      -Mi vào đây là vào chỗ chết, ta xuống âm trước đợi mi

                      Lời vừa dứt, y đã trợn trừng mắt, ngoẹo cổ sang bên. Nạy miệng coi, thì ra tên này cũng có một cái răng giả nhét sẵn độc dược.

                      - Hừ! Bọn cuồng tín. Chắc bị ngải độc, yêu thuật con tinh. Gớm thật. Tây Sắc dùng người "độc", đúng chúa Sài Lang.

                      Võ Minh Thần đứng lên, xốc bọn chúng đặt gác lên bàn, đoạn lập tức rời căn nhà đá, tiến vào đường hang. Qua chừng mười bước, ruột hang tối dần, quanh co uốn khúc, sâu hút.

                      Nhưng đi chừng ba mươi bước nữa, ruột hang lại sáng dần, lại là thứ ánh sáng xanh lè như lân tinh, khiến cảnh trí càng trở nên quái gở lạ. Nhưng chẳng biết từ đâu phát ra. Đường hầm quanh co khúc khuỷu im vắng đến nỗi Võ Minh Thần nghe rõ cả tiếng đập của trái tim, mơ hồ đâu đây có một thanh âm nổi chìm huyền hoặc, người thường chắc khó phân biệt, nhưng Võ Minh Thần đã học bí thuật độn thủy dưới sông với Ngũ Đầu Nam, nên nhận ngay ra đó là tiếng nươc ngầm xé ghềnh đá.

                      Đoạn thạch đạo ngầm ăn dưới lòng Hắc Giang. Minh Thần cứ xăm xăm đi miết giữa vùng ánh sáng xanh lè. Bất thần, chàng dừng phắt lại. Trước mặt có tiếng nước đổ ào ào như thác lũ. Có tiếng gió hu ghê người, phả lên mũi một mùi tanh đến lộn mửa. Dạt sát vách đá, chàng định thần nhìn kỹ.

                      Cách chừng năm, bảy bước, đường hàng bị cắt đứt bởi một vùng nước rộng khoảng bốn mươi bộ, sóng cuộn nhấp nhô bắn tóe bọt trắng lên bờ. Vẳng như có tiếng phì phò lạ tai hết sức, pha những tiếng chí chóe như dơi kêu chuột chiếp.

                      Võ nhẹ gót tiến sát lại gần, nhưng còn cách độ sải tay bỗng nghe tiếng "xó" thì thào hô "đứng lại". Chàng khựng luôn.

                      Dừng nhìn, không phải vũng nước không mà còn một lạch nước chảy ngang qua, lạch rộng khoảng hai thước tây, nhưng vách đá chụp xuống cách mặt nước hai bên chỉ độ ba gang. Gió thổi vù vù như tù và rúc, từ hữu sang tả, vụng, lạch chừng có nhiều đá ngầm, nhưng chẳng có mỏm đá nào nhô lên mặt nước. Chú ý, chàng còn thấy vụng phảng phất như có màu đen nhạt hơi khác màu không gian chỗ khác. Mùi tanh vẫn theo gió phả xông vào mũi nong nặc.

                      - Ngã ba! Chẳng hiểu ngả nào vào cung? Võ quan sát, thấy hai ngả lạch đen ngòm, nếu đi phải lội nước, chỉ nhô được cái đầu, coi đầy cạm bẫy. Còn ngả thượng bên kìa thì lại rộng quá, nhảy khó, chỉ còn cách vượt theo vách đá hoặc lội qua, nhưng ngả này cũng đầy nguy hiểm.

                      Đang phân vân chợt nghe tiếng xó kêu bên tai:

                      - Hai bên lạch đầy thủy lôi phục. Gió thổi vù vù, trúng người hộc máu chết tươi. Vì nó thổi qua túi thuốc độc bot treo trong vách hữu lỗ chỗ tổ ong. Luồng độc thổi ngang tầm người. Dưới nước vụng, những chỗ nước nhỏ gợn đều là thủy lôi ngầm. Vụng sâu ngập đầu người, toàn nước độc. Nhưng đường bên kia là ngả vào cung. Minh Thần quay nhìn sang vách đã hữu, quả nhiên thấy một khoảng lỗ chỗ tổ ong từ mặt nước lên khoảng hai thước. Võ khẽ hỏi:

                      - Vậy thầy nên vào cách nào đây?

                      - Thầy nhảy qua luồng gió độc mà vào! Nếu cách xa, thầy nhảy hai nấc. Võ quan sát, trần hang cao, nhưng nếu nhảy ngồi co chân rất khó vượt trốc luồng độc vừa băng qua vụng rộng hàng bốn mươi bộ. Hang tranh tối tranh sáng. Thấy bốn bề vắng lặng, Võ bat luôn đèn rọi lên trần, rẽ ngang, chợt thấy xế bên kia luồng gió độc thổi, có hai dòng thạch nhũ cụt chỉ còn độ gang tay.

                      - À đây rồi! Ta lấy nó làm điểm tựa, bíu quăng mình đi, vậy mới có thể nhảy nằm được.

                      Chàng vừa lùi lại lấy đà, bỗng nghe gầm gừ phì phò chí chóe nhiều âm dị tợn, rồi dưới lạch tả kẽ đá bắn ra ngàn con rắn độc, bên kia sóng bỗng nhô cao, có một bầy dải độc, thuồng luồng xé nước lao ra xoe xóe, há mõm, múa vuốt, trố mắt, định phóng lên bờ; ầm ầm lại một bầy hàng năm, bảy con hà mã từ đáy nước nhô lên, phun phì phì, con nào cũng to hơn con trâu mộng, giương mắt trố như đèn pha.

                      - Chà! Bầy thú thật hung tợn! Bên ta xưa nay không có loài hà mã, sao vùng Hắc Giang bên này lại có? Chắc Tây Sắc lấy giống bên Tàu, thả từ thượng nguồn sông Đà sang nuôi trong cung?

                      Rất nhanh, Võ lùi lại, vận dụng luôn bí thuật Thanh Âm động, khẽ cất mấy tiếng hiệu thú âm thú ngữ đã dày công luyện tập. Quả nhiên bầy thú nhất loạt dừng lại, hếch mõm, phì phì, lắc lư. Thấy bầy hà mã, dải, thuồng luồng bơi sát các ngọn sóng thủy lôi, Võ Minh Thần phát ớn, lập tức lùi mấy bước lấy đà nhảy vút qua vụng nước.

                      Vì trần không cao nhiều, luồng độc phong lại tạt ngang từ mặt nước tây, nên Võ Minh Thần phải nhảy theo lối đầu đi trước, phóng vút qua khoảng trống giữa luồng độc phong và trần đá, vừa lao qua trên luồng gió độc, vừa hãm lại, Võ chụp luôn hai dòng thạch nhũ sát trần và hắt ngược lại lấy đà, quăng vút mình qua phần vụng bên kia, hạ hai chân xuống nền hang nhẹ như chiếc lá rụng.

                      Dòm lại, bầy thủy quái vẫn há mõm nhe nanh, trố mắt nhìn theo. Ngọn độc phong vẫn thổi vù vù thành luồng đen mờ trốc đầu vụng. Minh Thần tặc lưỡi cái, dẫn "xó quỷ" tiến luôn vào thạch đao ngầm.

                      Đường hầm sâu hun hút, quanh co uốn khúc, chập chờn một thứ ánh sáng xanh lè lân tinh, chỉ đủ soi lờ mờ các vật thể lớn.

                      Tiếng gió thổi, nước xô bờ lùi lại sau lưng khi Võ Minh Thần vượt thân được năm bộ nữa. Bên tai, thứ âm nước sóng ngầm dưới đáy hồ cũng vụt tắt hẳn, chàng thấy mình đi vào một vùng im lìm kỳ dị, thứ im lìm như trong quan tài làm tay bạo gan mấy cũng phát rờn rợn, cảm giác như rơi vào một cõi "vô vi" nào ben ngoài cuộc sống.

                      Đường hầm rộng khoảng thước rưỡi, trần cao, mắt đảo nhìn quan sát từng mỏm, hốc, Võ Minh Thần còn phải đề phòng cạm bẫy, địa lôi phục, hầm hố... Chàng phải bế huyệt, vận khinh thân phù, lướt hờ trên mỏm đá nhẹ như bấc. Đang tiến bước, bất thần nghe bên tai có tiếng thì thầm "Coi chừng, thầy". Võ ngồi thụp xuống bên vách, vừa kịp thấy sau khúc đường cong, ghềnh chìa, một con sài kíu lông vàng ngực khoang trắng nhô ra, cách hơn chục thước.

                      Đó là một con Hồng Cẩu Quẩy to lớn, nó đi hai chân sau, khật khưỡng, lắc lư lừ lừ, giữa vùng ánh sáng màu lân tinh hình thù quái gở in đậm lù lù, rõ cả nanh vuốt trắng nhởn, hai con mắt xếch đỏ khe. Nó cũng vừa phát giác có bóng người bên vách, lập tức lắc mình một cái, nó lướt tới đi hai chân sau thoăn thoắt, mõm nhe ngoác như gợi hình ảnh loài tinh tứ túc.

                      Nhanh như chớp, Minh Thần thả vụt liễu đao, ánh sáng bach nháng cầu vồng, con "quỷ mắt đỏ" thò chân trước gạt mạnh, bị lưỡi thép chặt đứt lìa. Võ sợ nó kêu, thả vụt lưỡi thứ hai, cái đầu con sói nhảy "bộp" xuống đất, con thú còn đi thêm mấy bước, không đầu, cổ cụt phun máu phì phì, coi gớm ghiếc.

                      Minh Thần thu đao, đứng bên, con sói cụt đầu đổ huỵch. Chàng tiến lại chùi đao vào lông con thú độc, xách thây cụt đầu kiếm hốc tối ném vào, và tiếp tục tiến vào hang.

                      Từ chỗ này không gặp thứ gì cản trở. Đường hầm lồi lõm, lên xuống gập ghềnh, nhưng hình như ăn lên nhiều, sâu hun hút, chàng trai càng vào càng thấy lạ vì đường hầm sâu dị thường, xưa nay cõi trần thượng du, đặc biệt thượng nguồn Hắc Giang chưa hề nghe nói đường hang ngầm nào lại dài đến thế. Võ Minh Thần thấy hang sâu kỳ dị, đoán có lẽ đây là hang nhân tạo, tuy vậy chàng vẫn có cảm giác bàng bạc mơ hồ như mình đang lạc vào một con đường phi phàm dẫn tới cảnh trí thế giới phi phàm dưới đáy Hắc Giang.

                      Mải lần theo đường ngầm quanh co hun hút, Võ cứ đi trong cảnh im lìm quái gở, thình lình đường hầm hết.

                      Trước mắt Võ, là những bậc thềm trùng trùng toàn đá phiến, nổi bật cao khoảng bốn mươi phân, loe rộng như trái bầu, hai bên có hai "ông thạch cẩu" bằng đá trắng to lớn gấp mấy chó thường. Và hai bên, hoa leo chằng chịt, mọc đầy cả vách đá trần, dọc từ dưới lên cao tít, mùi thơm ngào ngạt át hẳn mùi rêu phong ẩm thấp.

                      Đồng thời, chàng cũng chợt nhận ra lồng ngực mình bỗng nhẹ hẳn, không khó thở như lúc đầu vào địa đạo.

                      Ẩn sau cây leo rườm rà trườn lên, ít nhất cũng đến ba mươi bậc thoai thoải, tít lên cao, là một khung cửa hình nguyệt, chạm trổ tinh vi với hai con rồng uốn khúc, đúng thế lưỡng long triều nguyệt, miệng rồng ngậm hai đầu tấm biển hình ống lối cuốn thư, tháp bút, sơn son có ba chữ đại tự bằng vàng diệp nét sắc như dao cắt sáng rực đứng xa đã thấy rõ:

                      "A Phòng Cung"

                      Dưới có hàng chữ nhỏ hơn:

                      "Thủy động Sài Lang Chúa Tinh Quân Tây Sắc".

                      - À tới nội cung sào huyệt Ma Vương tứ túc rồi. Lạ thật! Dưới đáy Hắc Giang ai ngờ lại có "thế giới kỳ dị" thế này? Chắc trên kia phải có quân canh.

                      Mơ hồ hình dung như trên kia có âm thanh văng vẳng đưa ra, vi vu như tiếng sáo diều đêm thu, hay tiếng đàn sáo chìm nổi lưu thủy khiến Minh Thần có cảm giác bàng bạc như thứ âm giai từ dĩ vãng xa xăm vọng về trong các cuộc đăng đàn, tiến tửu cung vua...

                      Giơ tay phát điện, Minh Thần vừa định thám sát, bỗng nghe bên tai có tiếng "xó Ma Khách" âm u:

                      - Thềm không có gì. Nhưng trên cửa "lưỡng long triều nguyệt" có hai con "trành" canh cửa, sài kíu như rươi. Thầy!

                      - Được, để thầy liệu! Theo thầy! Minh Thần men sát vách đá dây leo rườm rà vượt lên ngọn thềm. Vừa hết bậc cuối cùng, dòm vào trong cửa cung A Phòng, sâu khoảng hai thước, hai bên vách đá có hai cái hốc dựng lù lù hai cỗ quan tài độc mộc sơn then, ván thiên bằng kính ghép, trong quan đứng sừng sững hai cái xác mặc quần áo Mèo, chít khan vành rế, chân quấn xà cạp, mặt mày đẹp lạnh như băng, hai cặp mắt mở trừng trừng, bất động như mắt tượng. Cả hai thây nữ, cuống họng đều há ngoác vết nanh chó sói cắn, dấu máu chảy tím xỉn còn in đậm trên ngực áo.

                      Võ Minh Thần vừa phát giác hai con "trành cái", lập tức hai mắt trành bỗng long lên sòng sọc liếc dòm ra ngoài, chạm mắt chàng trai. Kịch! Kịch!

                      Nắp ván thiên kính chợt chay sang bên, mở rộng quan tài, hai con trành cái lắc lư, cử động tay chân coi cực kỳ dữ tợn.

                      Minh Thần đưa tay bắt quyết, tưởng trành cái vọt ra, nhưng cả hai vẫn lắc lư trong quan tài. Minh Thần nhìn quanh mới hay nóc cổng có bùa "khoán" lưới ngũ sắc y hệt cổng ngoài.

                      - À nó khoán. Nội bất xuất ngoại bất nhập, nên hai con trành cái chỉ chực vồ người vào cung thôi.

                      Bèn đọc chú bấm cung, giải "khoán", đánh hai con trành cái. Hai con trành này uy lực mạnh tợn, mấy phen xô quan nhảy ra đều bị "quyết" đánh bật vào. Cuối cùng, cả hai đều bị Minh Thần nhốt trong quan.

                      Tình thế nghiêm trọng buộc Võ Minh Thần phải xuất đầu lộ diện, đứng giữa cửa cung, tung ấn quyết giải "khoán" nhanh như chớp, nhờ vậy "xó quỷ Ma Khách" đã thừa thế xông vào trở lực chủ, cầm giữ hai con trành cái không cho thoát ra ngoài quan tài. Nhưng hai con trành cái này dữ tợn hết sức, tuy bị chú quyết kiềm chế, chúng vẫn dùng het ma lực để xông ra "vật" người và báo động trong cung. Minh Thần cũng đã dự phòng nên vận hết tinh lực, giữ vững tay quyết, cắn chót lưỡi, phun phì máu vào mặt kính. Điều hơi khó là hai cỗ quan tài trành cái Mèo này lai dựng hai bên hông cửa cung, nên Minh Thần phải đứng chính giữa, tả xung hữu đột. Cuộc vật lộn giữa thần lực ma lực dữ đến độ tay "quyết" của Võ rung lên mãnh liệt, còn hai cỗ quan đảo như lên đồng, ván thiên rung động, phát ra tiếng "lịch kịch loảng xoảng" vì hai hồn ma cứ định thoát ra mang theo cả thây xác giữa vùng ánh sáng lân tinh, hai cặp mắt trành long sòng sọc, nó húc cả đầu vào ván thiên ghép kính, coi mười phần hung hãn. Nhưng chỉ hơn mười giây, tay "quyết" Minh Thần đứng im, không rung nữa, và cả hai cỗ quan tài vụt giãy lên đành đạch như đỉa phải vôi, phát ra những tiếng rên rỉ âm âm mơ hồ xa xăm lạ.

                      Mắt quắc long sòng sọc, Võ Minh Thần tiến lai một bước, uốn lưỡi không chạm miệng đọc chú, ghé miệng phun phì phì hai búng máu tươi vào mặt kính.

                      Hai cỗ quan tài giãy lên một cái rồi đứng yên, sau lần kính lấm tấm máu đỏ, hai con trành cái trợn trừng bốn con mắt trắng dã rồi từ từ nhắm lại, như ngủ giấc thiên thu. Trành cái đã bại trận, bị chú quyết nhốt kỹ trong thân xác, quan tài như kẻ tù bị cấm cố trong ngục tối.

                      Võ Minh Thần thở phào, buông tay quyết lau mấy giọt mồ hôi lấm tấm trên trán. Chàng hiểu vừa hạ được hai con trành cái linh đến độ sắp thành tinh. Mỗi con bằng hàng đàn xó.

                      Chàng trai xốc áo tiến qua cửa cung, đụng một bức rèm xương trắng hếu, coi như ghép bằng xương ngón tay người. Từ đâu luồng gió thổi vi vu, khua nhẹ bức rèm xương phát âm khô dòn như lau xô trúc cọ. Đứng sát bên Võ ghé mắt dòm vào, bên trong cảnh trí hư ảo lạ. Chàng vén luôn rèm, lách vào.

                      Hai con đường chạy hai bên vòng theo đường móng lừa, lại hai tầng bậc thềm cao vút nữa, và chính giữa, cách bức rèm xương chừng hai, ba thước là một hình chó đá to như con trâu mộng, cao đến ba thước, rất tinh xảo, từng chiếc lông, râu, bờm coi hết sức linh động, nhất là hai con mắt đỏ khé ghép bằng hồng ngọc, phản chiếu ánh sáng long lanh phát cả tia đỏ như mắt chó sói thật.

                      Ngay dưới chân con Hồng Cẩu Quẩy mày vàng này có mot chiếc bàn độc cao, trên có phủ một tấm vóc đại hồng mép rủ che gần hết chân bàn. Chẳng hiểu bàn độc đặt đồ vật chi, Minh Thần thấy nhô hẳn lên, đoán chắc các món đồ thờ.

                      - Hình tượng chó sói lông vàng này, chắc tượng con tinh chúa thờ ngoài cửa cung đây.

                      Lơ đãng, Võ thò tay nhón mép vóc lật lên coi thử. Bỗng chàng trai giật nảy mình, sửng sốt vì vật nằm dưới lần vóc là một hình người nằm ngửa phờ phờ. Hình nữ, hai nói đúng hơn, hình một cô gái khỏa thân đẹp tuyệt trần, nằm ngửa không có gối, dòng tóc dài chảy xuống nền đá vẫn còn thừa để quấn vào cột hai, ba vòng nữa. Ngực nữ rướn cong vút, nét nhũ kỷ hà phây ngọn gần chạm móng vuốt tượng Sài Lang, hay tay tròn khúc rắn giơ lên như đón mời, thân hình thuôn lẳn thắt đáy lưng ong, hai bắp đùi dài búp hoa quỳ buông thoảng mép bàn dáng nửa như cung kính dâng hiến nửa như uốn éo mời mọc làm nũng, toàn thân trắng mịn như ngà, dưới làn ánh sáng lung linh xanh xanh coi nàng đê mê kỳ ảo lạ.

                      Bất giác, Võ Minh Thần phải tặc lưỡi khen:

                      - Chà! Tay họa sĩ nào lại có tài khắc hình mỹ thuật đến chừng này. Con Hồng Cẩu Quẩy khắc đã khéo, đến hình tượng mỹ nhân này tưởng đến "bà mụ" nặn người cũng chỉ tinh vi đến thế thôi. Hừ, tượng bạch thạch hay bằng sáp... coi linh động như thật.

                      Vừa lẩm bẩm, chàng vừa lơ đãng sờ tay vào ngực tượng mỹ nhân, mắt quan sát hai bên đường thềm lượn móng lừa. Bỗng chàng trai giật nảy người lên như phải điện, cảm thấy rõ mấy ngón tay đụng phải vật mềm mềm lạnh lạnh như đụng phải da thịt đàn bà. Chàng quay phắt lại, nhìn, lấy tay miet thử, vụt ớn mình khi phát giác ra đó không phải là một pho tượng khắc bằng đá trắng hay đắp bằng thạch cao, sáp chi cả mà chính là một cái xác nữ thật, thây cô gái đep khỏa thân nằm đó bằn bặt thiếp trong giấc ngủ ngàn năm.

                      Tuy đã quen sống với ma xó, tự nhiên Minh Thần vẫn thấy lạnh lòng trước cảnh thây nữ nằm dâng mình cho chó sói và chàng nghĩ ngay tới thảm cảnh của người đàn bà có nhan sắc đã bị con tinh chúa hốt hồn đem xác để bàn độc làm đồ cúng vẫn nguyên trong cái dáng vẻ dâng hiến trước khi lìa trần.

                      - Mẹ ta cũng bị như thế! Chỉ khác là nó hấp thành cái túi da, nhưng cũng bị yêu thuật dược của nó làm biến tâm chịu nhục hiến thân xác cho nó hấp. Đêm nay ta vào hang ổ gặp nó, chẳng những báo cừu riêng, còn trừ mối họa gớm ghê cho lương dân mấy cõi! Thiếu nữ vô danh! Xác nằm dày giữa cửa cung lạnh, oan hồn vơ vẩn chốn nào? Nếu có linh thiêng hãy chứng cho ngu mỗ đây vì trả thù oán, quyết vì nàng rửa giúp mối oan.

                      Cúi đầu, Vô Minh thần nhón mép vóc kéo cho kín thây người nữ khỏa, chàng trai xẹt luôn sang đường thềm hữu.

                      Chợt ngửi thấy mùi hôi hám thoáng bay ra, xẹt thử sang tả, cũng mùi hôi hám! đang phân vân chưa biết nên đi ngả nào, bỗng nghe "xó quỷ Ma Khách" thì thào bên tai:

                      - Ngả nào cũng vào trong, hai bên vách là chuồng chó sói! thầy cẩn thận. Ngả nào cũng vào trong, hai bên vách là chuồng chó sói! Thầy cẩn thận! Mỗi bên nó nhốt hàng mấy trăm con, cửa chuông mở sẵn! Trên trần cũng vậy!

                      Minh Thần gật đầu, men vào dòm, quả nhiên ngả nào cũng đầy sài kíu nhe nanh nhởn, hai bên vách trên trần cũng đều có chuồng, từng ô cặp một, muốn qua phải đi lọt giữa mấy dãy chuồng sài kíu.

                      Không do dự, Võ lập tức vận công, tiếp khí hàn làm sương mờ nhân tạo ẩn thân, và nhẹ gót tiến luôn vào... chuồng sói độc.

                      Bộ quần áo chàm, khăn mũ giày đã bôi thuốc trừ hơi người ngay lúc tiến vào Độn Thổ cung chàng không phải e ngại chi nữa, nhất lại mới lặn khá lâu dưới nước lên hơi người xông rất nhẹ, chàng chỉ lo chú ý tới làm sa mù nhân tạo cho vừa độ, mỏng quá sẽ lộ ngay vì hang cẩu quẩy tinh mắt hết sức, dày quá cũng dễ lộ! Vận khinh phù nhẹ như bấc, chàng vượt hết mấy bậc thềm, thì sa mù nhan tạo để tỏa khắp châu thân, Võ Minh Thần thì thào:

                      - Thấy hình thầy không? Tiếng "xó quỷ Ma Khách" âm u bên tai:

                      - Từ đầu xuống gối kín lắm, từ gối xuống chân còn mỏng, nhìn kỹ vẫn thấy đôi giầy!

                      Minh Thần lấy ống hơi, lật ngược, bấm nút sì hơi nghe tiếng xó thì thầm "được rồi, thầy". Chàng lập tức nín hơi, tiến luôn vào đường hầm chó sói. Hồi nãy, lúc ẩn thân trên cây, nhờ cành là rậm. Chàng còn để chừa khoảng từ mắt lên, để quan sát đàn sói Ma Vương, giờ lối đi trống trơn phải bao phủ kín người, nên chẳng còn thấy gì nữa. Lúc nãy còn nhìn bằng xúc giác, khứu giác, thính giác!

                      Nền hầm lát toàn đá phiến nhẵn thín, vừa lọt vào được mấy bước, đã thấy nóng sực hơi điện khí, quay mặt phía nào cũng chỉ ngửi thấy mùi hôi hám đặc biệt của loài sài kíu ăn thịt sống, khăm khắm tựa mùi phà hơi thở.

                      Chàng bò lọt giữa hai dãy chuồng sói, giữa cảnh hang sâu im lặng, tai nghe rõ cả tiếng sài kíu thở phì phì, tiếng vuốt cào mặt đá va đặc biệt là khắp hai dãy tả hữu trên trần đều phát ra những tiếng lục cục cháp cháp, rau ráu, răng nanh nghiến ken két lẫn tiếng gừ gừ nghe phát ớn.

                      - À! Hay lắm! Chắc đàn "quỷ mắt đỏ" này đang ăn! Đường xa theo con tinh chúa, chắc tụi chúng đói ngấu, ta vào đúng thời cơ!

                      Đi dược hơn năm mươi bước, vẫn thấy êm, Minh Thần không khỏi mừng thầm, tuy sa mù bao quanh nhưng đã có con xó tinh khôn làm hướng đạo không ngại đi lầm vào chuồng sói. Chợt nảy ý muốn biết chúng nhiều đến mức nào, Võ thò hai bàn tay xòe, phát điện rè nhè nhẹ, chạm cho nào cũng thấy lúc nhúc như rươi, chàng không khỏi ghê thầm. Đàn "quỷ bốn chân" này nếu đồng loạt sổ ra tấn công, giữa khúc hang nghẽn, tưởng kẻ bản lĩnh cao mấy cũng phải nguy.

                      Bất thần vừa chạm phải luồng điện mạnh, tiếp luôn tiếng "gầm gừ" giật âm, Võ bỏ vội phát điện, thu tay lại. Lập tức có tiếng vuốt cào cửa chuồng, rồi có một con sài kíu to lớn sổ ra đi theo sủa lên mấy tiếng cụt! Tiếng con vật di động làm Võ giật mình, voi lướt đi mau thêm, được mươi bước vẫn nghe thấy tiếng chân sói đi theo gừ.

                      Đã tưởng lộ, may nó chỉ gừ bóng gió, rồi dừng lại, quay về chuồng, có lẽ nó lấy làm lạ về khóm sương đặc trôi cuồn cuộn trong hang! Thở phào, Minh Thần gia tăng sức di chuyển giữa sa mù, ba bề toàn sài kíu độc, chàng có cảm tưởng như vuốt sắc có thể bất ngở chụp xuống. Tuy vậy theo đường vòng móng lừa vượt thêm khoảng trăm bộ nữa, chàng đã qua chuồng sói vô sự.

                      Mùi hôi hám, tiếng thú dữ, như tắt sau lưng. Võ vừa nghe tiếng xó thì thầm "hết chúng chó" rồi, lập tức dừng lại, đặt vào sát vách đụng ngay cành lá rườm rà. Cảnh im lặng cũng vừa chấm dứt, âm thanh kỳ diệu tràn ra ùa vào tai chàng tuổi trẻ, tiếng đàn sáo véo von, tiếng sênh tiền gõ nhịp, lẫn cả chục thứ tiếng bổng chìm réo rắt, nghe thao thao như nguồn lưu thủy. Hắc Giang khua người vào hơi mùa xuân dưới lòng nước biếc!

                      Ngay chỗ Võ Minh Thần đứng, có hai con đường chạy vòng tròn quanh cung động, tẽ ra hàng bao nhiêu con đường phụ nữa, chằng chịt quanh ngay bên dường là mấy lạch nước uon quanh, chảy ra nhiều phụ lưu nữa, nước chảy thao thiết qua các khu vực, thông khắp bốn mặt. Thỉnh thoảng lại có một cây cầu gỗ, tre, bắc qua lạch nước, hoặc cầu mây treo vắt vẻo, dập dềnh, nối liền các đường vào cung. Hai bên đường lạch cây cối um tùm, có hoa tươi tốt, toàn loại kỳ hoa di thảo, lạ nhất là cây cối đều không cao mấy nhưng nhiều cây gốc sù sì, coi không khác các cây cảnh lâu năm, đã được "hãm" rất giỏi! Khiến Võ nhìn, có cảm tưởng kỳ bí như trông thấy những rừng cây trong huyền mộng hay trong những tấm "phông" trên sân khấu!

                      Đến những tòa ngang dãy dọc, coi lại càng khác trần. Nhà cũng có cái cao cái thấp, nhưng lối kiến trúc cũng la như vật liệu. Trông từa tựa như đền đài miếu mạo cổ Á Đông, lại phảng phất pha cả lối Thái Tây trung cổ, rất khó phân định nhưng có điều đặc biệt nhất là trong toàn bộ những dãy ngang tòa dọc, coi không khác một bức tranh lập thể kỳ bí với các đường nét kỷ hà hết sức quái gở làm người trông có cảm giác mơ hồ như đứng trước một cung động dưới... âm, âm cung hơn là tiên cung vì các đường nét kiến trúc cũng như màu sắc hoa cỏ tuy rat đẹp, nhưng không thanh thoát phiêu phiêu, mà toàn khối lại toát ra thứ chi quái ảo kỳ bí rờn rợn như cảnh trí úp chụp lấy tâm hồn cảm quan người ta trong những cơn mộng ác nặng nề!

                      Ngay chỗ Minh Thần đứng, có mấy cây cành lá lòa xòa rủ thấp, che cả vòm cao, chàng quan sát giây khắc, lòng đầy thắc mắc, nghĩ thầm:

                      - Ai dám ngờ dưới Hắc Giang biên thùy lại có một khu cung động kỳ dị thế? Yêu thuật hay bàn tay nào tạo nên kể cũng công phu, biết vào ngày tháng mới xong? Nó dùng ma lực, hay bắt nhân công đào núi đào hầm tạo tác, dùng cốt mìn phá núi chăng? Không thể có hang thiên tạo rộng thế này! Hang Chùa trong Hương Tích Sơn còn nhỏ hơn nhiều! Trần xem chừng cũng cao lắm!

                      Bèn bước ra chỗ ít cành xòa, nghiêng ngó trông lên, suýt bật kêu sững sờ, may lúc đó mới phát giác các làn ánh sáng ngũ sắc muôn màu từ đâu phát ra.

                      Vì trên cao, cách ngọn cây, chừng thước rưỡi, hai thước "vòm trời nhân tạo" (sinh tạo đúng hơn) uốn cong như cái vung khổng lồ úp lấy vùng cung động Ma Vương Sắc, nền trời cũng nhiều màu và như thu gọn cả vòm trời trong cõi thái dương.

                      Tít xa, ấn định phương đông, có một mặt trời đỏ khé, chẳng hiểu bằng chu sa hay thứ chi, dưới tàn cây lại có chiếc đèn lồng đỏ, xế phương Tây là vành trăng khuyết vào độ hai mươi, hai mươi mốt hạ tuần, bằng kim nhũ, và rải rác khắp vòm trời tinh tạo, có đủ các sao chính như sao Hôm, sao Mai, Kim Hỏa tinh, Mộc tinh, Ngân tinh, Hải Vương tinh, Vệ Nữ, Tua Rua, Bắc Đẩu, sao chổi, chòm Ngân Hà v.v...

                      Hằng hà sa số tinh tú, mỗi chòm sao đắp bằng một loạt phát ánh sáng màu, chòm bằng ngân nhũ, chòm bằng lân tinh có sao bằng "sa phia", ngọc thạch, hoặc bằng các thứ hóa chất khác v.v... Cứ sao màu nào dưới tàn cây nóc nhà lại có một ngọn đèn lồng to màu đỏ ánh sáng đủ màu trên dưới giao nhau, khiến cả vùng cung động chan hòa ánh sáng mơ hồ hư ảo phi phàm lạ!

                      Minh Thần nhìn vòm trời lấp lánh trăng sao tinh tạo, không khỏi lấy làm quái gở cho bộ óc Chúa sài lang, chẳng những cơ trí cơ tâm mà lại còn có đầu óc một nhà thiên văn, kiến trúc, họa sĩ, thi sĩ nữa! Một bộ óc minh mẫn hơn người, chẳng những thông suốt về nhâm cầm độn toán, trận bài binh, lục thao tam lược, suốt cả thiên văn, địa ly, nhân sự làu mấy xe kinh sử, hiểu được cả khoa học đông tây, mà còn thạo cả cầm kỳ thi họa tửu sắc yên đổ, đến độ bá chủ ngôi hào hoa chiêm ngưỡng sắc đẹp giai nhân trên đời, lại là bộ óc chó, chó sói, cực kỳ tan độc coi chuyện bắt đàn bà con gái hấp sát, như một khách hào hoa ngửi hít bông hoa thơm đẹp! Chàng tuổi trẻ khẽ chép, sốc áo, tiến vụt vào đường hữu!

                      Bóng cây lá loang lổ đọng trong vũng tối trên bầu trời Hắc biên khu. Có điều trái ngược là cảnh trí lại im lặng như tranh vẽ chẳng thấy bóng người vật, chim chóc nào cả.

                      Minh Thần nghĩ thầm:

                      - Âm thanh phảng phất lẫn lộn, có lại khu cung động nằm dưới lòng đất đáy sông, đã bị vây hãm kín, lối kiến trúc các vật liệu đều đặc biệt nên vang âm hỗn hợp! Quái! Sao không thấy bóng sinh vật? Hay tất cả đều ở phía trong, đây chỉ là ngoại cung! Chắc hết quân canh gác rồi chăng, nếu còn, chắc cũng trong cung!

                      Quan sát thêm giây khắc, chàng lập tức men sát vách, lần vào. Địa thế thủy chế trong Cung A Phòng này, đường vòng sát vách, rồi mới đến con lạch, vách đầy hoa cỏ dây leo, nền thuộc loại đất pha đá như thường thấy tại cac rặng núi thượng du xứ Bắc, nên các loài kỳ hoa dị thảo mọc rất tốt, nhiều nhất giống vạn niên thanh phong lan rừng hương thơm kỳ ảo lạ. Nhờ hoa cỏ bóng cây, Võ Minh Thần lẩn vào rất tiện đỡ nhiều công ẩn thân.

                      Im đen rợn người! Âm thanh lẫn lộn chập chờn mơ hồ giữa cảnh im lặng càng làm tăng không khí ma quái trong cung. Nhưng mới lần vào chừng hai mươi bộ dột tim một cái, vì chợt bắt gặp hai con mắt đỏ khé trên tàn cây!

                      Rất nhanh chàng giơ vụt tay định thả lưỡi dao nhưng vừa nghiêng mình giơ tay, chàng lại vụt phát giác ra hàng chục con mắt nữa rải rác ngang xế trước mắt:

                      - À mắt cú mèo! Nó dùng cú mèo canh động! Cú meo ban ngày, trái mít chưa thấy rõ nhưng ban đêm thấy cả cái kim sợi tóc!

                      Không chậm trễ Võ ngừng xuất thủ, lập tức rúc lên khẽ mấy tiếng chim cú dùng luôn bí pháp sai khiến loài thú điểu! Quả nhiên cả chục con cú mèo cùng xòe cánh đập phành phạch, phát ra tiếng rúc mừng rỡ đầu gật gà như chào đón.

                      Như cái bóng, Võ Minh Thần lướt vụt đi dưới hàng cây cú đậu... êm ru! Cả mừng, chàng cứ men dọc vách, đi khoảng năm mươi thước nữa, nhìn sang tả, có con đường nhỏ chạy vào một khu nhà cửa màu tím nhạt hoa cà có chiếc cầu the bắc qua lạch. Âm thanh dìu dặt từ trong vẳng đưa ra, bây giờ nghe rõ hẳn, có thể phân tách được đó là tiếng đàn tỳ bà, hòa với tiếng quyền, và cả tiếng hát véo von, giọng nữ nhân thánh thót nghe thỏ thẻ như tiếng chim oanh hót! Đang sôi máu căm hờn, ngùn ngụt tâm trạng tìm thù báo oán, vậy mà khi nghe âm thanh trầm bổng đưa ra. Võ Minh Thần cũng thấy dịu hẳn người, lòng nhẹ lâng lâng như đang nghe tiếng nhã nhạc từ cung tiên nào vọng tới, phiêu phiêu muốn bay bổng hình hài, cưỡi tiếng quyển, tỳ theo lên tận trời cao! Vén cành lá cỏ hoa dòm vào, thấy bên kia cầu có bốn cái cổng uốn cong, mở rộng, đường hoa mơn mởn dưới làn sáng hoa cà, chạy hút vào sâu, tuyệt không một bóng người vật phảng phất coi giống hệt bức tranh lập thể vẽ một cảnh hoàng hôn tím cung môn đền đài thời thượng nào! Võ cau mày lẩm bẩm, tiến vụt vào, kiếm cả cửa sổ dòm. Tòa nhà nhiều buồng, trước có một dãy hành lang chạy vòng ba mặt, dưới ánh đèn lồng đỏ nhạt, có hàng mấy chục cô gái qua lại thoăn thoắt, nhác trông tựa một bầy vũ nữ đang dượt thử trước khi trình diễn. Vì tất cả đều mặc rất lạ mắt, mỗi nàng một kiểu áo khoác, có nàng mặc áo khách có nàng mặc may ô tắm biển, có nàng mặc áo búi que sông Vị, nhưng tất cả vạt trước đều chỉ tới háng, còn từ háng xuống để trần, như người mặc đồ tắm biển để phô bầy trọn vẹn cặp đùi. Đủ loại đùi đẹp như búp hoa!

                      - À Túc Hoa Viên là thế này đây, Viện mỹ nữ đùi dẹp! Võ tặc lưỡi bỏ sang dãy cách đó một cái vườn hoa, có lạch chảy chia ngăn, ngoài có biển đề "Bàn Tọa cung" từ trong vẫn thứ kèn trống như dãy kia đưa ra, kèn là loại âm nghe như vuốt da thịt người ta.

                      Ghé cửa sổ nhìn vào thấy hai, ba chục gái mặc nhiều thứ quần áo sặc sỡ, đang đi lại nhún nhảy uốn éo, như vờn múa theo âm thanh. Chừng dòm kỹ, chàng trai không khỏi đỏ mặt tức cười vì cô nào quần áo cũng khoét đoạn giữa, để lộ cả khu bàn tọa. Dẫu vừa phát giác ra, chàng đã ngoảnh mặt đi vì ngượng, nhưng cũng kịp nhận thấy khu bàn tọa nào cũng tuyệt đẹp, nét kỷ hà lượn uốn cong veo, tròn trịa, bàn nhỏ bàn phình mâm sôi, bàn nào cũng toát ra nét cong phây có sức lôi cuốn lạ thường.

                      Cung viện chứa mỹ nữ có mông đẹp! Hừ! Tây Sắc tinh này thật không hổ tiếng "vua sắc" "sưu tầm" đủ loại đàn bà đủ bộ! Đàn bà có hàng trăm bộ phận. Ngũ cung thập viện của nó còn chứa bộ chi nữa đây?

                      Minh Thần bèn rời "Bàn Tọa viện bắc cung" lẫn giữa cỏ hoa bóng tối kiếm chỗ Ma Vương.

                      Hết bắc cung, loanh quanh lại tới năm cung gặp thêm mấy viện khác, "viện Khẩu Hoa" chứa gái miệng xinh, "viện Nhĩ Hoa" chứa gái có vành tai đẹp, cùng với viện chứa gái mũi đẹp, cổ đẹp, mắt đẹp, tay đẹp v.v... Mới hay các cung viện A Phòng không án theo đông tây nam bắc, mà án theo một lối kiến trúc riêng biệt nào đó lấy tứ tượng đặt tên!

                      Nên các khu cung viện tuy đều có cửa riêng lại không nằm chia từng khu vuông vắn, mà lại xen lẫn nhau, chằng chịt tương quan, khiến kẻ ngoài có cảm tưởng như đi trong "mê hồn trận", chỉ vào quãng ngắn đã quên ngay đường ra. Khi Minh Thần sực phát giác ra điều đó, thì chàng cũng đã bị lạc mất lối lúc nào không biết.

                      Đành cứ nương bóng tối loang lổ, tìm mãi có lần lạc cả vào khu cũ. Vì ánh mặt trăng mặt trời, các vì sao đính trên vòm trời giả tạo rất khéo biến ánh sáng màu. Đứng ngoài, thấy khu vực kia màu vàng, nhưng đứng phía tả, nhìn lại màu khác, hữu màu khác, biến hóa linh hoạt lạ, y như nhìn một bức tranh đắp nối chia nhiều màu trên son đắp vậy!

                      Vì các vì tinh tú, đèn lồng luôn luôn biến đổi, chờ hoa cả màu sắc các khu vực. Đang sục tìm chợt đến cổng tây cung. Sức nhớ đến cha con lão Phìa Mường La Nam Cương, Võ vọt luôn vào, nghĩ:

                      - À! Hay dữ! Nếu cô gái Meo Tây Phi này còn đây, ta cứ đeo sát, con tinh mới về thế nào cũng cho gọi, hoặc nó tới cung này ta cũng hi vọng gặp nó ngay!

                      Bèn nương bóng cây lần vào, chỉ nghe tiếng nhạc uốn éo đưa ra, ghé mắt nhìn qua cửa sổ khép hờ, thấy một căn phòng rộng, trần thiết lông lẫy, có một bọn năm, bảy gái đang hòa nhạc, và một bọn mấy gái nữa đang lăng xăng bày biện đèn lông, mang khay trà... xoay lưng lại.

                      Quái! Bon gái này làm chi, coi rộn rịp như đón rước ai? Hay "nó" đến? Vừa nghĩ, Võ vừa lùi ra chút, bước quanh, thấy tấm biển đề "Tế Yêu cung" "Nhũ Hoa cung" và chợt lại nghe trong phòng vẳng ra tiếng gọi nhau thánh thót chàng vội lộn đến ghé mắt trông thấy lũ gái khiêng ra một chiếc ghế tay ngai cao nghệu sơn son đặt cuối phòng. Ngay khi đó, bỗng thấy bóng chiếc cáng thổ cẩm hiện ngoài thềm nhà, nhạc nổi lên? Một bọn độ vài gái xiêm y sặc sỡ phò một mỹ nhân xuống cáng đi vào. Bọn gái trong phòng nhất loạt chạy ra dàn hai bên, phục luôn xuống hô lảnh:

                      - Nô tỳ cung nữ xin bái kiến nương nương, chúc nương nương trường thọ cho Tây cung hoa nở bốn mùa!

                      Hô xong đứng lên, Võ ngó lại, thì ra cô nàng đi cáng không ai khác Kheng Lan con gái Mèo tiến cung hồi nãy. Phía sau cô nàng vẫn có lão Phìa Mường La theo "hộ tống". Cô Mèo lúc này coi càng ngơ ngác, sững sờ, không tươi nhanh như lúc nau sáp bọc mình, nàng ta giơ tay vẻ lúng túng nói chi, rồi theo lũ gái đi thẳng vào, ngồi xuống ghế son, một cung nữ trạc non ba mươi vẻ thành thạo, cúi đầu cung kính:

                      - Xin cho mỹ nữ Tế Yêu, Nhũ Hoa cung ra mắt nương nương! Dưt lời, từ ngoài tiến vào một đám gái trẻ, từ mười bảy tới ba mươi, xiêm y cả loạt rực rỡ, đi hàng một bước đến trước ghế son. Phựt! Cách hai thước, gái dẫn đầu bất thần đưa tay giật mạnh một cái tiếp theo những tiếng khuy bấm xổ tách tách cả tấm áo mỏng mở bung chạy gập xuống tận hông, để lộ thân hình trắng ngà không mảnh vải lót trong. Gái trần vai yểu điệu bước ra trước mặt Tây Phi. Nghiêng đầu một cái, đứng thẳng người, gái nay chầm chậm xoay mình một vòng chừng muốn trình thân dáng. Đúng là một tấm thân tuyệt đẹp! Bộ nhũ phây trên lồng ngực hoa căng sức sống, tấm lưng thon thắt dây tò vò, coi như pho tượng khắc thật giỏi! Hai bộ chân này noi bật lên, còn các bộ phận khác như bụng, vai, cổ, mắt, mũi, tai tuy không nổi bật bằng nhưng cũng thuộc loại xinh xắn cả. Chỉ nhìn qua cũng thấy gái "Tế Yêu cung, Nhũ Hoa cung" này đẹp hơn gái mấy cung viện trước!

                      Cô gái này xoay người một vòng, rồi tiến sang bên kia, nhường chỗ cho gái thứ hai.

                      Phụt! Tách tách! Gái này cũng giật tung khuy bấm chiếc áo may ghép sổ tung, chảy xuống tận hông, lại phô tấm lưng thon, nhũ hoa căng sức sống, dưới ánh sáng đèn lồng gái này cũng làm các động tác y hệt như gái trước, rồi bước đi nhường chỗ cho gái sau. Cứ thế tiếp tục phô eo, nhũ dưới đèn.

                      Nàng Mèo Kheng Lan gật đầu, Võ Minh Thần sực nhớ tới "lão Phìa vô liêm sỉ" đem con gái nộp Chúa sài lang, mặt mày hớn hở như không, chàng trai nhăn mặt đưa mắt tìm, ông già Phìa kia đã lảng ra đứng ngoài hành lang lúc nào không biết, chắc lão ta ngượng vì thấy gái lưng trần! Bỗng nghe tiếng lão vọng vào:

                      - Này các cô? Sao không đem Tây Phi đến gặp Chúa sài lang? Ngồi đây làm gì?

                      Cô lớn tuổi thưa:

                      - Dám bẩm Phìa, lệ A Phòng, dẫn phi hậu tiến cung cũng ở riêng biệt!

                      Chừng nào có lệnh Chúa cho gọi, hay Chúa ngự tới, mới được gặp!

                      Dứt lời, ả quay bảo cô nàng Mèo:

                      - Tâu nương nương, giờ xin nương nương theo kẻ nô tỳ đi tắm rửa, thay đổi xiêm y, chờ Chúa gia ngự!

                      Cô nàng Mèo lắc đầu:

                      - Tắm sạch rồi! Giờ ta đợi Chúa sài lang!

                      Chàng trai liên tưởng đến cảnh mẹ chàng chết nhục vì không chịu khuất phục Chúa sài lang, máu bỗng sôi sục trong huyết quản.

                      - Hừ! Cung viện chứa thứ gái chi mà âm thanh ma mãnh thế này? Nó sẽ tới đây "ngự" Tây Phi mới tiến. Ta chờ ngoài này, ít nhất, nó phải cho thủ hạ đến vời cô gái Mèo Mường La kia, ta sẽ theo sát!

                      Bèn cứ đứng ẩn giữa bóng lá, dòm, đợi thấy bầy gái đi vòng lại nhất loạt cúi đầu làm lễ ra mắt Tây Phi, nàng Mèo Tây Phi mới xuống cung động, ngồi xem bọn mỹ nữ lượn, không hé môi, khi chúng dàn chào, nàng ta chợt cười khanh khách:

                      - Dưới này ăn mặc lạ thật! Có quần không có áo!

                      Một cô nhiều tuổi nhất lễ phép:

                      - Dạ tâu nương nương, Tây cung này là Tế Yêu cung, Nhũ Hoa cung. Chúa vương gia tuyển toàn gái có lưng to nhũ đẹp! Theo lệ A Phòng, cung viện, mỹ nữ phải để phô lộ nhũ, bất thần Chúa ngự! Vì Chúa hay tới Tế Yêu cung!

                      Chỉ trong giây phút, trong phòng đã lố nhố đầy mỹ nữ khỏa bán thân phô những tấm lưng eo, những lồng ngực căng sức sống, đẹp như tượng khắc. Bầy mỹ nữ thiết tha đi dưới ánh đèn, vạt áo để bay phất phi, coi không khác một bầy tiên hạ giới đang lướt theo nhịp vũ tuyệt vời!

                      - À! Cung viện chứa gái lưng eo, nhũ đẹp là thế đây! Hừ! Quả con tình Chúa Hồng Cẩu Quẩy này có mắt tham mỹ hơn người, chọn bắt toàn mỹ nữ lưng thon ngực nở trong thiên hạ! Lạ thật! Coi mặt mũi dáng thân toàn con nhà khá giả bị con tinh chúa nhốt dưới, cái cung ma quái này, sao coi họ có vẻ tươi tỉnh ríu rít như bầy chim oanh, chẳng vẻ chi ủ rũ âu sầu thê thảm? Không lẽ đời sống dưới cung thảy này thích hợp với mỹ nhân? Hay bọn họ đều bị ngải yêu, ma thuật làm cho mê hoặc?

                      Tự nhiên chàng tuổi trẻ khẽ thở dài, ái ngại cho đám gái xấu so, cam tâm lìa gia đình thân thích, xuống lòng đất cung ma hầu loài tinh chó sói. Vẫn lễ phép, gái hầu kia chừng cung nữ trưởng đã quen "nghề" dưới động hơi cúi đầu thỏ thẻ:

                      - Tắm gội nước thơm là luật chung dưới A Phòng, thập viện ngũ cung đều phải theo. Đó là lệnh Chúa Vương gia ban xuống! Ai không tuân là phạm cấm điều, kẻ nô tỳ này phải trình cho "quan Chưởng pháp"!

                      Nghe lời gái cung nữ trưởng bảo trình Chưởng pháp, nàng Mèo Tây Phi Kheng Lan tự nhiên có vẻ giận dữ, mất cả nét ngơ ngác bỡ ngỡ của người mới xuống cung ma động quái, nàng ta cau mày lớn tiếng:

                      - Ta đã bảo không cần tắm rửa chi cả! Bọn ngươi nên biết, trước khi nhận làm Tây Phi, ta đã ước với Chúa sài lang phải để ta được tự do, không kiềm chế quá! Vậy lúc nào ta muốn tắm sẽ bảo! Chưởng pháp là kẻ nào có thể áp chế được vợ Chúa sài lang!

                      Đám mỹ nữ tế yêu, Nhũ Hoa cung xúm lại khuyên nhủ, nhưng nàng Tây Phi nhất định không nghe, lão Phìa đứng ngoài căng nói vọng vào:

                      - Kheng Lan Phi à! Tuy con đã tắm rửa sạch sẽ rồi, nhưng đi từ Mường La tới đây đường trường bụi bặm, mồ hôi, cũng nên tắm lại cho thơm tho, Chúa ngự hài lòng mới có phận nhờ! Con nên nghe lời chúng đi!

                      Nàng Mèo vùng vằng:

                      - Cha đã tắm chưa mà đã bắt con tắm! Đã đem con tiến Chúa sài lang, cha lại còn áp chế con mãi! Sao cha không đi tắm cho thơm tho! Cha đừng quên từ phút này con là Tây Phi, cha phải theo con mới đúng chứ?

                      Từ lúc gặp trên mặt đất, đây là lần đầu Võ Minh Thần nghe nàng Mèo nói câu đầy vẻ oán trách cha, chàng cũng lấy làm lạ, tự nhiên có cảm tình đối với nàng ta, chàng nghĩ thầm:

                      - Kể lão Phìa kia cũng vô liêm sỉ thật! Mặt mũi coi cũng khá mà dám mở niệng bảo con tắm rửa thơm tho cho Chúa sói "đi lại", kể thật hết chỗ nói! Chắc nàng Mèo kia vì hiếu đã cố chịu đựng hy sinh quá mức rồi, nên mới bực ngang thế! Nghĩ cũng tội? Mà cô ta cũng lạ? Tắm rửa có chết chóc chi mà phải làm to chuyện?

                      Đang nghĩ vẩn vơ chợt nghe lão Phìa thở phì than "ôi chao! Phìa ngu thật, con gái Phìa giờ này lên chức Tây Phi, Phìa quên mất! Phải phải! Tây Phi không tắm cũng phải!", Võ hơi nhếch cười trước giọng "a dua xu phụ con gái quý" của lão Phìa vụ lợi.

                      Chợt lại thấy ả cũng nữ trưởng cúi đầu bỏ ra ngoài. Nửa phút sau, bỗng nghe xa xa có tiếng cười the thé nhọn hoắt rót vào Tế Yêu cung:

                      - Hé hé! Chưởng pháp xin ra mắt Tây Phi! Sao Tây Phi không tắm? Tây

                      Phi không thích tắm "thủy phương", hé hé!

                      Nàng Mèo Kheng Lan nghiêng tai, hỏi lớn:

                      - Ngươi là Chưởng pháp, muốn gì, sao không tới đây? "Thủy phương", thì là món chi?

                      - Ao nước thơm! Luật A Phòng, Phi hậu cũng phải tắm nước trước khi Chúa ngự! Xin Tây Phi đi tắm ao thơm! Chưởng pháp xin báo tối nay Chúa mới về, có thể ngự ở cung Tây đó!

                      - Vậy để gặp Chúa sài lang, cùng tắm chưa muộn! Không tiếng đáp, dư âm giọng gái Mèo vang ngân trong cung, im lặng mười khắc. Thình lình có tiếng vút gió, rồi vùn vụt bốn, năm hình thù đen ngòn từ ngoài bắn vọt vào giữa phòng lẹ như mấy bóng chim cắt, đứng dừng sững trước mặt nàng Mèo Tây Phi. Hiện ra năm hình hết sức quái gở làm kẻ bạo gan cũng phải giật mình. Dưới đèn, đó là năm bóng người khoác áo đen lòa xòa như mặc "măng tô san"! Không phải người cả! Vì đó là bốn con chó sói cao lớn, loại Hồng Cẩu Quẩy đầu đàn khoác áo thụng chấm gót, chúng đi hai chân như người, vểnh tai, hích mõm mắt đỏ khé dòm lừ lừ, nanh nhe nhọn, chân trước vuốt nhọn hoắt cào cào không khí như chực vồ người, mũi phập phồng đánh hơi hít hà coi bộ thèm mùi thịt mỹ nữ hết sức!

                      Và đứng trước bốn con "quỷ mắt đỏ" này một mụ đàn bà trạc bốn mươi, mập như con trâu chương, mặt to như cái thớt, hai con mắt trố ốc nhồi sáng như đèn pha, lông mày sâu róm, mồm ngoác tựa mép con dãi đỏ lòm màu son máu, môi gắp chả, tóc búi đỉnh đau, tay phải cầm một cái gậy trắng hếu, ghép bằng xương người, tay trái cầm một tấm lưới đen xì, quay xoe xóe.

                      Mụ mập quái gở cùng bốn con chó sói khoác áo cứ đứng lù lù tìm cô Mèo Kheng Lan, coi không khác hình mụ dạ xoa dưới âm dẫn chó ngao lên bắt hồn người ta!

                      Nàng Mèo Mường La cứ ngồi ngó mụ mập với bốn con chó quái, chợt phát cười khanh khách:

                      - Hà hà! Dưới cung Chúa sài lang cái chi cũng lạ, chó mặc áo như người, mụ này mập dữ, coi như con trâu! Vào làm gì đó?

                      Tự nhiên đám mỹ nữ Tế Yêu cung đều biến sắc, đưa mắt cho Tây Phi, chúng sợ thay cho nàng, Nhưng vẻ ngây thơ của nàng Mèo bỗng làm mụ mập cười sằng sặc, cúi chào cất giọng the thé:

                      - Chưởng pháp ngũ cung, lập viện A Phòng cung, gái già Dạ Xoa xin chúc Tây Phi trường thọ, cai quản cung Tây đúng uy pháp Chúa Vương gia, và đi tắm "thủy phương trì" ngay!

                      Nàng Mèo Kheng Lan xua tay:

                      - Ta đã bảo không tắm! Mụ đừng nhắc đến nữa! Ta đã giao hẹn với Chúa sài lang rồi! Bọn người không thể coi ta như lũ Phi tầm thường được!

                      Giọng đĩnh đạc của nàng Mèo làm Võ Minh Thần nấp ngoài cửa sổ không khỏi ngạc nhiên, cho nàng ta có "tính đồng bóng" vì một cô gái bướng đâu chịu dẫn thân tới hiến cho Chúa sói, cả mụ Dạ Xoa cũng ngạc nhiên, trợn mắt, cười dữ tợn:

                      - Chưởng pháp quan chỉ biết luật cung cấm, không biết điều giao ước riêng của Phi! Phi không đi tam, nên phải bỏ rọ, cho chó sói thả dìm ao!

                      Lưới trên tay quay mở xòe bốn con sài kíu gừ gừ, lắc lư chực xông lại, lão Phìa chạy vội vào đứng bên con gái, nói lớn:

                      - Không được hỗn với Tây Phi? Chúa sài lang đã thuận cho Tây Phi được tùy ý trong cung, mụ phạm tới sẽ bị Chúa cho chó ăn thịt!

                      Mụ Dạ Xoa dòm sững, chừng cũng chột dạ:

                      - Lấy gì làm bằng? Việc tắm "thủy phương trì" quan hệ, cả cung phải theo, chính luật Chúa ra!

                      - Coi đây sẽ rõ ta không tắm cũng được!

                      Cô nàng Mèo lấy trong người ra một mảnh xương có khắc mấy chữ chi đó với hình cung động, đầu sói bé tí. Mụ Dạ Xoa dòm kỹ vòng qua mảnh xương, nói nhanh:

                      - Chưởng phap mượn tín bài giây lát!

                      Dứt lời, mụ ta phất tay gậy một cái, cùng bốn con sói, khắc bắn vọt mình ra ngoài.

                      - Chắc mụ đi gặp Chúa sài lang! Thoáng nghĩ nhanh như tia chớp, Võ Minh Thần lập tức rời hồi sau, vọt ra đằng trước, theo hút mụ Dạ Xoa. Nhưng ra được tới đầu hồi, ngó quanh, đã chẳng thấy hình quái kia đâu nữa! Tây Cung cây cối rườm rà, tòa ngang dãy dọc như mê hồn trận! Võ vụt đảo một vòng, vẫn biến dạng Dạ Xoa. Thất vọng chàng bèn lại nấp chờ. Mười phút, rồi hai mươi phút, vẫn chẳng thấy chi khác, chỉ thấy bầy mỹ nữ lưng lộ nhũ trông tha thướt lượn quanh nhà như phô diễn "bảo vật trời cho", làm Võ muốn lủng con ngươi! Bèn tặc lưỡi, bỏ cung Tay Tế Yêu, lần mò trong bóng tối sương mờ, đi miết về nẻo có ánh mặt trời giả tạo. Quanh co mãi mặt trời xoay chuyển biến màu chừng mấy phút sau, bỗng chàng lọt vào một khu kiến trúc thật quái gở với những đường nét het sức phi phàm, coi khác hẳn lối kiến trúc trên trần. Con lạch chạy ôm lấy khu vực này, bóng cây che rợp. Ánh sáng mặt trời lúc hoàng hôn phủ lên khu nhà cửa một vẻ quái ảo như trong mộng ảo hang hoang! Một chiếc cầu sơn son cong vút bắc qua lạch, bên kia là một hoa viên, nhưng không phải vườn hoa thường thấy, mà là thứ vườn trồng toàn loại cây khẳng khiu, coi từa tựa hình người gầy trơ xương đứng đấy, càng giống tay chân lêu nghêu giơ ra chực vồ người. Một đàn non trăm con Hồng Cẩu Quẩy đứng ngồi rải rác quanh đấy, mắt đỏ xéch phản ánh hoàng hôn. Cuối vườn "cây giống người" có một cái cổng mái uốn cong, với tấm biển đen cẩn chữ vàng nổi hai hàng chữ Hán trên to, quốc ngữ dưới nhỏ hơn: "Cấm cung động phủ", "Ma Vương Tây Sắc tinh Quân Sài Lang Chúa".

                      Trống ngực chàng trai đập mạnh vì xúc động hàng chữ nhảy múa, Võ Minh Thần chắp hai tay lên trán thở phào:

                      - Hang ổ soi tinh kia rồi! Đội ơn thiên địa giúp kẻ mồ côi! Mẫu thân! Linh thiêng xin về chứng kiến con vào hang ổ kẻ thù hấp sát, báo nhục hờn cho bậc sinh thành.

                      Âm thanh ảo vọng ra, một thứ âm phi phàm phảng phất như có oan hồn kêu khóc rên la mơ hồ. Dùng thuật ẩn thân, Võ trôi vào theo làn sương bọc.

                      Lúc này, tuy dưới cung động Ma Vương là cả cảnh mặt trời hoàng hôn ngụy chiếu cấm cung, nhưng trên cõi thế, đã qua nửa đêm lâu rồi, lòng đất lạnh, đá hàn đang xông khí trắng hơi sương, cấm cung sâu dưới lòng đất càng bốc lãnh khí, nên vầng sương mờ nhân tạo của Võ Minh Thần lại được nhiều khóm sương vây bọc, sương bốc mây đùn là là mặt đất, đặc sệt vẫn là cảnh rất thường. Nên làn sương mờ bọc Minh Thần trôi qua lạch vào hoa viên "quỷ mộc", cũng tựa như không, chẳng bị ai để ý.

                      Minh Thần đã bôi thuốc át hơi người lại ngâm thêm dưới nước, phơi sương khá lâu, nên tuyệt chẳng gây mùi, bầy Hồng Cẩu Quẩy đứng ngồi rải rác khắp vườn cây, không con nào đánh hơi thấy.

                      Đến nỗi làn sương bọc mình đặc sệt, Võ Minh Thần lướt vào có lúc suýt đụng cả vào lũ chó sói loanh quanh, mà chúng vẫn không hay.

                      Dùng tia phát điện sờ soạng, thám thính, Võ trôi thẳng qua cổng "cấm cung động Ma Vương Tây Sắc tinh quân Sài Lang Chúa" dừng lại một xó đầy bóng cây. Xua hết sương mờ, Võ đưa mát quan sát. Rải rác mấy dãy tả hữu có nhiều bóng đàn bà thấp thoáng qua lại ngoài thềm, cảnh tượng náo nhiệt, nhưng tuyệt chẳng thấy một bóng đàn ông nào cả.

                      Văng vẳng có tiếng sáo véo con chìm nổi đâu đây, nhưng nghe phảng phất xa xăm lạ!

                      Nương bóng đêm, Võ men lại gần, quan sát. Mới hay cửa đền ghép kính, suốt mấy dãy, chỉ thấy bóng đàn bà con gái, mỹ nữ cung hầu, hơn hết đều xinh xắn tươi vui, chẳng cô nào rầu rĩ cả!

                      Nhìn kỹ sắc phục vẻ người đúng là đám mỹ nhân hầu cận Chúa tể. Không cô nào nói cười to tiếng, chừng sợ kinh động tới Ma Vương!

                      Lần hết mấy dãy có ánh đèn huyền ảo, Võ đang dịnh bỏ đi tìm chỗ khác bỗng tới trước một căn phòng cạnh một hành lang nối tít trong, bên con lạch có cầu bắc trước hành lang trong phòng có tiếng đàn bà khóc thút thít.

                      Chàng bèn lần sát tới, ghé mắt dòm vào, thấy mụ Dạ Xoa ban nãy đứng cùng bốn con sài kíu mặc áo thụng đen va vài gái khác, vây quanh lấy một cái giường thất bảo, màn lan tiên buông rũ, chừng đang nói gì đó.

                      Minh Thần chú mục nhìn vào qua lần màn mỏng thấy lờ mờ bóng người nằm trong.

                      - Không lẽ con tinh Chúa nằm trong màn? Tieng đàn bà khóc...?

                      Đang phân vân thắc mắc, bỗng thấy mụ Dạ Xoa vùng lùi lại một bước dài khua cây gậy, nói to:

                      - A Phòng cung mỹ nữ đầy đàn, được Chúa vời lẽ có phúc lớn, sao lại nằm khóc mãi! Chưởng pháp dỗ hết nước bọt rồi, chịu hay không nói phắt cho xong, mụ còn lo liệu định! Mụ không thích cho chó sói ăn thịt lây với nương nương đâu!

                      Lời dứt trong màn vẫn có tiếng khóc thút thít, thỏ thẻ giọng gái nói tiếng Kinh:

                      - Xin tha cho em, em sợ vào hầu Chúa sài lang lắm! Chúa hớp hồn ăn thịt...

                      Lại có tiếng gái Thổ vọng ra:

                      - Em không dám vào đâu! Tối nay em không sạch, vào hầu Chúa phạm tội, Dạ Xoa cũng tội lây!

                      Mụ Dạ Xoa cười ré:

                      - Hầu Chúa không muốn, muốn hầu quân, để mụ cho "người" vào thăm! Dứt lời mụ hú lên một tiếng ám hiệu, lập tức có hai con hang cẩu quẩy đen thui lông lá xồm xoàm vùng ngửa mặt hếch mõm nhe răng cười khà khật khưỡng đi hai chân mò lại cửa màn, thò chân trước vén cánh lan lên, nhảy tót lên giường thất bảo. Có tiếng kêu rú trong màn. Võ Minh Thần dòm vào, chỉ thấy thấp thoáng bóng người bóng chó loang loáng giằng co, có tiếng hét "Chịu! Chịu... em chịu xuống", mụ Dạ Xoa cười rú lên một tiếng, trong màn im, hai con chó nhảy tót ra, đứng lù lù, chóp chép mõm lưỡi thè lè vẻ thòm thèm hết sức. Ngay khi đó từ trên giường bước xuống hai bong mỹ nhân, xiêm y tơi tả, đầu tóc lòa xòa, không phải xiêm y mà chỉ là mảnh "voan" mỏng một đen, một trắng khoác ngoài thân dáng, coi không khác mặc lần kính pha lê vậy. Vạt "voan" khoác bay soạt về sau, theo Võ Minh Than thấy rõ thân hình hai cô gái này, biết ngay là mỹ nữ Tế Yêu, Nhũ Hoa cung và Túc hoa cung. Vì một cô gái Kinh dung nhan coi giống gái Từ Sơn Nội Duệ Cầu Lim, sông Thao, có tấm lưng thắt đáy tò vò tuyệt đẹp, bàn tọa nở bạnh, chỉ nhắc qua đã biết ngay tướng đàn bà "mắn" và một cặp nhũ hoa đanh như tượng khắc, tuy thân thể cô này tầm thước, nhỏ nhắn! Còn cô kia, coi mặt biết ngay gái Thổ Thái, khổ người đậm hơn, to hơn, đặc biệt có cặp dò thuôn lẳn hình búp hoa quỳ, dài tựa đùi ếch lột, coi cũng hiểu ngay gái này thuộc loại leo núi giỏi hơn khỉ vượn, sơn dương, sức trường kỳ ít ai sánh kịp.

                      Cả hai đưa tay khép mép voan lại, mat hoa còn hoen đầy nước mắt, dáo dác nhìn mấy con sói dữ và mụ Dạ Xoa. Mụ Dạ Xoa cười ré lên, bước lại, vỗvai hai mỹ nữ này thét giọng:

                      - Nào! Tươi tỉnh lên! Theo ta! Hai nàng gượng cười, gật đầu, như cơn gió mụ Dạ Xoa, bầy gái trẻ, bốn con sói khoác áo đen lưới vụt ra ngoài cửa! Minh Thần ẩn kín dòm theo, thấy bọn này đi vụt qua cửa vào khu nhà tối, bên kia lạch. Rất nhanh chàng quay vụt mình theo. Nhưng vào tới khu nhà tối, chẳng thấy bon kia đâu nữa. Bốn bề im lặng dị thường, tối om và lạnh lẽo tưởng chừng như lọt vào cỗ quan tài vùi giữu tuyết băng! Mơ hồ vẫn có âm thanh quái gở chờn vờn, Võ theo hành lang tối tiến vào sâu, sờ tay mới hay hai bên la vách đá dung, chừng ba mươi bộ, bỗng tia mắt chạm phải mấy chữ lân tinh lập lòe trong bóng tối chữ thật khó hiểu nhưng làm Võ bỗng giật mình một cái vì sửng sốt!

                      "Hóa sinh môn

                      Nhục thân bảo tàng viện"

                      Tám chữ này đều bằng Hán tự phết theo loại chữ thảo như rồng bay phượng múa, nét giống gươm dao mã tấu, liềm móc, coi sắc, mạnh, mà lại phảng phất như ẩn hiện vẻ chi huyền bí lạ!

                      Ngay dưới tám chữ lớn này, lại có mấy hàng chữ nho, viết phết theo lối chân phương thật tốt nét, ít nhất phải tay bút lông của hạng khoa bảng trứ danh còn sót lại giữa thời bút sắt:

                      "Càn khôn hựu càn khôn, càn khôn biến hóa thập tử nhất sinh, càn khôn càn khôn hựu càn khôn biến hóa, thập tử nhất sinh".

                      Tuy mấy hàng chữ này nhỏ, nhưng phết lân tinh, nên đứng xa cũng thấy rõ. Minh Thần đọc hết mấy dòng cuối, vụt nhớ ngay tới mấy câu quái gở "càn khôn, càn khôn" chàng đã từng nghe mấy lần có dính đến mấy cái vòng càn khôn bí mật! Lòng đầy thắc mắc, chàng bèn tiếp luôn vào.

                      Im đến rợn người! Minh Thần nghe ngóng động tĩnh, không thấy một bóng sinh vật nào bèn bước lại đưa tay đẩy cửa giữa. Cửa sất nặng nề khóa chặt.

                      Bảo tàng viện này kín như bưng, không có cửa sổ, Minh Thần định lên mái, kiếm lối vào chợt nghe tiếng "xó Khách" thì thào bên tai:

                      - Không có quân canh! Để xó mở cửa!

                      - À phải đó! Két két! Cánh cửa thép từ từ hé mở, Võ lách luôn vào, khép cửa lại. Tối như mực tàu! Chàng vận nhãn tuyến chỉ thấy lờ mờ nhiều đốm dạ quang nhỏ, sực nhớ có đem theo chiếc đèn bấm nhỏ, bèn lấy ra soi. Tách! Tia sáng xanh lè rè ngang từ cửa, một hình chó sói đứng lù lù ngay trước mặt! Đó là một tượng Hồng Cẩu Quẩy dát vàng, có lông bờm đứng hai chân, coi giống hình sài lang Chúa, mồm ngậm một xắn ba cái vòng lớn, trên mỗi vòng đều có khắc phết dạ quang bốn câu hai mươi chữ, loại thơ "ngũ ngôn tứ tuyệt":

                      "Hóa hóa ngũ hành âm

                      Sinh sinh ngũ hành dương

                      Âm dương đồng bản thể

                      Vong tồn sinh hóa tương"

                      Minh Thần đọc đi đọc lại hai, ba lần lời thơ thật khó hiểu, tuy vậy chàng cũng phỏng đoán bốn câu này ẩn chứa điều bí mật chi đó về vật lý trong việc sinh thành tru diệt.

                      Tặc lưỡi, Võ rè đèn bấm soi quanh. Cảnh tượng trong viện đập vào nhãn quang, vì giữa tia đèn xanh lè, vụt hiện rõ từng dãy hình người đứng ngồi lố nhố khắp mấy gian buồng rộng, coi không khác đám người đang họp mặt, tắt đèn nhà kín!

                      Có nhiều bóng lom khom, như vừa nhổm dậy, ngóc cổ nhìn chàng vừa bước vào, những cặp mở trừng trừng trắng dã! Mùi tanh khẳm đến lộn mửa! Tuy vậy, Võ cũng trấn tĩnh được ngay, khi nhớ đến hai chữ "nhục thân" trên tấm biển ngoài cửa viện! Võ tiến vào, rẽ luồng sáng xanh, loài xác người! Toàn xác đàn bà đúng hơn!

                      Những thiếu nữ trẻ trạc mười sáu, mười tám lần hoa nở, mặc đủ loại quần sắc Kinh lẫn Thổ, Thái Mèo Mường Kha Nhắng, Mán Nùng Lào v.v... Kẻ đứng người ngồi, kẻ nhấp nhỏm, người muon eo, dáng điệu hết sức tự nhiên. Cô nàng đứng trên bục gỗ, nằm trên giường kẻ ngồi đang chải tóc, kẻ ôm đàn ngồi trên sập gụ, có nàng mặc xiêm y, lại có nàng khỏa thân, xõa tóc, rướn cong mình mẩy như đang điên cuong níu ghì kẻ dị tính đòi theo lên đỉnh Vu sơn, cũng có nàng đang trong thế giãy giụa như đỉa phải vôi lại có bọn trong thế say sưa hoan lạc, có đám trong thế kinh hoàng, thống thiết. Tóm lại đủ mọi sắc phụ nữ, đủ mọi thế nằm ngồi đi đứng hỉ nộ ái ố bi lạc dục, sơ qua cũng hàng trăm xác, coi không khác căn phòng bày triển lãm các kiểu "búp bê" bằng xương thịt vậy.

                      - Quái đản! Quái đản! Hầm chứa xác của "con tinh râu xanh"! Ghê gớm như trong truyện hoang đường!

                      Đúng các thây xác đàn bà bất hạnh này đều bị con tinh Tây Sắc hấp sát rồi tàng trữ nơi đây! Thật kinh tởm! Thủa nay lại có kẻ sát nhân, lấy xác bày lưu trữ làm bảo tàng việc nhục thân người ta, như bầu hình nhân mà chơi vậy! Giống Sài Lang độc ác có khác, nghĩ thương thay cho đám nạn nhân, thác oan chết uổng giữa thủa thanh xuân tươi đẹp! Tội ác con tinh chó này trúc rừng không ghi hết. Nước Hắc Giang rửa ngàn đời không sạch hồn oan!

                      Chàng cắn chặt răng, nén xúc cảm lẩn quanh, xem xét từng cái xác thây nữ, không khỏi ngạc nhiên, thấy cái thây nào cũng đều chết cứng như còn mang nguyên dạng chết khi hồn lìa khỏi xác, không có vật gì đính phía sau?

                      Xác nào cũng xông mùi tanh khẳm như xác mẹ chàng, nhưng khi Võ ngửi từng cái một, chàng chợt để ý thấy có điều đặc biệt là: Xác hàng gần cửa, cái nào cũng nặng mùi hơn cái hàng trong, càng vào trong, xác càng nhẹ mùi!

                      Minh Thần chiếu đèn soi kỹ, thấy mỗi cái thây đàn bà lại có một tấm lắc bạc đeo cổ, ghi rõ họ tên nạn nhân, ngày, giờ, tháng, năm bị sát hại cùng địa danh nơi nó vồ mồi!

                      Căn cứ vào tên họ nạn nhân Võ nhận thấy mấy hàng xác phía ngoài đều bị giết từ hai mươi năm trước, trong khoảng mười lăm năm, thuộc nhiều dòng họ, sắc tộc, tính ra cứ mỗi con trăng là hai người! Mặt mũi vẫn mang nét mặt người ta. Nhưng mặt nào coi cũng sưng sưng chứ không rúm ró.

                      - Lạ thật! Coi mớ xác chết nạn nhân này, nhiều cái bị hấp cùng thời với mẹ ta, mẹ ta hấp sát theo lối trừng phạt nên mới thế?

                      Nghĩ phân vân, tay cầm từng tấm "lắc" coi kỹ lại, vô tình chạm vào lồng ngực cái xác thiếu phụ người Kinh mặc áo ngủ mỡ gà, ngón tay cảm thấy rõ chạm phải một vật chi mềm mềm căng chứ không rắn chắc như xác thường.

                      Ngạc nhiên, Minh Thần bèn rút cây châm chọc cài trên đầu cái xác, chọc nhẹ vào rãnh ngực một cái. Bỗng cái xác giật mình như bị kiến đốt, thở phù một hơi dài, làm Minh Thần cũng giật mình lùi lại trừng mắt dòm, một tay bịt vội mui. Một mùi tanh khẳm kinh tởn tạt thốc vào mũi, muốn lộn mửa, chàng dòm lại, xác nữ đã lép xẹp, dúm dó, mất cả hình nhân dạng, không khác trái bóng xì hơi!

                      - À! Cái túi da người!

                      Minh Thần bật kêu khẽ, bước lại, vén áo quan sát kỹ, thì ra hoàn toàn là cái túi da, xác nữ đã bị hấp hết gân thịt chỉ còn mớ xương lổn nhổn, đã được ghép lại, phết một thứ chi thật kín các lỗ hổng, và bơm hơi vào, hai con mắt chỉ là mắt bi ve, thoạt nhìn tưởng xác người đặc!

                      Quan sát, sờ nắn thử những dãy xác khác, càng giống xác này, toàn túi da người bơm hơi phồng lên, Minh Thần bèn tiến vào phía trong. Hết mấy gian ngoài, tới một cái cửa thông khép chặt, Võ đưa tay đẩy "két két!" lách vào!

                      Lại một gian nhà chứa xác nữa. Cũng toàn đàn bà con gái, có điều hơi khác là toàn đàn bà khỏa thân và nguyên hình "túi da người" treo tủ kính, trong căn buồng kín, im lìm như trong quan tài cảnh tượng quái gở, thê lương cực độ làm chàng gai óc, mủi lòng. Xác nào cũng có tấm "lắc" đeo cổ, nhưng là lắc đồng trụ đỏ ối như vàng Tây ghi tên họ ngày giờ bị hấp tính ra đều bị sát hại từ hai mươi đến hai nhăm năm về trước tức vào khoảng thời gian Võ Minh Thần còn nằm trong bụng mẹ!

                      Minh Thần chỉ nhận ra điều khác là: Xác trong buồng này thối khẳm hơn xác buồng ngoài nhiều, rỗ ràng thời gian càng hấp sat nhiều, con tinh càng "tiến bộ" về vệ sinh, hấp đỡ thối xác đi! Xem xét hết, chàng tiến vào phía cuối, lại thấy một khung cửa nữa. Chàng lại đẩy, lách vào. Chiếu đèn, vẫn gian hầm chứa xác, nhưng gian này ngắn hơn, chỉ độ hai mươi xác nữ, đứng ngồi, nằm rải rác khắp chỗ, trên giường, ghế bành, ghế xích đu, v.v...

                      Đặc biệt là không có mùi hôi thối xông vào mà lại có mùi thơm thoang thoảng phả vào mũi chàng trai, rõ mùi da thịt mỹ nhân! Ngạc nhiên, Minh Thần tiến lại dòm, thấy xác nào cũng còn nguyên hình dạng, dung nhan, sờ ấn thử, mới hay xác đặc, chưa mất thịt gân chi cả! Dưới đèn, hiện ra toàn là đàn bà nhan sắc, coi xác còn tươi lạ! Chàng bước lai bên chiếc ghế xích đu.

                      Giữa vệt đèn bấm xanh lè, thiếu nữ ngồi dáng lả lơi nhí nhảnh như người ngồi bóng mát, đu ghế xích nghịch chơi, mặt cô ta tươi mơn mởn chưa tắt nét cười hàm tiếu! Đây là một cô gái Kinh, vẻ người giàu sang, khuy áo bấm mở bung hai cái. Phô rãnh ngực đeo "su chiêng", thấp thoáng ẩn hiện chim uyên vẫn căng tròn như lúc sống. Đọc hàng chữ ghi trên "lắc" đeo cổ, mới hay thiếu nữ này mới bị giết khoảng ba năm về trước!

                      Minh Thần buông tấm "lắc" ghế xích đu hơi động đậy đu đưa, coi linh động hết sức, chẳng khác nàng ta đang mỉm cười, uốn éo, tình tứ với chàng.

                      Khẽ thở dài, Võ bước lại bên một cô Thổ mặc "phá" lãn mép thủy ba kim tuyến, cô này quỵ chân trên bục gỗ, trông dáng miền quê đang ngồi chuốc rượu cần hay "dâng" điếu cày cho khách! Mặt cô này bầu bĩnh coi điềm đạm loại con tù trưởng và sắc diện cũng tươi tỉnh như cô Kinh ngồi ghế xích đu. Tấm "lắc" ghi ngày tháng cho biết cô Thổ này cũng "bị" cách đây hai, ba năm. Khi Võ cúi sát xuống đọc chữ trên lắc, chàng ngửi thấy một mùi thơm tho vị của hoa phương thảo, tựa mùi rễ nhang bài, trầm hương, trộn với hương quế vậy.

                      Đoán cô này được tẩm ngũ vị hương chi đó, Minh Thần bỏ đi xem xét các thây xác nạn nhân khác.

                      Chợt Võ để ý mỗi cái thây chẳng những không hôi thối tanh tao, ngửi kỹ mới thấy. Có mui rõ mùi dâu thơm, kỳ hoa dị thảo nhưng cũng có mùi không thể định rõ nó thuộc loại mùi gì, tuy cũng phảng phất giống mùi hoa cỏ, dầu thơm!

                      Chắc con tinh sói dùng các thứ nước hoa ướp xác nạn nhân còn thơm! Dầu ướp cũng kỳ lạ, giữ mùi thơm được hàng mấy năm là điều hãn hữu thật! Hơi vô lý! Có lẽ cứ vài ngày, tuần lễ "nó" lại ướp xác lại mới đúng!

                      Minh Thần chiếu đèn nhìn quanh, nghĩ thầm bỗng để ý thấy cuối gian có bức rèm nhung đỏ che kín ngang buồng cao hơn hai thước.

                      Chàng trai bèn lách giữa đám xác nạn nhân bước vào, vén rèm nhìn thử. Mới hay, trong này còn một bục gỗ, trên để hai lồng kính hình chữ nhật trong lồng, có hai cái cáng, một bằng gấm xanh, một bằng vóc đại hồng mép cáng, mép gấm phủ trên có tua vàng rất xinh. Lồng kính không có cửa.

                      Chàng trai bước lại bên chiếc cáng đỏ, lật mảnh phủ lên, chiếu rè đèn bấm.

                      Trong cáng, có một thây nữ nằm thang cẳng phủ bờ mảnh "voan" đen, lờ mờ nhân ảnh, hình nữ khỏa tuyệt không mảnh vải, lụa bám người! Qua màn "voan" đen nhánh, thân xác vẫn lồ lộ nét cuốn đường cong tuyệt mỹ, của một trang nhan sắc hiếm có, với khuôn mặt xinh đẹp, mi tằm môi cung, cằm hơi lẹm, tai đeo hoa đầm lấp lánh kim cương, chỉ nhìn làn "voan" cũng đã thấy đó là một tấm nhan sắc đài trang trên đời.

                      Võ Minh Thần không phải trai hiếu sắc nhưng lại là một chàng trai mồ coi có lòng từ, thương hương tiếc ngọc, cứ thấy xác bị Chúa sài lang giết lại chạnh nhớ đến mẫu thân oan thác, nên thấy cái xác nữ đài trang nằm trong cáng, chàng bỗng ngậm ngùi xót xa không xiết, rung giọng thương tâm:

                      - Lại một đời hoa rụng dưới vuốt sói lang? Nguyên trong bảo tàng viện này đã có hàng trăm xác đàn bà xấu số chết oan chết ức giữa tuổi thanh xuân đầy hoa mộng! Còn biết bao nạn nhân nữa, xác quàn nơi khác? Hai cái thây này để nằm cáng gấm, riêng một góc, chắc phải hàng gái quý tộc đây! Chẳng hiểu bị "nó" sát hại hồi nào?

                      Võ khẽ thở dài, ái ngại, đưa tay nhón mép "voan" lật nhè nhe sang bên. Dưới vệt đèn xanh thân xác nữ lang càng hiện ra lồ lộ trắng như ngà. Xác nằm ngửa hai tay vắt trên bụng, đầu hơi nghẹo vào trong vách, hai mắt nhắm nghiền, tấm "lắc" vàng cũng rớt phía trong. Đứng dưới bục gỗ, Minh Thần rướn người đưa tay kéo sợi dây đinh cầm tấm "lắc" coi vô tình chạm phải cằm cái thây nữ. Chàng cảm thấy như chạm vào một vật âm ấm chứ không lanh như đồng theo lệ thường các thây khác. Ngạc nhiên, chàng buông tấm "lắc" rụng nằm trên ngực thây, vội đưa tay sờ nhẹ lên mặt nạn nhân! Ấm thật! Chàng vội đưa tay sờ thử khắp mình mẩy, càng sửng sốt, thấy cái thây quả còn nong nóng, chàng vớ ngay tấm "lắc" đọc vội mấy con số ghi ngày giờ chết, tính ra đã hàng trăm ngày! Sao lại có chuyện quái gở thế này? Xác nữ này chết đã mấy tháng mà còn ấm được sao? Xưa nay thường người ta chỉ chết một cái là thân thể lạnh ngắt như đồng mà! Minh Thần lạ lung hết sức, giật mình nghĩ ngợi chợt để ý thấy khuôn mặt cái thây coi hao hao quen quen chàng trai giật mình một cái, nâng vội đầu thây nữ cho ngoảnh mặt ra. Chỉ suýt nữa chàng buột miệng kêu kinh hoàng, khi chợt nhận ra toàn khuôn diện nữ.

                      - Bạc Khao Lan! Trời nữ chúa con gái vị Chúa tể Hồng Cẩu Quẩy miền động thất Pi A Ya! Mới cách biệt mấy tháng, nàng đã ngộ nạn chết thảm đến thế này được ư?

                      Động thất Pi A Ya là nơi rất khó xâm phạm, có thiên la địa võng bát quái mê hồn trận, quân gia, chó sói, ma xó dữ. Tây Sắc suýt tiêu vong đêm nọ, đã dễ gì bắt nổi nàng? Hay nàng ra khỏi động, gặp "nó" như hồi bị Huyết Quỷ mũi vẹt hút tủy não!

                      Minh Thần xúc động đến run tay, giương mắt ngó trừng trừng giơ tấm "lắc" lên nhìn từng chữ tên nạn nhân nhảy múa trước mặt chàng: "Bạc Khao Lan, nữ tử tù trưởng Chúa hang cẩu quẩy Pi A Ya động thất..."

                      Tấm "lắc" rớt xuống ngực cái thây gái họ Bạc, toàn thân Võ Minh Thần rung lên mãnh liệt, chàng trai quỵ phục luôn xuống bục gỗ, nắm lấy mép cáng, nước mắt chảy dòng dòng, lòng đau khôn tả, thương cô gái thông minh có ân có nghĩa, đã được chàng cứu một lần, và lại cứu chàng mấy bận thoát chết, hết dạ thương mến chàng như nghĩa huynh muội!

                      - Có thể thế được chăng? Nàng tươi vui trung hậu hiền đức, lại phải chết thảm dưới nanh vuốt sài lang chúa, chuyện đời toàn oan nghiệt trái ngược mãi sao? Mới ngày nào nàng cùng ta chia tay nàng còn hết lời căn dặn ta phải bảo trọng lấy thân, thân khốn khổ mồ côi này đang lần vào hang sói, còn nàng lại nằm đây, lạnh lùng trong nhà tối... Định mạng thật khắt khe, ta cô đơn trên đời, phải chăng phải sống để thấy người thân yêu lần lượt mất đi...? Buồn thay cho đời người hiền lương! Thương thay nàng oan thác!

                      Nghẹn ngào, chàng trai rung giọng lẩm bẩm, quên cả tỵ hiềm nam nữ kẻ sống người chết nàng lại khỏa thân chàng gục xuống, ôm lấy thân xác nàng nữ chúa Pi A Ya, khóc như mưa lúc nào không biết.

                      Đến gần phút, bỗng Võ chợt thấy âm ấm mới nhớ ra, vội buông thây người bạn gái đứng phắt dậy, mới hay nước mắt đã rỏ ướt đẫm ngực hoa! Chàng trai vội cầm mảnh "voan" lau ngực nàng, lòng đầy thắc mắc không hiểu sao nàng chết đã hơn ba tháng, xác vẫn còn hơi ấm?

                      Vo cúi xuống, soi đèn như kiếm lò sưởi dưới sáng, nhưng chẳng có chi ngoài mấy lần kính gỗ lạnh lẽo như đồng!

                      Chàng vội đắp mảnh "voan" lên mình xác cô gái Bạc, nói vài lời u uất, xót xa, tay vuốt nhẹ mi mắt nàng, mắt chàng vẫn rưng rưng... Nhưng vừa buông tay, bông chàng giật mình bắn người lên một cái, vì... tự nhiên rõ ràng nghe có tiếng nàng thở phì một cái, lồng ngực vụt nhấp nhô động đậy, rồi cái thây gái Bạc vụt mở mắt ra, chớp chớp hàng mi mấy cái!

                      Chàng trai bật kêu "trời"... lùi lại, thoáng nghĩ đến ba tiếng "quỷ nhập tràng"! Tay trái chiếc đèn bấm, tay phải bấm cung bản mệnh, chàng nhìn trừng trừng mặt cái thây nữ, dầu óc đảo điên.

                      Chúa sài lang hấp sát, biến nàng thành "con trành cái" đặt nằm đây canh viện bảo tàng lừa bóp cổ cắn chết kẻ nào độ nhập? Hay chỉ là cái xác chết chưa qua tuần bách nhật, gặp hơi nhân khí, nước mắt ta, nên hóa "nhập tràng"?

                      Chỉ thấy rợn vì xác chết trong hầm tối bất thần mở mắt nhưng đã quen luyện "xó" từ ngày thọ pháp Thanh Âm, Võ không hề sợ, cứ đứng nhìn, đợi. Hai con mắt gái Bạc mở ra không thấy long sòng sọc, mà lại lờ đờ như đã gần xuất tinh lạc, ngó sững chàng mấy khắc, rồi từ từ nhắm nghiền lại!

                      - Khao Lan! Bạc Khao Lan...!

                      Chàng tuổi trẻ cúi xuống, vừa lay gọi vừa ghé sát tai nghe tim. Tim nàng đã ngừng đập, sau tiếng thở hắt ra nhẹ như gió thoảng! Tất cả vụt rơi vào im lìm, thời gian ngưng đọng theo nhịp tim ngừng trong lồng ngực băng trinh! Đầu nàng nghẹo sang bên, trong dáng dấp của kẻ hồn lìa xác.

                      Nhưng tai chàng áp sát lồng ngực, vẫn thấy ấm lạ, thứ ấm của sinh khí mà người chết không bao giờ có, một điều lạ nữa là vẫn chẳng thấy tinh lạc nàng xuất ra, theo thông lệ của kẻ lìa trần vào đêm âm khí nặng nề, mưa khuya sùi sụt sau ngày nắng hun hay vào những lúc tối tăm tịch mịch, lãnh khí chờn vờn, khi một người nằm xuống tat thở, thường có một đốm sáng nhỏ từ tam tinh tuệ nhãn bay ra tan biến trong không gian!

                      Cho là nàng vừa chết nên vẫn còn ấm, Võ Minh Thần đợi thêm giây khắc cũng chẳng thấy gì, chàng bèn đưa tay bắt mạch, lại càng ngạc nhiên khi nhận thấy trong mình nàng, chưa phát hiện tử mạch.

                      Nghe thật kỹ, vẫn thấy hơi động nghe lại tim, cũng phát giác ra điều kỳ dị đó, Minh Thần bèn khám nghiệm khắp huyệt đạo, tuyệt chẳng thấy vết thương nào cả, du chỉ bằng mũi kim.

                      Chừng cậy miệng thử coi, Võ phát giác trong có nhét một con nhân sâm đã tiêu mòn gần hết, có lẽ thuộc giống nhân sâm rừng Cao Ly! À! Nhân sâm! Phải chăng nó hại nàng gần chết, rồi bỏ nhân sâm vào miệng nên cơn hấp hối kéo dài?

                      Vì đã theo tôn sư kỳ danh Quy Võng Lạng (theo sự phỏng đoán mơ hồ của nghĩa phụ chàng cùng chúa núi Mã Đầu Quảng Tây) Minh Thần cũng biết qua tính dược đặc biệt của loại vốn có sức tăng sinh lực phi thường!

                      Xưa bọn khách để của vẫn bắt các trinh nữ làm thần giữ của, để trinh nữ ngồi ngai đóng đinh chặt tay chân dính liền ghế, dùng dị thuật yểm kho tàng, chúng bỏ vào miệng trinh nữ một con nhân sâm, rồi đóng cửa hầm lại, trinh nữ ngồi ngai ngậm nhân sâm sẽ sống qua tuần tứ cửu bách nhật mới chết và khi đó, bắt đầu linh thiêng hóa nữ thần giữ của, chỉ trao kho tàng cho kẻ nào làm đúng lời pháp sư đã định trước.

                      Đủ biết sức kéo dài sức sống của con nhân sâm kiến hiệu chừng nào?

                      - Nhưng để làm gì, chẳng lẽ con tinh chúa muốn nàng thành linh thần coi viện bảo tàng cho nó. Không có lý! Vậy nó kéo dài cơn hấp hối làm chi? Và nó giết cách nào?

                      Minh Thần nghĩ nát óc, vụt tưởng đến thói hấp sát của Ma Vương Sắc, liền với mấy hàng chữ lân tinh viết cửa viện có dính tới vòng càn khôn có bốn câu:

                      "Hóa hóa ngũ hành âm

                      Sinh sinh ngũ hành dương

                      Âm dương đồng bản thể

                      Sinh sinh hóa hóa tương..."

                      - À, có lẽ sài lang chúa nó hấp sát đàn bà con gái để luyện huyền công bí pháp chi đây? Như vầng huyết khí bao quanh mình nó, có lẽ đúc kết bầng tinh huyết nạn nhân đây? À! Cứ theo biển đề trên "lắc" đeo cổ nạn nhân, thì rõ ràng những xác này bị nó hấp sát trên 20 năm lại có mùi thối khẳm hơn những xác mới hấp, và tính theo niên đề, cứ cái nào bị hấp lâu ngày càng thối khắm.

                      Phải chăng càng ngày con tinh sói càng tiến bộ về khoa hấp luyện huyền công bí pháp? Cứ coi xác Bạc Khao Lan này đủ hiểu, nó hấp hơn ba tháng rồi, mà nàng vẫn dở sống dở chết, chắc còn điều gì cực bí ẩn đây! Có điều rõ nhất là cứ đà này, càng ngày nó càng trở nên lợi hại khác thường nếu thời gian kéo dài, cho nó tiếp tục hấp luyện môn pháp quái gở mãi, sức ghê gớm của nó sẽ phi phàm, khó ai trừ diệt nổi, thật là mối đại họa khủng khiếp cho bàn dân thiên hạ!

                      Chàng tuổi trẻ càng nghĩ càng rung động tấm thân vội xẹt sang bên chiếc cáng xanh, đưa tay vén tốc mảnh gấm lam phủ lên. Trong cáng cũng có một xác nữ nằm thẳng cẳng, khỏa thân, đắp một lần "voan" trắng tinh, trông thấy rõ cả làn da trắng hồng với bộ mặt đẹp huyền ảo lạ. Chàng đưa tay vón mép "voan" lật lên coi, dưới ánh đèn bấm xanh, hiện ra một thây nữ lớn con hơn Khao Lan chút, nhưng cũng rất đẹp, đầu búi tóc về đàng trước trâm cài lược giắt rõ lối búi tóc biểu hiện gái Lào chưa chồng, vẻ quý tộc Xiêng Khoảng, Luang Pha Băng, ngực nở, nhũ đanh tròn, bụng thon, đùi dài thuôn lẳn, đặc biệt hai bàn chân lại không thô như phần đông gái các sắc dân miền núi, điều này càng chứng tỏ cô này là gái giàu sang ít khi đi bộ leo núi.

                      Mặt nàng cũng thuộc loại mặt phụng, mi tằm, môi cong mũi thẳng còn in rõ vẻ tươi mởn y hệt gái nằm ngủ trong giấc mơ hoa!

                      Minh Thần cúi xuống, áp tai nghe ngực xem mạch, càng ngạc nhiên thấy vẫn chưa phải tử mạch, sờ khắp mình mẩy, thấy còn âm ấm hơn cả thân xác Khao Lan, chàng bèn cầm "lắc" coi, mới hay nàng này mới thác non bốn tám ngày!

                      Quan sát mươi khắc, Võ cầm mép "voan" toan đậy xác lại, bỗng nghe cái xác gái Lào thở phì một cái, mở choàng mắt ra, nhìn lơ láo, làm Võ cũng giậy mình một cái, mở to mắt nhìn!

                      Lạ thay! Tuy đã chết ngót năm mươi ngày, xác nữ Lào quý tộc này thấy ánh sáng đèn chói mắt, vùng kêu lên mấy tiếng yếu ớt, phều phào:

                      - Ai đó?

                      Giọng ú ớ, phúng phính như người ngâm kẹo, Võ nghe biết xác này cũng ngậm sâm như Khao Lan. Chàng vội cúi xuống, hỏi nhưng xác này nữ Lào này lại từ từ nhắm mắt lại, nghẹo cổ im lìm như cũ!

                      Thở phì, Võ thì thào gửi vài lời an ủi vô vọng, đậy "voan" gấm lại như cũ, quay sang cáng Bạc Khao Lan. Lòng hắt hiu sầu thảm, như mưa gió não nề, chàng tuổi trẻ ngó xác nàng, vùng sa nước mắt, cúi dầu lẩm bẩm giọng nghen ngào:

                      - Số mạng thật khắt khe! Khao Lan nàng bị hấp sát, còn thuốc nào cứu nổi chăng? Ngu mỗ phải đi tìm con tinh độc, lát nữa sẽ quay lại đưa xác nàng về Pi A Ya, tìm thánh Y Si Công Linh may ra còn cứu được chăng? Nàng nằm trong hầm lạnh... thương thay!

                      Giọt lệ, Võ đắp điếm kỹ thân xác nàng nữ chúa Pi A Ya, đoạn quay ra ngoài lòng cừu sục sôi.

                      Ra đến ngoài âm thanh kỳ dị vẫn nổi chìm bên tai, Minh Thần lắng nghe khá lâu, tưởng chừng như từ cửu trùng địa ngục đưa lên, bốn bề vẫn quạnh vắng tối om, đang nát óc nghĩ, bỗng nghe âm âm tiếng "xó khách" thì thầm:

                      - Thầy à! Xó vừa tìm thấy cửa hầm ngay trước viện bảo tàng! Ấn vào chữ "tàng" là mấu chốt mở cửa hầm!

                      - À, hay lắm! Minh Thần nhảy vào lên, ấn mạnh ngon tay vào chữ "tàng" quả nhiên, nghe mơ hồ có tiếng động dưới đất, rồi bộ cửa dưới biển từ từ hạ sâu xuống để lộ một khoảng huyệt vuông, chừng hơn nửa thước vuông.

                      Võ dạt sang bên, cúi dòm, thấy lỗ huyệt tối om, không dám chiếu đèn sợ lộ. Đang phân vân bỗng, lại thấy bệ đã dịch dâng lên kín như cũ.

                      - À! Một chiều vận chuyển! Nếu vậy cứ đứng ngay bệ đá đó là được! Bèn bấm lại, làm theo liền. Bệ đá hạ xuống, xuống mãi, bốn bề tối om, đã có kinh nghiệm vào lỗ huyệt. Võ thì thào truyền "xó coi chừng". Kịch! Bệ đá chạm vật rắn, dừng lại. Võ quét tia nhãn tuyến, thấy bên tả có một cái cổng tò vò, có treo ngọn đèn lồng vàng, Võ bước vội sang, bệ đá dâng lên ngay... Nhưng ngay khi đó, có một lưỡi đại dao chém vụt xuống sau lưng Võ, từ kẹt đá, nhảy ra hai con sài kíu to lớn, múa vuốt chop vồ lưng, nhanh như chớp, huỵch một con bỗng bị quật xuống nền đá, Võ đánh mot đòn Mê Hồn công hạ nốt con kia. Võ tiến luôn vào cổng tò vò. Biết đã chính thức vào "hang ổ sói tinh", Võ Minh Thần vẫn không dám cho "xó khách" đi trước sợ lọt chỗ "khoán". Qua cổng tò vò đúng ba bước, bỗng thấy một ngọn đèn lồng treo lơ lửng trên trần, dưới có tua tủa ngũ sắc, hai bên kẽ đá, có hai cỗ quan tài thủy tinh trong đó có hai con trành đứng sừng sững đói diện nhau.

                      Võ vừa bước tới, hai con trành cũng sịch quay mặt ra, hai con trành cái mặt mày trắng như vôi tỏa ra phát ớn. Không chậm nửa phút, Võ đọc chú, thư phù, tháo khoán ngay. Chàng hiểu chính hai con mắt trành cái xác đàn bà Sơn Cước Mán Cóc không thể vụt qua bùa "khoán", tấn công ngay được? Khi lửa bắt đầu phụt cháy đèn lồng tua ngũ sắc, Võ đã ngầm thủ thế, lửa vừa thiêu rụi lập tức bắt quyết đánh ngay cặp trành cái, vừa đúng lúc chúng sổ ra cửa quan.

                      Nghe "huỵch, huỵch" hai tiếng, cả hai cỗ quan tài rung động ngả nghiêng, hai cái xác đứng trong lảo đảo lắc lư mấy cái như lên đồng, hai cặp mắt trợn trừng trắng dã rồi từ từ khép lại. Võ bước vụt tới múa tay "quyết" thư phù, phun phì máu chót lưỡi hai con trành buông thõng tay đứng đờ như gỗ, trành cái đã bị khuất phục trước ấn quyết cao tay của chàng tuổi trẻ!

                      Kéo sụp mũ trụ, chỉ để hở cặp mắt điện rực ánh căm hờn, Minh Thần dẫn xó khách vọt nhanh vào đường hầm.

                      Đường hầm rộng chừng thước rưỡi, cao đến ba thước, sâu hun hút hai bên vách, trên trần, nền hầm kiến tạo toàn đường nét phi phàm, như cuốn hút người ta vào các nét kỷ hà kỳ dị gây cảm giác.

                      Võ Minh Thần dùng thuật khinh thân, chạy vụt vào, dưới ánh sáng mờ ảo, lúc này Võ đội mũ che kín mặt, coi cũng như một bóng cô hồn, câm nín lướt trong đường hầm dị. Khoảng hơn tám mươi bộ, đường hầm vừa tới chỗ trũng, bỗng bị cắt đứt, những bậc thềm loa rộng đến ba thước, đầy hoa cỏ dây leo chằng chịt, còn đẹp hơn cổng Độn Thủy cung phía ngoài.

                      Vừa đến bậc thềm, Minh Thần đã nghe rõ âm thanh quái ảo từ phía trên vọng ùa xuống theo lối kiến trúc dị kỳ như ngặn chặn cả các tiếng động nãy giờ. Lắng tai phân biệt tiếng địch, tiếng tỳ bà và tiếng kèn không ra Sarsophone, cũng chẳng ra kèn Tàu chìm nổi mơ hồ xa xăm lạ.

                      Phảng phất từ phía vách, nen trần đùn ra từng khóm sương khói trắng mỏng, trôi vẩn vơ không định, coi như khí đá đêm hàn bốc ra.

                      Mừng hết sức, Võ vọt lên thềm, đúng mười bậc như chốn Thập diện Diêm Vương, chàng đã thấy đứng trước một cái cổng kiến trúc cũng phi phàm biển vòng cung sáng lập lòe một hàng chữ Hán:

                      "Tàng Hình cung"

                      Võ cảm tưởng đang lạc vào một công trình kiến trúc của một thế giới nào bên ngoài trái đất, thuộc một tinh cầu khác trong thái dương hệ vậy!

                      Vì nền trần ăn vào theo hình sóng cuộn, song hành, nền chạy thoai thoải sâu dần tới trong rồi lại chạy nhô cao, có ánh sáng vàng sệt le lói, nhưng không thấy đèn lồng treo, không bóng chi khác ngoài mấy bức vách xám, coi càng hoang vắng bí ẩn.

                      "Động thất Ma Vương Sắc", tám chữ đập vào mắt Võ, gợi nhiều cảm giác bâng khuâng xúc động, nhất mấy chữ "Tàng Hình, động thất"...

                      - A, sào huyệt sài lang chúa đây rồi! Gớm thật! Cung vua, động chúa xưa nay chắc cũng không thâm u, hóc hiểm đến thế này! Nơi đây, sâu thẳm dưới lòng đất chắc không có "quân người" canh, tất chỉ có trành xó, cạm bẫy! Ta phải cẩn thận lắm mới được!

                      Ngay khi đó, từ trong cân phòng sáng, một đàn bà con gái lố nhố bước ra, đi vòng tiểu hoa viên, lên điếu kiều. Dưới làn ánh sáng mờ ảo hiện ra hai, ba bóng nữ mang vật thực chi đó đi trước, roi tới mụ mập Dạ Xoa chưởng pháp dẫn hai mỹ nữ Tế Yêu có bốn con sài kíu khoác áo đen hộ tống. Cả lũ vọt lên điếu kiều đi rất nhanh, thoắt đã mất dạng bên kia góc phòng.

                      Điếu kiều này, hai bên có đổ đất trông cây coi xanh tốt lạ, chẳng hiểu giống cây gì vì trông cũng quái gở như vườn "quỷ mộc" ngoài. Không để lỡ dịp, Minh Thần vận khí hàn băng, dùng thuật ẩn thân chuyển theo làn sương mờ nhân tạo, vút qua điếu kiều. Tới nóc, chàng xua sương trước mặt quan sát ánh sáng tối mờ, trong khoảng tối mờ hư ảnh, hiện ra cảnh trí lạ, điếu kiều chạy xuống một khu hoa cỏ vàng vàng như tráng kim nhũ, có một vách đá lồi lõm cao, chạy quanh co, coi như vách núi vom trên tối đen, chỉ có ánh sáng mờ khoảng ba thước xuống, xa xa có một cái cửa tò vò ánh sáng, coi đúng là... hang sói thâm u! Vừa kịp thấy lũ đàn bà đi vào cửa tò vò mất dạng.

                      Võ lướt vút xuống, vừa tới cửa tò vò, sịch thấy mụ mập cùng bốn con chó đi ra, chàng nép vội vào vách bên, sương mù bao phủ, mụ mập, chó sói đi vụt qua điếu kiều vẻ vội vã hết sức.

                      Đợi chúng đi khỏi, Võ lách luôn vào cửa tò vò. Lúc này, âm thanh hồi nãy đã tắt ngấm lúc nào. Trong cửa tò vò, khung cảnh quái ảo, mờ hư ảnh, không khí yên lặng bao trùm lấy mấy dãy hành lang nhỏ vắng hoe. Đặt chân vào phòng, chàng có cảm giác như bước vào một thế giới phi phàm, thế giới riêng biệt của loài tinh!

                      Đặc biệt sương khói từng nhóm vơ vẩn trôi quanh quẩn, khí lạnh trong này buốt thấu xương, có lẽ là vì sâu dưới lòng đất đá. Nhưng chàng không lấy làm lạ, khi đi qua một khóm sương khói, mũi lại ngửi thấy một mùi là lạ, thơm thơm ngai ngái. Thấy vắng, Võ Minh Thần xẹt vụt vào tít trong, tay thủ thế sẵn sàng ra đòn đánh phủ đầu, mắt đảo lia quan sát.

                      Vòng hết nửa móng lừa chỉ thấy tối mờ, với năm, sáu đường rẽ ngang dọc, có một lối sáng hơn, Võ lộn lại, lướt luôn vào. Chừng năm thước, gặp một hành lang tối, khói sương mờ mịt, nhưng có ánh sáng vàng le lói, chàng vào luôn, độ sáu thước. Gặp một khung cửa rộng, có bức rèm vàng buông rủ cửa khép hờ, chung quanh không thấy bóng sinh vật.

                      - Có lẽ buồng con tinh trong này! Toàn màu vàng, màu lông nó! Thành tinh, linh mẫn, nó ăn ở như người! Không có quân canh gác, chắc nó nghĩ không ai có thể lọt vào hang ổ này ẩn sâu dưới đất, sau cả chục khu vực bí mật, đầy bóng tử thần!

                      Mừng thầm, chàng lách luôn vào. Tối mờ mờ, nhưng nhãn quang của chàng đụng phải một cảnh trí hết sức lạ mắt, trái với óc tưởng tượng hiện giờ. Vì đây là một căn phòng rộng trần thiết nguy nga, với những chùm đèn pha lê chính giữa các đồ vật bầy biện quanh phòng toàn thứ quý giá vàng ngọc lấp lánh, coi không khác căn phòng của các bậc đế vương Tây, Tàu, ta xưa tổng hợp cả ba sắc thái, có cả hoành phi câu đối, bát bửu v.v... Tuy các chùm đèn chưa thắp, chỉ có một ngọn đèn lồng nhỏ, cũng đủ soi chiếu mờ mờ cảnh vật, xế trong, có một khung cửa thông cũng sáng mờ le lói, có dựng hai pho tượng bằng đồng vàng chói, một pho cầm cái chùy đồng to, một pho cầm ngọn kích, coi oai phong lẫm liệt, cao bằng người thực, hai pho tượng đứng hai bên đối diện nhau. Võ Minh Thần nương bóng tối mờ, tiến qua phong, tới cửa thông. Chàng vẫn không hề để ý, khi còn cách cửa thông hai thước, thình lình bên tai có tiếng âm u:

                      - Tượng đồng "trành"! Giật thót người, nhanh như cắt, Võ ẩn vụt sau một chậu cảnh lớn đúng lúc hai pho tượng vụt xoay mình lại, tay trùy, tay thương đảo vút cái. Trong ánh mờ, Võ thấy hai cặp mắt tượng đồng chợt long lên sòng sọc, coi cực kỳ hung tợn chiếu lia căn phòng, dừng ngay phía chậu cảnh. Không để chúng kịp trở tay, Võ Minh Thần múa tay bắt "quyết" miệng đọc chú linh cắn lưỡi sẵn. Sịch! Cả hai pho tượng lắc lư khật khưỡng đi lại gần chậu cảnh. Rất lẹ, ngay khi chúng vừa sịch tới, nghiêng ngó, tay giơ trùy thương, Võ vừa đứng sổ dậy, vừa đánh "chát" tay ấn quyết, phun phì máu lưỡi nhắm giữa tròng mắt tượng.

                      Sức quyết đánh dốc toàn lực, kèm theo sức "xó khách" ngầm yểm trợ, cả hai pho tượng chưa kịp ra tay, đã nẩy lên hai cái đứng đó, thõng tay trùy thương, hai cặp mắt từ từ nhắm lại!

                      Chỉ hai đòn "quyết", mồ hôi đã ướt xẫm trán Minh Thần! Đứng yên mấy giây, chàng mới tiến lại, sốc luôn tượng để vào chỗ cũ. Đó chỉ là hai cỗ quan tài tượng đồng rỗng, như bộ giáp, bên trong có hai con trành quái và cả hai đã bị thúc thủ, đứng yên trông như hai cái bị cầm tù vì "khoán"!

                      Minh Thần bước sang phòng bên, phong này tối, tít cuối tay hữu, có cửa thông le lói ánh sáng, chàng trai thận trọng lấn tới.

                      Thốt nhiên, cảnh im lặng đến rợn người xâm chiếm chàng tuổi trẻ. Trấn tĩnh, nén xúc động, chàng vận sẵn khí công, bế kín huyệt đạo, trừng mắt, lướt nhẹ trong bóng mờ đầy sương khói.

                      Quanh co qua hai, ba căn buồng tối nữa, vẫn chưa thấy gì lạ. Bỗng dưng trước một dãy hành lang dẫn lên chín bệ cao chót vót, sương khói mờ ảo, ánh sáng chờn vờn, hai bên hành lang, bệ đầy phong lan, các giống vạn niên thanh, tít trên ngọn bệ có một khung cửa tò vò, lập lòe mấy chữ "Mê Hồn Cung Tinh Viện Ma Vương Sắc".

                      - A! Kia rồi! Đúng hang ổ sài lang Chúa nó " ngự" khuất trên cao, tất có nhiều cạm bẫy! Vong hồn mẫu thân khôn thiêng xin phù hộ cho giọt máu mồ côi báo được thâm cừu!

                      Như cái bóng, Võ Minh Thần lướt vụt qua hành lang, chín bệ, lên cửa "Mê Hồn cung". Nhìn qua cửa "Tinh Viện" lại một khu lầu nữa hiên ra với đường móng lừa chạy ôm lấy nhiều căn buồng sáng, tối huyền ảo.

                      Điều Võ nhận thấy ngay là "thế giới trên này" nó có nhiều lối lên xuống tuy chỉ cách tầng dưới dăm bộ, nhưng vừa đặt bước lên chỗ cửa "Tinh Viện", chàng vụt cảm thấy cái lạnh thấu xương biến đâu mất, chẳng khác đã lui vào... dĩ vãng! Và cũng với sức im lặng vô cùng bao trùm không gian, một làn hơi ấm cũng xâm chiếm nhanh vào thân thể, dễ chịu hết sức!

                      Ngạc nhiên, Võ nghiêng tai, liếc mắt hít nhẹ một hơi. Một mùi thơm cay cay ngầy ngậy phả vào mũi, chàng quờ sương khói ngửi lần nữa, mùi thơm ngậy! Chàng dí mũi vào vách và khám phá ra ngay.

                      - A vách có nhào quế, trầm và tiêu... trong buồng cũng có đốt trầm, hương thơm. Hừ! Con tinh sói Ma Vương Sắc này ăn chơi không thua Tần Thủy Hoàng, Triệu Chính xưa, bắt trát hồ tiêu vào vách mùa đông cho ấm, đây còn thêm cả quế trầm có lẽ còn quý hơn cả vách cung Tần bạo chúa xưa! "Kỳ nam" là một thứ quý trong thiên hạ, mà "nó" dùng để trát vách, đủ biết Ma Vương Tây Sắc giàu có đến mức nào? Nếu chẳng phải "nó" có tài chế biến ra chắc nó đã khám phá ra được kho vàng nào đó!

                      Rất thận trọng, Võ Minh Thần đi trong cảnh im lặng thâm sâu. Vòng quanh đường móng lừa, chàng lại lần qua hai, ba căn buồng mờ ảo đầy màn trướng, bỗng dừng lại nghiêng tai.

                      "Vo vo vo vo! ồ ề ồ ề! Vi va vi vu..." Rồi lại "tí ta tí tách" lại tiếp những tiếng "vo vo ồ ề vi vi" trong im lặng, nổi chìm một thứ âm kỳ dị, phảng phất như tiếng sáo diều đêm thu, mà lại chờn vờn như tiếng địch, hư hư thực thực, rất khó phân biệt.

                      Võ Minh Thần lần theo âm thanh kỳ dị, bỗng tới một khung cửa bán nguyệt, có một bức màn sương buông rũ. Rõ ràng âm thanh từ trong hắt ra. Võ nín thở, ghé mắt dòm qua rèm sương. Bên kia rèm, căn phòng khá rộng, bầy biện những đồ vật hết sức lạ mắt, với những đường nét kỷ hà chàng chưa từng thấy từ trước tới giờ.

                      Mọi vật mờ mờ, hư ảo. Một vùng ánh sáng vàng sệt, lung linh. Đảo mắt mấy vòng, chàng mới chợt để ý tìm ra có mấy đốm đèn vật vờ tít cuối buồng có một bức bình phong che hờ.

                      Sau binh phong, lố nhố có hai, ba bóng nữ ngồi một xó, cạnh sập. Khu buồng quây bình phong này, thấp thoáng có nhiều bóng nữa nhưng bình phong che mất.

                      Bình phong chỉ cao hai thước, Võ Minh Thần bíu mép vách cửa nhoài lên dòm vào và chàng trai lập tức giật bắn mình một cái vì xúc động, chàng cảm thấy run cả người, tim đập mạnh, máu muốn sôi len.

                      Vì trong kia có bốn cái ghế bốn góc buồng quây rộng, chính giữa có một cái giường thất bảo, không buông màn, trên bốn cái ghế dựa có bốn mỹ nữ trước mặt mỗi mỹ nữ có một cái bàn độc, trên bàn có một ngọn đèn dầu vàng sệt. Trên giường thất bảo có một mỹ nhân ngồi bên một ngọn đèn nữa, cũng đèn dầu.

                      Trên bốn cái ghế, có một sợi dây chuyền vàng đều mắc tới trốc sạp, thành hình chữ "X" chéo chùng võng gần đèn. Và trên giường lót da báo gấm, có một bóng đắp chăn vóc đại hồng ngoảnh mặt vào ngọn đèn xoay lưng chênh chéch ra phía Minh Thần đứng. Bóng này trùm khăn qua gáy, chỉ hở chút đỉnh đầu lòa xòa. Chỗ này nằm giữa bóng mờ, chưa ro, trông như người đội mũ vàng.

                      Chợt "tí tách tí tách" có vật chi đen đen vàng vàng chạy trốc bàn độc lại trốc giường thất bảo, mỹ nữ ngồi đây chụp lấy, đưa qua bóng đắp chăn. Từ đó, bỗng phát ra một tràng âm dị "ồ ề vo vo vi vu" nổi chìm dìu dặt, phảng phất lại như tiếng kèn ma dưới chín tầng địa ngục hết sức quái gở.

                      Võ đứng nghe, không đoán nổi cái bóng kia thổi thứ kèn gì nữa! Minh Thần chú mục, dòm kỹ vật đen, vàng cùng mấy mỹ nữ ngồi quanh giường. Cả bốn nàng bốn góc đều cử động giống nhau, tay cầm vật chi sáng loáng múa tít trên ngọn đèn và nhét nhét thứ nhựa đen đen vàng vàng vào vật đen, vàng dài như cái cột kia! Thì ra bàn độc kia chỉ là bàn thờ "cô", ngọn đèn trên bàn độc là ngọn đèn dầu lạc, hay mỡ chó chi đó, có lẽ mỡ chó. Vật to bằng cái cột kia là một cái dọc tẩu mà cũng không phải dọc, càng chẳng phải kèn vì thư này phát ra âm thanh.

                      - À... mâm đèn thuốc phiện! Bóng kia nằm hút thuốc! Nhưng "cây kèn dọc tẩu" kia là thứ kèn gì? À "kèn Tây Sắc"! Bóng nằm kia đúng là bóng Tây Sắc Ma Vương Sài lang chúa tứ túc Hồng Cẩu Quẩy tinh rồi! Tuy nghĩ "Cung Mê Hồn, Tinh Viện Ma Vương Sắc" này, chỉ có Sài lang Chúa nằm kia, nhưng cái bóng đội mũ vàng đắp chăn vóc nằm "thổi kèn Phù Dung" dáng điệu coi "đầy vẻ người" hệt một khách trưởng giả đệ tử "nàng tien nâu" đang buôn hồn theo ma túy, dẫu sao cũng làm Võ Minh Thần phân tâm, nghi hoặc, không dám võ đoán. Vì chỉ sơ hở chút là đủ hỏng việc rồi, nên Võ kìm hãm ngay được xúc cảm, để vụt nhận ra luôn điều nguy hiểm sơ suất vô chừng, là mình vừa ngó chòng chọc vào "cái đầu đội mũ vàng" của bóng dị nằm trên giường thất bảo. Thói thường tia mắt nhìn chòng chọc quá chú ý bao giờ cũng phát điện tuyến, kẻ bị nhìn nóng gáy có thể "cảm" thấy liền, vì đường dây thần kinh sau ót thường rất bén nhậy. Rất nhanh, Võ nhắm phăng mắt lại, ngó lệch xuống dưới, mới mở mắt ra, dòm bao quát toàn khối, tránh tuyến điện tập trung, "Vo vo ồ ề vu vu" bóng đắp chăn vóc vẫn nằm không nhúc nhích, thổi kèn "Phù Dung" đều đều, liên tục, nhả khói mịt mờ. Giữa cảnh huyền ảo lờ mờ hư ảnh từ mấy ngọn đèn, đến mấy bóng nữ sau bình phong, coi càng giống những bóng hình trong huyền mộng, quái gở, phi phàm.

                      Vì cả mấy nữ ngồi "hầu" thuốc kia đều khỏa thân, mình mẩy hiện lồng lộng, tóc đều buông rủ xõa thành giòng mun, không búi quấn quýt quanh mình. Cả năm nàng, mỗi nàng ngồi một dáng, ngực nở bụng thon, chân tay thuôn lẳn, dáng nào cũng dễ coi, ánh đèn dầu lạc, mỡ chó chi đó chảy mùi, mình mẩy vật vờ như mơn da thịt trắng rợn người coi càng giống vóc dáng hồ ly trong động thất.

                      Còn góc trong, chỗ giáp bình phong, hai ba mỹ nữ khác, trong số, Võ nhận được có hai nàng khoác "voan" thuộc Tế Yêu Nhũ Hoa, Túc Hoa Cung vừa bị mụ Dạ Xoa Chưởng pháp áp dẫn vào.

                      Hai nàng này ngồi co ro, im thít, mặt mày tuy cố làm ra vẻ tươi, nhưng vẫn hiện rõ nét kinh hoàng khó tả. Chốc chốc hai nàng này lại lấm lét ngó vào giường thất bảo, như hai nữ tội nhân đợi đến phiên xử mình.

                      Bóng đắp chăn hình như quá quen thuộc cảnh mỹ mữ khỏa xiêm đối diện nên chẳng tỏ vẻ chi lưu ý. Y quay mặt vào ánh đèn, Minh Thần leo lên tận trần cũng chỉ thấy mép nhấp nhô, đang mong y cử động, để có dịp nhìn cho rõ, bỗng thấy y hơi cựa quậy, hất nhẹ mép chăn góc một cái. Mép chăn trễ xuong tận gáy, và dưới ánh đèn dầu, vụt nhô lên hai cái tai vàng: Hai cái tai vểnh, to dài như hai cái lá mít!

                      Võ Minh Thần dột tim, xúc động:

                      - Hai cái tai chó! Đúng rồi! Hai tai chó sói... không sai!

                      Đồng thời chàng cũng nhân ra "cái mũ vàng" chính là chỏm đầu của một con sơn cẩu to lớn có chùm lông bờm như đầu sư tử cái, lông bơm vàng nuột như tơ tằm, lóng lánh như bôi kim nhũ!

                      - À! Hồng Cẩu Quẩy lông bờm vàng... cái đầu Sài lang chúa! Đúng "nó" rồi! Tây Sắc Ma Vương tứ túc, kẻ đại thù của ta đúng nằm kia rồi! Trong nháy mắt, máu trong huyết quản chàng trai mồ côi, chí hiếu sôi lên, chỉ chực nhẩy sổ vào ra tay liền!

                      Nhưng trí khôn chàng đã vụt kìm lại.

                      - Nó nằm đó, kẻ đại cừu, nhưng còn nguồn gốc ta? Mẹ ta đã chết, di hài hiện nằm trên lưng ta, cha ta đâu! Không ai biết? Cha ta cũng bị "nó" tàn sát trước khi "nó" rượt đuổi mẹ ta lên tận biên giới Việt Tầu! Không ai biết, ngoài thủ phạm! Chỉ có "nó" Sài Lang Chúa Tinh Quân hấp sát "nó" mới rõ nguồn gốc gia đình ta! Nếu hạ thủ nó ngay, dẫu "nó" có bị, nó sẽ đem theo bí mật gốc nguồn ta xuống âm ty! Thù bất nhược phải bình tĩnh đã! Không còn cách nào hơn là phải ra mặt đối đầu nó, hỏi cho ra lẽ, trước khi xuất thủ! Bắt buộc ta phải đấu chiến đường đường, diện đối diện, hạ được "nó" ta sẽ phá tan hang ổ, đốt cháy Cung A Phòng. Như Hạng Võ xưa nhập Hàm Dương, rửa hờn cho trăm họ, rồi sẽ mang "nó" lên, làm lễ tế vong hồn song thân, mẫu thân! Mẫu thân sống hiền, thác oan, hồn có linh xin phù hộ cho con thêm sức mạnh đấu sức, đấu trí với kẻ đại thù, một con vật thành tinh, cực kỳ xảo trá, cao tài!

                      Để tự trấn tĩnh, Minh Thần lùi nép sau khung cửa, choàng tay về đàng sau, ôm lấy gói di hài người mẹ đã bị hấp sát hơn mười tám năm xưa trên biên thùy Trung Khánh phủ.

                      Vốn tính đa cảm, tuy mặt lạnh lùng, chàng tuổi trẻ lại thấy cay cay cánh mũi, vốn mím môi trấn áp, đưa tay toan vén bức rèm sương, tiến vụt vào phòng Ma Vương.

                      Nhưng ngay khi đó, bỗng bóng đắp chăn, tai voi vàng chụp lấy dọc tẩu, kéo thật mạnh. Lần này, âm thanh không còn chìm nổi ồ ề nhè nhẹ như trước nữa, mà như rống lên nghe tựa ma kêu quỷ hú nghe phải rởn óc.

                      Minh Thần ghé trông vào, thấy bọn mỹ nữ cũng tiêm thuốc, thả dọc nhanh hơn, loang loáng dưới đèn vàng, khói ảo, dọc chạy vi vút, âm rít vi vu như xoáy gọi hồn ma bóng quỷ, cứ như thế mấy hồi, bất thần im bặt, từ trong chăn, có một bàn chân sơn cẩu đầy vuốt nhọn giơ lên vay bóng tai vểnh bờm vàng phát tiếng âm u còn khàn rè khói thuốc:

                      - Mỹ nữ Tế Yêu Nhũ Hoa, Túc Hoa Cung lại đây kiến Chúa Sài Lang! Lập tức có tiếng "dạ", hai cô gái khoác "voan" đứng lên, khép nép bước đến bên giường thất bảo, đứng ngay dưới chân Sài lang tinh, vẻ mặt đầy kinh hoảng:

                      - Vào kiến Chúa Sài Lang là điều đại hạnh, mỹ nữ không phải sợ! Vào Cung Mê Hồn là vào cửa Bồng Lai! Khỏa! Hai nàng vẫn đứng co ro, bỗng "soạt!" "soạt!" cả hai tấm voan vụt bay phất phới, rồi nằm phủ trên tấm chăn vóc coi hết sức lả lơi.

                      Và theo nhịp "voan" bay hạ xuống chăn vóc phập phồng như hai cánh bướm, búi tóc hai nàng kia cũng vụt sổ tung chảy ròng gần chấm gót, cả hai chợt bay về phía Chúa Sài lang, coi như hai con chăn gió, khuôn dáng hai nàng hơi chao nghiêng về đàng trước, đường cong nét uốn chờn vờn, bỗng đẹp dưới đèn vàng vọt như hai bóng hồ ly.

                      Võ Minh Thần tuy từ thủa hạ sơn, chưa biết chuyện "gió trăng nhan sắc" là gì, nhưng tư chất rất thông minh, nhạy cảm, chỉ nhìn qua cử chỉ nhỏ của Sài lang chúa, chàng tuổi trẻ thấy ngay cả cái điệu nghệ hào hoa phóng dật của một khách phong lưu tiêu sái thừa bản lãnh chung đụng với đàn bà. Chàng trai bất giác dột lòng, nghĩ:

                      - Hừ! Đúng cử chỉ của Ma Vương Sắc! Không phải "vua nhan sắc" không thể có cử chỉ lả lơi tình tứ đến thế! Ai dám tưởng kẻ vừa giật làn "voan" thành cánh bướm đậu trên mình, là một con vật thành tinh? Ôi chao! Chuyện thật quái gở! Khách hào hoa phong nhã nằm kia lại là một con chó sói!

                      Trong kia, cặp mỹ nữ Tế Yêu cung đứng nghiêng chúi vẫn chưa dứt vẻ sợ sệt, bỗng như có một bàn tay vô hình lôi kéo, hai thân dáng mỹ nữ đều chầm chậm đổ xuống giường thất bảo cả hai cùng cuống vội tay, hơi lùi giật mình một chút, một nàng cất tiếng líu lo:

                      - Bẩm... Chúa Sài lang... em sợ...

                      - Hà hà! Nàng sợ Chúa sao? Được Chúa Tây Sắc Ma Vương vời đến Mê Hồn cung là điều sung sướng, được Chúa Tây Sắc đưa lên nước Nhược non Bồng, sao lại sợ? Ngoan! Hãy cười tươi lên! Nhìn Chúa Sài Lang!

                      Hai nàng chống tay đứng thẳng người hai cặp mắt mở to, bỗng nhiên vẻ kinh sợ vụt biến sạch, cả hai cùng nhướng mày, trên khuôn mặt cùng hiện rõ nét đam mê kỳ dị, cả hai như không còn biết sợ là gì nữa! Rồi như hai con mèo đầy khát vọng cả hai nàng cùng nhoẻn miệng cười tình tứ, rướn cong người, dang thẳng bốn cánh tay ra như mời mọc, và tự nhiên phá lên cười khanh khách, từ từ ngả dáng liễu xuống giường thất bảo!

                      Sắc diện thay đổi nhanh và bất ngờ của cặp mỹ nữ Tế Yêu cung làm Võ Minh Thần ngạc nhiên hết sức. Chàng sực nhớ lại lời viện Chúa núi Mã Đầu Quảng Tây, theo đó, trước khi bị con tinh hấp sát, chính mẫu thân chàng cũng chợt hóa điên cuong hoại trí cam chịu nhục van cầu hiến dâng thể xác, chỉ vì bà đã bị liễm yêu khí quái ác của con tinh!

                      - À! Hai nàng vừa rồi sợ hết hồn, giờ lại ngả xuống đầy vẻ mê say... có lẽ cũng bị tà khí của nó mê hoặc đến nỗi quên cả kinh khiếp chăng?

                      Rất nhanh, Minh Thần nhảy vọt lên phía sát nóc cửa dòm vào, đúng khi đó, đầu có bờm vàng trên giường hơi ngóc lên, Võ nhìn thoáng thấy một khoảng bên má con tinh, và bỗng nhiên giật mình kinh dị, suýt bật tiếng "ồ" sửng sốt! Vì đó không phải mặt chó sói, mà là mặt người, đúng mặt người!

                      Ánh sáng đèn vàng hắt lên, khói sương quyện mờ, nên một khoảng mặt trông cũng mờ loang lổ, nhưng rõ ràng không thể nào hoa mắt trông lầm được!

                      Tuy vậy, Võ cũng sợ mình hoa mắt, hay bị ảo giác, chàng vội đưa tay dụi mắt lia lịa, trợn nhãn quang dòm lại nhưng ngay khi đó, hai bóng mỹ nữ Tế Yêu cung cũng vừa ngã sát xuống bên đèn, từ mép chăn đệm bỗng có một bàn chân sói thò ra, bíu túm, nâng vụt lên cao che khuất hết cả nửa thân hình mỹ nữ, ngọn đèn che luôn cô gái ngồi "hầu" thuốc!

                      Ngay sau khắc chăn vóc được nâng lên không khí căn phòng vụt trở nên yen lặng vô cùng. Năm cô gái hầu tiêm hầu tẩu bỗng lặng lẽ đứng dậy cùng lui xó đàng kia, đi vào khung cửa thông gần tấm bình phong. Trong buồng chỉ còn Sài Lang Chúa với cặp mỹ nữ.

                      Tự nhien Võ Minh Thần cũng bị sự im lặng xâm chiếm tâm hồn, chàng trai khó nghĩ hết sức, lòng bối rối, cứ nấp trên nóc cửa nhìn vào. Lúc đó mảnh chăn vóc đã che phủ quá nửa mình mỹ nữ, chỉ còn hở từ nửa bàn tọa xuống. Từ trong chăn, bỗng nghe tiếng khàn khàn gai gai vọng ra, đến rợn người:

                      - Mỹ nhân! Ngoan! Đời người chỉ một lần sinh tử! Từ buổi định càn khôn, hóa âm dương mở tứ tượng, sinh bát quái, hóa muôn loài, từ ngày đó, muôn loài đều chịu kiếp phù du! Sinh ra đó, rồi ít năm sau, hóa đó, kiếp con người càng hóa phù du... Sinh thành trụ diệt, một khoảng thời gian ngắn như ngựa qua cửa sổ, chịu đủ xót xa, vui buồn tạm bợ, rồi một cơn gió bụi, con người nằm xuống, hình tiêu ảnh diệt "cái thức" hồn kia hỏi có còn gì? Ha! Sinh sinh hóa hóa cái hình phù du! Mỹ nhân! Ngoan! Theo Chúa Sài Lang vào cõi mê hồn sinh hóa... Ha ha!

                      Tiếng nói càng lúc càng trở nên xa xăm huyền bí la, chìm dần mất, bỗng nghe tiếng cặp mỹ nữ cười rú lên, giọng cười dòn như thủy tinh vụn, nửa chừng bỗng như nấc nghen, cười thét lên, nghe như con heo bị chọc tiết, dưới mép chăn vóc, hai khối bàn tọa và sáu cặp đùi "Tuc hoa" vùng dẫy lên đành đạch như đỉa phải vôi, làm cả tấm chăn cũng nẩy lên, mảnh "voan" chảy xuống.

                      Mắt mở trừng, Minh Thần ngó hai cặp đùi dẫy dụa, liên tưởng đến đuôi con thạch sùng bị chặt đứt, bên tai chàng, tiếng cười thét từ trong chăn vọng ra, nhọn hoắt tựa dùi xiên, làm chàng càng sôi máu hận!

                      - "Nó" đang làm gì kìa... Con tinh sói? Cặp mỹ nữ kia sao kêu hét dữ thế? Chắc đang bị con tinh "hấp sát"? Hấp sát hay hiếp sát? Cảnh tượng thật gớm ghê. Ta nên ra mặt chưa? Mẹ ta xưa cũng bị thế này sao?

                      Đột nhiên, chàng trai thấy rúng động cả tâm thần, buông vụt mình xuống. Hình ảnh cuộc thảm sát mười tám, mười chín năm xưa hiện lên chờn vờn phảng phat như có tiếng rú thê thảm nơi biên thùy phân mao. Hít một hơi dài mắt ngó trừng vào trong, hai cặp đùi ếch vẫn dẫy dụa, cùng tiếng cười nhọn, sương khói mờ mờ. Võ Minh Thần nghĩ ngay tới mấy chữ "Mê Hồn cung, Tàng Hình cung, Hóa Sinh cung..." Chàng trai quyết định nhanh như tia chớp, thò tay toan gạt rẽ tấm rèm sương. Nhưng... bất thần, tiếng cười rú trong chăn vụt tắt. Căn buồng quái ác bỗng rơi vào im lìm như trong quan tài. Mơ hồ như có tiếng âm âm trầm trầm bên tai:

                      "Hóa hóa ngũ hành âm

                      Sinh sinh ngũ hành dương

                      Âm dương đồng bản thể

                      Sinh sinh hóa hóa tương..."

                      Rõ ràng từ trong chăn vọng ra, mà xa xăm như tận thế giới nào! Thình lình, có tiếng Ma Vương thét nhọn:

                      - Gái vô dụng! Đỏ da thắm thịt, nhũ đanh, lưng eo, đùi dài, lẳn người, nhân khí tiên thiên bất túc, nửa chừng đã đứt hơi! Hừ! Tốn công nuôi! Bay đâu! Đem hai đứa gái vô dụng ra cho chó sói ăn thịt!

                      Lập tức, nghe tiếng "dạ" vang âm đâu đây, nhưng chẳng thấy bóng nào chạy vào! Bỗng "sịch" nền đá giữa buồng chợt tụt xuống một mảnh để lộ ra một lỗ huyệt độ thước vuông đen ngòm.

                      Rồi từ dưới lỗ, lừ lừ chui lên hai mụ đàn bà to lớn phốp pháp như con trâu mộng, mặt mày ghê ghiếc, không khác con quỷ cái từ dưới đất nhô lên! Hình thù mặt mũi hai mụ này coi phát gớm, không thua chi mụ Dạ Xoa Chưởng pháp ban nẫy, khiến Võ Minh Thần ngó thấy phải nhăn mặt.

                      Bộ điệu của hai mụ "trâu chương" trông thiện nghệ hết sức, môi dầy như miếng thịt trâu bôi phẩm đỏ, ngực, mông như mấy đụn rạ, mắt ốc nhồi láo liên tựa đèn pha. Hai mụ vừa nhô lên đã nhe răng cười khan dòm vào gian buồng quây bình phong. Mỗi mụ tay cầm một con dao bầu to bản còn hơn cả dao bầu dân thọc huyết heo (chẳng biết làm gì?) không hấp tấp, hai mụ này đi hai bước về phía bình phong, đồng cất tiếng thé nhọn như đọc bài thuộc lòng:

                      - Nô tỳ đã đến, đợi lệnh Chúa truyền!

                      Trong giường thất bảo, có tiếng Sài Lang Chúa vọng lên khàn lạnh như đồng, như gai đâm nạo mặt nứa:

                      - Hai đứa con gái này vô dụng! Xác to khí đoản, chưa chi đã đứt hơi, tụi bay dẫn chúng ra cho chó ăn thịt! Hai mụ mập cùng "dạ" dàn hàng đôi tiến lại, lách qua đầu bình phong đến bên giường thất bảo.

                      Cử chỉ rập khuôn, hai mụ vừa lôi giật, vưa lùi một bước dài, sát tấm bình phong, nghe "bạch bạch", hai tiếng tay vỗ vào thân thể, dưới đèn, thấy loang loáng, cả hai thân hình mỹ nữ đã... đứng lơ lửng trong không khí, hai cặp đùi buông thõng cách mặt nền chừng ba gang tay, đu dưa vắt vẻo như con "búp bê" treo.

                      Minh Thần trừng mắt dòm kỹ, bỗng phát ớn người, vì hai mỹ nữ đã bị hai mụ mập kia xoắn tóc túm bêu lên, như bêu hai con ngóe, dưới vùng ánh sáng vàng vọt, cả hai nàng quay tứ phía, bốn con mắt trợn trừng trắng dã như dòm người... Không! Chỉ là bốn cái lỗ huyệt sâu hoắm con ngươi tròng mắt đã biến tiêu, và cũng chẳng còn là hai cô gái mới vưa đầy xuân xanh hơ hớ, căng đầy nhựa sống nữa, mà là hai cái xác không hồn!

                      Đúng hơn, chỉ là hai cái... túi da! Vì bao nhiêu gân thịt đã tiêu hết, hai mỹ nữ chỉ còn xương bọc da, hoặc nhiều lắm chỉ còn dính ít thịt thừa chi đó.

                      Không cần quan sát lâu, Võ Minh Thần cũng hiểu ngay hai mỹ nữ Tế Yêu cung này vừa bị Ma Vương hấp sát! Đúng là cuộc sinh tử biến hình này ra trong chớp mắt, thoảng như cơn mộng ảo, nhanh hơn cả ý nghĩ của chàng. Khiến chàng trai thoáng sinh hối hận vì đã không nhảy vào ngay khi "nó" lột "voan" trùm hai nàng kia!

                      Đang nghĩ loanh quanh bỗng lại thấy hai mụ mập giơ vụt hai cái túi da lên cao, hai mụ ngửa mặt dòm tận mắt hai cái xác này, đã hóa bất thành nhân rồi y hệt hai con quỷ vớ được miếng mồi ngon, hai mụ vùng nhe răng cười khan, dí luôn mũi vào mặt "túi da" hít lấy hít để, không khác người hít hoa thơm vậy!

                      Và vừa hít, hai mụ vừa khật khưỡng bỏ ra giưa phòng, tay vẫn bêu hai "cái túi da" lừ lừ chui luôn xuống lỗ huyệt đen ngòm. Dưới vùng ánh sáng vàng vọt, đầy sương khói, Võ Minh Thần còn thấy hai cái túi da người "đu đưa lủng lẳng" xương khua lục cục, hai mụ mập hôn hít chùn chụt coi phát gớm!

                      Kịch! Phiến đá dâng lên, lỗ huyệt bít kín bưng. Hơi gió tạt thốc lại phả vào mũi Võ Minh Thần một mùi tanh khắm đến lộn mửa! Vô tình hít phải, suýt hắt hơi, may chàng đã kịp hãm lại ngay khi vừa nhảy mũi. Bất giác Võ liên tưởng đến mùi di hài mẫu thân, suốt mười bảy năm quàng trong hang đá, mở ra vẫn nặng mùi, điều quái gở này, xưa nay trên đời chưa hề thấy!

                      - Có lẽ do phép hấp sát phi phàm của con tinh sói...? Yêu khí của nó đã liễm vào xác, và ướp mãi mùi sú uế cũng như cổ nhân ta xưa đã có thuật ướp xác, luôn cả hương thơm tho.

                      Mùi tanh khắm khủng khiếp đến thế, vậy mà hai mụ quái mập kia cứ hít hà rối rít. Kể cũng lạ! Có lẽ mụ đã "hầu xác" lâu năm, nên hóa nghiện mùi hôi thối chẳng khác giống Ma Cà Rồng thèm ăn bẩn vậy!

                      Oan nghiệt!

                      Minh Thần đưa tay xua mùi sú uế bất thần nghe Sài Lang Chúa vùng quát gọi với vẻ như vừa uất giận:

                      - À bay đâu!

                      Rất lạ, là cửa huyệt đã đóng ập hàng chục giây, bỗng lại sịch mở, hai mụ mập thò ngay đầu lên "dạ".

                      - Không cho chó ăn! Tiêu gần hết gân thịt còn gì! Đem bỏ vào Bảo Tàng Viện, mai ta coi lại! Hai mụ mập lại bên túi da, ghé mũi hôn hít vẻ thích thú hết sức làm Minh Thần phát gớm. Kịch! Nắp huyệt lui kín như bưng.

                      Mơ hồ trong chăn vóc chợt có tiếng thở phì văng vẳng giọng khàn xa xăm như kẻ nói trong mộng:

                      - Sao tự nhiên lại xẩy ra chuyện khác thường trở lại như buổi sơ khai? Sinh sinh hóa hóa cái hình phù du... Hóa hóa ngũ hành âm, sinh sinh ngũ hành dương, âm dương đồng bản thể, sinh sinh hóa hóa tượng càn khôn hữu càn khôn, càn khôn biến hóa thập tử nhất sinh, càn khôn, càn khôn hựu càn khôn, biến hóa càn hóa thập sinh nhất tử... A! Sao đêm nay có chuyện lạ thường, lòng ruột xốn xang, huyết khí đảo điên, hấp pháp thoái hồi nhị thập niên di thượng? Có triệu chứng chi đây hay khí lực nó tiên thiên bất túc?

                      Tiếng lẩm bẩm trong chăn lọt tai Võ câu được câu chăng, có lúc tiếng chìm hẳn, nghe không rõ, chỉ loáng thoáng một, hai tiếng quái gở, lạ tai, như không phải ngôn ngữ của giống người trên trái đất...

                      Minh Thần nghe đến câu "sao đêm nay, lòng ta xốn xang... Có triệu chứng chi đây?" Chàng trai bỗng giật mình một cái, ghê thay linh tính nó cảm thấy chính là chuyện chàng hiện nấp ngoài rèm sương này! Nhưng rất may, có lẽ con tinh tuyệt không ngờ điều đó, vì "nó" đinh ninh khó có kẻ nào đủ bản lãnh thập toàn để có thể độn thủy vào tận cung A Phòng, lần đến "Mê Hồn Cung, Tinh Viện" này, êm ả qua biết bao "cửa tử phi phàm".

                      Chợt từ trong chăn vóc, tiếng Sài lang Chúa lại cất lên trầm khàn:

                      - Bảo nó dẫn Tây Phi xuống đây. Đêm nay Chúa ngự Tây Phi! Giọng nó vang âm, nhưng bốn bề vẫn im lặng, chợt nghe vẳng có tiếng

                      "dạ" xa xôi, góc phía sau, bỗng lại có tiếng the thé nhọn hoắt từ đâu vọng âm tới cũng y hệt tiếng nói trong máy phóng thanh:

                      - Khải Chúa, Tây Phi nương nương không chịu xuống tắm "Thủy phương trì", bảo Chúa đã cho Phi tùy sở thích! Khải Chúa, Phìa Mường La nhất định không chịu rời Tây Phi, bảo phải đích thân dẫn Phi tới dâng Chúa ngự mới chịu! Phìa bảo Phìa lấy chuyện Phí Vô Cực tráo hồn nàng Mạnh Doanh làm gương! Phìa không muốn mắc lừa như công tử Bồ nước Tần! Nên chỉ bằng lòng trao cho... Chúa! Chưởng pháp nô tỳ chưa dám áp dụng luật A Phòng với bực Chưởng quản Tế Yêu cung!

                      - Ha ha! Con gái Phìa Mường La bướng... Chúa thích! Dẫn nương nương tới đây mau! Chúa động phòng! Cho cả Phìa theo! Xa xôi có tiếng "dạ" mơ hồ, trên giường thất bảo, lúc đó mép chăn căng giương cao mới từ từ hạ xuống, nhưng vẫn trùm tận ót Ma Vương Cẩu Quẩy!

                      Ngay lúc đó, bọn gái "hầu thuốc" chợt lặng lẽ đi vào ngồi chỗ cũ, tiếp tục... Võ Minh Thần đã toan nhẩy vào, lại cố nán. Chàng đã nẩy mưu đánh phủ đầu một đòn "điện công" vào thẳng thất khiếu Ma Vương gồm cả Mê Hồn Nhuyễn Khí, lẫn Cương Khí Kình Phong, kiềm chế nó để truy tầm gốc thân thế mình! Nên cứ nấp buồng ngoài đợi.

                      Trên giường, bóng Sài Lang Chúa "thổi kèn dọc tẩu nhả khói" liên miên, rồi kéo chăn trùm cả đầu, chỉ thò mõm ra ngậm dọc! Ánh đèn lung linh tỏa giường thất bảo, Minh Thần chỉ muốn dòm mặt nó, không cách nào thấy được, vì nó ngoảnh mặt vào trong.

                      Trên giường thất bảo, Ma Vương Tây Sắc vẫn trùm kín chăn nằm, mấy nàng hầu thuốc cũng ngồi nghỉ tay, điềm nhiên như mấy pho tượng bạch thạch.

                      Chợt có tiếng Ma Vương trong chăn phát ra:

                      - Cho bọn mi vào! Không phải chầu Tinh Viện nữa! Mấy bóng nữ "dạ" kính cẩn đứng cả dậy, bỏ vào căn phòng xế sau góc bình phong. Mâm đèn dọc tẩu cả năm bộ vẫn để nguyên, Mê Hồn cung ánh đèn dầu vàng đọng, khối Phù Dung, hàn khí mờ mờ, cảnh trí coi càng như trong huyền mộng.

                      Im lặng đến vô cùng. Bỗng nghe tiếng mụ Dạ Xoa Chưởng pháp vang âm thé nhọn:

                      - Khải Chúa, Tây Phi nương nương đã đến chầu! Có cả Phìa theo! Còn đợi lệnh Chúa truyền!

                      Trong chăn, tiếng Ma Vương hắt ra:

                      - Cho vào! Võ ghé sát rèm sương, dòm vào, chợt nghe có tiếng cửa sịch mở, tiếp theo tiếng mành trúc, sương chi đó dao động lách tách, rồi từ nẻo cuối Tinh Viện, đối diện xế giường thất bảo, bỗng hiện ra cái bóng mập như trâu chương của mụ Dạ Xoa ban nãy. Tay mụ cầm cái gậy đen, tấm lưới quanh mình còn giắt dao bầu cùng nhiều món tạp dụng chi nữa.

                      Mụ tiến vào chừng ba thước, dừng lại. Và ngay phía sau mụ, thập thò lão Phìa Mèo Mường La Nam Cương cùng cô gái Kheng Lan Tây Phi. Lão Phìa nhìn quanh, hai con mắt lão coi láo liên như mắt giặc, vừa bước vào, lão đưa tay kéo áo mụ Dạ Xoa hỏi nhỏ:

                      - Cung Chúa đây ư? Ôi chao! Cung động gì mà sương khói mờ coi như động ma động quỷ thế này? Chúa Sài Lang đâu? Mụ Dạ Xoa trợn mắt "suỵt" vẻ sợ sệt, vội vào phía giường thất bảo.

                      Nàng Mèo Kheng Lan rón rén bước theo cha. Hai cho con dòm vào giường thất bảo, nhưng khu giường này có bình phong quây quanh chỉ thấy bên trong ngọn đèn dầu lờ mờ, đặc sệt, bóng chăn gấm nhô cao, trùm kín gáy. Chỉ riêng Võ Minh Thần nhờ chỗ nấp thuận tiện dòm qua kẽ hở hai mảnh bình phong gập lại, nên mới thấy thấp thoáng bên trong.

                      Hai cha con lão Phìa đang ngấp nghé dòm, bỗng "sịch" bình phong từ từ chạy trên nền phòng, loáng cái đã xếp thành một mớ dựng sát vách, cả khu giường thất bảo mở ra dưới mắt mọi người, không khác có một bàn tay vô hình vừa xếp lại!

                      Từ trong chăn, có tiếng Ma Vương Sắc hắt ra:

                      - Cha con Phìa Mường La Nam Cương đó ư? Vào đây! Đường biên thùy xa xôi hiểm trở, Phìa tuổi tác đã cao, còn chịu khó đưa Tây Phi Lan tới tận A Phòng cung, tấm lòng đó trời không phụ, Chúa Sài Lang rất bằng lòng? Sẽ có nhiều châu báu tặng à!

                      Giọng Sài Lang Chúa vang âm trong căn phòng lặng, tuy vẫn gai sắc, nhưng đầy vẻ dịu dàng, kẻ cả, không khác giọng vua chúa bảo thần dân, làm Võ Minh Thần hơi ngạc nhiên, càng ghê thay cung cách con tinh muôn mặt thạo đời. Riêng lão Phìa nghe qua chuyện "thấm nhuần mưa móc" có vẻ thích chí lắm, lão phát cười hi hí, xoa tay vào nhau, rón rén bước lại, miệng hỏi cụt lủn:

                      - Nằm trong chăn à? Mụ mập lại trợn ngược mắt, "suỵt". Võ Minh Thần đảo lia mắt nhìn từ chỗ cha con lão Phìa vào giường thất bảo, ánh sáng vật vờ, sương khói vấn vương, bỗng tia mắt chàng bắt gặp một vật gì hơi động đậy xế trên ngọn vách sau giường thất bảo giap trần, xế trước mâm đèn. Chàng vội chú mục dòm, chợt thấy vật đó lấp lánh, to đầu, long lanh, ngó kỹ mới hay đó là một tấm gương! Tấm gương đồng màu với bức tranh treo đấy, từ ngọn tường "bò" ra, tròn xoe, thoát đã nằm dán ngay vào hình thêu trên bức tranh, coi y hệt miếng kính tráng kim thường thấy. Tấm gương tròn chiếu về phía cha con Phìa Mường La có lúc nghiêng cả về phía Võ Minh Thần ẩn, làm chàng giật mình, lùi vạt vào xó, nghĩ ngay đến chuyện "Tào Tháo hiến đao". Tào Tháo lãnh sứ mạng vào đâm Đổng Trác, đúng lúc Đổng nằm quay mặt vào tấm gương, Tào tiến vào khua đao chực chém mới chợt thấy bóng Đổng mở mắt dòm trong tấm gương phản chiếu. Tào thất kinh, nhanh trí, quỳ luôn xuống làm bộ hiến đao quý... rồi kiếm cớ "tháo" chạy.

                      Nhưng đồng thời thấy tấm gương, Võ lại lóe ngay ý khác, bèn nằm phục xuống lựa chiều, dòm vào gương, xem mat Ma Vương. Đúng lúc Võ chiếu đúng hướng, thì mép chăn cũng từ từ trở xuống chút tận mắt, và Minh Thần bỗng dột tim một cái, khi thấy rõ từ chỏm đầu con tinh xuống tới mắt.

                      Vì chỏm là chỏm lông bờm vàng, hai tai vểnh, nhưng phía dưới lại là trán người, mắt người, hai con mắt sáng tựa điện quang phản chiếu trong gương coi còn đầy uy tợn, còn từ mắt xuống che kín.

                      - Trán người, mắt người! Đúng trán, mắt người. Phía dưới chắc chắn là mặt người! Phải chăng Tây Sắc Tinh Quân đã luyện tới độ hóa được mắt người? Nếu nó có thể hóa hình người nó sẽ thành một thứ tai ách gớm ghê cho thiên hạ, nó sẽ sống lẫn dưới loài người, khó có cách phân biệt giả chân!

                      Minh Thần tuy nhìn vào, nhưng sợ mặt mình phản chiếu trong gương lộ, nên vội quay nhìn hai cha con lão Phìa Mèo, chừng ngó lại, Ma Vương trùm kín mặt, tấm gương vẫn còn. Sực nghe tiếng Sài Lang Chúa bảo:

                      - Đêm nay Chúa ngự Tây Phi, Phìa hãy theo chúng ra ở tạm cung ngoài, sớm mai Chúa gặp! Tây Phi vào đây!

                      Cả hai cha con lão Phìa cùng đi vào. Còn cách giường thất bảo dăm thước, mụ Dạ Xoa chợt xẹt vào, vẫy lão Phìa, nhưng lão Phìa cứ dòm quanh chợt cười hi hí:

                      - A Chúa Sài Lang hút thuốc phiện! Cho Phìa hút với, từ bữa rời Mường La,

                      Phìa chưa hút, nhớ lắm!

                      Tiếng Ma Vương trong chăn vọng ra:

                      - Dạ Xoa ra bảo mỹ nữ cung ngoài tiêm hầu Phìa! Mai Chúa sẽ tặng châu báu!

                      Lão Phìa cười hí:

                      - Không thích châu báu, không thích hút một mình, Phìa thích món khác!

                      - Muốn chi?

                      - Xem mặt Chúa Sài Lang! Xem xong, ăn thịt chó.

                      Vừa nói vừa cười, lão Phìa giơ tay lên như vẫy gọi, bất thần nghe đến "vút" tiếng, tiếp liền một tràng "thụt thụt phập phập", Võ Minh Thần hơi giật mình, vén kẽ rèm sương dòm, chỉ thấy hai cánh tay lão Phìa vung loang loáng, cả nàng Mèo Kheng Lan Phi cũng khoa tay tít, nghe "huỵch", tiếng mụ Dạ Xoa bắn tung lộn người vào vách, tiếp luôn tiếng "kịch", mụ Dạ Xoa nằm sụm một khối xó buồng, lọt thỏm xuống lỗ huyệt, tràng "thụt phập" vừa dứt, đã nghe hai tiếng "phập" lớn rung chuyển cả mâm đèn, giường thất bảo, rồi tất cả vụt im! Trông vào, hiện ra một cảnh lạ mắt. Trên giường mà chăn vóc đội hình Ma Vương vẫn nằm lù suốt từ đầu xuống đến chân liễu đao cắm một hàng như lông nhím, ngập lút cán, và hai cha con lão Mèo đứng hai phía cạnh giường, tay lão Phìa cầm một sợi xích sắt căng thẳng, đầu kia, một lưỡi đại phù cắm ngập hết hai phần ba chém ngang cần cổ Ma Vương, xuyên qua lần chăn vóc còn nàng Meo Kheng Lan Phi tay còn cầm đốc gươm đâm suốt qua sườn Ma Vương ngập hơn gang tay, chưa rút!

                      Và trong phòng im lặng thẳm, thứ im lìm... đến nổi da gà! Trên giường hình Ma Vương vẫn đắp chăn lù lù.

                      Trong nháy mắt, dưới đèn, hai cha con lão Phìa vụt trở nên nhanh nhẹn khác thường. Hai người liếc nhìn nhau, nhìn quanh buồng vắng, nhìn vật bị đâm.

                      Bỗng cả hai giật mình tay gươm búa. Nghe "soạt" tiếng lưỡi búa gươm rút ra đã lôi theo cả tấm chăn rộng, lao Phìa chụp mép chăn, đặt "phạch" gỡ nốt mấy chỗ còn mắc cán dao!

                      Và cả hai cùng kêu rú lên "à con tinh bờm vàng" làm Võ cũng phải dột lòng, vì dưới lần chăn vóc, vừa hiện ra một cái thây sài kíu lông vàng nằm co quắp, hàng chục mũi liễu đao cắm dọc mình mẩy, cổ bị búa chặt gần lìa, nằm không động đậy!

                      Nấp ngoài rèm dòm, nhờ bức bình phong đã xếp xó, Võ Minh Thần trông rõ mồn một, cả từng dấu máu đỏ lòm đẫm mình con sài kíu long vàng, trong thoáng giây, chàng không khỏi bàng hoàng sửng sốt. Vì dưới đèn, đúng là hình thù con Hồng Cẩu Quẩy lông vàng có bờm sư tử: Tây Sắc Tinh Quân Vương Sắc!

                      - Á! Gớm thật! Hai cha con lão Phìa mèo kia là nhân vat nào dám đội lốt gái tiếp cung lần vào tận sào huyệt Sài lang Chúa hạ thủ! Coi thế phóng đao, búa, đúng tay cao bản lãnh, gan góc hơn người! Hừ! Thật không ngờ! Trách nào có lúc coi hèn hạ, ngây thơ, có lúc chợt "dở chứng". Khó hiểu! Như lúc trong lò nấu sáp chẳng hạn!

                      - Nhưng Sài lang Chúa thành tinh cực kỳ quái quỷ, có thể nào bị đâm chết dễ đến thế sao. Hừ! Chẳng lẽ uổng bao nhiêu năm nung thù nấu hận của mình ư? Vô lý?

                      Chỉ suýt nữa, chàng tuổi trẻ đã nhẩy vọt vào nếu không vội kìm hãm lại, định ngay thần trí.

                      Trong kia, hai cha con lão Phìa thấy hình con Sài kíu lông vàng nằm chết trên giường thất bảo, cả hai cùng bật tiếng reo mừng, lão Phìa khoa tấm chăn đẫm máu ném vào xó, tay gại gại nhẹ lưỡi búa, cười ha hả:

                      - Ma Vương Sắc! Cái thây sài kíu lông bờm này là thây Ma Vương Sắc thật ư? Ha ha, ta vẫn tưởng Chúa Sài Lang thành tinh ba đầu sáu tay, hóa chỉ có bốn chân một mõm, nằm hút thuốc phiện trong hang động, vẫn có thể chết như con chó bốn chân! Trành xó đâu? Hấp sát đâu? Yêu khí đâu? Không lẽ nhà ngươi chết êm nằm đó? Hà hà! Bậy that, ta tưởng chỉ thử mấy "đòn gió" chơi, ai ngờ đòn thử lợi hại đến thế?

                      Nàng Mèo Kheng Lan vùng nói nhanh:

                      - Hang ổ Ma Vương có nhiều cạm bẫy! Phải đi kiếm chỗ nó nhốt chị Bạc Pi A Ya ngay mới được.

                      Minh Thần nghe nàng nhắc đến tên Bạc Pi A Ya không khỏi dột lòng, đoán hai cha con lão Phìa chắc là người thân Khao Lan nữ chúa, chàng chưa tính nên nhẩy vào, hay cứ đứng yên, chợt nghe nàng Mèo hô "nhanh lên sư phụ", cả hai đứng cách giường thất bảo hơn sải tay, cùng xuất hữu quơ vụt về phía xác sài kíu, rút dao bằng điện kình.

                      Nhưng lưỡi dao vừa nhô lên được nửa lưỡi chợt dừng lại như mắc xương. Không ra nữa, Cả hai vận lực quơ mớ khác nhưng một hàng hơn chục mui dao đều mắc thế, lay mãi không sút nổi. Bực mình, cả hai buông tay kình tiến lại, thò tay chụp cán dao nhỏ. Minh Thần nấp ngoài bỗng dột tim thấy xác sài kíu nhấp nhô, bất thần cô gái Mèo Kheng Lan vùng hô "coi chừng" cả hai giật phắt mình. "Véo, véo", cả chục mũi dao bỗng bắn vút lên loáng sáng liễu sạt chỏm khăn Mèo, bật phóng lên trần "keng, keng" tóe lửa, rồi lại rớt lả tả xuống cắm "phập, phập" xuống giường thất bảo. Mảnh khăn bị hớt, bay như cánh bướm, hai cha con lão Phìa cùng lùi lại thủ thế. Nhưng tất cả lại im lặng như cũ. Chẳng khác nào cái thây bị tức hơi đẩy hẳn dao lên. Cả hai thoáng ngơ ngác. Kinh nghi, đứng dòm, lão Phìa quay búa thả "véo", "phập" lưỡi búa chém đứt hẳn cổ con sài kíu, cái đầu văng về phía đầu giường.

                      Nhưng lưỡi búa đã cắm sâu xuống giường nhổ không được. Kinh hồn, bỗng cái đầu sói vùng tru lên một tiếng gai người, bất thần nhẩy vọt lên táp lão Phìa.

                      Cảnh tượng quái đản làm hai cha con lão không khỏi giật mình, sửng sốt, tay đang nhổ búa, túng thế, lão Phìa vội xòe tả thủ gạt bịch mõm sói.

                      Tuy lão vận sức rắn như đồng, cái đầu sói bắn văng vào vách nhưng nó lại nhẩy sổ ra lần này tỏ rằng nó há mồm nhe nanh táp cổ lão, lão nổi giân đưa tay đấm bốp vào đầu sói, cái đầu lại bắn văng đi, nhưng tay lão muốn tê chồn. Còn đang lấy làm lạ, thình lình cái thây ma chó cụt đang nằm sóng soài, bỗng vùng nhảy chồm lên, quơ vuốt vỗ cô gái.

                      -Chó ma, chó quái!Cô gái Mèo múa gươm đâm, lạ thay cái xác sài kíu cúi đầu sẹt váo sang bên tránh, rồi lại chồm xuống vồ, cái đầu đằng vách cũng nhảy lại, cắn lão

                      Phìa, hét lên một tiếng, nhổ được lưỡi búa, lập tức quay vù, vừa chém vừa trợn mắt quát:

                      -Chó tinh! Phải mày là Ma Vương Sắc, chó yêu chó quỷ cụt đầu còn hung, tao há sợ loài tinh! Hai cha con di động gươm búa, quần thảo với đầu sói, xác cụt, cảnh đấu chiến quái đản khiến Minh Thần đứng ngoài không khỏi lấy làm lạ. Nhưng chỉ nhìn qua mấy đường sói cụt vờn gươm búa, chàng đa hiểu ngay điều bí ẩn dưới cảnh tượng phi phàm. Và chàng cũng chợt thấy lòng nhẹ hẳn như vừa trút được vạn cân chì trước cái chết quá bất ngờ của hình xác Ma Vương.

                      Trong phòng bất thần, cái đầu chó sói lao vụt tới dính liền vào cần cổ cụt, rồi con sài kíu có lông bờm mang cả cái thây còn đẫm máu nhẩy chồm chồm qua đầu hai cha con lão Phìa há ngoác mõm nhe nanh nhởn đớp hập hập vào hai người. Làm cả hai phải xoay trở vùn vụt, tiếng chó sói nhẩy chồm nghe vun vút, cực mạnh tợn, loang loáng, đứng ngoài chỉ thấy hình thù nó di động vàng vàng như một luồng ánh sáng hết sức thần tốc. Trước nó còn nhẩy vờn quanh gian buồng thuốc phiện, sau nó nhẩy dài hơn, có lúc ra tận chỗ Võ Minh Thần nấp ngoài, tiếng xé gió nghe ớn lạnh.

                      Vào tay khác chắc sẽ bị cắn như bỡn nhưng hai cha con lão Phìa này bản lĩnh cao cường, xoay trở vùn vụt, đánh đỡ đâm chém như chớp, thoắt trong buồng, chỉ thấy ba cái bóng xanh xanh vàng vàng vi vút đảo lộn lẫn với ánh thép sáng lòa.

                      Đặc biệt nhất là cả người lẫn quái thú đều dùng thuật khinh phù tuy mạnh mà êm gọn vô cùng. Cả năm ngọn đèn Phù Dung vẫn không ngọn nào bị tắt. Bỗng nghe lão Phìa quát lớn:

                      - À con chó ma chó quỷ này gớm thật! Để coi mi có cưỡng nổi quyết lệnh không?

                      Dứt lời, cả hai vẹt lùi vào một xó, sát vách cùng đưa tay bắt quyết, đánh "chát" cái cắn chót lưỡi đọc chú phun phì cái bóng to lớn vàng vàng vẫn di động trước mặt, ngay khi quyết vừa đánh ra, bỗng nghe con chó quái cười ré lên một hồi sằng sặc, rồi bất thần nhẩy tới đứng lù lù ngay bên giường thất bảo, giương mắt dòm hai cha con lão Phìa!

                      Dưới đèn, hai cha con lão Phìa đều giật nẩy mình kinh dị, vì con sài kíu lông bờm lúc nãy cần cổ dứt mới lắp đã liền như thường, các vết dao đâm cũng đâu mất, máu me cũng sạch như lau chùi, lông vàng óng ả, hai con mắt đỏ khé như than tàu, con Hồng Cẩu Quẩy bờm sư tử vàng đi hai chân, ngửa mặt, khật khưỡng cười khà, dáng điệu quen thuộc của Ma Vương Sắc!

                      - Ma Vương Sắc! Mi... tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy! Mi vừa dứt cổ... mi sao...? Phải mi? Lão Phìa Mèo không nén được kinh dị hình thù sài kíu lông vàng đứng lù lù, tuyệt không còn dấu vết đứt cổ thủng bụng!

                      Con Hồng Cẩu Quẩy đi hai chân, khật khưỡng phát tiếng người âm u rờn rợn:

                      - Lạ sao? Bản Vương tinh Chúa Sài Lang tứ túc hấp sát đây! Hà hà! Ngươi tưởng đã chém được bản vương hay sao? Ma Vương Sắc chúa tể thế giới sài lang tinh dưới đáy Hắc Giang đâu có thể chết vì gươm đao súng ống phàm trần! Biết không? Cung A Phòng xưa nay không kẻ nào xuống nổi, nay có một kẻ râu dài, một nàng xuân sắc dám đội lốt cha con Phìa Mường La, tới Tinh Viện mò tận Mê Hồn Cung là giỏi lắm! Lão Phìa, cô gái Mèo vẫn lăm lăm tay búa tay gươm, quắc mắt nhìn Tây Sắc Ma Vương, chừng vẫn chưa hết kinh nghi về chuyên kỳ dị trước mắt. Ma Vương phát tiếng âm âm lạnh lẽo:

                      - Phạm Nhan Nguyễn Bá Linh xưa chỉ là một tên phù thủy thường, con Nguyễn Bá Cường đất Hải Dương, lưu lạc sang Tàu. Theo bọn Thoát Hoan sang đánh nước Nam bị chém rụng đầu này còn mọc nổi đầu khác, Sài lang Chúa thông thiên quán địa, tu luyện càn khôn pháp, lại không lắp đầu Phạm Nhan được sao? Hà hà! Cung A Phòng xuống dễ, lên khó, bọn ngươi tài gì thoát nổi!

                      Hai cha con lão Phìa nhìn nhau, cùng lùi một bộ, cô gái thét lảnh:

                      - Tinh chó! Mi bắt đàn bà con gái nhốt trong hang ổ, hấp sát tàn hại sinh linh, trời đất không dung, người đều oán! Thầy trò ta xuống đây cứu người thân thích, khôn hồn thả ra mau! Bằng không, dẫu mi yêu thuật cách nào đừng hòng hại nổi thầy trò ta!

                      Ma Vương dòm cô gái Mèo, nó hơi nghiêng đầu, bờm sư tử lòa xòa trước trán coi như gấu ngựa, nó phát cười gai gai:

                      - À! Cô nàng là ai, đội lốt gái Mèo Mường La Nam Cương, coi còn đẹp hơn gái Mường La! Hà hà! Xứng đáng Tây Phi Tế Yêu Cung! Thân thích là đứa nào? Bản Vương Sài lang Chúa Cung A Phòng đầy mỹ nữ, sao nhớ nổi? Còn lão đội lốt Phìa là ai?

                      Lão Phìa quắc mắt, quát:

                      - Tây Sắc tinh! Học trò ta là gái Bạc nữ chúa Pi A Ya, nó ra ngoài rừng về thăm cha, bị mi lừa bắt đem đi! Ta lặn lội khắp thượng du, theo dấu vết tới Mường La, mới biết động hang mi dưới đáy Hắc Giang, ta tới đòi học trò... biết điều đem trả mau!

                      Dứt lời cả lão Phìa giả, cô gái Mèo cùng giắt khí giới đưa tay bắt "quyết"! Minh Thần nấp ngoài, nghe tỏ, lòng cảm động nghĩ thầm:

                      - À thì ra sư phụ Bạc Khao Lan! Còn nàng Mèo kia chắc là bạn học! Cả hai xả thân đi tìm cứu Khao Lan! Ta đứng ngoài này phải lưu ý ám trợ mới được.

                      Bỗng nghe tiếng ông già quát lên một tiếng lạ tai, chừng đọc chú, đánh Chúa Sài lang. Ma Vương vẫn đứng yên, bỗng đổi giọng hét chìm:

                      - Già ngốc! Mi tới số mới vào Cung A Phòng! Mấy cái quyết "thầy mo mụ ké" đã làm gì nổi Chúa Sài lang? Ta cho thử sức với lũ nô bộc đàn bà trong cung! Bay đâu!

                      Lời nó quát chưa dứt, "quyết" thầy trò cô gái đã tung ra, nhưng lạ thay! Tây Sắc vẫn đứng yên phát cười gai rợn! Thấy "quyết" linh không hạ nổi con tinh, ông già, cô gái lạ cùng xuất thủ, định ra đòn phản phong, nhưng bất thần nghe kịch một tiếng, phóng đã mở ra một lỗ huyệt tối om, từ dưới bắn vọt lên hai mụ đàn bà mập như hai con trâu trương! Chính hai mụ vừa hít thây ma lúc nãy! Mụ nào cũng cao khoảng thước bảy, thước tám, mắt ốc nhồi, tay như cái cột, mỗi mụ cầm một con dao bầu, coi người không ra người, quái không ra quái, giương mắt ốc nhồi như mấy cục tiết.

                      Tây Sắc hất hàm, mồm gai gai:

                      - Bắt hai con mồi kia cho Chúa! Để sống!

                      Lập tức hai mụ Dạ Xoa Cung Mê Hồn tiến vụt lại trước ông già, cô gái, hét lên mấy tiếng kinh dị, nhảy xổ tới chém. Ông già, cô gái không hề ngán, cùng rút khí giới ra, hét lớn, quật liền.

                      Chát chát! Khí giới chạm nhau tóe lửa. Bốn cái bóng xẹt ngang dọc như bốn con thú dữ loang loáng dưới đèn, bất thần nghe "keng" tieng một con dao bầu bắn tung về phía Tây Sắc đứng, nó thờ thẫn chụp dính, "huỵch" mụ Dạ Xoa bị một ngọn cước đá bắn vào tường, ông già thả luôn búa "xoẹt" bay chỏm tóc, theo đà quật rớt luôn dao bầu mụ kia, cô gái thừa cơ đá luôn một ngọn cước, mụ ta ngã lộn nhào.

                      Nhưng cả hai vọt đứng dậy, toan nhảy xổ tới, Ma vương ném dao, hai mụ bắt dao, nhảy tót xuống lỗ huyệt mất hút. Tây Sắc gật gù:

                      - Đáng được Chúa Sài lang tiếp! Coi đây! Chúa Sài lang bắt bọn ngươi! Dứt lời nó thổi phù một cái! Từ trong mồm sói tinh, bay vút ra một luồng hắc khí, chụp thốc ông già và cô gái. Cả hai đã đề phòng, cùng vận kình phong quật luồng hắc khí, nhưng Tây Sắc đã lắc lư xẹt sang bên, thò chân trước vồ. Cách khoảng bốn bộ từ chân sói bay vút ra hai luồng huyết khí giống hệt vuốt sói, vồ thốc hai người, cả hai tung đòn kình đỡ gạt, chỉ nghe "bùng bùng" hai tiếng, dưới đèn mờ sương khói bong thấy hai cái bóng người bắn bổng lên hơn thước vật vờ như hai ảo ảnh, xô huỵch lưng vào vách phòng, tiếp liền tiếng cười the thé của Ma Vương. Võ Minh Thần dòm vào đã thấy ông già và cô gái lảo đảo ôm ngực, rõ bị kình huyết phạm thân, chàng trai biết hai người khó địch nổi Tây Sắc, không dám chậm trễ, lập tức vén tốc rèm bắn mình vào, hét lớn:

                      - Không được hại người lành! Còn có ta đây! Sài lang Chúa!

                      Ma Vương quay phắt người lại, vừa thấy bóng Minh Thần, nó vùng phát cười ghê rợn:

                      - À, tên mặt sắt đêm nào! Ta đang tìm mi khắp rừng già thượng du. Mi lại dẫn xác tới! Hay lắm! Mặt sắt có vòng càn khôn...! Mi cũng vào tận A Phòng được? À! Ta thấy triệu bất tường, ra đêm nay mi đến nộp vòng!

                      Minh Thần liếc thầy trò ông già, xẹt lại đứng chắn trước, hô lớn:

                      - Lão trượng, cô nương rút mau! Đã có mỗ chặn Ma Vương! Bạc cô nương đã bị hấp sát rồi, xác đặt trong Bảo Tàng Viện, còn thoi thóp! Rút mau!

                      Chàng nói qua đường lối chưa dứt, Ma Vương đã nổi giận hét lên nhọn hoắt:

                      - À tên mặt sắt dám sục sạo Cung A Phòng, Sài lang Chúa không tha!

                      Dứt lời, nó thổi phù một cái mạnh.

                      Thấy một bóng đội mũ trụ cổ quái, lưng lại đeo cả kiện hành lý, khiên, giọng nói sang sảng tựa chuông đồng bất thần nhảy vào, ông già và cô gái đội lốt cha con lão Phìa Mường La vô cùng sửng sốt, cùng xẹt lên dòm cho kỹ. Tây Sắc Ma Vương dừng đòn, không đánh nữa, nhưng Minh Thần đã biết sức lợi hại phi phàm của Ma Vương, sợ nó hạ độc thủ, cứ che cản trước mặt giục đi, ông già vùng nói lớn:

                      - Nhưng bạn la ai? Sao cũng xuống cung động này?

                      Thấy hai người còn nấn ná, Minh Thần buộc lòng phải nghiêng đầu nói vọng lại:

                      - Lão trượng và cô nương bị đòn huyết khí sói tinh rồi! Mau ra khỏi nơi này! Đã có kẻ này cản sói tinh! Len Bảo Tàng Viện mau! Có linh đơn chưa? Tây Sắc tinh cười thét:

                      - Không ăn thua đâu! Đòn Ma Vương Chúa là đòn vong mạng! Hà hà! Cho lão kia đi chết, còn cô nàng, Chúa Sài lang đã phong Tây Phi cứ ở lại đây. Chúa chữa cho khỏi chết, cai quản Tế Yêu Cung!

                      Tuy bị đòn quái, thần khí hao hụt, cô gái vẫn không sợ hãi, trỏ Tây Sắc thét lảnh:

                      - Tinh chó trời đất sẽ tru diệt mi! Tối nay, tao quyết chặt đầu lột da bị, báo thù cho sư tỷ! Ông mặt sắt lui ra, để thiếp báo cừu cho chị Bạc! "Vút, vút"! Nàng phóng hai mui dao lá liễu vào tim cổ Ma Vương.

                      Vẫn đứng yên, con tinh hơi hạ thấp đầu, đớp nghiến một cái, cắn "chát, chát" mũi dao kẹp cứng hàm răng nhọn! Nó gật đầu cái nữa, cô gái đang vận kình thu dao bị lôi chúi về đằng trước như bị "sợi dây vô hình" kéo mạnh! Rất may, Võ Minh Thần đã dang rộng cánh tay ngang ngực nàng kìm lại được, hô "cắt điện kình", cô gái sức tỉnh, làm theo, Minh Thần gạt nhẹ nàng về phía sau.

                      Nhưng Ma Vương đã nổi giận hét lên một tiếng, xòa chân trước chụp Minh Thần, nghe "soạt" tiếng như xé lụa, từ vuốt nhọn con tinh bay vút ra một luồng huyết khí giống hệt bàn chân sói, kéo dài như một vì tinh lạc đỏ lòm màu máu vồ thẳng ngực chàng ngay khi chàng vừa gạt cô gái lại sau.

                      Đã vận sẵn điện kình, Võ Minh Thần vung tay đánh vụt ra một luồng lãnh khí quật thẳng vào luồng huyết khí vuốt Sai lang, miệng thổi phù ra một đòn "Mê Hồn Cung" bí pháp của bà chúa Thanh Âm truyền dạy!

                      Lúc này ông già đã lẹ tay quài túm được cổ tay cô gái đồng hành, lôi giật ra xó cửa.

                      Giữa căn đong lờ mờ sương khói, ánh đèn vàng vọt ma quái, im lặng, bỗng nghe phát liền hai phát "bùng, bùng" như tiếng sấm nguồn, sét đánh cả căn buồng kín bỗng sầm lại một màu đo đỏ lờ lờ, trăng trắng như tuyết bay, ông già, cô gái vừa vạt xó cửa về sau Minh Thần còn bị áp khí đè xuống muốn rung động châu thân, cả căn buồng quái bộng sực lên một mùi máu tanh nồng khủng khiếp, lẫn mùi thơm ngào ngạt của dễôn loài dị thảo kỳ hoa hương trầm lan lộn không sao phân biệt nổi khiến ông già và cô gái vừa muốn lộn mửa đã cảm thấy dễ chịu hơn như được hương thơm kỳ dị kia hóa giải liền. Tuy vậy, cả hai cũng choáng đầu, hoa mắt mấy khắc, lật đật lùi vội ra hành lang.

                      Dòm vào, giữa vùng trắng, đỏ mờ, sương khói, Võ Minh Thần đã vật vờ bắn dội lại hơn hai bộ, còn Tây Sắc tinh trôi miết hai chân sau vào phía giường thất bảo, cả năm ngọn nến cùng phụt tắt lúc nào không biết?

                      Cả hai địch thủ cùng hoành thân đứng nhìn nhau, cả hai xem và cũng thấm đòn kình khí của nhau, chấn động châu thân, hoa cả mắt.

                      Chỉ qua đòn kép, cả hai đã lượng nổi sức địch, Minh Thần tuy có choáng váng, nhưng thấy nội tạng vẫn như thường, chàng không khỏi mừng thầm, thoáng nghĩ:

                      - Tây Sắc lợi hại phi thường, đêm nó phá Bát quái Thiên la địa võng Mê Hồn trận Pi A Ya đủ biết! Chưa hiểu đòn huyết khí vừa rồi nó đánh ra đã xuất bao nhiêu tinh lưc, nhưng nếu trước ngày nhập Thanh Âm Động chắc ta khó lòng chịu đựng nổi! Còn ta, trong lúc vội, điện lực hàn băng mê hồn xuất được hai phần ba khí lực mà nó cũng hơi lao đao nếu vậy Mê Hồn Công bí pháp có thể dùng chong trị nó được! Nhưng có điều hơi lạ là: Mê Hồn Công cũng thuộc võ thuật bí truyền, dùng đánh loài người, loài vật, nó là quái vật thành tinh, sao cũng chịu dưới định luật về vật lý như người ta? Theo chú Thoòng, chúa Ma Đầu Quảng Tây cho biết: chính chú đã bắn nó mấy phát Pạc Hoọc không chết, điều này lại vượt ngoài luật vật lý cõi thế... Nay nó mình đồng da sắt, như con "Mạc thú" trước, ta hạ được ngày gặp Bạc Khao Lan? Con Mạc thọ kim khí mà sinh ra, ăn sắt như bùn, kể đồng tính chất với kim khí không lạ, còn sài lang đây, hay nó đã luyện được bí pháp chi?

                      Trong khi Minh Thần thầm nghĩ, Tây Sắc tinh xem chừng sửng sốt vô cùng vì từ lâu chưa gặp kẻ vô danh nào có thể chịu nổi đòn huyết khí ghê gớm của nó.

                      "Người mặt sắt" đã từng suýt chết vì đòn đó mấy phen, giờ y lại có thể đỡ nổi đòn này, còn khiến Ma Vương choáng váng đầu óc vì kình khí. Tây Sắc phát tiếng người hét chìm gai:

                      - Mặt sắt! Phải mi mới học được đòn bí pháp Mê Hồn của chúa động

                      Thanh Âm?

                      Thấy nó không đánh ngay Minh Thần vụt nghĩ:

                      - Khi ta rời sơn động bà Chúa Giáng Tiên có căn dặn: đòn Mê Hồn Công bí pháp lợi hại nhất là đánh lúc bất ngờ, vì nó là vô ảnh kỳ công đánh ra không thấy màu sắc! Nay đã đánh lẫn Hàn Băng Công, điều lợi hại bất ngờ để mất, giờ nó không ra đòn ngay, ta phải lập kế "đánh kín" mới được! Hãy đánh nó ngất ngư, truy tầm thân thế sau chưa muộn!

                      Bèn buông thõng hai tay, làm vẻ điềm nhiên, Thần giọng hô "Xó thầy đâu? Mau dẫn ông già, cô gái lên Bảo Tàng Viện", con xó khách nãy giờ vẫn đứng ngoài rèm vội vọt lại giật ông già, cô gái đi, nhưng Tây Sắc đã hú lên một tiếng rởn óc, từ dưới nền phòng nhảy vọt lên ba mụ mập Dạ xoa luồn hành lang chặn lại. Phảng phất như có một bóng mờ vật vờ thoáng hien dưới đèn rồi biến mất, Võ hô "Coi chừng con trành cái, thoát mau không muộn". Ông già thấy Võ cầm cự nổi Sài lang Chúa lúc đó mới chịu kéo cô gái vọt ra, miệng hô lớn:

                      - Người mặt sắt cứ đánh chó tinh, lão đây biet phép cự ma trành!

                      Tây Sắc giơ vụt chân trước, định làm gì đó, nhưng lại từ từ hạ xuống, ngửa mặt tru lên một tràng vang rợn cười khà:

                      - Cho đi! Cung A Phòng có Mê Hồn Tứ Tượng, Bát quái biến hóa U minh Âm hồn trận cam giữ, bản vương đã cho mở trận ma xó vô hình chưa dễ ra thoát, đứa hữu hình có cánh cũng không qua nổi! Hà hà! Cứ để chúng! Còn ngươi nữa! Lâu nay Chúa Sài lang chưa được thử tài tu luyện, người là kẻ có bản lãnh, tài thuật, đáng được chết dưới tay ta!

                      Nghe con tinh nói đến "trận Âm hồn U minh biến hóa...", Võ Minh thần không khỏi lo cho tính mạng ông thầy dạy Bạc Khao Lan, từ lúc nhập A Phòng, chàng cũng đoán tất Tây Sắc phải có trận đồ lợi hại nào trấn động! Chàng trai lắng nghe tiếng mụ Dạ xoa hét, lẫn tiếng cô gái la, biết cả bọn đã cuốn nhau đi khỏi Tinh Viên, nghĩ đã có con "Xó quỷ khách" tinh khôn, cũng đỡ ngại, Minh Thần lập tức ngầm vận chan khí lên buồng phổi trầm lời hỏi Tây Sắc:

                      - Sài lang Chúa! Ngươi biết ta là ai không?

                      Vừa dứt lời thấy Tây Sắc nheo hai con mắt, vẻ chăm chú nghe, chàng trai theo lời nói, thổi phù một cái.

                      Đòn phản phong bí truyền này vẫn được liệt vào hàng võ thuật trấn sơn của Thập Vạn Đại Sơn và Thanh Âm động! Nay gặp Tây Sắc Ma Vương, chàng thừa hiểu con tinh này vô cùng lợi hại, thắng bại chỉ cần mot đòn, hai đòn nên ngay đòn thứ hai này, chàng đã ngầm vận dụng phần lớn điện lực trong mình, phối hợp cả Mê Hồn Công lẫn Khẩu Phong Lôi, khí thổi ra vẫn êm như không, mãi lúc luồng hương mê theo gió kình bay sát mặt Tay Sắc mới tỏa rộng như chiếc lưới vô hình chụp xuống, lúc đó mới phát ra một tiếng "bùng" như sấm nổ. Tây Sắc nghe thấy thì kình điện mê hương đã đánh thốc vào mình.

                      Đòn công phối hợp này vừa có sức mạnh sấm sét vừa có sức mê, đủ cương nhu, đúng là một đòn lợi hại phi thường. Đánh ra, thấy Tây Sắc không động đậy, vẫn đứng chăm chú nghe. Minh Thần đã mừng, sau khi phát lên một tiếng "bùng" dữ dội, Võ Minh Thần còn thoáng thấy một vùng đỏ như hồng hoàng bốc tóc ra, cái bóng vàng rực của Tây Sắc vật vờ bốc cao sau làn hồng hoàng mộng ảo.

                      Ngay lúc đó, chàng cảm rõ như có một sức phản chấn cực kỳ mạnh tợn từ chỗ phát tiếng "bùng" dội, quật thẳng vào thân thể, nóng rực cả lần giáp trụ, ngấm vào tận tạng phủ, nhanh như bị sét đánh, hai mắt tóe hào quang, tai nghe tiếng "bùng" muốn vỡ màng tai...

                      Và thân hình bắn tung về phía sau, chân bốc lên khỏi nền nhà, lưng đạp vào tường đá đến "huỵch" như trời giáng! Rồi kéo sệt lưng trên mặt tường, hai chân đụng nền nhà, chàng có cảm giác như sắp sụm gập xuống thành một khối thịt mềm, trong một thoáng nhanh như điện chớp, chàng trai vụt cam thấy mình vừa lãnh đủ ngón đòn chính mình đánh ra, vì thoáng thấy mùi thơm quen thuộc tạt thốc vào, phảng phất như có cả mùi máu tanh!

                      Tuy vậy, không sụm, cũng không ngất, chàng chỉ lảo đảo một, hai bước, rồi hãm lại được, nhờ tiềm lực "vẫn dào" trong tạng phủ, mới đánh ra hết bảy phần mười, theo kinh nghiệm chiến đấu của con nhà võ chân truyền, số ba phần mười tiềm lực lưu lại đó cốt để đề phòng đòn địch bất ngờ quật đánh ngay khi mình vừa ra đòn! Nếu không rất dễ gục, chẳng khác một võ sĩ vận hết sức vào cánh tay đấm ra tận lực, nếu không trúng lại bị địch "trả lễ" ngay trúng nhẹ cũng "ao" liền!

                      Thất kinh, Võ Minh Thần vội đổi vị trí, đồng thời vận sức điều giải, hít một hơi mạnh, lồng ngực vẫn nóng ran, mắt hoa mũi ngửi vẫn tanh mùi máu. Bàng hoàng, chàng vội thò tay vào ngực áo, bỗng giật mình thấy áo nóng rực như vừa hơ lửa, thò tay vào túi trong lấy linh đơn, tay hơi run thọc mạnh, thủng luôn túi, kinh dị chàng đưa mấy ngón tay vo thử. Lạ thay, chỗ vải đó nát vụn như miếng vải bị hun lửa sắp thành than!

                      Càng sửng sốt, Võ móc vội được hai viên linh đơn, bỏ luôn vào miệng nuốt nghiến, tiện tay cầm vạt áo giật nhẹ cái, vạt áo đứt phựt ngay một mảng bằng hai bàn tay, xoa hai tay vò thử mảng vạt nát nhừ như tro bột.

                      Cả kinh, Võ thả nắm "bít vải" lả tả rơi như cát bụi, vội đưa tay sờ thử lần giáp trụ, mới hay giáp trụ nóng muốn như sắp mềm chảy ra.

                      Sờ quá vào trong, đụng lần áo có da con Mạc thú may đính vào, càng lạ, thấy như thường, khác hẳn óc chàng tưởng. Vì năm nọ, lên biên thùy Trung Khánh phủ, chàng hạ con "Mạc" theo lối Ngụy Thù nước Tấn đã bóp cổ đến tắt thở, vì con "Mạc" thọ kim khí dưới đất mà sinh ra, ăn đồng sắt như bùn, giáo đâm không thủng, và chàng đã theo phép Triệu Thôi bảo quân Sở lấy hỏa đốt, quả nhiên con "Mạc" mềm nhũn, nhờ thế mới lột được da. Cũng bởi Mạc thú là kim khí kết tinh, kim kỵ hỏa.

                      Nhưng đây sao gặp sức nóng như lửa hun, muốn mềm giáp sắt sao mảnh da con Mạc lại không hề hấn gì? Ngược lại, chàng còn có cảm tưởng chính mảnh da Mạc thú đã che chở cho lồng ngực và hóa giải nhiều sức nóng, vì từ lần áo có da Mạc thú vào áo lót trong vẫn như thường.

                      Nếu không có lẽ chàng đã nguy rồi. Bỗng Minh Thần sực nhớ đến lần bị luồng vuốt kình Giao Long móc thủng giáp vào tận lưng, suýt tán mạng. Nếu sau đó không được cha con Chúa Pi A Ya triệu Thánh Y Mai Hoa Thương Hải Thượng Lãn Ông tái thế cứu chữa, Lãn Ông suýt bó tay, nếu không tình cờ có da xương Mạc thú làm vị thuốc. Và theo lời Lãn Ông xương da con Mạc thú là hợp thế ngũ hành nên đây đã chống lại sức hỏa kình chăng?

                      Không ngờ gì nữa! Chính ta đã bị đòn kình ta dội lại. Kẻ khác có lẽ đã cháy nám đen rồi. Tại sao đánh ta lại dội về? Quái gở! Hay Tây Sắc có phép quỷ làm "gậy ông đập lưng ông"? Nếu quả thế, mạng ta nguy rồi, vì còn dùng cách nào đánh nó được? Nhưng nó đâu?

                      Võ trừng mắt còn hoa dòm vào khu giường thất bảo. Năm ngọn đèn Phù Dung tắt phụt, Tĩnh Viện vẫn sang mờ như có ánh đèn từ đâu hắt tới giữa vùng ánh sáng mờ, làn đỏ hồng hoàng vẫn chăng trước giường thất bảo, nhưng chẳng thấy bóng Tây Sắc đâu nữa.

                      Bỗng làn ánh sáng mờ cũng tắt nốt, Tĩnh Viện chìm vụt trong bóng tối. Lúc này, Võ Minh Thần cảm thấy như trong mình đã hao nhiều điện lực, nhưng tâm thần vẫn tỉnh táo như thường. Lẹ như chớp, chàng trai biết phút nguy hiểm đã kề, lập tức vận luôn khí hàn tiết sương mù ẩn thân, tay lần ống khói bấm nút, xì ra mù nhân tạo. Nháy mắt chàng đã lẫn giữa sa mù, và ngồi thụp xuống nghe ngóng.

                      Im lìm đến rợn người. Chàng thò hẳn đầu ra ngoài làn sa mù, vận nhãn tuyến dòm về phía giường thất bảo nhưng tối om. Nhớ trong mình có mang hỏa pháo, chàng moi ra dộng "bóp" xuống nền đá, cục sáng lòa bắn vọt chếch lại giường. Ánh sáng vừa lóe lên, bay vút vài sải, soi loáng làn đo đỏ. Từ trong làn đỏ, rõ ràng có một cái mõm sói vươn ra táp nghiến ngay cục sáng, tắt phụt.

                      Nó đứng sau làn khói đỏ! Trời! Nó không hề gì! Nhưng sao nó không ra đòn? À! Nó xuất làn huyết khí. Nhanh như chớp, Võ thả vụt ra một ngọn phi đao.

                      Nghe "Chát" một tiếng, phi đao bắn "reng" lên trần. Võ giật mình, thụt vội, vừa toan vỗ báng súng bỗng nghe trong bong tối có tiếng Ma Vương âm vang:

                      - Muộn rồi! Giờ không đứa nào chạm nổi Chúa Sài Lang! Bản lãnh mi cao cường, đánh được cả đòn Khẩu Phong Lôi, Mê Hồn Công... Hà Hà! Mi đánh bao nhiêu, mi chịu bấy nhiêu, mi quên nguồn gốc Ma Vương Sắc. Ma Vương đâu phải xác phàm? Gươm đao súng đạn sao chạm nổi Ma Vương? Hà hà! Không đủ ba đầu sáu tay mi dám vào A Phòng? Đứa nào lọt xuống đây, không có đường lên cõi thế. Dưới đây là cõi âm hồn.

                      Minh Thần vừa hét "Tây Sắc tinh! Ta có điều hỏi mi" bỗng cảm thấy dưới chân hơi động đậy nhẹ, chàng có cảm giác rõ rệt nền đá đang "trôi" như ngồi trên một vật phiêu bay. Chột dạ, Minh Thần vội lùi sát vách, xòe tay áp dính vao ngực bụng như ăn muối. Nhưng vừa co chân lên, lại có cảm giác cả tường cũng "trôi". Minh Thần đang đảo óc tính kế, bỗng "sịch"! Cả căn buồng đảo lộn dốc ngược đầu xuống, hình như quay, chuyển dịch. Vụt cái, cả bức tường chàng đang đứng bất chợt chạy vút đâu mất như giáng tay ra. Võ thất kinh thấy mình rơi vút xuống khoảng không hệt kẻ rơi vào cõi "vô vi" làm ruột gan đảo lộn hẳn.

                      Đầu óc kinh mang khó tả, chàng trai có cảm giác kỳ dị như đang rớt vào một cõi phi phàm không còn trọng lượng nữa.

                      Nhưng chỉ mươi giây, bỗng từ đâu, ánh sáng huyền ảo ùa vào nhãn quang, chàng thấy rõ cả làn khói trắng đục bao quanh mình, lúc đó đầu chàng thò hẳn ra, vì quay đảo, khói mù cũng tan mỏng, Võ thấy đang rớt giữa khoảng không loang loáng, nằm ngang, ngả dọc lộn bậy hoa cả mắt.

                      Bỗng cảm thấy chân dậm phải vật lùng nhùng như tấm lưới, chưa kịp cúi nhìn kỹ đã bị hất tung đi như trái banh bị vợt hất "tiu" vậy. Hình như hất lên, Võ xốn xang gan ruột, vội đề khí, như bị chạm vào một vật lùng nhùng, lần này chạm đầu, chưa kịp hoành thân, lại bị hất bắn đi nữa. Lần này hất xuống.

                      Rồi cứ thế, Võ bị hất tung loạn bậy như xóc giỏ cua, banh tung lưới, hết sức quái gở. Mở mắt, Võ thoáng thấy màu sắc thay đổi lung tung, cũng như các đường nét kỷ hà kỳ lạ luôn luôn hiện ra, theo kịp thân hình bị xóc.

                      Võ tung tay chụp được màng lưới, bíu chặt, nhưng có lẽ bị một bộ máy trục, hay bị sức chi đó, màng lưới hất đi cực mạnh, đứt phựt, hất phăng đi, mang theo cả nắm lưới đứt.

                      Vừa chạm phải màng lưới nữa, màng lưới rút biến đâu. Võ rớt phịch xuống. Ánh mờ vụt biến theo, Võ định thần, đầu óc kinh mang.

                      Vì... chàng đang đứng trong một căn phòng rộng, hay một căn hầm tối, lập lòe đầy ánh lân tinh xanh lè, tứ bề gió gào mưa hú sương khói mịt mù, khí lạnh thấu xương... đúng là nơi trùng trùng âm khí, không chút dương khí. Võ bình sinh là tay lỳ có hạng, vậy mà chợt sa vào vòng âm khí lạnh buốt này cũng phát ớn. Lại sợ bị phóng gươm đao súng đạn, độc khí tà yêu, chàng vội vận công, đặt luôn giáp kẹp cuộn tròn, tức thời di động. Bỗng từ đâu có tiếng âm âm nổi lên:

                      - Mặt sắt! Ma Vương đã có lời nguyền "Kẻ nào lẻn vào A Phòng, sẽ cháy thành than!" Tám hướng thành đồng vách đá, lửa Ma Vương đốt mi! Mi tài cán chi ra khỏi vòng lửa?

                      Rúng động tâm thần, Võ nhìn quanh, chỉ thấy vách dựng thành, biết mình lâm nguy, chàng vẫn không nao núng, phát cười lớn:

                      - Cứ phun lửa đi! Thử xem lửa có đốt cháy được vòng càn khôn trong mình ta không?

                      Chàng cốt đánh vào trí khôn sói tinh, vì biết nó vẫn thèm vòng càn khôn, quả nhiên đã nghe tiếng âm trầm.

                      - Mi thành tro, vòng càn khôn mất vì mi sao! Mi sẽ chết trong gươm đao băm vằm mi!

                      Võ sùng quát:

                      - Tây Sắc! Ta cần hỏi mi điều quan hệ! Chuyện đã chon vùi dưới lớp bụi thời gian... Mười bảy, mười tám năm rồi, ta muốn hỏi... Mi còn nhớ chuyện hấp sát trên biên thùy Thủy Khánh phủ xưa... Một người đàn bà bị con tinh sói có lông bờm vàng hấp sát cực kỳ dã man, dưới gốc cây tùng! Nàng là ai?

                      Vừa nói tới đó, bỗng nghe Ma Vương rít lên cực kỳ giận dữ, như vừa nói vừa gặm từng lời:

                      - Thằng khốn kiếp! Mi dám đem chuyện đó nói với Chúa Ma Vương sao?Biên thùy Trùng Khánh... gốc tùng... Hà há u hù hú...! Biên thùy phân mao, hoàng hôn đỏ úa, con mụ đó, con đàn bá khốn nạn dám nhục mạ Chúa Sài Lang.

                      - Hà hà! Mười tám năm... Không, không! Mới chiều qua! Nàng đứng dưới gốc tùng, ngực nàng trắng ngà, cặp nhũ đanh, đùi búp hoa, lưng ong thắt đáy, tóc sổ tung lồng lộng trong ánh hoàng hôn đỏ khé... Nàng... nàng... Con đàn bà khốn nạn! Hà há! Sao nàng lại thế? Tên khốn kiếp! Mi sao biết nó? Mới chiều qua... nàng... Gươm đao băm vằm mi!

                      Ma vương rú cười như mê sảng bất thần nghe "xoảng xoảng", sịch sịch bốn phương tám hướng gươm đạo tên sắt, giáo sắt phóng ra loang loáng nhắm cả vào làn khói mù sàn sạt hàng trăm mũi một.

                      Giật mình, Minh Thần vội thu mình vào hai vành khiên như con sò. Chát chát! Gươm đao đâm chém vào khiên như mưa rào mạnh hết sức. Nhưng nghệ thuật vành khiên của Võ đã tới mức cao, bao nhiêu mũi nhọn to nhỏ đều rớt xuống như lông nhím. Mấy phút, gươm đao, tên, lao, giáo mác đã rớt vung vãi đầy hầm. Bỗng nghe "xoảng" tiếng bao nhiêu khí giới bắn cả vào chân vách, mất biến như có bàn tay khổng lồ quơ một mẻ. Tiếng âm u nổi dậy:

                      - Ma vương đã có lời nguyền: Đứa nào nói chuyện Trùng Khánh phủ, bị âm hồn đòi mạng! Nó hớp hồn mi! Treo cổ lên xà!

                      Lời dứt bỗng tiếng gió gào mưa nổi lên dữ hơn, "kịch" vách bỗng mở ra một cái tò vò từ trong, một lũ xương ma lêu nghêu khật khưỡng trôi ra, trắng hếu từng chiếc xương ống quai xanh, sọ tròn mắt sâu hoắm lập lòe như hai con đom đóm, mỗi bộ xương cầm một thứ, đứa cầm búa cào, đứa lưỡi liềm... vvv xúm tới chỗ Minh Thần kêu khóc coi phát ghê.

                      Lúc này trong hầm vụt tối om! Nhưng ánh sáng lân tinh từ những hố mắt xương ma chiếu ra soi mờ mờ cảnh trí, giữa vùng sáng tối nham nhở hình thù xương ma trắng hếu khật khưỡng lêu nghêu giơ cánh tay ống sậy xúm lại, níu áo chàng trai như "đòi nợ tiền kiếp" coi thật gớm ghiếc. Thêm vào đó, lại còn tiếng mưa gào gió hu âm khí nặng nề, từ trong hố miệng xương ma phát ra những tiếng kêu rú, than van, cười sặc sụa, khóc lóc tỉ tê, tiếng nghe phi thú phi nhân, phi yêu phi quỷ, tất cả các thứ phi phàm huyễn hoặc đó đè nặng xuống tâm hồn chàng, gây cảm giác gai gai ớn lạnh. Không phải hoàn toàn vì những xương mà, mà phần lớn vì "Bát Quái Biến Hóa U Minh Âm hồn trận" nói chung!

                      Võ Minh Thần biết mình đã sa vào một "bộ máy tinh vi, hóc hiểm, vô cùng lợi hại" của con tinh. Không phải do phép thần thông nào cả, theo Võ đoán là do bộ óc cực kỳ tinh không mẫn nhuệ của nó chế ra, vận dụng cả sức mạnh máy móc hữu hình, tuy bề ngoài mang bộ áo phi phàm quái đản, và Võ hoàn toàn mù tịt trước trận thế bất ngờ bị sa vào.

                      Điều nguy hiểm nữa là thế trận nó luôn biến hóa, lẫn lộn cả khoa học hữu hình, vô hình và đòn đánh ra rất nhanh, không cho Võ kịp thời suy đoán, ứng phó.

                      Cuộn mình trong chiếc áo khiên dày, Võ Minh Thần dụng thuật khinh phù, luôn di động. Nhờ đã chung đụng quen với ma xó, ma gà, hồn âm, tư chất lại thông minh, vừa nhác thấy lũ xương ma mò ra, chàng trai lóe ngay ý nghĩ:

                      - Dẫu mơ hồ, nhưng vẫn có tiếng sình sịch chuyển động đâu đây! Cả nền hầm này xem chừng động đậy, chắc nằm trên một bộ máy chi đây! Tây Sắc tinh dùng chất nhiên liệu nào để "chạy máy"?

                      À! Vùng thượng nguồn Hắc giang này chính sông Đà lắm thác lũ, vụng xoáy, nếu vậy Tây Sắc tinh đã dùng "thủy điện lực" làm nguồn năng lượng chính. Tại các thượng nguồn sông, thổ dẫn thường vẫn dùng sức nước vào việc trồng cấy, dùng nước đóng gạc, xay lúa, máy tát nước vào ruộng vv...

                      Con tinh linh mẫn này chế thành thủy điện cho máy chạy yểm tang, như vừa rồi, nó cho chuyển năng Tĩnh Viện, hắt ta xuống lưới, tung dần xuống đây, đều do cái máy chuyển dịch.

                      Thói thường về âm binh, ma xó bao giờ âm hồn của pháp sư "nuôi" hoặc để nguyên xác ướp còn da thịt, hoặc chỉ là cái bóng vô hình ẩn hiện, đâu có mấy trường hợp âm hồn di động cả xương khô. Chắc đây chỉ là hình xương vô hon, hay bằng kim loại chi đây. Nếu ta dùng "ấn quyết" tất bị nó đoạt thời khắc áp lại!

                      Nghĩ thế, nên Võ Minh Thần vận dụng điện kình, quật thử một nhát phản phong vào ba, bốn bộ xương đang lướt tới. Bùng! Chát! Cả máy bộ xương bị đánh bắn tung vào vách, nằm song xoài, có bộ bẹp dúm nằm im.

                      Nhưng từ mấy phía, lũ kia đã ào ào kéo lại vây quanh mình. Võ Minh Thần ghé mắt dòm qua lỗ kiến, chàng trai chợt nhận thấy lũ xương người này cử động không giống nhau, Minh Thần chợt sực hiểu lũ xương ma này chia mấy loại, chàng lập tức vừa vung phản phong vừa ra mê công vừa đánh hỏa kình, tùy theo từng loại, quả nhiên sau mấy phút "vanh khiên" chàng đã hạ gần hết lu xương ma nằm ngổn ngang đầy căn hầm tối, mắt lân tinh vẫn sáng lập lòe, đúng mắt phát dạ quang.

                      Còn chừng năm, sáu bộ nữa, Võ chưa kịp "dọn" nốt, chúng rùng rùng bỏ chạy, ào một luồng gió dữ, xương ma bị quét sạch, có tiếng khan âm vọng ra:

                      - Mặt sắt giỏi! Trận Âm hồn biến hóa còn nhiều, nếu mi phá nổi, Ma vương sẽ tha chết cho.

                      Minh Thần hét:

                      - Tây Sắc! Có giỏi chường mặt ra đấu chiến! Mi quái thú thành tinh hấp sát tàn hại sinh linh, cũng sợ ta hay sao? Tây Sắc Hồng Cẩu Quẩy! Ta muốn hỏi mi về vụ hấp sát người đàn bà Thái trắng trên biên thùy Trùng Khánh.

                      - Tên khốn kiếp! Không được nói càn! Mặt trời to bằng cái mâm đồng nung, ánh hoàng hôn nhuộm đỏ vùng phân mao... Ha hú! Càn khôn, càn không hựu càn khôn, càn khôn biến hóa! Ha há! Mười chín năm càn khôn biến hóa thập sinh nhất tử? Hù ú u hù...

                      Tiếng con tinh từ đâu vọng vào như trong cơn mê sảng. Võ Minh Thần ngạc hiên hét "Tây Sắc đâu! Nghe ta hỏi, ta là...". "Kịch!" Có tiếng đá phiến chuyển dịch, xế phía hong Minh Thần bỗng hiện ra một khung cửa tò vò.

                      Sáng xanh lè, từ trong tuôn ra hàng chục bóng người đen thui, lơ lửng giữa không khí, tản mác khắp hầm, lòa xòa, kéo dài ngoắc, mặt hiện to dần, to bằng cái thớt, đỏ như mặt trời, nhất loạt vồ lại bóp cổ Minh Thần.

                      - Âm hồn! Đây chính lu ma trành bị con tinh ăn thịt, bắt hồn về làm nô lệ đây! A xem ý con tinh chua tứ túc này định ra đòn từng cửa một để ta hao tốn chân khí cho nó dễ bề bắt sống! Tình thế ta giờ như cua nằm trong giỏ, không thể kéo dài được.

                      Chàng tuổi trẻ hét lên một tiếng đầy uy mãnh, cuốn lưỡi đọc chú, đưa tay bắt quyết, cắn chót lưỡi, thình lình mở rộng cặp khiên, quát lên mấy tiếng, phun phì phì mấy cái! Tay quyết Minh Thần cao lạ, vừa đánh ra bỗng nghe tiếng kêu rú thê lê đau đớn, khác thường, âm phong âm khí đang kéo tới bỗng ào lùi xa hút, thoáng trong vùng sáng tối nham nhở thấy bóng âm hồn lờ mờ nhân ảnh vụt thu nhỏ lại, lao vào cửa tò vò biến sạch.

                      Kịch! Cửa tò vò đóng lại. Hầm tối om, bỗng nghe tiếng Ma vương cười rú:

                      - Hà hà! Cho mi vào "hồng thủy trận" coi mi trốn cách nào? Loài người chu kỳ một đã bị diệt vì "hồng thủy trận" nay mi có chết cũng là may mắn, mi được nếm mùi tận thế. Hà hú!

                      Tiếng cười vang rền tiếp liền hai tiếng "Đùng đùng", tả hữu chợt mở ra hai cái cửa tò vò đỏ như máu, rồi bất thần cả căn phòng bỗng rung chuyển vì những tràng sấm nổ ầm ầm, chớp xẹt xẹt loằng ngoằng gió giật dữ dội.

                      Rồi giữa cảnh chớp lòe sấm động, gió cuồng mưa tuôn xối xả, nước từ hai khung cửa tò vò cuồn cuộn tuôn vào như hai dòng thác lũ. Trong nháy mắt, căn hầm vụt thay đổi hẳn, coi thật khủng khiếp.

                      Bốn mặt tám hướng thành vây kín, không khác bị ném vào lu nước, đậy chặt lại. Vào trường hợp kẻ khác dẫu tay có thượng thừa cũng thấy rõ tử thần đang kéo tới theo dòng thác, nhưng Võ Minh Thần lại khác hẳn.

                      Võ thoáng hoang mang mươi khắc đầu, khi chưa rõ "hồng thủy trận" Tây Sắc Ma Vương ra sao, giờ chàng có thể yên lòng vững trí. Và chỉ suýt nữa, chàng tuổi trẻ đã bật cười khanh khách khi thấy Ma vương tuôn nước định dìm mình chết ngộp.

                      - A... Hồng thủy trận Ma vương tưởng chi chứ. Dâng nước dìm chết đuối với ai, chứ với ta, đệ tử Xích Quỷ Liên Hoàn Ngũ Đầu Nam, thủy trận bằng thừa. Cho mi dìm cả ngày đêm ta cũng bất chấp.

                      Võ Minh Thần thu mình quan sát, lại sợ nó giở thêm ngón gì nguy hại. Chàng trai vội "vanh" khiên qua cửa tò vò, dòm, miệng vờ cười thất thanh:

                      - À! Tây Sắc tinh quả thâm độc đúng loài lang sói? Không dám đường đường giao chien, dùng nước lụt hại người!

                      Cửa tò vò, dòng thác lên cao dìm vào thấy sâu hút, chỉ sáng chừng vài chục bộ, bỗng nghe tiếng Ma vương cười ré:

                      - Nếm mùi hồng thủy trận đời tận thế là mi có phước lắm! Sao không chạy đi? Võ mắng lớn, xẹt dọc ngang, chàng thừa hiểu cửa tò vò đầy cạm bẫy, chẳng dại gì chui vào. Nước chảy cuồn cuộn, mưa tuôn ào ào, phút chốc đã ngập hầm, mực nước chỉ cách trần nửa gang.

                      Rồi chỉ trong nháy mắt, mưa sa nước lụt đã tới sát mắt chàng trai, đầu đã đụng trần. Vẫn sợ Ma vương giở đòn độc tiếp, chàng phải cố vùng vẫy bơi lội, đợi cho nước dâng ngập hết căn hầm. Biết nó vẫn ẩn quanh, chàng vùng cất tiếng mắng lớn.

                      - Tây Sắc khiếp nhược! Có giỏi ra đấu chiến với ta. Tiếng Ma vương cười ác độc:

                      - Đâu rồi, mi còn muốn gì nữa! Ta muốn xem mi giẫy chết trong "hồng thủy trận"! Hà há! Mi chết như đời tận thế. Kẻ nào lẻn xuống A Phòng Cung đều phai chết! Chết!

                      Âm gai kéo dài sạo gợn ầm ầm sấm động chớp lòe, mưa sa nước cuộn, tiếng cười Ma vương chưa dứt, mực nước đã đụng trần dìm trọn chàng trai dưới hầm thủy trận.

                      Như cá gap nước, Võ Minh Thần lập tức xếp khiên đeo sau lưng, bắt đầu cuộc thám sát. Đưa tay ấn thử trần, trần rắn như vách núi, Võ Minh Thần lặn xuống đáy hầm, dò thử mấu chốt cơ quan, nhưng bốn bề vẫn như vách sắt, không lay chuyển nổi, vì đó là vách đá thật dày, trong có lẽ lần xi măng cốt sắt nữa, vô cùng kiên cố. Và nhẵn thín, chẳng tìm thấy mấu chốt nào cả.

                      Quanh mình Võ Minh Thần, nước vẫn chuyển động mạnh, như biển sóng ngầm. Nước đỏ như phù sa sông Hồng mùa hạ. Mở mắt ra, chẳng thấy chi cả. Sợ có thuốc độc, chàng phải vận khí bế chặt huyệt đạo.

                      Nhưng sau mấy phút thám sát, bỗng nhiên Võ Minh Thần rùng mình liền mấy cái, như bị hàn khí ngấm vào.

                      Ngạc nhiên, Minh Thần vội ngồi xếp bằng tròn, vận hỏa lực cho ấm người. Lạ thay, chàng cảm rõ hơi thở không được chắc gọn như trước. Và rõ ràng, chân lực càng lúc càng hao mòn hệt kẻ ngộ độc. Bất giác, Minh Thần nghĩ nhanh:

                      - Hầm có khí độc? Hay nước đỏ này pha độc dược? Hay ảnh hưởng đòn huyết khí hồi nãy trên Tĩnh Viện Mê Hồn? Bất biết thế nào ta cũng nhiễm độc rồi. Không ngăn chống lại được, chắc ngất gục đến nơi.

                      Thử vung tay lao vụt mình, Võ Minh Thần càng kinh dị, thấy rõ sức đã giảm khá mau, không còn mạnh mẽ như hồi mới lặn xuống Hắc Giang nữa.

                      Thoáng giây, chàng tuổi trẻ thấy ai oán cực kỳ, khi nhớ di hài mẹ vẫn đeo sau lưng, mối thù chung thân chưa báo nổi mà gốc nguồn thân thế vẫn mịt mờ chưa tìm được một tia sáng nhỏ. Chàng thấy hối hận vì không đánh phủ đầu ngay lúc con tinh đang nằm hút, nhưng ý hối đó chỉ thoáng qua, khi nhớ đến đòn phủ đầu của thầy trò cô gái giả Mèo Tây Phi vừa qua.

                      - Không còn nghi ngờ gì nữa! Cứ sau mỗi tuần trăng, con nước, tài nghệTây Sắc Ma Vương lại gia tăng một bậc. Hình như nó luyện được bí pháp trong vòng càn khôn thì phải?

                      Trong thien hạ, có ba cái vòng, tất nó giữa được một hoặc hai, và đã đọc được thứ chữ tượng hình kỳ dị kia! Có lẽ phải làm cách nào đọc được chữ đó mới chế ngự được Ma vương? Nhưng nay, ta đã bị nó nhốt trong hầm nước, còn gì! Chân lực đang hao hụt...

                      Càng nghĩ càng bối rối, uất ức, Minh Thần phải trấn tĩnh tinh thần cho khí lực khỏi phát tán.

                      Giữa tiếng sông nước ầm ì như "sôi bụng" bất thần nghe tiếng ầm ầm giọng khách Quảng Đông bên tai:

                      - Thầy à? Sao thầy ngồi đây? Giật mình mừng rỡ, Võ Minh Thần che miệng, hỏi trong họng:

                      - Xó thấy đó ư? Thầy bị con tinh sói nhốt vào trận âm hồn, phá mấy cửa rồi, nay đến hồng thuy trận, nó dâng nước dìm thầy. Tứ bề đóng kín, chân lực hao mòn, thầy đang điều dưỡng! Thầy trò cô gái đâu?

                      Tiếng âm ầm đúng giọng "Xó khách" rót vào tai Võ:

                      - Thầy à! Ngộ đưa hai người đó chạy ra phía ngoài rồi! Tới cung A Phòng, ngộ quay lại tìm thầy. Nó thả "Trành sói" ra từng đàn, thầy nên chạy đi, sau sẽ liệu à! Cái cung này ghê gớm lắm!

                      Thở dài, Võ bảo "con xó trung thành"

                      - Nó dìm nước, trong thành đồng vách sắt chắc quá, pha không nổi! Thầy chưa biết tính sao đây?

                      Tiếng xó âm u:

                      - Để ngộ đi tìm mở cửa đưa thầy ra!

                      - Coi chừng "bùa khoán"! Im! Bên tai Võ chỉ còn tiếng "sôi bụng", nhìn tứ bề, vẫn một màu đỏ phù sa, chẳng thấy vật nào. Võ cung mừng vì nước đục, Ma vương càng khó kiểm soát được cử động bên trong. Khoảng năm phút nữa, bỗng nghe bên tai có tiếng "xó khách" âm âm:

                      - Thầy à! Tìm được "Cửa sinh" rồi! Nhưng ngoài có hai con "Trành" canh,nó nấp trong kẹt đá, thầy phải cẩn thận à! Để "xó" đưa thầy ra ngay!

                      Bỗng trước mặt Võ, hiện lên một ngọn đèn xanh mét bằng hạt đậu, chàng trai bơi theo liền, bốn bề nước réo cuồn cuộn ầm ì âm ba quái gở. "Ngọn đèn ma" dẫn Võ lướt vòng sang tay phải, chẳng rõ hướng nào, thoắt đã đụng vách hầm

                      - Coi chừng "nó" thấy! Sao "xó" không tắt đèn xanh đi, hiện làm gì?

                      - Nhiều thứ chết người ngoài này, thầy phải theo sát, coi chừng đụng phải Có tiếng cửa nặng nề mở ra, tiếng nước chảy ập, Võ Minh Thần lao vụt theo ngọn đèn như con các phóng, khoảng hai, ba cái nhoài, phía sau nghe cửa đóng lại nước dốc theo.

                      Võ ngoi lên, thấy mình đã đứng giữa một đường hầm tối thui, nước ngập tới bụng rút cuồn cuộn thoắt đã vào hầm hết. Mới hay chỗ này ăn dốc lên.

                      - Đi mau lên thầy! Chớ đụng vách "Cửa sinh" ngoài kia! Khu này vẫn nằm trong mấy cái khối vũng nước này, tới bàn chông, thấy phải đi lên mũi nhọn à! Giẫm xuống dưới không được.

                      Ngọn đèn ma lừ lừ trôi trong bóng tối. Võ vận khinh thân lướt theo, quả nhiên tới chỗ khô đã đụng "bàn chông". Chàng cúi xuống sờ thử mới hay đường hầm toàn giáo nhọn đâm lên, cách nửa thước một.

                      Trong đêm tối, Võ phải dùng chân khua từng mũi giáo tua tủa trước khi bước đi. Chẳng may lúc này chân khí hao mòn, trong người lạnh lẽo, chân tay không được thuận như trước, đi được vài thước, bất ngờ giày đế trượt mũi giáo, giẫm xuống nền hầm. Tuy chỉ khẽ đụng, nhưng bỗng thấy đường hầm rung chuyển, ầm ầm có tiếng chiêng trống cồng đồng khua vang dội, vẳng có tiếng Ma vương hét từ chỗ xa vào:

                      - À tên mặt sắt đã thoát ra ngoài trận. Đứa nào mở cửa? Trành! Trành! Chặn cách ngả bắt nó! Chúa tới ngay! Nó thoát lối "Cửa sinh"!

                      Tiếng Ma vương hét vang trong hầm, Võ Minh Thần nghe rõ mồn một không khác "nó" đứng ngay cạnh. Chàng trai vừa dò dẫm đi thêm được, bỗng thấy đường hầm sáng rực lên một thứ ánh sáng đỏ khé như máu pha, rồi thấy cả đường hầm chuyển động, rung rinh như muốn chạy chỗ khác.

                      Thất kinh, Võ Minh Thần đảo mắt quan sát thấy rõ những hàng giáo mọc ngược tua tủa từ dưới nền đâm lên, như lông nhím, nên chỗ cao chỗ thấp không đều, chẳng rõ đường chông còn bao thước nữa.

                      Nhưng hầm đã bắt đầu chuyển sình sịch, bên tai có tiếng "Xó khách" giục "Mau lên! Nó tới nơi!" Võ Minh Thần biết tình thế đã hết sức ngặt nghèo, chậm sẽ nguy, chàng vội vận tăng thuật khinh phù, lao vụt trên mũi giáo.

                      Ngọn đèn ma xanh mét vẫn trôi lơ lửng trước mặt. Khi Võ vượt thân được mấy hàng giáo nhọn, bất ngờ thấy rõ các ngọn giáo dưới chân động đậy khác thường, rồi rõ ràng hai bức tường thép lừ lừ ép lại. Chỉ mấy khắc, trước mặt chàng, đường hầm rộng hơn thước, thoáng chỉ còn một nửa. Mà hàng giáo ngược vẫn còn mọc tua tủa chẳng biết bao nhiêu mới tới cửa.

                      Tình hình nguy ngập, Võ Minh Thần đang chạy lập tức dùng sức đạp nghiêng mũi giáo, hai tay giang rộng, đẩy mạnh vào hai bức tường vách, bắn vụt đi như mũi tên lao.

                      Vút! Thân hình chàng lướt đi, dưới chân giáo nhọn chạy lùi vùn vụt, nhưng rõ ràng trước mặt, đường hầm cứ thu hẹp lại mãi. Khi Võ vượt được hơn chục thước, chàng không khỏi thất kinh, nhận ra đường hầm chỉ rộng hơn thân thể chàng chừng gang tay. Cảm giác lúc này thật kinh mang, Võ quật mạnh hai bàn tay sờ vào vách lấy thêm sức vọt.

                      Nhưng vừa lấn lướt đi, phía trước đường hầm đã thu lại vừa thân thể, chàng vội xoay nghiêng người vụt cái, cảm rõ ngực lưng cọ xát vào vách sắt, tưởng chừng như sẽ bị ép lại, vì sức nhảy vọt đã hết. Thân hình dừng lại, rơi xuống nghe kịch, tiếng nặng bên tai. Võ chú mục nhìn mới hay vách đã đã bị khép chặt lại, mất tiêu đường hầm sau lưng, và chàng đã đứng trước một đường hầm khác nằm ngang trước mặt, rộng và cao vút.

                      Hú vía! Võ thở phì, theo "đốm đèn ma" xoay mình, chạy vụt về phía hữu. Được hai bước, sực nhớ lời "Khách xó", chàng lập tức kìm phắt lại, đánh vụt ra một đường "quyết" đầy uy lực, thốc vào vách đá. Đánh xong mới kịp nhìn kỹ, bỗng nghe tiếng rú ma âm, từ trong kẹt đá, một hình thù vừa bước ra, bị đánh bật vào hốc như hình nhân mộc. Võ tiến vụt qua. Trong hốc có đựng một cỗ quan tài bằng thủy tinh, xác "Trành" ngã ngửa, mắt nhắm nghiền! Ánh sáng ngoài này vẫn màu máu khé, coi như ánh hoàng hôn úa. Đang chạy, bỗng nghe rõ tiếng Ma vương tru hú sởn óc vở phía sau, tiếp liền hàng trăm, hàng mấy trăm tiếng chó sói tề ưu nhọn hoắt khắp mấy phía. Nhưng nghe âm, hình như cũng còn xa chút. Trong cơn khẩn cấp, Vo Minh Thần nghĩ đến thù mẹ, và những người oan thác đã toan dừng lại đánh trận nữa, nhưng cảm thấy chân lực hao mòn hết mấy phần mười rồi, chàng lại nhớ đến lời khuyên của chúa tể "Mười vạn núi", nên cố nén, bỏ ý liều mạng, cố dụng thuật khinh phù chạy theo "ngọn đèn ma xó Khách" Lúc này mới hiểu sức vô hình linh mạng lạ thường. Ngọn đèn xanh trôi vù vù còn lẹ hơn đom đóm bay trên gió. Minh Thần đuổi theo không nổi. Rất may là trong khi dẫn thầy trò cô gái giả cha con Tây Phi Lan, con xó khách này đã khám phá ra đường trận chuyển, nên không bị sa vào cạm bẫy, cứ dễ Minh Thần chạy như gió. Quanh co, lên xuống qua nhiều đường hầm, phòng tối, thoắt Vo Minh Thần đã thấy đứng trước một vòm tinh tạo trước mắt không thấy gì cả. Chàng định thần vươn cổ đảo mắt quan sát, thấy mình đang đứng ngay đầu dãy hành lang trên cao độ ba mươi bộ, xế dưới là một khu bãi khá rộng mờ mờ có nhiều hoa cỏ. Bỗng nghe tiếng âm bên tai:

                      - Ra khỏi Cung Mê Hồn, trận Âm Hồn của "nó" rồi! Thầy nhảy xuống mau!

                      Lời "xó Khách" vừa dứt, Minh Thần cũng nhận ra bóng điếu kiều thấp thoáng vắt cao, bên kia bãi cỏ hoa kỳ lạ, không dám chậm, chàng cất mình nhảy vèo xuống ngay.

                      Chạy băng ngang bãi, được mười thước dòm lại, nhận thấy ngay khung cửa tò vò phía sau hồi nãy chàng đột nhập. Nhưng khi Võ vọt được lên điếu kiều, đã nghe tiếng Ma vương hét nhọn hoắt:

                      - Hồng Cẩu Quẩy! Chớ để nó thoát! Nó chạy lên điếu kiều? Tiếp theo từng tràng tru sởn óc, từ ngoài Mê Cung, vụt hiện ra hình thù đỏ khé, cao lớn dị thường, hình con sài kíu Chúa. Võ Minh Thần đã được chứng kiến sức lợi hại dị thường của vầng huyết khi sực thấy Ma vương xuất hiện với bộ "Huyết giáp" chàng thêm rung động tâm thần, nhận ra vầng huyết khí lúc này có điểm khác. Hồi "nó" phá "Bát Quái Mê Hồn trận" Pi A Ya, vầng huyết khí dày, đặc sệt đỏ đậm trùm hết thân xác "nó". Giờ vầng khí đó trong hơn, màu nhạt hơn. Đứng xa có cảm tưởng như Ma vương đứng trong một cái lò thủy tinh đỏ lờ vậy, trong thấy cả hình thù sài lang mờ mờ bên trong, tuy chưa rõ hẳn nhưng cũng rõ hơn hồi "nó" phá trận Pi A Ya. Trong tia chớp trong trí, Võ hiểu ngay sức tiến bộ phi phàm của "nó" trong thời gian chàng đi học thuật, chàng tiến mot bước, nó lại luyện vượt lên những hai bước, và có lẽ tới mức nào đó, vầng huyết khí kia sẽ trong vắt tới mức vô hình vô ảnh, thường trực, và lúc đó, "nó" sẽ đạt được một chuyện chỉ cực kỳ quan hệ trong cõi càn khon mà xưa nay chưa mấy ai đạt được. Nhiều phần chắc chuyện bí mật đó xuất phát từ vòng càn không kỳ diệu kia, mà chàng hiện giữ một những chưa đọc được thứ chữ tượng hình quái gở trong ruột vòng. Ngay lúc đó, từ cửa to vò, chó sói tuôn ra hàng đàn hàng lũ, phỉ như cơn lốc đáp xuống, hai con mắt đỏ khó lập lòe sau làn huyết khí như hai ngọn đèn tinh. Nhanh như cắt, Võ Minh Thần phóng vụt qua điếu kiều. Điếu kiều vắt qua dãy nhà "mỹ nữ đơi" chạy qua một hoa viên, nhưng khi Võ vừa tới giữa điếu kiều, đã khựng lại, bối rối, vì thấy hàng chục mụ đàn bà mập xách súng, mang đao thương hầu móc dẫn từng đàn sài kíu từ mấy ngả ào tới, dưới vườn hoa, trước đieu kiều trên các mái thạch thất, chỗ nào cũng bị chặn kíu, mà sài kíu đông như rươi, có lẽ từ trên A Phòng cung thấy động kéo tới. Đàn sói nhe nanh múa vuốt, lũ đàn bà mập Dạ xoa lăm lăm tay súng, chỉ chực thấy là nổ liền, sau lưng lại Sài lang Chúa sói nữa, tình cảnh thật hiểm nghèo. Dòm sang bên, thấy có một đường đạo phụ chạy dưới tàn cây, Minh Thần vọt luôn sang, làm đèn ma cũng trôi táp lại, tắt phụt.

                      Điếu kiều chạy qua mái nhà, tới một khu khác. Sợ đứng cao bị lộ, Võ nhảy vèo xuống dưới. Đây là một khu vực tĩnh hết sức, hoa cỏ tốt tươi, lại có cả lạch nước róc rách. Minh Thần chạy trong cảnh mờ mờ như sáng trăng, vừa tới trước một căn phòng có ánh sáng le lói, trông lên phía tả, đã thấy bóng Ma vương huyết khí đứng sừng sững lố nhố đầy sài kíu, Dạ xoa vây quanh đứng chật cả mấy khúc sàn đạo. Thấy Ma vương dòm xuống, chàng trai lách luôn vào khung cửa khép hờ.

                      Trong cơn khẩn cấp, Võ Minh Thần chỉ kịp thoáng thấy khi nhà này xinh xắn lạ thường, dưới làn ánh sáng tinh đạo, chỉ riêng gian này có ánh đèn le lói. Ngay khi lách vào, chàng đảo mắt trong qua, thấy vắng lặng như tờ, ẩn sau khe cửa dòm lên điếu kiều vẫn thấy bóng Ma vương thấp thoáng với đàn sài kíu. Bỗng nghe rõ tiếng "nó" tru rống nhọn hoắt:

                      - Mặt sắt nấp đâu đây, chưa chạy được xa. Đánh hơi tìm cho được. Xuống dưới coi. Nó lặn như cá, sục lạch. Nó cũng có thể lẻn vào buồng vắng.

                      Minh Thần nghe rõ mồn một, lòng đầy hồi hộp, vừa mừng vừa lo. Khắc trước thấy lạch nước chàng đã toan nhảy xuống, nhưng sợ "nó" đoán ra, lại thôi, vào đây, cũng chẳng kín gì. Chàng đang bối rối, bỗng thấy đàn chó sói cùng mấy mụ Dạ xoa từ trên điếu kiều phóng xuống.

                      Hoảng hốt, Võ Minh Thần quay nhìn vào, thấy phía trong có khung cửa có che bức rèm trúc, chàng phóng vụt ngay vào.

                      Nhưng vừa vén rèm lao m
                      ình vào, bỗng chàng trai giật nảy mình, kìm phắt lại, vì suýt đụng phải một người đàn bà đang thoăn thoắt đi ra. Người này cũng giật nảy mình, kêu ối đứng khựng lại.

                      Sợ nang la lên, Võ Minh Thần xua tay nói nhỏ "Suỵt! Mỗ ẩn nhờ chút", và nhanh như chớp, chàng vươn tay chụp véo vào huyệt nàng ta.

                      Thủ pháp chàng hết sức thần tốc, nào dè người đàn bà đã xoay vụt nửa vòng nhanh lạ thường làm Võ vồ hụt. Hơi sửng sốt, Võ vừa toan thổi đòn Mê Hồn Công, bỗng thấy nàng xua tay, thỏ thẻ:

                      - Khoan! Chớ ngại! Thiếp không có lòng hại người đâu! Phải người trốn chạy?

                      Chẳng hiểu sao Võ Minh Thần nghe giọng nàng chợt thấy yên tâm khác thường. Chàng xẹt sang bên nói nhanh:

                      - Vâng! Ngu mỗ đang bị Chúa Sài lang đuổi bắt ngoài kia. Mong cô nương im.

                      Miệng nói, tai lắng nghe bên ngoài, mắt nhìn người đàn bà. Mãi khắc đó, chàng mới kịp nhận ra đó là một thiếu phụ, hay thiếu nữ không rõ vì nàng búi tóc, đầu đính mảnh khăn vóc che rũ trước trán và mặt nàng co bịt một mảnh nhung đen, mình khoác áo choàng tựa "Kimono" Nhật cũng bằng vóc đỏ, dáng hình thanh tú, yểu điệu đầy nét quý tộc, chân đi dép dừa quai nhung có bông đỏ. Tuy bịt ngang mắt nhưng vẫn lộ sống mũi dọc dừa miệng tươi như hoa nở, khi nói phô hai hàm răng như ngọc vụn, đặc biệt là từ giọng nói, cử chỉ dáng điệu đều toát lên vẻ cao quý trong sáng của gái đài trang, tuyệt không lộ vẻ gì là điêu trác lẳng lơ, nguy hiểm.

                      Và mãi khắc đó, Võ mới thoáng để ý thấy cái áo choàng chừng thắt vội, chừa nẹp áo phía trên chưa che hết khuôn ngực ngà trắng như mỡ đọng mùa đông... Hình như nàng vừa tắm, mùi xạ lan tiết ra còn thoảng lẫn cả mùi nước thơm rễ "nhang bài", hay kỳ hoa dị thảo chi đó.

                      Nữ lang ngó Minh Thần trong lốt mũ trụ giáp sắt, bỗng ánh mắt thoáng tối lại nét lo âu, nàng khẽ hỏi:

                      - Phải ông vừa đấu chiến với Sài lang Chúa? Hình như mới thoát "Hồng thủy trận âm hồn"? Bị đòn huyết khí?

                      Sửng sốt, Võ Minh Thần gật đầu. Bỗng nghe tiếng sói tru nhọn hoắt bên ngoài, lẫn tiếng chân người, thú chạy rầm rập. Minh Thần đột lòng, dáo dác ngó quanh, nữ lang liền điềm tĩnh khẽ bảo:

                      - Chớ ngại! Ông vào trong này mà nấp! Để mặc tôi liệu. Tần ngần, Võ khẽ hỏi:

                      - Bà... bà là ai? Bà là...

                      - Không quan hệ! Tôi giúp ông trốn tránh đủ rồi! Dứt lời, nàng quay phắt ra, để mặc Võ đứng ngơ ngác bâng khuâng với trăm ngàn ý nghĩ vẩn vơ.

                      Nhưng bên ngoài, sói rầm rập đã ke gần, vẳng nghe có tiếng một mụ Dạ xoa sói the thé:

                      - Sục kỹ các nơi coi! Cung còn sáng đèn, để xem còn thức không? A! Kia rồi!

                      Giữa tiếng nhộn nhịp vẳng nghe có tiếng nữ lang cất lên thánh thót như tiếng suối đàn:

                      - Bọn người làm chi đó? Sao đêm hôm lại dẫn quân thú vào đây làm huyên náo thế?

                      Tiếng chân rầm rập, tiếng soi tru, người nói, bỗng im bặt rồi mơ hồ có tiếng một mụ Dạ xoa vọng vào, nhỏ hẳn, nghe tiếng được tiếng chăng:

                      - Kính... nương nương... có... gian tế... phá cung... tới điếu kiều... lẩn mất... sợ nó lẻn trốn... đây... lệnh Chúa...

                      Im ngay khắc, nói chi không nghe rõ, sực lại nghe tiếng huyên náo trở lại, hình như có cả tiếng Ma vương, từ xa cao vọng tới, và tiếng động như kéo vào phòng.

                      Giật mình, Võ Minh Thần không dám nấn ná, lập tức chạy vù lại trước tủ gương, mở vội cánh tủ, bước vào.

                      Bên trong treo đầy y phục nữ, mùi thơm thoang thoảng hăng hắc mùi da thịt mỹ nhân khiến chàng trai vụt có cảm giác bàng hoàng khó tả. Đóng ập cửa vào, chàng vén xiêm y, sờ soạng, loay hoay mấy khắc, kéo được lần gỗ ghép trong, quả nhiên ngay vách tường, có một khung cửa bí mật. Không do dự, chàng chui luôn vào, kéo đáy tủ che kín lại.

                      Ngách buồng tối thui, Võ đưa tay sờ soạng thử xem rộng hẹp. Bỗng giật thót mình, chạm phải một người đứng sừng sững:

                      - Ai? Không tiếng đáp, Võ liền bẻ sáp bọc, lấy diêm đánh xòe ánh lửa lóe lên, soi thấy một cô gái Thổ mặc phá lãnh thủy ba kim tuyến. Đúng hơn là một cái thây ma, nàng Thổ xinh đẹp mắt mở trừng trừng như một xác ướp. Võ lùi lại, vụt bấm cung toan bắt ấn. Bỗng có tiếng nữ âm âm sau lưng:

                      - Cái người đàn ông cứ trốn đó. Chủ cho vào, "xó" không vật mà? Võ bật "à" đứng lùi sát vách căn buồng kín độ ba thước vuông. Thì ra đó là con "xó" của nữ lang kia nuôi. Căn buồng như cách biệt hẳn, nhưng tai Võ vẫn nghe văng vẳng tiếng động bên ngoài, như tự xa lắm. Chừng mấy phút sau, bỗng nghe có tiếng chó "hộc hộc" bên ngoài vách, khắp mấy phía lẫn tiếng cười nói âm âm, rồi tiếng huyên náo xa dần, bốn bề lại rơi vào im lặng thẳm sâu. Mười phút rồi mười lăm phút nữa. Hình như chúng đã bỏ đi.

                      Đứng trong xó tối, cạnh "con xó cái" Võ Minh Thần nghĩ vẩn vơ về tình cảnh mình, tủi nhục dâng lên tức cả lồng ngực, đầu óc muốn bửa đôi.

                      - Mười bảy, mười tám năm luyện kỳ công dị thuật, cục kỳ vất vả, nhọc lòng nhọc sức, bao bậc thương cảm bao dung, nuôi dưỡng truyền bí pháp! Vạn dặm đăng trình, lên non xuống nước, lặn lội canh khuya rừng vắng, động thẳm khe sâu, mưa phùn gió bấc, nắng lửa mua dầu... để cuối cùng bị kẻ đại thù trấn nước, đả thương, phải chạy trốn nhờ cửa đàn bà trong cung quái. Mười bảy mười tam năm di hài mẫu thân oan thác nằm trong quan lạnh, đợi rửa nhục hờn, giọt máu còn sót lại diệt cừu báo oán, để cuối cùng thi hài vẫn chưa được siêu sinh. Đến nguồn gốc vẫn mịt mù, chưa tìm nổi một tia ánh sáng...

                      Mẹ ơi! Xin tha tội cho con bất tài không rửa nổi đại thù chung thân. Lòng quặn đau, xót như muối xát, chàng tuổi trẻ uất ức muốn trào máu họng, lảo đảo tựa vào vách. Lại nghĩ vẩn vơ về nữ chủ căn phòng, chàng càng thêm khó hiểu. Nàng là ai? Nãy Dạ xoa gọi "nương", có lẽ "nương nương"? Sống ngay trong Cung A Phòng, lại ở khu riêng biệt gần khu Tĩnh Viện Mê Hồn, nhất định nàng phải có liên hệ với Ma vương. Vợ nó? Phi, Tây Hậu chăng? Mỹ nhân sủng ái chăng? Hay là nữ thượng khách của Ma vương? Điều nào cũng có thể được. Nhưng vợ nhất là nàng phải thân với Sài Lang Chúa... Mà sao nàng lại cứu ta, kẻ tử thù đang bị Ma vương săn đuổi. Lạ thật? Điên đầu! Đang nghĩ loanh quanh, bỗng nghe có tiếng gọi nhỏ ngoài tủ gương:

                      - Ông khách, ra được rồi!

                      Nhận ra giọng quen quen, Minh Thần mở luôn cửa tủ hai lần bước ra. Nữ lang đứng dưới ánh nến lung linh, nàng cười bảo:

                      - Giờ ông có thể ngồi nghỉ như thường. Chúng bỏ đi phương khác rồi. Mãi lúc này, Võ Minh Thần mới hoàn toàn yên tâm, hiểu người đàn bà này cứu mình thật, lòng cảm động, chàng trai bước lại trước mặt nàng, dùng tiếng Thổ khẽ nói:

                      - Cám ơn bà đã cứu giúp! Ngu mỗ thật mang ơn, biết lấy gì đền đáp! Nữ lang nhếch miệng cười buồn buồn, thỏ thẻ bảo:

                      - Giúp ông chỗ nấp là chuyện nhỏ nhặt đáng chi ông phải lưu tâm! Coi hình như ông không được mạnh, ông cứ ngồi nghỉ, tôi đi lấy nước.

                      Vừa nói nàng vừa trỏ ghế mời, nói xong bỏ đi luôn. Võ Minh Thần đưa mắt nhìn kỹ căn buông xinh lịch, thấy có giường thất bảo, màn "tuyn" vắt, nệm, gối, chăn đều bằng gấm Thượng Hải, ngoài các món đồ trang trí rất lạ với những đường nét kỷ hà phảng phất vẻ phi phàm sát vách, xế đầu giường có cái bàn nhỏ với hai cái ghế rất xinh, coi hình thể cũng lạ mắt hết sức.

                      Bâng khuâng, Võ lặng lẽ ngồi xuống ghế. Từ chăn màn nệm gối tiết ra một mùi thơm kỳ dị, thoảng như mùi hoắc hương phả nhẹ vào mũi chàng trai, gây cảm giác lâng lâng thanh thoát.

                      - Nàng là ai lại ở giữa Cung A Phòng? Xem chừng nàng là người cũng bản lãnh, đâu phải hạng liễu yếu đào tơ, lại chịu làm vợ sói tinh? Vợ chó sói?

                      Người đẹp cao quý, lại có từ tâm thế này lại phải làm vợ chó sói thật không sao tưởng tượng nổi? Hay khách khứa thân thích?

                      Chủ căn buồng này biết đâu chẳng phải là một trong số mấy Phi hậu của Ma Vương Tây Sắc?

                      Ý nghĩ này tự nhiên làm Võ Minh Than thấy xót xa, tức giận chuyện đời hết sức, bỗng cảm thương số phận người đã cứu mình, chàng buột miệng lẩm bẩm:

                      - Hừ! Chắc bị yêu khí con tinh!

                      Vừa dứt câu, chợt thấy nàng vén rèm bước vào, tay bưng đèn cồn, khay trà. Đặt mọi thứ đâu đấy, nàng thỏ thẻ bảo Võ:

                      - Nhà có mấy gái hầu, tối nay chúng nó bận việc vắng cả, chỉ còn một đứa ngủ mê man không tiện gọi. Để tôi nấu nước ông uống cho nóng.

                      Tuy yên tâm không sợ nữ lang đánh lừa nhưng Võ Minh Thần vẫn tưởng mình ngồi trên đống lửa vì hiện vẫn trốn giữa khu cung động Chúa Ma vương mãi dưới A Phòng, mà Ma vương tinh sói lại vô cùng minh mẫn, bất thần có thể ập vào. Chàng khẽ lên tiếng:

                      - Chỗ nay ngay cạnh Mê Hồn Cung, Âm Hồn Trận lại trống trải... Không đợi chàng nói hết câu, nữ lang dịu dàng nói luôn:

                      - Ông cứ an lòng! Không đâu kín đáo chắc chắn bằng đây! Mặc chúng sục sạo, ông ngồi trong này có thể vững như đã lên mặt đất.

                      Đang bưng đèn, thắp lửa nấu nước, bỗng nàng ngẩng lên nhìn Võ chòng chọc, hình như coi sắc diện, nhưng Võ đội mũ trụ che khuất mặt mũi, nàng ngó xuống hai bàn tay Võ, và chợt hơi nhoài mình về đằng trước, đưa bàn tay năm ngón búp măng sờ thử vạt áo Võ, đặt nhẹ một cái, bứt luôn một mảnh, đem soi trước nến, vụt bảo:

                      - Nãy tôi đã đoán, giờ quả không sai! Ông bị thọ thương rồi! Thương thế tưởng thường nhưng đã thấm vào tạng phủ, nếu không có chất gì đặc biệt trong mình, có lẽ ông đã bị tại chỗ rồi. Nhưng giờ thương thế này, chỉ trong vòng bảy ngày, chân khí sẽ tiêu dần, rồi đến gân thịt, cuối cùng sẽ...

                      Nàng ngừng lại, mắt thoáng vẻ ái ngại, Võ Minh Thần rúng động tâm thần, vùng bật giọng:

                      - Sẽ thành cái túi da người! Phải bà định nói thế không? Nữ lang khẽ thở dài:

                      - Sao ông biết? Võ thở mạnh như muốn trút cả đau đớn tích lũy trong tâm:

                      - Vì mẹ tôi đã bị "nó" biến thành cái túi da người! Và hiện giờ...

                      Chàng định nói "hiện giờ tôi vẫn đeo di hài mẹ sau lưng" nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Dẫu sao cũng chẳng nên thổ lộ chuyện riêng với người mới gặp, nhất lại là người đàn bà trong cung A Phòng. Nhưng theo thói quen, tự nhiên cũng đưa tay ra sau lưng sờ, và bỗng nảy người, tim đập thình thịch kinh hoảng vô cùng, vì mẹ gói trong bọc sáp đã rớt biến đau mất, trong đó có cả di hài mẹ.

                      Như bị điện giật, chàng đứng sổ lên quài tay sờ lưng ngoái nhìn quanh kêu "Trời" và chạy luôn lại mở cánh tủ gương. Ngạc nhiên, nữ lang vùng hỏi:

                      - Chuyện chi đó... ông?

                      - Mất bọc hành trang! Tôi đeo sau lưng, giờ mới biết. Trong có đủ thứ quan hệ.

                      Nữ lang đứng phắt dậy, nhanh nhẹn mở tủ cho chàng vào buồng tối tìm lại, nhưng chẳng thấy gì. Hoảng hốt, Võ chạy thốc ra phía ngoài, nữ lang lẹ tay nắm lại.

                      - Khoan, ngoài đó trống! Để tôi ra coi giúp. Ông chớ nên ló mặt. Chúng còn lảng vảng khắp nơi.

                      Dứt lời nàng thoăn thoắt đi ra. Chừng nửa phút bỗng nghe có tiếng nàng reo "a đây" rồi thấy nàng xách bọc hành trang vào, vút sau lưng nàng có đốm sáng xanh lè như hạt đậu bóc trần.

                      - Lạ thật! Sao lại rớt ngay gầm bàn khuất ngay buồng ngoài. Suýt tôi không để ý!

                      Võ đỡ lấy mớ hành trang bọc sáp, ngỏ lời cám ơn. Mãi lúc đó mới sực nhớ đến con "xó Khách" của mình vẫn lẩn quất quanh đây. Lòng mừng hết sức lại sợ "xó" đánh nhau, chàng không tiện dấu, vội bảo:

                      - Có lẽ huyết khí Ma vương bắn "đứt đầu quai sắt", chạy rớt còn đó. Con "xó" của mỗ theo sau nhặt kịp, đem bỏ đấy. Xuống A Phòng, mỗ có đem theo một con xó tinh khôn, vốn trước thuộc Song Ma.

                      Nữ lang nhìn quanh, thấy đốm xanh đậu trên trần, nàng gật đầu bảo:

                      - À có lẽ nhờ nó ông mới thoát khỏi Hồng Thủy Trận? Nhưng ông nen bảo "Xó" chớ ra khỏi phòng! Hiện giờ ngoài chó sói, Dạ xoa còn có cả đàn "trành" đang sục sạo, nó sẽ thấy ngay! Xó Ma Khác, tôi có nghe tiếng Song Ma, dẫu tài, cũng không chống nổi đàn "trành" dữ đâu. Chưa nói quanh đây còn nhiều chỗ có "khoán"

                      Minh Thần lĩnh ý, truyền "Xó Khách" ẩn luôn trong phòng. Phút chốc, nước sôi, nữ lang pha trà mời chàng uống. Lại nhắc đến thương thế, đến Ma vương, nàng thỏ thẻ đáp:

                      - Bệnh thương này rất nguy, nhưng ông chớ ngại, tôi có thuốc! Tuy không trị dứt được, nhưng thuốc có thể làm kìm hãm cho bệnh không phát tác ngay. Và nếu chất độc không dữ quá, thuốc có thể làm phục hồi khí lực, khỏi dần.

                      Nói đoạn nàng lấy ra một hộp linh đơn, đưa chàng năm viên. Võ đỡ lấy, xem thấy đủ năm màu xanh, đỏ, trắng, tím, vàng lấp lánh như tráng kim nhũ, bèn bỏ vào miệng, chiêu với nước trà.

                      Quả nhien chỉ uống xong tuần trà, Võ Minh Thần đã thấy trong mình hồi phục nhiều phần, không thấy ớn lạnh như trước nữa. Võ ngỏ lời cám ơn, từ tốn hỏi:

                      - Ngu mỗ mang ân bà cứu giúp, không thể không biết ân nhân! Xin bà làm ơn cho kẻ gặp nạn này được rõ bà là nhân vật nào trong Cung A Phòng? Nữ lang mỉm cười:

                      - Ông đừng gọi tôi bằng bà, nghe tổn thọ! Vì tôi chưa có gia đình! Ngạc nhiên, Võ nhướng mày:

                      - Sao? Bà chưa có gia đình? Bà còn là thiếu nữ? Thế bà là ai? Ngu mỗ tưởng bà là... người trong cung A Phòng?

                      Nữ lang lắc đầu, vẻ bâng khuâng, bỗng thở nhẹ bảo Võ:

                      - Thôi! Ông đừng bận tâm về tôi nữa! Chỉ biết tôi là kẻ rất không muốn ông bỏ mạng dưới cung A Phòng, và tôi cũng rất khổ lòng trước hành động của Ma vương Sắc!

                      Cảm kích vô cùng, Võ Minh Thần ngỏ lời cám ơn người đàn bà trẻ. Nàng xua tay gạt đi, ngó Võ vẻ ngẫm nghĩ điều gì, đắn đo mãi mới chép miệng bảo:

                      - Linh đơn ông vừa uống, có thể kìm hãm tất cả các chất độc khỏi phát tác nhưng không thể kéo dài quá góc tuần trăng.

                      Theo tôi biết, ngoài Tây Sắc Chúa Sài Lang trên cõi thế gian này chỉ có vị Thánh Y Mai Hoa thung có thể trị nổi. Người đó được coi là Lãn Ông tái thế! Nhưng rất khó tìm gặp vì ông ta hay đi.

                      Cả mừng Minh Thần nói luôn:

                      - Tưởng ai chứ Lãn Ông ngu mỗ có thể kiếm được. Vì chính vị đó đã cứu mỗ một lần khi bị nạn Giao Long.

                      Nghe chàng nói, nữ lang có vẻ mừng hết sức, nét mặt pha trộn lẫn u buồn. Nàng khẽ thở dài:

                      - Nếu vậy tình mạng ông đỡ nguy rồi. Nhưng sao ông hay chạm trán với... tinh Chúa thế?

                      Ngậm ngùi, Vo Minh Thần trầm giọng:

                      - Có lẽ do số kiếp! Chuyện đó định mạng an bài, ngu mỗ thật vô tâm gặp phải! Còn ẵm ngửa đã mang mối thù cốt nhục, ma vương sói hấp sát mẹ ngu mỗ, hối hận chung thân đó, chẳng lẽ trượng phu cam sống lấy thân mình không báo? Còn Giao Long tinh, là chuyện tình cờ ngu mỗ cứu người đồng cảnh ngộ.

                      Nữ lang không nói nữa, nàng lặng lẽ rót trà vào chén Võ. Võ cầm uống tiếp, bỗng lúc đó mới chợt để ý thấy bộ đồ tra này quen quen, hình như mới thấy đâu, vì từ khay khảm, chén Tống, mấy cái chén trôn quýt, đĩa đựng thảy đều mang nét vẻ quen mắt, nhất chiếc ấm pha trà thuộc loại Ngạc Phủ màu chu sa đỏ thẩm, thứ song ẩm, rất hiếm, thứ nhất Ngạc Phủ chu sa, thứ nhì Thế Đức, thứ ba Bội Thần.

                      - À! Hình như bộ đồ trà này coi giống bộ... cô gái con tù trưởng Thái trong "pháo đài rừng" trên miệt Bắc ngạn Hắc Giang bữa qua thì phải? Cô nàng đó cũng đem ấm Ngạc Phủ ra pha trà đãi mình, hay hai bộ khác chủ? Có lẽ! Vì đồ trà xưa nay vẫn "Vào bộ" giống nhau là thường.

                      Vừa nghĩ tới đó, chợt Võ lại sực nhận ra hương vị trà đang uống cũng giống hệt hương vị trà đã uống trên "pháo đài rừng" kia. Chàng trai vùng chép chép miệng khen:

                      - Trà thơm ngon đậm thật! Thưa phải đây là thứ sơn trà trên ngon Pi A Ya! Nhoẻn cười, nữ lang thỏ thẻ:

                      - Sao ông biết? Vâng! Đúng trà núi mọc hoang trên ngọn Pi A Ya còn đam hơn thứ sơn trà trên Vũ Di Sơn.

                      Minh Thần ngó đăm đăm khuôn mặt nữ lang chậm rãi:

                      - Đây là lần thứ hai ngu mỗ được uống trà này. Lần trước mới đây, có một cô nàng con gái một vị tù trưởng phía Bắc ngạn Hắc Giang dưới hạ nguồn có cho mỗ uống qua. Cô nữ chúa trên đó cũng hao hao giống bà. Kể lạ thật.

                      Vẻ điềm nhiên, nữ lang gật đầu:

                      - À ra thế! Tôi có biết cô nàng đó! Trà này chính cô nàng làm quà cho tôi tháng trước, nhân dịp tôi vô tình lạc vào lãnh địa. Cô gái đó thật lịch thiệp, nói tiếng Kinh rất thạo, võ nghệ cũng cao.

                      Minh Thần ngó nữ lang, lòng phân vân nghi hoặc, và chẳng biết là thứ mấy, Võ lại hỏi:

                      - Bà là ai? Xin cho biết! Điềm nhiên, nàng cười bảo:

                      - Tôi đã nói rồi thì phải? Là ai, tưởng ông chẳng cần biết, chỉ cần biết tôi là kẻ không có lòng hại ông là được rồi.

                      Minh Thần bị óc tò mò thôi thúc dữ, buột miệng:

                      - Ở Cung A Phòng sát Mê Hồn Cung hậu phòng Chúa Sài lang, phải là vợ

                      Ma vương?

                      Nữ lang thoáng cau mày liền, vẻ hơi giận, thở dài bảo:

                      - Ông đáp lại lòng thành thực của tôi bằng lời sỉ nhục đó sao? Cứ ai ở Cung A Phòng đều phải là vợ Tây Sắc Chúa Sói ư? Không ngờ ông là bực giang hồ lăn lộn mà còn chưa thông đạt chuyện đời! Tôi đã thưa với ông là tôi... chưa có gia đình mà! Xin ông chớ gọi "bà", hay hơn! Và chẳng nên tìm biet thêm chi cho mệt. Ông bị Tây Sắc truy diệt, lỡ thọ thương, ông vào đây nghỉ chân tránh nạn, uống trà với một người đàn bà giữa Cung A Phòng. Vậy chưa đủ sao?

                      Minh Thần lật đật ngỏ lời tạ lỗi, chàng buồn rầu bảo:

                      - Chẳng phải ngu mỗ có ý bất kính chi đâu! Nhưng quả thật ngu mỗ dồn dập gặp quá nhiều chuyện lạ dưới A Phòng. Giữa chốn sói lang, mạng sống, phẩm giá con người bị chôn vùi như trò chơi, tất cả hàng trăm hàng ngàn mỹ nữ đeu thuộc quyền Ma vương, ai ngờ lại có một người ra tay cứu kẻ lâm nạn Ma vương... Chính điều này làm ngu mỗ vô cùng kinh ngạc, nên mới lỡ lời. Dám xin... cô nương miễn trách!

                      Nữ lang thấy Võ có vẻ "khổ sở", nàng vụt cười bảo:

                      - Thôi! Bỏ qua chuyện đó đi! Tôi cũng nói thế thôi, có giận ông đâu! Suốt đêm lận đận xông pha, lăn lộn, có lẽ ông vừa lạnh vừa đói rồi! Để tôi kiếm đồ ăn cho ấm bụng! Xin ông cứ vững tâm, không ai vào đây nữa đâu! Dầu lũ Dạ Xoa có dẫn chó sói lộn lại, xin cứ như thường, để tôi ra đóng cửa.

                      Dứt lời, chẳng đợi chàng đáp, nàng bỏ ra liền, để mặc Võ ngồi thờ thẫn băn khoăn bên ngọn nến cháy vật vờ.

                      Bốn bề im vắng đến cùng. Cung A Phòng dưới đáy Hắc Giang biên thùy giờ này càng như một thế giới khác hẳn với "cõi trần" trên kia, thế giới phi phàm không tiếng động, gây cảm giác im lìm như ngồi trong "áo quan thổ địa"! Tâm trạng Minh Thần đảo lộn hàng mớ ý nghĩ hỗn tạp, như biển sóng ngầm.

                      Giờ phút này, chắc chắn Cung A Phòng các cửa hang ra vào đều đóng chặt cạm bẫy quân gia, chó sói trành xó, chắc đã án đầy, họa chăng có phép độn thổ như Đậu Nhất Hổ mới hòng thoát chui lên được. Nếu không chỉ còn cách liều mạng thêm lần nữa, lộn đánh Tây Sắc, hoặc dùng cường lực tung vây, mở đường lên mặt đất, và cả hai cách này đều gần như vô vọng khi sói tinh đã biết, và chân lực càng đã hao mất mấy phần.

                      Đang nghĩ loanh quanh bỗng nghe tiếng sài lang tru vọng âm nhọn mãi từ xa lại, nghe đúng tiếng kêu hú của Sài lang Chúa, tiếp liền lại có tiếng sói tru tứ bề, vang động một vùng hậu cung. Rồi như ào ào tấn tới, tiếng tru "chạy" lại cả khu điếu kiều xế trên cao, có tiếng Tây Sắc hét âm âm vang nhọn:

                      - Nó chưa ra thoát nổi cung A Phòng! Nó còn lẩn trốn quanh hậu cung Chúa. Tụi mi phải sục kiếm cho ra! Chúa sài lang vừa ngửi thấy mùi thịt lạ, có lẽ nó nấp đâu đây! Nó có thuật ẩn thân, thấy khóm sương mờ, cứ cho sói vồ! Dạ Xoa! Lên thả hết chó sói ra! Tụi bay coi chừng tấc đá, nó dám chui xuống kẹt!

                      Tiếng đàn bà the thé dạ ran tứ bề, tiếp liền tiếng chó sói, tru vút, từ cao xuống thấp. Bất thần nghe tiếng Ma vương thét chìm ngay ngoài cửa khu nhà chàng ẩn nấp:

                      - Có mùi thịt lạ quanh đây, thịt đàn ông! Chắc mùi thịt nó! Võ Minh Thần nghe rõ mồn một, kinh sợ, muốn lặng người, sực nhớ mình có bôi thuốc giữ hơi người cho chó sói khỏi ngửi thấy, nhưng sau hồi ngụp lặn dưới Hồng Thủy Trận, chất thuốc kia đã bị nước rửa sach, nên sói mới đánh thấy hơi người tiết ra. Không chút chậm trễ, chàng vội lục tìm trong sắc hành trang, lấy lọ thuốc bôi quét khắp người. Chàng vừa bôi xong, bên ngoài bỗng nghe tiếng Chúa Sài lang vùng hét:

                      - Hơi thịt người biến mất, chắc nó vừa trốn chui chỗ khác rồi. Theo chúa sài lang!

                      Tiếng chộn rộn rầm rập huyên náo xa mau, chắc chúng kéo đi sục phương khác. Võ Minh Thần thở phào, quay nhìn ra đã thấy nữ lang bưng vào một mâm đầy sơn hào, trái cây, khói còn bốc nghi ngút.

                      Đặt mâm xuống bàn, nữ lang rót rượu tươi cười bảo:

                      - Đêm khuya, gái hầu vắng, nhà còn ít thức ăn, ông dùng tạm cho đỡ đói! Rượu thuốc này cất chế đặc biệt uống vào mạnh thêm gân cốt, ông có thể dùng cả bầu không chóng mặt nhức đầu.

                      Minh Thần liếc qua mâm, thấy đến tám món sào sáo thơm phức, chàng ngỏ lời cám ơn, thỉnh nữ chủ cùng ăn. Nàng nể lời cũng ngồi xuống tiếp. Chủ, khách đối ẩm thân mật.

                      Tuy tình cảnh Võ Minh Thần không khác người ngồi trên tổ kiến, nhưng nhờ nữ lang ân cần chăm sóc, miệng hoa luôn nhoẻn cười, trò chuyện chàng cũng vơi đi rất nhiều bứt rứt, khắc khoải.

                      Nhất nàng ăn nói rất có duyên, cử chỉ bặt thiệp, tuy tự nhiên mà vẫn nghiêm trang chính đính, khiến Minh Thần càng thêm cảm mến. Nhân kỳ ngộ lại gặp cảnh buồn thảm bại, chàng trai uống liên miên không từ chối ly nào. Nữ lang tỏ ra tay uống rất hảo, nhưng nàng chỉ cạn một vài ly tiếp khách vậy thôi.

                      Chủ khách vừa uống vừa đạm đạo loanh quanh toàn chuyện "trên trời dưới đất" cầm, kỳ, thi, tửu, họa, võ không ai nhắc đến hiện cảnh. Nữ lang chẳng hỏi thêm chi về việc riêng khách, còn Võ tuy trong lòng đầy thắc mắc, vẫn phải cố nén, không đả động gì đến thân thế nữ chủ. Chàng chỉ đoán lơ mơ là giữa nàng với Tây Sắc Ma Vương tất phải co liên hệ nhiều ít, có lẽ lại là kẻ có địa vị lớn trong Cung A Phòng, nhưng vì từ tâm, vì bản chất hiền lương, đã ngầm cứu chàng qua cơn hoạn nạn. Và có lẽ nàng cũng khổ tâm không ít, chẳng qua vì cứu chàng mà nghịch ý Ma vương, hay vì chuyện chi khác. Nhưng Võ thường bất thần bắt gặp một hai tia mắt u ẩn hiện trong cặp mắt sáng đẹp long lanh như hai vì sao huyền diệu.

                      Giây lát sau, cuộc rượu tàn, dư vị còn đượm vị giác chàng tuổi trẻ giống hệt vị rượu chàng đã được uống cùng cô gái con tù trưởng Thái trong "pháo đài rừng" hồi sớm.

                      - Pháo đài rừng trên mặt đất kia và cung động bí mật A Phòng dưới đáy Hắc Giang biên này có liên hệ với nhau không? Nếu lãnh địa kia không phải đất đai Tây Sắc tinh, tất cũng phải quen nhau mật thiết. Vị tù trưởng Thái với Tây Sắc là chỗ giao tình, nên mới không xâm phạm? Nếu không sao ở nổi sát miền biên có cung động Ma vương? Lạ thật! Khó hieu thật! Không lẽ giao du thân mật với loài tinh sói.

                      À! Nữ chủ đây chỉ có thể là vợ của Ma vương, vợ chưa cưới chẳng hạn. Vì điều giao ước ràng buộc nào đó! Vì mạng sống của thân nhân, phụ mẫu chẳng hạn, nàng phải thuận, cũng như "Bạc công chúa" dưới hồ Ba Bể bị Giao Long bắt sống, ép duyên, vì mạng sống chồng, nàng cam thờ Giao Long tinh...

                      Nên nàng muốn giấu mình. Tốt hơn hết, mình chẳng nên nhắc tới, gây buồn tủi cho người đã cứu mạng mình.

                      Nghĩ ngược xuôi, quanh quẩn, Võ Minh Thần cố ngậm miệng, làm lơ, nhưng thâm tâm vô cùng đau xót khi tưởng tượng một nữ lang xinh đẹp, thông minh giàu tình cảm như nàng cũng phải khuất thân làm "vợ" chó sói và chan gối với "nó"

                      - Cẩu trệ! Trời ơi! Cẩu trệ hoành hành, võ lâm thiên hạ bó tay, còn ta thì... bại nhục phải trốn vào chốn buồng the nhi nữ. Còn mặt mũi nào trông thấy bậc ân sư!

                      Minh Thần buột miệng bật lời than uất ức vừa lúc nữ lang bưng "phin" cà phê vào! Nàng khựng lại ngó Võ, ái ngại khua sệt dép uyển chuyển, đặt "phin" trước mặt chàng cười bảo:

                      - Ăn xong, uống một ly cà phê cho tiêu, kể cũng phải. Người phương Tây đã giúp phương ta thói quen "kết thúc" bữa ăn bằng ly "Cà phê" quả chí lắm! Ông dùng thử sẽ thấy chất "cà phê" này khác hẳn thứ thường bán "dưới chợ", vì là cà phê hoang trên Pi A Ya.

                      Minh Thần chế thêm nước sôi, bỏ miếng đường uống thử. Quả nhiên nhấp một ngụm, đã thấy mùi vị thơm ngon lạ, có lẽ còn hơn thứ cà phê Chúa "Mười vạn núi" thường nổi tiếng sành điệu đã cho chàng uống.

                      Nữ lang tự tay vấn một điếu thuốc lá "sừng bò" Mán, đưa Võ, thỏ thẻ bảo:

                      - Có lần nhàn rỗi, tôi đã hội mấy tay sành lại, phân tách thứ cà phê này. Cà phê này hái được trên ngọn Phi Mã Yên Sơn, hình như thuộc giống cà phê đặc biệt nào đó bên Trung Đông Ả Rập, do chim chóc đem sang. Có lẽ vì hạt giống ướp chất đặc biệt trong bụng chim, lại gặp thủy thổ cao sơn nên mới có chất ngon lạ vậy? Nhà chỉ còn một ít thỉnh thoảng có khách mới pha.

                      Võ cạn nửa ly, lòng thêm nghi hoặc, sực nhớ tách cà phê trên "pháo đài rừng", vụt bảo:

                      - Cà phê này tuyệt hảo! Lần thứ hai mỗ được dùng, lần trước cô gái chủ

                      "pháo đài rừng" có cho mỗ uống qua! Hai tách, cùng một vị.

                      Nữ lang mỉm cười hoi: "Thế sao?" Võ Minh Thần vụt nói khẽ:

                      - Suỵt! Hình như có tiếng chân đi ngoài kia! Nữ lang quay mặt bước ra coi. Nhanh như chớp, xuất kỳ bất ý, Võ Minh Thần thò vụt tay xuất chảo kình, nhón phăng quai mặt nạ giật phắt một cái. Quá bất ngờ, nữ lang không kịp đề phòng, "phựt" quai vai đứt, nàng giật mình ngoảnh lại, Võ Minh Thần đã kẹp tấm mặt nạ trên tay như bắt được con bướm đen phất phơ.

                      Nàng khựng lại, Võ sửng sốt vì dưới đèn vừa hiện ra một khuôn mặt đẹp tuyệt trần của con gái tù trưởng Thái trên "pháo đài rừng" ban sáng!

                      - Trời! Cô nương! Mỗ đã ngờ ngợ từ lúc nãy!

                      Thoáng giây sững sờ vì bị giật mất mặt nạ, nữ lang trở nên điềm tĩnh như thường, nàng mỉm cười, thánh thót:

                      - Tưởng ông không cần giật mặt nạ cũng đoán được rồi chứ? Ngay khi ông mới chạy vào tôi đã đoán ra quý khách pháo đài!

                      Bốn mắt nhìn nhau, Minh Thần bối rối, đầu óc đảo lộn nhiều ý nghĩ trái ngược, ngờ vực ngổn ngang. Qua khắc sững sờ, chàng chợt hạ thấp giọng lẩm bẩm:

                      - Chính cô nương... Thì ra chính cô nương. Tôi đã thua Tinh Chúa ngay nước cờ thứ nhất. Tinh Sói đã biết rõ đêm nay có kẻ tìm đến nó, trả thù huyết hận. Tây Sắc chỉ việc nằm trong Tĩnh Viện... đợi con mồi.

                      Nghe Võ nói xong, nữ lang bỗng lùi lại, mặt chợt biến sắc, đang hồng hào trở nên tái nhợt, chừng bị xúc động mạnh, nàng chợt mở to mắt nhìn Minh Thần, rung giọng:

                      - Ông... ông có thể khinh bỉ, nhục mạ tôi đến thế sao? Ông cho là tôi đã lẻn xuống báo tin cho Sài Lang Chúa biết để đón đánh ông? Trời... Tôi... Tôi đã xét lầm người rồi. Tôi tưởng ông là bực trượng phu khoáng đạt, đủ sức thông cảm cả tâm sự kín của người ta... Tâm sự u uẩn của những kẻ sống trong nghịch cảnh. Không ngờ... Thật không ngờ...

                      Như nghẹn họng, nàng im bặt gieo mình xuống giường thất bảo, nước mắt bỗng ứa ra như hai giọt sương mai lấp lánh. Võ Minh Thần ngơ ngác nhìn nàng, vẻ thành thực hiện rõ trên khuôn mặt đẹp, Võ chợt thấy hối hận hết sức, chưa kịp nói chi thì nàng đã thở dài tiếp:

                      - Vì lo ngai mạng ông, tôi mới xuống đây. Thực ra tôi định xuống ngăn trở ông không để gặp Chúa Sài lang nhưng không kịp. Hiện giờ khó có ai địch nổi Ma vương, nếu không khám phá được cả ba cái vòng càn khôn. Chỉ có ba vòng càn khôn mới có phép trị vầng huyết khí vì Ma vương đã luyện theo "Càn khôn bí pháp", cứ mỗi con trăng, tài thuật lại tăng một bậc, không biết đâu mà lường.

                      Minh Thần khẽ thở dài. Chàng biết mình đã nghĩ bậy, vì nếu muốn, nàng đủ sức dùng cạm bẫy hại chàng trên "pháo đài rừng", cần chi phải báo cho Ma vương. Võ từ tốn:

                      - Xin cô nương đừng giận. Ngu mỗ xúc động nên sảng trí nói bậy đó thôi. Thực lòng hết sức cảm ân cô nương, nếu cô nương co ý chi khác, giờ phút này ngu mỗ đâu còn ngồi đây? Chẳng qua mỗ quá ngạc nhiên về hành động của cô nương nên thốt lời ngu xuẩn, xin cô nương bỏ qua cho. Cô nương hết lòng cứu mỗ mà lại chảy nước mắt vì mỗ. Thật mỗ toi đáng chết không oan.

                      Nàng nghe, có vẻ nguôi lòng, nhưng vẫn ngồi yên. Minh Thần lại gần, buồn rầu bảo:

                      - Ngu mỗ lòng như lửa đốt, tâm thần không được bình tĩnh vì tham cảnh, nên thốt câu ngu muội. Nếu cô nương không tha thứ, ngu mỗ xin đi ngay, không dám nương nhờ thêm phút nào!

                      Dứt lời, quơ "sắc" định đi, nữ lang hoảng hốt đứng sổ dậy, xua tay:

                      - Không, không! Tôi có giận trách ông đau! Giờ này chó sói vẫn sục sạo quanh động, sao ra được. Thôi thôi! Ông đừng nghĩ ngợi nữa! Mà thật ông không ngờ vực tôi chứ?

                      Vừa nói, nàng vừa rút khăn lau mắt, nhìn Minh Thần, nhoẻn miệng cười tươi mơn mởn như hoa nở, làm chàng không khỏi cười thầm về tính cách mau nước mắt của cô gái lạ, bề ngoài coi bặt thiệp, rắn rỏi, ai dè trong lại là gái đa cảm, dễ xúc động đến thế?

                      Hơi mỉm cười, Võ Minh Thần gật đầu, dịu dàng:

                      - Quả tình ngu mỗ không mảy may nghĩ bậy, ngu mỗ chỉ thắc mắc nghĩ muốn điên đầu không sao đoán nổi cô nương là nhân vật chi trong cung A Phòng này

                      Nữ lang cười, thỏ thẻ:

                      - Thì hình như tôi đã nói rồi mà! Tôi Nguyệt Kiều, họ Đèo! Lắc đầu, chàng trai nghiêm sắc mặt:

                      - Tên cũng chưa quan hệ bằng địa vị! Ngu mỗ rất muốn biết cô nương là... gì dưới cung nhan sắc này? Không giải được điều thắc mắc này, có lẽ từ đây ngu mỗ khó lòng ngủ yên nổi!

                      Nhướng cao mày liễu, nữ lang dịu hỏi:

                      - Điều đó có ăn nhập chi tới chuyện tối nay, mà ông phải quá lưu ý? Mà tại sao ông lại chú ý thái quá vậy? Tưởng dưới Cung A Phong này có lẽ cũng còn khá nhiều chuyện ông phải lưu tâm thắc mắc chứ?

                      Nghe nàng hỏi, Võ Minh Thần thoáng vẻ sững sờ, buột miệng:

                      - À... thực ra ngu mỗ không hiểu sao nữa! Có lẽ mỗ muốn hiểu rõ về... thân thế người đã gia ân cứu mỗ! Nữ lang ngồi im, nhìn thoi nến cháy vật vờ:

                      Minh Thần ngó nàng, ánh sáng thấp thoáng trên mặt hoa tuyệt trần, phảng phất vẻ huyền bí lạ thường, trong cặp mắt phượng nhưng biêng biếc sáng như hai vì sao trong đêm hè lộng gió. Không hiểu sao Võ Minh Thần thấy mình gần gũi nàng hết sức, chẳng khác gần một tri kỷ, từ đuôi mày, ánh mắt, vành môi, thân dáng, từng cử chỉ nhỏ, nàng gieo vào linh hồn đơn côi của chàng một thứ chi ấm áp dị thường, như ánh lửa bập bùng sưởi ấm lòng khách viễn hành cô độc giữa đêm dài giá lạnh.

                      Chợt nghe nàng khẽ thở dài, quay nhìn lại, bốn mắt chạm nhau, nàng thoáng đỏ mặt, mân mê chiếc vòng đeo tay, chớp chớp hàng mi cong vút, hơi cui đầu, xoay tách cà phê, giọng đượm buồn, thỏ thẻ:

                      - Tốt hơn hết, ông đừng lưu ý làm chi. Tình cờ gặp nhau trong... cảnh nghịch, giúp nhau một vài điều nhỏ nhặt, uống vài tách trà, nói dăm câu chuyện rồi mỗi người một ngả như cá nước chim trời, gặp gỡ, chia tay bất định, chẳng hơn sao? Mây tan bèo hợp, cảnh tình đã thế, còn tìm biết hướng mây trôi bèo dạt làm gì cho thêm buồn. Xin ông thể tình cho, đừng hỏi thêm gì nữa!

                      Vẻ buồn mênh mông của cô gái kỳ dị làm Võ Minh Thần càng thêm thắc mắc, chỉ đoán lờ mờ là nàng hiện đang sống trong cảnh huống cực kỳ ngang trái, không thể thổ lộ cùng ai. Chàng tuổi trẻ lớn lên trong cảnh đơn côi cô độc, nên rất dễ thông cảm nỗi buồn u uẩn của người khác, nghe nàng nói, bỗng sinh ngậm ngùi khôn xiết, thở dài bảo:

                      - Cô nương thứ lỗi cho... Ngu mỗ thật vô tình đã khơi động tâm sự xót xa của cô nương. Ngu mỗ vẫn tưởng trên đời này chỉ có ngu mỗ là kẻ bạc số nhất, không ngờ dưới cung động thâm u này, còn có cô nương cũng mang nghiệt số chẳng vui gì. Thế mới biết cõi thế gian đúng là phiền não. Cô nương đã chẳng tiện thổ lộ gốc nguồn tâm sự, ngu mỗ đâu dám hỏi gạn làm khổ lòng cô nương. Nhưng quả tình được biết người ân cũng trong cảnh trái ngang, ngu mỗ thấy lòng chua xót chẳng an.

                      Nữ lang quay nhìn Minh Thần, cười héo hắt:

                      - Đời đã chịu nghịch cảnh không lối thoát, tại sao ta chẳng gác một bên, tưởng mấy phút tình cờ gặp nhau cùng ngồi đối ẩm cũng đủ an ủi rồi, ta còn mong gì hơn nữa.

                      Chàng trai kín đáo thở dài. Bên ngoài khu hậu cung đã chìm vào im vắng mênh mông, không có tiếng động nào trong lòng đất, ngoài tiếng nước chảy thao thiết ngoài lạch, hiu hiu hình như có cả tiếng gió lùa đâu đây.

                      Thoáng tia quyết định, Võ Minh Thần đứng phắt lên, từ tốn:

                      - Mang ơn cô nương cứu nạn, lại cho ăn uống no nê! Giờ sức mỗ đã hồi, mỗ xin cáo biệt Ngạc nhiên, nữ lang Đèo Nguyệt Kiều nhướng cao mày, đứng dậy theo:

                      - Sao? Ông định đi ngay bây giờ?

                      - Vâng! Ngu mỗ phải rời khỏi chốn này!

                      Lắc đầu, cô dịu dàng, khoát tay trỏ bao quát:

                      - Đi sao được? Khắp cung dưới cung trên, giờ này, các đường lên xuống, ra vào đều bị đóng chặt. Sơn cẩu, trành, xó, Dạ xoa trấn kín, cơ quan, cạm bẫy đều giương sẵn, có cánh cũng không bay thoát. Ông ló mặt ra là bị lộ ngay.

                      Võ nói nhỏ:

                      - Cô nương yên tâm! Mỗ có thuật ẩn thân, tuy không dám ví như cỏ ẩn thân của Đông Phương Sóc, nhưng cũng đủ che mắt chúng!

                      Lắc đầu, cô gái dịu giọng thỏ thẻ:

                      - Phep đó cũng vô ích lúc này! Ông không nghe Chúa Sài lang truyền lệnh cho thủ hạ sao? Phép sa mù nhân tạo của ông đã lộ rồi, không qua nổi đâu! Nghe nàng nói có lý, Võ Minh Thần khẽ thở dài, tặc lưỡi bảo:

                      - Tình thế đã vậy, không liều thoát, cô nương bảo mỗ tính cách nào đây? Đanh giọng, cô gái Nguyệt Kiều đáp liền:

                      - Chẳng tính cách nào được. Hiện không đâu chắc bằng... chỗ này! Ông cứ nán lại đợi khi nào thuận tiện đã.

                      Minh Thần nhìn nàng thấy hết sức bất tiện. Dưới lòng đất, hậu cung, phòng the vắng, chẳng lẽ đàn ông cứ ngồi lỳ mãi. Như đoán được tâm trạng chàng khách trẻ. Nguyệt Kiều khẳng khái bảo:

                      - Chấp kích! Tòng quyền! Xin ông chớ ngại!

                      Nghe nàng nói dứt, Minh Thần buột miệng:

                      - Quyền biến phải để Chung Kiến cõng chạy, cũng được, nhưng cô nương đã quên sau này Quy Vu phải lấy Chung Kiến, rửa cái tiếng cõng đó sao? Đèo Nguyệt Kiều chợt đỏ mặt, lúng túng:

                      - Là tôi muốn nhắc chuyện cũ để ông đừng ngại chuyện tỵ hiềm, chớ vụ Quy Vy sau lấy Chung Kiến có lẽ do trời định sẵn, nếu không cõng nhau...

                      Nàng vụt im, mặt càng đỏ, ấp úng. Khi sực nhớ đến hiện cảnh, tuy chưa cõng nhau, nhưng trai gái cũng ngồi đối ẩm trong buồng the... kể cũng là giống cảnh Chung Kiến Quy Vu... chẳng lẽ cung do chuyên trời run rủi...

                      Minh Thần chợt thấy nàng có sắc thẹn, chàng trai cũng đâm ngượng, đứng yên, mấy phút mới lên tiếng bảo:

                      - Ngu mỗ chỉ ngại cho cô nương, nên chẳng dám làm phiền nhiều, có lẽ cô nương cứ để mỗ đi luôn cho tiện.

                      Chừng lo cho mạng sống khách, Nguyệt Kiều vùng thỏ thẻ:

                      - Chơ liều nguy hiểm lắm! Ông cứ an lòng ẩn nấp lại đây, không lẽ vì chút tỵ hiềm hủ lậu, để ông phải lâm nguy? Thôi! Ông chớ ngại vẩn vơ! Chúng ta hiểu cảnh ngộ này, chẳng làm chi khác được.

                      Minh Thần cũng chẳng biết kế nào hơn, đành nghe lời nữ chủ. Nàng trỏ giường, thỏ thẻ:

                      - Đêm khuya lắm rồi! Ông nên vào nằm ngủ một giấc cho lại sức! Uống thuốc rồi, khỏi sợ nội thương phát tác ngay!

                      Dứt lời, không đợi Võ nói chi, nàng trèo luôn lên giường, buông màn để sẵn gối chăn, đoạn nàng bảo chàng lên giường nằm ngủ. Ngơ ngác, Võ ngó quanh khẽ hỏi:

                      - Còn cô nương...? Hình như có một giường này mà?

                      - À! Tôi ra phòng ngoài! Nhà còn chiếc giường cho bọn gái hầu! Và tôi cũng cần nằm trấn bên ngoài, có gì còn kịp chặn ngay!

                      Minh Thần lắc đầu không chịu, bảo:

                      - Nếu cô nương nằm ngoài, chúng càng sinh nghi! Tiện nhất, xin cho mỗ một chỗ phía sau buồng ngoài!

                      - Không nên! Ông cần chỗ kín đáo, lỡ xảy ra chuyện, còn vào tủ đứng! Tôi vẫn thường xem sách nằm ngoài mà! Nói mãi không được, Minh Thần đành cởi giày, lên giường thất bảo nằm.

                      Cô gái khép cửa, bỏ ra ngoài. Vừa đặt mình, Võ đã bị "hương thơm" phả vào mũi. Phảng phất gối chăn giường nệm màn chiếu như có cả mùi lan xạ quyện, thứ mùi thơm "quái lạ" như thoảng hắt hương len vào khứu giác làm chàng khắc khoải thật khó hiểu. Vì đó chính là mùi da thịt đàn bà, đúng hơn là mùi mỹ nhân. Xưa nay phải hạng nhuận thịt thắm da, nhan sắc khuynh thành mới có. Không phải ướp nước hoa, tắm sữa tươi, mà là mùi tự nhiên mỹ nhân tuyệt thế như Tây Thi, Tức Vĩ, Văn Khương, Đặng Thị Hue trừ Giao Long Nữ. Cô gái mặt xấu như quỷ cái dạ xoa, nhưng cơ thể tuyệt đẹp, da thịt cũng thơm nhuận thế. Minh Thần đã từng ngửi qua lúc bồng nàng chạy chữa vết thương đạn bắn.

                      Mùi mỹ nhân làm chàng trai khắc khoải trằn trọc mãi, không sao nhắm mắt nổi, lắm lúc có cảm giác như mỹ nhân nằm cạnh.

                      Không chịu nổi, Minh Thần nhỏm dậy, rót nước uống, vén rèm nhìn ra. Tối om! Không dám lên tiếng, Võ vừa giơ tay toan thám sát bỗng giật thót mình, nghe tiếng nàng Nguyệt Kiều thì thào bên tai:

                      - Vào ngủ đi! Chớ thức! Có mấy con "Trành" cái đang nghe ngóng ngoài cửa! Chúa sài lang cho Dạ xoa, chó sói phục kín, sai các bóng ma hồn đi sục sạo! Cứ vào giường, mặc tôi đối phó!

                      Chột dạ, Minh Thần thì thào:

                      - Không nên! Mấy con trành này tinh lắm, thấy chú quyết lạ, chúng sẽ biết ngay! Cứ để mình tôi đối phó! Không hề chi đâu! Võ Minh Thần vội rón rén vào giường nằm, lắng tai nghe ngóng động tĩnh.

                      Bốn bề im lặng sau thẳm. Tuy nằm yên trùm chăn kín, Võ vẫn nơm nớp lo "trành" lẻn vào, tuy chàng đã đoán chắc ngoài cửa tất có "khoán" kỹ. Nhưng với lũ âm hồn tinh ma, bua khoán nhiều khi không ngăn hết được. Vì mỗi lá bùa tùy theo mức cao tay của pháp sư, sẽ phát ra uy lực trong khoảng phân tấc nào đó thôi. Khu phòng này khá rộng, chỉ một khe hở, lỗ thủng nhỏ cũng đủ để nó tuôn vào con dễ hơn sương.

                      Và chính chàng cũng chưa rõ Đèo Nguyệt Kiều dị thuật cao tay tới mức nào? Độ nửa phút, phía ngoài vẫn im lìm, tối thui. Bỗng nghe tiếng cô gái trở mình giọng ngái ngủ quát:

                      - Tụi nào lảng vảng ngoài đó? Da xoa hay trành?

                      Không nghe tiếng đáp, tiếp liền có tiếng dép khua lệt sệt, lẫn tiếng cô gái

                      Nguyệt Kiều quát một tiếng rất lạ tai, chẳng hiểu thứ Thổ ngữ ám ngữ nào? Không nghe tiếng ai đáp, lại nghe tiếng nàng nói lớn, lần này bằng Thổ ngữ:

                      - Khu cũng động này ta ở ngày đêm có "Xó" canh giữ, bốn bề đều có "khoán" cạm bẫy chăng đầy. Đứa nào lẻn vào đây, qua nổi mắt ta? Lũ mi phải lục soát phía ngoài, có khi hắn lặn dưới thủy đao ngầm đó! Ta nghe hắn có nghề lặn như tôm cá. Hồng Thủy Trận còn chưa trấn nước hắn nổi mà!

                      Lại im! Bỗng văng vẳng có tiếng một mụ Dạ Xoa the thé vọng tới:

                      - Phải đó! Cung nương nương ở, đứa nào lén vào nổi! "Trành" phải đi rình chỗ khác! Lạ dữ à! Mà sao lục khắp cung động, chẳng đánh thấy hơi người? Hay tên mặt sắt đó là loài ma quái nó có phép tàng hình.

                      - Chưa biết! Nhưng các người nên nhớ nó đã đơn thân vượt qua bao nhiêu cung hiểm lần xuống tận đây. Âm Hồn Trận cũng chưa bắt được, đủ hiểu hắn đâu phải thường nhân. À! Ta lại nghe hình như hắn bị Chúa Vương đánh bị thương, có khi hắn nấp kẹt rồi gục luôn đấy à! Bọn ngươi nên cẩn thận. Còn khu cung này, khỏi mất công tìm kiếm! Đã có "xó" ta canh!

                      Tiếng nàng lanh lảnh trong đêm sâu lòng đất, rồi sau đó, im lặng mênh mông bao trùm.

                      Chừng hai phút, bỗng nghe tiếng diêm bật xòe, Minh Than trông ra thấy Đèo Nguyệt Kiều cầm thoi bạch lạp nhỏ uyển chuyển vén rèm bước vào, cắm nến trên bàn cười bảo:

                      - Lũ "trành" kéo nhau đi cả rồi. Ông có thể yên tâm nằm ngủ. Buồng này kín đáo, ông cứ tự do để sáng, khỏi cần tắt nến, nhưng chớ nên ra phòng ngoài. Trà, nước, đường, cà phê, đèn cồn có sẵn, xin cứ tự tiện! Tôi cũng cần ngả lưng chút cho đỡ mệt.

                      Dứt lời lại bỏ đi liền. Võ Minh Thần nằm nghĩ miên man, rồi mệt quá, chan ấm, hương thơm dịu, chàng vào giấc ngủ lúc nào không hay nữa. Bỗng nhiên, Võ Minh Thần choàng thức! Và nhận ngay ra quang cảnh căn phòng the chàng tá túc vẫn không thay đổi, riêng ngọn nến trên bàn đã thay ngọn mới, lơn gấp ba... Cũng chẳng rõ mình đã ngủ được bao lâu. Minh Thần tung chăn dậy, chưa kịp gấp thì Đèo Nguyệt Kiều tươi cười bước vào, tay bưng một chậu nước nóng:

                      - Ông xuống rửa mặt! Chà ông ngủ được giấc ngon dữ! Thôi! Cứ đe chăn gối đấy, tôi xếp gọn! Không phải việc đàn ông!

                      Rất hồn nhiên, nàng đặt chân lên "giá" gỗ, vén màn "đuổi" Võ ra, Võ đành nhảy xuống, cười bảo:

                      - Cô nương làm mỗ ngượng chết mất! Đã chiếm giường, ngủ nhờ lại còn để nữ chủ gấp chăn giúp... khéo mỗ quên mình trốn tránh, lại tưởng đang...

                      Chàng trai vụt im bặt. Trong thoáng giây, chàng vừa có cảm giác êm đềm kỳ lạ, thứ cảm giác chàng chưa hề có, kể cả lúc gần các cô bạn gái, "như vừa thức giấc sau đêm tân hôn, trong căn buồng ấm cúng, có người vợ tâm đầu ý hiệp vào gấp chăn, bưng nước cho chồng rửa mặt"!

                      Đỏ ai tai, Minh Thần lúng túng mãi mới tiếp được ba tiếng "ở sơn động", nhưng thốt xong mới biết thật vô lý! Chàng nhìn Nguyệt Kiều, cô gái cũng ngó chàng, hình như cũng "linh cảm" thấy điều đó. Nàng thoáng đỏ má, chớp chớp hàng mi cong.

                      Nhưng có lẽ tính bướng, hay nghịch, nàng đã trấn tĩnh truy luôn:

                      - À... Thế ra ở sơn động, cũng có người gấp chăn, bưng nước "hầu ông" đó

                      ư? Chẳng hay tỷ muội nào? Không dè lại bị "hỏi móc" Minh Thần càng lúng túng, ngượng nghịu, vớt:

                      - Là ngu mỗ bảo sơn động... Pi A Ya... Xưa chính mỗ gap chăn hầu nước ông tôn sư chứ!

                      Lời nói chữa không dè làm Nguyệt Kiều thoáng xịu mặt, lại nhướng mày khẽ hỏi:

                      - À Phi Mã Yên Sơn! Nhưng chẳng hay... ai thế?

                      - Bạc Khao Lan! Nói xong chàng trai mới vụt nhớ đến xác cô gái họ Bạc bày trên Bảo Tàng Viện, tim đau nhói như dùi đâm, vừa đặt tay thành chậu đồng, chàng tuổi trẻ chợt đứng đờ ra, mắt muốn rưng rưng, cay cánh mũi. Đang dụi mắt, nhác thấy, Nguyệt Kiều ngạc nhiên, bước xuống dịu hỏi:

                      - Sao thế... ông? Tôi làm ông buồn...?

                      - Không đâu! Nhắc tới Khao Lan, tự nhiên ngu mỗ không cầm lòng được. Hồi bị đòn Giao Long Chúa, chính nàng đã cứu mỗ thoát chết, hồi dưỡng bệnh tai Pi A Ya, nàng chăm sóc mỗ tận tình như em gái chăm anh. Mới chia tay ít tháng ai ngờ nàng đã nằm trên Viện Bảo Tàng Tây Sắc... Chết bốn mươi chín ngày oan hồn vẫn chưa lìa nổi xác thân, vì ma thuật hấp sát của Ma vương tinh sói!

                      Đèo Nguyệt Kiều khẽ chép miệng thở dài. Cô gái im lặng nhìn Minh Thần chừng như nàng muốn lấy lại sự im lặng để chiêu niệm hồn người oan thác vì Ma vương còn hơn nói vài lời an ủi.

                      Khá lâu, nàng ta mới lên tiếng giục:

                      - Ông rửa mặt đi cho ấm còn uống trà! Dầu sao chuyện đã lỡ rồi! Nàng không phải bỏ xác tại Cung A Phòng là may lắm!

                      Minh Thần ngẩng nhìn nàng, vẻ ngạc nhiên hết sức. Không đợi hỏi, nàng nói luôn:

                      - Thầy trò cô gái giả Phìa Mường La Nam Cương đã đem xác nàng lên mặt đất rồi!

                      Mừng rỡ, Võ hỏi dồn:

                      - Đem được xác lên? Tưởng cả hai đã "bị" rồi!

                      - Suýt bị! Lúc bị lũ Dạ Xoa xua chó đuổi bắt, thầy trò chạy ra được khúc đường hầm lên cung trên! May lúc đó tôi xịch tới đã kín đáo cứu hai người, đem theo cả xác cô gái nằm trong võng. Nhờ lúc đó, Ma vương chúa mải đối phó với ông!

                      - Cám ơn cô nương! Nhưng liệu thoát nổi chăng? Cung dưới cung trên chỗ nào cũng đầy bóng tử thần.

                      - Chắc giờ này họ đã ra khỏi vùng giang biên rồi! Phần lớn, nhờ lúc đóchưa kịp báo động. Ông cứ yên tâm!

                      Nghe nàng nói xong, Minh Thần thấy nhẹ nhõm nhiều phần. Dầu sao xác Khao Lan được đem về động thất Pi A Ya cũng là may lắm. Nghĩ tới đó, Võ lại điên đầu, chỉ muốn thoát ngay, còn đến viếng tang, tính báo cừu sau. Bèn rửa mặt vội vàng, hỏi nữ chủ:

                      - Chẳng hay mấy giờ sáng rồi?

                      - Gần Ngọ! Vì ông đã ngủ được hơn hai mươi lăm giờ liền!

                      Sững sờ, Võ hỏi thăm tình thế hậu cung. Nghiêm mặt, nữ lang dịu bảo:

                      - Chúa sài lang giận lắm! Một đêm có ba kẻ lẹ đột nhập A Phòng đều để sổng mang theo bí mật lên mặt đất nên vẫn cho sạo sục truy lùng riết. Riêng về ông, Chúa sài lang vẫn ngờ còn nấp dưới A Phòng, nên cả vùng Độn Thủy Độn Thổ cung cung đầy quân gia, chó sói xó trành... hơi ló lên sẽ bị liền. Hiện tại một con kiến cũng khó lọt qua. Ông nên nén lòng, đợi dịp tốt. Có gì tôi sẽ báo ngay.

                      Biết nàng thật lòng lo cho mình, Võ Minh Thần đành theo ý, không dám liều lĩnh nữa. Hai người ngồi uống trà, đàm đạo.

                      Thời khắc kéo thật dài dưới cung Tây Sắc. Vẫn chỉ có mình Võ với nàng trong mấy gian nhà đá vắng vẻ. Đàm luận mãi, lại đem cờ ra đánh. Nàng đánh rất cao, nhưng vẫn thua Võ.

                      Bàn chuyện văn chương võ nghệ, dị thuật rừng thẳm, địa thế sông hồ, lục thao tam lược, cầm kỳ thi họa tửu nàng đều lầu thông, qua một trang giai nhân thông minh hiếm có.

                      Thoắt đã hai ngày hai đêm nữa. Võ Minh Thần vẫn sống trong đầm ấm "thế giới yên lành giữa cung tinh sói dữ dằn". Hai người càng thêm thân, xem trong tính tình có nhiều tương tri.

                      Thoắt đã ba ngày ba đêm, Võ Minh Thần ẩn nấp trong buồng cô gái kỳ dị, vẫn chưa có cơ hội thoát thân. May có nữ chủ làm bạn, chàng trai cũng đỡ sốt ruột, nếu không có thể phát điên lên giữa cung phòng im lìm dưới đáy Hắc Giang.

                      Nguy cơ đe dọa cũng chưa khó chịu bằng sức im lặng quái gở đè nặng xuống tâm hồn. Biết Võ chưa quen sống im như trong quan tài, Đèo Nguyệt Kiều thường đem đàn ra dạo cho chàng khuây khỏa. Tuy vậy tới ngày thứ ba, Võ Minh Thần đã thấy bứt rứt hết sức, hỏi nàng vẫn bảo chưa thể được.

                      Minh Thần bàn kế hóa trang làm gái Cung A Phòng thoát ra, nàng lắc đầu cho biết. Một con kiến cũng không thoát khỏi bầy trành tinh và khuyên chàng ẩn nhẫn.

                      Minh Thần lấy làm lạ suốt mấy ngày đêm tuyệt không thấy Chúa sài lang tới khu này, cả lũ Dạ Xoa, chó sói cũng không, mặc dầu xế trên điếu kiều sàn đạo thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng người, thú qua lại, truyền mật hiệu. Và suốt thời gian này, cô gái chủ chỉ bỏ đi đâu một, hai lần, mươi phút đã trở về.

                      Đêm thứ ba, Võ Minh Thần thấy trong mình không được khỏe, kiếu nàng đi ngủ sớm. Đang thiêm thiếp giấc nồng, bỗng được đánh thức, choàng dậy đã thấy Đèo Nguyệt Kiều đứng bên giường, thấp giọng trỏ một cô gái lạ bảo:

                      - Cơ hội thuận lợi rồi. Đây gái hầu Phây trên "pháo đài rừng" vừa xuống cho biết tình hình trên Cung Độn Thổ có thể đưa đại huynh đi được. Mau! Còn đi!

                      Mừng rỡ, Minh Thần vội rửa mặt uống nước, sửa soạn hành trang, nữ lang cùng gái hầu giúp chàng hóa trang thành gái hầu, áo trắng "phá" đen dài búi tóc giả, đính khăn, đi hài sảo, quần áo đàn ông, "sắc" cho vào giỏ mây đeo sau lưng, phút chốc đã hóa một cô Thổ trắng đứng dưới đèn. Nhờ điển trai, khổ người tầm thước vẻ thư sinh, giả gái coi giống hệt, rất xinh. Chủ tớ ngắm phải trầm trồ khen ngợi, lấy làm đắc ý.

                      Võ cùng Đèo Nguyệt Kiều vào gọi "xó" ra. Võ lại dùng thuốc bôi khắp mình át hơi người. Xong cô gái tần ngần chút, bảo:

                      - Dưới Cung A Phòng, Sài lang Chúa có lời nguyền rất độc. Phàm bất cứ ai xuống A Phòng không được tiết lộ điều bí mật. Ngu muội đưa huynh đi theo đường riêng, nếu để huynh thấy sẽ mắc lời nguyền độc địa. Huynh thể tình cho, chẳng phải ngu muội có ý giấu giếm gì đâu, vì huynh thừa sức đột nhập A Phòng.

                      Minh Thần khẳng khái gật đầu. Cô gái bèn lấy mảnh da hình con tam bịt mắt lại như nàng, khác chỗ khóet đều bưng kín. Mỗi người lại dùng khăn "voan" che mờ mặt, theo thói quen của gái dưới A Phòng. Xong, nàng đưa Võ đi liền, để gái hầu lại.

                      Nàng đưa Võ ra lối sau nhà, dừng lại. Có tiếng bịch bịch như cơ quan chuyển động. Cô gái ghé tai thì thào:

                      - Tám bậc! Nhớ đúng! Võ theo lời, nghe "kịch" trốc đầu, hình đậy nắp. Nàng nắm tay Võ hô "nhảy". Võ thấy mình rơi vào khoảng không, tới ngót chục giây, chân chạm lưới dập dềnh.

                      Nàng dắt chàng vào một đường hầm đá lạnh lẽo ghê người. Có tiếng gió hòa vi vu bên tai, mũi ngửi thấy mùi rêu mốc, nền đá gập ghềnh lên xuống không đều. Khoảng hơn trăm bộ, quanh co bỗng nghe tiếng róc tách như ngước chảy đâu đây, dưới nền ướt sũng. Chợt nàng ghé tai thì thào:

                      - Đàn chó sói! Mặc chúng! Cứ nắm tay ngu muội! Được ít bước, Võ nghe có nhiều tiếng chân vuốt cào nền đá táo tợn, rồi hàng trăm cái mõm nhọn chũi vào "phá" như đánh hơi.

                      Buột miệng Minh Thần tru khẽ một tràng "tiếng chó sói", lũ chúng phát kêu lên "hí hí", vẻ phục tùng, bỏ đi liền.

                      - Suỵt! Chớ lên tiếng! Đã bảo để ngu muội. May chỗ này vắng! Nhớ... huynh! Thôi dừng!

                      Minh Thần nghe có tiếng sình sịch rồi trước mặt, tiếng nước vỗ ầm ì, chừng mới "mở cửa đá". Tiện tay Võ sờ trước mặt, đụng kính dày dưới chân, nước chảy rỉ rỉ.

                      Bỗng mắt Võ thấy có màu đỏ khé, biết ngay Nguyệt Kiều vừa bật lửa chi đó. Vốn tinh ý, Võ đoán ngay đường này mở ra đáy Hắc Giang, có kính dày che như các hồ nuôi cá bên Âu Mỹ.

                      Quả nhiên chợt nghe tiếng cơ quan sình sịch chuyển động. Có tiếng Nguyệt Kiều thì thầm:

                      - Không thoát ngả Động Thủy Cung được. "Trành" canh gác hàng mấy con, quá nhiều thuốc đọc thủy lôi mắc chi chú! Đi ngả khác!

                      Lại một hồi quanh co đi mãi, tiếng nước xa dần, vượt hàng trăm thước địa đạo, bệ đá giếng khơi như đi giữa Mê Hồn trận, chẳng còn nhớ bao thước lên xuống quanh co nữa, bỗng cô gái khẽ bảo:

                      - Để ngu muội cõng huynh mới được. Khúc này cực kỳ nguy hiểm! Dứt lời, rất hồn nhiên nàng ghé lưng cõng luôn Minh Thần nhảy vùn vụt, ngang dọc, lên xuống, tứ tung. Nghe bên tai chó sói kêu "hí hí", mùi hôi hám sực mũi, như vượt qua hầm sói.

                      Nàng đặt Võ xuống, lại mở chốt vượt mười lăm bực đá, bỗng nghe nàng nói nhỏ:

                      - Qua rồi! Được ba phần nguy hiểm, còn năm! Ngón tay búp măng cởi mạnh da bịt mặt. Võ choàng mở mắt ra, sững sờ, thấy mình đứng trong cái hang vắng lặng, sâu chừng mười thước, khá rộng, cửa đá đã bị kíp chẳng biết chỗ nào.

                      Ngoài kia là khung trời trăng sương. Cô gái kéo Võ ra cửa hang. Mới ra đã khỏi Cung A Phòng. Hang này lưng chừng sườn núi đá. Dưới kia, thung lũng, núi đá trùng trùng nhấp nhô, sương khuya từng dải trôi ngang, mảnh trăng hạ tuần treo ngọn Tây như lưỡi hái tử thần. Minh Thần thở phào, bốn bề vắng lặng, vài tiếng hoẵng mơ hồ vọng lại nghe cô đơn lạc lõng lạ.

                      - Thoát khỏi Cung động A Phòng rồi. Nhưng vùng này vẫn trong vùng Độn Thổ cung. Còn phải qua mấy đợt hiểm nguy nữa. Nhưng chàng cứ thoăn thoắt trong vai gái hầu theo hầu nữ chúa. Quả nhiên không sẩy chuyện chi rắc rối. Xuống một đầu núi thấp, cô gái dừng lại khẽ bảo "Tới rừng ngoài rồi".

                      Nàng vụt quay nhìn Võ. Cả hai buông "voan". Đêm rừng khuya lạnh lùng hơi gió đông khan, mang mang buồn. Nàng chợt tối mặt lại, ve sầu chia phôi. Mãi mới rung giọng:

                      - Giờ huynh có thể... ra đi tìm thuốc trị thương. Đường đời đôi ngả, từnay... biết bao giờ gặp nhau! Chúc huynh... mạnh giỏi...

                      Minh Thần bỗng thấy lòng xao xuyến ngậm ngùi lạ. Chàng đăm đăm ngó cô gái bí mật dưới Cung A Phòng Tây Sắc thoáng buồn khó hiểu.

                      - Mang ân cứu mạng! Võ này chẳng biết chi đền đáp. Đời người thật nhiều oan trái, gặp nhau trong nghịch cảnh rồi chia tay đôi ngả nhưng suốt đời Võ này quên sao được những ngày ẩn náu trong buồng... hiền muội

                      Cá nước chim trời gặp gỡ, biết đâu chẳng có ngày gặp lại nhau... Xin hiền muội bảo trọng lấy thân...

                      Bốn mắt chạm tia nhau, thoáng giây tâm cảm huyền bí, cả hai cùng nao dạ, không lời. Cô gái dưới A Phòng tự nhiên nắm lấy tay Võ. Võ cũng chợt nắm tay nàng, rung động. Nàng lao thốc lại ôm chầm lấy Minh Thần, nước mắt chảy ròng ròng.

                      Chàng đỡ lấy nàng, mũi cay xè, rưng rưng xót xa cho cuộc tương phùng nghịch cảnh. Chưa kịp trao lời cá nước đã phải đoạn trường trương tri. Xốc lại hành trang, Võ khẽ bảo:

                      - Nguyệt Kiều ở lại... bộ xiêm y này, tôi sẽ giữ suốt đời. Võ đặt tay lên vai nàng, bờ vai tron lẳn rung mãnh liệt. Chợt đâu đây có tiếng một con sài kíu vang âm trong trăng sương... Rụt tay về, lòng nao hẳn, Võ Minh Thần xoay mình, chạy vội xuống chân núi.

                      - Võ Minh Thần! Chàng đi...! Vái trời, chàng thoát tai ương...

                      Cô gái A Phòng quay dòm theo, lẩm bẩm như thầm gởi cho gió, má hồng còn hoen nước mắt phân kỳ.

                      Cho đến lúc hình bóng chàng họ Võ giả trang đã khuất nhòe trong sương mờ trắng nhạt, nàng van còn đứng sững trên sườn núi, xa trông như hình Tô Thị vọng phu trên mạn Đồng Đăng Kỳ Lừa.

                      Dưới cánh rừng xa, bóng chàng tuổi trẻ nhòa mau trong trăng sương. Cô gái vừa quay mặt định trở về, thình lình có tiếng sói tru rởn óc, tiếp liền hàng loạt vang âm nhọn, ngay hướng Minh Thần vừa thoát đi.

                      Thất kinh, cô gái xoay người, cắm cổ chạy như gió xuống khu rừng sói tru. Lúc đó Võ Minh Thần vừa từ đầu núi băng mình xuống. Chàng định tới con suối gần đấy thay y phục, vì mặc "phá" đi hài sảo rất bất tiện. Nào dè chàng trai vừa tới bờ suối, định cởi (phá) bỗng nghe có tiếng rào ngọn cỏ như tiếng chồn cáo đi mò đêm. Chàng ngẩng vội lên, chưa kịp quan sát bỗng nghe tiếng "xó Khách" nói bên tai:

                      - Sài kíu! Thầy! Minh Thần quét lia mắt, bỗng giật thót mình, xế sau lưng, có một đàn sơn cẩu toàn giống Hồng Cẩu Quẩy, mắt đỏ khé đang ào ào kéo tới theo hình cung giương, dẫn đầu là một bóng "quỷ mắt đỏ" đi hai chân, lông vàng óng, bờm trắng, mắt than Tàu, lướt êm như gió thoảng, chỉ còn cách năm, sáu chục thước!

                      - Trời! Tây Sắc Ma Vương! Chàng trai buột miệng kêu, ngó phía trước, lại thấy một đàn nữa đang kéo tới định chặn lối. Nhanh như cắt, Võ nhảy vào bụi, nhưng có lẽ Sài lang Chúa đã thấy. Nó vùng tru lên một tràng sởn óc, đàn sói cũng tru âm, xé từng bầy chạy bao vây. Biết nguy, không thể kiếm đường lộn sang chỗ Quản Kình đợi, "xó" lại không thể rời xa xác, Minh Thần vội truyền xó chạy ngả Bắc xế, còn chàng lập tức cắm cổ phóng về hướng Nam. Tuy gấp, chàng vẫn còn bình tĩnh tụt đôi hài sảo dắt vào mình, sợ để lại, nguy hại cho cô gái A Phòng đã cứu mình!

                      - Mặt sắt giỏi! Thoát nổi A Phòng! Có đứa phản Chúa sài lang giúp mi. Đứng lại! Đừng mong trốn chạy đem theo bí mật A Phòng.

                      Tiếng Tây Sắc bay theo, Minh Thần cứ chạy ẩn sau gốc cây bờ bụi, sợ nó tung đòn. Chàng nghiến răng hét:

                      - Chúa sói! Ta không tiết lộ sào huyệt mi đâu! Ta sẽ trở lại, rửa oán thù, bắt sống mi làm lễ vật tế hồn oan phụ mẫu.

                      Lời dứt, thân hình đã lướt tới gần bầy sói trước mặt, định bang vọt đi trước khi chúng ào lại chặn lối. Nhưng vẫn không kịp. Dưới trăng loang lổ bóng cay ngàn, hàng hai, ba trăm cặp mắt đỏ khé đã dàn ngang lố nhố, trùng trùng, xẹt vòng sang Tây cũng chẳng kịp nữa.

                      Vận hết uy lực, Võ Minh Thần hú luôn một tràng "tiếng sơn cẩu chúa đầu đàn", và sốc theo tiếng hú. Đằng sau, lại có tiếng Tây Sắc tru hộc truyền lệnh. Bầy chó sói này bỗng đứng yên, trố mắt dòm, chừng phân tâm chưa biết tuân lệnh ai.

                      Đang lúc đó, Võ lao mình thẳng tới, dụng thuật khinh phù dẫm lên đầu chó sói, bắn người đi.

                      Nhưng chàng vừa chạy, nhảy được mấy hàng, cách nhau vài sải một thì Tây Sắc tru thêm dữ tơn trong trăng. Võ thoáng thấy bảy, tám còn vùng đứng hai chân sau chồm đón vồ, tránh không kịp, Võ đành đạp mạnh đầu sói bắn vọt mình qua đầu lũ kia, thân hình bay bổng lù lù sát dưới cành cây.

                      Đoàng đoàng đoàng! Liền mấy phát súng nổ, cành lá trốc đầu Võ rào rắc gãy lìa, đạn "chíu" bên tai. Võ thất kinh quơ vụt tay túm được một cành ngang trên đầu, theo đà vọt tung mình lên cao bíu lấy cành lá rậm lòa xòa. Đạn vẫn bắn vãi theo, lá đứt phựt rào rào theo luồng đạn đi. Chuyền cành tuy khuất nhưng cũng nguy hiểm không kém, Minh Thần thấy đã vượt qua đàn sói, vội nhảy ào xuống phóng chạy, Tây Sắc Ma Vương tru hú, xua sài kíu đuoi theo đông như rươi.

                      Minh Thần chạy, mắc "phá" không bước dài được, trút bỏ cũng chẳng có thì giờ, chàng nhanh trí kéo tốc lên cho gọn. Nào dè, chạy được chừng hai trăm thước, gặp ngay một rặng đồi chắn ngang, suối chảy kẽ đồi, chạy theo bờ suối. Đàn "quỷ mắt đỏ" tuôn theo.

                      Chẳng may chạy được quãng nữa, lại gặp dây leo chằng chịt, chàng đành chạy vòng xuống nước. Điều này thật nguy hiểm vì dưới suối bao giờ cũng trống cả.

                      Được mươi sải, Võ vừa xẹt vòng lên bờ thì bỗng đau nhói đùi trên, chàng trai loạng choạng vừa chạy vừa chúi vào bờ. Biết đã trúng đạn, chàng cố cắn răng, chạy lảo đảo.

                      - Mặt sắt tới số rồi! Bắn què hắn rồi! Minh Thần ngoái nhìn lại, thấy hình thù Tây Sắc Tinh đang rượt theo như cơn lốc dữ. Chàng chạy ra được đầu hẻm thì máu đã chảy ướt đùi, trong mình cảm thấy suy kiệt khác thường, hình như đòn của Ma Vương Sắc tái phát.

                      Tưởng đến oán thù chưa báo nổi, chàng trai nhào vào một gốc cây, thở dài kêu ai oán:

                      - Thân ta chết cũng chẳng sá chi, chỉ hận thù chưa trả... ngờ đâu tuyệt mạng chốn này...

                      Mắt Võ hoa lên, rừng cây như nhảy múa luồng vào một cơn gió thổi, lá vàng bay tấp vào người Võ. Chàng chợt giật mình kinh dị thấy từ đằng sau phóng vọt ra một con thú hết sức kỳ dị, mắt sáng như điện, đầu như có sừng, hình thù bốn chân mình mẩy rêu phong đat cát giây leo hoa cỏ mọc um tùm, coi quái đản hết sức. Nó phóng ra đứng sừng sững trước mặt Minh Thần như cản lối, miệng nó phát kêu một tràng như long mã hí.

                      Minh Thần trừng mắt dòm, vụt nhận ngay được con quái thú nay chính là con thú đã đánh nhau với con Mạc tại vùng biên thùy Trùng Khánh phủ và đã mang chàng lên núi, cứu được Bạc Khao Lan năm ngoái. Chàng lảo đảo tiến đến, vừa thở vừa kêu:

                      - Dị thú! Sao lại gặp mi ở đây? Tiếc thay mạng ta sắp tuyệt, mi khôn hồn thì hãy chạy cho xa, chó sói đàn đuổi tới rồi đó.

                      Lạ thay! Rõ ràng con thú này nhận được Võ Minh Thần, nó gật gật cái đầu lòa xòa dây leo, ngà vểnh, kêu "hí hí" như mừng rỡ rồi phóng vút lại, đảo nửa vòng, chồm dựng đứng.

                      Minh Thần ngạc nhiên hỏi:

                      - Mi định cứu ta? Quái thú lại gật gật đầu, Minh Thần không chần chờ, vội nhảy ngay lên lưng nó. Con quái thú vểnh đầu, chạy về hướng Nam nhanh như tên ban.

                      Phía sau, Ma Vương Sắc đang xua chó ào ào truy đuổi thì bỗng thấy Minh Thần cưỡi thú chạy vùng ra, hắn vội quát lên:

                      - Bắn què con thú đó đi, đuổi theo, chia ra bao vây bắt lấy nó. Đàn "quỷ mắt đỏ" chạy ào theo, chia thanh bốn, năm bầy túa ra mấy phía rừng, vây kẹp. Có hơn chục con vùng đứng hai chân chĩa súng bắn đì đẹt. Minh Thần nằm mọp trên lưng quái thú, mặc cho nó phi như gió cuốn. Bỗng nghe "chíu, chíu" hai tiếng vang lên, đã có hai viên đạn trúng mình con thú. Lạ một điều là con thú vẫn chạy như thường, Minh Thần đang thầm khen nó mình đồng da sắt thì bỗng lại "chát" một tiếng, bên sườn phải đau buốt lên. Trong mình Võ có mặc áo giáp nhưng đạn vẫn xuyên qua được, chàng chỉ la lên được một tiếng nhỏ rồi đổ gục xuống trên lưng con dị thú, bên tai nghe văng vẳng tiếng "quỷ mắt đỏ" tru vang động rừng khuya, tiếng gió vù vù bên tai... rồi ngất đi lúc nào không biết nữa...

                      Comment


                      • #12
                        Hồi Thứ Mười Hai




                        Bắc Yên Thần Nữ Biên Giới



                        Không hiểu bao lâu, tự nhiên Võ Minh Thần choàng tỉnh lại. Hay nằm mê, chàng vẫn không phân biệt rõ được.

                        Chàng thấy mình vẫn nằm mọp trên lưng dị thú, đầu nghẹo sang một bên. Ánh sáng kỳ lạ ùa vào mắt làm chàng tuổi trẻ vô cùng ngạc nhiên thấy cánh rừng bên Cung A Phòng tại thượng nguồn Hắc Giang đã biến mất từ hồi nào rồi! Cả Tây Sắc Ma Vương, đàn quy mắt đỏ, ánh trăng khuya, tất cả đều như lùi về dĩ vãng xa xôi. Chàng thấy quanh mình đầy ánh thái dương trong trắng như ngọc lưu ly, ríu rít tiếng oanh thỏ thẻ, tiếng nhiều giống chim hót véo von, xa chút có tiếng vượn ru con chót vót và gió thổi nhè nhẹ, tiết trời ấm áp lạ.

                        Đồng thời Võ nhận ra con dị thú đang đi bước một thong dong như ngựa được lỏng buông tay khấu!

                        Chàng trai hít một hơi dài. Không khí trong lành hít vào thấy nhẹ hẳn người. Tuy vậy trong người chàng vẫn mệt rũ chẳng khác ốm liệt giường. Cố gượng sức, chàng ngóc cổ lên nhìn quanh, lòng thêm bàng hoàng khó tả. Dị thú đang đi giữa một vùng nương đồi cao vọi, phong quang, hoa bướm bạt ngàn sơn dã. Trên các tàn cây xa, oanh yến líu lo như chào lạc thiên thai, ngay cạnh có mấy bầy công trắng, công xanh đang xòe đuôi múa, thấy thú đi qua, không buồn bay!

                        - Lạ thật! Mình mê hay tỉnh thế này? Đây là đâu? Hay là lạc vào thế giới thần tiên? Võ băn khoăn tự hỏi, con dị thú đi về phía mặt trời mọc, qua mấy cánh nương đồi Võ thấy nhiều rặng núi xanh lam xanh đậm in trên nền trời. Đang nghĩ miên man bỗng nghe tiếng địch thổi véo von, âm thanh trong vắt như tiếng sáo thổi non bồng.

                        Ngạc nhiên, Võ Minh Thần cố lắng tai nghe, tiếng sáo chơi vơi bốc tận mấy tầng trời, tỏa rộng, tiếng sáo nổ phía trước, rồi lại nghe tiếng sáo nổi sau lưng, phía tả, hữu, cứ thế veo von réo rắt rồi nhất loạt đổ cả xuống, làm chàng tuổi trẻ bỗng lâng lâng cảm giác thần tiên lạ lùng hết sức.

                        Chàng cố gượng ngóc đầu lên dòm quanh, chỉ thấy bốn bề toàn bướm bay, ngút ngàn sơn dã, chợt hàng đàn tấp vào bờm thú, mặt chàng. Võ giương mắt nhìn kĩ, mới hay lại không phải đàn bướm, mà là hoa, toàn hoa nở xòe cành lá rung rinh trước gió, lao xao như bướm bay, màu hoa cà tuyệt đẹp.

                        - Không phải "hoa bướm"! Miền Tây Bắc Việt Nam rừng rú nhiều "hoa bướm", nhưng "hoa bướm" thường nở tại các bờ bụi, vào cử giêng, hai,... trắng xóa. Đây là đâu? Lại chơi vơi tiếng sáo Thiên Thai?

                        Chàng muốn ngồi dậy nhưng toàn thân như tê dại, dán vào lưng thú. Tiếng sáo véo von "trôi" lại phía chàng, nghe càng gần, rồi bỗng nhiên ngừng bặt. Chợt nghe có tiếng cười khanh khách bên tai, khắp mấy phía nương hoa đổ lại. Rồi tiếng cười cũng im bặt. Võ nghe có tiếng kêu thánh thót, rõ giọng đàn bà con gái.

                        - Ô kỳa... có con thú lạ đâu lạc tới! Lại coi!

                        - Con gì thế kia? Ô coi giống con nai.

                        -Không phải con nai... à! Con long mã. Ờ mà lạ dữ à! Hình như trên lưng nó mọc đầy cây cối hoa cỏ! Nó có cái bướu như con lac đà!

                        -Không phải cái bướu! Người! Trên lưng nó có người nằm! Một cô gái mặc "phá" Thổ! Lại coi xem! Cô gái nằm ngủ! Giọng nói líu lo thánh thót nói tiếng Thổ Thái nhưng âm khác, tuy vậy nghe thánh thót như suối đàn, hình như tiếng một bầy gái trẻ. Ngay khi đó, con dị thú đứng lại, phát ra mấy tiếng kêu lạ tai, tuy nho nhỏ nhưng vang ầm tỏa rộng, chứng tỏ nó khí lực cực sung mãn. Võ Minh Thần nghe nhiều tiếng xôn xao, rồi thấy từ mấy phía kéo tới một bọn gái núi ríu rít như bầy chim sơn ca. Các nàng đứng vây quanh con dị thú nhưng không lại gần, chỉ trỏ, bàn tán, toàn gái trẻ, từ mười sáu tới hai mươi, xinh xắn lạ.

                        Minh Thần nghe bọn gái xúm nhau bàn tán, có nàng bảo đem lưới ra bắt, có nàng lại gạt đi, xem chừng tất cả đều tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự xuất hiện của con dị thú chở người trên lưng. Con thú gật đầu, lững thững đi tới. Mấy cô lùi lại. Bỗng nghe có nàng bao:

                        - Con long mã này không làm dữ! Cứ lại gần coi sao! Không chừng cô nàng kia bị nạn!

                        Minh Thần ngóc đầu lên, đã thấy bầy gái lạ rón rén kéo lại gần đứng cách độ hai thước. Võ muốn lên tiếng nhưng lưỡi cứng lại, khong sao cử động nổi. Chàng chỉ biết mở mắt dòm xuống trừng trừng. Chợt một cô gái reo lên:

                        - Lại coi! Lại coi! Người đàn bà mở mắt, còn thức! A lạ chưa! Mở mắt mà không nói! Đàn bà lại có lông chân!

                        Minh Thần muốn đưa tay vẫy, có dấu hiệu làm thân, nhưng không sao giơ nổi. Tình trạng chàng lúc này giống hệt kẻ nằm mơ, ngủ co chân không sao chạy nổi. Chàng thoáng nghĩ chẳng biết mình đang mơ hay thực? Trước mắt, bầy gái lạ bỗng lắc lư chờn vờn to lớn dị thường, đầu muốn đụng trời xanh. Võ ú ớ, mê đi lúc nào chẳng biết.

                        Rồi, lần này chẳng biết bao lâu, bỗng nhiên chàng tuổi trẻ lại choàng tỉnh giấc.

                        Cảm giác đầu tiên cũng kỳ dị, như hồi chợt tỉnh miền động thất Pi A Ya. Vì chàng tuổi trẻ thấy mình nằm trong một căn phòng hết sức nhỏ nhắn, hương thơm ngào ngạt, nhẹ hẳn người.

                        Ngạc nhiên, chàng cúi nhìn mình, thấy mặc một bộ quần áo chàm mới, hình như quần áo của Bạc Khao Lan ngày nào may cho chàng lúc lên đường. Ngó quanh, chàng thấy mình nằm trên một chiếc giường đẹp, chăn nệm thơm tho, màn vắt cánh, các đồ đạc bầy biện trang hoàng trong phòng coi đều lạ mắt, với các đường nét, hình thể hay hay, phảng phất vẻ phi phàm.

                        Từ phía sau cửa màn trông thẳng lên trên vách có treo một chiếc "đồng hồ nước", loại đồng hồ thời cổ vẫn dùng, hình dáng rất lạ. Giọt nước tí tách rơi, cứ mỗi khắc một giọt, rỏ xuống một mảnh kim khí chi đó, phát lên một tiếng "coong" trong vắt êm tai.

                        Im lặng bao trùm, "giọt đồng hồ" rỏ triền miên, đơn điệu, cảm giác Võ Minh Thần như lạc vào cõi xa xăm mơ hồ lạ. Chàng hít mạnh một hơi, cảm thấy trong mình đã khá, tuy vậy vẫn còn mệt. Chàng chống tay ngồi dậy, nhưng vừa ngồi lên, mắt đã hoa, đầu choáng, lảo đảo nằm dụi xuống.

                        - Đây là đâu?

                        Tự nhiên, chàng buột miệng kêu lên, nghe tiếng mình vang âm xa lạ như tiếng người khác nói, làm chàng bất giác kinh dị, vùng kêu:

                        - Sao lạ thế này? Tiếng mình thốt sao nghe xa lạ thế?

                        Lại phen kinh ngạc nữa, thấy miệng phát âm rõ ràng, nhưng liên tục, tiếng nói như từ đâu tới.

                        - Có lẽ tại mình ốm yếu, thính giác không tốt! Hay có chuyện gì khác đây?

                        Minh Thần nằm nghĩ loanh quanh thấy trong người rất tỉnh, chẳng hôn mê chút nào. Đang hồi tưởng chuyện xảy ra, chẳng hiểu con dị thú đâu, bỗng nghe có tiếng cửa mở, rồi thấy bảy, tám bóng nữ thướt tha tiến vào, bước thẳng lại cạnh giường. Võ ngước mắt trông ra, thấy đám nữ nhân này mặc xiêm y rất lạ, đi đầu là một người đàn bà rất trẻ, chẳng rõ là thiếu phụ hay thế nữ. Người đàn bà nói:

                        - Mặt mũi thân dáng có đòn tinh ghê gớm thế? Võ không khỏi phục thầm nàng hiểu rộng, gượng lên tiếng:

                        - Bà đoán không sai! Kẻ này xuống Cung A Phòng đánh nhau với Tây Sắc tinh trong Mê Hồn Trận, không ngờ bị đòn tinh!

                        Người đàn bà thở dài, ái ngại:

                        - Thiếp có thể trị được đủ thứ đàn công, nhưng cũng đành bó tay trước vết thương của khách. Vì Tây Sắc đánh đòn phi phàm, thuộc bí pháp càn khôn, khác hẳn võ học xưa nay! Ngoài vòng càn khôn trên đời chỉ có một người trị nổi! Thiếp đã cho khách uống linh đơn chế ngự độc tinh, chờ người đó! Khách cứ yên lòng nằm nghỉ.

                        Minh Thần khẽ hỏi:

                        - Thưa có phải là vị Thánh y Mai Hoa Thung?

                        - Chính thế, sao khách biết?

                        - Vì "người" đã cứu kẻ này một lần.

                        - À! Nhưng Thánh y hay đi chu du đây đó, chỉ sợ khó tìm, mà bệnh này... chỉ còn hai ngày nữa!

                        Minh Thần kín đáo thở dài. Chàng không sợ chết, chỉ buồn thù mẹ cha chưa trả nổi và lịm đi, khi tỉnh lại thì thấy người đàn bà lạ đứng ngay bên giường, chỉ trạc hai mươi thôi, khoác một cái áo choàng đen viền kim tuyến coi tròn trịa loại "kimônô" Nhật, thân hình cân đối yểu điệu, áo choàng hở, lồ lộ khuôn ngực căng phây phây sức sống, sống cổ cao trắng như ngó, mắt phượng, mày ngài hơi xếch, môi cong, mũi thon, cốt cách thần tiên, khiến Võ vừa nhác thấy phải sinh lòng kính mến ngay.

                        Người đàn bà nhìn vào, thấy Võ mở mắt, nàng vùng nhướng may, thỏ thẻ kêu:

                        - A! Khách đã tỉnh! Khách thấy dễ chịu phần nào chưa? Minh Thần lại một phen kinh ngạc, nghe nàng nói, vành môi động đậy, nhưng tiếng lại như chính Võ nói ra. Chàng cố chống tay dậy thủ lễ, nàng tiến lại rất tự nhiên, kéo ghế ngồi bên giường, dịu dàng ra hiệu cho chàng cứ nằm yên. Không đợi chàng hỏi, nàng nói luôn:

                        - Con dị thú mang khách tới vùng thần động, khách mê man. Chúng thị nữ tưởng đàn bà, thay áo mới hay đàn ông. Khách bị thương nặng, gặp hồi phát tác. Nữ chủ lại dịu dàng bảo:

                        - Dị thú mang khách đến đây, đó là duyên ngộ đặc biệt, có khi nào lại chịu đoản mạng vì đòn độc. Khách cứ an tâm nằm nghỉ, sớm muộn sẽ có tin vui.

                        Nghe nàng nhắc đến con dị thú, Võ chợt hỏi:

                        - Thưa... phu nhân, chẳng hay con thú đó đâu rồi?

                        Nữ chủ thánh thót đáp:

                        - Con thú đó đưa khách tới sơn động, cứ đứng chảy nước mắt, hình như linh thú biết khách lâm nguy, sau đó nó đã đưa sứ giả đi kiếm Thánh y rồi! Xem ra nó mến khách hết sức! Có lẽ cũng do kỳ duyên hiếm có, chưa ai hiểu nó thuộc giống chi?

                        Minh Thần nghe chuyện càng lấy làm lạ, chàng gượng kể qua cuộc gặp gỡ con dị thú trên biên thùy Trùng Khánh cho nữ chủ nghe. Chủ khách đàm đạo mấy câu, chàng trai nghe tiếng mình từ đâu vọng tới, còn tiếng người đối thoại lại như miệng mình nói ra, lòng chàng rất kinh dị, nhưng không nói ra.

                        Chợt nữ chủ mỉm cười hỏi:

                        - Sao khách lại nói thiếp là phu nhân?

                        Minh Thần cũng chẳng biết trả lời sao, chỉ lúng túng đáp:

                        - Kẻ ngộ nạn này được dị thú cứu đem tới đây, nào đã hiểu chi đâu, chỉ có cảm tưởng... phu nhân... vì... Chàng chưa tìm được lời dien tả thì nữ chủ đẹp uy nghi đã cười bí ẩn bảo:

                        - Người ta thường chỉ gọi phụ nữ có chồng là phu nhân, có điều lạ là cảm tưởng của khách rất đúng, tuy sơn động này chưa khi nào có bóng đàn ông. Khách là người đầu tiên đặt chân đến chốn này! Âu cũng do cơ trời xui khiến. Từ lúc gặp khách, sơn động này mới biết đạo trời màu nhiệm, không hề phụ kẻ thành tâm.

                        Minh Thần nghe lời úp mở, chẳng hiểu chi cả, vội lên tiếng hỏi, chỉ thấy ca đám chủ tớ đều mỉm cười khó hiểu... Nữ chủ bảo:

                        - Giờ chưa phải lúc khách hiểu rõ chốn này, khách hãy nằm nghỉ, trị bệnh ngặt xong hãy hay!

                        Dứt lời, lấy trong hộp khảm ra một viên linh đơn bỏ vào miệng Võ, tự tay nàng rót nước nóng, đỡ đầu chàng lên cho uống.

                        Tuy đang mệt rũ, nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, Minh Thần không khỏi ngượng nghịu thấy nữ chủ săn sóc mình quá tự nhiên. Chàng thấy gáy mát dịu hẳn đi trên cánh tay ngà ngọc, mũi thoáng thấy mot mùi thơm vô cùng huyền bí từ cơ thể nàng tiết ra, hình như là mùi lan xạ đặc biệt của đàn bà tuyệt thế, nhưng trong mùi thơm lại phảng phất một thứ hương "siêu phàm" kỳ ảo lạ khiến chàng tuổi trẻ lại vụt có cảm giác mình lạc vào một miền "khác thường", gặp đám thục nữ "khác thường" có sức hấp dẫn kỳ dị, làm người ta phát điên đảo tâm hồn. Võ nín thở uống vội ngụm nước, vô tình chạm ánh mắt nàng, ánh mắt sáng biếc như vì sao, vưa âu yếm khó hiểu lại vừa đứng đắn chỉnh tề hết sức, làm người ta xao xuyến bồi hồi và hối hận ngay vì sự xao xuyến đó.

                        Võ lại nhắm nghiền mắt lại, "nghe" rõ nàng vừa đặt đầu mình xuống gối bông, và như miệng mình tho thẻ với giọng suối đàn vui vui rất nhỏ:

                        - Khách này lạ thật! Gần đàn bà không dám thở sợ hít phải hơi nữ, mắt không dám mở sợ trông rõ nhan sắc! Hảo lang quân! Kỳ trượng phu! Yếu bóng vía!

                        Minh Thần muốn cãi lại, nhưng không muốn nghe tiếng mình từ đâu vẳng tới như ma quái nên cứ nằm im. Chừng mươi khắc nghe yên lặng, vội mở mắt ra thì người đàn bà kỳ dị kia đã bỏ ra từ khắc nào với đám thế nữ.

                        - Đây là đâu? Miền nào mà bí hiểm thế? Nữ chủ cũng bí hiểm, nói khó hiểu lạ? Thế giới nào đây? Hay cảnh trong mê? Phải, biết đâu đấy!

                        Minh Thần nằm nghĩ vẩn vơ, đầu óc chập chờn, chẳng dám quyết hiện đang sống thực hay nằm mộng sau lúc đòn thương tái phát! Chàng trai có cảm giác bàng bạc, nhìn vật nào cũng có vẻ Lão Trang, vơ vẩn như Trang Sinh xưa chẳng hiểu mình hóa thành con bướm hay bướm hóa ra mình.

                        Bốn bề yên lặng, chỉ có tiếng đồng hồ nước nhỏ giọt boong boong gợn âm hưởng xa xôi...

                        Rồi chàng lại thiếp ngủ mất. Hình như rất lâu. Và khi tỉnh dậy lần thứ hai, đã thấy người đàn bà lạ và tỳ nữ xúm quanh giường, lần này hàng hai mươi nàng! Vẻ mặt ai nấy đều có vẻ buồn rầu, tất cả đứng vòng trong vòng ngoài, yên lặng không khác đứng... mặc niệm chàng vậy! Còn nữ chủ bắc ghế ngồi bên giường, khuôn mặt đẹp tuyệt trần như phủ một làn mây chiều u ám, coi não nùng hết sức.

                        Lần này Minh Thần không còn tỉnh táo hoàn toàn như trước, tay chân bất động, tuy vậy đầu óc chưa hôn mê, chàng vẫn còn tri giác hơn năm phần để hiểu là bệnh trạng mình chắc đến hồi nguy kịch!

                        Quả nhiên thấy chàng mở mắt ra, nữ chủ lập tức cui xuống hỏi thăm bệnh trạng và buồn bã cho biết tính đến chiều này, đã gần hết hạn kỳ bảy ngày đêm, chỉ còn mươi tiếng nữa là hoàn toàn tuyệt vọng và hiện giờ đã tám giờ đêm.

                        - Chỉ còn đêm nay nữa thôi, không lẽ sứ giả động phủ không tìm được Thánh y? Hay tìm được nhưng vì xa quá, không về kịp? Nếu khách có mệnh hệ nào... thì...

                        Nàng thỏ thẻ, ngó Minh Thần như định nói gì, lại thôi. Võ Minh Thần chỉ nằm im, kín đáo thở dài. Trong cơn thập tử nhất sinh, chàng nghĩ đến mớ di hài mẫu thân, đến gốc nguồn, mối thù bất cộng đới thiên chưa báo được.

                        Chàng tuổi trẻ cố gượng lắp bắp môi định nhờ nữ chủ lấy giùm hành trang, lục mớ di hài, nhờ trối lại cho Chúa Mã Đầu, bỗng ngay lúc đó ngoài xa nổi lên mấy tràng âm thanh lạ, người đàn bà và đám thế nữ lật đật kéo ùa ra.

                        Phút chốc đã thấy nữ chúa cùng đám hầu gái vùn vụt trở vào, dẫn theo một vị khách, mặc áo trắng lòa xòa, râu tóc bạc phơ, mình còn mang nguyên dấu vết bôn hành.

                        Vị khách theo nữ chủ tiến thẳng đến cạnh giường Võ nằm, phiêu phiêu đầy vẻ tiên phong đạo cốt, tay chống cây gậy trúc dài. Nữ chủ nói luôn:

                        - Đến nay vừa đúng bảy ngày, chỉ còn đêm nay nữa! Yên Phủ mong đợi tôn giá từng giờ từng phút! Dám mong Thánh y ra tay cứu mạng cho chàng!

                        Khách râu bạc đăm đăm ngó Võ Minh Thần, chàng trai chưa kịp cử động, bỗng khách râu bạc vùng nhướng cau mày sửng sốt kêu len:

                        - Ôi chao nghiệt số! Người lành hiếu nghĩa sao mãi gặp tai ương? Tưởng khách Yên Phủ là ai, hóa chàng khách Pi A Ya trước? Năm nọ chính lão hủ này đã trị bệnh dữ cho chàng rồi! Lần trước bị Giao Long Tinh, lần này Tây Sac Tinh Sài lang Chúa. Hai phen đều bị đòn tinh, lạ thật! Ha ha! Kỳ ngộ, kỳ ngộ! Tưởng khách nào đáo Yên phủ chứ chàng khách này lão hủ có lời mừng! Có lời mừng!

                        Lão ngồi luôn xuống bên giường khẽ hỏi:

                        - Này người bạn trẻ biết lão chăng? Võ gật đầu vì vị khách chính là Thánh y Hải Thượng Lãn Ông tái thế miệt rừng thẳm Si Công Linh.

                        Ông lão vén tay áo, thò tay chẩn mạch, bỗng cau mày nói:

                        - Còn xương da con Mạc ngày nọ không? Bệnh nguy lắm rồi! Phi xương da con Mạc thì không phép nào trị nổi!

                        Võ Minh Thần gật đầu, phều phào được hai tiếng "trong sắc" rồi hôn mê đi không hay biết gì nữa.

                        ... Cũng chẳng biết bao lâu, bỗng một hôm chàng tuổi trẻ vùng dậy! Mở choàng mắt ra, thấy mình vẫn nằm trong gian phòng trước, đồ đạc y nguyên, bốn bề im vắng thâm sâu.

                        Cảm giác đầu tiên của chàng là cảm giác của kẻ chết đi sống lại, trong mình như đổi khác hẳn! Vì bệnh hiểm đã biến sạch bao giờ, chàng thấy thể xác linh hồn như mở rộng đón tiếp cuộc sống mới.

                        - Ta mê hay tỉnh thế này? Đây vẫn dương gian hay thế giới nào? Chàng bật kêu lên, và thấy rõ tiếng nói của mình từ miệng phát ra chứ không nghe như từ đâu vọng tới.

                        Võ vùng chống tay nhổm dậy. Mãi lúc đó mới thấy người còn mệt nhưng chỉ là cái mệt của kẻ mang bạo bệnh mới khỏi, đang thời kỳ "ăn trả bữa"!

                        - Có ai ngoài đó không? Chàng gọi lớn, bước xuống giường, định tìm dép, bỗng hơi giật mình chợt nhận ra ngay chỗ đầu giường, có một bóng nữ ngồi trên chiếc ghế tay ngai cổ, khoanh tay gục vào thành giường. Bóng này nghe động sực tỉnh, choàng thức ngẩng trông lên. Thì ra người đàn bà chủ động phu bí ẩn này!

                        Vẻ mừng hết sức, nàng vội bước lại, dìu Võ nằm xuống giường, thỏ thẻ bảo:

                        - Ấy chết! Khách chớ nên cử động sớm có hại! Thánh y bảo khách còn phải nằm hai mươi bốn giờ nữa mới hoàn toàn hồi phục.

                        Nhìn vẻ lo âu, mất ngủ còn hiện rõ, chàng trai cảm kích đáp:

                        - Cám ơn lượng bao dung của phu nhân, ngu mỗ thấy trong mình đổi khác hẳn, tuy còn hơi mệt chút! Hình như phu nhân đã vì kẻ ngộ nạn này mà... mất ngủ nhiều đêm... ân trọng biết lấy chi đền đáp?

                        Người đàn bà ngó Minh Thần đăm đăm, giọng mười phần sung sướng như chính nàng khỏi bệnh:

                        - Chắc chắn khách thoát nạn rồi! Giờ thiếp mới hết lo! Theo vị thánh y Lãn Ông tái thế cho biết, bệnh khách phải đúng bảy ngày đêm mới khỏi hẳn, đúng bằng thời gian chất độc hoành hành trong mình. Khách đã nằm thiếp đi đúng sáu ngày đêm, chỉ còn hai mươi bốn giờ nữa. Thánh y bảo, dẫu tỉnh trước kỳ hạn cũng vẫn phải đơi chân nguyên khí ngũ hành phục hồi theo đúng ngày giờ. Khách chớ nên khinh suất!

                        Minh Thần cảm động vô cùng, nhưng vốn không hay khách sáo, chàng chỉ nằm ngó người đàn bà kỳ lạ, trên khuôn mặt đẹp uy nghi huyền bí, hiện vẻ thân thiết khác thường, chợt nàng để tay lên ngực khẽ bảo:

                        - Giờ nhìn khách thiếp mới hết kinh sợ! Đêm Thánh y Si Công Linh tới động phủ, lúc "người" đang làm thuốc trị bệnh, bỗng khách vùng bật đứng giữa giường, hú lên một tràng quái gở như tiếng chó sói tru đêm trăng lạnh, rồi nằm vật xuống, thân thể phập phồng, teo dần lại như trái bóng xì hơi, trong người phát những tiếng oẹ chòm chọp, như có con heo vô hình đang "ăn hèm" hết sức ghê sợ! Chỉ trong vòng năm phút, thân thể khách đã bị xẹp hẳn đi đến nửa phần, coi phát rợn! Đến nỗi Thánh y cũng phải sợ, tưởng đến hồi tuyệt vọng. May sao, nhờ thiếp cũng biết qua nghề thuốc, đã phụ giúp Thánh y bào chế, nên lúc đó, dược liệu cũng vừa xong. Sở dĩ lâu tới mấy trống canh là vì phải cất chế thành nước, thành bột vừa tiện uống vừa đắp vào người. Đêm đó Thánh y đã phải tiêm vào người khách hàng lít dược thủy! Chữa trị xong thì trơi vừa sáng!

                        Nàng ngưng một chút, nói tiếp:

                        - Thiếp ngồi canh, đúng ngọ, mở chăn ra thì thấy thuốc đắp đã vụn từng mảng, chỉ thổi nhẹ một cái đã tan thành bụi khô như cám bay đi! Thân hình khách đã trở lại gần bằng trước, gân thịt đã rắn như cũ! Mãi khi đó mới đỡ lo! Theo lời Thánh y thì bệnh trạng đã tới hồi phát tác, kẻ khác có lẽ nguy rồi, may nhờ khách vốn vững nhân nguyên khí nên mới thoát, nếu không... sẽ biến thành cái túi da người nằm trên giường này, cũng như hàng trăm nạn nhân Tây Sắc hấp sát tinh quân Hồng cẩu quẩy.

                        - Phu nhân và Thánh y đã gia ân tái tạo cho kẻ khốn cùng này! Ân đức thật như trời biển!

                        Minh Thần thở phào, tiếp lời nữ chủ, hai người ngó nhau chưa dứt kinh hoàng, Võ chợt hỏi:

                        - Chẳng hay Thánh y đâu? Xin cho ngu mỗ được gặp!

                        - Thánh y bận việc nên đã rời động phủ ngay sau đêm trị bệnh! Nhưng "người" hẹn sẽ trở lại. Người cũng muốn gặp lại khách và thiếp để... nói... cho khách hay điều gì lạ lùng đó.

                        Câu cuối, người đàn bà có vẻ hơi lúng túng, mãi mới thốt nên lời, làm Minh Thần cũng lấy làm lạ. Tuy còn mệt, lòng đầy thắc mắc, Võ định lên tiếng hỏi nhiều chuyện, thì nàng đã đứng dậy, cáo từ, thoăn thoắt bỏ ra ngoài mất.

                        Võ Minh Thần nằm lại một mình, lòng hoang mang, vẩn vơ, chờn vờn hàng trăm câu hỏi trong đầu.

                        Ánh sáng từ ngoài lọt vào, trong suốt như ngọc lưu ly, nhưng thấy ánh thái dương! Không khí rất nhẹ, khí hậu đầm ấm dịu dàng như về tiết xuân thiên. Võ nhìn đồng hồ nước, tiếng giọt đồng "bong bong" đơn điệu, ngấn nước trỏ con số mười! Bốn bề tĩnh mịch vô cùng.

                        Lắng nghe văng vẳng có tiếng sáo nổi chìm véo von huyền ảo như tiếng sáo Thiên Thai, mơ hồ xa xôi, phảng phất có tiếng chim khảm khắc bâng khuâng từ hai vòm trời nào rớt vọng về buồn cô đơn.

                        - Khảm khắc kêu... có lẽ là mười giờ đêm. Võ đang nằm nghe tiếng động đêm thâu, chợt có một thế nữ bưng khay thuốc vào, mời uống. Cô ta trạc mười bảy mười tám, mặt mũi xinh xắn, dáng dấp nhanh nhẹn, cử chỉ lễ phép hết sức.

                        Uống xong, thấy Võ vừa đặt bát xuống khay, cô ta định bưng ra ngay. Võ nằm buồn, lại định thắc mắc, vội bảo:

                        - Này cô em! Hãy nán lại chút cho mỗ hỏi vài câu!

                        Thế nữ đứng khựng, vẻ ngạc nhiên, Võ cười dịu bảo:

                        - Này, hình như mỗ có gặp cô em trên nương hoa bướm ngày nọ thì phải!

                        Coi mặt quen.

                        Thế nữ kính cẩn, mắt ánh lên nét vui vui:

                        - Dạ bẩm tướng công vẫn còn nhớ con? Chính con thấy dị thú mang tướng công tới đầu tiên, lúc đầu chúng con lại tưởng "ông thú" có cái bướu.

                        Minh Thần nghe cô ta xưng hô quá kính cẩn lại gọi mình là tướng công, gọi luôn dị thú là "ông thú", chàng trai không khỏi bật cười, nhướng mày kêu:

                        - Ôi chao, cô em chớ xưng hô bừa bãi thế. Mỗ đây chỉ là một kẻ lang thang gió bụi, sao cô em lại gọi mỗ là tướng công? Gọi khách, gọi... tiên sinh cũng đủ rồi.

                        Thế nữ thoáng ngạc nhiên, hơi cười chút, vẫn cung kính:

                        - Dạ bẩm tướng công, chúng con đâu dám vô lễ! Dẫu chúa có thương, phận chúng con đâu dám thế! Được hầu hạ tướng công là con sung sướng rồi! Bẩm tướng công dạy con điều gì?

                        Thấy cô gái xinh ăn nói hết sức chững chạc, xem chừng đã quen hẳn chốn quyền quý, Minh Thần càng lạ, nhưng nghĩ có nói cũng bằng thừa, chàng vội hỏi:

                        - Này... đây là đâu vậy cô em? Ta yếu mấy hôm, quên mất! Cô gái đáp luôn:

                        - Bẩm... đây là miền động phủ Yên Thần.

                        - Nhưng là ở đâu? Xứ nào chứ?

                        - Dạ bẩm Yên Thần động phủ xứ Phù Dung! Cũng có khi gọi là Phù Dung

                        Thần Động!

                        Minh Thần lắc đầu:

                        - Mỗ muốn biết đây thuộc nước nào? Tàu hay ta...?

                        Cô gái đáp luôn:

                        - Dạ không thuộc nước nào! Đây là nước riêng! Không phải Tàu, không phải ta, không phải Lào! Gọi là nước Yên!

                        Minh Thần nghe lạ tai hết sức, tưởng chừng đã thác hồn lạc đến miền nào. Chàng dòm sững thế nữ, nghĩ:

                        - Bình sinh ta chưa hề nghe ai nhắc đến nước Yên bao giờ! Đêm đó ta bị thương ngất trên lưng thú, có lẽ nó đã đem ta vào miền đất lạ này, chắc phải xa thượng nguồn Đà Giang! Cứ xem ngôn ngữ, y phục, cung cách của nữ chủ, các thế nữ, có lẽ đây thuộc đất Lào, Tàu chi đó, chứ thủa nay làm gì có đất Yên? Lạ dữ à! Phải kiem cách hỏi cho ra mới được!

                        Bèn dịu dàng bảo:

                        - Nước Yên này có gần sông Đà, khúc Hắc Giang không? Cô gái lắc đầu:

                        - Con không biết! Con chưa ra khỏi động phủ bao giờ!

                        - À quên! Nữ chủ đây là ai nhỉ? Người thuộc sắc dan nào?

                        Võ lại thêm một lần nữa sững sờ khi nghe thế, thế nữ vội cung kính đáp nhỏ như sợ phạm thượng:

                        - Bẩm... Chúa bà là Thần Nữ cai quản cả nước Yên, rừng núi, súc vật, người ta, tà ma yêu quỉ đều dưới quyền Chúa bà!

                        - Thần Nữ! Nữ Thần? Nước Yên? Thần cai quản cả tà ma yêu quỉ? Thế là thế nào? Không thuộc đất Tàu, ta, Lào? Chẳng lẽ thuộc thế giới... ngoài cuộc sống?

                        Ngay khi đó thế nữ cúi đầu chào quay ra, Minh Thần gọi giật lại:

                        - Khoan! Cho mỗ hỏi đã! Thế nữ ngoảnh lại, Minh Thần cười gật gù:

                        - Nữ chủ của cô em là Thần Nữ? Phải chăng Thần Nữ là Nữ Thần... người ta vẫn thờ không?

                        Cô gái gật đầu "dạ phải" làm Võ Minh Thần càng lấy làm lạ, nhất thời chưa biết hỏi sao cho thật sát nghĩa để có thể hiểu được thực trạng nơi mình đang tá túc! Mươi khắc mới tìm được câu hỏi:

                        - Vậy Nữ Thần chủ cô em đây là người gì?

                        - Dạ người nước Yên và là Chúa các động thần trên xứ Phù Dung.

                        Thực ý Võ muốn hỏi là người cõi thế hay cõi âm, là người ta hay là ma quái thánh thần... Nhưng nghĩ hỏi thế vừa sỗ sàng vừa ngộ nghĩnh, Võ sực kiếm được câu hỏi khác:

                        - À Thần Nữ có lệnh phu quân không? Là mỗ muốn hỏi Thần chủ cô em có chồng không?

                        Thế nữ mở to mắt dòm đầy vẻ sửng sốt, rồi chợt cô gái che miệng, cô nhịn cười như lấy làm kỳ lạ về câu chàng hỏi. Ngay lúc đó, bỗng vẳng có tiếng đàn bà ngoài xa vọng vào, giọng nghiêm nghị tuy vẫn dịu dàng:

                        - Em Slao làm gì trong đấy mà lâu thế? Làm kinh động tướng công ư? Phải, phải, tiếng nữ chủ động phủ, nhưng vừa nghe lọt, thế nữ bỗng tái mặt, dáo dác ngó ra, rồi chào vội Minh Thần, bỏ đi liền. Chàng trai nằm nghĩ loanh quanh, càng nghĩ càng lạ, thấy người đàn bà nào đó vừa gọi Slao cũng xưng tụng chàng là "tướng công", chứng tỏ không chỉ có cô gái Slao kia gọi, có lẽ thảy đều gọi thế.

                        - Sao lại phong mình là "tướng công" oai vệ thế? Minh Thần chỉ là kẻ lang thang sông hồ cầu sương điếm cỏ, có làm quan chức chi đâu? Có lẽ người ta gọi thế cho long trọng, tỏ lòng hiếu khách! Minh Thần tạm thỏa mãn với lời phỏng đoán của mình. Chàng định bụng sẽ lựa lời hỏi thêm nữa. Nhưng một ngày một đêm nữa trôi qua, vẫn chẳng thấy người đàn bà kỳ dị kia tới thăm chàng. Thế nữ Slao cũng không thấy mặt, ngày đêm mấy lần có một cô gái khác mang các món cần dùng vào "dâng" khách. Nàng này cung kính và câm lặng như cái bóng, Võ hỏi, nàng chỉ đứng im rồi quay ra. Chàng trai đành chịu phép. Qua hai mươi bốn giờ nữa, chàng đã hoàn toàn bình phục. Sáng sớm tỉnh dậy, vươn vai, thay trong mình khoan khoái hết sức, Võ Minh Thần vừa bước xuống giường, định ra ngoài coi xem, đã thấy thế nữ bưng nước rửa mặt vào, như thông lệ.

                        Võ rửa mặt xong, lại thấy cô gái khác mang trà vào. Chàng uống vội một tuần. Bỗng thấy một toán ngót chục cô gái trẻ thoăn thoắt bước vào tay xách nách mang đủ thứ. Võ ngồi trên giường nhìn ra, chợt để ý thấy hôm nay các nàng đều mặc áo quần mới rực rỡ nhiều màu, như sửa soạn dự hội mùa xuân. Cả đám đứng trước giường, cúi rạp đầu, chắp tay cung kính. Một nàng lớn tuổi nhất líu lo:

                        - Kính bẩm tướng công, bữa nay tướng công khỏi bệnh, chúng con được lệnh Thần Nữ thỉnh tướng công đi tắm, còn dự yến chung thân!

                        Nghe lạ tai, Minh Thần cười bảo:

                        - À! Tắm cũng tốt đó! Mỗ đây liệt giường cả tuần. Thấy nhớp nhúa lắm rồi! Nhưng sao lại dự yến tiệc chung thân? Cả đời mỗ mới được ăn yến sao? Nàng kia cung kính:

                        - Dạ bẩm tướng công, nhân dịp tướng công khỏi bệnh, động phủ có mở tiệc ăn mừng. Tiệc này cả đời mới có một lần nên gọi là yến chung thân. Dạ dám thỉnh tướng công! Thần Nữ sắp vào thăm tướng công!

                        Minh Thần đứng dậy, theo đám gái hầu lạ này ra khỏi căn "phòng", mới hay chàng đang nằm trong một căn nhà sàn rộng lớn, nền gỗ bóng loáng, trước phòng Võ là một dãy hành lang rộng, nhìn tít xa thấy điếu kiều in đậm trên nền trời. Nhưng đi chưa hết hành lang, đám gái đã rẽ sang một hành lang khác dẫn tới một khu buồng rộng, khói tỏa mịt mù.

                        Nàng lớn tuổi kính cẩn:

                        - Dạ bẩm tướng công, xin cho cởi áo quần, đã tới buồng tắm rồi! Võ Minh Thần bình sinh sống tại nhiều miền sơn cước, vốn đã hiểu phong tục miền núi thường coi chuyện tắm truồng hết sức tự nhiên. Tuy vậy, thực sự chàng chưa hề tắm lối đó trước mặt ai, nhất là đàn bà, nên nghe thế nữa nói, chàng hốt hoảng, xua tay bảo:

                        - Cám ơn! Cám ơn! Để mỗ tắm lấy được rồi! Các cô cứ ra ngoài! Cả bọn lộ vẻ ngạc nhiên, gái lớn tuổi lễ phép:

                        - Dạ chúng con đâu dám vô lễ! Bổn phận của chúng con phải hầu tắm theo tục lệ, nếu không, sẽ đắc tội với Thần Nữ! Tướng công thương, cho ra chúng con đâu dám! Được hầu tướng công cũng là có phước rồi!

                        Chối mãi không được, Võ đành phải chiều theo lệ động phủ, để mặc cả đám xúm lại hầu!

                        Tuy vậy, Võ Minh Thần vẫn nhất định không cho cởi hết quần áo, cứ để nguyên chiếc quần cộc, vào buồng tắm. Hơi nóng mịt mờ như sương khói, nhìn kỹ mới thấy mọi vật.

                        Đám gái hầu "phò" chàng vào một cái ghế bành rộng, có thể bấm ngã ra như nằm trên giường.

                        Ghế bằng mây đặt trên hai khúc song hình cung, nằm, ngồi, gật gù như "ông lật đật" làm Minh Thần muốn phì cười. Nhìn lên, thấy quanh buồng có nhiều ống kim khí đang phun khói phì phì. Khói ám vào người, vật, lấm tấm rỏ giọt.

                        Võ Minh Thần hỏi đám the nữ:

                        - Phải bên kia vách có lò nấu nước không?

                        Một nàng kính cẩn đáp:

                        - Dạ bẩm tướng công không phải, chỉ có một bộ máy nhỏ chạy bằng sức nước, mang các ống kim khí cho nước nóng thôi. Đằng sau có một con suối nước nóng rất trong lành tắm có thể khỏi được nhiều thứ bệnh. Chẳng những thế, suối nước nóng này còn làm da thịt mịn màng, gân cốt cứng cáp. Ai có bệnh đau bụng kinh niên, nhức đầu, nhất là ghẻ lở, sốt rét rừng, uống vào rất mau khỏi. Suối này có tên "Thánh Toàn Ôn" vốn là nguồn nước quý của nước Yên! Xưa nay Yên Phủ có lệ cứ một năm có một ngày ban nước "ôn toàn" trị bệnh cho thiên hạ. Sợ cho lắm làm ô uế nguồn nước quý, Thần Nư có truyền làm một cái ao riêng khơi nước vào cho người Yên tắm, gọi "ôn trì" về phía cuối chân núi, còn đây chính là chỗ tắm riêng của Thần Nữ gọi là "Trầm ôn phòng", không ai được vào đây tắm. Hôm nay chỉ có tướng công! "Ôn toàn" có một mạch khe phun nước phun khói đêm ngày, Thần Nữ cho khói tuôn qua ống nóng để tắm cho tinh túy!

                        Võ Minh Thần đang nhìn bên vách, thấy có nhiều bàn tay kỳ cọ mình, vội quay nhìn lại, bỗng hơi giật mình một cái vì lố nhố quanh mình năm sáu nàng thế nữ đã trút bỏ xiêm y lúc nào chẳng biết, trong làn khói mờ hình bóng đám nữ nhân hiện ra không một chút vải lụa che phủ, phô trọn các đường cong uốn chờn vờn như một bầy tiên nữ khỏa thân tắm nước Ngọc Tuyền.

                        Vẻ tự nhiên hết sức, cả bọn xúm lại, kẻ nắm tay, người nắm chân, đè gáy, dùng khăn thổ cẩm kỳ cọ cho "tướng công", mấy bàn tay ngà xinh xắn hầu rất khéo léo, nét mặt cả đám tuy tươi như hoa nở, vẫn hiện rõ vẻ kính cẩn không khác đám cung nữ hầu vua chúa, làm Võ Minh Thần thấy ngượng hết sức. Vì tuy đã biết qua phong tục tập quán của dân các bộ tộc sơn cước, vẫn coi chuyện tắm truồng là chuyện vô cùng tự nhiên, nhưng bình sinh chàng cũng chưa quen tắm khỏa với phái nữ, nên mắt thấy cảnh này thì không khỏi "thất kinh", đỏ cả mặt.

                        - Ối chao! Bày đặt chi chuyện tắm rửa "giết người" thế này? Mình từ nhỏ ở với tôn sư quen lối "nam nữ thụ thụ bất thân" lối Khổng Mạnh, giờ Thần Nữ nước Yên lại bắt mình chịu cảnh "hầu tắm" thật khổ! Nhưng người ta có quý khách thì mới cho thế nữ hầu hạ cẩn thận, theo tục lệ bản địa, chẳng lẽ mình phản đối, vậy chẳng khác nào chê tục lệ người ta? Thù bất nhược, cứ mặc họ muốn làm chi thì làm!

                        Bất quá cũng như chịu một cái tai nạn hay hay vậy thôi! Bèn cứ ngồi yên trong ghế mây, cho các nàng kỳ cọ. Hơi khói ấm áp làm người chàng dễ chịu hẳn, như trút sạch được cả tàn tích bệnh dữ trên mình. Chừng mười phút, các nàng lại dìu khách nằm xuống, vừa kỳ vừa xoa bóp, y hệt các chú khách "tẩm cốt" vậy. Một mùi thơm kỳ ảo từ trong sương khói phả vào mũi vào các thơ thịt, những bàn tay xinh xắn chạy trên lưng như rắn bò, khác hẳn lối xoa bóp của con nhà võ. Bỗng thấy các nàng đẩy ghế ra khỏi buồng, Võ ngạc nhiên hỏi:

                        - Các cô em không tắm sao?

                        - Dạ bẩm tướng công, chúng con đã làm lễ tắm rửa sạch sẽ trước khi vào hầu tướng công! Chúng con chỉ bỏ xiêm y cho khỏi ướt!

                        Sang căn buồng bên, ánh sáng chan hòa, các nàng đặt Võ nằm xuống đấm bóp một hồi nữa, và bôi vào người chàng một thứ nước thơm kỳ lạ, trong khi một nàng bưng đặt dưới gầm ghế một lò trầm nghi ngút.

                        Một nàng lớn tuổi nhất cầm dao cạo râu, cạo mặt, bấm gáy cho khách, tay dao, kéo thạo không thua thợ hớt tóc lành nghề! Chải đầu xong, một nàng keo soạt bức rèm xanh lơ, để lộ một tấm gương bằng cái chiếu.

                        Võ nhìn vào gương, không khỏi mừng vì thấy thần sắc đã như xưa. Mấy nàng bưng khay y phục tới:

                        - Xin tướng công mặc lễ phục! Sắp tới giờ hành lễ rồi! Sửng sốt, Minh Thần ngơ ngác:

                        - Sao? Lễ phục? Cái gì đó?

                        - Dạ, đại lễ của Yên Phủ, nhân ngày tướng công bình phục! Nước Yên đã van cầu từ buổi tướng công tới! Dứt lời, không đợi Võ kịp đáp nữa, mấy nàng xúm lại mặc quần áo cho chàng.

                        Minh Thần không khỏi lấy làm lạ, thấy thứ quần áo mấy nàng mặc cho hết sức kỳ dị, không kể quần áo trong nguyên chiếc áo dài mặc bên ngoài coi đã lạ lùng, đặc biệt, toàn bằng thứ cẩm dệt rực rỡ, nửa như thứ áo xường xám Tàu, nửa như áo tế xưa, màu đỏ, viền, thêu kim tuyến, rất khéo!

                        Nhìn vào gương coi đỏ đỏ vàng vàng tua ngũ sắc sặc sỡ như quần áo pháp sư nhưng lối y phục của vua rừng chúa núi hay của một pho tượng thần nào đó!

                        Càng nhìn càng lạ, Võ Minh Thần suýt bật cười, vì từ nhỏ chàng thường chỉ quen mặc quần áo chàm, hoặc có một vài lần mặc áo dài gấm chữ "thọ" may lối áo Kinh, áo Tàu, chưa hề mặc thứ y phục kỳ dị như bữa nay. Bất giác chàng vùng hỏi lớn:

                        - Ôi chao! Này các cô em! Sao lại mặc thứ quần áo sặc sỡ lòe loẹt như... phường tuồng thế này? Quần áo lối gì đây? Bọn thế nữ ngó nhau mỉm cười, nàng lớn tuổi nhất kính cẩn đáp qua:

                        - Dạ bẩm tướng công, đây là y phục cao quý nhất Yên Phủ! Hơn hai mươi năm nay mới có tướng công mặc lần thứ nhất! Bữa nay là ngày vui nhất của nước Yên chúng con!

                        Rồi không đợi chàng khách kịp hỏi, mấy nàng xúm lại sửa sang ngắm nghía, khen líu lo như bầy sơn ca.

                        - May hai, ba năm rồi, không ngờ lại vừa khổ người tướng công. Từ nay Yên Phủ càng linh hiển, dân gian được hòa cốc phong đăng! Tướng công mặc y phục trọng lễ coi uy nghi khôi vĩ lạ thường, thật đai phước cho nước Yên!

                        Nghe các nàng nói cả chữ nho thành thạo không thua các cô đồ cô khóa dưới bình nguyên, Minh Thần càng ngạc nhiên, vừa toan hỏi nữa, đã nghe xa xa có tiếng "đàn cồng" nổi lên tiếng rầm vang núi rừng nghe hết sức huyền bí. Nàng lớn tuổi nhất cung kính cúi đầu:

                        - Xin rước tướng công dời gót, sắp tới giờ làm lễ! Minh Thần theo đám thế nữ ra khỏi phòng tắm, người thơm phức toàn mùi kỳ dị, dễ ngửi hết sức, lòng riêng đầy thắc mắc, đảo lộn bao ý nghĩ phức tạp. Chàng thấy "miền hoa bướm" Yên Phủ này mỗi lúc thêm bí ẩn lạ lùng, nhưng cứ làm thinh không hỏi nữa. Cả bọn "phò" Võ qua mấy dãy hành lang về phòng cũ. Vừa tới cửa phòng chơt ngạc nhiên thấy một đám đông người sắc phục rực rỡ đủ màu từ phía hành lang xế trước tiến lại, đông hàng mấy trăm người, phía sau đám đông có tiếng đàn cồng, tiếng khèn tiếng sáo địch sênh tiền đủ thứ âm véo von như nước chảy. Dẫn đầu đám đông chính là người đàn bà đẹp uy nghi có tên lạ Thần Nữ Yên Phủ. Sáng nay nàng mặc bộ quần áo vàng, ngoài khoác áo choàng cũng màu vàng, đầu chít khăn vàng bằng kim tuyến hoa nổi lấp lánh như dắt trang kim, chân đi hài Thổ màu vàng nạm bạc cườm, sa phia, kim cương sáng rực. Trong sắc phục toàn vàng kim tuyến, nàng đẹp lộng lẫy hẳn lên gấp bội, sắc tuyệt trần lồ lộ còn phảng phất nét uy nghi như có pha nhan sắc phi phàm, làm Võ Minh Than nhác thấy càng sửng sốt, chẳng hiểu sáng nay có đại lễ chi mà nữ chủ mặc lộng lẫy thế!

                        Theo nhịp âm thanh nổi, Thần Nữ Yên Phủ uyển chuyển bước lại trước mặt Võ. Vạt áo nàng dài lê thê, có hai thế nữ cầm nâng, không khác cung nữ dâng xiêm y cho các bà Âu Châu xưa. Xế sau lưng, hai bên có một bầy thế nữ bưng lắm thứ như khay, mâm quả, giỏ... phủ vải điều! Sau nữa, lố nhố đâu đây trẻ già nam nữ, ai nấy khăn áo chỉnh tề rực rỡ, dẫn đầu là một đám bô lão râu tóc bạc phơ! Nhiều người chống gậy lưng còng.

                        Và xế bên Thần Nữ là một ông già râu tóc bạc phơ coi đầy vẻ tiên phong đạo cốt. Võ thấy mặt hao hao quen, đoán chắc vị Thánh Y Hải Thượng Lãn Ông tái thế!

                        Khi nữ chủ miền đất lạ này bước đến sát chỗ Minh Thần thì tiếng "nhã nhạc" chợt im, một bọn ngót hai chục ông già râu dài tiến lại đứng xế bên nữ chủ, nhất loạt chắp tay vái Minh Thần, hô lớn như đọc văn tế:

                        - Hàng động phủ mừng tướng công lành bệnh, xin kính chúc tướng công bình an trường thọ hưởng phúc lâu dài, xứ Yên thịnh vượng.

                        Nhất hô bá ứng, Minh Thần chưa kịp đáp, đã thấy ông già tiên phong đạo cốt tiến lại nói luôn:

                        - Lão mỗ vội vã từ Si Công Linh trở lại đây mừng công tử đã thoát nạn dữ, và xin chúc công tử vui nơi Yên Phủ, ngộ kỳ duyên đáo miền Phù Dung mười phần xứng ý.

                        Võ Minh Thần lật đật tránh sang bên, toan phục xuống tạ ân cứu mạng, vị Thánh Y Lãn Ông đã trỏ Thần Nữ vẻ trịnh trọng lạ thường bảo:

                        - Từ ngày công tử lạc tới miền Yên Phủ hôn mê bất tỉnh chưa biết chuyện kỳ ngộ do thiên số định, nay bệnh ngặt đã qua khỏi, công tử cũng cần biết qua định số. Đây Thần Nữ chúa tể Phù Dung xứ, giáo chủ Phù Dung Thần Giáo, Chúa Ngàn ba biên giới, chúa người, chúa vật, chúa các loại thảo mộc cỏ hoa, Chủ tế các Thần Mây Thần Gió Thần Mưa... Danh tôn Phù Dung Thần Nữ Phù Dung Nương Nương, chủ tế Tam Biên lãnh địa, hậu duệ Yên Thần!

                        Võ Minh Thần tuy đã đoán người đàn bà đẹp này là nữ chúa miền động lạ này, nhưng nghe xong lời giới thiệu của vị Thánh Y Lãn Ong chàng trai cũng không khỏi sững sờ khi được biết thêm người đẹp đã cứu mạng mình là một nhân vật thần bí, vừa là một nữ hoàng biên giới, vừa là giáo chủ Thần Giáo, kiêm luôn giáo chủ Đa Thần Giáo, uy quyền có le còn hơn cả các bực vua chúa khác vì coi cả pháp quyền lẫn thần quyền. Trong thoáng giây, chàng hiểu mình đang đứng trước một nhân vật thiêng liêng hết sức đối với dân bản địa, chàng trai sực nghĩ:

                        - À! Yên quốc, Phù Dung Thần Giáo...? "miền hoa bướm"! Thôi đúng rồi, hoa thuốc phiện! Chúa Ngàn Tam Biên lãnh địa...? À! Nếu vậy thì miền này chẳng phải thuộc thế giới nào khác lạ, chắc là miền quanh vùng biên giới Tây Sắc chi đây! Nhưng có lẽ là một miền bất khả xâm phạm chi đây, nếu không Sài Lang Chúa dám lần mò tới. Nữ chúa giáo chủ hết lòng cứu giúp mình, ân này lớn lắm, nay trước hàng động, ta phải tạ ơn ngay mới được.

                        Bèn cúi đầu, chắp tay toan phục dài cả Thánh Y lẫn Thần Nữ, nhưng rất nhanh, nàng đã bước tới, dịu dàng nắm lấy tay Minh Thần, cất giọng thánh thót nhưng suối đàn:

                        - Tướng công chớ nghĩ tới ân nghĩa nữa! Bữa nay là ngày đại lễ, tướng công sẽ đứng cho hàng động thần dân Yên quốc lễ mừng! Xin tướng công chớ khinh động!

                        Dứt lời, dìu nhẹ chàng vào trong cùng với vị Thánh Y. Minh Thần vẫn chưa dứt ngạc nhiên, ngó hai người bảo:

                        - Mạng này lẽ ra đã dứt, nay còn được là nhờ Thánh Y, Thần Nữ, nếu không cho ngu mỗ tạ ơn, lòng sao yên ổn?

                        Thánh Y xua tay, vuốt râu bảo:

                        - Chính là do ân thiên địa thần linh mới phải! Công tử bất tất nhọc lòng nghĩ tới! Có điều rất lạ, khi trị bệnh, lão phu thấy có điều hết sức quái gở, cần phải nói ngay công tử rõ! Là cả hai lần bị đòn dữ đều giống nhau như đúc, cũng đều là đòn tiên chất kim khí trong cơ thể, nếu không có xương da con Mạc thú, chắc vô phương cứu chữa! Công tử nên lưu tâm, xương da con Mạc thú là thần dược trị đòn tinh, công tử còn chút nào, nhớ cất giữ cho cẩn thận! Tinh Chúa còn nguy hiểm, công tử nhớ kỹ phòng về sau!

                        Ngạc nhiên, Võ hỏi:

                        - Nếu vậy cả hai đòn cùng một gốc? Giao Long Chúa, Sài Lang Chúa đều dùng dị pháp càn khôn? Hay cả hai con tinh này chỉ là một giống hóa hình ra? Thần Nữ dịu dàng:

                        - Điều đó sau sẽ rõ, nhưng tướng công có thể an lòng từ nay không sợ nó nữa! Yên Phủ có bí pháp trấn quốc, thiếp sẽ truyền cho tướng công, nếu không trị được loài tinh chúa đó, cũng không lo nó phạm tới người.

                        Thế nữ dâng trà, nước, ba người cùng cạn, bỗng nghe tiếng âm nhạc nổi lên. Thánh Y cao giọng:

                        - Đã tới giờ hoàng đạo, thần dân ngóng đợi, xin Thần Nữ hãy thỉnh tướng công đến đền thờ.

                        Hai người đưa Võ ra ngoài, thế nữ xúm quanh, thần dân xếp hàng "phò" ba người đi thẳng ra phía đầu hành lang. Minh Thần bàng hoàng thấy một vùng nương đồi rực rỡ hiện ra, bỗng nghe có tiếng hô "kiệu đăng sơn"!

                        Từ ngoài, ba cỗ kiệu khá lớn tiến vào, kê sát hành lang. Mỗi cỗ kiệu có bốn thổ dân khiêng, một cỗ sơn đỏ, một cỗ sơn vàng, còn một cỗ sơn xanh coi rất lạ mắt. Đám thế nữ xúm lại "pho" Võ Minh Thần lên cỗ kiệu đỏ, Thánh Y Lãn Ông lên kiệu xanh, Thần Nữ lên kiệu vàng.

                        Cồng nổi vang rền, đàn sáo địch tiêu khèn sênh tiền... trổi âm thanh bổng trầm véo von như tiếng nhạc nước thần. Ba cỗ kiệu tiến vụt đi như trôi theo luồng âm thanh phi phàm, kiệu Thần Nữ đi trước, tới Minh Thần rồi Thánh Y, theo sau là dòng người nước Yên cuồn cuộn như nguồn thác lũ.

                        Chàng tuổi trẻ phong trần bỗng rơi vào một vùng cảm giác hết sức lạ lùng, tâm hồn xao xuyến, bàng hoàng, bất định giữa khung cảnh càng lúc càng trở nên thần bí, khó hiểu. Nhưng trước tấm thịnh tình của Yên Phủ, và nhất là trước cảnh tượng nghiêm đầy vẻ thiêng liêng, đầy tính cách lễ nghi, tập tục của miền đất đã cứu mình thoát nạn dữ, Võ cũng chẳng biết làm gì hơn là cứ phó mặc cho dòng người thần bí này cuốn đi theo tiếng nhạc rước thần.

                        - Chắc tục lệ xứ Phù Dung này đây, các sắc sơn cước biên thùy, thượng du đất Việt ta thường vô cùng hiếu khách. Miền Phù Dung quốc này lại biền biệt giữa ba dải biên giới Việt Trung Lào lại càng hiếu khách hơn! Có lẽ nhân dịp khách khỏi bệnh, họ tổ chức kỳ đại lễ ăn mừng đay! Nhưng một kẻ tứ cố vô thân không nhà không cửa như ta mà họ lại phong cho chức tướng công kể cũng buồn cười thật! Mà kỳ lạ nữa là đến vị Thánh Y đạo mạo râu dài cũng cứ gọi mình là tướng công... mới khó hiểu chư! Nhưng chắc lễ mừng khác thật, vị Thánh Y cũng được dự mà! Chắc ra nơi hành lễ đây!

                        Võ Minh Thần thấy yên lòng, đưa tay vén rèm trông ra, mới hay chỗ mình vừa nằm dưỡng bệnh là một khu dinh cơ thật nguy nga đồ sộ, nằm lưng đồi phong quang đầy kỳ hoa dị thảo, tòa ngang dãy dọc, điếu kiều chạy quanh như lối kiến dinh Chúa Mèo Woòng Chí Sình trên miệt Hoàng Sĩ Phù!

                        Nhưng lối kiến trúc và màu sắc lại phảng phất vẻ thần bí như chốn đền thờ nào, so sánh với lối kiến trúc Cung A Phòng Tây Sắc dưới đáy Hắc Giang, chốn dinh phủ lâm tuyền này phảng phất nét thiêng liêng kỳ bí, còn A Phòng quái gở phi phàm như dưới cõi âm!

                        - Phù Dung Thần Giáo! Dinh phủ của Thần Nữ Phù Dung có khác! Thần bí thật! Kỳ lạ thật!

                        Võ lẩm bẩm, lòng lâng lâng nhẹ nhõm, chung quanh chàng là một miền hoa bướm bạt ngàn sơn dã, bản thổ rải rác, không khí trong lành, cảnh trí thần tiên như chon Bồng Lai, suối khe róc rách "ôn toàn" bốc khói mờ sương coi càng giống cảnh tiên non Bồng trong các bức tranh thủy mặc.

                        Đặc biệt là rất nhiều công, trĩ, oanh, yến, sơn ca, họa mi, khướu, yểng toàn giống chim đẹp nhởn nhơ bay đậu múa hót líu lo, chứng tỏ đây là miền đất lành, khí hậu tốt lạ thường.

                        Qua nhiều rặng đồi nương, thung lũng, tới một cánh rừng thưa cây, đầy dị thảo, kỳ hoa, ba cỗ kiệu lướt lên một trái đồi lớn. Võ trông ra thay cờ quạt cắm đầy, thổ dân võ trang đứng dàn dọc từ dưới lên trên đồi, hiện ra một tòa đền đài nguy nga đồ sộ toàn bằng đá xanh đá trắng, hình thể cũng nhiễm vẻ thần bí lạ thường.

                        Ba cỗ kiệu vượt lên đồi, giữa hàng thổ dân dàn dọc, tinh kỳ phấp phới. Dòng người đứng cả dưới chân đồi, chỉ có một bầy thế nữ theo đi kiệu cùng phường nhạc rừng.

                        Đền thờ chót vót ngọn đồi, chung quanh cây cối um tùm, coi như những cây tùng tán khổng lồ. Ngoài khu vực đền thờ, cả rặng đồi đều trồng "thâu" hoa nở xòe bạt ngàn.

                        Võ Minh Thần vén hé rèm trông lên, thấy sân đền rất rộng, lối đi lót toàn đá trắng, phía ngoài có hàng rào trồng cây thấp như các dậu dam bụt, găng, xương rồng dưới xuôi, hoa leo, hoa "bướm" mọc đầy, một cái cổng đồ sộ, cũng bằng đá ghép như lối kiến trúc thành nhà Hồ tại Phủ Quảng Thanh Hóa, ngoài có tấm biển sơn son khắc nổi thếp vàng rực rỡ bốn chư Hán lối chân phương "Phù Dung Thần Điện".

                        Trong sân, bên cổng, trên thềm, lố nhố nhiều bóng người y phục chỉnh tề. Ba cỗ kiệu vượt qua cổng tiền, băng qua sân, đặt sịch dưới thềm, tới đâu người người cúi rạp đầu chào hết sức cung kính. Đám thế nữ chạy lên, vén rèm, tít trên, có hai "lực sĩ" ôm thảm trải vụt xuống, tấm thảm dệt bằng vỏ cây, màu sặc sỡ loang loáng chạy cuồn cuộn như lớp sò ngũ sắc. Võ Minh Thần vừa đặt chân xuống thì mép thảm cũng vừa kịp phủ kín bệ đá, không nhanh, không chậm nửa khắc! Đám thế nữ "phò" ba người lên điện, vị Thánh Y Lãn Ông tái thế đi trước, tay chống gậy trúc, cách vài bậc mới tới Thần Nữ Phù Dung Giáo Chủ và Võ Minh Thần, chàng trai định lùi lại đi sau nhưng Thần Nữ cứ đi sát bên chàng, đám thế nữ bước sát sau, bưng các mâm lễ vật phủ vải điều, làm chàng phải bước song song với Thần Nữ, lòng chợt nổi lên hàng trăm ý tưởng vẩn vơ nghi hoặc!

                        Nhưng chàng tuổi trẻ không có thì giờ nghĩ nhiều, phường nhạc sau lưng đã trỗi khúc gấp gấp dặt dìu như thác chảy, Thánh Y Lãn Ông, Thần Nữ Phù Dung đi vùn vụt theo, thoắt đã vượt hai mươi tầng bệ đá, lần tới thần điện trên.

                        Minh Thần nhìn vào thấy điện rộng mênh mông, trần thiết rực rỡ vàng son coi vừa thâm nghiêm vừa thần bí với những bệ thờ, đồ thờ, rèm trướng, cờ quạt, thứ nào cũng lạ mắt hết sức! Đặc biệt là lối kiến trúc trong điện khác hẳn những đền thờ Phật giáo, Ki Tô giáo, hoặc các điện thần, Võ đã được thấy từ trước đến giờ, lối kiến trúc trần thiết khác lạ này như hút con mắt người ta. Võ mới ngó đã có cảm giác kỳ dị như bị cuốn cả tâm hồn vào cảnh trí thần bí trong đền. Chàng thoáng cảm thấy mơ hồ như mình cũng đã từng thấy lối kiến trúc này ở nơi nào đó trên bước đường luân lạc theo tôn sư năm mười năm trước.

                        - À... coi từa tựa như đền thờ Hồi giáo thì phải! À! Hồi theo tôn sư đến xứ Turkestan (Tân Cương) miền đất Tàu Hồi giáo, ta cũng đã được thấy nhiều ngôi đền thờ đạo Hồi kiến trúc giống ngôi đền này! Tại miền Bắc biên giới Việt-Trung- Lào không có dân theo Hồi giáo, sao xứ Yên này lại có ngôi đền giống đền đài của dân Ả Rập? Không lẽ do lính Ả Rập trong đội quân thuộc địa người Bắc Phi đem tới? À! Có lẽ do nguồn gốc giống Phù Dung Yên quốc xưa mãi tận lưu vực Lưỡng Hà, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ chăng? Nhưng chẳng lẽ người xứ Phù Dung khuất tịch này có liên lạc tận các xứ xa xôi kia sao?

                        Đang nghĩ loanh quanh, đã thấy một đám đồng nam đồng nữ tiến ra, dẫn đầu là một ông lão râu tóc cũng bạc phơ như vị Thánh Y Lãn Ông, vẻ người đạo mạo, tay trái cầm một chiếc chìa khóa vàng, tay phải cầm một cái gậy hình thân cây cũng bằng vàng. Cả bọn tới trước mặt ba người, đồng nam đồng nữ xếp dọc hai hàng, đứng sau ông lão dáng người thủ đền, tất cả đồng cúi rạp đầu chào. Ông lão kia nói một tràng tiếng lạ tai, chừng thổ ngữ riêng, lơ lớ như tiếng Thổ Thái, hai tay lão giơ cao khỏi đầu.

                        Võ Minh Thần ngó qua, thấy đúng hai mươi đồng nam, hai mươi đồng nữ, tuổi từ mười hai tới mười bốn, mười lăm, nam mặc áo đỏ, nữ mặc áo vàng, màu áo Thần Nữ và chàng, còn ông lão kia mặc áo xanh giống áo Thánh Y.

                        Thần Nữ không nói nửa lời, đưa tay trái đỡ lay chiếc chìa khóa, lão thủ đền đi vòng ra phía sau ba người. Thánh Y Lãn Ông tiến vào trước, hơi nghiêng mình ra hiệu thỉnh mời Thần Nữ, Minh Thần nhập nội.

                        Nàng hơi đưa mắt cho Minh Thần, cả hai cùng song song bước hẳn vào đền, giữa hai hàng đồng nam đồng nữ. Minh Thần chân bước song song, đầu óc đầy bỡ ngỡ, lấy làm lạ hết sức. Nhất là về dáng điệu của vị Thánh Y. Ông già này cũng chỉ là khách của Yên

                        Phủ, lại có cử chỉ của người trong cuộc, như hướng dẫn cả Thần Nữ đi vào, và người đàn bà là giáo chủ bữa nay vào đền Phù Dung Thần Giáo lại có vẻ như nữ khách!

                        - Lạ dữ chưa? Lễ chi lại kỳ quái thế này? Có lẽ phong tục xứ người ta thế! Minh Thần vẫn không hài lòng về lời phỏng đoán của mình. Chàng trai để ý ngó đám đồng nam đồng nữ, thấy bọn này bưng những cái khay mâm đồng trên đựng lắm món kỳ dị, giống dụng cụ hút thuốc phiện, cặp đồng nam đồng nữ đứng đầu trên, mâm có đe một trái "thẩu" rất to, thường gọi "cổ tác xác" và một mớ hạt giống thuốc phiện tựa hạt vừng. Nhưng chàng chưa kịp liếc qua, đã phải theo Thần Nữ đi vào phía trong. Ông lão thủ đền cùng đám đồng nam đồng nữ kia kế tiep đi phía sau, tất cả vào nội tẩm. Thần Nữ có bầy thế nữ theo nâng vạt áo sau. Đền Phù Dung Thần Giáo sâu thăm thẳm, bạch lạp thắp sáng trưng trên các bệ. Theo lối trải thảm đi thẳng vào sâu mãi, bỗng đứng trước một khung cửa lớn đóng kín. Lão thủ đền vòng lên, giơ cao giá bạch lạp, Thần Nữ cầm chìa khóa mở cửa. Lão thủ đền kéo rộng cánh cửa. Rồi lão cung kính thỉnh hai người vào, và tự tay ông già này đóng cửa lại, để bọn thủ đen, đồng nam, đồng nữ, thế nữ đứng cả bên ngoài. Võ Minh Thần vụt rơi vào một cảnh trí nhiễm đầy vẻ thần bí, như lạc vào một thế giới có pha lẫn chất thần tiên ma quái làm giác quan chàng bỗng trở nên mông lung bàng bac mơ hồ lạ! Im lặng mênh mông! Trong nội điện kín này, ánh sáng vàng sệt lung linh, huyền ảo, phảng phất có mùi thơm ngầy ngậy phả vào mũi Minh Thần, lẫn cả mùi trầm hương thoảng ngát tạo nên một thứ mùi đặc biệt làm thần kinh như chùng hẳn xuống, bao nhiêu huyết khí phương cương tuổi trẻ cũng lắng đọng theo, cảm giác yên tĩnh, siêu thoát tỏa rộng. Võ liếc sang bên, dưới vùng ánh sáng vàng đọng, khuôn mặt Phù Dung giáo chủ nương nương vut trở nên huyền bí lạ, nhan sắc uy nghi phảng phất vẻ thiêng liêng thần kỳ, như đã thoát ra ngoài cảnh thực, nhập vào thế giới bàng bạc của đền thần giáo huyền kỳ bí ẩn! Hay nói rõ hơn, cả đền thần giáo nhập vào nàng, tỏa ra trên khuôn diện dáng dấp tạo cho nàng một thứ nhan sắc thần bí và có sức hấp dẫn đến chết lòng người!

                        Phải mất mấy khắc, nhãn quang Võ Minh Thần mới làm quen hẳn với thứ ánh sáng chập chờn huyền ảo trong nội điện. Hình như trong này thắp nhiều đèn nến, nhưng có rèm che cản, chỉ thấy ánh sáng mà không thấy ngọn. Nội điện cao vút, kiến trúc toàn đường nét lạ, từng hàng cột đá sừng sững to hàng một hai vầng, chạm khắc các hình thú, điểu, cỏ, hoa, vân vũ hết sức công phu, sơn phết đủ màu. Trần điện cũng ghép toàn đá phiến tựa lối xây cuốn tại các đình chùa dưới Kinh, và phiến đá nào cũng nặng hàng tấn, chỉ xếp ghép dính nhau vừa khít mà không gắn vôi vữa, mỗi phiến đá là một khối kỷ hà, coi kỳ diệu hết sức. Chỉ cần nhác trông qua các hình đá ghép ăn khớp như thợ mộc "vào mộng" cũng đủ biết phải có tay giỏi toán hình học mới làm nổi, tuy cũng như lối kiến trúc ghép thành nhà Hồ của Quý Ly, nhưng xem chừng còn tinh vi hơn. Vì thành nhà Hồ chỉ ghép bằng các phiến đá hình chữ nhật, chỗ trần uốn cong như các cổng thành thì ghép đá hình thang, còn đây lại ghép đủ thứ hình tam giác, hình vuông, bán nguyệt, lục lăng, bát giác, hình thang, chữ nhật lệch...

                        Dáng dấp thật khoan thai, nghiêm túc, Phù Dung giáo chủ nương nương sánh vai cùng Võ Minh Thần tiến thẳng vào nội điện, Thánh Y theo sau.

                        Được chừng mươi thước, bỗng nàng đứng lai trước một sợi dây xích sáng loáng có nắm tay cầm. Nàng nắm lấy đầu dây giật nhẹ một cái! Binh boong binh boong! Bỗng tiếng chuông đồng nổi lên, trước khoan nhặt như tiếng chuông chùa, sau dồn dập đổ hồi như tiếng chuông nhà thờ, âm thanh vang ngân bổng trầm như gần như xa, giữa cảnh im lìm, nghe như tiếng chuông thần bí gọi hồn người về thế giới xa xăm nào bên kia cuộc đời trần lụy.

                        Minh Thần đứng nhìn thấy hình như khu nội tẩm cũng rung động theo âm thanh trầm bổng, rồi cả ánh sáng vàng cũng rung rung.

                        Còn đang ngạc nhiên cho là mắt mình bị thính giác đánh lừa, bỗng chàng trai hơi giật mình sửng sốt, thấy khu nội tẩm rõ ràng đang biến đổi dần các nét kỷ hà giữa vùng ánh sáng chập chờn, rồi vụt cái, tiếng chuông vừa ngừng, dư âm còn vương vấn bên tai, trước mặt Võ đã hiện ra một cảnh trí khác hẳn, với những ngọn đèn quái ảo sáng như sao sa, những bệ thờ, những chiếc giường kỳ dị và... khá nhiều bóng người nằm ngồi rải rác khắp nội điện. Nói bóng người là đúng nhất, vì tất cả đều lặng lẽ câm nín, như đang đắm hồn trong cảnh u tĩnh thẳm sâu phảng phất khói hương trầm.

                        Ngạc nhiên, Võ đưa mắt ngó Thần Nữ như ngầm hỏi, nhưng nàng không nói gì. Ngay khi đó, vị Thánh Y chợt tiến lên, đứng xế trước Minh Thần, vẻ mặt nghiêm trang bảo:

                        - Không phải người sống đâu! Đây là chỉ là xác thân đệ tử Phù Dung đã hiến trọn linh hồn xác thịt cho Thần Ma Túy! Các đệ tử này đều là các tín đồ thuần thành đã dâng đời mình cho Thần Giáo, các đệ tử này đã sống những ngày đau khổ trong cát bụi trầm luân, và đã tìm thấy niềm hoan lạc, yên tĩnh đời đời dưới bóng Thần Yên! Và họ đã lìa đời trong niềm yên tĩnh nương theo cánh biếc của nàng Tiên Nâu đi về cõi hư vô... trả lại hình hài cho cõi phù sinh. Những xác thân kia đã được sưu tầm khắp thế gian, thuộc nhiều thời kỳ, tiêu biểu cho nhiều giới, nhiều sắc tộc.

                        Thánh Y ngừng lại chút, vụt tiếp lời:

                        - Sáng nay chính là ngày tướng công bái kiến Phù Dung thần, đồng chủ tế giáo chủ, đã đến lúc tướng công phải hiểu rõ các điều bí mật về Phù Dung Thần Giáo. Vậy trước giờ hành lễ, tướng công hãy duyệt qua một vòng nội điện cùng Thần Nữ nương nương.

                        Dứt lời lão hơi nghiêng mình làm hiệu thỉnh, Thần Nữ lập tức song hàng uyển chuyển đưa Võ vào sâu trong nội tẩm. Ba người đi dọc hai bên tả hữu điện trước. Càng lại gần, cảnh tượng càng kỳ bí, đượm vẻ quái gở. Trên bệ thờ, mỗi bệ đều có thắp một ngọn đèn dầu lạc, ánh sáng lung linh, trước đèn có để một thứ dụng cụ "hấp" theo các thời đại. Có bệ đặt một cái điếu loại ống vố dài của các sắc dân Ấn Độ, Ả Rập xưa nay vẫn dùng nhét cục thuốc vào, tựa hút thuốc lào. Có bệ đặt một bộ ấm để nấu thuốc "thẩu" uống trị bệnh. Còn một hàng bệ khác, mỗi bệ đều có bày một dụng cụ để hút thuốc phiện như dọc, tẩu, tiêm, móc chén đánh sái... Tóm lại, khu này là khu thờ dụng cụ "tiêu thụ" nha phiến các cách.

                        Bước tới khu vực bày di hài các đệ tử Phù Dung, Võ Minh Thần càng dòm kỹ, càng thấy rùng rợn, cảm giác ơn ớn như đứng trước cảnh tượng ma quái nhưng không giống hẳn cảnh xác người bị hấp sát bày trong Bảo Tàng Viện Tây Sắc Ma Vương, vì đây là xác thân các tín đồ "hap" thuốc phiện đã dâng hiến trọn đời cho á phiện qua các thời đại, qua các thế hệ, thuộc đủ sắc dân trên thế giới, thuộc đủ các thành phần trong các xã hội xưa nay. Có nghĩa là toàn cảnh xác nghiền chất ma túy tìm cảm giác say sưa ma quái trong chất Phù Dung và trở thành đám tín đồ nô lệ cho Thần Phù Dung, tiêu mòn dần cuộc đời đến chết vẫn còn say sưa.

                        Đây! Trên một cái bục gỗ có chất một cái bếp lửa than đã nguội ngắt, mấy cái xác da nâu đen bóng, đầu "quấn thừng" đang quây quần ngồi nhớ thuốc phiện, có mấy người nướng nuốt, sắc lá "thẩu", trái "thẩu" làm nước uống, coi y phục, mặt mũi, vẻ dân Ấn Độ xưa.

                        Bục gần đấy có ba người đội mũ kiểu Hồi Giáo Nam Dương, Mã Lai đang ngồi nhét thuốc vào nả điếu hút, tựa hút điếu cày. Cái điều này dài gang tay, một kẻ nhét cục nhựa, một kẻ gắp cục than dí vào, một kẻ đang hút, cả ba còn nguyên nét say sưa, tuy đã thac nhiều thế kỷ.

                        Xế bên lại có người Ả Rập dáng dân Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ đang dùng thuốc phiện theo lối trung cổ, thô sơ. Quá chút nữa, trên mấy cái ghế kiểu Âu Châu, có mấy người đang hít bạch phiến (cocaine), chỗ khác lại có mấy người Tàu đang hút hồng den (heroine).

                        Đại lược khu này, đủ mọi sắc dân, giới dân tiêu thụ chất ma túy theo các lối giản dị, nhưng vẫn không kém bề say sưa.

                        Sang khu bên, đây lại là khu vực của những kẻ tiêu thụ nha phiến theo lối tân kỳ trên giường thất bảo, có người Trung Hoa, nam, nữ đang nằm hút thuốc với dọc tẩu tuyệt đẹp, tiêm vàng móc bạc, măng đèn, toàn đồ quý giá, cạnh lại có dân Tàu nghèo túng nằm hút trên giường mọt dụng cụ xấu xí, đèn rạng rỡ, những mặt mày xương xẩu còn hiện rõ nét đê mê của những kẻ lên tiên bằng ảo giác. Gần đấy, lại có các chỗ tiêu biểu cho "làng bẹp" Việt Nam, đủ mọi giới sang hèn, tiêu thụ Phù Dung các lối, có những kẻ da bọc xương nhưng mặt vẫn đê mê huyền bí.

                        Võ Minh Thần đảo qua các khu thờ đệ tử "nàng tiên nâu" tuy đó chỉ là các món sưu tầm từ xưa, bày trong điện, nhưng coi cũng linh hoạt như thực, làm chàng tuổi trẻ bất giác thấy ớn lạnh trong mình, khi hình dung tới số người không biết bao nhiêu triệu đã thành đệ tử Phù Dung, tiêu mòn dần thân thể trong ảo giác chập chờn.

                        Trong khi Võ Minh Thần chăm chú quan sát từng cảnh xác đệ tử "tiên nâu" say sưa hiến mình cho Phù Dung Thần, nàng giáo chủ Phù Dung chỉ lặng lẽ đi bên, không nói lời nào. Chỉ có vị Thánh Y lanon tái thế thỉnh thoảng lại lên tiếng giải thích ý nghĩa của một vài cảnh tượng lạ mắt, nói rõ về tiểu sử một vài đệ tử nằm ngồi trên giường, bệ, giảng thêm cả cách thức dùng nha phiến của "bộ xác ướp" đó. Trong số di hài đệ tử Thần Giáo này (hay Ma Giáo cũng được), Võ Minh Thần thấy có cả những tay đã nổi danh một thời trên thế giới như một hai tay quan hoạn trong nhóm "Thập Thường Thị" đời Mãn Thanh, một hai viên quan đại thần Ba Tư về thời Aladin chiến bại Đại Hãn Mông Cổ Thémouzin (Thiết Mộc Chân).

                        Bất giác chàng tuổi trẻ giang hồ khẽ chép miệng, chẳng biết nên vui hay nên buồn trước cảnh tiêu mòn thân thể bên ngọn đèn dầu lạc này. Bỗng nghe Thánh Y Lãn Ông dịu dàng bảo:

                        - Mời tướng công sang bên này! Minh Thần vội "dạ" bước theo, trong lòng vô cùng ngượng nghịu bất nhẫn, thấy bực ân nhân cứu mạng mình cứ mãi xưng hô quá ư trịnh trọng vượt hẳn địa vị.

                        Nhưng bên kia điện lại những cảnh tượng kỳ dị đập vào nhãn quang chàng, và lần này thấy càng phát ớn.

                        Vì đây không phải cảnh đệ tử Phù Dung Thần say sưa ma túy quên sầu thế gian, mà lại là những cảnh đệ tử á phiện đang "cai" thuốc, đang chiến đấu dữ dội với "á phiện" và đang bị "cô hành" ghê gớm.

                        Chỉ cần ngó qua một vài cảnh tượng cũng đủ hình dung được sự đau đớn khủng khiếp đang dày vò thể xác linh hồn đám đệ tử muốn thoát ly khỏi Ma Giáo gớm ghê kỳ bí này.

                        Và sau cuộc chiến đấu không tiền khoáng hậu, các đệ tử đã bị hành đến thác bằng cả ngàn "tử lộ" không thua hàng ngàn con đường dẫn đến đền thờ Thần Yên.

                        Comment


                        • #13
                          Hồi Thứ Mười Ba




                          Bí Ẩm Á Phiện Ma Giáo Và Lời Nguyền Độc Địa Trên Xứ Phù Dung



                          >Minh Thần đi dọc theo các be, giường, sập, dòm từng thân xác chết khô, trên khuôn mặt, dáng thân, vẻ điệu, còn nguyên vẹn nét đau đớn khủng khiếp. Kẻ reo ngược hai ngón chân cái lên xà nhà, kẻ đang đấm đá vào vách tường, người húc đầu vào vách, kẻ ôm bụng rên la, người trợn mắt há hốc mồm nằm dãy dụa, nhiều kẻ cầm chày vồ nện vào thân xác, tứ chi như các ông đạo tu khổ hạnh ép xác, có người thắt cổ treo lơ lửng, nhiều kẻ dùng hai tay bóp cổ, lưỡi thè lè, mắt trợn ngược, lắm kẻ phát cuồng xé rách bươm quần áo, cười khóc lung tung.

                          Những hình gầy xác ve nam nữ, già trẻ, sang hèn đủ loại, nhiều tín đồ chỉ còn bộ xương sau tháng năm phụng sự Thần Yên, cũng có kẻ mập bung người như sũng nước, đủ mọi hạng, đủ mọi sắc dân, đủ mọi thứ mặt biểu lộ sự đau đớn khủng khiếp vì "dám cả gan" chống lại Tổ Nương Thần Ma Giáo và đang bị Thần hành...

                          - Nhưng tất cả chỉ là ảo vọng, kẻ nào đã nhập Ma Túy giáo, khó lòng ra nổi! Họ đã gục ngã trước hình phạt của Tổ Nương Thần. Còn một số thì đã đầu hàng Thần Tổ Nương, khi được Thần về gọi đệ tử quay về, trong giấc mơ, trong ảo giác hay trong thực cảnh.

                          Thánh Y Lãn Ông vừa nói vừa dẫn Minh Thần đi sâu vào nội tẩm. Chàng trai đưa mắt ngó, thấy những xác đệ tử Yêu Thần nằm thẳng cẳng, sau cơn vật vã vì thiếu chất "moóc phin" đã chợp mắt thiếp đi, hoặc mắt vẫn mở trừng trừng.

                          Thánh Y mơ màng nhìn quanh điện:

                          - Đó là một cách trừng phạt những tín đồ muốn thoát ly. Lời nguyền của

                          Tổ Nương Thần Phù Dung ngàn đời linh ứng.

                          Động trí tò mò, Võ Minh Thần khẽ hỏi:

                          - Chẳng hay lời nguyền đó, tiểu điệt đây có thể biết được chăng? Thánh Y gật đầu:

                          - Tướng công chẳng những sẽ được biết mà còn biết thêm điều "bí ẩn ngàn đời" của Phù Dung Thần Giáo, liên quan đến vận mạng đời đời của hàng trăm triệu con dân sống nhờ Thần Giáo! Cùng lời nguyền độc địa của Tổ Nương Thần, truyền tử lưu tôn trên các xứ Phù Dung, sáng nay, tướng công sẽ biết hết và cũng sẽ phải giữ kín lời nguyền bí mật ngàn đời đó! Mời tướng công vào đây!

                          Minh Thần theo lão nhẹ gót đi vào khu nội tẩm. Điện thật sâu thăm thẳm, bỗng tới cuối điện tường đá dựng cao vút hai bên, chân uốn như sóng lượn chừng vài thước rồi chạy vòng vào theo hình móng lừa, có một bức rèm vàng kim tuyến buông rũ từ nóc xuống nền đien.

                          Thần Nữ Phù Dung nương nương đi cạnh Minh Thần, đưa tay giật nhẹ một cái mấu chốt vàng khối trên tường.

                          Bing boong bing boong! Tiếng chuông kỳ ảo lại nổi lên, khoan thai rồi đổ dồn, âm thanh chìm nổi như gần như xa, vừa dứt, chợt bức rèm vàng kim tuyến cuộn soạt lên, mở ra một khu nội cung, bệ đá chập chùng vút cao.

                          Thánh Y, Thần Nữ đưa Minh Thần lên, đúng hai mươi bệ. Bỗng chàng tuổi trẻ dột lòng đứng sững trước cảnh kỳ dị đập vào nhan quang. Một cái bệ thờ khổng lồ vụt hiện ra, với một ngọn đèn dầu lạc vĩ đại hết sức, có lẽ từ sinh làm người tới nay chưa bao giờ được thấy ngọn đèn to lớn bằng một phần ngàn ngọn đèn quái dị này. Minh Thần được dan leo lên những hàng bệ bên hông, dòm còn thấy nhiều mâm đựng dụng cụ tiêu thụ nha phiến khác nữa, các loại đồ nghề hồi trung cổ trở lại, vẫn còn thô sơ, chưa tinh vi như các món dọc tẩu mới phát minh ra từ thời cận đại. Và sau bệ đồ thờ này có một chiếc giường thất bảo chạm trổ rất đẹp, sau giường có đặt một cái ngai vàng trang trọng như ngai vua chúa, chân ngai kê mép thành giường, trên ngai có một pho tượng nữ ngồi rất uy nghi, coi như người thực. Đến nỗi vừa thoáng thấy, Võ Minh Thần lại tưởng người bằng xương bằng thịt ngồi đó. Vì da mặt màu trắng ngà giống da người, tượng nữ mặc áo vàng kim tuyến lấp lánh, đầu chít khăn vàng, chân đi hài Thổ vàng cẩn kim cương, sa phia, áo cũng nhiều chỗ đính kim cương phản chiếu ánh sáng muôn màu rực rỡ. Ngoài ra, còn mấy cái tàn tía che trốc ngôi tượng, xế bên ngai, còn có một cái giá có nhiều mắc treo mấy cái áo thụng, mau tía hoa láng, màu đỏ, trắng, xanh, nâu... như để tượng mặc thay đổi vậy. Ánh đèn dầu lạc hắt soi lên mặt tượng đẹp long lanh, hai con mắt cẩn hai viên ngọc xanh biếc, sáng long lanh, cực kỳ linh hoạt trên khuôn mặt đẹp phi phàm.

                          - Phù Dung Thần.

                          Võ bật kêu khẽ, đã thấy Thần Nữ ra hiệu theo Thánh Y bước tới chỗ kê giường thất bảo. Thần Nữ, Thánh Y ra hiệu cho Minh Thần cùng chắp tay vái lễ một tràng, và Thánh Y lập tức dẫn hai người tiến sang vách hữu, xế bên ngai vàng tượng Thần Phù Dung. Thánh Y kéo soạt bức rèm che vách, vách đá nhô ra nhẵn thín. Ngay đấy có một cái bình thủy tinh loe miệng đựng đầy một thứ bột đỏ như hồng hoàng. Bốc một nắm giơ cao, vị Thánh Y vụt nghiem sắc mặt, dõng dạc:

                          - Trong nội điện Phù Dung Thần giáo, trước Tổ Nương Thần, giờ đã tới lúc tướng công biết tường tận về Thần tục nước Yên này, sao lại có buổi lễ vô cùng nghiêm trọng sáng nay, sau mối duyên kỳ ngo. Tổ Nương Thần linh thiêng run rủi cho dị thú mang người bị nạn tới xứ cháu con ngài, giờ phút này xin hiển linh chứng kiến giây phút thiêng liêng thần ngôn cáo tri duyên tác hợp.

                          Dứt lời, lão cầm nắm phấn bụi đỏ hồng hoàng ném vụt vào vách đá. Như trò ảo thuật, từng hàng chữ hiện lên, móc ngược vòng ngang, coi rất lạ mắt. Võ Minh Thần nhờ xưa được theo tôn sư chu du thiên hạ học được khá nhiều thứ tiếng nên vừa trông thấy, đã biet ngay đó là loại chữ của dân Thái Thổ Lào thường dùng nhưng có nhiều thứ hơi khác một chút. Cứ mười chữ lại thấy lẫn vào một hai chữ Bạch thoại Hán tự, có lẽ vì tiếng Thái Lào còn thiếu nên phải mượn tiếng Tàu xưa, vì văn hóa Trung Nguyên đương thời đã tràn lan khắp Á Đông. Ngọn đèn dầu lạc trên bệ thờ tỏa sáng rực, Võ Minh Thần đọc tiếng được tiếng không, vị Thánh Y Lãn Ông dịu dàng bảo:

                          - Những chữ hơi khác này chính là tiếng riêng của xứ Phù Dung, lấy tiếng Nhắng, tiếng Kha, Dao chế biến ra. Những dòng truyền ngôn di bút này đã viết trên sáu thế kỷ, để lão phu đọc giải giúp tướng công cho tiện.

                          Lãnh Chúa Phù Dung Quốc Giáo Chủ Phù Dung Than Giáo truyền ngôn lại cho con cháu thần dân bản quốc:

                          Ta lập đền thờ này vào thời lập quốc. Đền này là đền thờ Phù Dung Thần Nữ Tổ Nương bậc linh thần đã cứu dòng giống hợp tộc này thoát nạn tiêu vong và đã ban cho tổ tiên ta một kho tàng chi bảo để lập quốc. Kho tàng này không bao giờ cạn, nếu các ngươi dốc lòng thờ phụng Tổ Nương Thần cho trọn đạo tôi con đệ tử. Đó là cây Thẩu, nữ hoàng thảo mộc, trái cây mỗi mùa chảy ra "vang đen", hóa thân máu lệ xương của Tổ Nương Thần Phù Dung.

                          Ngài đã ban máu lệ xương thịt ngài cho tổ tiên ta dựng lên nước Phù Dung. Xứ Phù Dung thờ phụng người, lập nên Phù Dung Thần Giáo.

                          Thần Giáo còn, xứ Phù Dung còn, dòng giống Phù Dung hợp tộc này còn. Thần Giáo tàn, vàng đen hết, Phù Dung quốc diệt, người xứ Phù Dung chết.

                          Ta dựng đền này, ghi lại lập ngôn của tổ tiên, chép lại gốc nguồn phả hệ, khắc lại lời nguyền trên đá, truyen lại điều bí mật cho con cháu thần dân truyền tử lưu tôn ghi nhớ đời đời.

                          Lập ngôn của tổ tiên là phong tục, luật lệ, lời lãnh chúa làm thành ước pháp, lời nguyền theo mộng triệu là lời nguyền độc địa đời đời ứng nghiệm trên xứ Phù Dung. Con cháu thần dân tuân theo lời lãnh chúa giáo chủ, nước Phù Dung còn, dòng giống Phù Dung phạm lời nguyền của Tổ Nương Thần, dòng giống sẽ bị tiêu diệt.

                          PHÙ DUNG QUỐC NĂM THỨ NHẤT - LÃNH CHÚA GIÁO CHỦ KHAN LA.

                          Nghe dứt lời vị Thánh Y đọc giải, Võ Minh Thần vụt có cảm giác mình đang đi sâu vào chuyện bí ẩn dị thường của nền "huyền giáo nâu" kỳ lạ, một thứ Ma túy giáo thần bí đang lan tràn thế giới với một sức lôi cuốn như bóng quỷ nhập tràng mang lốt mỹ nhân tuyệt thế. Bất giác chàng đưa mắt nhìn nàng giáo chủ nữ chúa xứ Yên và Thánh Y Lãn Ông, lòng càng thắc mắc chẳng hiểu sao hai người lại cho chàng đi sâu vào bức màn bí mật kỳ lạ đó. Dưới đền thờ lúc này khuôn mặt nữ chúa Phù Dung Thần Giáo coi càng thần bí, đẹp phi phàm, còn mặt Thánh Y thì càng nghiêm chỉnh, chừng như ông già hiểu rất rõ là ông đang làm một việc hết sức linh thiêng.

                          - Mời tướng công lại qua đây một chút! Như cái máy, Minh Thần theo hai người tiến sâu vào hai bộ, Thánh Y lại bốc một nắm phấn bụi màu hồng hoàng ném vãi lên tường hai, ba cái. Dưới đèn, từng hàng chữ khác lại hiện lên, nhỏ hơn hàng chữ vừa rồi, Võ đoán chắc mặt tường được viết chữ bằng một thứ mực đặc biệt chi đó, và chữ nổi lên khi phấn hồng hoàng chạm vào, cũng như viết bằng nhựa dính bắt bụi vậy.

                          Từng hàng chữ lại hiện lên:

                          "Lời nguyền của Phù Dung Thần: Ta đã ban cho các ngươi hóa thân máu lệ của ta, nó sẽ là nguồn sống của các sắc dân trồng nó. Chim chóc sẽ mang đi, gieo rắc trên trái đất. Nó sẽ cho các người sự sống phồn thịnh. Nó sẽ trị nhiều bệnh tật, ban nhiều an ủi, nhưng mắc vào, như mắc dây xiềng, vì không cách nào trị nổi! Ta cho các ngươi cây Phù Dung, xứ Phù Dung các ngươi sẽ mở ra một nền Thần Giáo. Với kẻ phụng thờ, ta cho biết điều bí ẩn vô cùng về hóa thân ta. Hãy lập nguyền cho con cháu nối đời gìn giữ. Xứ Phù Dung và dòng giống Phù Dung sẽ bị tiêu diệt nếu Thần Giáo suy tàn...".

                          Minh Thần trầm ngâm:

                          - Thật huyền bí! Cũng như sắc Nùng, nguồn gốc tận bên Nga thượng cổ.

                          Nhưng còn điều bí mật trên xứ Phù Dung?

                          Thánh Y vụt nghiêm sắc mặt:

                          - Lão phu người ngoài cuộc, không được quyền biết đến điều bí ẩn sinh tửđó! Thần Nữ xứ Yên sẽ đưa tướng công vào. Minh Thần ngơ ngác chẳng hiểu tại sao mình cũng là người ngoài cuộc mà lại khác Thánh Y, nhưng chưa kịp hỏi thì Thần Nữ đã đưa tay ra hiệu.

                          Thánh Y đứng lại, chỉ có Minh Thần theo nàng đi vào phía trong, trèo lên bệ tượng phía sau. Nơi đây lại có một khung cửa đóng, nàng mở cửa, đưa Võ vào, trong này có một gian nhỏ, vách đá nhẵn, cũng có một ngọn đèn dầu.

                          Không nói chi, Thần Nữ cầm phấn hồng hoàng ném vãi lên tường. Chữ hiện lên, như nhảy nhót trước mắt chàng tuổi trẻ:

                          "Bí mật truyền đời - Lời nguyền độc địa trên xứ Phù Dung: Đệ tử Phù Dung mang xiềng xích vô hình suốt đời khó cởi. Vì chất Phù Dung bám vào xương tủy, không thuốc nào trừ nổi. Lang y có tài cải tử hoàn sinh cũng bó tay. Vì trên cõi thế gian, không có vị thuốc nào khắc kỵ. Vị thuốc khắc kỵ này chính là một loài thảo dã, chỉ sinh ra tại các xứ Phù Dung. Đó chính là loài "Tam sắc nhật kỳ ký sinh thảo dã", cây cỏ này từ cây Phù Dung hóa sinh ra, mọc ngay dưới gốc Phù Dung. "Tam sắc nhật kỳ thảo" này mỗi ngày đổi đúng ba màu theo ánh thái dương, sáng sớm là màu xanh, đến trưa lá chuyển sang màu bạc, đến chiều hoàng hôn, lá lại đổi màu vàng. Bứt nắm lá cây này dùng cả rễ đem về nấu nước, uống một thang là dứt. Nếu thiên hạ biết, dân Phù Dung sẽ tiêu vong, vậy cứ thấy mọc lên phải làm cỏ đốt liền. Biết giữ thì còn, không biết giữ thì mất, con cháu hãy nhớ lời nguyền trên xứ Phù Dung".

                          Võ đứng im như pho tượng, mắt ngó đăm đăm những hàng chữ lạ ghi chép điều bí ẩn dị thường về chất ma túy Phù Dung và lời nguyền độc địa của sắc dân trồng cây Thẩu. Chàng đã hiểu được điều bí mật về chất nhựa cây đã làm đảo điên thiên hạ, từng gây nên một cuộc chiến tranh nha phiến và làm sụp đổ triều đình Mãn Thanh. Khi theo tôn sư chu du thiên hạ, chàng cũng từng được biết sức mạnh ma quái của nha phiến lan tràn rất mau, bà Tay Thái Hậu khét tiếng cũng là đệ tử Phù Dung, phàm đã rơi vào hầu hết đều không bỏ nổi.

                          Từ Đông sang Tây, đã có nhiều tay danh y có tài gần như cải tử hoàn sinh không thua Hoa Đà Biển Thước đã dùng hết tài nghệ chế ra lắm môn cai nha phiến, đều trị không nổi. Chính chàng đã từng lấy làm lạ, không hiểu tại sao loài người hiện nay đã khôn ngoan xảo trí tới độ chế ra các thứ "thăng thiên nhập địa, thiên lý thần thông"... lại chưa phát minh ra được món trị bệnh ghien ma túy. Để đến nỗi hàng vạn, triệu đệ tử Phù Dung bị ma túy theo ám suốt đời như một thứ oan hồn. Trong khi đó, chính chàng cũng từng được thấy mấy dân uống "thẩu" lại bỏ dễ như chơi. Vào mùa hái "thẩu" đàn bà con nít có nơi cũng hút thuốc liên miên, nhưng xong mùa gặt, bọn này bỏ dễ hơn bỏ thuốc lào, trong gia đình chỉ còn một, hai người hút. Giờ chàng mới chợt hiểu. Thì ra, phàm vật gì cũng có khắc vật khắc tinh.

                          Như hỏa kị thủy, chuot kỹ mèo, thuốc phiện chỉ có một khắc thảo khắc tinh là loài cây "mỗi ngày thay ba sắc lá" kia, thứ cây mọc dưới gốc "thẩu", một giống ký sinh thảo không phải cây tầm gửi từ đâu theo gió bay tới bám vào. Ngoài giống "thảo khắc tinh" này, mọi dược tính khác đều vô hiệu.

                          Dân trồng "thẩu" xứ nào cũng gửi vận mạng vào nhựa "thẩu", họ thừa hiểu điều bí mật này nếu tiết lộ ra sẽ không còn khách tiêu thụ nữa, dân xứ "thẩu" sẽ lâm nguy, vì lẽ giản dị là đệ tử Phù Dung nào chẳng muốn cởi xiềng nô lệ, nên tất cả đều nhất quyết giữ lời nguyền độc truyền tử lưu tôn, coi đó là điều sống còn của bộ tộc.

                          Minh Thần vẩn vơ nghĩ tới hàng bao nhiêu triệu dân trồng "thẩu" và tiêu thụ Ma túy, lòng bỗng thấy băn khoăn khó tả khi nhìn thấy rõ sự thịnh vượng của xứ Phù Dung được tạo dựng trên sự suy tàn của đám đông đệ tử Phù Dung.

                          Nhưng bỗng chàng trai chột dạ hỏi Thần Nữ:

                          - À... điều bí mật sinh tử này sao lại để người ngoài như ngu mỗ biết?

                          Thần Nữ nhìn chàng khách ngoại xứ, vành môi cánh cung đỏ thắm nhẹ mỉm cười tươi mát như hoa nguồn vừa hái:

                          - Vì chàng cũng sẽ giữ kín lời nguyền cùng thiếp. Tướng công hãy coi tiếp đây!

                          Dứt lời, nàng lại bốc phấn hồng hoàng ném vắt lên vách bên. Tự nhiên chữ vừa hiện rõ, tim Minh Thần bỗng đập mạnh như linh cảm sẽ có chuyện liên quan:

                          "Lời nguyền của Ali Khan lập ngôn của tổ tiên sắc dân hợp tộc truyền lại cho con cháu đời đời:

                          Tổ tiên các người kể như đã vùi xác tại sa mạc Gobi, nếu không được Phù Dung Thần Nương cứu vớt. Tổ tiên các người đem sức tàn vỡ đất dung thân cho con cháu, để sau này lập quốc.

                          Các ngươi hãy giữ kín gốc nguồn, khi kỵ binh Mông Cổ còn dọc ngang thiên hạ. Các ngươi sẽ lập nên một nước nơi ba biên giới này, đặt tên là Phù Dung Quốc để ghi nhớ công ơn Phù Dung Thần Nương, các ngươi sẽ dựng đền đài thơ Thần Nương. Các ngươi sẽ lập nên Phù Dung Thần Giáo ứng mộng Gobi Phù Dung Thần Nương sẽ là Tổ Nương Thần. Người xứ Phù Dung sẽ là con cháu thần dân người, đời đời hương khói, suy thịnh theo Thần Giáo.

                          Để đền đáp công ơn, dòng Chúa Phù Dung sẽ mang họ Khan làm giáo chủ Thần Giáo. Đàn ông không làm chúa, hãy chọn một trinh nữ thật thanh khiết làm nữ chúa, mang tên Thần Nữ Phù Dung Nương.

                          Hầu Nữ chúa Giáo chủ không được lấy chồng trong suốt cuộc đời, kẻ nào phạm tội sẽ phải chết. Ngoại trừ năm đúng hai mươi tuổi, năm Tổ Nương mang hận xuống tuyền đài hóa thân làm cây thuốc! Nữ giáo chủ năm đó sẽ được lấy chồng, nếu có một khách lạ tình cờ lạc tơi xứ Phù Dung, khách đó sẽ làm chồng nữ chúa Giáo chủ với đầy đủ nghi lễ.

                          Bất luận già trẻ xấu xí, mù què câm điếc, đó là phò mã Phù Dung, vì Alah, Tổ Nương run rủi! Nếu khách lạ không chịu, nữ chúa sẽ lấy xác khách ướp thờ hậu điện, và suốt đời không còn được lấy ai! Phò mã Phù Dung sẽ cùng Thần Nữ làm chủ nước chủ giáo, thần dân hưởng phúc, xứ sở yên vui. Bằng trái lời sẽ bị tiêu diệt!

                          Ali Khan".

                          Võ Minh Thần vụt hiểu rõ. Cả ngôi đền thờ kỳ dị như chuyển rung, đảo lộn, ánh đèn vàng chờn vờn mấy hàng chữ nguyền nhảy múa trước mắt chàng trai. Lòng đầy kinh hoàng. Võ mở to mắt dòm trừng những hàng chữ lưu truyền đời kiếp, đã thành luật lệ xứ Phù Dung. Lảo đảo chàng trai phải tựa vào vách đá, kêu lên:

                          - Sao lại thế này? Sao kỳ lạ thế? Bàn tay búp măng trắng nõn giơ lên, cách vách đá hơn thước, nữ chúa Giáo chủ Phù Dung Thần Nữ xoa nhẹ xoa nhẹ. Từ bàn tay nàng như tiết ra một thứ sương hàn, chữ nguyền từ từ bị xóa mờ, thoắt chỉ còn vách đá không.

                          Nàng quay lại nhìn Võ Minh Thần và mỉm cười trước vẻ kinh sửng của chàng trai, tiếng nàng thánh thót như tiếng suối đàn:

                          - Chàng lạ lắm sao? Lời nguyền xứ Phù Dung, lẽ sinh tồn của miền đất này giờ chắc chàng đã hiểu theo tục lệ bản xứ ngày nào, Phù Dung Quốc mới truyền các điều bí mật cho bậc giai tế... chuyện đột ngột này xin chàng mien trách!

                          Võ Minh Thần ngó Thần Nữ, cô gái đẹp uy nghi lộng lẫy như hiện thân của Phù Dung trong điềm mộng của dòng hoàng tộc Ba Tư mất nước. Chàng trai bỗng thấy bối rối lạ thường, kêu lên:

                          - Vâng! Vâng... thật là đột ngột! Không ngờ! Không ngờ nổi! Nhưng chuyện bí mật sinh tử của Yên Quốc, sao lại cho kẻ này biết làm chi?

                          Thần Nữ mỉm cười:

                          - Chàng phải biết hết, vì từ khi lời nguyền của tổ tiên xứ Phù Dung truyền phán lại, chàng là người thứ nhất đã tình cờ lạc tới nước Yên, đến ngay khu đền này, năm giáo chủ vừa đúng hai mươi tuổi. Ngay từ buổi dị thú mang chàng tới, chàng đã thành phò mã xứ Phù Dung này! Nhưng vì chàng đang bệnh nên thiếp chưa dám cho hay, phải đợi khỏi bệnh đã! Bưa nay là buổi xứ Phù Dung chính thức rước chàng tới đền thờ, làm lễ tôn phò mã trước bệ thờ Tổ Nương Thần!

                          Vẫn còn đầy kinh ngạc, hoang mang, Minh Thần lẩm bẩm:

                          - Sao lạ thế này? Kẻ này bị thương mê man nào có biết gì đâu? Dị thú mang kẻ này đi đâu, tới đó, kẻ này đâu có định tâm...

                          Thần Nữ nhoẻn cười tươi như đóa phù dung:

                          - Điều quan hệ là thế đó! Chuyện này không ai định trước, mới thực là trời định nên duyên! Duyên thiên lý... không ai dám ngờ!

                          Rồi như say sưa với mối duyên kỳ ngộ, nàng nhìn Võ thật nồng nàn, giọng oanh thỏ thẻ đượm nhiều say sưa kỳ thú:

                          - Thực tình thiếp không dám ngờ có chuyện hôm nay! Tổ tiên thiếp muốn nữ chúa giáo chủ xư Phù Dung phải làm trinh nữ, thờ Tổ Nương nối đời, nên đã định lời nguyền lập ngôn thật khắt khe, chỉ cho một đường khó ứng lập hôn nhân. Khi thiếp lên làm Nữ Chúa, giáo chủ đọc lời nguyền của tổ tiên thiếp đã đinh ninh suốt đời cô đơn hy sinh trọn kiếp. Vì chỉ có một năm được quyền lập hôn với người tình cờ lạc tới, nhưng xứ Yên này khuất tịch giữa thâm sơn ba biên giới, bốn bề vách núi ngất cao như trường thành bao bọc, chỉ có một thủy đạo thông ngầm không ai biết nổi! Làm sao còn có người lạc tới? Nên khi được thế nữ về báo có dị thú cõng người đàn bà trên lưng thiếp mới chạy ra coi, lúc săn sóc mới hay đàn ông, lòng thiếp và dân Phù Dung mừng khôn xiết, vì đấy là điềm thịnh vượng nhất từ ngày lập quốc! Giờ xin chàng ra ngoại điện, thiếp còn báo hiệu cho thần dân vào làm lễ tôn phò mã! Duyên trời đã sai khiến cho chàng cùng thiếp trị vì xứ Yên!

                          Lúc này Võ đã hiểu tại sao ai nấy đều gọi mình là tướng công, nghe Thần Nữ giục, Võ thốt nhiên nghĩ đến chuyện riêng, lòng thêm hoảng hốt, rối loạn, nhất thời chẳng biết tính sao cho tròn.

                          Từ lớn lên, xuống núi, chàng chỉ nghĩ đến chuyện báo cừu, ngay khi kỳ ngộ Bạc Lan Khao, Đào Nguyệt Kiều, Giao Long Nữ, chàng rất có cảm tình, mà lòng vẫn chẳng nghĩ yêu đương. Lấy vợ lại càng không tưởng! Nay bỗng lại bị gài vào lời nguyền Yên Quốc, thành giai tế, dẫu sánh duyên cùng Thần Nữ đep như tiên, chàng cũng không lấy làm vui, còn coi như mình đắc tội với người đã khuất. Nhưng từ chối cũng phiền vì lời nguyền đã định, không thuận sẽ chết theo điều bí mật. Điều này chàng chưa thấy khó xử bằng chuyện Than Nữ đã hết dạ cứu chàng, nếu không, giờ này chắc đã gửi nắm xương tàn dưới lòng đất lạnh, còn đâu để báo thù?

                          Hoang mang cực độ, Võ Minh Thần chẳng biết xử trí sao cho ổn thỏa, chỉ đứng ngơ ngác, mở to mắt nhìn Thần Nữ, người đàn bà lạ đã hết dạ cứu chàng thoát chết thảm, và đang đứng trước mặt chàng, đẹp huyền bí như kết tinh của loài hoa ma túy Phù Dung. Chỉ ngó qua sắc diện cũng đã biết nàng rất hài lòng về mối duyên kỳ ngộ có lẽ từ khi khôn lớn nàng chưa khi nào dám tưởng có ngày xảy ra trong Phù Dung điện.

                          Bỗng Thần Nữ chợt để ý thấy vẻ mặt ngơ ngác bất định của chàng trai, nàng vùng im bặt mấy khắc thoáng ngơ ngác hỏi:

                          - Kìa... sao chàng không nói? Hay chàng không vui trước mối duyên kỳ ngộ cùng thiếp?

                          Đang bối rối sực nghe nàng hỏi đúng vào tâm sự mình, chàng tuổi trẻ phong trần luân lạc vội nén xúc động, nhìn Thần Nữ sâu hút, khẽ thở dài bảo:

                          - Thưa bà... Nương nương Giáo chủ, chẳng phải đâu! Được Nương Nương Nữ chúa Giáo chủ cứu mạng, lại được cả xứ Phù Dung cho làm... giai tế, sánh duyên cùng Nữ Chúa, thật còn gì vinh hạnh sung sướng cho bằng. Nhưng kẻ này hiện đang có mối lo tâm phúc... cũng mắc lời nguyền trước oan hồn phụ mẫu, thân mắc đại tang, nên chuyện hôn nhân chẳng bao giờ dám nghĩ tới đó thôi! Chỉ xin Nương Nương hiểu cho cảnh tang chế... mà tha thứ cho kẻ bạc phúc này thoi...

                          Vừa nghe dứt lời Võ, Thần Nữ vùng tái hẳn mặt hoa, lảo đảo lùi dựa vách, mở to mắt phượng nhìn chàng khách trẻ, vẻ kinh hoàng hết sức, nàng lẩm bẩm trong hơi thở dồn:

                          - Chàng từ chối cuộc hôn nhân do trời đất quỷ thần đã định? Chàng không muốn làm phò mã xứ Yên? Làm chồng Thần Nữ? Chàng không bằng lòng thiếp?

                          Minh Thần thấy thế càng bối rối, khó nói, vội lắc đầu:

                          - Không không! Nương nương đừng ngộ nhận! Chẳng phải kẻ này nghĩ thế đâu! Trên đời này, nếu được dịp sánh duyên tơ tóc, không còn phúc nào bằng được sánh với nương nương... là kẻ này hiện mắc đại tang theo tục lệ dưới Kinh, kẻ mắc tang không thể lập cuộc hôn nhân.

                          Run giọng, Thần Nữ hỏi:

                          - Mắc tang tục lệ không lấy vợ được? Lệnh đường mới mất? Sao thiếp không nghe Thánh Y nói?

                          - Vâng vâng! Quả bậc sinh thành đã mất hơn mười tám năm trời rồi, nhưng mối đại tang hiện vẫn giữ trong lòng, ngày nào chưa rửa thù báo oán nổi, ngày ấy van còn đại tang! Xin Nương nương hiểu cho!

                          Thần Nữ chợt tươi sắc mặt, thỏ thẻ:

                          - Tưởng chi, chuyện đó hề chi! Tục lệ dưới Kinh con để tang song thân ba năm, nay đã mười tám năm rồi đâu còn nữa. Về mối thù nhà, sau ngày hôn lễ chính thiếp có phận lo chung với chàng! Nào... xin thỉnh chàng ra!

                          Dứt lời, nàng giục Võ bước ra. Như cái máy, Minh Thần theo gót nàng trở ra ngoài nội điện, vừa bước vừa từ tốn kiếm lời thoái thác:

                          - Nương nương hiểu cho... kẻ này không thể lập gia đình trước khi báo phục.

                          Thần Nữ đóng cửa "điện nguyền", vụt quay nhìn Võ, giọng nói chàng tuy dịu nhưng lần này từ chối rõ ràng. Như bị roi quất vào tâm hồn, Thần Nữ choáng váng lùi lại, vịn vào cột điện, dưới ánh đèn thờ Phù Dung Thần mặt nàng tái xanh hẳn đi như không còn sức chịu đựng nữa.

                          Bối rối, bấn loạn, Võ Minh Thần tiến lại giơ tay như định đỡ lấy dáng thân mềm liễu rủ đang thổn thức đau đớn.

                          - Nương nương...

                          Thần Nữ xua tay, cố trấn tĩnh, nàng lắp bắp như nói để mình nghe:

                          - Không ngờ... không ngờ... ngày đại lễ lại là ngày đại họa nhục nhã... Tổ Nương Thần đã trừng phạt họ Khan, trừng phạt xứ Phù Dung..., cho máu chảy điện thờ...

                          Minh Thần chưa biết kiếm lời chi an ủi, bỗng Thần Nữ vụt nghiêm sắc mặt nhìn Minh Thần, ánh mắt não nùng sâu thẳm như đáy vực:

                          - Thiếp sẽ về hầu Tổ Nương Thần! Theo luật, nếu chàng từ chối sẽ bị xứ Phù Dung chôn ngay trong cung điện, chôn theo điều bí ẩn về Ma túy! Nhưng thiếp không để chàng vùi thân trên xứ Yên này! Thiếp sẽ giúp chàng trốn về lo báo thù nhà cho trọn, để thiếp thay chàng tạ tội Thần Linh, Tổ Tiên! Chàng hãy bước quá ra ngoài này!

                          Ngơ ngác Võ đi chếch lại xế bên Thần Nữ. Vừa được bốn thước bỗng nghe kịch một tiếng nặng chịch, nền đá trắng dưới chỗ chàng đứng trước tụt ngay xuống thành một lỗ hầm sâu thẳm tối mò.

                          Thần Nữ quơ tay len bệ thờ cầm một cây nến trắng rõ trốc ngọn lửa cháy vật vờ. Nàng ra hiệu cho Minh Thần bước lại miệng hầm giơ cao cây nến thả nhẹ xuống.

                          Võ dòm xuống, không khỏi phát ớn xương sống khi thấy dao thương từng dãy cắm chổng ngược mũi lên trời, sáng lòa, loang loáng lại có những vệt sáng lia soẹt trên ngọn thương, vọng đưa lên những tiếng vút gió như xé lụa! Chừng đó là những lưỡi đại đao, móc câu dính vào các guồng ngầm trong vách ham.

                          Cà Uôm! Có tiếng thù gầm vọng lên, dưới ánh nến hiện ra những mõm ác thú há hốc, nanh lởm chởm, mắt đỏ tía dòm lên như đợi con thịt rơi xuống.

                          Thần Nữ phất tay tắt nến, mở chốt đóng cửa hầm lại. Bỗng thấy vị Thánh Y từ gian ngoài tiến vào. Thoáng thấy nắp hầm đậy kịch, ông già sửng sốt đưa mắt nhìn Minh Thần, như đoán có chuyện bất thường. Thần Nữ ngó lão, giọng đìu hiu đượm nhiều cay đắng.

                          - Lời nguyền không thể thực hiện được... Sửng sốt, Thánh Y ngó chàng trai, khá lâu mới khẽ lên tiếng:

                          - Có chuyện chi ngăn trở? Cuộc hôn nhân di truyền ngôn Yên quốc luật Phù Dung Thần Giáo, nhưng mối duyên hài tưởng đã xứng đôi? Sao công tử lại từ chối?

                          Minh Thần rất đỗi bàng hoàng. Chàng trai rất cảm động tấm lòng rộng rãi cao cả của Thần Nữ, nhưng lòng trai hiếu vẫn còn rỉ máu tháng năm vì mối cừu phụ mẫu. Nghẹn ngào, Võ thở dài:

                          - Đến thân này còn chẳng tiếc, đâu còn tiếc thân với ân nương, ân công! Nhưng đời trai mồ côi không nguồn gốc, di hài mẹ thành cái túi da người đeo sau lưng, thù sâu mười tám năm chưa trả, lời thề báo oán còn nguyên, còn tính sao được chuyện đời mình?

                          Thánh Y Lãn Ông đưa mắt nhìn Thần Nữ. Khuôn mặt đẹp thần bí oai nghiêm lúc này hiện rõ vẻ não nùng chập chờn tử khí, chỉ nhác qua cũng đủ thấy bóng thần chết đang chiếm trọn linh hồn người đàn bà chúa tể xứ Phù Dung. Lão hiểu luật nguyền không buộc kẻ bị từ chối phải chết nhưng một cô gái xinh đẹp quyền uy như nàng không thể nào chịu đựng nổi chuyện bị từ hôn. Còn Võ Minh Thần, chàng hiếu tử bình sinh chỉ biết nuôi chí rửa hờn cho cha mẹ cũng chẳng dễ gì mà làm trái lơi thề quên thân báo oán! Lần tới Pi A Ya động thất cứu bệnh Minh Thần, lão cũng hiểu qua mối tình thầm lặng của nàng hiền nữ chúa Bạc Khao Lan đối với Minh Thần, nhưng trước ý chí tìm thù báo oán của chàng, Khao Lan đã phải âm thầm tiễn biệt chàng đi.

                          Nay phải đứng làm ông tơ bà nguyệt tác hợp Thần Nữ với Minh Thần, lão ái ngại cho nàng Bạc không ít, song vì lời nguyền, vì mối thâm tình với xứ Yên, lão chẳng thể làm khác hơn. Cũng bởi tục lệ cổ truyền của xứ này đã định rõ: kẻ nào đặt chân tới xứ Phù Dung ngay sau người trước, kẻ đó sẽ trở thành "nguyệt lão" trong cuộc hôn lễ thiêng liêng này.

                          Nên trước cảnh nan giải sắp gây đổ vỡ thê thảm nhat thời ông già này chẳng biết làm sao cho toàn vẹn, đành nghiêm sắc mặt điềm đạm bảo Minh Thần:

                          - Cuộc đính hôn này vô cùng thiêng liêng quan hệ đến vận mạng danh dự của nhiều người. Nếu công tử từ chối Thần Nữ Giáo chủ sẽ phải làm trái cả lời nguyền cổ luật Phù Dung giải cứu công tử và đem xác thân Thần Nữ tạ tội trước bàn thờ Tổ Nương. Chẳng lẽ công tử đành lòng để kẻ cứu mình chịu chết, sau cái nhục từ hôn? Lão phu thiết nghĩ, tâm tang để cả đời chưa hết, tang theo gia lễ, lệ chỉ ba năm, nay lệnh gia đường mất đã mười tám năm rồi, đại cừu cứ báo nhưng việc hôn nhân nào có phạm chi? Tưởng công tử chẳng cần phải... khắt khe với mình quá the, để điện này lạnh lẽo mai đây!

                          Minh Thần càng bối rối, chẳng thể đành lòng để kẻ đã cứu mình phải khổ lụy thác oan, nhưng khốn nỗi chàng đã thề nguyền chỉ biết đem thân báo thù, thù kia còn đó, lẽ đâu bội nguyền? Đang hoang mang khó xử bỗng từ dưới chân đồi nổi lên một hồi cồng rền rĩ âm u, tiếp theo là tiếng chiêng trống, đàn sáo, sênh tiêu, "khèn" kèn,... dìu dặt, đúng ba hồi âm thanh rừng rú, bình nguyên pha trộn dâng lên đại điện im lìm xao động không gian. Âm thanh "đi" dần lên đồi, dứt ba hồi. đã kề ngoài cửa điện.

                          Rồi có tiếng thần dân Yên quốc nhất loạt tung hô như sấm rền:

                          - Thần Nữ Nương Nương đẹp duyên tiền định. Thần Giáo trường tồn, Phù Dung hưng thịnh, thần dân hưởng phúc đời đời!

                          Tiếng dân hò vang động cả khu nội điện, Thần Nữ vụt nhíu mày nhìn ra thở dài:

                          - Giờ hành lễ đã tới! Dân chúng sắp kéo vào ngoại điện, nếu không thấy "nguyệt lão" thì một đội lực sĩ sẽ vào nội điện... theo đúng lời nguyền khi lập giáo. Mau! Chàng mau thoát ra lối cửa hậu! Để mặc thiếp đối phó!

                          Vốn người điềm tĩnh, vậy mà lúc này Võ chợt thấy bấn loạn hết sức, nghe Thần Nữ giục chàng vẫn đứng im, tai nghe tiếng động bên ngoài, mắt ngó nàng đăm đăm. Cảnh tượng chết chóc oan uổng của nàng hiện lên trong trí. Vốn người khẳng khái, Võ buột miệng:

                          - Không, không! Không thể được! Nữ giáo chủ không việc gì phải hy sinh vô lý vậy! Đời nữ giáo chủ còn tươi đẹp, phải ở lại cai trị thần dân! Kẻ lưu lạc bạc phước này mới chính là kẻ phải hy sinh đền đáp ân nhân.

                          Dứt lời chàng lùi phắt lại, nhưng Thần Nữ chỉ lắc mình một cái đã xẹt đứng bên, nắm vụt lấy cổ tay chàng nhanh như điện chớp. Đúng lúc phía ngoài bỗng bật lên một hồi cồng kỳ dị theo nhịp năm tiếng ngũ liên. Coong coong coong coong coong.

                          - Khoan! Chàng còn thù nhà, phải lưu thân báo phục! Thoát mau! Thiep sẽ cho gái hầu dẫn đường!

                          Bốn mắt nhìn nhau sâu hút, Võ lấy làm lạ về sức thần tốc của thân pháp nàng gái chúa xứ Yên, buột miệng:

                          - Sức nhanh này không thua Tây Sắc Đông Âm, tiếc thay kẻ này đức bạc, mắc lời thề, phụ bậc tài cao. Thánh Y bỗng lóe tia sáng trong đầu, vùng tiến lại giọng đượm buồn:

                          - Thế ra công tử chưa biết Thần Nữ đây là nhân vật nào ư? Công tử chắc từng nghe danh "Tứ hung tứ trụ võ lâm" trong thiên hạ? Xứ Yên này về phương Bắc xế...

                          Minh Thần sực vỡ lẽ, ngó Thần Nữ bật nhanh:

                          - Yên phương Bắc...? Phải chăng Bắc Yên đây? Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc

                          Yên, Nam Đổ... đây là Bắc Yên Thần?

                          Thánh Y gật đầu:

                          - Nên duyên giai ngẫu với Bắc Yên Thần Nữ, tưởng nếu lệnh nghiêm đường cũng hài lòng nơi chín suối, có con dâu kỳ tài sẽ giúp trượng phu báo cừu! Cùng dòng thượng võ, sao không thuận theo cảnh ngộ, cử hành hôn lễ cho vui lòng thần dân, con chuyện... vợ chồng, trong phòng riêng, biến duyên cầm sắt ra duyên cầm kỳ, có chi cản trở? Hôn nhân Nữ Chúa đã nên, lời thề hiếu tử vẫn còn nguyên đó?

                          Cả Thần Nữ, Minh Thần cùng nhìn nhau, nghe có lý, dẫu sao còn hơn đổ vỡ tan hoang chết chóc! Thần Nữ buông tay Võ, mặt thoáng đỏ khẽ nói:

                          - Nhưng có điều chưa tiện nói vì sau hôn lễ chính còn có lễ hợp cẩn... Thánh Y vừa kịp đáp tiếng "chân giả tùy tâm" bỗng nghe tiếng thần dân tung hô vang dậy, rồi một đoàn lực sĩ tay mang đủ món khí giới lạ mắt dàn hàng năm ào ạt tiến vào nội điện.

                          Qua các bệ thờ tượng khắc, ánh đèn dầu lạc chiếu tỏ đám đông thảy đều lực lưỡng, mặc áo quần ngũ sắc đeo đủ mọi loại mặt nạ đầu trâu mặt ngựa, thú điểu côn trùng, vẻ sặc sỡ coi hết sức quái gở, thoạt trông chẳng khác một bầy quỷ sứ dưới âm ty lên bắt người hành tội.

                          Nhanh như chớp vị Thánh Y chụp vội lấy cổ tay Thần Nữ, Minh Thần, lao đứng giữa, giơ cao đường hoàng tiến thẳng ra ngoài. Như cái máy, Võ đành bước theo chẳng còn biết nói sao.

                          Đang khi đó đoàn lực sĩ đeo mặt nạ vừa tiến xồng xộc vào giữa nội điện. Tất cả vụt đứng lại, cúi rạp đầu, xe ngoài đám đông vùng tung hô như sấm rền muốn vỡ điện, và trước cặp mắt ngạc nhiên của chàng họ Võ, đám lực sĩ giơ cao tay lên trời, bên ngoài âm thanh hợp tấu bật dậy, kích thích cực độ, đám lực sĩ vùng vẫy giẫy giua như đỉa phải vôi múa theo nhịp âm kích thích, nhảy nhót, vờn lượn quanh ba người. Thánh Y dắt cặp trai gái ra trước bệ thờ, lão từ từ hạ hai tay họ xuống, để áp vào nhau, xoay nửa vòng, hướng về phía bệ thờ. Tất cả vụt dừng bặt, Thánh Y nói lớn:

                          - Theo ý trời, thừa lệnh Tổ Nương Thần theo luật Phù Dung, Nguyệt lão se duyên cho đôi trai gái này. Thần Nữ Phù Dung với Minh Thần họ Võ nên nghĩa phu thê, Thần Nam ứng ngôi phò mã cùng Thần Nữ làm chúa tể Phù Dung Thần Giáo, dẫn dắt thần dân đệ tử!

                          Dứt lời, lão lấy một sợi chỉ hồng trói chặt hai cổ tay vào nhau, rồi lùi sang bên. Tiếng reo hò nổi dậy muốn vỡ điện. Âm thanh dật dật, đám lực sĩ, đám đồng nam đồng nữ, bô lão, thần dân lũ lượt kéo ùa vào múa may, nhảy nhót, phủ phục, làm lễ tôn Thần. Qua một vài nghi thức đặc biệt, tất cả bỗng nhất loạt phủ phục khắp trong ngoài, im phăng phắc trán dập sát nền đá, coi như dân Hồi Giáo lễ.

                          Thánh Y vùng hô dõng dạc trầm trầm:

                          - Hỡi anh linh Tổ Nương Thần! Xin người về chứng giám cho con cháu người, giáo chủ Phù Dung dâng thân trinh bạch, trước giờ hợp cẩn!

                          Tiếng đàn cồng nổi lên, rồi tiếng khèn lau, hai thứ âm rừng rú chờn vờn nhịp điệu nguyên thủy hoang vu, Thần Nữ vẫn buộc tay vào Minh Thần, nàng chợt nắm tay chàng, làm hiệu và nhảy vọt lên bệ thờ, rồi cứ thế vừa dắt chàng trai vừa nhảy múa, chơn vờn theo âm thanh, dẻo như mây rừng, lần lượt chuyển hết các bệ, vào tận chỗ đặt tượng Phù Dung Thần.

                          Comment


                          • #14
                            Hồi Thứ Mười Bốn




                            Động Phòng Trong Ruột Tượng



                            Lúc này cả khu nội điện mênh mông im lặng vô cùng, chỉ có cồng "khèn" chìm nổi, đám thần dân đều gục sát nền không được ngẩng lên.

                            Nãy giờ, Võ Minh Thần chỉ còn biết cử động như cái máy, hòa theo nhịp nhảy múa của nàng giáo chủ Phù Dung chẳng còn tâm trí nghĩ ngợi ngược xuôi nữa. Chàng chỉ thầm đoán đây là một "vũ khúc thiêng liêng" mà đôi vợ chồng mới phải hợp diễn trước tượng Thần theo tục lệ bản xứ và theo lời vị Thánh Y nguyệt lão vừa nói, đây là một cuộc lễ để nữ chúa giáo chủ hiến trình tấm thân băng trinh cho Thần Phù Dung chứng giám, trước khi làm lễ hợp cẩn.

                            Phút đầu chàng trai hoang mang thấy mình phải cuốn theo tục lệ kỳ lạ của tiểu quốc thâm sơn, nhận cả lễ tơ hồng, cho "chỉ buộc cổ tay" nhưng sau tưởng đến ân thâm hậu của Thần Nữ, Thánh Y, chàng cũng thấy nhẹ nhõm nhiều phần, dường như tâm đã định được hướng đi rõ rệt.

                            - Lời nguyền, cổ tục Phù Dung buộc kẻ lạc tới thành giai tế, làm chồng Nữchúa giáo chủ, nhưng Thần Nữ Bắc Yên đâu nỡ buộc mình. Đây chỉ làm một kế quyền biến cho êm thấm bên ngoài qua cơn túng xử theo lời Thánh Y, Thần Nữ cũng rõ! Âu cũng là một cách mình đền ơn trong muôn một cũng khác nào diễn một màn kịch lễ tơ hồng, đóng giả vợ chồng trên sân khấu vậy!

                            Ý nghĩ làm Võ thêm vững dạ, lại gặp dịp mới thoát bệnh nạn hiểm nghèo, tưởng đến chuyện ra đi phục thù, lòng trai càng phấn khởi, vui vui, như được dự trò hay xứ lạ.

                            Thần Nữ mặc hoàng bào, Minh Thần mặc hồng bào, hai người cột tay nhau nhảy múa coi như hai con bướm màu vờn trong điện. Trong đời Minh Thần chưa thấy gái nào vũ hay như nàng. Kỳ diệu nhất là vạt áo sau nàng dài thượt như gấu váy nữ hoàng Tây Phương phải có gái hầu nâng, vậy mà lúc này nàng múa lướt trên bệ thờ ngổn ngang đồ vật, tà áo không hề quét phải theo nhịp, theo nhịp cứ bước, cứ bay cuồn cuộn coi như giải áo tiên cô.

                            Vừa nhảy múa, Võ vừa đưa mắt nhìn nàng. Mặt nàng tắm ánh đèn vàng lung linh coi càng thần bí, toát ra một thứ nhan sắc vừa uy nghi đài các, vừa tình tứ đê mê, một thứ nhan sắc phi phàm đầy sức lôi cuốn người như sắc gái hồ ly, tiên cô cộng lại.

                            Đang chờn vờn vùn vụt luồng âm thanh chậm lại, ngoài điện chợt có tiếng người tấu lên đoạn âm bình thanh nghe rất lạ tai.

                            Thần Nữ vụt lửng lơ cao tay buộc chỉ hồng, ghé sát tai Minh Thần thỏ thẻ:

                            - Vũ khúc "phu thê đồng diễn" xong rồi, giờ tới "vũ khúc băng trinh", chỉ có cô dâu diễn trình, tân lang chỉ cần đi theo nhịp bước. Trước Tổ Nương Thần, nữ giáo chủ phải vũ chứng minh sự trinh bạch cho Tổ Nương thấy rõ giáo chủ Thần Giáo khong thể là gái thất trinh lấy chồng! Gái thất trinh sẽ bị trừng phạt ngay trên bệ này!

                            Minh Thần ngó quanh, toan hỏi, đã thấy nàng vụt chuyển mình mẩy, múa nhảy chờn vờn, rồi bất thần nhảy vọt lên trốc ngọn đèn. Đèn nay đường kính hàng mấy thước, phía trên nhẵn bóng như nền pha lê, lửa nung nóng như đồng nướng, muốn chảy cả đế giày cao su. Minh Thần phải vội vận sức hàn dồn xuống bàn chân mới thấy mát dịu hẳn. Bỗng nghe "soạt" tiếng ao trôi, Minh Thần ngó sang đã thấy Thần Nữ cởi vụt chiếc áo vàng hở nửa mình. Nàng uốn như mây, lắc mình, áo bào trôi dần sao bên trái, trôi mãi, thoắt đã lộ bán thân chỉ còn mảnh lụa lót đen nhánh như cánh bướm đậu hờ. Chiếc áo bào chỉ còn dính ống tay buộc với tay Võ.

                            Chàng trai hơi giật mình, hoảng hốt, vội ngước mắt dòm lên mặt tượng Thần Phù Dung. Bỗng nghe Thần Nữ hét lên một tiếng lê thê, chói tai, Võ lại vội ngó sang, vừa kịp thấy nàng xoay lưng giật "soạt" chiếc áo hoàng bào, rớt ngay xuống bệ thờ, tay phải nàng đã cầm một mảnh lụa vàng lấy từ áo bào ghép ra, múa phất phơ. Mới hay áo này ống tay trái có khuy cài dọc, giật mạnh, khuy bung sổ, áo rơi luôn ra.

                            Ngoài xa, tiếng cồng chợt im chỉ còn tiếng kèn lan độc tấu, vút cao vờn âm nguyên thủy như quyện xoắn lấy thân hình Thần Nữ. Nàng vẫn xoay lưng lại, lắc vùn vụt như con mồi dãy dụa, mềm mại lạ thường, cả linh hồn nàng lúc này như hiến trọn cho vũ diệu. Dưới đèn, mảnh xiêm y vừa tung vừa trôi dần xuống thành một đường vòng tròn dưới chân. Nàng bước ra khỏi vòng tròn bay xuống bệ dưới.

                            Nàng theo nhịp khèn uốn cong dáng liễu, dưới đèn mảnh lụa vàng kim tuyến lấp lánh bay lượn quấn quanh người nàng như con hoàng xà vẩy khúc, mấy cánh bướm đen bỗng bay vút lên cao phất phới, chao qua chao lại dưới sức gió từ dải vàng kim tuyến hắt ra xoắn bay trông như cơn lốc xoáy.

                            Lúc này, vũ điệu kỳ dị đã đến nước tuyệt diệu cuốn lôi nhỡn quang Võ theo như nam châm hút sắt, chàng ngửa mặt nhìn theo mấy cánh bướm đen tuyền, bướm dờn dờn bay là trốc đầu chàng rồi đáp xuống chân đèn đậu yên đó.

                            Bỗng tiếng "khèn" ngoài kia rít cao, đệm tiếng đàn "cồng", Thần Nữ theo nhịp vũ xoay vụt người lại phía Minh Thần. Cả gian nội điện như giật nẩy lên trước sự hiển lộng nhan sắc ngọc ngà dưới ánh đèn lung linh. Giải khăn vàng trai rộng, uốn éo như con trăn gió vờn thịt tơ, có lẽ không có tay điêu khắc nào có thể khắc nổi một pho tượng ngà đẹp đăng đối đến thế, gọi tượng Thần Vệ Nữ hiện thân cũng chưa đúng, phải nói đây là một tác phẩm tuyet tác của hóa công! Đăng đối đến nỗi chỉ ngắn đi, dày thêm, mỏng thêm một phần trăm ly là lỡ hết.

                            Chưa khi nào Võ được hiểu trọn vẹn cái đẹp hoàn toàn tao nhã, thanh khiết của một hình thể khỏa không mảy may gợi ý dâm tà, như nét đẹp khỏa lộng của Bắc Yên Thần Nữ lúc này trước đền thờ, vẻ đẹp còn tiết ra nét thiêng liêng thần bí lạ thường càng tô thêm sắc cao quý của tấm thân ngà chúa tể "ba biên giới".

                            Mắt phượng mày ngài, dung nhan đã đẹp, thân mềm uốn theo điệu càng lồng lộng nét kỳ hà cong vút, dưới đèn Thần Nữ khỏa lộ trọn vẹn cả tấm nhan sắc thiên kiều bá mị, đúng tượng Thần vệ nữ đang phô trình thân xác băng trinh như đóa hoa ham tiếu phô Tổ Nương duyệt lãm. Và rõ ràng cho cả "tân lang phò mã" chứng kiến theo tục lệ cổ truyền bản xứ vì tay trái nàng vẫn buộc vào tay Võ. Nàng vờn thân dáng hướng về phía tượng thần Phù Dung, xong lại hướng thẳng vào Võ múa vờn "vũ khúc băng trinh" huyền ảo! Minh Thần đã lưu lạc giang hồ nhiều nên biết trên thế giới vẫn có nhiều sắc dân coi chuyện khỏa thân biểu hiện cho sự thanh khiết tuyệt không gợn ý dục trong phong tục như lối tắm một số sắc dân sơn cước, của người Nhật văn minh cũng thế. Nên chàng thầm hiểu cuộc khỏa vũ của nàng giáo chủ xứ Yên mang đầy ý nghĩa thiêng liêng rất tự nhiên. Tuy vậy, Võ cũng vẫn thấy hoảng hốt, bất nhan hết sức khi nghĩ đây chỉ là một cuộc trình lễ giả vờ che mắt thần dân cho chàng có dịp thoát khỏi nơi này.

                            Mặc Võ nghi loang quanh, Thần Nữ hình như đang "nhập hồn" vào nhịp vũ tiếng "khèn" lại chuyển âm hoang dại, nàng vừa múa vờn vừa áp sát thân dáng vào chàng, có lúc chỉ kề ly tấc, thân liếc uốn cong veo, hai con mắt nàng ngó thẳng vào mắt Võ, hiện rõ vẻ kính cẩn, nghiêm trang, đượm ánh mê hồn thần bí, tưởng nếu đời nàng bất thần tan biến theo vũ điệu có lẽ không còn gì sung sướng bằng nữa.

                            Võ chẳng biết tính sao hơn, cứ phải làm gan đi bên vũ điệu lạ đời. Thỉnh thoảng chàng ngước mắt trông lên pho tượng thần Phù Dung quyện khói hương, đen vàng, hai con mắt cẩn ngọc xanh biếc long lanh coi linh hoạt như "có thần" dòm xuống, khiến bầu không khí quanh bệ thờ càng thêm phảng phất vẻ thần bí lạ thường. Giữa âm thanh chờn vờn, bỗng phía ngoài, có tiếng ai hô toàn tiếng bình thanh, lập tức cả khu điện ngoài vang lên những tiếng người hợp tấu trầm trầm, như tiếng cầu kinh.

                            Minh Thần liếc trông ra thấy đám dân Yên thảy đều chấp tay lên trán vái lễ, dập đầu đầy vẻ thành kính. Trên nóc bóng đèn thờ, Thần Nữ bỗng chuyển nhanh động tác, dắt Võ đi vòng quanh ngọn đèn, có lúc nàng phất dải lụa mở rộng ra, chân ngọc cài hẳn vào chân Võ thân dáng ngã rạp cong veo như cành liễu gặp gió vùi.

                            Tiếng cầu kinh ngân dần, bỗng lại co tiếng vị Thánh Y Lãn Ông vang âm khắp khu điện mênh mông:

                            - Hỡi Tổ Nương Thần linh thiêng, phúc thần đời đời của dân tộc PhùDung! Ngài đã duyệt lãm thân xác trinh bạch của ngôi giáo chủ! Xin mở lòng cho nữ giáo chủ đe tử Ngài cùng tân lang phò mã vào làm lễ hợp cẩn. Nguyệt lão se duyên chỉ thắm xin Ngài truyền thần ý! Nếu chuông thần phát âm thần ý tác thành phu thê hoan lạc. Thần giáo trường tồn!

                            Lời vừa dứt, Thần Nữ chợt dắt Võ nhảy vèo xuống bệ dưới. Võ trông ra thấy tít xa, có bóng lão Thánh Y xuất hiên, đứng nhìn lên pho tượng thần Phù Dung trong cùng, cách xa tới sáu bảy chục thước. Một cặp đồng nam đồng nữ dâng cung tên, Thánh Y đỡ lay, xoay tròn bốn mặt, dân chúng im lìm, bất thần lão giương cung thả vút mũi tên lên phía tượng thần.

                            Võ cùng Thần Nữ thoáng thấy mũi tên bắn trúng miệng tượng thần. Coong! Tiếng đồng vang lên, mũi tên chui tọt vào trong mất dạng, bỗng tiếng chuông vùn vụt dậy "boong, boong" chìm nổi ba hồi vang khắp đền thờ.

                            Và sau tiếng chuông ngân pho tượng bỗng nứt làm đôi để lộ một khoảng trống thâm u, bên trong có ánh sáng rực rỡ muôn màu.

                            Thần Nữ dắt tay Võ nhảy vọt lên bệ thờ chính giữa, vừa vờn vừa nhảy vụt lên lên ngọn bóng đèn, dứt ba hồi chuông, Thần Nữ đưa mắt làm hiệu cùng Võ nhảy vọt lên chân tường cao chót vót.

                            Đứng trên này có thể nhìn thấy suốt khu nội, khu ngoại điện thênh thang, chật ních bóng người quỳ dập đầu xuống nền đá nhẵn, không một tiếng động nhỏ. Chỉ còn tiếng "khèn". Ngay khi đó, chợt tiếng đàn sáo nổi lên, Thần Nữ theo nhịp vũ, đưa Võ lách vụt vào ruột tượng. "Boong, boong", một hồi chuông ngân, bụng tượng khép lại kín bưng.

                            Võ bỗng choáng váng như vụt rơi vào một thế giới nào xa xăm lắm. Vì mọi tiếng động bên ngoài đều chìm tắt hết, tiếng đàn sáo, tiếng chim ngân ngoài đồi, nhất loạt lùi đâu mất cả, bốn bề im lặng mênh mông. Thần Nữ không múa nữa, chàng trai chớp chớp mắt nhìn quanh.

                            Ánh sáng trong ruột tượng thật kỳ ảo, xanh đỏ trắng, tím vàng giao nhau, biến hóa muôn màu, làm loạn cả nhỡn quang, mươi khắc mới định hẳn. Võ bật kêu "ồ" sửng sốt.

                            Vì thấy mình đang đứng sững trong một căn phòng vô cùng xinh xắn màn che trướng rủ, đồ đạc bày biện hết sức tao nhã, ngó qua đã nhận ra được đây là khuê phong của khách đài trang phảng phất vẻ phi phàm thanh thoát lạ.

                            Và xế đằng kia, là một chiếc giường thất bảo màn bát tiên buông sẵn, cánh màn vắt lên, trong giường đủ cả chăn nệm toàn bằng gấm vóc, một đôi gối thêu rồng phượng nằm bên nhau như đợi khách trần ghé nhập Thiên Thai.

                            Thấy giường thất bảo, màn bát tiên, chàng trai vùng nhớ đến hai câu Kiều của Tố Như, bỗng dột lòng quay dòm Thần Nữ. Nàng đứng sát bên chàng, tay vẫn cùng buộc chỉ hồng, dưới vùng ánh sáng muôn màu coi nàng đẹp lồ lộ như tiên nga giáng thế, tưởng chừng gỗ đá cũng phải đảo điên. Võ vùng hỏi:

                            - Thưa sao lại vào đây?

                            Thần Nữ phất nhẹ giải kim tuyến vàng quấn quanh mình mẩy như khúc rắn, nhìn Võ, thỏ thẻ:

                            - Hôn lễ xong rồi! Đây là lễ cuối, lễ hợp cẩn! Theo tục lệ, giờ phút này là giờ phút thiêng liêng nhất của thần dân. Chúng dân sẽ cùng Nguyệt Lão đợi ngoài điện đến giờ Ngọ, không thấy ra, chúng thần dân cũng quay về, giờ Ngọ ngày mai tới rước.

                            Minh Thần ngơ ngẩn:

                            - Vậy lễ hợp cẩn xong rồi, ta còn ở đây làm gì nữa? Ta nên ra gặp Thánh

                            Y...

                            Thần Nữ mỉm cười, hơi cúi đầu nói nhỏ:

                            - Lễ hợp cẩn đã làm đâu? Minh Thần thực sự rất vụng về các tục lệ hôn nhân:

                            - Tưởng vừa xong lúc chuông khua? Vậy giờ còn phải làm gì nữa đây?

                            Thần Nữ nhìn Võ, thoáng ngạc nhiên thấy chàng ngây ngô quá, nàng nữ chúa vụt trở nên đầm ấm khác thường, nàng khẽ bảo Võ:

                            - Chính lễ xong rồi, chàng với thiếp đã nên duyên phu phụ. Cả linh hồn thân xác thiếp từ nay sẽ thuộc về chàng... Từ nay thân thiếp sẽ trông cậy nơi chàng, trong nhờ, đục chịu... Cát đằng nương bóng tùng quân...

                            Nghe giọng nói thiết tha, Võ đâm hoảng lắp bắp:

                            - Đâu... đâu phải vậy? Nương nương là nữ Chúa giáo chủ... đã cứu mạng kẻ lưu lạc này... Nương nương lại là nhân vật lừng danh "Tứ trụ" võ lâm hiện nay, chính kẻ này mới là cát đằng...

                            Thần Nữ phát cười khanh khách:

                            - Chàng không hiểu... chuyện hôn nhân khác! Mà bọn thiếp như thuyền, đàn ông như bể nước... Chớ! Giờ này là của đôi ta, xin chàng vào quá đây, thiếp dâng ly rượu giao bôi.

                            Nàng vừa nói vừa dìu Võ vào chỗ giường thất bảo. Trên bàn có nhiều trái cây mỹ tửu. Nàng dìu Võ ngồi bên giường, rót rượu dâng. Nàng để ly rượu và miệng Võ, âu yếm thiết tha ép chàng uống liền ba ly. Từ cơ thể nàng tiết ra một mùi lan xạ thật kỳ ảo phả vào mũi Võ làm chàng phải nín thở, hoảng kêu khẽ:

                            - Nương nương... này. Ta bứt sợi chỉ này đi chứ? Để làm gì đây?

                            Thần Nữ nhìn sợi chỉ hồng buộc cổ tay hai người và nàng sà xuống ngồi bên Võ thỏ thẻ bảo:

                            - Xong lẽ hợp cẩn, dây này sẽ đứt ra vì lúc đó đã có sợi dây vô hình buộc liền đôi ta lại. Đó là sợi "âm dương tuyến". Nhưng giờ nếu chàng muốn bứt đứt thì cũng được.

                            Minh Than cả mừng đưa luôn hai ngón tay bứt liền. Nào dè bứt liền mấy cái không đứt, tuy sợi chỉ hồng chỉ bằng sợi dây gai, lạ lùng chàng bèn vận sức giật cũng không được. Chàng càng sửng sốt vì tay chàng giật xích sắt còn đứt, giờ sợi chỉ hồng càng giật càng nghiến chặt vào tay.

                            - Ơ... sao lại thế này? Dây ma dây quái gì mà dai gớm?

                            Thần Nữ mỉm cười:

                            - Dây tơ hồng đó! Thiếp đã nói nó sẽ đứt khi... hợp cẩn. Vì nó là một thứ dây được chế luyện đặc biệt để dùng vào dịp hôn lễ. Chàng không muốn buộc liền với thiếp?

                            Võ Minh Thần lúng túng chẳng biết nói sao. Xứ Phù Dung này thật kỳ dị, nguồn gốc, địa thế tục lệ đã kỳ, đến chuyện hôn lễ càng quái gở. Nhưng cái xứ thâm sơn kỳ dị này đã cứu chàng thoát nạn lớn, và người đàn bà giáo chủ này lại là ân nhân chàng. Đại lễ vừa dứt và người đàn bà tài sắc tuyệt vời hiện ngồi bên chàng, trong ruột tượng thần lồ lộ tấm băng trinh. Và dẫu "ngờ nghệch" đến mấy, Võ cũng hiểu nàng đưa chàng vào đây là để động phòng hợp cẩn, và hình như nàng đã sẵn sàng hiến dâng tất cả cho chàng.

                            - Ta làm chồng nàng ư? Ta có vợ? Nàng là vợ ta? Đây là phòng hợp cẩn? Đâu phải thế? Đây chỉ là một cuộc lễ giả vờ để che mắt thế gian thôi mà! Thánh Y đã nói rõ, và nàng cũng biết mà!

                            Như bị kiến đốt, chàng trai bật đứng phắt dậy. Nhưng Thần Nữ đã níu chàng xuống, và bang một cử chỉ vô cùng tình tứ lả lơi, nàng ghé sát mặt nàng vào vai chàng và theo đà ngã luôn tấm thân tuyệt trần vào lòng Võ, giọng thánh thót nổi chìm như tiếng đàn thần tiên:

                            - Giờ phút này là của đôi ta. Trời đất thần linh đã tác hợp duyên kỳ ngộ, xui khiến cho dị thú mang chàng đến đây. Thiếp chưa hề biết yêu, gặp chàng, thiếp đã yêu chàng ngay... Chàng ơi! Chàng hãy coi tim thiếp đang thổn thức vì chàng...

                            Vừa nói nàng vừa nắm tay Võ đặt vào ngực trái nàng, lồng ngực băng trinh làm Võ Minh Thần giật bắn người như chạm phải gai, rụt vội tay kêu lên:

                            - Nương nương... kìa! Nương nương nói chi lạ thế? Xin chớ làm kẻ này mang tội bất kính với ân nương! Chúng ta chỉ vờ làm hôn lễ che mắt dân gian mà.

                            Vừa nói, chàng vừa co luôn đầu gối dềnh dội nàng giáo chủ lên, nàng nhoẻn cười thỏ thẻ:

                            - Chúng ta đã thành vợ chồng trước Thần Nương dân chúng, theo nghi lễ thiêng liêng. Làm gì có chuyện giả vờ? Thiếp đâu phải phường trăng hoa để kẻ giả phu duyệt lãm thân mình? "Vũ khúc băng trinh" chỉ trình diễn cho hảo lang quân được thấy! Làm gì có giả hôn!

                            Minh Thần đứng sổ dậy nhưng khốn nỗi hay tay vẫn dính liền với nhau, chàng hoang hốt nói như van:

                            - Nương nương chớ nói thế... kẻ này mang tội với bậc sinh thành! Cha mẹ kẻ này chết ô nhục vì Tây Sắc Sài lang dâm loạn, oan hồn còn vương vất sơn khê chưa siêu thoát, thù sâu chưa báo, kẻ này dám đâu nghĩ chuyện hôn nhân. Nay Thánh Y Lãn Ông bảo... chỉ giả hôn lễ cho qua cơn túng xử, nương nương cũng biết mà! Xin xét cho kẻ bạc phước này!

                            Thần Nữ đứng lên theo, đối diện Võ cười khanh khách:

                            - Nguyệt Lão nói cho qua chuyện đó thôi! Làm gì thiếp dám giả hôn trước cả Thần linh? Chàng thật... ngây thơ, thiếp cũng chẳng gì cũng là nữ chúa giáo chủ, bấy lâu gìn vàng giữ ngọc có khi nào lại để đàn ông lạ thấy cả mình khỏa vũ, nếu chẳng phải là chồng thiếp? Thôi chàng đừng nghĩ ngợi vẩn vơ nữa. Chàng thích dùng chi để thiếp dâng? Trong này có đủ cả!

                            Nàng vỗ vai Võ, thật tình tứ thiết tha, mùi lan xạ tiết ra phả vào mũi chàng tuổi trẻ, gây cảm giác ớn người, một thứ ơn ớn kỳ dị dễ làm ngã lòng người trai bướng với nhan sắc. Thực ra, Võ tuy điển trai, nhưng bản chất không phải tay hiếu sắc, lạnh lùng với gái nữa là khác. Trong đời lưu lạc chông gai, đã mấy phen bị va vao thế kề nhan sắc, Võ vẫn giữ được lòng nghiêm chỉnh. Như lần bồng Giao Long nữ, mổ vết thương dưới vú, tuy mặt nàng xấu xí mà thân thể thơm tho, xinh đẹp lạ thường, mùi thơm sực nức, Võ vẫn giữ được lòng, những lần kề Bạc Khao Lan, Đèo Nguyệt Kiều, chàng van vượt qua, nguy nhất là thời gian ẩn náu trong buồng riêng Nguyệt Kiều dưới Cung A Phòng, lắm phen gần như má tựa vai kề, chàng vẫn cầm lòng được.

                            Cũng khó nữa là Thần Nữ bình nhật lại đẹp uy nghiêm, đài các, chẳng vẻ chi lẳng lơ, giờ lại lồ lộ tình tứ cũng có sức quyến rũ "ghê gớm". Nàng lại cứ vờn nét kỹ hà thần bí trước mắt Võ, chàng lại không thể chống đối lại như chống đối với Hồ Ly Ma Nữ mới phiền. Bèn nhắm phăng mắt lại như kẻ tham thiền, giọng khổ sở bảo:

                            - Ngu mỗ giờ chỉ thích được đi ngoại cảnh một vòng!

                            Thần Nữ thấy thế không khỏi buồn cười, ghé sát miệng vào tai chàng thì thào:

                            - Thiếp có ăn thịt chàng đâu mà phải nhắm mắt lại? Nam nhi gì mà nhát thế? Xưa Liễu Hạ Huệ còn ôm gái vào lòng ủ ấm suốt đêm trong buồng vắng, vẫn như thường, chàng nay có dám làm Hạ Huệ không?

                            Hơi thở thơm phào nhè nhẹ vào mang tai, làm Võ rùng mình liền mấy cái, nàng càng được thể dìu chàng ngồi xuống, rồi ngã luôn vào lòng làm Võ giật mình mở choàng mắt ra.

                            Dưới làn ánh sáng muôn màu, nàng như hiện thân của Vệ Nữ Thần khao khát tình yêu, làm Võ bỗng ngạc nhiên hết sức, thoáng nghĩ:

                            - Lạ thật! Sao nàng lại lả lơi tình tứ thế này? Nàng đâu phải hạng gái khát tình? Hay tục lệ buộc phải thế? Có lẽ vậy! Vì trước sau nàng vẫn tuân theo tục lệ cổ truyền của tổ tiên... người thâm sơn thường nặng tính tôn trọng cổ tục. Dẫu sao mình vẫn phải kiếm cách thoát ra cảnh này mới được.

                            Bèn thở dài bảo Thần Nữ:

                            - Ngu mỗ đã thưa: mắc đại tang, đại thù phụ mẫu chưa báo xong chẳng thể nghĩ chuyện vợ con! Ngu mỗ như con chim bị đạn sa lạc miền Phù Dung, sớm muộn phải bay đi. Nữ chúa sắc, tài gồm đủ xin giữ mình vàng, chớ nên kinh suất. Ngu mỗ không thể ở lại làm giai tế Phù Dung đâu, dầu ngu mỗ muôn phần kính mến Nữ Chúa.

                            Thần Nữ cứ lả lời, dùng đủ cách khêu gợi cho Võ động phòng nhưng Võ vẫn một mực ngồi yên, tình cờ thấy tay áo có hàng khuy dọc, chàng cởi luôn tấm áo hồng bào khoác lên mình Thần Nữ. Nàng vụt cau mày, buồn giọng:

                            - À, hay chàng cho thiếp là gái quen đường hoa nguyệt, chẳng còn tiết trinh?

                            Dứt lời, nàng bước lại bên án thư lấy nghiên son ngửa mặt kiếm trên trần, dùng chỉ phong búng véo một nhát rụng luôn một con thạch sùng. Nàng lấy máu thạch sùng mài son, lấy bút lông chấm son, khoanh mot đường vòng tròn quanh cổ tay trái, bảo Minh Thần:

                            - Đây là "Thủ cung sa" nhà quyền quý bên Tàu vẫn dùng thử trinh tiết, nếu người con gái đã thất tiết dấu son sẽ xám xỉn lại, nếu là trinh nữ son vẫn đỏ tươi!

                            Võ tò mo nhìn cổ tay ngà. Ít khắc, son khô vòng tròn vẫn đỏ thắm như khi mới. Chìa dấu "thủ cung sa" trước mặt Võ, nàng Nữ chúa xứ Phù Dung thỏ thẻ:

                            - Dấu son pha máu thạch sùng này sẽ đen xỉn lại, sau khi giao hợp. Gái nào đã gần đàn ông, vẽ son vào cũng biến sắc ngay. Thiếp giữ gìn cẩn trọng, một tấm băng trinh chỉ để dành dâng hiến lang quân kỷ niệm ngày hôn lễ. Chàng đã tin lời vợ mới chưa?

                            Dứt lời, nàng sà xuống ngồi bên chàng âu yếm ngả vào vai. Minh Thần càng hoảng, ngó quanh phòng loan im ắng vô cùng, màn che trướng rủ, hương thơm ngào ngạt, ánh huyền đăng, chăn bông nệm gấm, gối thêu... tất cả như "đồng lòng" quyện chàng tuổi trẻ vào biển ân ái, khổ nữa là Thần Nữ đã đẹp phi phàm, tiếng êm như suối đàn, da thịt lại thơm tho ngát mùi lan xạ như đúc kết kỳ hoa dị thảo, làm lòng trai không khỏi xốn xang điên đảo. Dẫu Võ chẳng là tay hiếu sắc nhưng sức đang cương phương, đâu dễ cầm lòng. Chàng cố định thần, từ tốn bảo:

                            - Xin nương nương hãy bảo trọng thân vàng. Tấm băng trinh quý giá, đời thục nữ chỉ có một lần. Ngu mỗ là kẻ xấu số chẳng hề làm chồng, nương nương chớ làm thế. Ta nên đi ra chớ để chúng nhân chờ đợi.

                            Mặc! Nàng cứ ôm lấy Võ, kề sát tấm thân tuyệt sắc, nét kỷ hà cong vút chờn vờn, mùi lan xạ sực nức, như thiên tiên giáng hạ, khiến tượng gỗ cũng phải đảo điên.

                            Nang ghé tai Võ, nói lời tình tứ, không khác một con mèo cái khát tình, làm Võ tối tăm mặt mũi chẳng còn biết nói sao! Rõ ràng là nàng nữ chúa Phù Dung nhất định ép chàng làm lễ hợp cẩn, không cho trì hoãn khiến Võ càng bối rối nghĩ tham:

                            - Ôi chao! Đàn bà thật khó hiểu. Quá quắt thế này? À! Có lẽ nàng sợ ta bỏ đi, nên cố ép hợp cẩn cho "danh chính ngôn thuận", sau ta không còn cách nào từ chối được đây! Nhưng đời ta hai vai còn nặng thù cha mẹ, lời thề trước vong hồn mẹ, trước thiên địa, tôn sư. Chú Thoòng Mềnh, Chúa núi Thập Vạn... còn nguyên đó thù sâu chưa báo nổi, mai đây sẽ phải ra đi như cá nước chim trời, nàng là ân nhân, sao mình nỡ để nàng lỡ cả đời hoa? Thà bất nhược cứ giữ cho đừng mắc là hơn hết. Gối chăn hoan lạc, một lần để mang hờn trọn khiếp là chuyện không nên.

                            Bèn lựa lời nói rõ cho Thần Nữ hiểu đầu đuôi, xin nàng bỏ qua cho, nào đâu lúc này Thần Nữ cũng chỉ là một cô gái đang bị lửa tình nung nấu, cả vũ trụ đều tan vào ánh mắt lang quân. Nàng đổ dáng liễu vào Võ ngã trên nệm gấm ghé sát mặt hoa mơn mởn vào chàng, thỏ thẻ lời tình tự thiết tha:

                            - Chàng ơi. Giờ phút này là của đôi ta... Hay chàng chê thiếp xấu? Mặc! Minh Thần đã nghĩ được kế đối phó lối thụ động. Chàng vận ý chí, thôi miên, biến mình thành pho tượng đất vận hết khí hàn băng cho toàn thân lạnh ngắt như đồng.

                            - Mẫu thân... con quyết vì phụ mẫu, lánh đường hoa nguyệt, nuôi chí phục thù, mẹ có linh thiêng, xin về giúp con tránh được cơn cám dỗ với người đã cứu con. Tục lệ buộc nên phu phụ nhưng lòng chỉ biết nuôi thù.

                            Võ nhắm mắt, khấn thầm, lối này chính vị chúa "Mười vạn núi" đã dạy chàng. Bỗng nghe Thần Nữ hỏi:

                            - Chàng muốn ra khỏi đây? Chàng muốn đi tìm thù? Phải vậy chăng?

                            Nghe lời gãi trúng chỗ ngứa. Minh Thần mở choàng mắt, gật lịa. Thần Nữ ghé tai thỏ thẻ:

                            - Nếu chàng muốn thế, hãy làm sao cho dây tơ hồng đứt ra và làm cho dấu thủ cung sa trên thiếp xỉn lại? Chẳng lẽ cứ để dây tơ buộc mãi thế này à!

                            Như rớt một tầng mây thẳm, Võ thở dài thất vọng ngó nàng như thầm trách móc. Thần Nữ cười nũng nịu, rúc đầu vào nách chàng. Nàng dùng đủ cách lôi cuốn Võ vào cuộc giao hoan, nhưng Võ vẫn im như tượng đất.

                            Đang cơn "ghê gớm" bỗng Thần Nữ bật nhỏm dậy vỗ vào đầu giường ba cái và tiến lại trước tủ gương, bao nhiêu vẻ lả lơi biến sạch, mặt nàng hiện rõ sắc nghiêm trang. Mãi khắc đó, Võ mới hay sợi chỉ hồng đã đứt, sững sờ, Võ đưa mắt trông theo. Nàng mở tủ bước vào đóng ập lại. Gian phòng bỗng trở nên bí hiểm lạ thương. Đợi mấy phút, chẳng thấy nàng ra, Minh Thần càng lạ, bèn nhẹ gót lại gần tủ gương khẽ gọi:

                            - Nương nương... có trong đó không?

                            Vừa dứt lời bỗng nghe động, tủ cánh gương hé mở, Thần Nữ bước ra lộng lẫy uy nghi trong bộ áo vàng kim tuyến ban nãy.

                            Giọng trong vắt, nàng run lời:

                            - Trời đất đã se duyên cho thiếp lấy được một bậc hảo trượng phu, đang độ thanh xuân, vẫn không hiếu sắc! Giờ thiếp không còn ước gì hơn nữa! Chàng lại đây!

                            Võ theo nàng tới bên vách tủ, có phủ một mảnh gấm tía rực. Nàng vén rèm lên, trong lại có một cây đèn dầu cháy vật vờ và một bình pha lê đựng bột màu hồng hoàng. Nàng bốc vãi vào vách, từng hàng chữ hiện lên như dưới điện lúc nãy, đại ý:

                            "Hỡi con cháu thần dân hợp tộc Phù Dung quốc. Đây là lời cuối cùng Ali Khan, tổ tiên gởi lại cho con cháu, trước khi chúng ta sẽ lần lượt theo nhau đi vào cõi u minh mịt mùng vô tận, về chầu Allah!

                            Tằng tổ các ngươi xưa đều từng làm hoàng đế, quốc vương lãnh chúa, trị vì lãnh thổ, xông tên đột pháo, rạng uy danh hoàng tộc bao đời. Vậy mà chỉ vì say ham mê tửu sắc, đến nỗi bao nhiêu cơ đồ đổ nát, tổ quốc suy tàn dưới vó ngựa Témoudine (Thiết Mộc Chân)

                            Các ngươi phải lấy đó làm răn, giai tế Phù Dung không thể là người hiếu sắc. Vậy sau hôn lễ, nữ chúa Phù Dung giáo chủ ấy đưa giai tế vào ép cuộc giao hoan. Nếu y tỏ ra kẻ ham nhan sắc hãy dâng y một ly độc tửu cho y nằm vĩnh viễn với các điều bí ẩn trên xứ Phù Dung. Nếu y tỏ ra không hiếu sắc lúc đó mới chính thức là chồng Nữ chúa, cùng cai trị xứ Phù Dung.

                            Và sau giờ hợp cẩn, y có tự do như chim trời, hạng trượng phu không hiếu sắc chính là hảo lang quân nữ chúa, hảo giai tế Phù Dung. Hãy thờ y hết đạo, y sẽ đem sự yên bình, thịnh vượng cho toàn xứ Phù Dung. Và trong cõi u minh, tổ tiên các ngươi sẽ đời đời được an lòng, không phải lo đại họa cho con cháu thần dân hợp tộc này. ALI KHAN"

                            Đọc xong lời nguyền cuối cùng của ông tổ xứ Phù Dung, Võ Minh Thần thở phào một cái, nhìn Thần Nữ, chẳng biết nên buồn hay vui. Chàng hiểu mình vừa thoát một cuộc chết bat ngờ, nhưng điều đó cũng chẳng hay gì, vì theo lời vị Khan tổ Phù Dung nguyền: Chàng đã hoàn toàn thành rể quý xứ này và tất nhiên phải buộc chặt đời mình vào Thần Nữ!

                            Thần Nữ cười bảo:

                            - Xưa nay "anh hùng nan quá mỹ nhân quan" vẫn chuyện thường tình, nên khi khỏa thân thử chàng thiếp vô cùng lo ngại xưa nay đã mấy ai cầm lòng nổi trước nữ nhân trong phòng vắng. Không ngờ chàng quả là bậc phi thường, xứng danh hảo trượng phu trong thien hạ! Thiếp được sánh duyên với chàng có thác cũng vui!

                            Minh Thần ngó nàng Giáo chủ Phù Dung thần giáo, mặt tươi mơn mởn như đóa Phù Dung mười phần cảm khái, lòng trai càng khó nghĩ, bèn lựa lời bảo:

                            - Nương nương xét lầm người rồi. Vào hoàn cảnh kẻ này, ai cũng vậy thôi. Thù mẹ cha chưa báo, nguồn gốc mịt mờ, tứ cố vô thân, mười tám năm mắc đại tang, thù nhà nguyên đó, huống hồ mẹ kẻ này chết vô cùng thảm nhục, di dài năm tháng đeo lưng, còn lòng nào nghĩ chuyện ái ân?

                            Thần Nữ bước lại, nắm tay chàng, âu yếm trách:

                            - Nay đã nên chồng vợ, sao chàng mãi gọi thiếp là nương nương? Lúc này phòng vắng chỉ có đôi ta, chàng không gọi được tiếng nào... dễ nghe hơn sao? Vừa nói, vừa dìu Minh Thần lại bên giường thất bảo, nàng cầm dùi gõ vào cái khánh để trên bàn.

                            Bỗng vách sau mở ra một khung cửa kín, một bọn năm, bảy gái hầu xiêm y rực rỡ bưng vào một mâm cỗ lớn đủ sơn hào đặt ngay xuống bàn. Lại khiêng bàn rượu để một bên. Thần Nữ truyền tất cả lui ra đoạn tự tay rót rượu đưa Minh Thần.

                            - Đây mới chính là rượu hợp cẩn thiếp xin dâng chàng, mừng duyên kỳ ngộ đôi ta.

                            Minh Thần đành phải cùng nàng cạn chén giao bôi. Xong tiệc rượu, gái hầu bưng vào một mâm đèn Phù Dung thật xinh xắn. Nàng cười bảo:

                            - Chàng làm giai tế xứ Phù Dung, không dùng vài điếu, thật uổng! Khói Phù Dung có sức thần bí làm dịu sự ưu phiền có thể vào dịp này, lại làm sảng khoái gia tăng. Người bình nguyên thành phố thành đệ tử Phù Dung Thần cũng vì thế. Nhưng riêng chàng đã biết điều bí mật về ma túy, không lo mắc vòng nô lệ.

                            Nói đoạn, nằm xuống tự tay tiêm thuốc "dâng" Võ, tay ngà tháp bút múa tiêm đẹp lạ thường. Võ bị ép nằm bên, nhớ lại cảnh tượng thờ xác đệ tử "nàng tiên nâu" dưới điện, khẽ hỏi:

                            - Thưa nữ chúa có thường dùng chất này không?

                            - Hai ba nam trước thiếp phải dùng luôn nhưng bằng nhiều cách. Dạo này lúc nào mưa gió lạnh lùng quá mới thắp đèn cho vui. Dòng nữ chúa họ Khan thiếp ai cũng phải dùng, chất ma túy này một thời gian coi là môn tuyệt kỹ trấn quốc. Xứ Yên này không bị thiên hạ dòm ngó, là nhờ tuyệt học đó.

                            Ngạc nhiên, Võ tò mò hỏi:

                            - Tuyệt kỹ Phù Dung?

                            - Vâng! Đó là môn bí truyền đặc biệt của dòng Khan Chúa, gọi là "PhùDung Thần Công". Bí kíp này khi đã luyện thành, đánh ra vô hình vô sắc, có thể coi là một thứ mê hồn công lợi hại vô song. Vì cây Phù Dung là "nữ hoàng thảo mộc" đặc tính trị được người thứ, ít có chất gì át nổi! Mai đây, thiếp sẽ truyền bí pháp đó cho chàng. Nếu không đánh thủng được vầng huyết khí Tây Sắc, nó cũng giúp chàng phòng vệ được toàn thân.

                            Minh Thần nghe nhắc đến tuyệt học, tưởng tới chuyện rửa thù, mừng hết sức, nhưng sực nghĩ đến tình cảnh mình bất giác thở dài ngậm ngùi bảo:

                            - Bí kíp quý báu đó, tiếc thay với kẻ này thật vô duyên, không có quyền được học?

                            - Sao thế chàng?

                            - Vì... kẻ này mai mốt sẽ phải cáo biệt nữ chúa... ra đi! Chẳng may ngộ nạn, được nữ chúa cứu giúp vậy cũng là may cho... dám đâu mong học lấy bí kíp trấn quốc xứ Phù Dung!

                            Thần Nữ vụt ngước nhìn Võ cặp mày liễu hơi nhíu lại nhưng không nói gì. Nàng tiếp tục tiêm thuốc mời Võ.

                            Nể lời Võ kéo tới điếu thứ ba, đã say lắm rồi. Tâm thần chàng vụt lắng xuống đầu óc chập chờn, bất định, thân thể ngứa ran, chàng trai cứ nằm lơ mơ nhìn ngọn đèn dầu lạc lung linh, nhìn Thần Nữ. Dưới ánh huyền đăng coi nàng đẹp thần bí lạ. Cảnh tịch mịch vô cùng dần dần xâm chiếm tâm hồn chàng, mơ hồ như có tiếng gió mang mang ngoài xa vọng vào phòng vắng.

                            - Người đàn bà chúa xứ Yên này lắm lúc thật khó hiểu. Hừ! Miền đất kỳ dị của lời nguyền. Tất cả đều do lời nguyền! Sống khét danh Bắc Yên Thần trong "Tứ Trụ Tứ Hung", nàng lấy ta cũng do lời nguyền. Nhưng nàng sẽ xử trí ra sao khi ta quyết từ chối cuộc hôn nhân?

                            Võ nằm nghĩ vẩn vơ rồi say thuốc nằm lim dim ngủ gà ngủ gật, mũi vẫn thơm thoảng mùi thuốc phiện quện mùi lan xạ mỹ nhân, tai vẫn vang âm tiếng thuốc réo lọ sành...

                            Bất thần, nghe tiếng Thần Nữ trầm trầm bên tai:

                            - Võ lang, thiếp đã làm tròn bổn phận thiêng liêng lời tổ tiên theo ý đấng Allah làm lễ thành hon với chàng. Thiếp đã theo đúng lời nguyền răn đem thân xác thử chàng. Nay chàng có thể ra đi theo ý muốn, thiếp chẳng dám đem sợi chỉ hồng trói buộc thân chàng.

                            Giọng oanh thỏ thẻ êm như tiếng suối đàn, nghe thật tự nhiên nhưng không dấu hết được vẻ xúc động, làm Võ Minh Thần choàng tỉnh hẳn, bò nhổm dậy, nhìn nàng như dọ ý. Chàng khẽ hỏi:

                            - Còn... Nữ chúa?

                            - Thiếp ở lại căn phòng hoa chúc này, thiếp biết điều thiếp phải làm, chàng chớ bận tâm. Nhưng dẫu sao, một ngày là nghĩa chàng đừng nên gọi thiếp như thế. Trước Allah, Tổ Nương Thần, Nguyệt Lão, thần dân, thiếp đã là vợ chàng, người vợ không bao giờ sum họp cùng chồng...

                            Giọng nàng càng rung dữ và nàng chợt đánh rớt cây tiêm, xoay mình ngoảnh mặt đi như cố giấu xúc cảm.

                            Minh Thần tỉnh hẳn cơn say thuốc phiện. Chàng trai bỗng thấy lòng rối loạn gớm ghê trước thái độ của Thần Nữ, người đàn bà chúa tể xứ Phu Dung đã cứu mạng chàng, làm lễ thành hôn chính thức thành vợ chàng, rồi cắn răng nuối tủi ngậm sầu để chàng ra đi... không có ngày trở lại. Và chàng chợt hiểu lờ mờ chuyện gì sẽ xảy ra sau ngày chàng cất bước. Bất giác Võ cúi xuống khẽ gọi:

                            - Nương... nàng... Phù Dung nàng!

                            Không ngoảnh mặt lại, Thần Nữ rung giọng:

                            - Cám ơn chàng đã kêu tên thiếp... giờ này quá ngọ, thần dân đã về bản, đấy là giờ thuận tiện nhất cho chàng! Để thiếp sai thế nữ lo dẫn chàng đi ngay cho kịp!

                            Ngó nàng, do dự, Võ khều nhẹ vai gọi nhỏ:

                            - Phù Dung nương, còn nàng ở lại yên vui chớ? Thần Nữ không đáp, gặng hỏi mãi, mới nghe nàng rung giọng xót xa:

                            - Yên vui sao được..., khi hôn lễ đã cử hành, lòng thiếp đã ghi hình bóng lang quân. Allah run rủi, nên duyên phu phụ, lòng thiếp đã yêu chàng, còn biết nói sao? Thiếp sao yên lòng sống mòn mỏi với tình yêu tuyệt vọng? Thiếp sẽ khóa chặt phòng này và nương khói Phù Dung xuống cửu tuyền đợi chàng.

                            Nói đến đó như không nén được nữa, nàng vùng xoay mình lại, vừa lúc Minh Thần kinh ngạc cúi xuống định lay. Quá xúc cảm phân kỳ, nàng ôm choàng lấy Võ, lòng bối rối dày vò chàng trai cũng ôm chầm lấy nàng như cái máy và ngã theo dáng liễu, bốn mắt chạm nhau, cùng rực xót xa duyên trái.

                            - Chàng ơi! Tuy chưa động phòng nhưng lòng thiếp đã dâng hiến trọn cho chàng... một phút ben nhau như một đời sum hiệp! Thiếp sung sướng đem thân hình chàng xuống tuyền đài.

                            - Nàng... trời! Nàng loạn trí rồi! Tại sao lại thế? Nàng cứu Võ này, hy sinh làm hôn lễ, rồi lại hy sinh để Võ đi, nàng bỏ cuộc đời... Không, không! Nàng đừng quẩn trí! Đời nàng tươi đẹp, nàng tài sắc vẹn tuyền trên đời còn thiếu chi hảo lang quân?

                            - Không! Chàng lầm. Hôn nhân định có một lần thôi. Mà dẫu được quyền lựa chọn nữa, từ nay trên đời đã chết hết đàn ông! Chang... chỉ có chàng thôi! Rồi chẳng hiểu sao hai người cùng dán mặt vào nhau vùi linh hồn thể xác trong một cái hôn dài xót xa.

                            Cả đôi trai tài gái sắc, như rơi vào trạng thái hôn mê, choáng váng. Đầu óc quay cuồng tâm thần rối loạn cả căn phòng im lặng như bỗng nổi phong vũ quay cuồng đảo lộn, như sắp nổ tung.

                            Chuyện xảy ra quá đột ngột hình như chẳng ai định trước, chẳng ai chờ đợi, chừng như hoàn cảnh đặc biệt đã xô đẩy hai người vào vòng tay nhau.

                            Thần Nữ bị kích thích bởi "tiếng sét" ngay khi sơ ngộ, lại xót trái duyên chưa sum hiệp đã phân ly, kẻ ngoài muôn dặm, người định xuống tuyền đài, ngàn đời không tái ngộ... Còn Minh Thần có lẽ bị khích thích vì ân tình thâm hậu xót thương nàng nữ chúa tài sắc vẹn toàn đã hiến dâng đời mình cho hôn lễ lại phải đau tử biệt ngay giờ hợp cẩn, thê lương nhất tấm lòng hy sinh cao thượng của nàng, thà chịu lụy một đời thục nữ con hơn bắt ép chàng phải trói chân nơi động thẳm xa xôi này...

                            Tri giác Võ như tê dại hẳn đi, không còn thấy gì nữa, trong khoảnh khắc bất ngờ kỳ diệu, chàng trai chỉ còn cảm thấy miệng hoa gắn bó mềm như cánh hồng nhung, đã trao sang chàng tất cả sức đắm say não nùng của một ngọn hỏa diệm sơn lần đầu phun lửa, và cũng là lần sau cùng của ngọn lửa yêu đương. Và mùi lan xạ kỳ ảo tiết ra, phả vào khứu giác chàng, một thứ mùi da thịt my nhân thiên phú như ướp đủ kỳ hoa dị thảo khắp mấy dải biên thùy cẩm tú, làm Võ muốn tan biến hình hài trong phút giây trao đổi nồng nàn.

                            Như nam châm hút sắt, hai người ghì lấy nhau như không muốn rời xa nữa, chàng tuổi trẻ thấy tấm thân thon lẳn dán vào mình, rung động mãnh liệt, tưởng chừng sắp ngất đi trong âu yếm não nùng.

                            Mãi đến khắc chàng thấy môi mình mằn mặn mới hay nước mắt giai nhân đã chảy ướt đầm mặt hoa, trôi cả xuống miệng chàng.

                            Tự nhiên ân sâu thôi thúc chàng trai muốn uống cả những giọt nước mắt thần kỳ đó, như muốn nó hòa vào máu huyết, mang đi trên các nẻo đường lưu lạc mai đây.

                            Chợt Thần Nữ mở mắt ra, mắt phượng còn mờ ngấn lệ. Hai người bẽn lẽn nhẹ rời mặt nhau, tim vẫn bồi hồi. Phù Dung Nương thỏ thẻ:

                            - Thiếp thật vô lễ quá... làm ướt cả má lang quân...

                            Minh Thần lúng túng như đứa con nít vừa phạm tội:

                            - Ngu mỗ thật bậy... làm Phù Dung chảy nước mắt!

                            Bốn mắt nhìn nhau như uống cả linh hồn, rồi hai người cùng bịn rịn rời nhau, lưu luyến đến nỗi bốn bàn tay cứ chầm chậm trôi từ vai xuống cánh tay, rồi bốn bàn tay bỗng nắm chặt lấy nhau, hai bên vùng kéo nhẹ, hai thân lại nhập làm một, trong chiếc hôn thứ hai dài như một cuộc viễn hành xuyên sơn.

                            - Chàng ơi... thiếp yêu trọn kiếp...

                            - Nàng...

                            - Tình thiếp mang xuống tuyền đài... chàng ơi...

                            - Phù Dung... nàng đừng nói thế. Nghe đau lòng người ra đi! Cặp trai gái rời nhau, thổn thức, mãi như chưa bứt nổi sợi tơ hồng vô hình.

                            Nhưng lần này rời hẳn! Nàng nữ chúa Phù Dung nắm tay Võ Minh Thần, cùng nhỏm dậy, mặt hoa đỏ ửng nhụy đào vương sớm. Hai người cùng ngượng, nhìn nhau, nàng cười, lau ngấn lệ, chớp hàng mi cong vút, e ấp cúi đầu. Bỗng giữa cảnh phòng vắng, chợt vang lên hai tiếng "coong coong" ngân vang âm đồng hồi cổ. Thần Nữ vụt liếc trông lên tường, mặt nàng bỗng nhiên biến đổi hẳn coi điem tĩnh vô cùng.

                            - Hai giờ rồi. Đã hết giờ Ngọ, bắt đầu sang giờ Mùi. Chàng hãy đi ngay cho kịp. Giờ này thần dân, quân lính xứ Yên đang tiệc cưới, thế nữ sẽ đưa chàng đi đường bí mật an toàn nhất.

                            Bồi hồi, Võ lẩm bẩm:

                            - Cảm ơn nàng đã nghĩ đến mối thù này, nhưng còn nàng... Võ này sao yên lòng?

                            Mỉm cười, Thần Nữ thỏ thẻ:

                            - Thiếp biết việc phải làm! Lang quân chớ bận tâm!

                            Dứt lời, nàng vớ lấy dùi, gõ ba tiếng vào chiếc khánh đỏ treo trên bàn.

                            Cửa hậu hé mở, một gái hầu trạc hai lăm, hai sáu tiến vào, cúi rạp đầu kính cẩn:

                            - Dạ bẩm nữ chúa nương nương truyền.

                            Thần Nữ phất tay dịu dàng:

                            - Em thân tín nhất, ta cậy em, mau về dinh lấy hành trang, ngựa tốt, các đồ vật dụng, lương khô, tới đây đưa tướng công bí mật rời xứ Yên ngay lập tức. Tướng công có việc cần đi gấp phải giấu thần dân, em khá cẩn thận vào, đừng hỏi gì nữa!

                            Gái hầu cúi chào, bỏ ra.

                            Minh Thần nhìn theo khẽ thở dài:

                            - Võ này đi... lòng sao yên nổi, nếu Phù Dung không nói rõ ràng! Thần Nữ đắm đuối nhìn chàng, giọng ôn tồn đanh thép:

                            - Không còn cách nào hơn! Bậc trượng phu phải coi thù cha mẹ là trọng. Thân thiếp dưới thù chàng. Chàng từ chối cuộc hôn nhân này, nhưng trước Allah, thiếp đã là vợ chàng rồi. Giây phút vừa qua thiếp dã uống trọn tình phu phụ, dẫu chẳng giao hoan cũng nghĩa vợ chồng, thiếp mãn nguyện rồi, không còn ao ước gì hơn nữa.

                            Võ Minh Thần bất giác thở dài, gieo phịch người xuống giường. Bình sinh chàng là kẻ rất có nghị lực, định chi phải làm kỳ được, bất kể gian nguy chết chóc. Nhưng chàng cũng là trai đa cảm, tuy bề ngoài lạnh lùng, bên trong tâm hồn như nghệ sĩ, đối với ai cũng nặng tình. Nay bỏ đi, để người đàn bà đã cứu mạng mình phải chết thảm trong căn buồng hợp cẩn, khác nào dứt áo đi để lại một bản án xử tử cho kẻ vô tội lại là ân nhân. Võ thấy bất nhẫn hết sức, lòng trai bỗng nặng như chì, rối như tơ vò.

                            Thấy chàng ngồi im lặng vẻ buồn xo, Thần Nữ rót một ly rượu đầy, bước lại, khẳng khái não nùng thỏ thẻ:

                            - Chàng là bậc trượng phu, hiến mình cho thù hận, báo hiếu song thân, thiếp phận gái hiến thân cho tình! Đôi ta có chí đó, thiếp chẳng dám ngăn chàng. Vậy xin dâng ly rượu này làm rượu chia tay vĩnh quyết, chúc chàng trả được thù nhà!

                            Võ Minh Thần đỡ lấy ly rượu, nhìn Thần Nữ đam đăm, vụt hỏi:

                            - Xưa nay trong thiên hạ, có đôi trai gái nào làm hôn lễ, lại không động phòng có thể gọi là vợ chồng được chăng?

                            Thần Nữ thoáng ngơ ngác:

                            - Có lẽ có! Như nhưng kẻ cưới chạy tang đón dâu về thì cha mẹ đã tắt thở, theo phép hiếu, người con có thể đợi hết ba năm tang chế mới chính thức động phòng, có sao? Như nàng Mạnh Quang xưa kén chồng khắp chư hầu, sáu mươi ngoài tuổi mới gặp ý trung nhân, chàng cũng kén vợ đến bay mươi tuổi rồi, hai người lấy nhau thì thân thể đã già mà tâm hồn thì trẻ, coi nhau như bạn, đem tâm hồn ở với nhau, có sao?

                            Nàng vừa dứt lời, bỗng thế nữ đẩy cửa bước vào, kính cẩn:

                            - Bẩm tướng công, nương nương, mọi thứ đã xong, ngựa tốt hành trang đã tới sau điện, thần dân đang vui say, mọi việc đều thuận lợi. Xin rước tướng công lên đường!

                            Và trong lúc Thần Nữ, gái hầu ngơ ngác, chàng trai hất luôn ly rượu trên tay, bảo Thần Nữ:

                            - Võ này ở lại xứ Phù Dung làm giai tế ít lâu! Đôi ta bề ngoài là duyên cầm sắt, bề trong là duyên cầm kỳ, coi nhau như đôi bạn tâm đầu. Võ này không trái lời thề độc địa, còn Phù Dung này chẳng uổng đời hoa vô lý vì duyên trái khách qua đường. Nàng chắc thừa sức làm Mạnh Quang chứ?

                            Thần Nữ nhìn Minh Thần ánh mắt sâu như đáy vực. Mặt hoa từ chỗ lạnh lùng chợt đổi sang sắc hồng tươi mơn mởn, nàng phất tay ra hiệu cho thế nữ lui ra đoạn cảm động dạt dào, nàng sà lại ôm chầm lấy Minh Thần, giọng run hẳn lên như dây đàn dạo tới cung tuyệt vời:

                            - Chàng... lang quân! Thiếp được làm bạn chàng đã vui lắm rồi huống chi được làm "người vợ không giao hợp"? Thiếp không phải lánh đời, chàng khỏi trái lời thề nam tử, còn gì hay hơn nữa? Từ nay, chàng sẽ lưu lại xứ thâm sơn này luyện thêm tuyệt nghệ, đợi ngày lên đường báo oán! Thiếp sẽ giúp chàng một tay.

                            - Nàng gái cao minh, xin hãy ghi lời, và xin chớ khi nào thử Võ này như ban nãy nữa. Nàng có tấm nhan sắc thiên kiều bá mị, còn Võ đây nào phải cây gỗ mục, lúc nào cũng đứng vững trước thần Vệ Nữ...

                            Thần Nữ vùng buông chàng ra, đỏ ửng mặt, khép vội vạt áo bào lại, ngó chàng cười e thẹn. Trong thoáng giây vui tri kỷ, Võ mỉm cười đầm ấm, lâng lâng.

                            Từ đó, Võ Minh Thần tạm lưu lại xứ Yên. Sau hơn tuần lễ ăn mừng mở hội theo cổ tục thâm sơn, Võ Minh Thần đã cố gắng quên mình, tạm nén thâm cừu, đóng trọn vai trò "phò mã tướng công" bên Thần Nữ Bắc Yên, nhận tất cả sự chúc tụng, nghi lễ thần dân dành cho vị "phò mã rừng xanh". Chàng còn phải ngồi trên bệ cao cho thần dân lạy mừng, mười phần tù tung. Nhưng vì Thần Nữ, chàng coi tất cả như một sự đền ơn cứu mạng nên không hề tỏ vẻ khó chịu. Mỗi lần ngồi bên Thần Nữ, cùng chủ tọa một cuộc dạ hội, yến tiệc chi, chàng như cảm thấy niềm hoan lạc trong ánh mắt thần dân Yên Quốc. Dưới ánh lửa lung linh, coi chàng sánh vai Thần Nữ, ai cũng phải trầm trồ cho xứng đôi vừa lứa, và cả thần dân đều coi đó là một điềm đại phước cho Yên Quốc nên mới có dị thú mang phò mã tới.

                            Xong tuần ăn mừng, Minh Thần mới thấy dễ thở. Vị Thánh Y đóng trọn vai trò Nguyệt lão cũng từ biệt trở về miền Si Công Linh, sau khi truyền cho Minh Thần, Thần Nữ bí pháp trị đòn thương Tây Sắc, Giao Long chúa.

                            Thánh Y đi rồi, dị thu cũng chẳng thấy đâu nữa. Bọn lính gác dinh điện cho hay: Nó đã bỏ đi ngay đêm chở Thánh Y tới. Dân Yên Quốc đem thóc lúa thịt trái ra dâng, dị thú cũng không ăn. Minh Thần cảm động hết sức, nhớ dị thú vô cùng, nhưng cũng chẳng biết tìm đâu!

                            Chàng cùng Thần Nữ ở biệt dinh trên một trái đồi đầy kỳ hoa dị thảo ngay khu chàng nằm dưỡng bệnh trước. Khu biệt dinh nguy nga hết sức, nền bằng đá trắng đá xanh, vách gỗ phiến quý hai tầng, chung quanh đều có điếu kiều.

                            Mỗi sáng sau tuần trà, hai người lại dong ngựa đi dạo quanh miền, xem các thắng cảnh.

                            Trong đời lưu lạc, Võ Minh Thần đã được biết nhiều vùng cao sơn khí hậu rất tốt như Sa Pa, Tam Đảo, Tỉnh Túc, Trùng Khánh... nhưng có lẽ chưa thấm đâu với khí hậu xứ trồng "thẩu" này. Đã thế lại thêm dòng "Thánh toàn Ôn" rất nhiều chất bổ, nhờ vậy Võ thấy khỏe hẳn lên, dượt võ rất thích.

                            Thần Nữ đem bí pháp "Phù Dung Thần Công" ra truyền cho Võ. Phép công này chuyển hấp chất tinh túy Phù Dung vào mình, tinh luyện như môn "Mê Hồn Công" bà chúa Thanh Âm truyền cho chàng, nhưng bí quyết có nhiều điểm khác. Nhờ đã luyện "Mê Hồn Công", Võ luyện "Phù Dung Thần Công" rất mau chóng, môn công này đặc biệt khi đạt thành nó có thể tiết ra một luồng khí bao quanh mình như một bức giác hơi ngăn cản các đòn ngoài đánh vào. Và vì chất Phù Dung có tính dược rất thánh, nó có khả năng chế giải rất nhiều chất độc khác.

                            Võ thử đem phối hợp Phù Dung, Mê Hồn Công đánh ra hết sức lợi hại. Suốt trong thời gian này, hai người luôn gần gũi, chuyện trò, ăn uống, luyện công, nhưng đến đêm, mỗi người lại vào nằm một buồng riêng, lính gác, gái hầu, dân chúng không ai biết. Lúc thường, Minh Thần cũng ở buồng riêng giáp ngay buồng Thần Nữ, một sáng nhân lục hành trang, chàng lấy chiếc vòng càn khôn trong hộp ra, ngắm nghía, tưởng lại chuyện xưa, lòng thắc mắc không kiếm cách nào đọc nổi những chữ bí mật trong ruột vòng. Chợt Phù Dung Thần Nữ bước vào, thấy vòng bật kêu lên:

                            - A... vòng càn khôn! Vòng này cả thiên hạ ao ước, sao chàng lại có?

                            Chàng phải thận trọng lắm mới được!

                            Võ đưa chiếc vòng cho Thần Nữ:

                            - Nàng có biết gì về chiếc vòng này không?

                            Thần Nữ ngắm vòng trầm ngâm:

                            - Theo phụ thân thiếp cho biết, lúc sinh tiền vòng này một bộ gồm ba chiếc. Một thời đã gây nên rất nhiều cuộc tàn sát gớm ghê, vì theo lời truyền tụng, ba chiếc vòng này gọi là vòng càn khôn, trong chứa đựng các bí quyết về sự sinh tử, về sức mạnh của người vật. Mỗi chiếc vòng là một chiếc chìa khóa mở cửa bí mật trong càn khôn, cả ba chiếc hợp lại sẽ có thể làm đảo lộn càn khôn, đảo ngược cả luật tử sinh... vì hình như do thời thượng cổ, hay thời tiền hồng thủy lưu truyền lại. Trước đây hình như có một dòng tù trưởng họ Đèo Tây Bắc Lai Châu đã thu được hai chiếc, sau đó dòng này bỗng biệt tích, chẳng hiểu sao lại lọt vào tay chàng?

                            Nghe Thần Nữ nói, Minh Thần giật mình nghĩ:

                            - Hay chính cha mẹ ta vì giữ vòng bị con tinh tàn sát? Nhưng sao chỉ có một chiếc? Mà họ Đèo Tây Bắc thiếu gì ngành? Có gì sở cứ?

                            Bèn hỏi thêm chi tiết, nhưng nàng cũng chẳng rõ hơn, chỉ biết thêm bí ẩn nằm trong ruột vòng. Minh Thần bèn nhóm lửa nung vòng, soi cho nàng thấy, Thần Nữ xem xét hồi lâu, bảo:

                            - Đây là một loại chữ tượng hình đặc biệt, nhưng là một thứ bí tự. Theo thiếp biết, hiện nay trên đời chỉ có Đông Tửu là có thể đọc nổi! Vì nghe đồn, Đông Tửu là một tay thông minh xuất chúng, chỉ thích rượu và các bí tự cổ xưa. Có thể nói y là một tay bác học về ngành khảo cổ, đọc chữ cổ hiện nay.

                            Cả mừng Võ hỏi địa chỉ, thân thế Đông Tửu. Thần Nữ cho hay chính nàng cũng chưa gặp Đông Tửu, chỉ biết nhân vật này khét tiếng miền vịnh Hạ Long, thường chu du thiên hạ, nếm rượu ngon khắp nơi và hình như đang ngao du quanh rặng Tây Phàn.

                            Minh Thần bỏ vòng vào hộp nhét vào sắc, đoạn hai người rủ nhau đi chơi rừng. Dạo này vào khoảng đầu hạ, khí hậu cao sơn mát dịu, đêm van lạnh, Phù Dung Nương bận chút việc đi đâu với mấy bô lão, hẹn khuya về.

                            Võ nằm ngủ sớm, nửa đêm sực tỉnh, lòng bâng khuâng, bèn nhẹ mở cửa riêng ra nẻo tiền thơ thẩn. Lát sau trăng hạ tuần vừa mọc, Minh Thần lững thững quay vào, nhưng ngại quân canh chào hỏi mất thì giờ, lại muốn dượt thử nghề "Phi Thiềm Ẩn Bích", Võ liền vận khí hàn, dùng thuật ẩn thân vọt vào nội dinh, qua vòng lính gác, cạm bẫy, nương bóng cây "trôi" lên đầu điếu kiều định vào nhà.

                            Tay sờ soạng bỗng chàng ngạc nhiên khi chạm phải một vật có sức nóng trên mái dinh. Bèn ẩn vào trong xó tối, xua sương mờ nhân tạo nhìn lên, chợt thấy từ trên mái dinh có một làn sương trắng đap vụt xuống thềm, cách chỗ chàng đứng chừng mười lăm bộ. Làn sương này trôi thốc vào dãy hành lang giữa. Sinh nghi, Võ tiến vụt theo, thấy làn sương đậu ngay khu chàng và Thần Nữ ở.

                            Lúc đó, anh trăng hạ tuần chiếu chênh chếch vào, có một bóng thế nữ từ trong đi ra đụng làn sương. Sương tan dưới trăng mờ ảo, hiện ra bóng Thần Nữ Phù Dung! Nàng chụp lấy thế nữ, hỏi thì thầm. Minh Thần ngạc nhiên, lướt lại gần, nghe nàng nhỏ to:

                            - Có đích không? Chính mi thấy?

                            - Dạ... tướng cong ra lối tiền dinh. Con thấy rõ mà!

                            - Cho mi đi ngủ! Thần Nữ vỗ vai thế nữ, thế nữ thoăn thoắt đi vào nẻo hậu dinh, còn Thần

                            Nữ vào thẳng buồng Minh Thần. Chàng vội đi rảo bước vào thấy nàng đang đứng bên giường vén màn. Võ vùng hỏi:

                            - Phù Dung làm chi đấy? Nàng hơi giật mình, quay mặt ra cười thỏ thẻ:

                            - Thiếp xem chàng về chưa, thế nữ bảo chàng vừa đi dạo. Võ tiến vào. Nàng uyển chuyển bước ra nắm tay chàng, nói:

                            - Trăng hạ tuần đẹp quá! Mình uống rượu cho khuây, chàng nhé! Dứt lời nàng trở về phòng riêng đem sang đủ đồ tửu khí và một bình rượu thơm phức, đựng trong trái bầu khô. Nàng thắp ngọn nến nhỏ, cùng chàng đối ẩm. Rượu ngon, tri kỷ, hai người uống mềm môi. Gần cạn bầu rượu, nàng trở về buồng riêng lấy thêm, khi say choàng áo ngủ mong manh. Nến gần tàn, nàng rót một ly đầy, ngồi ngay xuống lòng chàng, kề tận môi dâng. Khi Võ ngửa cổ uống cạn, ngó xuống, đã thấy áo choàng nàng trôi mất dưới đèn. Thần Nữ khỏa thân lồ lộ đẹp như tượng thần, nhan sắc đến gỗ đá phải động lòng.

                            Thất kinh, Võ đẩy nàng ra, hoảng giọng:

                            - Phù Dung... Trời! Sao lại thế? Đi nghỉ đi! Võ này đã hẹn trước rồi mà...? Nàng ôm cổ Võ, cười khanh khách:

                            - Nào xem chàng có gan bỏ thiếp phòng không mãi chăng? Chàng! Chàng đừng phụ thiếp. Đêm nay chàng phải động phòng...

                            Võ đứng sổ dậy, nhưng... chẳng hiểu sao trong mình thấy khác lạ. Một đóm lửa ma quái bỗng nổi lên, lan rộng, cháy bừng như một ngọn hỏa diệm sơn, làm máu huyết chàng sôi lên, mắt hoa, đầu choáng. Mùi lan xạ phả vào mũi, đường nét kỷ hà quấn quít như dây leo, chàng trai như rơi vào ảo mộng, mất hết sức đề kháng, cứ thế như cùng nàng chắp cánh bay bổng lại giường thất bảo.

                            Tâm thần hôn mê, chẳng còn kiểm soát nổi hành động của mình nữa. Chàng tuổi trẻ như rơi vào một thế giới thần sầu đầy phong ba sấm sét loạn cuồng... rồi thiếp đi lúc nào không biết.

                            Chẳng biết bao lâu, cho đến lúc Minh Thần sực tỉnh thì ánh nắng đã chiếu đầy phòng, cửa sổ hé mở, vẳng trên nóc dinh có nhiều tiếng chim xanh ca hót vang lừng, báo hiệu một ngày tươi đẹp.

                            Chàng trai ngồi nhỏm dậy, vươn vai, thấy trong mình còn bải hoải. Chàng trai ngơ ngác nhìn quanh buồng, trí óc trở lại minh mẫn, dần nhớ lại chuyện tối qua, chẳng còn hiểu mình mê hay tỉnh nữa.

                            Chàng vén màn nhìn ra cửa, cửa vẫn khép hờ không đóng, như đêm qua không có gì khác lạ. Chàng cúi xuống ngửi gối chăn, vẫn phảng phất mùi kỳ dị, thứ mùi da thịt mỹ nhân, thơm thơm hăng hắc như ướp đủ thứ kỳ hoa dị thảo.

                            - Quái gở thật! Không lẽ mình mê ngủ? Không thể được! Rõ ràng đêm qua khoảng giờ Tý mình ra ngoài thơ thẩn, khi vào, gặp nàng nhảy trên mái xuống... nàng cùng mình uống rượu... rồi...

                            Võ nhắm mắt lại, định thần trí, hồi tưởng lại chuyện xảy ra tối qua. Chàng nhớ tuờng sự việc, cho tới lúc trong mình nóng như cây đuốc, bị Thần Nữ Phù Dung lả lơi khêu gợi, quyến rũ chàng vào giấc Vu Sơn.

                            - Sao lại thế? Sao nàng lại thế? Vô lý! Võ bật kêu, chợt thấy khô cháy cổ họng, vội nhảy xuống, kiếm nước uống.

                            May quá! Bình trà ướp hoa rừng ai đã chế sẵn trên bàn còn nóng nguyên. Võ uống liền mấy ly mới thấy dễ chịu hẳn, sực hiểu bật kêu:

                            - À hiểu rồi! Đêm qua nàng ép ta uong rượu kích thích xuân tình như thứ "tàng xuân tửu" chẳng hạn. Làm ta mê loạn tâm thần... Trời, nàng có thể hành động mờ ám đến thế sao?

                            Dằn ly nước, Võ Minh Thần xăm xăm mở cửa bước vụt sang buồng Thần Nữ. Cửa khép hờ, chàng đẩy thốc bước vào, Thần Nữ Phù Dung đang đứng vươn vai làm cử động hô hấp bên cửa sổ, chỉ mặc có bộ đồ lót như tắm, thấy bóng người xịch vào, nàng giật mình kêu rú lên, khoanh chéo tay che trước ngực.

                            Chừng nhận ra Võ Minh Thần nàng mới hết hoảng, vớ lấy áo choàng khoác lên mình. Thoáng thấy nàng mặc đồ lót, Minh Thần xoay phắt người đi. Vừa khoác áo, Thần Nữ vừa tươi cười thỏ thẻ:

                            - Gớm! Lang quân sao bữa nay ngủ mê mệt thế, thiếp sang thăm hai lần, thấy chàng vẫn ngủ vùi. Tối qua chàng thức khuya? Ngồi đây chàng!

                            Vừa nói, nàng vừa uyển chuyển bước lại gần Võ, thân mật nắm tay kéo nhẹ Minh Thần. Chàng quay phắt người ngó trừng trừng. Vẻ mặt khác thường làm nàng nữ chúa Phù Dung bỗng giật mình, buông tay ngơ ngác hoảng hốt:

                            - Kìa... chàng sao thế? Sao chàng ngó thiếp... lạ vậy?

                            Minh Thần định quát to cho hả, nhưng nghĩ lại hậu tình bấy lâu, chàng cố nén, lắc đầu, cười chua chát:

                            - Hừ! La! Tưởng nàng thừa rõ, việc gì phải làm bộ ngạc nhiên? Không ngờ, thật không ngờ! Lòng dạ đàn bà!

                            Phù Dung mở to mắt, biến sắc, kinh ngạc:

                            - Chàng... chàng sao thế? Có chuyện gì xảy ra? Chàng đừng làm thiếp sợ!

                            Có chuyện gì?

                            Gặng đến mấy lần, Võ thở dài, chán ngán:

                            - Nàng thừa rõ, còn hỏi chi cho thừa? Đêm qua nàng đã hại Võ này, làm Võ phạm lời thề trước vong hồn phụ mẫu. Nàng đã cho Võ này uống rượu ma quỷ, đem Võ này vào giấc Vu Sơn... Nay còn ngạc nhiên gì nữa?

                            Thần Nữ tỏ vẻ kinh ngạc vô cùng, kêu thánh thót:

                            - Chàng... chàng có mê ngủ không? Làm gì có chuyện đó! Đêm qua thiếp mắc bận, tới canh tư mới về được mà.

                            Võ bắt đầu cười kho khan, nhắc qua chuyện xảy ra, trách Thần Nữ. Nàng càng kinh ngạc, lắc đầu:

                            - Chàng mê ngủ rồi! Trời, sao thiếp lại làm chuyện kỳ quái đó với chàng? Thiếp nào phải hạng dâm phụ, chỉ ước chuyện giao hoan? Đêm qua canh tư thiếp về, chuyện xảy nửa đêm là thế nào? Có lẽ chàng nằm mơ rồi!

                            Minh Thần nghiêm mặt:

                            - Rượu nàng cho Võ này uống, tỉnh dậy còn khô cháy cổ! Nàng còn gọi thế nữ hỏi Võ này, đâu phải chỉ mình Võ này mê!

                            Thần Nữ quơ dùi gõ khánh inh ỏi, thế nữ kéo vào hàng bầy, Thần Nữ nói lớn:

                            - Giờ tý đêm qua, ai vào phiên gác ở lại, còn tất cả ra.

                            Hai thế nữ ở lại, Thần Nữ hỏi:

                            - Ai gặp tướng công nửa đêm dạo tiền dinh? Một thế nữ cúi đầu, tuổi trạc hai mươi, Thần Nữ hất hàm:

                            - Đêm qua giờ tý, mi gặp ta về hỏi mi?

                            Thế nữ cung kính:

                            - Bẩm vâng! Con ở hậu dinh vừa ra thì nữ chúa vào. Nữ chúa hỏi tướng công, rồi cho con vào.

                            Thần Nữ quát:

                            - Láo! Mi có mê ngủ không? Đêm qua canh tư ta mới về dinh mà! Thế nữ cúi đầu sợ hãi, nói nhỏ:

                            - Bẩm lúc đó con hơi buồn ngủ, nhưng con rất tỉnh, nữ chúa nương nương khoác áo choàng màu đen viền kim tuyến...

                            Thần Nữ chụp vai thế nữ, mắt phượng long lanh, giận xung thiên, Minh Thần phải lên tiếng can, cười chua chát:

                            - Nàng thấy chứ? Đâu có sai? Nó còn thấy nàng vào lấy bình rượu ra. Đâu? Chỗ để rượu đâu?

                            Gái hầu cúi đầu lủi mất. Minh Thần cùng Phù Dung Nương bước vào xế gần tủ áo. Đầy một bàn rượu đựng trong bình pha lê, hũ sành bình sứ... đủ mọi thứ rượu từ rượu uống, rượu thuốc trị bệnh, rượu xoa bóp...

                            Võ ngó quanh chợt nhấc bầu rượu treo trên vách bảo:

                            - Đây! Loại này đây! Thần Nữ đỡ bầu rượu, giật nảy mình, kêu lên:

                            - Thiếp cho chàng uống rượu này? Trời! Đây là thứ rượu "phát động dục tình", chỉ loài dâm nữ, ma đầu mới dùng tới, sao thiếp lại mời chàng uống được?

                            Minh Thần thở dài:

                            - Không dùng, nàng vẫn có? Thần Nữ thản nhiên:

                            - Dòng họ thiếp vẫn làm chúa về thuật cất rượu! Nữ chúa Yên Phủ phải pha đủ loại rượu kỳ lạ trên đời, phòng khi cần tới. Rượu này lại còn đặc tính chế giải rượu độc khác, thiếp đã phải treo riêng và đều dán giấy đề tên rõ ràng.

                            Vừa nói nàng vừa lắc nhẹ, chợt quay bầu kêu! A! Giấy dán đã bị bóc đi. Lạ thật, chắc có chuyện chi kỳ bí đây.

                            Minh Thần ngó nàng, sực nhớ ra. Vội chạy vụt về buồng riêng, lục "sắc" tìm bảo vật. Nhưng hộp vòng càn khôn vẫn còn nguyên! Minh Thần hú vía, toan đậy "sắc" lại, bỗng nhấc thử coi, giật nảy mình kinh dị khi thấy cái vòng nhẹ tênh, dòm kĩ lại, thì ra vòng giả. Còn vòng thật đã biến mất từ lúc nào rồi.

                            Thần Nữ thoăn thoắt đi sang, Võ đập chát cái vòng xuống sàn gỗ, gieo phịch người xuống giường, lẩm bẩm:

                            - Thế là hết! Di vật... hy vọng tìm nguồn gốc... Phù Dung Nương! Sao nàng lại thế?

                            Bắc Yên Thần Nữ mở to mắt phượng nhìn Võ Minh Thần, nhìn mảnh vụn vòng xanh vung vãi khắp sàn, sắc mặt đang hồng bỗng trở nên xanh xao vì kinh ngạc. Mấy khắc mới cất tiếng run run hỏi:

                            - Sao chàng lại đập mất vòng gia bảo? Có chuyện gì thế? Chàng... trời! Chàng làm thiếp sợ...

                            Bóp vụn nốt chiếc hộp gỗ khảm trong tay, Võ Minh Thần phải cố nén lắm mới giữ được bình tĩnh để khỏi hét lên. Chàng trai buông rơi mảnh gỗ bẹp dúm, thở phào, phát giọng trầm trầm chua chát:

                            - Nàng còn làm mặt ngạc nhiên nữa sao? Đây chỉ là chiếc vòng giả! Vòng càn khôn thật đã bị đánh tráo đêm qua rồi!

                            Có lẽ chưa bao giờ Bắc Yên Thần Nữ lại tỏ vẻ xúc động đến như thế. Nàng cúi nhặt mấy đốt vòng vỡ ngó qua, bàn tay mở xòe, để rớt khắc nào không hay. Nàng gieo phịch người xuống mép giường, kêu thánh thót, giọng rung mãnh liệt:

                            - Sao lạ thế này? Kẻ nào đã lẻn vào đây tráo vòng? Đúng là vòng giả rồi! Kẻ nào vào nỗi chốn này?

                            Minh Thần nhìn nàng nữ chúa xứ Phù Dung, nhớ lại những lời nàng nói về ba chiếc vòng càn khôn, nàng có vẻ biết rõ giá trị đặc biệt của nó... và sau đêm chàng hôn mê trong vòng tay quyến rũ, chiếc vòng không canh bay đi. Chàng trai bất giác nói:

                            - Nàng nói không sai! Chẳng kẻ nào lẻn vào đây được, kể cả... ma xótranh! Chỉ có chủ nhà!

                            Thần Nữ bật dậy như chiếc lò xo, nắm lấy cổ tay Võ, chẳng hiểu sao, Võ lật đật vận công, giật tay ra, lùi lại. Thần Nữ ngơ ngác:

                            - Chàng... chàng cho rằng thiếp đã lấy vòng? Minh Thần thở dài:

                            - Võ này không nói hẳn thế! Nhưng đêm qua, giờ Tý canh ba nàng lẻn về dinh, nàng vào buồng Võ... sau đó Võ này chạy vào gọi, nàng cho uống rượu kích dâm, Võ này hôn mê không hay biết gì nữa! Giờ xem lại, vòng đã mất! Chuyện quá rõ ràng!

                            Thần Nữ bật kêu "trời" cực kỳ đau đớn, mặt tái như chàm đổ, lảo đảo suýt ngã, phải vịn vào đầu giường. Nàng thở mạnh, khá lâu mới lắp bắp:

                            - Chàng... chàng ngờ thiếp lấy vòng, oan này còn hơn oan Thị Kính, thiếp còn biết lấy chi giải tỏa nỗi oan vô lượng này...

                            Vẻ mặt nàng xúc động đau đớn cực kỳ làm Võ Minh Thần không khỏi rúng động tâm thần, bối rối hết sức, nghĩ thầm:

                            - Sao lạ lùng thế này? Nàng đóng kịch với ta sao? Đóng kịch giỏi đến thếnày ư? Chuyện thật rõ như ban ngày. Một đêm xảy liền hai vụ, nàng phục rượu ma quỷ quyến ta vào giấc Vu Sơn, rồi vòng mất. Còn ai vào đây nữa? Giờ nàng lại đóng kịch che dấu hành vi ám muội chăng? À nàng cũng giỏi về chuyện này lắm! Xem như hôm cưới đủ biết! Nhưng nàng lấy vòng làm gì mới được chứ?

                            Võ nghĩ điên đảo muốn vỡ đầu cũng không sao đoán nổi chuyện quá bất ngờ đó. Ngay lúc ấy, Thần Nữ chợt ngước mắt nhìn chàng sâu thăm thẳm, trong ánh mắt như ẩn hiện cả bốn trời u ám khổ đau, nàng nghẹn ngào nói:

                            - Lang quân! Vòng chàng mất tại đây, tội thiếp xin mang. Nhưng thiếp xin chàng hiểu cho là, đối với thiếp thì cả mấy bộ vòng càn khôn cũng không quý bằng chàng! Vòng đó giúp thiếp đảo quyền tạo hóa? Cải tử hoàn sinh? Làm chúa tể trái đất? Hay sống lâu bằng nhật nguyệt? Với thiếp cũng chẳng ích gì, nếu chẳng có chàng! Thế thì thiếp lấy chiếc vòng đó làm gì để mất chàng suốt đời? Nay chàng lại bảo thiếp về quyến rũ chàng đến hôn mê để lấy vòng, thiếp còn biết nói sao?

                            Minh Than đứng ngó Thần Nữ đăm đăm, lòng đầy nghi hoặc. Chưa bao giờ chàng thấy rối trí như lúc này, chẳng còn biết hư thực ra sao. Nghe nàng nói giọng đầy bi thiết, tâm thần Võ càng bấn loạn. Thần Nữ gục thành giường, bỗng chang để ý thấy nàng luồn bàn tay búp măng vào trong nẹp áo ngực, mắt thoáng tối lại, Võ giật thót mình không kịp lên tiếng, nhân đang vận công sẵn, xuất kỳ bất ý, đánh vụt ra một đòn "Mê Hồn Công", nhắm thẳng mặt nàng.

                            Không đề phòng, Thần Nữ bị đánh mê liền, Võ Minh Thần vụt chạy tới, vừa kịp đỡ lấy dáng thân nàng đổ xuống. Nhìn nẹp áo đã thấy bung khuy cúc, mấy ngón tay nàng còn bấu lấy khoảng trái tim, có lẽ nàng định móc ra.

                            Minh Thần giải mê, vẫn chưa dám buông nàng ra, Thần Nữ vừa mở mắt đã thở dài run giọng:

                            - Chàng đừng cứu thiếp...! Nỗi oan này không còn biết giải tỏ cách nào hơn...

                            Minh Thần ôm nàng, vỗ về, khuyên giải:

                            - Nàng đừng làm thế! Chuyện xảy ra rõ như ban ngay, ít nhất nàng cũng phải cho Võ này được hiểu rõ chuyện kỳ quái đó chứ? Chưa chi đã vội hủy mình, càng khiến Võ này thêm điên đầu thôi!

                            Thần Nữ nằm ngả trong vòng tay rắn chắc của chàng họ Võ, nghẹn ngào thổn thức khá lâu mới nguôi lòng sầu thảm oan ức, nàng thỏ thẻ:

                            - Võ lang ơi! Thiếp còn biết nói sao cho chàng tin được? Đêm qua canh tư thiếp mới về, nào thiếp có gặp chàng nửa đêm giờ Tý đâu mà bảo phục rượu dâm tà ép chàng làm chuyện gió trăng?

                            Giọng nàng đầy vẻ thành thực làm Võ Minh Thần càng kinh sững, chàng ghé sát mặt chàng, nhìn chòng chọc hỏi gặng:

                            - Đêm qua giờ Tý nàng không về? Nàng không nhảy nóc dinh xuống? Không nương làn khói sương vào hành lang? Nàng không gặp Võ? Không phục rượu? Không tất cả?

                            Rất tự nhiên nàng gật đầu, ngó chàng sâu thẳm:

                            - Dạ! Thì thiếp đã thưa, giờ đó thiếp không về, có gặp chàng đâu? Võ nhẹ nhàng đặt nàng ngồi xuống giường, hơi nhíu mày:

                            - Thế còn Thần Nữ cùng mỗ đối ẩm là ai? Còn Thần Nữ gặp thế nữ? Nàng nữ chúa lắc đầu. Chính nàng cũng không hiểu ra sao. Võ chậm rãi:

                            - Nếu nàng không về giờ đó, chẳng lẽ cái hồn phách nang về? Chẳng lẽ ta và thế nữ kia cùng... nằm mơ? Hay gặp nàng trong ảo giác? Không thể vậy được!

                            Mùi da thịt đàn bà còn phảng phất gối chăn! Còn chiếc vòng? Thần Nữ muốn điên đầu nát óc:

                            - Thiếp không hề có mặt, khong bước vào buồng chàng... còn biết nói sao!

                            Chuyện quái đản!

                            Dứt lời nàng ôm lấy Võ, run giọng:

                            - Chàng ơi! Chàng tin thiếp không? Thiếp hoàn toàn mù tịt! Thiếp chỉ biết thế thôi. Chàng tin lời thiếp chứ?

                            Buồn bã, Võ thở dài:

                            - Thật muốn hóa điên lên được! Chính mỗ cũng đang tự hỏi! Nàng làm thế để làm gì chứ? Mấy tháng ròng chúng ta đều cố giữ lời giao ước, nàng đâu phải gái dâm tà! Đâu phải kẻ thích vật quý hơn tình tri ngộ! Nhưng chuyện xảy ra trước mắt... phải thế nào đây?

                            Hai người nhìn nhau yên lặng, chợt Võ vùng hỏi:

                            - Có thể Võ gặp nàng trong giấc mộng du chăng? Thần Nữ nheo mắt, lắc đầu:

                            - Chắc không phải! Vì thiếp đâu có bệnh mộng du? Càng kinh ngạc, Võ đăm đăm nhìn Thần Nữ Bắc Yên như muốn soi tận chiều sâu thăm thẳm linh hồn nàng nữ chúa thần bí này, nhưng chỉ thấy ánh mắt sâu trong sáng, biểu lộ sức ngạc nhiên thành thật hết mức. Võ khẽ hỏi:

                            - Hay nàng mới mắc bệnh mà không hay? Người mắc bệnh "mộng du" thường không biết gì cả, nửa đêm tỉnh dậy hành động như người vô hình nhập vào, khác hẳn con người bình nhật. Nhiều khi một kẻ không biết chữ có thể làm cả một áng văn tuyệt tác trong cơn mộng du, xong đi nằm lại, không hay biết gì nữa.

                            Thần Nữ lắc đầu:

                            - Thiếp có biết về bệnh lạ đó, nhưng nếu thiếp có lên giấc mộng du, cũng phải đem xác thân về đây hành động chứ? Gặp các bô lão, chàng sẽ rõ đêm qua thiếp ở bên cạnh họ tới canh tư mới về dinh. Vả lại người mắc bệnh mộng du thường chỉ hành động bất thần, có tính chất tình cờ, có đâu lại hành động với ý định quá rõ ràng đến thế? Phục rượu cho chồng, ăn nói vẫn như thiếp lúc tỉnh táo, đợi chàng mê, lẻn vào tráo vòng càn khôn... Không! Chắc chắn không phải mộng du!

                            Minh Thần muốn điên đầu:

                            - Vậy thì chuyện gì đây mà quái gở đến thế? Mỗ và thế nữ không thể mê được, đêm qua... chính mỗ đã gặp nàng bằng xương bằng thịt, mùi da thịt đàn bà còn vương chăn gối, chính nàng cũng ngửi thấy!

                            Thần Nữ chẳng biết nói sao, lập tức cho mời các bô lão xứ Phù Dung tới, cho Minh Thần hỏi. Quả nhiên, tất cả đều cho biết, đêm qua họ cùng nữ giáo chủ ở trong đền thờ bàn việc cho đến tận canh tư nàng mới về, không lúc nào vắng mặt một khắc.

                            Võ Minh Thần chẳng còn biết nói sao nữa, chỉ còn nước ngồi ngẫm nghĩ, cũng thấy chuyện xảy ra thật huyền bí, cứ như Bắc Yên Thần Nữ có phép phân thân của các tay "pha kia" thượng thừa vậy.

                            Đầu óc chàng cứ nghi nghi hoặc hoặc, không sao giải nổi. Còn Thần Nữ coi càng khổ sở, vì cùng chàng biết giải thích sao cho xuôi tai. Võ thở dài nói:

                            - Với mỗ, giá trị về bí kíp của cái vòng đó không lấy chi làm quan hệ, nhưng nó quan hệ vì là vật gia bảo, mẫu thân ta đã đeo cho khi người ngộ nạn tại biên thùy Trùng Khánh. Mỗ mới lên hai, và nhờ nó mỗ mới mong tìm được nguồn gốc thân thế. Nên để cho hai cha con vị Chúa hồng cẩu quẩy Pi Ya A chép lại các dòng chữ lạ trên vòng, ngày nọ gặp Nam Khấp, mỗ cũng chẳng tiếc để y chép nữa. Mỗ chỉ lạ một điều la nếu cần bí kíp, mỗ có thể để chép ngay, tất giản dị, tại sao lại đến nỗi... đổ vỡ thế này?

                            Thần Nữ nhào xuống giường, ngửi mùi da thịt, nàng ngồi im lặng khá lâu, bất thần đưa tay trái đánh luôn một quẻ Lục Nhâm, lam bẩm tính toán, bỗng vùng kêu lên kinh ngạc chẳng cùng:

                            - Trời! Thiếp đoán ra được chuyện kỳ dị tối qua rồi! À chỉ có thế thôi! Chỉ có thế mới xảy ra chuyện đêm qua! Trời! Ta làm cách nào để giải thích cho lang quân hiểu được?

                            Minh Thần ngạc nhiên hỏi:

                            - Sao đó? Nàng đã khám phá ra chuyện đêm qua?

                            Thần Nữ mắt sáng hẳn lên:

                            - Vâng, thiếp đã tìm ra nguồn gốc chuyện quái gở đêm qua! Nhưng mới là dự đoán, chưa có chứng cớ!

                            Minh Thần nghiêm mặt:

                            - Nàng có thể cho Võ này biết được chăng? Lòng Võ đang nóng như lửa đốt. Thần Nữ nhìn chàng đăm đăm, vẻ suy nghĩ đắn đo rồi thỏ thẻ đáp:

                            - Thiếp đã tìm được tia sáng rọi vào bức màn bí mật. Nhưng giờ nói ra, chắc chàng cũng chưa tin. Vậy thiếp xin chàng cho thiếp một hẹn kỳ hai tháng là nhiều, thiếp sẽ vén bức màn bí mật, đem vòng càn khôn về dâng chàng.

                            Minh Thần nghe hai tháng lòng chán ngán, thở dài bảo:

                            - Với Võ này, một ngày cũng bằng thế kỷ, làm sao đợi được hai tháng? Thần Nữ nắm lấy cổ tay Minh Thần, ngậm ngùi bảo:

                            - Nay chuyện xảy ra, thiếp vô cùng xấu hổ, có lẽ chết cũng chưa giải tỏa được mối oan vô lượng này. Vậy xin chàng cho phép thiếp được đi tìm vòng, chàng cứ ở đây để dưỡng tinh thần, đợi thiếp về sẽ hay!

                            Minh Thần lúc đó tâm trạng thật bối rối, mâu thuẫn, cứ bị cảnh rượu mê ám ảnh, ngờ Thần Nữ, nhưng đem trí ra suy luận, lại chẳng thấty Thần Nữ lấy vòng làm chi, với nàng, cái vòng dẫu quý mấy, cũng chẳng phải là thứ quyến rũ tâm hồn nàng đến độ phải làm việc ám muội. Bỗng một tia sáng lóe trong đầu, chàng trai suýt buột miệng kêu:

                            - Trời, mình thật tối dạ! Hôn mê đến thế là cùng! Nàng quá yêu mình, mấy tháng trường ép lòng làm "vợ chồng không chăn gối", xuân tình phát động chịu không nổi, nên đã dự tính mưu mẹo này. Vờ đi vắng, rồi lén về, phục rượu ép cuộc Vu Sơn! Hoặc nàng muốn chính thưc thành chồng vợ với ta nên quyết bày trò ra thế, để ta không chối nổi cuộc hôn nhân này! Nhưng lại sợ ta giận bỏ đi, nàng mới bí mật lấy vòng càn khôn đi, rồi kiếm cớ lưu mình lại!

                            Tuy thế Võ không nói ra, chỉ chép miệng bảo nàng:

                            - Từ ngày gặp nạn, lưu lại đây cũng đã nhiều rồi! Nay nhân vòng mất, nếu không phải nàng lấy, tất kẻ lạ ngoài vào! Thù cha mẹ nung nấu, nguồn gốc mịt mờ, Võ này đã đến lúc phải ra đi tìm vòng, báo thù, xin từ biệt nàng, hẹn mai sau có ngày tái ngộ!

                            Thần Nữ nắm lấy tay Võ, Võ lại sợ chơi đòn chi lưu lại, chàng liền ngầm vận công phòng bị. Thần Nữ tinh ý hiểu ngay, buông vội chàng ra, mở to mắt nhìn trân trối và có cam giác như vừa có một cái hố vô hình bắt đầu ngăn cách hai người. Nàng vùng sa nước mắt, cúi đầu không nói. Mươi khắc mới ngẩng mặt lên, ngó Võ sâu thẳm, thỏ thẻ bảo:

                            - Giờ thiếp mới hiểu thế nào là số mạng! Đầu năm thiếp có độn một quẻ Chu, Công, thấy ứng quẻ lạ kỳ, bèo mây ngẫu hợp phi phu phi phụ, thiếp đã lo. Kịp khi gặp chàng, thấy chàng là bậc hảo nam tử, thiếp đã thầm cám ơn Alah, và thiếp đã hy sinh tất cả cho mối duyên thiên định! Nào ngờ mối oan vô lượng bỗng từ đâu buộc cổ, đến nỗi chàng gần thiếp cũng phải đề phòng, thiếp còn biết nói sao đây! Chẳng dám trách lang quân sinh lòng ngờ vực, vì chàng gặp thiếp trước mắt, chàng cũng phân tâm. Thiếp chỉ buồn duyên đã trái, còn mang tiếng bội phu! Thị Kính xưa vì tỉa râu chồng mà mắc hàm oan, thân phận nữ nhi cam chịu nhận tội làm chửa Thị Màu... bà vẫn sống nổi. Thiếp nay, cũng như Trương Nghị xưa mắc oan lấy trộm viên ngọc bích họ Hòa của tướng quốc Chiêu Dương nước Sở.

                            Nói chưa dứt lời, nước mắt lại chảy ròng ròng. Võ Minh Thần nhìn nàng, vừa ái ngại, vừa thẹn trong lòng, hơi lúng túng, lắc lắc đầu:

                            - Không, không! Nang chớ hiểu lầm, Võ này chỉ có ý nghĩ là nàng... nàng muốn lưu ta lại bằng những hành động quái gở đó thôi.

                            Thần Nữ thở dài:

                            - Dẫu muốn lưu chàng, thiếp cũng chẳng dám làm chuyện mờ ám ngu xuẩn đó, huống hồ chính thiếp rất mong chàng sớm trả được thù nhà.

                            Minh Thần ngẫm nghĩ giây phút đoạn bước lại nắm tay Thần Nữ bảo:

                            - Thôi! Chuyện đã xảy ra, có buồn cũng thế thôi! Võ này sẽ kiếm lại vòng gia bảo, nàng hãy vui lên cho Võ tạ từ ra đi báo cừu! Chuyện quái gở này, sẽ có ngày khám phá sau... sẽ liệu vậy! Nhưng Võ này vẫn thắc mắc sao nàng chẳng cho biết ngay tia sáng nàng mới khám phá ra?

                            Thần Nữ nắm tay chàng khá lâu như thầm truyền sang cả nỗi niềm thương yêu, chịu đựng và trấn tĩnh lại cõi lòng tan nát chua cay. Nàng mới gạt lệ cất tiếng trầm trầm cương quyết:

                            - Có nói ra chàng cũng chưa tin được, vì chuyện này nó cũng... quái gởnhư chuyện xảy ra tối qua! Tốt hơn là đe lúc nào có đủ bằng chứng đã! Vâng, chàng lên đường làn này thiếp không dám giữ, nhưng để thiếp dâng chàng ly rượu tiễn đưa đã!

                            Võ nóng lòng, chỉ muốn đi ngay nhưng chẳng nỡ từ chối lời nàng. Đó rồi không thông báo cho thần dân hay, Bắc Yên Thần Nữ kín đáo làm tiệc tiễn hành, sai thế nữ đem sẵn tất cả mọi thứ tới đền thờ Phù Dung Thần và ngay chiều đó hai người lại lên kiệu đăng sơn đến thẳng đền thờ, lên căn phòng bí mật trong ruột tượng đêm nọ. Hai người ngồi đối ẩm ngay trên giường thất bảo. Rượu phân ly lạnh lòng thục nữ. Võ Minh Thần cũng chẳng vui gì, lòng chàng mang mang rối loạn, đìu hiu hết sức. Sau mấy tháng gần gũi nàng nữ chúa xứ Phù Dung, chàng đã có dịp nhận ra nhiều đức tính, thói quen khả ái của nàng, lắm khi, trong việc vai tựa má kề, Võ cũng điên đảo vì tình, lại chính nàng đã khéo léo giúp chàng thoát cảnh hiểm nghèo. Thậm chí có đêm, hai người nằm bên đèn Phù Dung trong buồng the, đàm luận võ công, thơ phú, thế sự, hai người đã gác chân lên nhau như đôi bạn tri kỷ. Võ phải thầm kính phục, và nhận thấy không khi nào nàng có ý khiêu khích quyến rũ chàng, trai lại, nàng đã giúp chàng một phần lớn. Thậm chí có lần chàng gặp đêm gió lạnh mưa buồn, lòng trống trải, không cầm lòng nổi trước tấm thân khiêu gợi của nàng, đã muốn ngã như một kẻ thường nhân, chính nàng đã cười khanh khách vuột khỏi vòng tay chàng, chạy vụt ra ngoài mưa gió, để Võ đuổi theo cho mưa gió dập tắt "núi lửa"! Ai ngờ lại xảy chuyện lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng của chàng. Chàng chỉ đoán lờ mờ là bên trong tất phải có nguyên cớ khác thường, lòng nghi hoặc vẫn như kim châm tâm hồn. Tàn tiệc rượu, nàng thỉnh Võ nằm bên đèn Phù Dung, tay búp măng tiêm thoăn thoắt. Võ nằm ngó nàng tiêm, cổ tay tuyệt đẹp, bỗng chàng vụt nhớ lại đêm tân hôn cũng trong phòng này... chàng bật nhỏm dậy, lặng lẽ dòm lên trần. Phòng vắng thâm sâu, có tiếng thạch sùng chép miệng. Võ đứng lên thoắt đã trở vào, ngã xuống bên nàng, lẹ tay cầm bút lông điểm vụt một đường vòng quanh cổ tay thục nữ.

                            Phù Dung Nương hơi giật mình, ngừng tiêm ngơ ngác nhìn Võ và giơ cổ tay ra trước ánh đèn lung linh. Nàng vụt hiểu, thoáng đỏ mặt, ngồi nhỏm dậy:

                            - Chàng... chàng ngờ thiếp mất trinh? Minh Thần lúng túng:

                            - Không...!

                            - Nhưng sao chàng lại làm thế này? Đêm hợp cẩn hồi nọ, thiếp đã thử chàng thấy rõ mà?

                            Võ trầm giọng:

                            - Nhưng nay lại khác! Đêm qua giờ Tý, Phù Dung Nương đã đưa Võ này vào giấc Vu Sơn mà nàng lại bảo giờ đó chưa về dinh...

                            - À! Thiếp hiểu rồi! Trời, họa lai thần ám thế nào mà thiếp lại quên khuấy mất. Cũng chẳng nghĩ ra! Nhưng...

                            Nàng im bặt, bàn tay búp măng, cổ tay thon lằn hơi rung nhẹ, nét son vòng vòng "thủ cung sa" còn ướt mau thạch sùng, chừng như nàng vẫn sợ chính nàng đã dấn thân về mà đầu óc không hay.

                            Riêng Minh Thần cũng hồi hộp lạ trước cuộc thí nghiệm này. Mắt ngó trừng trừng, tim đập mạnh, chàng trai nín thở chờ từng khắc. Nhưng một phút, rồi mười lăm phút sau, dấu son vẫn đỏ chót như thường! Và Minh Thần càng thêm kinh ngạc, rối trí, chẳng còn biết phán đoán lẽ nào cho phải nữa. Chàng trai vụt ngẩng nhìn Thần Nữ, buột miệng kêu:

                            - Sao lại thế nay? Vòng son vẫn đỏ chót như ngày nọ... là thế nào? Qua giấc Vu Sơn, lẽ ra dấu son phải xỉn lại chứ?

                            Thần Nữ thở phào nhẹ nhõm như trút được nỗi lo nặng như đá, nhưng nghe Võ kêu, nàng nữ chúa Phù Dung mặt thoáng hiện net mặt buồn mênh mang, trầm giọng như than:

                            - Có gì lạ đâu... chàng! Vì thực sự thiếp có cùng chàng giao hợp, ái ân đâu? Nếu đêm qua cùng chàng vào giấc Vu Sơn, đâu thiếp còn là xử nữ?

                            Minh Thần đăm đăm quan sát sắc dien đẹp não nùng nghiêm chỉnh của nàng nữ chúa giáo chủ Phù Dung, nhưng càng nhìn, đầu óc càng rối loạn, nghĩ thầm:

                            - Rõ ràng tối qua nàng quyến ta vào giấc Vu Sơn, cả thế nữ cũng gặp nàng, sao dấu son vẫn đỏ? Hay nàng có ma thuật... phân thân? Hoặc nàng mắc một thứ bệnh kỳ xuất vía? Bên Tây Tạng, đã có những vị Lạt Ma tu luyện đến độ cao thâm, không những xuất hồn, còn xuất được cả phách nữa, coi như người thực. Nhưng chẳng hiểu cái phách xuất ra có thể thành một khối cưng hay vẫn chỉ là một khối như sương kết vậy? Mà chưa biết chừng lối thử trinh bằng son máu thạch sùng chắc gì kiến hiệu hoàn toàn?

                            Tuy nghĩ vậy nhưng chẳng lẽ lại kiếm đàn bà con gái thử nữa. Võ chỉ lắc đầu chán nản:

                            - Chịu! Không còn hiểu sao nữa! Càng nghĩ càng phát điên! Thần Nữ dịu dàng ấn chàng nằm xuốngi:

                            - Chàng nên tạm quên chuyện này đi! Thiếp biết lúc này chàng chưa thểnào hiểu được, tin thiếp được! Đêm này là đêm phân ly, thiếp muốn sống trọn với lang quân vài giờ ngắn ngủi... Nay mai đôi ngã, biết bao giờ được gặp lại nhau?

                            Chàng tuổi trẻ khẽ thở dài, bất giác nắm lấy tay nàng, lòng bỗng dưng bùi ngùi lạ. Dẫu mối giao tình bị vẩn đục vì chuyện quái gở đêm qua, chàng vẫn nhớ đến ân tình suốt mấy tháng trường nàng đã hết lòng săn sóc, cứu mạng, lại hiến trọn thân phận cho chàng vì tuân theo lời nguyền tiên tổ. Nay dẫu xảy ra chuyện bí hiểm, chẳng qua cung chỉ vì yêu chàng quá và nàng chẳng phải đang chịu hàm oan chưa giải nổi. Một ngày là nghĩa, dẫu sao cũng là vợ chồng chính thức trước thần dân. Nay chàng dứt áo ra đi, nàng không dám giữ, tình thật xót xa.

                            Võ Minh Thần xiết tay nàng nói lời an ủi tạ từ và trong giây phút quá xúc động, hai người ôm chầm lấy nhau như muốn tan cả hình hài trong một cái hôn dài chia ly.

                            Comment


                            • #15
                              Hồi Thứ Mười Lăm




                              Vị Khách Trên Ngọn Cây Phàn




                              Ngay giữa canh ba đêm đó, Thần Nữ Phù Dung cùng Võ Minh Thần rời đền thờ, lên ngựa ra đi. Hai người bí mật vượt qua vùng sương đồi trùng trùng, noi theo yếu lộ, tiến về hướng Đông Ngạn. Nữ Chúa Phù Dung đích thân tiễn chàng, đưa chàng ra khỏi vùng đất bí hiểm giữa biên giới.

                              Vượt qua nhiều dặm sơn, bản thổ, tới rặng núi dựng thành, bao lấy khoảng giang sơn kỳ bí. Thần Nữ còn đưa Võ Minh Thần vượt qua một thủy đạo thiên nhiên bí ẩn ăn thông xuyên ruột núi, nước ngập gần tới cổ ngựa, quanh co khúc khuỷu hiểm trở lạ thường.

                              Cửa thủy đạo là một mảnh thác từ trên núi đổ xuống che khuất lỗ hổng, còn có một tảng đá lấp kín. Đây cũng là "tiền môn quan" xứ Phù Dung, chỉ cần đẩy tảng đá sang bên đã vượt hẳn ra ngoài lãnh địa. Khi Minh Thần cùng nàng lách qua mành thác, bên ngoài, trời mới rạng đông.

                              Mãi lúc đó, chàng trai mới hoàn toàn yên dạ. Từ đêm qua, chàng vẫn nơm nớp sợ nàng lừa giữ lại.

                              Vượt qua suối, lên ngọn gò cao, hai người dừng lại. Lâm tuyền đỏ rực, báo hiệu một ngày nắng đẹp. Thần Nữ trỏ về nẻo rừng xa:

                              - Đằng kia chừng vài dặm có con đường xuyên sơn dẫn đi nhiều vùng. Chàng có thể đi về trấn Lai Châu hoặc xuyên mé đi Tsinh Ho, Sa Pa, Phong Thổ... thiếp xin chúc lang quân lên đường mạnh giỏi!

                              Giọng nàng thỏ thẻ cố giữ vẻ tự nhiên, nhưng vẫn rung mãnh liệt. Võ Minh Thần nắm lấy tay nàng, hai người ngó nhau im lặng, mươi khắc chàng trai mới nói khẽ:

                              - Thôi... nàng ở lại... Võ này đi...

                              - Dạ... chàng đi... thiếp chúc lang quân... Nàng không nói hết câu. Cuộc chia tay buồn lạ. Gió sớm đìu hiu. Ngày thảm bại, lãnh đòn Tây Sắc, lạc tới xứ Yên, đang còn mùa đông trọng, thấm thoát đã sang hè.

                              Võ Minh Thần vỗ đốp hông ngựa, giật cương bắn vọt xuống đồi.

                              Khi chàng vượt hết con thung rộng, ngoảnh trông lại vẫn thấy bóng Phù

                              Dung Nương đứng ngựa nhìn theo. Khua tay lên đầu, chàng tuổi trẻ nén lòng, rẽ thẳng ra đường mòn, kéo sụp mũ trụ chàng giục ngựa bôn hành, theo hướng Đông Nam đi miết. Chàng tính về trấn Lai Châu, tìm Quản Kình rồi sẽ liệu.

                              Bị nạn nương náu xứ Phù Dung mới có mấy tháng, chàng có cảm giác như vừa từ thế giới xa xôi lần về. Ngày đi đêm nghỉ, dậm ngựa rong ruổi, bữa kia đã tới Lai Châu.

                              Võ Minh Thần bèn tới ngay quán trọ ngày nào thăm hỏi tin tức Quản Kình nhưng chủ quán cho hay Kình không hề đáo lai từ ngày đó.

                              Thất vọng, Võ lững thững đi quanh co trấn, coi có chi hay chăng, tới một phố khá đông, vừa rẽ ngang chợt có một khách bộ hành loạng choạng đi tới, chân nam đá chân xiêu, anh ta đâm bổ vào đầu ngựa. May Minh Thần đã kịp ngoắt ngựa tránh, y có vẻ say mèm, xô cả vào đùi chàng. Y ngẩng mặt lên, lè nhè mấy tiếng rồi lại bước đi, người vẫn đảo như lên đồng. Minh Thần lắc đầu biết ngay dân say rượu, chàng đi được chừng vài chục bước, bỗng nghe tiếng quát mắng sừng sộ sau lưng vội ngoái cổ dòm lại, gã say rượu vừa rồi ngã lộn trên đường, bị một con ngựa lớn xô phải, người cưỡi ngựa là một gã cao lớn vạm vỡ, mặt mày dữ tợn, theo sau có một bọn hơn chục kỵ sĩ, cả bọn cứ theo đà chạy rầm rập, dẫm cả lên gã say rượu ngồi giữa đường.

                              Bất nhẫn, Minh Thần xốc luôn ngựa lại. Vừa khi đó, gã cao lớn quất véo roi ngựa vào gã say rượu, hét:

                              - Thằng mù này sao không đi trên hè? Xuống đây cản lối ngựa xe! Muốn chết? Gã say rượu đứng dậy, ngước mắt dòm gã cao lớn, không giận, y lè nhè:

                              - Đi đâu vội thế? Có gì phải vội? Ồ! Uống chơi vài ngụm! Tiền ẩm tam bôi tửu, hậu tiến vạn cổ sầu, hà hà...

                              Cáu tiết, gã cao lớn vất véo roi nữa vào đầu gã say hét "giỡn hả", Võ Minh Thần vọt lại nắm lấy cổ tay y, dịu dàng:

                              - Không thấy người ta say quá rồi sao? Người bạn hơi quá đó! Gã cao lớn trợn mắt giằng tay quát xẵng:

                              - Buông! Không can gì đến ngươi! Nhưng y giật không ra, nổi giận y giật luôn tay kia. Võ túm nốt lạnh lùng:

                              - Vô cớ đánh người còn hung hăng, thói ỷ mạnh hiếp cô... chết không ai thương!

                              Gã cao lớn trợn mắt, vận hết sức cũng không rút tay ra được, bọn kia đã ào lại bao quanh chưa kịp động thủ, gã cao lớn đã bị nhấc bổng lên. Gã này sợ bị quật, với xuống kêu lớn:

                              - Bọn này có việc gấp... mà! Các chú lui lui mau! Không có chuyện gì can hệ mà!

                              Võ buông tay, bọn này nhìn chàng gờm gờm, rồi giục ngựa bỏ đi. Võ quay hỏi gã say:

                              - Người bạn có sao không? Gã này quần áo lôi thôi lếch thếch, vai đeo trái bầu, móc trên đầu chiếc ba toong song, mặt mày lem luốc, mắt lờ đờ dòm Võ, y lè nhè nói lảm nhảm mấy tiếng không mạch lạc, rồi lại lảo đảo đi liền, không buồn cảm ơn. Võ Minh Thần cũng giục ngựa đi. Loanh quanh giây lát, tới phố chợ thấy đói bèn vào một hiệu khách đã thấy gã say rượu lè nhè đang bị một khách trong quán túm ngực áo định đánh. Hỏi ra mới hay gã đâm sầm vào bàn người khách kia làm đổ ca đồ nhắm. Minh Thần lại phải can, chép miệng bảo gã say:

                              - Sao không về nằm ngủ? Say sưa đi không vững, lỡ phạm kẻ vũ phu có ngày chết đòn!

                              Gã say lè nhè:

                              - Ai bảo say? Hai chú nghĩ coi, đâu có say!

                              Dứt lời ngồi xuống, lấy rượu uống tỳ tỳ, chẳng buồn để ý đến ai.

                              Minh Thần ăn xong, trả tiền, toan ra lại nghe ồn ào, tửu bảo vây quanh gã say. Hỏi, thì ra anh ta... quên tiền. Minh Thần ái ngại, liền móc túi lấy bạc trả giúp. Gã say lè nhè:

                              - Cả cái tỉnh rừng rú này không có bán rượu tử tế, toàn bán nước lã, uống mấy lít không say! Lũ bất lương này đáng lẽ phải bỏ tù còn nằng nặc đòi tiền. Hè hè! Thổ điền trả tiền phí của.

                              Gã nói tiếng Kinh, chủ quán là một lão khách ú mập, chỉ còn nước trợn mắt, dang tay, kêu "cái này thằng khùng, không piếc gì, ngộ pán Mai Quế Lộ ngon nhất Lai Châu à!" Võ Minh Thần xua tay, ra hiệu không nên chấp với người say, đoạn vỗ nhẹ vai gã, cười bảo:

                              - Về ngủ đi. Lang thang say sưa quá chén nói nhảm, có ngày ốm đòn!

                              Dứt lời, móc mấy đồng "xòe" dúi vào tay y. Gã say bỏ luôn tiền vào túi không thèm cám ơn, khật khưỡng bỏ đi luôn.

                              Võ Minh Thần lững thững bước ra, vừa leo lên ngựa đã thấy y chếnh choáng vừa đi vừa ngâm váng giữa đường, suýt bị một chiếc xe đụng phải. Đi dạo quanh, lát sau về nơi quán trọ cũ, đã thấy y ngồi uống tỳ tỳ, chẳng biết vì lẽ gì, bỗng có một thực khách vạm vỡ nhảy xổ lại, túm ngực định đánh.

                              Thấy tội nghiệp, Minh Thần lại phải can gián. Hỏi chủ quán, mới hay gã say không phải là dân Lai Châu, y từ mạn Sơn La Vạn Bú mới lên được hai, ba ngày, ngày nào cũng đi nếm rượu khắp các quán ăn quanh trấn, và ngày nào cũng bị túm ngực bạt tai vì ăn nói lảm nhảm, say nhè. Minh Thần đã gặp nhiều kẻ say như điên, mất cả trí khôn, nên cũng chẳng lạ.

                              Chàng lưu lại trấn Lai Châu thêm một ngày, dò la tin tức, chẳng được một tia sáng nào về Quản Kình và Giao Long Nữ. Thất vọng, chàng lên ngựa theo ngả thượng đạo, lần sang miền núi Fansifan. Vượt qua Hắc Giang nhìn nước lũ cuồn cuộn, lại nhớ đến trận Hồng Thủy dưới Cung A Phòng Tây Sac lòng nóng như lửa đốt, nhớ đến thù sâu chưa báo, ruột đau như cắt khúc.

                              Ngày kia vó ngựa lữ khách tới Cha Pa, sơn trấn nghỉ mát nổi tiếng nhất Đông Dương, nằm giữa những đọt núi Phản Tây Phàn.

                              Dạo này đang độ mùa ha, khoảng cuối tháng tư cũng có nhiều du khách tới, nên Cha Pa vừa trút bỏ hẳn "bộ mặt rét mướt" coi rực rỡ nhộn nhịp hẳn lên.

                              Võ Minh Thần tới sơn trấn vào buổi trưa nắng dịu, trông lên ngọn Tây Phàn cao nhất Đông Dương mới vén sạch mây mù, chói sáng ánh nắng như dát bạc.

                              Theo thói quen mỗi lần đến sơn trấn thượng du, chàng trai lóc cóc tạt lại khu phố chợ.

                              Vừa ló ngựa tới, Võ không khỏi ngạc nhiên thấy quang cảnh tấp nập khác thường. Kẻ qua người lại như mắc cửi, mấy quán ăn Tây, Tàu, ta thực khách ra vào từng lũ. Xem dáng diệu có nhiều kẻ vội vã hết sức.

                              Ngồi trên lưng ngựa lững thững đi bên đường, Võ Minh Thần thấy một bọn hơn hai mươi người từ trong quán ăn lật đật đi ra, leo lên ngựa, vẻ vội vã lạ. Bọn này còn dắt theo bốn, năm con ngựa thồ thứ chi trên lưng không biết vì đều phủ gấm vóc, xanh đỏ rực rỡ. Bọn này đi lướt qua bên ngựa Minh Thần, y phục rat lạ, kẻ mặc âu phục, người mặc áo thụng, nhưng tất cả đều chít khăn tựa lối Tây cuốn thừng, chà... coi không phải người Âu. Chỉ có một gã đội mũ, mặc quần áo kaki vàng, coi như võ quan nhà nước. Khi bọn này kéo qua, Minh Thần nghe lão đi đầu trạc ngũ tuần, ria "ghi đông" rậm không râu, bỗng nói một tràng tiếng ta lơ lớ pha giọng tây đen bán vải, cứ vài tiếng lại có "tờ rờ":

                              - Ông quan ta... Phải đi mau mới kịp "tờ rờ"! Hôm nay có nhiều đám đón ngài "tờ rờ". Ta đến sớm mới có chỗ "tờ rờ". Lại có tin ngài lên núi...

                              Người đội mũ gật đầu:

                              - Quan lãnh sự không lo! Có tin chắc chắn "ngài" đang chơi trong biệt thự của quan Tổng đốc Hoàng gia, chưa đi đâu!

                              Giọng y keo thoáng chìm trong tiếng vó câu, Minh Thần ngó theo, nghĩ thầm:

                              - À, chắc bọn này đến yết kiến nhân vật quyền thế nào đây! Lão cuốn thừng kia làm "lãnh sự", và có khối viên thống sứ toàn quyền dưới Hà Nội lên đây nghỉ mát, đi săn. Võ bỏ qua, giục ngựa đi thẳng định kiếm quán vắng nào ăn uống cho đỡ ồn. Bỗng lại thấy một bọn khác đi tới. Võ ngó mặt ngờ ngợ mấy khắc, chợt nhận ra gã cao lớn dữ tướng đã quất gã say rượu bên Lai Châu hai, ba hôm trước. Chàng nghe y bảo:

                              - Ta vào quán giây lát, mấy đứa chạy đi xem lại coi "ngài" còn đấy không về báo ngay! Nhớ để ý coi có đám nào lạ chực sẵn chưa, còn liệu dành chỗ!

                              - Dạ! Bẩm "di wang"

                              - Tỉu nà! Đi mau! Lỡ việc tao chặt đầu!Minh Thần càng lấy làm lạ:

                              - Quái! Lại tụi này nữa! Coi đúng bọn thảo khấu, tụi này cũng đến gặp nhân vật "ngài" nào đây? Không chừng chúng tới khiếu oan gì chăng?

                              Minh Thần đang nghĩ vẩn vơ, bỗng nghe phố xá xôn xao, con nít gọi nhau ơi ới, chạy lũ lượt về phía bên chợ, vừa khi đó, bỗng chàng nghe rõ tiếng chiêng, trống nổi lên một góc phố, rồi giữa hàng cây xanh um, chợt hiện ra nhiều bóng lộng, tán, cơ ngũ hành bay phấp phới dọc giữa đường xế trước mặt chàng độ năm, bảy chục bộ.

                              Dứt hồi chiêng, trống văng vẳng có tiếng "hát ma" vọng tới, lẫn tiếng "sênh tiền" dìu dặt vui tai.

                              - A, bữa nay Cha Pa có đám rước thần chi đây! Có lẽ là dân Kinh? Chàng trai lẩm bẩm, nghểnh cổ trông lại phía bên chợ, dưới các tàn cây, cờ quạt dập dờn, bỗng nhô lên một cỗ kiệu sơn son, thếp vàng rực rỡ, mấy phía rèm buông, cỗ kiệu tới bên chợ bỗng quay tứ phía y hệt lối "kiệu giáng kiệu bay", rồi chợt nghe tiếng loa vang động khắp phố:

                              - Đi... i... inh... Hạ ki... êu... ệu! Tự nhiên Võ Minh Thần dợn lòng, suýt kêu lên:

                              - À, không phải đám rước! Đúng "y" rồi! Mình phải giấu mặt mơi được. Bữa nay Cha Pa có chuyện chi mà "y" cũng mò tới?

                              Rất nhanh Võ ngoảnh vội đi, lấy trong túi ra một chiếc mặt nạ da người có cả râu ria, vuốt dán vào mặt, hóa ra một lão Thổ trạc lục tuần, nét lạnh lùng như một xác chết nhưng người ngoài khó thể nhận ra được, vì Võ có thuật làm cho làn da mặt nạ cũng động đậy như da thật.

                              Cả tấm khiên sắt chàng cũng đã dùng mây đan bọc ngoài coi giống hệt nón Mường, Thổ, Xạ, Phang. Sực nghe từ phía tàn lọng sặc sỡ, có tiếng hô dõng dạc, nghe thao thao như tiếng "phụ đồng ếch":

                              - Cờ Bạc! Cờ Bạc! Phụ đồng cờ! Phụ đồng bạc! Phụ đồng cờ bạc, phụ thân đổ bác, nhập vào chiếu bạc! Phụ đồng cờ, phụ đồng bạc, phụ đồng cờ bạc...

                              Cứ thế, tiếng "phụ đồng cờ bạc" vang vọng bổng trầm khắp mấy khu phố quanh chợ, khách vãng lai, dân chúng đổ xô cả lại, nháy mắt đã thành một hàng rào bao quanh cỗ kiệu sơn son thếp vàng, cảnh tượng náo nhiệt hết sức.

                              Võ Minh Thần lững thững tiến ngựa lại bên chợ, đứng ngoài hàng rào người dòm vào, đã thấy tên hồ lỳ đêm nào cùng đám "đàn em" trải chiếu hoa tươm tất đang khệ nệ mang các "đồ nghề" ra bày sẵn một góc. Trong mớ "đồ nghề" cờ bạc, Võ để ý nhận ra ngay bộ "xóc đĩa" gia truyền, chàng đã có dịp chơi qua.

                              Thiên hạ kéo tới đông như kiến, dân có máu mê chưa chi đã đỏ mặt tía tai, nhào vào, chen lấn, bu quanh chiếu bạc mat dòm hau háu như "đồng thuộc". Bỗng bức rèm trước kiệu vén lên chút, bộ đồ xóc đĩa nhảy tót ra chiếu bạc. Và cứ thế nhảy lên, nhảy xuống, xóc rền như có bàn tay nhà nghề xóc vậy.

                              Nhiều kẻ kêu "úy" tròn xoe mắt, keu "ma xó". Tiếng xóc phát âm rền trầm bổng thánh thót như tiếng đàn chai làm ai nấy nghiêng tai ra chiều thích chí. Bỗng có kẻ kêu tướng:

                              - Ôi chao! Lắc ngọt xóc hay, Đổ Bác Thần làm cái, đánh một canh mất nghiệp cũng sướng.

                              Lại có tiếng nói lờn giữa đám đông:

                              - Đánh sao lại ông thần Đổ Bác? Chơi với "vua cờ bạc" mất cơ mất nghiệp, bán vợ đợ con chết không kịp ngáp!

                              - Câm mồm! Không chơi cút đi, nhân tâm tùy sở thích, Đổ Bác Thần đánh cao không bịp, chơi ế canh chết cũng đáng đời, cái xướng!

                              Canh bạc vụt trở nên nóng hổi, bát đĩa xóc rền, tiền ra như nước, bạc đốt như tiền.

                              Võ Minh Thần đứng ngoài dòm vào trong kiệu tối mờ chẳng thấy bóng Đổ Bac Thần đâu cả! Vốn không có máu mê chàng định quay đi, chợt nghe tiếng gọi lớn:

                              - Ê! Vào chơi mấy tiếng lấy may! Phải bà con tới biệt thự Tổng đốc Hoàng không? Còn sớm chán! Vào làm canh đã! Chà! Thái giám Ả Rập tới kia nữa! Hồ lỳ đâu, mời khách vào mau! Giảng cho khách biết qua chẵn lẻ.

                              Minh Thần ngoảnh đầu trông lại, thấy hai, ba toán lạ đi ngựa qua, có một toán mặc toàn y phục trắng lòa xòa, đầu chít khăn trắng trùm ngang mặt, nhác trông, biết ngay dân Ả Rập từ miền sa mạc Trung Đông tới. Võ còn đang ngạc nhiên chưa biết đám người Ả Rập này sang Việt Nam làm gì lại có mặt tại Cha Pa này, bỗng thấy một lũ hồ lỳ chạy ra đón mời. Lạ thay! Chẳng biết chúng rủ rê cách nào, mà cả mấy đám đều dừng ngựa lại, mấy viên trưởng đoàn hăm hở nhảy luôn vào đám bạc.

                              Bỗng nghe gã trưởng đoàn Ả Rập cất tiếng hỏi bằng tiếng Tây:

                              - Thần Đổ Bác Tiên sinh đấy ư? Thái giám Ả Rập vẫn nghe danh lão tiên sinh tận bên Hồng Hải, xin có lời chào tiên sinh! Chẳng hay tiên sinh có thấy rõ "ngài" còn ở trong đó chăng?

                              - Ha ha! Còn chứ! Không những thế, y còn là tri kỷ của lão mỗ nữa, cứchơi đi lao mỗ cũng tới đó mà! Lão mỗ có thể đưa thái giám vào cổng hậu như bỡn à!

                              Hồ lỳ dẹp chỗ, cả mấy đám xắn tay áo, nhập cuộc, Võ Minh Thần đứng xế bên gốc cây không khỏi buồn cười thói máu mê của dân cờ bạc.

                              Chàng đang định bỏ đi, bỗng lại nghe chiêng trống vang rền, loa kêu inh ỏi, lẫn tiếng vó câu rầm rập trẩy tới. Vội ngoảnh trông lại đã thấy một đoàn nhân mã vùn vụt đi lại, cờ quạt tàn vàng, tàn tía, hiệu kỳ phất phới, ngay đầu quân có hai bóng đi kheo cao lênh khênh, bắc loa dẹp đường, giữa có một tên vạm vỡ cưỡi ngựa trùm đỏ chót một cây cờ lớn, lá bằng tấm chiếu lớn, đỏ rực, nổi bật mấy chữ "Bá Diện Thánh quân. Đông Âm Bá chủ"

                              Giật mình, Võ Minh Thần toan lẩn mặt đi, nhưng sực nhớ mình đã hóa trang, nên cứ đứng yên, ngạc nhiên hết sức:

                              - Kìa! Bá Diện Bá Âm sao cũng tới trấn này. Tiền hô hậu ủng, tàn vàng tàn tía nghênh ngang kéo vào tận Cha Pa không coi lính nhà nước ra chi. Ma Quân chắc có việc chi cần kíp lắm đây, không khéo đổ máu như chơi bây giờ.

                              Nói chưa dứt đoàn nhân mã y phục cổ kim hỗn hợp trẩy tới ngang đám bạc bỗng nghe tiếng loa rền, từ dưới lão Tửu Chúa Điện Tiền Chỉ huy đã vọt ngựa lên, hét đám đông dạt sang bên, làm ai nấy xôn xao, có kẻ thấy cờ hiệu kêu ré lên, ù té chạy. Có tiếng Đổ Bác Thần quát lớn, chợt một cỗ càng lớn xẹt lên, do mấy cô gái xiêm y sặc sỡ khiêng, cỗ càng dừng xế ngoài chiếu bạc, hờ hờ câm nín. Đám bạc vụt im. Có tiếng "quy lát" lên cành cạch!

                              Canh bạc đang vui, tiền giấy, bạc "xòe", "hào chỉ", "hào ván", "xanh căng", xu đồng đặt từng đống, con bạc nghe ồn ào nhất loạt trông ra, đã thấy đoàn quân mã cổ kim hỗn hợp đứng im phăng phắc, cỗ cáng đậu lù lù sát sau lưng con bạc.

                              Con bạc, dân chầu rìa xôn xao, hình như có nhiều kẻ biết tiếng "con ma trăm giọng" Nhiều người chực đứng sổ dậy sợ chết lây. Giữa cảnh im rợn bỗng nghe trong kiệu có tiếng Đổ Bác Thần quát lớn:

                              - A! Bá Âm Diện bữa nay cũng tới Cha Pa! Tìm gỡ canh bạc năm nọ đấy chứ? Hồ lỳ đâu? Dọn chỗ cho "khách sộp". Cả làng cứ ngồi chơi như thường! Chơi sòng Đổ Bác Thần còn chắc hơn chơi sòng có đóng thuế Pa Kha.

                              Tiếng lão vang âm góc phố, im mấy khắc, chợt có tiếng trong cáng gầm phát ra đủ trăm giọng đổi thay nhiều thổ ngữ Tây, Tàu, Kinh, Thổ, Mèo, Nhắng, Phong Kha v. v...

                              - Chưa có thì giờ đánh bạc, Thánh Quân đến Cha Pa có việc cần kíp, bóng cờ lọng biết có ma cờ bạc mở sòng góc chợ, Thánh Quân tới không thừa thì giờ như ma cờ bạc! Ta muốn hỏi một việc.

                              Tiếng trong kiệu cười sằng sặc:

                              - Cứ hỏi! Ta biết ma trăm giọng muốn hỏi điều gì rồi, nhưng lỗ tai ta còn rảnh, sẵn lòng nghe, còn đáp lại là chuyện khác!

                              Có tiếng lạnh khô trong cáng tiếp theo tiếng thở phì đến bực:

                              - Ta được tin "y" tới!

                              - Không chơi kéo tới à! Ma trăm giọng muốn phá sòng?

                              Tiếng trong cáng gầm cười ré lên làm con bạc quanh đấy chói tai nhức óc phải bịt vội lỗ tai.

                              - Phá sòng nhà ngươi làm gì? Thánh Quân không làm nghề bat lương, ta muốn hỏi thăm nhà ngươi đôi điều được chứ? Vùng sơn trấn nghỉ mát này phải chăng?

                              Võ Minh Thần nghe tiếng "y" không khỏi nhột lòng, ngờ "y" ám chỉ mình, chợt nghe trong kiệu vọng ra "đúng đó". Tiếng trong cáng lai hét chói tai.

                              - Lại có tin "y" hiện ơ biệt thự Tổng đốc Hoàng gia, đúng chăng?

                              - Đúng!

                              -À! Hay lắm! Nhưng giờ phút này "y" còn ở đó chăng? Hay đã bỏ đi!

                              -À! Chuyện đó muốn rõ thực hư, chơi một canh, khắc biết! Tiếng Bá Âm vùng hét:

                              - Thánh Quân bận gấp, thì giờ đâu đánh bạc? "Y" còn đấy không? Biệt thự chỗ nào?

                              - A! Đánh một canh khắc biết! Cam đoan không sai! Chiếc cáng bỗng vọt lên cao, hạ xuống, tiếng hét gai gai:

                              - Không cần "ma cờ bạc", ta đi tìm "y"!

                              - Ha ha! Nhớ! "Ma trăm giọng" mi còn nợ ta mấy câu hỏi đó! Chiếc cáng vọt ra đường, loa dậy, trống rống, chiêng khua, kèn Tây dập dình, lẫn tiếng "bát âm" véo von, đoàn quân mã cổ quái trẩy đi như gió cuốn, nháy mắt bóng tàn tán đã chìm khuất cuối phố.

                              Minh Thần càng lấy làm lạ thắc mắc nghĩ thầm:

                              - "Nhân vật kia" là ai mà thiên hạ lắm đám đổ tới gặp thế này, cả Đông Âm quái nữa! Chắc có chuyện chi lạ lắm đây! Nhân đang rỗi, có lẽ mình thử lần tới xem sao?

                              Bèn mặc đám bạc đấy, chàng giục ngựa ra ngoài tiến đến một quán khách trú xế tít bên kia chợ, vào ăn uống cho no rồi sẽ liệu tính. Uống dứt tuần rượu, Võ kéo tửu bảo hỏi nhỏ:

                              - Này chú! Bữa nay có ông quan nào về Cha Pa mà lắm kẻ đi đón thế?

                              Thống sứ hay toàn quyền?

                              Tửu bảo lắc đầu trợn mắt:

                              - Ôi chao! Có biết ai đâu! Ngộ chỉ nghe người ta bảo cái "ngài" này còn khó gặp hơn toàn quyền à! Minh Thần lại hỏi thăm khu biệt thự Tổng đốc Hoàng gia, đoạn cứ vừa ăn vừa nghĩ ngợi liên miên.

                              Xong chàng lên ngựa, theo lời tửu bảo, lập tức đi kiếm khu đặc biệt thuộc họ Hoàng Gia. Lúc này, trời đã ngót bốn giờ chiều. Qua ngang chợ mới hay sòng bạc Đổ Bác Thần đã tan hồi nào rồi, bọn người Ả Rập, Tây cuốn thừng cũng đâu mất.

                              Chàng tặc lưỡi ruổi ngựa về hướng xế Nam trấn. Ra khỏi Cha Pa chàng bèn tìm tới đến con sông dừng đón khách qua lại hỏi thăm. Con sông này từ mạn núi Tây Phàn chảy qua Cha Pa xuống Mường Ba, rồi đổ vào sông Hồng, khúc giữa Lào Kay Phố Lu.

                              Cảnh trí đẹp hết sức, Fa Si Phan sừng sững giữa trời, sông rừng thao thiết, nắng xế phương Tây, rải rác quanh vùng đồi chập trùng bóng nhà nghỉ mát nhà Kinh trồng tỉa rau cải tốt tươi. Cha Pa khí hậu tốt vẫn là nơi sản xuất các hạt giống bán khắp đất Bắc.

                              Chợt đến một khu trang sầm uất, có tòa nhà khá nguy nga đồ sộ, sừng sững lưng đồi, dưới bãi cỏ, lùm cây, lo nhô đầy người ngựa, cờ quạt, tàn lọng, coi như đám hội.

                              Minh Thần dừng ngựa xa chút, chiếu ống dòm quan sát, lẩm bẩm:

                              - Có lẽ biệt thự Tổng đốc họ Hoàng kia rồi! Quái! Thiên hạ các nơi đổ xôvề tụ tập trước biệt thự làm gì đây? Coi bóng tàn lọng, có cả Bá Diện Ma Quân, Đổ Bác Thần đều có mặt. Mình phải lại coi xem sao!

                              Bèn sửa lại mặt nạ, râu ria, dấu kín cả súng cối, đóng vai một lão Thổ lững thững giục ngựa tới.

                              Đám đông tụ tập dưới chân đồi, chỗ này một bọn, chỗ kia một đám tụm năm tụm ba, chỉ trỏ, dòm cả lên tòa nhà đồ sộ, ngựa buộc rải rác dưới gốc cây, cũng chẳng ai buồn để ý tới. Minh Thần trong lốt hóa trang cả mừng, chàng trai cứ lóc cóc tiến thẳng tới, xuống ngựa dắt đi quanh một vòng quan sát. Mới hay mỗi bọn đều đứng riêng một chỗ, và hầu hết đều có ngựa thồ vật gì, trên lưng phủ gấm vóc thổ cẩm, hình như là đồ lễ vật thì phải. Nhìn qua, phần đông là khách phương xa tới, y phục lạ mắt.

                              Bọn thái giám Ả Rập đứng một chỗ, bọn "Tây cuốn thừng" một chỗ, lại có mấy bọn lạ nữa. Tầu, Mán, Kinh lố nhố, trông qua sắc phục, cử chỉ, cũng đoán sơ được bọn này toàn giới quan chức tùy tòng cho các nhân vật quyền uy các xứ cõi ngoài tới. Cũng có kẻ đứng riêng rẽ một hai người, tuy đông, nhưng hầu hết đều nói nhỏ chừng như không dám khuấy động bầu không khí yên tĩnh quanh khu trang trại.

                              Minh Thần dắt ngựa đi qua, quả nhiên đã thấy có kiệu của lão Thần Đổ Bác đặt dưới tàn cây còn thủ hạ lão chiếm một khoảng đất khá rộng, mở sòng, cờ quạt tàn lọng bao quanh, đám đông chờ đợi buồn bã có lắm tay máu mê sà vào chiếu bạc. Xế gần đấy lại có đám nhân mã của Bá Diện dàn oai vệ, nhưng chẳng thấy bóng tàn tía cáng gấm của Ma Quân trăm giọng đâu.

                              Minh Thần bèn nhìn lên đồi, lại thấy bóng người ngựa, tàn tán lố nhố, nhưng không đông mấy. Đám này đứng tụ cả ngoài cổng biệt thự, một cái cổng xây khá lớn, hai tầng hoa Tigôn mọc đầy.

                              - À có lẽ bọn trưởng đoàn, bọn chủ trên kia, để thủ hạ lễ vật dưới này.

                              Minh Thần bèn cho ngựa lên đồi, nhằm phía cổng tiến tơi. Bỗng nghe tiếng quát giật:

                              - Này lão Thổ kia đi đâu? Võ nhìn lại, thấy ba, bốn gã hùng hổ từ phía cổng xây xốc tới, nhìn chàng như muốn gây sự Trong bọn có cả gã dữ tợn gặp dưới Lai Châu.

                              Gã này đi cạnh một gã trung niên, coi biết ngay tay tướng Thổ phỉ biên giới. Ngó quanh thấy họ đều xuống ngựa cả, Võ cũng xuống ngựa bảo:

                              - Mỗ lão lên biệt thự!

                              - Làm gì? Hay cũng yết kiến "ngài"? Chẳng biết "ngài" là cái quái chi, Võ cũng đáp càn:

                              - Chính thế! Gã dữ lừ đừ:

                              - Thầy à! Nên nhớ nhà nị đến sau à, hàng thứ mười, không được lộn xộn tới cổng à! Chỗ của bọn ngộ à!

                              Minh Thần biết y tranh chỗ, gật bảo:

                              - Được! Nhường các vị cứ yết kiến ngài đi, còn thừa đến ngộ à! Bọn này yên trí, mới chịu quay vào. Minh Thần lững thững men lại gần cổng, quả nhiên bọn cầm đầu đứng đợi cả ngoài cánh cổng sắt, có cả cáng Bá Diện Ma Quân nữa. Cả lũ dòm nhau muốn nảy lửa, nhưng không ai gây sự, chừng muốn đợi yết kiến "ngài". Trong cổng có lính gác, qua sân, tia mắt nhìn vào tòa nhà, thấy vắng lặng hết sức.

                              Chợt nghe trong cáng có tiếng Bá Diện hỏi vọng vào:

                              - Chú quyền! "Ngài" sắp dậy chưa?

                              Có lẽ chưa khi nào Võ nghe Ma Quân hỏi êm đến thế, tuy tiếng vẫn chói tai. Chú lính gác nhăn mặt, bịt vội tai, kêu:

                              - Ôi chao! Điếc mất! Ai biết "ngài" đâu, nghe nói "ngài" có khi ngủ hai, ba ngày mà!

                              Võ Minh Thần đứng gần cổng nghe tỏ lời Bá Diện Ma Quân, càng thêm sửng sốt, bất giác đưa mắt dòm quanh, nghĩ thầm:

                              - Ma Quân trăm mặt xưa nay vẫn coi thiên hạ bằng nửa con mắt, đi đâu cũng có đủ tàn vàng tán tía, tiếm dụng nghi vệ thien tử, bất chấp cả Nhà nước, nay sao lại chịu khó đứng chầu chực ngoài cổng biệt thự viên Tổng Đốc họ Hoàng này, nói với lính gác cũng đầy vẻ khiêm tốn... lạ dữ à! Nhân vật "ngài" kia là ai mà Bá Diện Bá Âm, lãnh sự Ả Rập, đại vương thổ phỉ, v. v... toàn hạng "gớm" cả đều tỏ vẻ kính trọng quá lẽ thế? Tưởng toàn quyền, Thống sứ, vua chúa cũng chẳng khiến họ chầu chực lễ phép vậy?

                              Càng nghĩ chàng trai càng bị óc tò mò kích thích cực độ, bèn dắt ngựa tiến lại gần khu cổng sắt, nghển cổ dòm vào trong. Qua lối sải vườn hoa khá rộng bên trong tòa biệt thự hai tầng vẫn thấy im lặng như tờ, không một tiếng động, chẳng khác gì nhà hoang. Lâu lắm mới thấy có bóng một người mặc quan áo trắng từ dưới nhà ngang bưng khay trà lên căn nhà chính giữa.

                              - Hầy à! "Ngài" đã dậy rồi! Bồi bếp đem nước lên...

                              - Ngài "nhậm xà" với quan Tổng đốc à? Thiên hạ chen lấn nhau, rút cả viễn kính dòm vào, có mấy kẻ nhảy vọt lên tàng cây ngoài cổng nhìn cho rõ, chỉ nhác qua thân pháp cũng biết toàn tay có hạng trong giang hồ. Minh Thần chợt để ý thấy một người Tầu trạc bốn mươi nhăm, râu dài, thưa, mặc áo xường xám đứng tựa trụ cong đợi không nói nửa lời, vẻ kiên nhẫn hết sức, và cũng không rời trụ cổng chừng sợ thiên hạ chiếm mất chỗ. Chàng trai bèn lại gần y, cúi đầu chào hỏi nhỏ:

                              - Sếnh sáng cũng đợi "ngài"?

                              Người Tầu lạnh lùng:

                              - Không đợi đứng đây làm gì? Minh Thần nhe răng cười thì thào:

                              - Sao sếnh sáng không kiếm cách... vào ngõ hậu hơn không? Người Tầu nhìn Minh Thần, cười nhạt:

                              - Lũ đầu ngốc! Ngộ khôn, tụi kia dại? Hầy! Cả lũ lén vào cửa hậu, để đánh nhau dành chỗ, làm ồn kinh động đến tai "ngài"? Hầy! Muốn chọc giận "ngài"?

                              Minh Thần chưa kịp nói thêm, bỗng có hai, ba bàn tay níu áo chàng lôi giật ra, hét:

                              - Đến sau định dành chỗ trước?

                              Minh Thần ngoảnh trông lại, thấy ba bốn đám gườm gườm mắt nhìn chàng như chực gây sự. Chàng vội xua tay dùng tiếng Thổ, Tầu nói luôn:

                              - Không! Không! Lão đâu có chực yết kiến mà dành chỗ? Lão đi qua, thấy đông, lên coi chơi mà!

                              - À! Vậy được! Tiền đáo tiền nhập, Bá Diện Đông Âm còn vào hàng thứ ba.

                              Minh Thần dắt ngựa ra đứng tít ngoài, đưa mắt nhìn cỗ cáng Đông Âm. Cáng bất động, quanh cáng có một đám gái hầu đang đứng vây tứ phía, đội khá nhiều lễ vật, nhất là các vò rượu lớn ngoài có dán giấy hồng điều đề tửu loại. Các đám khác cũng đều có tòng nhân mang lễ vật, nhưng phần nhiều đều là rượu, còn các món khác còn trên lưng ngựa túc trực dưới chân đồi.

                              Chừng mười lăm phút sau, bỗng nghe tiếng trong cáng Đông Âm Bá Diện phát ra:

                              - Này các ngươi! Chắc ngài uống xong tuần trà rồi, ta xin vào yết kiến, các ngươi nghĩ sao?

                              Chúng nhân nhất loạt tán đồng:

                              - Bá Âm tiếng tốt giọng hay, thay mặt lên tiếng đi! Trời chiều rồi! Trong cáng có tiếng vọng vào cổng vừa đủ nghe, giọng đàn bà thỏ thẻ:

                              - Chú quyền! Vào trình "ngài", có khách thập phương yết kiến dâng lễ vật!

                              Chú lính gác đứng trong lắc đầu:

                              - Việc đó đâu phải của lính gác! Quan tổng đốc đã truyền. Vút vút, từ trong cáng gầm chợt bay ra mấy lá vàng rực lướt qua kẽ song sắt đậu lơ lửng trước mặt chú lính. Hai lá vàng chỉ hơi chao động, nguyên hai lạng vàng lá.

                              - Đãi chú đó! Chú lính trợn mắt dòm, vừa kinh dị thấy hai lá vàng đặc lơ lửng trước mặt như ma xó cầm, lạ vì lóa mắt vì màu vàng sáng chói ánh mặt trời, chú lính thò luôn tay nhón bỏ vào túi, cầm dùi gõ kiểng liền. Đốc gác chạy ra, chú lính rút lá vàng toan đưa cho y, bỗng lại có hai lá nữa bay vào túi "sơ mi" đốc gác. Chú lính thì thào, đốc gác nhe răng, chạy vụt vào trong.

                              Nửa phút sau, đã thấy y chạy ra, nói vọng:

                              - "Ngài" đang uống trà với quan Tổng đốc! "Ngài" bảo trưa mai ngài mới rảnh. Chúng nhân xôn xao, một kẻ hô "Ta cứ vào đi", kẻ khác quát nhỏ "Chớ vào! Vào ngài không tiếp cũng vô ích".

                              Đốc gác rút luôn vào, như sợ bị đòi lại mấy lá vàng đút.

                              Bỗng trong cáng có tiếng Bá Âm cất lên, vang vong khắp bằng hàng trăm thứ giọng:

                              - Bá Diện Đông Âm thay mặt khách tứ xứ xin đạo đạt lên bậc hiền triết đại danh gia bác vật học thông kim bác cổ lời thỉnh cầu khẩn thiết xin được cung kính dâng lễ mọn ra mắt danh gia bác vật học giang hồ, tỏ lòng ngưỡng mộ!

                              Minh Thần nghe tiếng Đông Âm chói chang tấu lên, nghe hết sức trịnh trọng, lại đầy vẻ văn hoa, khác hẳn giọng Ma Quân thường dùng, khiến chàng không khỏi buồn cười, cho là lạ đời hết sức. Nhưng bên trong vẫn im lặng như tờ. Đông Âm lại nói lớn:

                              - Khách tứ xứ ngàn dặm đến phương Nam lòng thành ao ước được diện kiến bậc danh gia bác vật, cầu sương điếm cỏ, nghĩa khí dậy giang hồ, mới tìm được nơi danh giá ngự mắt, tấm lòng kính mộ tưởng động đến thiên cung, dám xin bậc bác vật học thông kim khác cổ quán thế giang hồ mở lòng thu nhận lễ vật cho khách tứ xứ được vào yết kiến.

                              Im ngót phút, bỗng từ trong trang có tiếng vọng ra, âm trầm kỳ dị, nghe như đứng ngay trong cổng nói ra:

                              - Ôi chao! Lũ điên khùng nào lại kéo đến đây nói lảm nhảm thế này? Đem lễ vật tới làm gì? Làm gì có nhà chứa lễ vật? Ôi chao! Đem lễ vật tới, tất có đieu cầu, ta còn có gì giúp nổi chúng nhân? Lầm nữa rồi!

                              Đông Âm nói vọng:

                              - Lòng thành ước thấy mặt danh gia là mãn nguyện rồi, xin bậc bác vật học mở lòng thâu nạp, nếu không, chúng nhân xin cắm trại ngoài này, đợi hết tuần trăng mùa hạ cũng đợi.

                              Lại nghe tiếng than:

                              - Ôi! Nghe tiếng đúng "con ma trăm giọng rồi"! Bá Diện nhà ngươi lại cầm đầu cho lũ giặc ám ta. Bận! Nói thực ta có hẹn lên núi đánh cờ, trưa mai mới gặp mặt các ngươi được.

                              Chúng nhân nhao nhao, lão có hiệu Đại Thái Giám Ả Rập vùng nói lớn:

                              - Xin "ngài bác học đại đức đại tài thông minh quán thế Đông Tây kim cổ vô song", mở lượng dung nạp! Kẻ thái giám già yếu này vâng mệnh Hoàng đế Ả Rập Séoud tận miền Hồng Hải La Mecque vượt đại dương sang tận phương Nam này, cả sáu tháng trường trôi nổi lang thang tìm kiếm mới tới được cổng dinh thự mùa hè này, dám xin "ngài" thương tưởng lễ vật này, nếu chẳng được thâu nhận, chẳng những đầu kẻ già này bị chặt mà cả nhà cũng mắc tội lây.

                              Lão vừa dứt lại đến lão trưởng đoàn tựa "Tây cuốn thừng" nghển cổ nói vọng luôn:

                              - Lãnh sự Ai Cập này vâng mệnh Hoàng đế Farouk vượt biển tới dâng lễ ra mắt lên "ngài", nếu không được gặp chắc toàn gia phải tội, thê nhi, tôn tử chẳng còn được bái Allah mỗi chiều...

                              Cứ thế, mỗi đám thi nhau lên tiếng so phần khẩn thiết, khiến Minh Thần đứng nghe chẳng hiểu bọn họ xin vào yết kiến co chi khẩn thiết. Cứ nghe cách xưng hô, xem ra "ngài" kia cũng chẳng phải Toàn quyền, thống sứ...

                              Sực nghe trong trang có tiếng vọng ra không già, cũng chẳng trẻ:

                              - Ôi thôi! Các người hại tên sống vô gia cư, tử vô địa táng, ăn cơm đầu ghế, uống nước sông, ngủ nhà thổ này rồi! Ta cũng chẳng ưa chi Hoàng Đế, Đại Vương, Lãnh chúa, Ma đầu bán quỷ bán ma, nửa người, nửa quái, nhưng thấy chết là ta tỉnh rồi, vậy ta gặp các ngươi, nhưng phải trưa mai! Giờ đi đi!

                              Chúng nhân nhao nhao, không chịu đi:

                              - Cứ đợi! Ngài ra là ta đón đường! Cả bọn đang bàn nhau, bỗng thấy trong trang khật khưỡng đi ra một bóng người. Y có vẻ say rượu, mặc áo dài trắng, quần trắng, đội mũ trang, nhầu nát, lối quần áo học trò đương thời, tay chống cái ô, vai đeo mấy bầu rượu lớn, coi lôi thôi lếch thếch, mặt mày lem luốc, trông còn trẻ hết sức.

                              Y đi thẳng ra cổng, chú lính gác hỏi:

                              - Cậu đi đâu đấy? Chàng áo trắng lè nhè:

                              - Đi mua rượu cho "ngài"! Mở cổng dùm!

                              Chú lính ra mở cửa. Chàng áo trắng xách ô lách ra ngoài. Chúng nhân xúm lại đón đường hỏi rối rít:

                              - Câu đi đâu đây?

                              - Mua rượu cho "ngài"! Nhà Tổng đốc hết rượu! Lập tức cả mấy đám nhao nhao:

                              - Khỏi mua! Đây có rượu ngon nhất thiên hạ! Cậu đem về "ngài" uống thử!

                              Nhiều người mở túi dí miệng hũ vào mũi chàng ta, chàng trai hít, chép miệng lè nhè:

                              - Ngon! Nhưng không lấy được! Ngài sai mua rượu!

                              - Thì cậu cứ cầm tạm mấy vò nói là mua vậy! Cậu biết uống không?

                              - Ôi! Hầu "ngài" lại không biết uống! Có mà điên! Ngày nào cũng uống trộm!

                              - Ngài sắp ra chưa? Này cậu, cầm lấy!

                              - Uống xong là đi!Cả đám chen nhau đưa rượu, lấy lòng chú tòng nhân, chú này không nhận, bọn kia dúi vào tay, chàng ta ngửi hơi thơm, đâm thèm, dòm từng đám, đỡ luôn mấy hũ. Chợt một bọn hai ba tên Tầu dữ tợn xách rượu xông vào dúi vào tay chàng áo trắng, bỗng một tên kêu "úy". Minh Thần đưa mắt dòm vào, bỗng ngạc nhiên nhận ra gã dữ tợn vừa kêu không ai khác chính là gã tướng Thổ phỉ đã gặp dưới Lai Châu, còn chàng áo trắng lè nhè chính người say rượu khùng dở đã bị y quất mấy roi.

                              Gã Thổ phỉ này trợn tròn mắt dòm chàng áo trắng lem luốc, chàng áo trắng mắt lim dim ngà ngà ôm mấy hũ rượu chợt ngó gã dữ tợn, lè nhè:

                              - À đã gặp chú râu xồm này dưới Lai Châu, quất mấy roi ngựa đau điếng người!

                              Dứt lời, cười hề hề, vọt đám đông, đi thẳng. Gã thổ phi chạy theo kêu, tay bứt râu lia lịa:

                              - Hầy à! Ngộ nóng làm càn, cậu tiểu đồng không giận ngộ!

                              - Bỏ qua! Bỏ qua! Để thì giờ uống rượu. Vừa nói, anh chàng vừa đi tuốt xuống đồi.

                              Đám đông vẫn chen chúc đứng ngoài cổng đợi. Minh Thần dòm theo nghĩ thầm:

                              - À anh chàng này là tòng nhân "ngài" kia! Khật khùng coi bộ cũng tay ma men.

                              "Ngài" kia là nhân vật nào, lại được thiên hạ nô nức keo tới xin gặp? Giờ họ tụ cả ngoài cổng, tại sao không lén vào biệt thự dòm mặt xem sao? Nghĩ làm liền, chàng trai bèn dắt ngựa xuống đồi, kiếm bụi kín buộc ngựa, đoạn đeo "sắc" lẫn về nẻo sau trang, thấy vắng, nhảy luon vào. Phía sau tòa nhà họ Hoàng cây cối um tùm, Võ không khó khăn mấy vượt vào tít trong, nháy mắt đã lần lên tầng trên, theo cầu thang xuống nhà dưới, thấy hai ba tên gia nhân, thị nữ đang hầu nước dưới phòng khách, chang bèn men, dòm xuống không khỏi ngạc nhiên thấy một người trạc ngũ tuần đang ngồi trên sập gụ uống trà, chừng chủ nhân biệt thự nghỉ mát, tổng đốc họ Hoàng, nhưng chẳng thấy nhân vật nào ngồi đối ẩm.

                              Dòm quanh vẫn chẳng thấy bóng nào khác, ngoài bọn gia nhân, trước mặt viên tổng đốc, chiếc ấm song ẩm Thế Đức, gan gà còn bốc khói, cỗ chén tròn quít bốn chiếc, hai chiếc còn úp nguyên thêm một chiếc đặt ngửa trong đĩa, chứng tỏ vừa có người đối ẩm với ông ta. Đoán nhân vật "ngài" kia có lẽ chạy đâu đây, Võ Minh Thần bèn lẩn đi khắp khu trang, cũng chẳng thấy ai khác. Càng lạ, chàng lần tới cầu thang dòm xuống phòng khách, chợt thấy viên Tổng đốc buông chén trà đứng dậy, bảo chú quản gia đứng ngoài thềm:

                              - Ta lên xem sách, nếu bọn ngoài kia có hỏi, bọn mi bảo "tiên sinh" hẹn trưa mai mới rảnh, mi liệu khuyên họ cứ ra Cha Pa nghỉ ngơi, khỏi phải mất công chầu chực!

                              - Dạ! Chú quản gia vào dọn bộ đồ trà, viên Tổng đốc lững thững lên thẳng cầu thang, Võ Minh Thần lật đật định rút lối hành lang trên, nhưng chợt đầu óc lóe tia sáng, nghĩ thầm:

                              - Tại sao mình không thừa cơ hội vắng vẻ hỏi thăm viên tổng đốc họ Hoàng kia xem nhân vật kia đâu và y là ai mà thiên hạ tứ xứ đổ xô tìm chầu chực xin yết kiến, biết đâu chẳng có điều hữu ích?

                              Nghĩ làm liền, Võ dùng luôn thuật ẩn thân nép một xó, đợi viên Tổng đốc đi qua, bèn theo sát sau lưng vào phòng riêng. Đợi ông ta khép cửa đâu đấy, chàng mới dịu dàng lên tiếng:

                              - Kính chào quan Tổng đốc! Ngài đừng ngại, lão chỉ muốn hỏi thăm ngài một hai điều... nhỏ nhặt thôi, chẳng có ác ý gì đâu!

                              Viên Tổng đốc giật mình ngoảnh trông lại, quát khẽ:

                              - Ai? Ai đó?

                              - Quan Tổng đốc chớ nói to, bọn Ma Quân Bá Diện kéo vào quấy rầy, làm náo động như chơi!

                              Viên Tổng đốc dòm quanh, lại một phen giật mình, thấy đám sương mờ tan dần hiện ra một lão Thổ mặt lạnh như xác chết. Nhưng vốn tay có đởm lược, ông ta chỉ kêu "ồ" rồi đứng im ngó sững. Minh Thần dịu dàng dùng tiếng Kinh nói luôn, sau khi nghiêng mình thi lễ:

                              - Lão làm rộn ngài một hai phút, mong ngài bỏ qua. Lão muốn hỏi vị thượng khách của ngài đâu?

                              Viên Tổng đốc có vẻ yên lòng, gật gù:

                              - À! Ông lão hỏi vị đó! Ông lão muốn gặp? Minh Thần thành thực lắc đầu:

                              - Thưa không! Lão chỉ tình cờ qua đây, thấy thiên hạ kéo tới chầu chực, đem lễ vật dâng xin yết kiến vị thượng khách đó nên lão lấy làm lạ đó thôi! Ngài có thể cho biết?

                              Viên Tổng đốc ngó đăm đăm, thoáng vẻ do dự, cười bảo:

                              - Nếu không cần gặp, ông lão hỏi chi cho tốn công? Vị khách này không thích ai biết ông ta! Không hiểu sao thiên hạ lại biết hành tung kéo tới đông thế?

                              Minh Thần lễ độ:

                              - Chính vì thế lão mới tò mò muốn biết! Nhân vật đó là ai mà hạng như Đông Âm Bá Diện cũng chịu khó chầu chực xin gặp! Tưởng Toàn quyền, Thống sứ cũng không làm y phải hạ mình cầu khẩn đến thế?

                              Viên Tổng đốc có vẻ có thiện cảm với lão Thổ mặt lạnh cổ quái, ông ta chợt cười hỏi Võ:

                              - Ông lão vừa giờ có gặp người áo trắng lôi thôi lếch thếch ra cổng chứ?

                              - Thưa có! Chú ta bảo đi mua rượu cho chủ! Chú ta xưng tiểu đồng, lúc nào cũng say nhè, khật khùng như điên! Chính lão đã gặp dưới Lai Châu. Viên tổng đốc chợt vuốt râu cười, mắt thoáng nét ranh mãnh:

                              - Gớm thật! Cả thiên hạ bị lừa! Tiểu đồng gì đâu! Cũng hơn hai mươi tuổirồi đó. Tiên sinh phóng dật, tính chỉ thích rượu thơ, chu du thiên hạ, bất chấp thế sự, có khi bị quân vô lại đánh đập cũng mặc! Kỳ quái!

                              Minh Thần ngơ ngác:

                              - À, chính lão đã thấy chú ta bị đánh. Nhưng chẳng hay vị chủ chú ta đâu? Nhân vật thượng khách của ngài?

                              Vị Tổng đốc dang tay như phân trần:

                              - "Ngài" nào nữa? Thì chính ông ta đó còn ai nữa? Minh Thần giật mình ngơ ngác:

                              - Ông ta... nhân vật thượng khách của ngài là người áo trắng say nhè đó?

                              Nhân vật thiên hạ ngoài kia đang chầu chực?

                              Gật đầu, viên Tổng đốc họ Hoàng cười tủm:

                              - Chính thế! Tiên sinh tính rất lạ, bữa nay còn đỡ say, ăn mặc chỉnh tề đó!

                              Minh Thần kêu "ồ" kinh ngạc hết sức, không thể nào ngờ nổi nhân vật được đám đông quái nhân khét tiếng như Đông Âm chầu chực xin yết kiến lại là chú say nhè khật khùng lem luốc từng bị gã Thổ phỉ quất cho mấy roi nên thân! Mãi mươi khắc, chàng mới lẩm bẩm:

                              - Thưa quan Tổng đốc, ngài không nói đùa chứ? Họ Hoàng mỉm cười:

                              - Ông lão ngạc nhiên? À có lẽ ai cũng thế! Vì tiên sinh không mấy khi chịu gặp mặt ai, trừ một vài bạn quen!

                              Minh Thần tư tốn:

                              - Thưa, chẳng hay quí tính phương danh tiên sinh là gì?

                              - Tên thực chẳng ai biết, người ta thường kêu Đông Tửu.

                              Hai tiếng "Đông Tửu" như nhát búa bổ vào đầu óc Minh Thần, làm chàng buột miệng kêu sửng sốt:

                              - Đông Tửu? À Đông Tửu Lưu Linh, dị nhân vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, nhân vật khét danh trong "Tứ hung tứ khoái" là Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc Yên, Nam Đổ, thiên hạ tôn Đế Tửu Lưu Linh, nổi tiếng thần đồng, thông kim bác cổ, lắm ngón tài hoa, biết nhiều bí pháp?

                              Minh Thần sực nhớ lại lời Thần Nữ Phù Dung đã có lần khuyên chàng đi tìm Đông Tửu, mới có hy vọng khám phá được những chữ tượng hình trong vòng càn khôn. Chàng bỗng tiếc ngẩn ngơ, vì khi gặp được nhà bác vật học cổ quái này, thì vòng càn khôn đã mất! Đứng lặng mươi khắc, Minh Thần chợt nhớ chuyện ngày nào, đầu óc lóe tia hy vọng.

                              - À! Tuy vòng đã mất, nhưng trước ta có để Bạc Khao Lan, Nam Khấp, Tây Gầm chep chữ ruột vòng, Khao Lan chẳng may oan thác về tay Tây Sắc, chắc thân phụ nàng còn giữ, nếu gặp được có thể mượn ít ngày! À, bọn Đông Âm, Ả Rập, Trung Đông lần tới chầu chực có lẽ cũng để nhờ Đông Tửu về trí thông minh quán thế của ông ta đây! Nay Đông Tửu đã đánh lừa chúng nhân đi khỏi, chắc cũng chưa xa, mình cứ lẻn theo xem sao?

                              Nghĩ đoạn, bèn nghiêng mình chào cám ơn viên Tổng đốc, và mở cửa quăng mình ra ngả sau biệt thự lấy ngựa rượt theo người áo trắng. Vòng lại mặt tiền vẫn thấy bọn Đông Âm đứng chực ngoài cổng, sòng bạc Nam Đổ vẫn còn xóc rền, chàng trai bèn lại gần một gã giữ ngựa khẽ hỏi:

                              - Bác đứng đây, có thấy người áo trắng đeo bình rượu đi ngả nào? Gã mã phu đáp cộc lốc hai tiếng "lối kia". Minh Thần theo tay trỏ, chạy luôn về hướng Cha Pa. Được một quãng vẫn chẳng thấy bóng áo trắng đâu, tới chỗ có hai ba đường quanh co ngang dọc, chàng đã toan đi thẳng hướng Cha

                              Pa, chợt gặp một chú Thổ gánh củi trong rừng ra bèn đón lại hỏi, chú trỏ ngược vào rừng:

                              - Có một cái ông say rượu vừa đi vừa hát mà! Cái ông áo trắng cho tôi uống một bát!

                              Cả mừng Võ giục ngựa đi miết cánh rừng thưa, quả nhiên đã thấy bóng gã áo trắng khật khùng đi đằng trước. Võ cứ lững thững đi sau, gã áo trắng vừa đi vừa uống rượu, ngâm vang, giọng sặc hơi men:

                              - Ha ha... cách tận bách bôi tửu, dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu... Tiếng y âm vang trong rừng chiều, giọng say cảm khải bất cần thế sự. Xuyên ngang rẽ dọc, cứ thế y đi về hướng ngọn Tây Phàn cao nhất Đông Dương, tới chân núi, bỗng y mất hút. Cảnh hoang sơn tĩnh mịch, chỉ có tiếng gà rừng eo óc buồn tênh. Võ sục quanh, chẳng thấy y đâu, dòm lên, trùng trùng từng đợt nhấp nhô. Bỗng thoáng thấy có cái bóng trắng tít sườn núi cao, Minh Thần vội lấy ống dòm ra coi, thì ra chính y.

                              - Chà! Gớm thật, y đã lẻn dùng khinh công lên tít trên cao rồi! Trời chiều y còn lên hoang sơn này làm gì? Nổi trí tò mò, Minh Thần bèn đi vòng kiếm ngả lên núi. Quanh co giây lát, tìm ngay được lối đá gập ghềnh, chàng cứ thế lên mãi.

                              Lối đá quanh co khúc khuỷu áng chừng là lối các du khách thỉnh thoảng vẫn đi lên núi ngắm cảnh, vì rặng Tây Phàn trùng điệp rất lắm chỗ đẹp, dãy này lại gần Cha Pa nhưng hình như mùa nghỉ mát mới chớm chưa có người lên, cỏ mọc đầy kẽ đá. Ngựa đi rat khó. Võ bèn kiếm một cái hốc dấu ngựa, đoạn dùng thuật khinh thân, vượt lên. Thỉnh thoảng lại chiếu ống dòm quan sát, vẫn thấy bóng trắng đèo rượu, ẩn hiện tít trên như ma trơi.

                              Bỗng hết đường. Núi vẫn từng đợt trập trùng, cao tít, bóng trắng vẫn chập chờn làm Võ càng lấy làm lạ, chẳng hiểu y mò lên tít cao làm chi, xem chừng y định lên tận ngọn Tây Phàn ngửi trời, xưa nay ít nghe nói có ai lên tới ngọn. Minh Thần bèn vận sức nhẹ vượt lên nữa. Sức vượt đã mau, nhưng núi gập ghềnh hiểm trở, khó vượt. Võ lên được hai phần ba, thì mặt trời đã gục xuống rặng núi Tây, trên không, trăng thượng tuần vằng vặc.

                              Sương đêm, khí đá bốc mây mờ chăng triền dưới, triền trên, ngọn Tây Phàn bị mây mờ che phủ dần, khí lạnh bắt đầu tiết khắp triền đá. Minh Thần dừng chân lấy áo ấm mặc vào, nhân tiện mặc luôn áo giáp, vẫn thấy lạnh, phải vận sức nóng lên cho ấm.

                              Cuối cùng, Võ tới gần khu đỉnh, trông xuống vực thẳm sâu hút tít xa xa, ánh đèn thị trấn Cha Pa le lói trong sương như đốm ma chơi vẫn chưa thấy bóng trắng đâu cả. Nhưng dưới trăng, cảnh trí thần tiên kỳ ảo, hoa cỏ tàn cây tươi tốt gay cảm giác là lạ như lạc tới đỉnh Thiên Thai cách biệt bụi trần.

                              Võ nhìn quanh nghĩ thầm:

                              - Cứ theo lời Chúa soái Thập Vạn Đại Sơn, trước rặng Tây Phàn này vẫn có quân lạc thảo chiếm cứ, sau bị tan chẳng hiểu giờ có ai ẩn náu không? Đông Tửu mò lên chắc có chuyện chi đây, nếu y chỉ lên chơi chắc phải có người? Ta cứ thử lần quanh xem sao?

                              Bèn nương bóng cây cỏ hoa lá đi quanh khu triền đỉnh. Triền đỉnh rất rộng, ngọn nhấp nhô, đầy lòng chảo, có chỗ khá bằng phẳng. Mải lần quanh, ra sau núi lúc nào không biết.

                              Bỗng nghe có tiếng ai gọi lớn:

                              - Này ma cái Tây Phàn đâu, không ra đón khách? Ôi chao! Ta mất công đeo rượu lên kiếm tinh cái phục thù, sao mãi chẳng thấy tình nương ra tiếp? Muốn ta phun rượu vào hang động ư? Tình nương, tình nương!

                              Minh Thần theo hướng phát âm, rón rén lần tới, thấy một bóng trắng ngồi lù lù trên một tấm thạch bàn, tay đang vít cây hoa dại ngửi. Không ai khác gã say nhè.

                              Hình như lúc này gã đã lau qua mặt ám sương đêm, mồ hôi, nên cũng đỡ lem luốc, dưới trăng hiện ra một gã tuổi trẻ mi thanh mục tú, cốt cách phiêu phiêu phóng dật, trong bộ quần áo dài trắng, hai con mắt sáng như sao coi khác hẳn hoi chiều. Tuy vậy, vẻ say nhè khật khùng vẫn còn nguyên, gã ngồi xếp chân bằng tròn trên phiến đá, đang ôm vò rượu ngửa cổ tu ừng ực.

                              Võ Minh Thần nấp cánh độ ba mươi bộ, thấy bên để bốn, năm vò hồi chiều bọn khách tứ xứ dúi tay gã vì tưởng gã là tiểu đồng của "ngài bác vật học thông thiên quán địa".

                              Chợt gã đặt bầu rượu xuống, cúi dòm mấy vò rượu bên mình cười khà:

                              - Tụi này lạ thật! Không quen không thuộc từ mãi xó nào mo đến biếu! Khùng! À mà cũng chẳng phải khùng, tự nhiên đâu có mất của không! Chắc lại định nhờ việc chi đây? A, có cả rượu Ả Rập, Trung Đông, A Phú Hãn này. Uống thử món Ả Rập xem sao?

                              Minh Thần thấy gã thò tay búng một cái. Tay gã vẫn cách miệng vò độ vài gang chợt nghe "rắc" tiếng dòn si vỡ, sành thủng chi đó rồi từ vò rượu đặt ngoài cùng bỗng bắn vọt lên một tia rượu vàng, gã hếch luôn mũi đón lấy vòi rượu, cứ thế vòi rươu tuôn thốc vào lỗ mũi. Tuyệt chẳng thấy rớt ra ngoài một giọt, cũng chẳng nghe tiếng hít hà chi cả.

                              Minh Thần nấp coi, bất giác giật mình thầm nghĩ:

                              - Chà! Uống rượu bằng mũi, đúng là tay vua rượu, trùng rượu! Dùng một lượt cả vị giác lẫn khứu giác, lại dùng mũi hít rượu cách không, tay này quả tay nội ngoại công thượng hạng! Nghe Thần Nữ nói Đông Tửu có lắm ngoại tà dị thuật, biết nhiều bí kíp, nhưng không bao giờ chịu thi thố, trong đó có môn "Tửu Ma Công" hết sức lợi hại! Thế mà dưới Lai Châu, y bị người ta đánh đập nhục nhã, vẫn như một tên vô vị nhất đời, người này nếu không mắc bệnh kỳ, tất phải hạng dị nhân đại độ, đã vượt qua được lục dục thất tình!

                              Nghĩ loanh quanh trong lòng, Võ bỗng sinh cảm mến lạ thường. Bỗng nghe gã kêu lớn:

                              - Ôi chao! Ngon thơm điếc mũi, uống không biết chán. Được lắm! Được lắm! Nhưng cái bọn Ả Rập Hồng Hải này dở hết sức, đem rượu Tây pha vào rượu Ả Rập, hà hà, thì cứ để nguyên rượu Tây cho xong! Rượu Tây, Ả Rập, hà hà!

                              Gã bỏ luôn vò rượu đưa lên mũi uống một mạch, mới hạ xuống khen "ngon", quẳng đại vò rượu ra xa.

                              Minh Thần nấp sau bụi bỗng thấy vò rượu bay vút tới, rớt ụp xuong đầu, tiện tay chàng đỡ nhẹ lấy. Mùi rượu xông ngào ngạt, chàng trai vừa toan đặt xuống kẹt đá bỗng để ý ánh trăng chiếu vào hũ rượu, trên mặt sành hiện rõ hàng chữ Hán thảo như đục sâu xuống, nét bay bướm như rong bay, phượng múa:

                              "Dữ nhĩ đồng tiên vạn cổ sầu"

                              Đây là câu cuối trong bài "Tương tiến tửu" của Lý Bạch thi bá đời Đường, Minh Thần ngó qua, đưa mắt nhìn gã say, chẳng hiểu y cao hứng vạch chơi hay có ý ngầm gửi mình. Nhưng thủ pháp thật tài tình, chẳng hiểu y thảo lúc nào, có lẽ là lúc y ngửa cổ tu.

                              Minh Thần cũng thử nâng vò lên uống một ngụm, bỗng nghe có tiếng ai quát lanh lảnh:

                              - Phải Túy tiên sinh Đông Tửu đó không? Ôi chao đến chơi gì muộn thế?

                              Giờ ta bận khách rồi, không tiếp nhà ngươi được! Để mai! Để mai!

                              Gã áo trắng ngẩng đầu cười lớn:

                              - A! Chủ động Tây Phàn đấy ư? Ta lặn lội trèo núi vượt khe đem rượu đến đây, quyết phục thù đêm nay, bận khách gì cũng bỏ đấy! Khách nào?

                              Tiếng lảnh kéo dài trên triền gió:

                              - Khách nào đâu? Khỉ độc cầu hôn! Ta đang bực muốn chết đây!

                              - Ha ha! Lại có chuyện vui nào thế? Chợt có tiếng vút gió xé trước, rồi từ trên tan cây kẽ đá, trôi vụt xuống khu lòng triền một làn sương mù dày đặc. Khu triền này tuy đá mỏm nhấp nhô nhưng khá phẳng, làn sương mờ quay xoe xoe như trái cầu rồi bắn vọt lên tấm thạch bàn Đông Tửu ngồi, dừng lại. Ngay khi đó, từ nẻo triền dưới có tiếng cười thé nhọn hoắt bay lên theo gió:

                              - Nương tử mỹ nhân của Hầu đâu? Hầu đem đồ sính lễ tới đây, chưa thấy mỹ nhân? Liệu Hầu có phải phá vỡ trận đồ này không? Hay mỹ nhân biệt nhãn đón riêng Hầu?

                              - Khỉ độc đa ngôn! Cứ lên đã có riêng nương tử đón! Từ trong làn sương có tiếng quát vọng, lập tức từ nẻo sau ngọn đỉnh, có nhiều tiếng quát vút gió ào ào bay tới. Minh Thần nấp nhìn thấy năm sáu cành cây, gốc cây bay vụt tới, có gốc rễ còn bám cả đất đá, quật xuống triền, mỏm đá, có gốc bay thốc tận chỗ chàng nấp, mạnh hết sức, khiến chàng phải tránh dạt.

                              - Giang tả cầu hôn... Vậy ta đem rượu... tới, càng hợp thời!

                              - Im! Lưu Linh ngốc tử! Ta phải đuổi nó xuống núi mới tiếp ngươi được. Coi kìa! Nó tới kìa! Con khỉ độc! Nhà ngươi nên lánh mặt đi. Nó thấy, nhà ngươi không ngồi yên uống rượu được đâu!

                              - Ha ha! Khỉ Độc Ma Hầu bên núi Pou Nam Sao miền biên giới Việt- Lào. A! Nương tử đẹp duyên cùng khỉ chúa coi cũng xứng đôi vừa lứa đó!

                              - Im! Ngốc tử! Đã biết nó mà ngươi còn cười sao? Lánh đi! Nó tới! Tiếng lảnh chìm hẳn, bay vút theo gió cao sơn. Xoảng, gã áo trắng ôm mớ vò, bầu, nhảy vọt vào khe núi mất dạng. Chỗ y vừa ngồi gần ngọn núi, chỗ Minh Thần ẩn xế bên hữu. Chàng vừa ngó theo bóng trắng bỗng nghe tiếng cành lá lay động rào rào, suốt một dải triền xế trước mặt chàng cây cối dập dồn rạp ngã như gió tạt, tới cách năm bảy chục bộ chợt im phăng phắc. Nhờ mắt tinh, lúc có trăng sáng vằng vặc, Minh Thần trông thấy nhiều bóng con nít đen đen, trăng trắng, xam xám ẩn vào các tàn cây.

                              - Vượn! Chà! Vượn đâu lam thế? Ngọn Tây Phàn này là hang ổ vượn chắc? Mớ cành gốc rườm rà vừa quật xuống triền tung đá vụn rào rào, bỗng từ sau núi quăng vọt ra tới hai mươi bóng con nít mặc quần áo xanh đỏ lòe loẹt, đứng dàn hàng một bên triền. Dưới trăng hiện ra một bầy khỉ lớn, khỉ nhỏ y phục chỉnh tề, một lũ mặc áo thụng xanh thắt lưng điều, một lũ áo đỏ, khăn điều, thắt lưng điều, đầu đội quả sơn son, phủ lụa điều coi giống hệt một đám người đi "nạp thái". Thân pháp đàn khỉ này nhẹ nhàng hết sức, quả son đội đầu không cần tay đỡ vẫn chắc như thường, không thua gì các cô gái quê Kinh đội thúng đi chợ đường trơn vậy.

                              Đàn khỉ vừa dàn hàng xong, lập tức từ phía sau núi có một khối khói xám đục bắn vọt qua đầu đàn khỉ, đậu lơ lửng trên đầu một con khỉ độc vừa tách hàng tiến lên hai, ba bộ.

                              Trong đám khói mù có tiếng cười the thé vọng ra:

                              - Nương tử! Cám ơn! Hầu cám ơn mỹ nhân không bày trận đón Hầu! Đêm nay giờ tốt, Hầu đến nạp đồ cưới, mỹ nhân nhận, Hầu đón về Pou Nam Sao!

                              Lời vừa dứt, khói xám cũng tan, dưới trăng hiện ra một con khỉ độc to lớn như người, lông lá đen sì, khoác một chiếc áo rộng đỏ chót như máu, lòa xòa, coi mười phần quái dị. Mãi khi đó, Minh Thần mới hay con khỉ quái này ngồi trên một cái ghế bành tay ngai đặt trên đầu con khỉ ở dưới.

                              Sực nghe tiếng lảnh từ vầng sương trắng hắt ra:

                              - Nương tử không bao giờ sai hẹn!Ngó mặt mũi ngươi, nương tử ngủ không yên, ghét ngươi hơn cẩu quẩy, nhưng nương tử đã hẹn tỷ võ chiêu phu, nương tử y hẹn! Đồ sính lễ để đó, nương tử thua sẽ nhận, còn ngươi thua thì phải đi mau cho khuất, không được làm rộn nữa.

                              Lời dứt sương mù tan loãng, trên thạch bàn hiện ra một vượn trắng to lớn như người! Bạch vượn tuy vẫn còn vỏ khỉ đột nhưng khí thế mười phần oai vệ.

                              Minh Thần không khỏi ngạc nhiên trước cảnh khỉ đực đem đồ sính lễ hỏi vượn cái trên ngọn Tây Phàn, cả hai đều biết nói tiếng người. Võ bèn định thần chú mục nhìn kỹ hình thù con vượn cái trắng mới hay bộ lông trắng như tuyết chỉ là bộ quần áo chẽn may bằng da, cả mũ đội đầu cũng vậy. Dưới mũ la khuôn mặt nữ nhân đẹp man dại khác thường, mắt xếch, môi cong, má hồng, da trắng, đặc biệt là cặp mắt xanh biếc sáng như sao, trông tinh nhanh lạ.

                              Chân nữ lang cũng đi giày da vượn, áo mặc vẫn để lộ hai bàn tay tháp but rất xinh.

                              - Chắc nữ nhân này sống với loài vượn từ lâu nên mặt mũi đượm vẻ hoang dại khác người? Xem vậy, nàng là động chủ Tây Phàn đây, sắp tử chiến với khỉ đột. Sao Đông Tửu lại mò lên đòi "phục thù", có chuyện gì chăng?

                              Bèn chăm chú dòm khỉ đột áo đỏ, mới hay con quái này hình như cũng không phải là khỉ mà là một quái nhân mang lốt da khỉ, lông lá xồm xoàm và cái mặt y coi như mặt khỉ, nhăn nhó choắt cheo, râu ria tua tủa cũng giống lông khỉ. Nhìn quái nhân này thật khó đoán y là người giống khỉ, hay khỉ hóa ra người!

                              Bỗng nghe nữ lang vượn trắng quát:

                              - Độc Ma Hầu! Tất cả lùi năm bước! Nương tử mở trận!

                              Người khỉ có danh Độc Ma Hầu phất một cái, cả đàn đã lùi năm bước.

                              Nữ lang vượn trắng dậm mạnh chân lên tấm thạch bàn.

                              Đùng một tiếng như ống lệnh nổ, bỗng triền núi trước mặt chuyển động, từ dưới đâm vù lên hàng trăm ngọn giáo chổng ngược nhọn hoắt. Nữ lang quơ một viên đá ném chát xuống chân giáo, tóe lửa, chừng chân giáo kẽ đá đều có đồ dẫn hỏa, lửa cháy bùng, gió tạt, con rồng lửa liếm quanh, nháy mắt khu lòng chảo bàn chông đã thành biển lửa tròn xoe, đường kính rộng hơn mười thước tây.

                              Lửa cháy ngụt, che gần hết mũi giáo đỏ rực hòa với lửa như biến nhòa hẳn. Độc Ma Hầu cười sằng sặc:

                              - Bạch Viên Nương! Tỷ võ chiêu phu gì mà dữ thế? Hầu với mỹ nương đấu sơ trên mặt đá không được sao? Hầu sợ phóng hỏa chân vợ Hầu!

                              - Khỉ độc đa ngôn, lên mau! Nữ lang vượn trắng theo tiếng quát bắn vọt mình lên giàn lửa giáo, Độc Ma Hầu vọt lên theo. Cả hai tay khinh công tuyệt vời, vừa đánh vừa vận khí hàn băng lướt trên các mũi giáo, coi không khác đi trên ngọn lửa vậy. Chỉ mươi khắc, chỉ còn hai bóng trắng, đỏ xẹt lại như sao sa giữa những tiếng trảo chỉ chưởng kình xé gió ép không khí như sấm nổ. Minh Thần đứng ngoài, xem cuộc đấu chiến dữ dội, nhưng xem chừng tài lực tương đương, coi vẻ muốn kéo dài bất tận. Bất thần nghe tiếng Độc Ma Hầu hét lên. Võ nhìn vào thấy bóng trắng vừa chuyển động sang phía đàn khỉ đứng, con khỉ độc ghé mắt vụt láo liên thò tay điểm nhẹ một cái. Phản ứng lẹ như chớp, Minh Thần vừa thấy mắt nó long lên, đã búng vèo sang một viên sỏi, trúng luôn bàn tay con khỉ rũ liệt ngay. Con quái kêu "chóc" lảo đảo suýt ngã, nó giương mắt dòm lên giàn hỏa tưởng bị Bạch Viên Nương đánh. Ngay khi đó, bóng trắng bóng đỏ vừa xẹt đổi chỗ. Bóng trắng đánh ra một ngọn phản phong đúng lúc xoay lưng vào núi, bóng đỏ bắn rạp theo trôi trên ngọn lửa năm sáu bộ, lửa liếm quanh mình như trái cầu, rồi ngã lộn nhào xuống triền đá. Bóng trắng nhảy vọt theo, bóng đỏ lăn mấy vòng, đã tung mình dậy, bị bóng trắng quơ rút một ngọn giáo chĩa dí vào ngực, quát:

                              - Đem sính lễ về! Biết điều thì đừng làm càn, ba năm sau tới hỏi nữa! Độc Ma Hầu mắt bốc cháy, hét:

                              - Giỏi! Giỏi! Sức mạnh gấp đôi, có đứa nào ám trợ! Ba năm, ba thế kỷ, Hầu vẫn đợi không thôi! Về!

                              Dứt lời y xẹt ngang mấy bộ, nhảy vụt qua dàn lửa, lao thốc vào ngọn núi, đàn khỉ ùa theo. Đùng, đùng, đung! Một tràng tiếng nổ lớn như tạc đạn pháo, lửa cháy lập lòe, khói xám mù mịt, che mờ một vùng chân đỉnh non.

                              - À! Ma Hầu vô lễ, dám dùng hơi ngạt khí độc hại quân ta sao?

                              - Không, không! Hầu chỉ phòng xa có đứa nào nap đó, không có, thôi, Hầu về Pou Nam Sao.

                              Tiếng hét kéo lê thê hút chìm, gió thổi tạt khói mù về phía Minh Thần. Chàng vội nín thở, quạt bay hơi ngạt, đột lòng nhớ chỗ hơi ngạt chính chỗ Đông Tửu vừa nhảy vào ẩn. Và có lẽ chính y vừa ngầm ám trợ Bạch Viên Nương.

                              Khi đó, Bạch Viên Nương cũng dùng tay quạt hơi độc bay phương khác, nàng ta hú lên một tiếng, đã nghe hàng trăm ngàn tiếng hú lê thê, cây lá ào ào như sóng dờn chuyển xuống triền dưới.

                              Nháy mắt, khói độc tan biến hết, bỗng thấy gã áo trắng từ trong kẹt núi khật khưỡng bước ra, trỏ nữ lang áo trắng cười âm trầm:

                              - Khỉ đột tinh dữ, nó đã đoán ra, tưởng ta núp đó! Hà hà! Thằng khỉ ngốc! Ta đương sốt ruột đánh hôi một đòn cho nó đi mau khuất mắt! Bạch Viên Nương! Nàng phải nhớ ơn ta!

                              Nữ lang trợn mắt:

                              - Ngốc tử! Ngươi điên rồi! Sao lại đánh hôi! Ta phải đi gọi nó! Đông Tửu xua tay:

                              - Không sao! Tự nó dở nghe hôi trước, ta mới chơi sau, có gì trái lẽ? Thôi!Nó cút rồi, đến lượt ta phục thù!

                              Minh Thần giật mình, đoán chắc y đã thấy con khỉ liệt tay. Chàng đang thắc mắc, bỗng thấy nữ lang vẫy tay cùng Đông Tửu lao vọt đi, sau khi triệt bàn chông lửa.

                              Minh Thần lập tức lần theo, thoáng thấy hai người lao vào chân đỉnh phía bên kia mất dạng.

                              Bốn bề vắng lặng, trăng soi loang lổ, Võ Minh Thần bèn nương theo bóng lá tìm kiếm dọc chân đỉnh. Tới một cho như chiếc đài sen, chợt thấy có ánh sáng le lói, chàng bèn lần lên mỏm đá rậm, vén lá dòm vào.

                              Chợt mừng rỡ thấy hai bóng trắng ngồi chễm chệ trong núi, hoa lá dây leo mọc đầy, cành xòa cong uốn như tranh vẽ, mặt hướng chếch Đông Nam, trăng soi vằng vặc, vài dải sương mỏng kéo lê, coi nhiều vẻ thần tiên lạ. Nhìn kỹ mới hay chỗ này có một hai mái sàn ẩn khuất vào lùm cây, nơi hai bóng trắng ngồi là một căn nhà sàn khá cao, trống mấy phía, chỉ có cột mái cột hoa leo quất quít, mới trông, tưởng hai bóng ngồi trên mỏm đá. Cạnh hai bóng trắng, có thắp một cây sáp nến ong cháy lung linh.

                              Minh Thần men lại gần. Ngoài hai bóng trắng chỉ còn hai con vượn khoang đứng hầu quanh. Hai bóng ngồi đó không ai khác nữ lang áo trắng có tên Bạch Viên Nương và gã áo trắng có hiệu Túy tiên sinh Lưu Linh Đông Tửu Đế.

                              Thì ra hai người đang đánh cờ, mấy vò rượu để bên, mỗi người ôm một vò đa khui vừa tu vừa tính nước đi quân, vào thế. Hai con vượn khoang đang quạt nước hầu trà, coi như hai đứa tiểu đồng.

                              Chợt nghe Bạch Viên Nương cất tiếng thánh thót như tiếng chim oanh:

                              - Viên nhi! Hình như mấy cây đào đã có trai chín đỏ. Mi thử lên coi, được trái nào thì hái xuống đây ta đãi Túy tiên sinh nhắm rượu. Một con vượn khoang quăng vút mình đi mất.

                              Minh Thần coi phong thái gã áo trắng và nữ lang bạch vượn đầy vẻ khoáng dật thanh tao, ngồi uống rượu đánh cờ dưới ánh sáp, cốt cách khác phàm, lòng bỗng sinh cảm khái hết sức. Chàng lại là tay chơi cờ cao, cờ có sức lôi cuốn người ta ghê gớm. Minh Thần bèn mò đến sát hồi nhà, dựa vào vách đá khuất, vận nhỡn tuyến dòm vào.

                              Căn sàn này khá dài, từ chỗ Võ ẩn tới bàn cờ, khoảng cách hơn chục thước nhưng mắt Võ rất sáng, lại quen đánh, nhìn vẫn thấy. Xem qua vài nước, thế trận tương đương, thêm vài thế nữa, trận thế Túy Tiên Đông Tửu bắt đầu núng, rồi bị vỡ. Bạch Viên chơi "mã" rất hay, còn Túy tiên sinh hay chơi "pháo". Cả hai đều hạng cao cờ, nhưng Túy tiên sinh hay chơi "pháo giằng", bỏ luôn thế thủ, dùng "pháo" tấn công không đâm vỡ thế, bị thua.

                              - Ôi thôi! Ta lại bị rồi! Phục thù chưa nổi lại, đậm thêm, ta phải đánh hết tuần trăng mất thôi. Đông Tửu bê vò rượu uống ừng ực, Bạch Viên nương tử cười khanh khách. Đánh ván nữa, mới được mười nước thì Đông Tửu lại bí. Y vò đầu bứt tai, uống ừng ực, nghĩ không ra nước.

                              Chợt vượt khoang quăng vút mình vào, tay bưng một đĩa có ba, bốn trái đào chín mọng, màu tía rất đẹp, Bạch Viên Nương thỏ thẻ:

                              - Đào này thuộc giống "Vạn Thọ Kim Đào", nguyên giống tận Nam Hải, có lẽ do chim tha tới ngọn Tây Phàn từ đời nào không biết. Hình như đã nhiều năm chỉ ra hoa không kết quả, mới năm ngoái bỗng kết mỗi cây được vài trái,

                              ăn thử, ăn một trái mấy ngày không đói. Giờ ta mới biết các đạo sĩ xưa tu tiên phải ăn đào mới thành đạt. Đào có nhiều chất bổ nuôi cơ thể thay cơm thịt!

                              Nữ lang động chủ Tây Phàn cầm trái đào tung lên cao, rút lưỡi dao lá lau múa tít ở quanh trái đào, nháy mắt đã gọt sạch vỏ, trao Đông Tửu. Nhưng gã lúc này đang tức nước cờ, chẳng buồn để ý tới đào quý nữa.

                              Minh Thần ngó vào thấy ánh trăng chiếu xuyên cả vào bàn cờ, chợt nhớ lại sự tích Trạng Cờ đục lọng rọi ánh nắng, mách nước cho vua Nam xưa. Chàng định kiếm gương phản chiếu ánh trăng, nhưng chợt nghĩ mình có điện công nên liền vận sẵn, nhè lúc Đông Tửu sắp sửa đi quân, chàng bèn kín đáo dùng sức điện kình đẩy con cờ đi. Bạch Viên lại tưởng Đông Tửu đi. Còn Đông Tửu biết ngay có người ám trợ, từ đó không cầm quân đi nữa, mà dùng toàn diện kình đẩy đi.

                              Quả nhiên ván đó Đông Tửu thắng. Minh Thần nấp dưới sàn, thấy Đông Tửu lúc đầu hơi giật người một cái, như định la cự, nhưng sau thấy nước cờ gỡ bí tài tình quá, gã ta khoái chí cười sằng sặc. Minh Thần biết "gà" nhiều sẽ bại lộ như chơi, nên chỉ nước đặc biệt mới thò tay đi, còn để mặc Đông Tửu. Đông Tửu là tay cao cờ, cũng chỉ cần một hai nước đã lãnh hội ngay được thế cờ, cứ thế đi lấy. Quả nhiên hạ liền hai ván. Bạch Viên nương tử vỗ đùi, hét lảnh:

                              - Lạ dữ chưa! Tối nay nhà ngươi đi lắm nước phi thường, vượt hẳn tài bình nhật! Hay "hồn Trương Ba, da anh hàng lợn", có con ma cờ nào nhập vào ngươi?

                              Minh Thần giật mình, đứng im bế điện. Đông Tửu cười ngất:

                              - Hà hà! Tối nay tướng tinh Trạng Cờ của ta mới xuất, ngươi có đánh nữa cũng thua! Hà hà, Vạn Thọ Kim Đào là của quý, người anh em ăn chơi!

                              Miệng nói, tay bầy cờ, tay quơ đào bỏ miệng, lại nhón luôn một trái chín mọng, ném miệng nhai, nhưng lại quăng vút ra chỗ Minh Thần, Nữ lang vượn trắng đang mải bày quân phục thù, không hay biết gì cả. Minh Thần chụp luôn trái đào, ngửi thấy mùi thơm tuyệt diệu, cắn thử một miếng, ngon không thể tả. Chừng ăn hết nửa trái đào đã thấy tâm thần sảng khoái hết sức, không hề thấy đói, mặc dù từ chiều chưa ăn một hột cơm.

                              Trong nhà, Bạch Viên Nương tử lại dồn Đông Tửu vào thế bí. Minh Thần dòm thấy, lại "gà" ngầm một, hai nước, dồn Bạch Viên Nương ngược vào thế bí, gỡ không nổi. Nữ lang đang vò đầu tính nước, bỗng nghe mấy phía triền dưới có tiếng vượn hú lê thê, Bạch Viên vụt ngẩng đầu lên, phất tay:

                              - Lại có kẻ nào quấy phá, xuống coi! Hai con vượn khoang đu vút ra ngoài mất dạng. Vài phút sau chợt thấy hai con vượn đu vào, dẫn theo một con vượn nữa. Mấy con kêu chí chóe, tay chỉ trỏ lung tung. Minh Thần trước từng được Pi A Ya Thạch Âm nữ chúa truyền bí thuật thu phục dã thú nên rất am hiểu ngôn ngữ thú vật. Nấp nghe qua, mới hay mấy con vượn trình nữ động chủ Bạch Viên nương từ rằng có nhiều đám lạ mặt đang xông lên núi, chẳng hiểu có chuyện chi, lắm đám đốt đuốc sáng rực. Bạch Viên hét:

                              - Ngọn Tây Phàn này chỉ cho thiên hạ lên ngoạn cảnh, xem di tích, bọn nào tự tiện vượt lên vùng núi cấm, viên quân viên tướng cứ đuổi xuống, đứa nào trái lệnh, quăng xuống vực sâu!

                              Mấy con vượn toan quay đi, Đông Tửu bỗng xua tay lia lịa:

                              - Khoan khoan! Chớ nóng! Không khéo tại họ đi kiếm tên say rượu này đó! Hỏi thử coi, nếu đúng, chớ hại, tội tên này phải gánh! Tại họ ngàn dặm mò tới chầu chực cả ngày. Ta trốn lên đây!

                              Đang tức nước cờ, Bạch Viên lắc đầu:

                              - Muốn gặp ngươi, chúng phải gặp dưới Cha Pa, sao dám tự tiện lên núi cam?

                              - Chớ nóng! Khổ nỗi, nãy giờ rượu ta đãi ngươi uống, chính là đồ lễ tụi nó đó!

                              Bạch Viên thở phì, ra hiệu cho mấy con vượn. Võ Minh Thần tò mò, vội lần theo chúng ra ngoài triền dòm xuống.

                              - Được! Nhưng phải đứng xa không được tranh chỗ! "Cám ơn, cám ơn" tiếng vọng inh ỏi, từ sau ghềnh triền dưới bỗng vọt ra mấy đám lố nhố tàn lọng, cáng gấm, kiệu đăng sơn dập dờn lướt lên nhanh vùn vụt. Sợ nán lại dễ chạm trán như chơi, Minh Thần vội nương bóng lá băng mình lên khu sàn trống, ẩn kín đầu hồi sát vách núi um tùm. Nấp chỗ này không những trông rõ trong nhà mà còn nhìn tỏ cả mấy "đài sen" triền ngoài nữa. Khu này coi giống lòng chảo, bìa ngoài có cac ghềnh đá mọc nhấp nhô. Chỉ ít phút sau, bỗng thấy hai bóng trắng xuất hiện ngoài lòng chảo, phía sau lố nhố bóng tàn lọng, cờ quạt, cáng, ghế, đủ hình, sắc.

                              Nhưng đặc biệt tất cả hiện ra im phăng phắc chừng sợ kinh đong đến ngài "bác vật học". Minh Thần liếc vào nhà, đã thấy sau lưng Bạch Viên nương tử buông xuống một bức mành trúc khá rộng, Đông Tửu, Bạch Viên vẫn ngồi. Quả nhiên thấy tít dưới núi lên tận triền cao, rải rác có nhiều ánh đuốc lập lòe, thỉnh thoảng co cả tia đèn bấm loang loáng như ánh đèn pha, chừng loại đèn lớn.

                              Bỗng nghe tiếng vượn hú véo von, rồi ngay triền dưới, có hàng trăm bóng vượn đu vi vút vào các lùm cây kẽ đá dưới trăng, chợt thấy hàng chục cái bóng trắng toát quăng vèo tới chỗ đàn vượn ẩn, mất dạng, chỉ còn một chiếc bóng trắng đứng sừng sững trên mỏm ghềnh, ngay bên lối đá hồi nãy Võ từng vượt qua. Sực nghe tiếng đàn bà quát lanh lảnh:

                              - Bá tính chỉ được lên lưng chừng núi, ngọn Tây Phàn trên này là núi cấm, không ai được lên! Kẻ nào mạo phạm, bị đẩy xuống vực!

                              Phía dưới có tiếng nói vọng lên, giọng chói tai:

                              - Ai trên đó? Phải Bạch Viên nương tử động chủ Tây Phàn? Bá Âm Thánh Quân có lời chào nương tử! Bọn này không có ý phạm cấm động. Bọn này chỉ lên yết kiến ngài "bác vật học" thôi! Nương tử vui lòng cho mượn lối.

                              Minh Thần nghe nhận ra ngay giọng "ma trăm giọng", lại thấy y nói năng hòa nhã khác thường, Võ đoán chắc y có việc quan hệ nhờ Đông Tửu.

                              - Gớm thật! Bọn tứ chiếng giang hồ này chắc đợi sốt ruột, lại cũng mò vào biệt thự viên Tổng Đốc họ Hoàng nên mới biết đường lần lên đây! Để coi họ cậy việc chi? Mình phải ẩn mặt mới được!

                              Đang nghĩ, bỗng nghe bóng trắng đứng trên ghềnh quát vọng xuống:

                              - Nếu đúng Đông Âm cứ lên! Nhưng nương tử đang đánh với Túy tiên sinh, rất ghét chuyện ồn ào! Vậy tất cả tòng nhân sĩ tốt phải để dưới, mỗi toán một, hai người lên thôi.

                              Có nhiều tiếng cám ơn ầm ĩ, lại nghe giọng Ma Quân léo nhéo:

                              - Vô vật bất linh, tiên lễ hậu cẩn, vô lễ vật bất thành phép tắc, bọn này xin tòng nhân đội lễ vật theo, cam đoan câm như cái bóng. Chăm chú đánh cờ không ngẩng lên, nữ động chủ Tây Phàn lẩm bẩm:

                              - Lão quái đã tới rồi! Nhà ngươi đi đứng thế nào để chúng mò theo phá cuộc cờ đang vui!

                              Đông Tửu tu rượu, than:

                              - Ôi chao! Ta đã trốn kĩ lắm chứ, nhưng tụi nó như "con ma trăm giọng", lão "vua cờ bạc" dấu sao được lâu?

                              Bạch Viên trợn mắt:

                              - Lại có cả lão Thần Đổ Bác nữa? Không xong rồi! Lão đến mở sòng ai chịu nổi?

                              - Là nói vậy thôi! Có cung mở dưới núi, lên đây làm gì?

                              Đông Tửu vừa nói dứt bỗng thấy hai bóng trắng từ dưới vọt lên, đứng xế ngoài hành lang nói vọng vào:

                              - Bẩm động chủ nương nương cùng quý khách tiên sinh, bọn họ chực ngoài xin vào yết kiến.

                              Cả hai đang dòm thế cờ chưa để ý. Minh Thần ghé mắt trông ra mới hay hai bóng trắng là hai cô gái trạc mười chín, hai mươi xinh đẹp, mặc quần áo da vượn tựa Bạch Viên. Cô gái kia lại lên tiếng nữa, Đông Tửu mới lọt tai, vùng phất tay:

                              - Ôi chao! Ra bảo họ vào đứng dưới kia, hỏi gì hỏi mau lên. Bạch Viên xua tay:

                              - Ngươi định để chúng kéo vào cả đám làm loạn sao?

                              - Ờ, ờ! Từng người một! Một cô gái vượn vừa gọi vọng ra, bên ngoài đã có tiếng nhao nhao, chúng nhân chen lấn nhau kêu inh ỏi.

                              Có tiếng Đông Âm vọng vào:

                              - Tiên sinh bác vật học! Xin cho vào diện kiến! Việc này vô cùng bí mật, không dám để lọt tai kẻ khác!

                              - Ôi chao! Lại lôi thôi thế ư? Bí mật còn bảo mỗ làm gì?

                              Có tiếng cười lớn.

                              Bên ngoài tàn, lọng, võng, ghế, cờ quạt chen lấn nhau, có nhiều cánh tay giơ lên dọa nhau nhưng chưa ai dám làm dữ, có tiếng người ngoại quốc nói to:

                              - Hà hà! Chỉ "ngài" khác! "Ngài" chỉ ham rượu thơ, bí mật lộ cùng "ngài" không ai sợ!

                              - Hừ! Ồn thế?

                              - Xin "ngài" cho cái người nào vào trước, cái người nào vào sau! Cái người nào cũng đòi vào trước!

                              Bạch Viên nghe lạ tai, trợn mắt kêu "Tây đen bán vải". Đông Tửu quát vọng ra:

                              - Tiền đáo tiền tọa, tiền nhập thứ thứ nhập!

                              Lập tức có tiếng Đông Âm reo "ta tới trước", lại có người kêu "ngộ chực ngoài từ sáng sớm à". Chúng nhân nhao nhao, chợt có tieng nói lớn:

                              - Ai dâng lễ trước vao trước! Đông Tửu gật lia:

                              - Phải đó, ai đưa rượu trước vào đi! Tuy vậy đến nửa phút bên ngoài mới im. Võ trông ra thấy tàn, lọng, cáng, võng đầu ngoài bìa xem chừng rất có trật tự. Từ ngoài, hai gã đại hán xăm xăm tiến vào, nhảy tót lên hành lang. Lưỡng lự mấy giây, cả hai bước tới, cúi rạp đầu hết sức kính cẩn. Gã lớn tuổi moi trong hành trang ra một cái hộp lớn bằng mây đan, quang dầu bóng loáng, và một vò rượu màu vàng rực.

                              Đại hán mở hộp, đổ "xoảng" ra sàn cả mớ bạc "xòe" Đông Dương, bạc Hồng Kông, bạc Tàu và những thoi vàng nén, cất tiếng líu lo giọng Quan Hỏa:

                              - Anh em là thằng Lầu Trụ, Lầu Kiệt bên núi Pầy Sinh Lình, Quảng Tây, tụi dân quen gọi là Trụ Vương, Kiệt Vương, có ít vàng bạc biếu sếnh sáng bác vật học, mong ngài nhận cho! Còn cái bình này cũng bằng vàng thật, trong có đựng rượu quý gọi là "Ngọa trung xuân phong thánh tửu", tốt bằng trăm lần "Tàng xuân tửu" à! Rượu này chưa cần uống, chỉ ngửi qua, đã như "nằm giữa gió xuân". Ông lão tám mươi cũng khỏe như Lao Ái, con gái mười tám phải mê à! Cho ngửi vào, bà già tám mốt cũng như gái đang xuân, sếnh sáng uong một ngụm, có sang Hồng Kông đến xóm "Sạch sùng chủi" chơi "Nhất Dạ Đế Vương", làm Tần Thủy Hoàng ngự cả trăm cung không mỏi à! Anh em ngộ kiếm cả nước Tàu mới có, xinh biếu ngài "bác vật học" à!

                              Minh Thần nghe quảng cáo không khỏi buồn cười, đã thấy Đông Tửu trợn mắt kêu "úy", xua tay chối đây đẩy. Nhưng hai gã tướng lạc thảo Pầy Sinh Lình cứ nằng nặc đòi dâng, bưng đặt ngay lên. Đông Tửu quay sang bảo Bạch Viên:

                              - Nhà ngươi có thích rượu lạ, lấy uống chơi! Bạch Viên đỏ mặt, đuổi anh em Lầu Trụ, Lầu Kiệt ra ngoài, nhe răng cười hồn nhiên, không đáp. Trụ Vương búng "cạch" hàm răng, nhổ ra một cái, loay hoay rút ruột, lấy ra một tấm giấy rảo hết sưc, trải rộn bên mình Đông Tửu, nói nhỏ:

                              - Cái bản đồ này là bản đồ kho vàng to lắm à! Anh em "ngộ" mất hơn bảy mươi tay súng mới cướp được! Nghe nói cái kho vàng chôn trên núi Tản Viên nhưng mấy thằng pháp sư đời xưa no vẽ bùa, vẽ chữ, vẽ họa đồ cả nước Tàu không ai đọc nổi, xin ngài giúp cho!

                              Đông Tửu nheo mắt nhìn. Minh Thần cũng tò mò chiếu ống dòm coi, chỉ thấy nét vẽ loằng ngoằng, chịu không đọc nổi. Bạch Viên nương tử cũng đưa mắt nhìn bức họa đồ, lắc đầu.

                              Hai anh em tướng lạc thảo Pầy Sinh Lình đứng dòm Túy tiên sinh không chớp mắt, vẻ hồi hộp khắc khoải hết sức, đượm nét tò mò như muốn tìm kiếm xem bộ mặt nặng hơi men kia có vẻ gì chứng tỏ tài trí thông minh đến lừng danh uyên bác trong thiên hạ chăng?

                              Minh Thần nấp đầu hồi, nghĩ thầm:

                              - Xưa nay Tàu để của nả có tiếng hiểm hóc, cả nước Tàu còn chưa khám phá nổi, gã Đông Tửu này làm cách nào tìm được "chìa khóa bí mật"?

                              Nghĩ vừa dứt, bỗng thấy Đông Tửu tu một ngụm rượu phun phù xuống bức họa đồ, đoạn cầm rê trốc ngọn lửa sáp mấy cái rồi khoan thai đặt xuống sàn, giơ tay vẫy anh em Lầu:

                              - Lại gần đây! Anh em Trụ Vương bước vội tới, Đong Tửu hất hàm:

                              - Biết chữ chứ? Hán tự đó! Cả mấy cặp mắt cùng nhìn xuống bức họa đồ, Minh Thần bỗng giật mình, thấy nơi góc bản đồ đã hiện ra mấy hàng chữ Hán thảo như rồng bay phượng múa. Thì ra chữ viết bằng thứ nhựa nào đó, lâu đời đã khô quánh lại, gặp rượu

                              ướt thì thành dẻo, bắt dính luôn muội đèn.

                              Đông Tửu sờ vào biết ngay, gã rung đùi ngâm khẽ:

                              "Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung

                              Bán tự ngân câu bán tự cung.

                              Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn

                              Bán trầm thủy để bán phù không!"

                              Giọng ngâm tràn đầy cảm khái như tay tửu hứng ngâm chơi, vừa dứt, chàng ta gật gù phẩy tay:

                              - Thôi! Đi mà chở kho tàng núi Tản Viên!

                              Chưa ai hiểu ý tứ, Minh Than cũng tay thông minh mà nhất thời vẫn chưa nghĩ ra. Trụ Vương ngơ ngác:

                              - Hầy à! "Ngộ" đã biết gì đâu? Xin sếnh sáng đại nhân chỉ cho à! "Ngộ" chỉ quen bắn "pạc hoọc"!

                              Đông Tửu lắc đầu, thở phì:

                              - "Nị" muốn tụi nó đón đường cướp giật bản đồ? Sao không đem về làm lấy?

                              Trụ Vương nhe răng vỗ vỗ cây "pạc hoọc":

                              - Hầy à! Ngộ bắn trúng con ruồi đang bay à!

                              Đông Tửu tu rượu, gật gù:

                              - Bốn câu thơ Đường đó là câu chú mở cửa kho tàng đó! Biết chữ loằng ngoằng như chữ phù thủy này là gì không? Chữ Hán thảo đó thôi! "Bán tự ngân câu bán tự cung" là chẻ lấy nửa. Chữ nó thảo có nửa chữ nổi còn nửa chữ chìm. "Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung" là giữa hàng thứ ba và thứ tư. Vậy là tất cả chữ mực viết trên đây là láo, chỉ có những chữ viết giữa hàng thứ ba và thứ tư thôi! Nị thấy nó viết láo lếu như vẽ bùa... mèo chứ? Vậy cứ tính từ bên phải sang, lại tính từ trên xuống, là chư thật. "Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn, bán trầm thủy để bán phù không" là bóc tấm họa đồ này làm hai, ngâm một mảnh xuống nước, nửa nổi trên sẽ thấy chữ hiện lên. Nhưng còn "bá tự ngân", "bán trầm thủy để" là gì? Chữ "ngân" thứ ba, chữ "để" thứ tư hàng tư, ta cho là phải ngâm nước thủy ngân!

                              Bạch Viên bật giọng thánh thót:

                              - À, Túy tiên sinh! Nhà ngươi còn hơn ma xó! Cứ ngâm thủy ngân sẽ thấy nốt nửa chữ giữa hàng ba hàng bốn chiếu đúng nửa trên, đó là lời bí mật Tàu để của, sao ngươi không nói thế cho bọn Thổ phỉ hiểu ngay?

                              Nữ lang vừa nói xong, cả hai anh em Trụ Vương, Kiệt Vương vùng nhảy dựng lên, hét như điên:

                              - Ngộ hiểu rồi! Hiểu rồi! Phu nhân nói đúng! Tướng công tiên sinh có bộ óc vàng giỏi như ông thánh à! Hiểu rồi! Tụi Tàu để của khôn dữ, tụi ngộ óc đất bùn, củ chuối! Tụi ngộ sẽ làm chủ kho tàng Tản Viên! Hô hô! Hẩu lớ! Hẩu lớ!

                              Rất nhanh, Trụ Vương vồ luôn lấy tấm họa đồ, vo viên, nhét răng, cả hai vái Đông Tửu lia lịa, nhảy dựng lên cười sằng sặc, rút phăng "pạc hoọc" bắn luôn mấy phát chỉ thiên và bắn vọt mình ra ngoài như hai gã phát cuồng.

                              - Đem lễ vật đi! Gặp hai đứa hóa dại! Đông Tửu lẩm bẩm quơ vò rượu tu, quay vào bàn cờ hô "tốt biên", cả hai lại chú tâm vào cuộc chiến "xe pháo mã". Minh Thần nấp ngoài không khỏi kinh ngạc trước sức thông minh trí tuệ tuyệt vời của chàng áo trắng lúc nào cũng say nhè.

                              - Chà! Quả tiếng đồn không sai! Sao lại có kẻ thông minh đến thế! Đúng thần đồng nước Nam! Tôn sư trước có nói, đất Lĩnh Nam mấy dải núi sông cẩm tú, có mạch phi thường, địa linh nhân kiệt, đời nào cũng có thần đồng, hào sĩ tráng sĩ, giờ chắc đúc kết vào y đây! Nhưng sao còn trẻ, y đã uống như tay yếm thế, gác ngoài thị phi? Biết đâu chẳng có tâm sự u uẩn? Tiếc thay! Mình không còn vòng để nhờ tay thần đồng này!

                              Ngay lúc đó, bỗng nghe tiếng xôn xao bên ngoài, lẫn giọng cô gái vượn trắng trấn hành lang hô lảnh, từ dưới nhảy vọt lên hai tên đại hán râu ria xồm xoàm, mặt mày hết sức dữ tợn. Cả hai rón rén bước vào nhà, đưa mắt dòm hai người đang ngồi đánh cờ và cùng giật thót mình, mặt mày ngơ ngác coi buồn cười lạ. Chừng mãi lúc này mới rõ ngài bác vật học thông thiên quán địa lại chính là gã say nhè lem luốc từng ăn roi ngựa dưới Lai Châu. Thì ra vien Thổ phỉ có hiệu "Nhị Vương" đã quất gã áo trắng hôm trước giờ đi cùng tên "Đại Vương" đại ca hắn.

                              Hắn vùng nắm râu vặt, nhăn nhó làm hiệu cho tên đại ca, đoạn cả hai nhào luôn xuống phục dưới sàn, kêu rên rỉ:

                              -Tỉu nà! Ngộ có mắt như mù, không biết ngài bác học... Ngộ đâu dám làm càn...

                              -Tỉu nà! Thằng em ngộ ngu như con heo, mạo phạm "tài nhân", xin "tài nhân" tha tội! Hầy à! Nó là con cú mèo ban ngày quáng gà không thấy ngọn Thái Sơn.

                              Đoạn cứ thế ngóc lên đấm ngực, vặt râu không thôi. Đông Tửu ngoảnh trông ra, kêu:

                              - Ồ! Lại hai chú khách hóa dại! Làm trò gì đó? Cần chi sao không nói toạc ra?

                              Hai gã kể lai lịch, tạ tội coi rất thểu não. Minh Thần nhớ lại chuyện dưới Lai Châu, không khỏi buồn cười, ái ngại cho bọn lỗ mãng. Vốn cũng chẳng ưa biết chuyện vô can, Minh Thần bèn bỏ đấy, nhảy xuống nương bóng tối đi vòng ngoài bìa khu lòng chảo, tiến dần lại chỗ đám khách tứ xứ còn đang ngồi ngổn ngang đó. Cáng gấm, võng, ghế băng son, tàn lọng đậu rải rác theo hình cánh cung, hướng cả về phía căn sàn trong kia, cách độ năm bảy chục sải.

                              Riêng cỗ cáng gấm của Bá Diện Ma Quân đậu xế ngoài ghềnh đá, bên một lùm cây lòa xòa, bọn gái khênh cáng thảy đều nghển cổ dòm cả vào trong. Chợt Võ bị óc tò mò kích thích nảy ra ý muốn nhìn vào cho tường nhân vật quái đản Bá Diện xem "ma trăm giọng" là giống chi?

                              Nghĩ làm liền, Võ lập tức dùng thuật ẩn thân men vòng ra phía sau cáng, nấp cách năm bảy thước nghe ngóng. Thấy đám thủ hạ Ma Quân đều mê mải dòm vào trong nhà, Võ bèn vận điện công nhè nhẹ mò hai ngón tay nhón mép gấm phủ ngoài, từ từ vén lên, vén nữa.

                              Ánh trăng chiếu chếch qua đầu cáng, dưới ánh trăng mờ, lòng cáng hiện ra sau lớp gấm vén khá cao, lòng cáng... trống rỗng! Mà cũng không trống hẳn, vì còn có một cái gối sơn son thiếp vàng, hai đầu ghép kính, trong lấp lánh hột cườm hay châu ngọc chi đó, coi như loại gối thờ! Đặc biệt là trên nệm gấm còn in trũng dấu người vừa nằm! Minh Thần quét lia nhỡn tuyến điện tuyến rê ngang tàn cây bụi rậm quanh cáng. Chẳng có vật chi ẩn nấp! Bất giác chàng giật mình nghĩ:

                              - Không lẽ Bá Diện là một con ma trăm giọng thật? Vô lý! Hay y là nhâ vật có thuật tàng hình? Trên thượng du các sắc Mèo, Mán, Lào, Kha vẫn có dong luyện "Thiên Linh Cái" học thuật tàng hình... liệu y có chăng? Nếu có sao hỗn chiến với Tây Sắc, Nam Khấp y không giở ra? Lạ thật! Chắc con "ma trăm giọng" này ẩn quanh đây?

                              Bèn đảo vòng quan sát, vẫn chẳng thấy chi khả nghi. Võ lại lộn vào chỗ cũ, nhảy lên nấp, hồi mắt trông vào kịp thấy hai gã Thổ phỉ "quất ngài" đang lễ hì hụp, hí hửng chạy vọt ra ngoài, miệng còn kêu inh ỏi, chẳng hiểu có điều chi mừng rỡ đúng "bắt được vàng".

                              Bỗng thấy hai bóng dìu nhau nhảy lên, một bóng trắng lòa xòa. Dòm lại, thì ra lão có danh xưng Đại Thái Giám của vua Ả Rập Séoud bên Hồng Hải. Lão cũng thoáng vẻ ngơ ngác ngó Đông Tửu, Bạch Viên, đoạn cúi rạp người chào cung kính theo kiểu Hồi Giáo, nói một tràng tiếng Ả Rập:

                              - Kẻ già này theo lệnh Quốc vương Ả Rập Séoud từ thành La Mecque vượt Hồng Hải, Thái Bình Dương sang Nam tìm yết kiến bậc hiền triết bác học thông thiên quán địa để, kính dâng ngài lời chúc mừng của Quốc vương Séoud. Xin đấng Alah phù hộ, ban phúc lành cho bậc thánh thiện! Sau nữa xin dâng ngài chút vật mọn làm lễ ra mắt.

                              Lão vừa dứt lời, người tùy tòng đã chạy ra xách vào một cái rương lớn, cùng Đại Thái Giám mở ra, lôi các lễ vật bày trước Đông Tửu. Gấm vóc, ngà voi, kim cương, vàng ngọc đủ thứ trông lóa mắt. Cuối cùng nhấc ra một cái lồng nhỏ trùm gấm tía, vén gấm lên, trong có một con két đỏ như máu. Thái Giám mở cửa lồng, con két đỏ chót nhảy tót ra bay một vòng, rồi đậu luôn trên đầu lão Thái giám Ả rập nói một tràng tiếng Ả Rập:

                              - Chào chủ nhân ông! Chào chủ nhân bà! Két xin chúc ông bà sống lâu mạnh giỏi, uống rượu đánh cờ! Từ nay ông bà chủ nhân có điều buồn, đã có két làm trò vui!

                              Đông Tửu và Bạch Viên Nương cùng trợn mắt ngạc nhiên, dòm con két. Cả Minh Thần cũng lạ. Xưa nay yểng, két, sáo, quạ nói tiếng người vẫn có, nhưng bất quá chỉ học được năm, mười tiếng, đây con két nói một tràng léo nhéo như người, bộ tịch lễ phép hết sức. Đông Tửu cười sằng sặc:

                              - Ôi chao két ma két quỷ! Két gì lại biết cả người ta đang uống rượu đánh cờ? Nhưng ông bà không đúng! Mày lộn rồi! Tụi này chỉ là chỗ tri kỷ thôi! Này ông lão! Nó có nói được tiếng Việt không?

                              - Thưa, két này lưỡi mỏng, mềm như lưỡi người, nó bắt chước được đủ thứ tiếng, nó khôn như người.

                              Vừa dứt lời lại nghe con két nói léo nhéo:

                              - Ông bà không đúng, tụi này chỉ là chỗ bạn tri kỷ... Nay là bạn, mai mốt thành ông chủ bà chủ két! Bà chủ cho két đậu tay nào! Câu đầu nói nhái giọng ta, câu sau nói tiếp tiếng Ả Rập, Đông Tửu cười thét, thông ngôn, Bạch Viên cũng cười lớn, vì thấy con két khôn như ma quỷ. Nàng đưa luôn tay, con két bay xà xuống đậu mu bàn tay kêu "tay bà đẹp, tay bà đẹp", làm Minh Thần nấp ngoài suýt phì cười.

                              Chợt nghe lão Thái Giám nói nhỏ:

                              - Lễ mọn lòng thành xin ngài thâu nhận, đức rộng như biển cả! Quốc vương Ả Rập mới bỏ ngàn cân vàng mua được món lạ này, nội trong thiên hạ chỉ có ngài mới rõ thực hư! Thứ bảo vật này do một lão thuật sĩ bán cho Quốc vương, bảo nó có thể níu lại cả tuổi già, khiến người ta thiên niên bất lão.

                              Dứt lời lão lôi trong mình ra một chiếc hộp vàng, hai tay đưa Đông Tửu. Võ Minh Thần đưa mắt thờ ơ nhìn vào, bỗng chàng giật bắn người, chỉ suýt nữa bật kêu kinh sảng khi thấy Đông Tửu mở nắp hộp vàng, lôi ra một món bảo vật. Một cái vòng ngọc điểm huyết giống hệt cái vòng càn khôn vừa mất. Võ vội nín thở, vận nhỡn lực nhìn cho kỹ. Đông Tửu cầm vòng giơ lên ngắm nghía, buông gọn ba tiếng:

                              - Vòng càn khôn! Võ lại giật mình một cái, nghe Đông Tửu lẩm bẩm:

                              - Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn. Càn khôn biến hóa.

                              Lão Thái Giám Ả Rập ghé sát lại, mắt sáng hẳn lên, nhưng bỗng Đông Tửu đặt luôn vòng vào hộp đậy nắp, dúi vào tay lão Ả Rập, khẽ giọng bảo:

                              - Vòng giả! Lão Đại Thái Giám Ả Rập giật bắn người, xúc động đến nỗi run tay đánh rớt ngay hộp vàng.

                              Lão kêu "úy", Đông Tửu đã thò tay chụp dính, ấn vào tay lão lần thứ hai. Minh Thần đứng ngoài cũng giật mình cái nữa khi nghe Đông Tửu nói:

                              - Tội cho ông lão tốn công vượt biển! Về bảo nhà vua Ả Rập: Đây là vòng giả! Ngọc này mới được một ngàn tuổi, mười thế kỷ đúng, kẻ làm đồ giả giỏi đấy! Trong ruột cũng có chữ, nhưng là chữ láo! Không phải chữ tượng hình ruột vòng càn khôn! Hắn chỉ có tài nhuộm ngọc cho vết đỏ lẩn vào trong!

                              Minh Thần nghe lọt tai, lòng càng kinh ngạc, không hiểu sao Đông Tửu lại biết được vòng càn khôn có chữ tượng hình trong ruột?

                              - Vua Ả Rập bỏ ngàn vàng mua vòng, sai cận thần vượt biển đi hỏi tay kỳ tài khảo cổ phương Nam này, đủ biết vòng càn khôn chứa đựng điều bí ẩn phi thường vô giá! Chỉ lạ nhất Đông Tửu, cả thiên hạ đều mê bảo vật này, riêng y xem chừng vẫn thản nhiên như không... đúng bậc quân tử hiếm có.

                              Đang nghĩ loanh quanh, chợt thấy Đông Tửu phất tay bảo lão Đại Thái Giám Ả Rập:

                              - Đem lễ vật về! Về tâu với ông vua Ả Rập, tên bợm nhậu này có lời chia buồn, và cám ơn đã cho vò rượu pha. Viên Thái Giám thoáng ngẩn mặt mấy khắc đoạn cúi rạp đầu lễ phép:

                              - Vạn tạ! Van tạ! Kẻ già này sẽ còn phải yết kiến ngài, nay phải đi báo tin về Hồng Hải!

                              Dứt lời, lão ta lại rạp đầu cái nữa, cùng gã đồng hành hai người rảo bước ra ngoài, tà áo Ả Rập lòa xòa như cánh bướm. Đông Tửu bưng vò rượu tu ực ngụm lớn, quay vào hô "pháo giằng" đoạn nói vọng ra hành lang:

                              - Còn ai ngoài đó nữa, bảo về Cha Pa gặp! Giờ đầu óc ta để cả vào bàn cờ, hũ rượu rồi.

                              Cô gái vượn trắng nói chuyền ra ngoài lòng chảo, bỗng nghe nhiều tiếng xôn xao, vẳng giọng Tàu hét tiếng ta lơ lớ ồm ồm như lệnh vỡ:

                              - Hầy a! Đến phiên ngộ! Nị nào cướp phần, ngộ cho phát pạc hoọc chết tươi.

                              Minh Thần ghé mắt dòm nghiêng ra, từ nẻo hồi tả, thấy dưới bóng tàn lọng, có mấy bóng cao lớn cãi nhau, giơ tay dậm dọa, tên khách vạm vỡ xốc pạc hoọc sấn sổ đi vào.

                              Nhưng mới được mấy thước, bỗng có một chiếc ghế đằng sau vượt theo, trên ghế có một chú khách trung niên mặc xường xám, thò tay túm lấy dây lưng tên khách vạm vỡ giơ bổng lên sát cỗ ghế, ghé tận mắt, cười âm trầm:

                              - Lộn xộn! Chưa đến phiên chú mày! Muốn ăn thua với "Xường Xám đại vương"?

                              - Hầy a! Sườn Xám Tài Wang? Ý a! Bỏ ngộ xuống ngộ chờ! Chú khách tự xưng "Xường Xám đại vương" quăng phịch gã vạm vỡ lại phía sau, giục ghế đăng sơn tiến vào!

                              Nhưng vừa chuyển động, bỗng cả người lẫn ghế, phu khiêng bị lôi xềnh xệch lại chỗ tàn lọng, cáng, võng, mặc dù chẳng thấy bàn tay nào túm. "Xường

                              Xám đại vương" ngoái cổ lại, giơ tay định đánh, chẳng thấy ai. Đám đông cười ồ, một bóng đàn ông từ từ nhô ra, nắm tay ghế giật nhẹ một cái, "rắc", ghế gẫy tung mấy mảnh, "Xường Xám đại vương" nhanh chân nhảy vèo xuống, giơ tay định đánh. Dưới trăng, nhìn rõ bóng đàn ông mặc quần áo giáp như viên tướng cổ, tay cầm một cây búa lớn, tuổi trạc quá ngũ tuần, phương phi bệ vệ, không ai khác Tửu Chúa. Y hất ham dõng dạc:

                              - Điện Tiền Chỉ Huy Bá Diện Thánh Quân! Nị muốn tranh? Tỉu nà! Không biết từ sáng qua Thánh Quân không muốn làm điếc tai "ngài bác học" nên đã theo đúng "luật giang hồ", nị không biết đến phiên Thánh Quân?

                              Lưỡi búa loáng lên, "Xườn Xám đại vương" đổi sắc mặt, cười hề hề, xua tay, lùi luôn vào đám đông, Tửu Chúa hô chìm:

                              - Thỉnh Thánh Quân giá nhập!

                              Minh Thần bỗng sinh hồi hộp chăm chú nhìn ra, sực nghe trong cáng gấm có tiếng phát ra, giọng đanh thép, lần này chỉ có một giọng:

                              - Điện Tiền! Đem lễ vật vào, đặt xuống, quay ra, trấn ngoài! Kẻ nào lại gần nhà sàn, cho ngươi gởi xuống âm ty!

                              - Xin vâng mạng! Tửu Chúa dắt búa, vọt lên bên cáng gấm, đội quả son lễ vật đường bệ tiến thẳng vào, cáng gấm vọt theo, do bốn ả nữ khiêng.

                              Đám khách tứ xứ ngó theo, im phăng phắc. Khi bọn Bá Diện tới bên thềm, cô gái vượn trắng trấn ngoài vùng hô:

                              - Cáng để dưới, người lên thôi!

                              Tửu Chúa cao giọng:

                              - Thánh Quân vào yết kiến, tùy cận rút hết!

                              Nhưng gái trấn thềm vẫn không muốn nhiều người làm rộn, lời qua tiếng lại. Đông Tửu chợt ngó ra, hỏi:

                              - Chuyện chi ồn ào đó?

                              - Bẩm, khách lại muốn đưa cả cáng lên!

                              - À! "Ma trăm giọng"! Lên cho xong! Hình như nhà ngươi có đợi ở cổng nhà họ Hoàng! Hà hà! "Ma trăm giọng" chịu khó thế?

                              Có tiếng trong cáng vọng lên:

                              - Túy tiên sinh giọng tỉnh, may cho Thánh Quân!

                              Lời dứt, Tửu Chúa đã đội quả lễ nhảy vọt lên thềm, cáng gấm bốc lên theo. Tưởng tàn tán chọc thủng mái nhà nhưng cáng vọt lên thì tàn tán cũng tự động hạ xuống mấy nấc, bọn gái khiêng vụt vào đầu hồi nhà bên hữu, cách chỗ Đông Tửu ngồi đánh cờ độ hai mươi bộ, Tửu Chúa đội quả lễ vật tiến lại. Bạch Viên Nương, Đông Tửu nhìn ra. Nữ lang động chủ Tây Phàn chợt nheo mắt cười thét:

                              - Ai như lão Tửu Chúa? Hà hà, mới theo hầu "Ma trăm giọng"? Tửu Chúa đặt quả, cúi đầu chào. Trong cáng, tiếng Bá Diện nói vọng ra:

                              - Uống rượu thi, thua, theo Thánh Quân, xung chức Điện Tiền! Đông Tửu cười khà khà:

                              - Ha ha! Chúa rượu có đủ ngai ngồi lại theo hầu "Ma trăm giọng". Ta ngờ uống gian quá! Đãi vò uống chơi!

                              Miệng nói, tay quơ một hũ rượu nguyên si trao cho Tửu Chúa, lão này đỡ lấy. Tiếng Bá Diện hô "Đem ra ngoài uống". Tửu Chúa lập tức cúi chào, ôm hũ rượu nhảy vèo xuống lòng chảo. Bọn gái khiêng cáng cũng nhất loạt chào, vọt theo.

                              Mấy gian nhà sàn trống vụt im phăng phắc, chợt "cạch", nắp quả son chạy sang bên, để lộ ra từng chồng bạc xòe, vàng lá, và hai cái bình sứ có đậy nắp. Tiếng Bá Diện nói vọng ra:

                              - Thánh Quân được tin Túy tiên sinh ngài về Cha Pa bất thần, vội đi ngay, không kịp sắm lễ vật, chỉ có chút lễ bạc lòng thành, mong Túy tiên sinh ngài thứ nạp!

                              Đông Tửu xua tay:

                              - Cầu kỳ! Trưởng giả! Lễ vật đem về, hỏi gì, ra hỏi! Tiếng Bá Diện vọng ra, chói tai:

                              - Xin Túy tiên sinh ngài uống thử bình rượu quý cho thêm phần minh mẫn! "Bá độc tinh xà" này chế luyện rất công phu, rút hết tinh túy nọc rắn, mật rắn, xác rắn, mỗi bộ đủ một trăm con, mỗi chất một trăm thứ, cất đủ một trăm lần, bách toàn đại bổ! Chỉ bậc đế tửu như ngài mới dùng nổi! Bình trái, còn bình phải là một cặp hồng xà để ngài nuôi chơi, huyết xà đại bổ!

                              Quả son từ từ trôi lại sát bên Đông Tửu. Chàng ta cầm lấy bình rượu bên trái mở nắp, đưa lên mũi ngửi, khen "thơm dữ à". Minh Thần nấp ngoài bỗng giật mình:

                              - Bá Diện, đến chủng loại cũng chưa ai biết giống chi, nói gì đến ruột? Y lòng dạ khôn lường, tiếng cầu gặp nhưng biết đâu chả có âm mưu? Đông Tửu uống rượu độc, có khi mắc kế hiểm...

                              Đang lo ngại dùm, bỗng thấy Đông Tửu ngẩng nhìn cáng gấm, cười khà:

                              - Ma Quân! Sao lại đãi ta thứ rượu quý có cả nọc "Kim Tàm Cổ"? Phải ngươi định nhờ ta chuyện chi quan hệ, tiết lộ xong, muốn ta mang bí mật xuống âm ty?

                              Vừa nói, chàng ta vừa thản nhiên ngửa cổ tu luôn mấy ngụm, Minh Thần trông thấy, rùng mình liền mấy cái. Đông Tửu đặt bình, nhấc bình bên hữu mở luôn nắp. Nhanh như điện xẹt, từ trong bắn "vút vút" ra hai luồng hồng quang loằng ngoằng, táp vụt bàn tay Đông Tửu. Ánh đỏ tắt, hiện ra hai con rắn chỉ bằng chiếc đũa, cổ bị kẹp dính chặt giữa hai ngón tay chàng say rượu. Hai con rắn vẫy đuôi mạnh, chàng ta gật gù bỏ vào bình đậy nắp như cũ, đặt xuống, cười:

                              - Hai con rắn này mổ trúng chết liền, cám ơn "Ma trăm giọng"! Hãy đem của nợ về!

                              Trong cáng chợt nghe Ma Quân Bá Diện cười sằng sặc:

                              - Hảo quân sư, quả xứng danh bác vật học đại tài, bỏ công Thánh Quân chầu chực!

                              Đông Tửu xua tay:

                              - Hoa ngôn! Nói gì ra đây hỏi cho xong!

                              Im mấy khắc, chợt có tiếng vọng ra:

                              - Thánh Quân cầu được vấn cách không?

                              Đông Tửu cười khà:

                              - Lại còn định dấu cả mặt với tên này? Muốn ta nói với tiếng vang à? Tiếng trong cáng vọng ra âm trầm, vẻ bất đắc dĩ:

                              - Trăm mặt, Túy tiên sinh muốn nói với mặt nào?

                              - Mặt thật! Tiếng thật!

                              - Thôi cũng được, nhưng còn chủ Tây Phàn? Bạch Viên cười lảnh:

                              - "Ma trăm giọng"! Giờ khách lại muốn đuổi chủ đi nữa sao? Im khá lâu, Minh Thần nấp ngoài chợt sinh hồi hộp lạ. Nhân vật kỳ bí này đã ám ảnh chàng không ít, sau mấy phen chạm trán. Đến nỗi có lần chàng ngờ y là một con ma xó phi phàm, đã thành tinh. Nhưng không phải đợi lâu, bỗng mảnh gấm phủ cáng vén chéo lên một góc, rồi từ trong bắn vọt ra một bóng đen lực lưỡng. Cái bóng bị quăng "véo" lên gần xà nhà, quay tít như trái cầu, rồi hạ xuống đứng sững bên cây cột gỗ, xế bên Đông Tửu. Ánh sáp lung linh chiếu tỏ khuôn diện, hiện ra một người đàn ông trạc tứ tuần, râu ria xồm xoàm quai nón như râu Trương Phi, mày sâu róm, hai con mắt sáng quắc coi dữ tợn hết sức. Y quét nhỡn tuyến nhìn Đông Tửu, Bạch Viên, phát tiếng ồm ồm giọng Tàu Quảng Đông:

                              - Chào Túy tiên sinh, Bạch Viên Nương! Thánh Quân mặt xấu, bất đắc dĩ mới lộ diện, xin đừng cười!

                              Minh Thần trông ra, đang quan sát từng chòm râu, đuôi mắt, sực nghe Đông Tửu cười ngất:

                              - Không thích nói chuyện với cái bóng! Sao lại đem người giả ra? Bạch Viên! Tiếp tục đánh cờ!

                              Hai người quay vào đi quân. Người đàn ông lực lưỡng cau mày định nói chi, chợt thở phì, cười ngất:

                              - Mắt cú! Sợ người thật lại chạy.

                              Dứt lời, y vọt vào trong cáng mất dạng. Sực nghe tiếng the thé vọng ra vừa đủ âm vang trong nhà:

                              - Tuy tiên sinh bức gái này quá lắm! Qua sông, Thánh Quân phải lụy đò! Rèm phủ lại vén lên, từ trong bắn ra một bóng nữ nhân, quay tít mấy vòng, đứng sững giữa nhà. Dưới ánh sáp, hiện lên một bà lão trạc bảy mươi, mặt mày nhăn nheo, mặc theo lối miền núi, rõ hơn là một bà lão Mán Tiền mặc quần áo chàm viền thêu chỉ ngũ sắc, quấn xà cạp trắng, đầu cũng chùm khăn chàm thêu sặc sỡ, xà tích treo lủng lẳng. Sự xuất hiện của bà lão Man Tiền, khác hẳn gã khách Quảng Đông vừa rồi làm Minh Thần không khỏi ngạc nhiên, tưởng trong cáng chẳng phải chỉ có một người. Chàng đang tính kế khám phá đã thấy Bạch Viên Nương kín đáo dùng hai ngón tay lật nhẹ rèm cang lên, nhè lúc bà Mán Tiền tiến về phía Đông Tửu. Cáng trống trơn! Bên kia cáng hồi nhà, trăng soi vằng vặc, con chuột chạy qua cũng thấy.

                              Bà Mán Tiền này mắt long sòng sọc nhìn láo liên, chưa kịp nói, Đông Tửu ngoảnh ra, buồn giọng:

                              - Sao cứ đưa mãi hình nộm ra gặp người ta? Không muốn thì thôi, can chi bí bí ẩn ẩn mãi? Ma Quân tính biến trá, không thật! Đây còn ai nữa đâu phải giấu?

                              Bà lão Mán Tiền nhảy vọt vào trong cáng, thân pháp êm như con chim cắt.

                              Minh Thần nấp hồi nhà bỗng thấy cành lá gần đấy rụng xào xạc như có gió luồng chạy, chàng giật mình vội bế điện áp sát lưng vào hốc đá, cảm thấy rõ một luồng nhiệt khí rẽ vụt qua trước mặt theo đường cánh cung, rồi cành lá im phăng phắc chỉ hơi lao xao gợn gió.

                              - Y thám sát bằng nhân điện! May dữ, kịp thời để ý không rồi còn gì.

                              Sực nghe trong cáng có tiếng vọng ra, lần này giọng đàn bà thánh thót như chim oanh:

                              - Túy tiên sinh! Điều Thánh Quân cần hỏi, cả thiên hạ may chỉ có Túy tiên sinh giải được. Thánh Quân phải đem lòng thành cầu hỏi Túy tiên sinh! Giọng êm ái hết sức, nghe như rót vào tai. Lời chưa dứt hẳn, rèm đã cuốn lên cao, từ trong bước ra một bóng nữ mười phẩn yểu điệu thướt tha.

                              Bóng nữ khoan thai bước lại đứng tựa cột, hương thơm ngào ngạt mấy gian nhà trống, khiến Đông Tửu, Bạch Viên phải ngoảnh nhìn ra ngay. Nàng đi hài sảo, mặc một cai áo dài rộng tựa "kimono" Nhật bằng sa tanh đen viền trân kim tuyến triện thủy ba, lấp lánh dưới làn ánh sáng lung linh, mỗi bước đi nhạc vàng khánh vàng đeo cổ chân phát âm trong vắt. Chỉ ngó dáng cũng đã đẹp rồi, nhưng nàng vẫn trùm một mảnh "voan" dầy như chàng mạng gái Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ.

                              Minh Thần vụt nín thở. Dáng nữ quen quen. Đông Tửu gật gù:

                              - Sao còn bịt mặt?

                              - Vẫn đeo thế! Tục lệ cổ truyền!

                              - À! Tục cổ đàn bà che mặt! Vậy Bạch Viên xuất tướng! Hà hà! Nước cờ ta đi xuất tướng, tuyệt! Đáng tự thưởng! Dứt lời chàng ta bê hũ tu một chặp, bóng nữ lang thở dài, thỏ thẻ:

                              - Cổ tục cũng thua! Túy tiên sinh! Gái này tối nay bị bức nhiều đó! Điện giật cũng không mạnh bằng, Võ Minh Thần nấp ngoài như nẩy bắn lò xo, kinh dị, mở to mắt còn ngờ chiêm bao. Chỉ suýt nữa đã bật kêu sửng sốt cực độ!

                              Comment

                              Working...
                              X