Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Càn Long Hạ Giang Nam

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Càn Long Hạ Giang Nam

    Càn Long Hạ Giang Nam


    Thanh Phong








    Hồi Thứ Nhất


    Thành Bắc- Kinh, hiền thần giữ nước
    Trấn Thại Long, Nhựt Thanh gặp vua





    Ðời nhà Minh từ lúc bị Lý Tự Thành soán nước của vua Thái Tổ, Thuận Trị Hoàng Ðế đem binh qua mà đánh lấy nước lại cải hiệu là Ðại Thanh, đóng đô tại BắcKinh, dùng người Mông Cổ cai quản việc quân, đi đánh dẹp từ Bắc chí Nam, tóm thâu thiên hạ, soán ngôi cai trị có chín mười năm dư, truyền đặng bốn đời vua, truyền đến vua Càn Long lên ngôi, vua này rất nên thông minh, việc văn đã hay, nghề võ lại giỏi, hiểu biết thiên văn, thông hay địa lý, những sách chư tử bá gia đều thạo.

    Thủa ấy thiên hạ ở yên, người người vui nghiệp làm ăn, tám phương đến cống, muôn nước tới chầu, ngựa thả về núi Nam Sơn, đồ binh khí dẹp vào kho, tu luyện việc văn rất nên có phước, tọa hưởng thanh bình.

    Ngày nọ vua Càn Long lâm trào, lúc canh năm đồng hồ điểm ba, bên tả giọng trống Long Phụng, bên hữu đánh chuông Kiển Dương, quan Nội Thị Thái Giám đàn hầu ra trước, cung phi mỹ nữ hầu sau, văn quan võ bá chầu hai bên, vua ngự Kim Loan Ðiện ngồi trên Long Sàng, kế đến quần liêu lớn nhỏ đồng tung hô triều bái, xong rồi, vua truyền chiếu chỉ rằng :

    - Từ khi trẫm thừa nghiệp Thánh Tổ Thần Thông mà nối ngôi báu này, dưới nhờ sức chư khanh, trên nhờ trời ủng hộ, gió thuận mưa hòa, nước mạnh dân an, hưởng nghiệp thái bình, muôn dân hưởng phước, lúc rảnh rang trẫm có ngụ một câu đối, nếu chư khanh ai đối được sẽ trọng thưởng.

    Khi ấy các quan đại thần đều tâu :

    - Xin Bệ hạ ngự phê cho chúng tôi biết.

    Vua liền dạy Nội thị đem văn phỏng tứ bửu và giấy kim tương rồi phê câu ấy như vầy :

    "Thượng Ðế lúc hành binh, trống sấm, cờ mây, đao gíó, tên mưa, trời bố trận."

    Lúc ấy các quan coi rồi đứng trân trân nhìn nhau, không ai đối đặng.

    Vua thấy tình hình bá quan văn võ như vậy thì lấy làm buồn, không đẹp ý, giây phút có một vị đại thần, làm chức Văn Huê Ðiện Học Sĩ là Trần Hoằng Mưu bước ra vừa muốn tâu ; vua liền hỏi :

    - Khanh đối đặng được chăng?

    Trần Hoằng Mưu tâu :

    - Tôi đã già cả, tài lực siển lậu, đối sao cho đặng, nhưng mà có một người ở phủ Quảng Châu, huyện Phan Ngang, tên Thành Tu, tài cao học rộng, chắc đối câu ấy được, xin Bệ hạ cho đòi người ấy đến.

    Vua hỏi :

    - Người ấy bây giờ ở đâu? "

    Trần Hoằng Mưu tâu :

    - Ở tại nhà tôi.

    Vua bèn sai Huỳnh Môn Quan đến đòi Phùng Thanh Tu.

    Khi ấy Huỳnh Môn Quan lãnh chỉ đến phủ Trần Hoằng Mưu, mở ra đọc, thì Phùng Thành Tu liền lạy tạ xong rồi theo Huỳnh Môn Quan đến Ngọ Môn thẳng vào chầu vua, quì lạy mọp dưới bệ vàng, chúc dâng muôn tuổi.

    Vua phán hỏi :

    - Trẫm nghe nhà ngươi tài cao học rộng, thấy cao xa, nên đòi nhà ngươi đến mà đối cho xứng câu đối của trẫm thì trẫm sẽ trọng thưởng.

    Phùng Thành Tu tâu rằng :

    - Tôi bậc Tiến Sĩ, học ít, tài thưa, nay Trần Lão Sư tiến cử, e đối không xứng, một là mang nhục, hai là bị tội với triều đình, vậy xin Bệ hạ thứ tội cho tôi coi thử câu đối ấy.

    Vua bèn lấy câu đối đưa cho Nội thị giao lại cho Phùng Thành Tu xem sơ qua, coi bộ không lo tính chút nào, liền cất viết biên đối rồi trao cho quan Ðiện Tiền dâng cho vua xem.

    Vua thấy chữ viết như phượng múa, rồng bay, chữ hay vô gía, đối chỉnh vô cùng.

    Câu đối như vầy :

    "Long Vương đêm đãi yến, đèn sao, đuốc nguyệt, gỏi non, rượu biển, đất làm mâm."

    Thiên Tử xem rồi liền vỗ tay cả cười, khen đối rằng :

    - Thật là khanh tài học che khắp Trung hoa, rất khá mừng.

    Rồi ngó chăm chăm Phùng Thành Tu, thấy mày xanh rất lịch, mắt tốt thêm xinh, áng trang tài mạo, mở miệng thành thơ, rất nên bặt thiệp, bèn ban thưởng tại Kim Ðiện ba ly Ngự tửu và vàng bạc lụa là rồi cho người đưa về phủ Trần Hoằng Mưu, chờ ngày hội thi rồi sẽ ban thưởng nữa.

    Khi ấy Phùng Thành Tu rất nên đắc chí và mừng rỡ, cúi đầu lạy tạ ơn vua, rồi trở về Trần phủ.

    Khi ban thưởng Phùng Thành Tu rồi, vua phán hỏi các quan đại thần rằng :

    - Nay trẫm muốn xuống Giang Nam chơi một phen, có khanh nào theo bảo giá đặng chăng?

    Vua hỏi đã ba lần, các quan không ai tâu lại; Thiên tử nổi giận liền nói :

    - Quả nhơn không cần bọn ngươi bảo giá, quả nhơn đi một mình cũng chẳng hại gì.

    Bèn dạy lui chầu, vua vào đền Nhân Hòa liền ngự bút tả một đạo chỉ cho quan Thái giám là Vinh Lộc mà dạy rằng :

    - Ta qua Giang-Nam chơi, xem phong cảnh có lâu thì mười năm, bằng mau cũng chừng năm năm sẽ trở về, vậy rạng ngày mai khanh hãy giao chiếu này cho quan Ðai Học Sĩ là Trần Hoằng Mưu và Lưu Dung .

    Dặn rồi liền giả dạng thương khách tuốt ra cửa sau Tế Môn mà lên đường.

    Qua ngày sau, lúc canh năm, các quan hội chầu, thì quan Thái Giám Vinh Lộc liền giao chiếu chỉ của vua cho quan Ðại Học Sĩ Trần Hoằng Mưu và Lưu Dung, hai ông này bèn giở chiếu chỉ ra xem, thấy dặn như vầy :

    - Nay ta lìa đất Yên-Kinh, dạo chơi Giang Nam, như trễ thì trong mườị năm, mau chừng năm năm thì ta sẽ về, giang san việc lớn này giao cho Trần Hoằng Mưu hiệp cùng Lưu Dung cũng như trẫm vậy, chớ khá nghịch chỉ, kính thay, kính thay.

    Các quan nghe đọc chiếu chỉ xong rồi chẳng vui, ai nấy đều lui về phủ của mình.

    Nói về vua, khi ra khỏi Tế Môn rồi, đi thẳng đến trấn Thại Long thấy đường xá, chợ búa đông đảo vô cùng, thiên hạ dập dìu, lại thấy một cái tửu lầu cao đề hiệu là Ỷ Nam Lầu để đãi thường sĩ, mười phần đẹp đẽ, lại thấy một cái nữa đề hiệu là Mãn Hán Tửu Lầu, để cho quan khách quí.

    Vua liền bước thẳng lên lầu ngồi ngay bàn giữa, tiểu nhị liền đến hỏi :

    - Chẳng hay quan khách dùng rượu hay là cơm?

    Vua nói :

    - Tiệm ngươi có món gì ngon và rượu quí thì dọn ra cho ta.

    Tiểu nhị lật đật dọn đồ ăn cao lương mỹ vị và đứng một bên rót rượu ngon cho vua dùng.

    Khi ấy vua vừa uống vừa hỏi :

    - Vậy chớ ở trấn Thại Long nầy vì cớ nào mà đông đảo vậy?

    Tiểu nhị thưa rằng :

    - Ðường này thẳng đến Kinh Sư, lại ngày nay sẵn dịp dựng cờ trong hội Tế Thần, nên mới đông đảo dường ấy. Vậy rạng ngày mai, quan khách đến đó xem chơi.

    Vua gật đầu.

    Qua ngày sau, vua ăn lót lòng xong, rồi gởi đồ hành lý của mình cho tiệm giữ, liền dời chân ra đi, thấy chợ búa người ta đông như kiến cỏ, phố phường hàng hóa đầy dẫy, buôn bán phồn thịnh, gái trai không chọc ghẹo lẫn nhau, vua thấy cảnh tượng thái bình, mười phần vui đẹp ; đi đến nửa ngày trời, bụng cũng vừa thấy đói, lại thấy trước mặt có một tửu lầu đề hiệu là Tụ Thăng Lầu, dọn dẹp rỡ ràng, sửa sang rực rỡ, lầu nầy ba từng cao chừng vài trượng, lại có đờn ca xướng hát rất vui tai, ngoài cửa lại có bảng đề chữ vàng như vầy :

    "Bao biện Nam Bắc Mãn Hán tửu tịch."

    Khi ấy vua bước vào thấy khách ngồi chật hết rồi, vua bèn bước lên từng thứ nhì, thấy khách tuy ít nhưng đồ trần thiết dọn dẹp nghiêm trang hơn từng dưới bội phần, vua bèn lên thẳng đến từng thứ ba, thấy chưng những cổ tích, danh nhân, vật báu, đồ xưa rất nên thanh nhã, vua lấy làm đẹp ý bèn lựa một chỗ mà ngồi, tửu nhị liền chạy lại hỏi :

    - Quan khách xem bảng đây coi muốn dùng món chi đặng tôi sửa soạn.

    Vua nói :

    - Vậy có món chi ngon ngươi hãy dọn ra cho ta dùng.

    Tửu bảo lật đật đi lấy các món ngon, và rượu tốt dọn ra.

    Vua ăn uống lấy làm vừa ý, lại thấy dưới đường, kẻ qua người lại, đủ các sắc dân rất nên đông đảo ; vua lấy làm vui ăn uống cho đến tối, thiên hạ tan thì vua đà say, liền thong thả bước xuống lầu, khi ấy Tửu bảo tính số tiền là tám lượng, sáu chỉ, bốn phân, bèn nói :

    - Xin quan khách hãy trả tiền rồi hãy đi.

    Vua lật đật thò tay vào túi, không dè túi trống trơn, mới chưng hửng, biết mình bỏ quên tiền nơi tiệm ngủ, liền nói với Tiểu nhị rằng :

    - Nay ta quên đem tiền, vậy để mai sáng sẽ trả đặng chăng ?

    Tửu bảo nói :

    - Nói như lời quan khách đây, vậy thì mỗi người tới đây ăn uống cho no nê rồi nói bỏ quên tiền, thì tiệm phải dẹp, chớ chịu sao kham, nếu ông không có tiền thì phải để áo lại để thế chân, mai đem tiền sẽ chuộc lại.

    Vua nghe liền nổi giận nói :

    - Như ta đây không thế áo thì mầy sẽ làm gì nào ?

    Tửu bảo nói :

    - Nếu không thế áo thì không được bước ra khỏi cửa, dẫu cho Hoàng Ðế đến tiệm này ăn uống không tiền trả cũng phải cởi Long bào thế mới đặng được đi.

    Vua cả giận nạt lên một tiếng như sấm, liền đạp Tửu bảo té xuống, đánh cho một hồi, không ai dám can, người trong tiệm bỏ chạy ra ngoài, thoạt có một đứa đồng tử, môi son, răng trắng, mắt tốt mày xanh, đường đường diện mạo, đáng bực nhân tài, lật đật bước lên can.

    Vua thấy đồng tử dáng dấp đẹp đẽ liền bớt giận, dừng tay thôi đánh, rồi quay qua hỏi đồng tử :

    - Vậy chớ mi nhà ở tại đâu, tên họ là chi, có bà con gì với tiệm này chăng ?

    Ðồng tử trả lời rằng :

    - Trong bốn bể đều là anh em, thấy những việc bất bình, không lẽ khoanh tay mà ngồi coi, chớ tôi không phải bà con thân quyến chi với Tửu bảo này. Tôi thấy đại nhân đây, là người hảo hán, nên phải can gián, xin đại nhân bớt cơn nóng giận, người xưa có nói rằng : Nhơn tình lưu nhứt tiếng, nhựt hậu hảo tương kiến nên tôi mới can gián, chớ tôi đây là họ Châu tên Nhựt Thanh, nhà tôi thì ở gần đây, xin mời đại nhân hạ gía đến nhà tôi chơi đặng chăng ?

    Vua thấy người trẻ ấy, tuổi còn nhỏ, mà ăn nói thông minh, đi đứng tề chỉnh, bèn đem chuyện Tửu bảo thuật lại cho tên đồng tử nghe.

    Khi ấy đồng tử nói rằng :

    - Việc nhỏ mọn xin đại nhân hãy bỏ qua cho.

    Nói rồi liền lấy bạc trả thế và dắt tay vua ra khỏi cửa và thưa rằng :

    - Chẳng hay đại nhân tên họ là chi, xin vui lòng tỏ cho tôi biết, rồi đi ngay đến nhà tôi đàm đạo chơi.

    Vua thấy đồng tử nầy tánh ý khẳng khái, lại có dạ ân cần thì lấy làm ưng ý, bèn đáp rằng :

    - Ta họ Cao tên Thiên Tứ, quê ở Bắc-Kinh.

    Ðang lúc trò chuyện, hai người đã đến nhà của Nhựt Thanh, vua liền hỏi :

    - Vậy chớ tiền của nhà ngươi ở đâu mà có, hay của ai cho, mà ngươi dám trả thế mười lạng bạc cho ta, nếu như cha mẹ ngươi hạch hỏi thì nói thế nào cho xong ?

    Nhựt Thanh thưa rằng :

    - Cha tôi đã qua đời rồi, còn lại một mình mẹ góa con côi mà thôi, xin bác ngồi chơi đây, tôi vào thưa cho mẹ tôi hay.

    Nói rồi quày quả vào nhà trong thưa tự sự cho người mẹ hay.

    Người mẹ tên là Huỳnh thị An Nhơn thấy con mình tuy còn nhỏ tuổi mà tánh ý khẳng khái, lại có chí giao kết với đời thì lấy làm vui mừng, liền hối con đem trà ngon ra đãi.

    Vua bèn nói :

    - Người hãy vào thưa là ta muốn kính thăm lịnh tôn mẫu.

    Lúc ấy bà Huỳnh thị An Nhơn núp sau tấm bình phong, thấy vua mày tằm mắt phụng, tướng mạo phi thường, lại nghe vua nói mấy lời đó thì chạy ra và đáp rằng :

    - Tôi đâu dám chịu lời chúc lành.

    Vua bèn hỏi bà mẹ rằng :

    - Vậy chớ lịnh lang đây tuổi đặng bao nhiêu, xem bộ người tuấn tú, sao không cho đi học, đặng ngày sau có lập thân danh ?

    Huỳnh thị An Nhơn thưa rằng :

    - Tuổi nó mới đặng mười lăm, cũng có học hành sơ lược, chỉ hiềm có một điều nó hay kết bè kết bạn, học tập nghề võ, không thích đọc sách cho lắm, xin quí nhân rộng tình chỉ biểu và dạy dỗ cho nó, thì tôi rất đội ơn và có phước lớn.

    Vua nói :

    - Tôi có một việc muốn tỏ, song còn aí ngại, không biết ý bà có bằng lòng chăng ?

    Nguyên lịnh lang đây tánh tình khẳng khái, thế nào cũng có phước trở về sau, chẳng lẽ để khư khư ở dưới tay người, còn tôi đây là môn hạ của Ðại Học Sĩ Lưu Dung, ý tôi muốn xin nó làm con nuôi, sau đó sẽ tuyển kiến cho nó lập thanh danh, chẳng biết ý Phu nhân có bằng lòng chăng ?

    Huỳnh thị nghe nói cả mừng, bèn thưa rằng :

    - Như quí nhân đây có lòng cố cập bảo bọc con tôi, thật là phước của nhà tôi, ơn ấy tôi đâu dám quên.

    Bèn dạy Châu Nhựt Thanh làm lễ lạy vua và chịu làm con nuôi.

    Vua liền cho Nhựt Thanh một hột Trân châu gọi là lễ bái kiến.

    Nhựt Thanh lãnh ngọc tạ ơn, rồi giao cho mẹ cất.

    Khi ấy Huỳnh thị hỏi vua rằng :

    - Chẳng hay quý nhân muốn đi chơi chốn nào đặng con tôi nó theo với.

    Vua nói :

    - Nay ta muốn qua Giang Nam chơi, như có lịnh lang đây đi theo thì càng tốt.

    Huỳnh thị vâng lời, bèn khiến gia nhân dọn cơm nước xong xuôi, thì Nhựt Thanh sửa soạn đồ hành lý rồi lạy mẹ mà theo vua thẳng đến chỗ ngụ cũ là tiệm Ỷ Nam Lầu ở đó nghỉ một đêm, rạng ngày ăn uống, tính tiền trả cho tiệm xong rồi, hai cha con khởi trình nhắm Hải Biên Quan mà đi thẳng một đường, ngày đi đêm nghỉ.

    Khi đến Hải Biên Quan thì trời còn sớm, vào tiệm Nhơn Hòa mà nghỉ chân.

    Tiểu nhị dọn phòng sạch sẽ và sắp đặt đồ hành lý có thứ lớp, rồi đem nước rửa mặt và một bình trà ngon ra cho vua rửa mặt, chải gỡ tử tế.

    Vua hỏi Tiểu nhị rằng :

    - Vậy chớ ở đây có chỗ nào phong cảnh tốt đặng chơi bời chăng ?

    Tiểu nhị thưa :

    - Ở đây cũng có nhiều nơi, nhưng mà cũng tầm thường thôi, chỉ có chỗ Hạnh Huê Lầu của Diệp công tử tên Diệp Khánh Xương lập nên rất đẹp đẽ, trong đó có hoa viên, đài các, cực kỳ hoa lệ, mà lúc nào có công tử ở đó uống rượu thì cấm không cho ai đến, như quan khách đến đó chơi nhằm lúc không có công tử thì rất tốt, chớ công tử ấy thì mỗi ngày đều có ở đó uống rượu trưa mới về phủ.

    Bây giờ còn sớm, quan khách đến đó chơi rồi trở về, dùng cơm tối cũng vừa.

    Vua hỏi :

    - Chủ tiệm tên họ là chi ? Ước gì ta gởi đồ hành lý ở đây để đi chơi đặng chăng ?

    Người ấy trả lời rằng :

    - Tôi họ Châu tên Hồng, cậu mợ tôi họ Nghiêm tên Linh, người giầu có, cậu cháu tôi từ thủa nay ở tại đây, xin quan khách cứ việc tự tiện để đồ ở đây để đi chơi rồi trở về, không hề chi phòng ngại.

    Vua lại hỏi :

    - Vậy chớ đi đường nào để đến đó ?

    Chủ tiệm nói :

    - Cứ đi theo đường cái phía Ðông, rồi qua đường Hải Biên Nhai thấy một cái lầu cao hơn hết ấy là chỗ đó.

    Vua cám ơn rồi cùng Nhựt Thanh bèn đi đến lầu ấy mà chơi.

    Từ ấy khơi ra họa lớn, tưởng tánh mạng không còn.

    Có một bài thơ đề như vầy :

    Khuyên đừng khinh dễ việc nhàn du,
    Dấy việc phong ba đến oán thù,
    Thiên Tử dầu rằng danh gía trọng.
    Gặp cơn khốn đốn phải lao tù !

    Khi ấy vua cùng Nhựt Thanh đi đến Hải Biên Nhai quả nhiên có thấy một tòa lầu cao, tường xây bốn phía có trồng bông rực rỡ, trên có bảng vàng đề : " Tân Khánh Tửu Lầu " liền bước đến cửa, thấy hai bên bông hoa kiểng vật thật là tao nhã, lại thấy lầu kế bên thiên hạ chật cứng như nêm, ý muốn bước lên, xẩy thấy Tửu bảo bước xuống cười và nói : " Khách quan đến trễ, có khách đến chật lầu hết chỗ, xin miễn chấp để bữa khác sẽ đến dùng rượu."

    Vua nói :

    - Không phải là ta muốn uống rượu, chỉ muốn ngươi dắt ta đến Hạnh Huê Lầu chơi một giây phút ta sẽ đền ơn cho ngươi.

    Tửu bảo ngẫm nghĩ một hồi, nhủ thầm rằng :

    - Diệp công tử đến chiều tối mới trở lại Hạnh Huê Lầu, bây giờ cũng còn sớm. Bèn nói với vua rằng :

    - Như quan khách đây muốn qua Hạnh Huê Lầu chơi cho biết, thì nghe tôi đề nghị như vầy, thì tôi mới dám.

    Một là, xin đừng phá phách vật chi trong ấy ; hai là phải về cho sớm chớ không được trù trì mà sanh sự khó cho tôi. Vua trả lời rằng :

    - Ta sẽ y theo lời ngươi dặn, không can chi mà phòng sợ.

    Khi ấy Tửu bảo dẫn vua và Châu Nhựt Thanh đến Hạnh Huê Lầu, tới nơi liền mở cửa ngỏ ra thì có một đường đi thẳng vô đều lót những đá cẩm thạch coi thật rực rỡ, lại có một cái nhà mát, trên ngạch có một tấm biển nền đen chữ xanh, đề : " Hạnh Hoa Xuân Võ " bước vòng qua hậu đình ( nhà sau ), thấy những cây tùng bá xum xuê ; cỏ hoa thạch mậu, liên tiếp có tòa lầu cao lớn ngó rất nguy nga rực rỡ, có xây non bộ, cảnh vật thật là phi thường, lại ngó xa xa thấy nước biếc trùng trùng, sóng dợn cuồn cuộn, tòa lầu cực kỳ hoa lệ, tinh xảo vô giá, kể đà không xiết, Hạnh Huê Lầu ở giữa, có cầu phi lộ, liên tiếp đến ba từng lầu, hai bên lan can đều cẩn chữ Tiểu, chữ Vạn, cao đến nửa lưng chừng trời rất nên mát mẻ, chỗ ấy để chơi theo mùa hạ, nóng nực, và cũng có chỗ khác để chơi theo mùa đông, bước vào lầu, hai bên lan can có để những Tố Tâm Lan trồng trong chậu bông, bước vào trong thấy bốn bên chưng những hình Phong Hỏa Tử, biển cẩn đều bằng cây trầm hương, bạch đàn cẩn năm sắc ngọc pha ly và lục bình chưng những bông tươi. Các thứ ghế thì bằng cây tử đàn hương, trạm trổ rất khéo, và cẩn đá vân thạch, còn chữ trong biển liễn, đều là người danh nhân thuở trước viết đồ ngoạn khí, cổ đồng lâu đời trong thế gian ít có.

    Vua xem khắp chỗ rồi ngó vô trong lầu thứ ba, thấy có dọn sẵn một tiệc rượu tử tế, bèn hỏi Tửu bảo rằng :

    - Sao hồi nãy ngươi nói không còn chỗ nào dọn ăn, vậy chớ chỗ này ngươi để dành cho ai, hay là nguơi nói ta không xứng đáng chăng ? Mi phải mau mau lấy rượu đem ra đây cho ta ăn uống thì ta sẽ trọng thưởng.

    Tửu bảo thất kinh lật đật thưa rằng :

    - Tiệc ấy của Công tử đợi đến giờ thân thì người đến dùng, bây giờ ai dám dọn ra cho khách quan dùng, bởi vậy khi nãy tôi có nói với khách quan rằng :

    - Chơi trong giây phút rồi phải về, kẻo để đến giờ thân Diệp Công tử đến, ắt tánh mạng tôi không còn mà lại quan khách cũng không tránh khỏi vạ lây nữa.

    Vua cả giận liền nạt mà nói rằng :

    - Ðồ nói bậy, mi sợ Diệp Khánh Xương, chớ ta thì không sợ.

    Liền nắm Tửu bảo giơ lên như xách con gà giò một thứ, rồi đưa de ra ngoài lan can mà nói rằng :

    - Mầy chịu y theo lời ta chăng ? Như chịu thì ta dung, bằng không thì ta quăng xuống lầu chết lập tức bây giờ.

    Tửu bảo sợ chết thất kinh thưa :

    - Xin ông tha cho tôi, tôi sẽ vâng lời ông.

    Vua liền để Tửu bảo xuống mỉm cười và nói :

    - Tao tha cho mày rồi đó, vậy phải vâng theo lời tao, dẫu Diệp Khánh Xương đến nói gì, thì có tao đây, mầy đừng sợ.

    Khi đó Tửu bảo không biết tính thể nào, nên phải đánh liều nhắm mắt tới đâu hay tới đó, bèn đem rượu và đồ ăn dọn ra cho vua và Nhựt Thanh dùng.

    Ðang lúc vua ăn uống, thì Tửu bảo lén cho người thông tin cho Diệp Công tử hay.

    Vua cũng không hay biết cứ việc ăn uống thỏa thuê.

    Nói về Diệp Khánh Xương là con Diệp Thiệu Hồng làm quan Ðề Ðốc, trấn tại Hải Biên Quan, Diệp Khánh Xương này rất là gian ác, ỷ thế uy quyền của cha, nên cướp ruộng đất của người, giựt vợ con thiên hạ, bắt gái tơ làm thê thiếp khắc bạc trăm họ, hãm hại thương khách, dữ hơn quân cường đạo, nên trong nhà mới giàu sang dường ấy.

    Diệp Thiệu Hồng thấy con dữ tợn như vậy lại lấy làm vui đẹp mười phần, mới nghị kế dùng hiệp ý cùng nhau, muôn dân ta thán.

    Bởi vậy nên mới có tiền bạc nhiều mà cất cái Hạnh Huê Lầu ấy, lại hiệp đảng nuôi quân hoang, đặng thiết kế hại người, mỗi ngày đều hiệp bọn tâm phúc bầy cáo lũ muông đến đó ăn uống toa rập mưu kế.

    Ngày ấy đang ngồi bàn luận cùng nhau, xảy thấy gia đinh giữ Hạnh Huê Lầu chạy về báo rằng :

    - Có hai người ở đâu không biết, đến Hạnh Huê Lầu biểu Tửu bảo phải dọn đồ ăn nội tiệc của Công tử sắm sửa đó cho chúng nó ăn.Tửu bảo không chịu dọn, chúng nó đòi đập chết Tửu Bảo, bây giờ chúng nó còn đang ngồi ăn uống với nhau tại tiệc, xin Công tử đến đó cho mau đặng trừ chúng nó.

    Công tử nổi giận như lửa đốt, tức thì truyền lệnh cho nội gia đinh, những quân sát nhân và bọn giáo đầu (1) hơn một trăm, đều cầm binh khí thẳng riết đến Hạnh Huê Lầu, rồi Công tử truyền lịnh cho quân ấy phân ra bao giữ từng dưới, cửa trước cửa sau, hễ nghe lịnh hô bắt thì bắt, nghe hô giết cứ giết, nếu ai để cho chúng nó chạy thoát thoát khỏi, thì người ấy có tội nặng.

    Dặn dò xong gã liền dắt tám tên giáo đầu thẳng tuốt lên trên từng lầu thứ ba, thấy một người ước chừng bốn mươi tuổi mày tằm, mắt phụng, oai phong lẫm liệt, tướng mạo khôi ngô, lại một đứa trẻ trạc chừng mười ba mười bốn tuổi, mắt tốt, mày xanh, tướng mạo coi tuấn tú, đang ngồi ăn uống tại bàn, còn Tửu bảo thì đứng hầu một bên coi bộ buồn rầu sợ sệt.

    Công tử cả nạt rằng :

    - Ðồ thất phu, thôn dã ở đâu mà dám tới đây làm oai, bức Tửu bảo ép nó dọn tiệc của ta sửa soạn mà ăn trước, chúng bây muốn chết mới động đến ta, chớ không nghe danh ta sao ? Mau nói tên ra đặng ta đưa chúng bây về âm phủ cho rồi. "

    Khi đó Tửu bảo thấy Công tử thì lật đật quì thưa rằng :

    - Tôi không chịu dọn, chúng nó một hai bức biểu tôi phải dọn ra cho chúng nó ăn, bằng không thì đánh chết, xin Công tử rộng lòng dung thứ.

    Nói rồi cúi đầu mọp dưới đất.

    Vua thấy công chuyện như vậy bèn vỗ tay cười lớn.

    Last edited by binhyentrongtim; 05-05-2013, 10:35 AM. Lý Do: chinh hinh

  • #2
    Hồi Thứ Nhì


    Hạnh Huê Lầu, quân gian bị giết,
    Hải Biên trấn, thần thánh cứu vua



    Khi vua cùng Châu Nhựt Thanh đương ăn uống tại Hạnh Huê Lầu, thấy một lũ kéo lên như hùm, có một người đi trước, đầu rắn, mắt chuột, hình dạng khô ốm, tiếng như đồng la bể, chạy đến buông lời nói hỗn hào, và thấy Tửu bảo quì mọp kêu là Công tử, thì biết là Diệp Khánh Xương, vua thấy vậy vỗ tay cả cười mà nói :

    - Lão gia đây họ Cao tên Thiên Tứ, còn thằng này là con nuôi ta, tên là Châu Nhựt Thanh. Nay ta tình cờ đến lầu này thấy cảnh vật đẹp đẽ lại có tiệc dọn sẵn, thì ta hứng cảnh chơi một chút, như nhà ngươi biết thú vị cùng nhau chơi bời, thì ta chịu lỗi, rồi bồi thường cho, bằng ngươi buông lời hỗn hào không nghĩ, ắt là lũ bay chết tại đây không còn một đứa, chừng ấy mới biết tay ta.

    Diệp Khánh Xương nổi giận, mặt phừng phừng như lửa đốt liền hô :

    - Mau bắt cho ta.

    Mấy tên giáo đầu cầm binh khí chạy lên như dông, lúc đó vua tay không, bèn vác ghế ngồi đánh lại, sức mạnh vô cùng, mấy tên giáo đầu đều ngã lăn, Diệp Khánh Xương thấy thế cự không nổi, lật đật chạy vấp té, vua chạy lại nắm hai tay đưa lên, ai nấy thấy đều thất kinh, muốn áp lại cứu mà không kịp, vua liền quăng Khánh Xương xuống lầu như quăng trái tú cầu một thứ, rớt xuống giả sơn nát như tương, bọn ấy thấy vậy thất kinh, chạy về báo cho Ðề Ðốc hay.

    Còn mấy tên giáo đầu còn lại đều sợ không dám đánh nữa, lật đật chạy xuống bao giữ các cửa lầu không cho vua ra khỏi.

    Lúc ấy vua và Nhựt Thanh hiệp sức bắt trên lầu đánh xuống, mỗi từng đều bị ghế đứng cản trở, ra sức dẹp thì mười phần khí lực đã mệt hết ba, ra gần đến cửa thì thấy quân ngăn cản vô số, vua lượm đặng một cặp song kiếm, còn Nhựt Thanh thì được hai cây thước sắt.

    Lúc ấy hai người cũng như cọp thêm vây, ráng hết sức đánh chết có hơn vài mươi người, bởi lũ nó đông lắm, liều chết áp vây chặt cứng.

    Nói về Diệp Thiệu Hồng là Ðề Ðốc tại Hải Biên Quan đang chơi dỡn với hầu thiếp, xảy thấy hai tên quân chạy đến quì khóc mà báo rằng :

    - Diệp Công Tử đã bị hai tên cường nhân quăng xuống lầu nhằm giả sơn chết nát như tương.

    Diệp Thiệu Hồng nghe báo liền ngã chết giấc nơi ghế giao ỷ, mấy người hầu thiếp thất kinh, lật đật đem thuốc đổ một hồi mới tỉnh lại, liền hỏi tự sự trước sau, hai tên quân ấy thưa lại đầu đuôi cặn kẽ, và nói :

    - Hai tên cường đồ ấy bây gìơ còn bị quân ta ráng sức liều chết vây tại đó chưa ra khỏi, xin lão gia đem binh thêm, vây bắt mới đặng.

    Khi ấy Diệp Thiệu Hồng lòng như lửa đốt, ruột tợ kim châm, tức thì điểm hết binh mã ngũ đinh, tứ lý, bổn thân kéo đến Hạnh Huê Lầu, và truyền lịnh cho các sắc nhân dân ai bắt đặng sẽ trọng thưởng, rồi Diệp Thiệu Hồng lên trên cao coi đốc sức cho quân sĩ vào bắt, nhưng thấy có mòi cự không lại, còn hai tên hung đồ ấy thì gần vuột ra khỏi, bèn truyền lịnh cho quân sĩ lấy dây giăng mà bắt.

    Vua lúc ấy đương đánh, thấy binh kéo thêm đến đông lắm, biết có binh tiếp viện, thì biểu Nhựt Thanh ráng sức đánh chạy ra, rủi Nhựt Thanh bị dây vấp té xuống, vua lật đật chạy lại cứu, cũng bị vướng dây mà té, nhưng mà vua là đầu cổ muôn dân, nên có thần nhân ủng hộ, khi ấy chân long xuất hiện ra muôn đạo kim quang che đỡ trong mình, khí xung thấu đến Linh Tiêu Ðiện, nhằm lúc Ngọc Ðế ra chầu đương tra xét việc lành dữ trong nhân gian, xét đến Diệp Thiệu Hồng là quan Ðề Ðốc tại Hải Biên Quan, nguyên kiếp trước là con khỉ tu luyện đã ngàn năm, và con chuột ở Thái Hành Sơn tu đã tám trăm năm, hai con ấy có trần trần duyên làm cha con cùng nhau, nên cho đầu thai xuống hạ giới, đặng phò vua ngay thẳng, giúp nước thương dân, ai ngờ hai người đầu thai vào được nhà quan rồi, thì quên lời dặn trước, tàn hại muôn dân, gian tham sàm nịnh, không dữ nào mà chẳng làm, không gian nào khỏi phạm.

    Bởi vậy nên Thần Kỳ đã về tâu các việc ấy với Ngọc Ðế. Ngày ấy Ngọc Ðế tra xét đến chuyện ấy, thì vỗ ghế cả giận, xảy có quan Thủ Ðiện quì tâu rằng :

    - Cha con Diệp Thiệu Hồng dữ tợn dẫy đầy.

    Ngọc Ðế bèn truyền lịnh cho bổn xứ Thành Hoàng đem các Vị Thần và Thổ Ðịa đến bảo hộ đương kim Hoàng Ðế. Nguyên Thành Hoàng này khi trước làm quan Thái Thượng, huyện Gia Ðịnh, tên là Lục Gia Thơ ; khi mãn số, Ngọc Hoàng thấy chánh trực nên cho nhậm chức Thành Hoàng tại đó, từ khi đáo nhậm đến nay đã hơn một năm, lấy làm giận cha con họ Diệp về việc tham lam, tàn bạo, mà không nỡ trách phạt, cũng tưởng để cho chúng nó cải giữ làm lành cho tiêu trừ quấy trước, té ra chúng nó cũng cứ theo thói dữ làm hoài.

    Nay có lịnh Ngọc Ðế phán ra, liền truyền cho các thần Thổ Ðịa cùng văn võ Thần Binh đồng đến Hạnh Huê Lầu, gặp Diệp Thiệu Hồng đương khiến binh gia vây phủ, Thành Hoàng cả giận giơ tay chỉ ngay bụng của Diệp Thiệu Hồng. Khi ấy Diệp Thiệu Hồng phát đau bụng la lên một tiếng lớn té nhào xuống đất, những quân thủ hạ bầy muông, lũ cáo thấy vậy, bỏ việc vây bắt vua, liền chạy lại thấy Diệp Thiệu Hồng mặt mày xanh lét, máu trào ra hơn vài chén mà chết. Quân sĩ khiêng về phủ, tướng sĩ không biết cớ gì, đều kinh hãi ; còn cả thành nhân dân rùng rùng đến coi ; kẻ nói :

    - Tại tức mình mà chết.

    Người thì nói :

    - Bị tên người khuất mặt bắn .

    Còn mấy tay học hành thông thái lại nói :

    - Nay cha con đều chết phi mạng dường ấy, cũng bởi ngày trước làm điều gian ác, nên nay bị âm binh quở trách mà đền oan báo, như vậy mới phỉ lòng mọi người ao ước.

    Cùng nhau đàm phán và nghị luận, rồi ai về nhà nấy.

    Nói về vua khi bị vấp dây té dưới đất liền lồm cồm đứng dậy chạy lại đỡ Nhựt Thanh lên, thì thấy quân dân đều cuốn dây chạy tán loạn hết, lại nghe rằng :

    - Diệp Ðô Ðốc bị hộc máu mà chết.

    Vua nói với Nhựt Thanh rằng :

    - Nếu người dữ mà không bị trời haị thì cũng bị quỉ thần giết. Nay tuy đã chết rồi cũng phải xử lục thi (1) thì mới vừa lòng thiên hạ.

    Khi đương nói chuyện xảy thấy Nghiêm Linh là người chủ tiệm vua gởi hành lý đó chạy đến mồ hôi ướt đẫm áo, thở hổn hển mà nói rằng :

    - Tôi nghe người ta đồn nói quan khách bị vây, tôi sợ có việc chẳng lành, nên chạy đến thăm.

    Vua thấy Nghiêm Linh thì cả mừng, rồi vua và Châu Nhựt Thanh cùng Nghiêm Linh đều trở lại chỗ trú ngụ, vua vào phòng lấy giấy hoa tiên thảo một tờ chiếu mà phong lại.

    Khi ấy Nhựt Thanh thưa cùng vua rằng :

    - Diệp gian thần tuy là chết rồi, xong còn sợ nó là quan lớn của triều đình, nếu chúng nó toa rập chạy tờ cáo về kinh ắt không khỏi tội, xin cha phải tính trước.

    Vua nói :

    - Con hãy yên lòng, để mặc cha tính, không can gì đâu. Rồi kêu Nghiêm Linh lại dặn nhỏ rằng :

    - Phiền nhà ngươi đem tờ này đến kinh thành vào phủ quan Ðại Học Sĩ lưu Dung, nói có thánh chỉ thì sẽ có người rước ngươi. Khi ấy ngươi hãy thuật sự tích các việc cho rõ ràng, và biểu phải mau mau y chiếu chỉ, hãy cẩn thận chớ khá tiết lậu mà hư việc của ta.

    Lúc ấy Châu Nhựt Thanh và Nghiêm Linh mới biết là vua, thì nữa mừng nữa sợ, rồi Nghiêm linh quì xuống lạy mà xưng rằng tử tội, vua dạy chớ khá nói lớn, phải đi mau lập tức.

    Nghiêm Linh yên lòng, vưng chỉ ra đi.

    Nói về Lưu Dung đang ngồi trong phủ, xảy có quân vào báo rằng :

    - Có người đem thánh chỉ có việc cơ mật.

    Liền thất kinh ra rước Nghiêm Linh vào, rồi lập hương án mà đọc chỉ :

    - Trẫm xuống Giang nam chơi ; đi vừa đến Hải Biên Quan, ghé chơi tại Hạnh huê Lầu. Gặp thằng Diệp Khánh Xương nó khi dễ trẫm, bị trẫm đánh chết ; cha nó là Diệp Thiệu Hồng làm Ðề Ðốc, đem binh vây bắt trẫm, may trời làm cho nó thổ huyết cũng chết luôn. Xét lại bình nhựt cha con chúng nó làm nhiều điều hung ác ; nhơn dân tại Hải Biên quan chịu nhiều khổ sở. Lưu khanh khá nghe chiếu trẫm, dạy quan Cửu Môn Ðề Ðốc điểm tam quân đến lục thi cha con Diệp thị và bắt tôn tộc Thiệu Hồng y luật chém đầu cho yên lòng dân chúng. Chiếu như có đến khanh khá vâng lời.

    Lưu Dung đọc chiếu xong rồi cả kinh lật đật đem chiếu chỉ đọc cho quan Cửu Môn Ðề Ðốc là Nhạn Như Lâm nghe, xong liền điểm mười tám tên thị vệ và ba ngàn quân ngự lâm, kéo riết đến Hải Biên Quan ra mắt Thiên tử.

    Vua bèn dạy Nhan Như Lâm đem thây cha con Diệp Thiệu Hồng xử lục thi và bắt dòng họ cả thảy đem chém hết.

    Lúc hành hình, nhơn dân đều vui mừng, rồi cho đòi quan Ðề Ðốc Sơn Tây là Khiêu văn Thăng về thế tại Hải Biên Quan, còn gia sản của Diệp Thiệu hồng thì giao cho Nhạn Như Lâm giải về kinh sư, rồi ban thưởng cho Châu Nhựt thanh, Nghiêm linh và dạy đem đồ hành lý, rồi vua cùng Châu Nhựt Thanh từ biệt các quan, nhắm Giang nam thẳng đến.

    Ði đường nhân lúc mát trời, non xanh nước biết, cảnh tốt, hoa thơm, nhà cửa đông đảo, nhơn dân vui vẽ, cảnh tượng thái bình ; sớm đi, tối nghĩ.

    Ngày kia đi đến mé sông lớn, trời vừa tối, bèn vào tiệm ngủ. Rạng ngày, vua và Châu Nhựt Thanh xuống ghe đi, thấy chủ ghe cầm sổ bắt từ trước mũi góp tiền mỗi người đến sau lái, lại nghe bộ hành dặn chủ ghe phải thành tâm van vái cho bình an. Vua không hiểu cớ gì, lấy làm lạ, bền hỏi chuyện chi vậy ?

    Có một người kia đáp rằng :

    - Quan khách chưa rõ phong tục nơi đây. Nguyên chổ sông này, cách đây chừng vài dậm có một tòa thạch sơn, miễu Lão Ma Thần rất linh hiển, bất kỳ là quan thiên, thương bộ gì, nếu muốn đi qua sông, thì phải sắm heo, dê, rượu thịt đến miễu ấy cúng tế vái van thì qua sông mới được bình an, bằng không thì dẩu cho trời thanh biển lặng đi nữa, ghe qua gần đến bờ rồi, cũng khiến cho thiên am địa hôn, nổi cơn giông gió sóng ba đào, làm cho ghe phải chìm, người chết từ thuở nay như vậy đó. Thôi để lát nữa ghe đến miễu, quan khách phải theo chúng tôi lên đó van vái, rồi đi mới bình an.

    Vua cười và nói rằng :

    - Bọn ngươi đừng có làm vậy uổng phí tiền, hãy yên lòng thả ghe qua đi, như đến giữa sông Lão Ma Thần có làm chuyện gì, thì ta sẳn có linh phù của dị nhơn truyền dạy đây, chẳng những là sóng gió của Lão ma Thần, dẫu cho Tứ Hải long Vương cũng chẳng dám nghịch chỉ ta nữa.

    Các người bộ hành nghe đều nói rằng :

    - Như quan khách không đủ bạc, để chúng tôi chịu dùm cho hai người cũng đặng, chớ không phải chuyện chơi đâu, chớ chi người làm thì người chịu thì không nói gì, ngặt là hại lây cho đến hai mươi người dưới ghe thì lấy làm tội nghiệp.

    Vua biết mấy người không nghe lời, bền sanh ra một kế, liền thò tay vô áo lót mồ hôi, lấy ra một hạt Tị Thủy Châu (Nguyên áo có năm hột nút bằng bửu châu, kim mộc, thủy, hỏa, thổ, dầu đao binh nước lửa cũng không làm hại đặng ) rồi nói với mấy người bộ hành rằng :

    - Nếu không tin, để ta niệm chú rồi phân hai đường nước ra cho mà coi.

    Các người nói :

    - Vậy thì chúng tôi mới tin cho. Nói rồi đều xúm lại coi.

    Vua lấy hạt nút bửu châu, cầm trong tay giả bộ niệm chú, rồi thò tay dưới nước vạch ra một cái, tức thì có một đạo bạch quang xẹt ra xưống đáy nước, nước vẹt ra ước chừng vài trượng, mấy người ấy đều khen rằng giỏi. Rồi vua lấy tay lên, thì nước cũng y hườn lại như củ.

    Khi ấy chủ ghe đem tiền bạc đã đóng góp trước đó trả lại cho khách bộ hành. Khi ấy hàng hóa chở xong xuôi rồi liền lui ghe, nước xuôi gió xuôi ghe đi mau như tên, đến miễu Lão Ma Thần thấy trên miễu hương khói mịt mù, tiếng chiêng trống vang tai còn thân trên miễu, đoàn ghe đậu có hơn trăm chiếc, có một chiếc ghe có vua đi là đi thẳng mà thôi, đoàn ghe đậu đó đều chỉ trỏ nói :

    - Chiếc ghe này thật là gan quá không sợ chết.

    Lúc ấy trời êm biển lặng, ghe đến giữa sông thình lình phát lên một trận giông, sóng gió nổi ba đào, ghe nhồi lắc, bườm bọc gió hạ xuống không đặng, ghe bị sóng phủ ướt loi ngoi, khách bộ hành thất kinh, hối vua họa phù cho mau, ai ai đều nói :

    - Ấy là Lão Ma Thần linh hiển đó, nếu chậm trể ắt lũ ta vào bụng cá, xương tan giòng sông chớ không khỏi.

    Vua nghe nói thì nghĩ rằng :

    - Thuở trước vua Ðường Thái Tông lúc quá hải chinh Ðông cũng có Long Vương lại chầu, sóng gió nổi ầm ầm như vầy mà ngài viết hai chữ "miễn triều" thì sóng gió đều lặng, nay ta đây cũng tưởng chắc là nhu vậy, chớ không phải Lão Ma Thần nào. Bèn vẻ hai chữ "miễn triều" giả đò như thư phù, rồi khiến Nhựt Thanh đem trước mũi ghe thả xuồng dưới nước, trong giây phút quả trời thanh biển tịnh, sóng lặn, gió tan, các thương khách thấy linh nghiệm như vậy, đều cả mừng xúm nhau lạy tạ.

    nguyên khi thấy hai chữ của vua xuống, thì Lão Ma Thần không dám làm sóng gió nữa, mới bình tịnh, còn các người bộ hành lại khỏi phí tiền vô ích nữa, khi ghe đến bờ, bộ hành lên hết rồi Châu nhựt Thanh mướn một chiếc ghe nhỏ đi cùng vua dọc theo mé biển, thấy nhà cửa nguy nga, dưới sông đủ các thứ ghe tinh xảo, chiếc đua bơi, chiếc buôn bán, chiếc thì thổi tiêu đánh nhạc, chiếc lại xướng ca, nghe liền không dứt, sinh huỳnh từ khúc, đều thuộc nam âm, phụ nữ nam nhơn, mặc tình gấm nhiễu. Khi ấy đến bến trả tiền ghe rồi, Nhựt Thanh mang đồ hành lý theo vua lên bờ, thấy đường xá, chợ búa sạch sẽ, có nhiều bia đề những tên trung thần, liệt phụ, hiếu tử, nghĩa sĩ để răn đời. Thật là đẹp đẻ, đất Nam kinh xem khôn cùng, bỗng đâu có một người lầm lủi đi xốc tới đụng vào bụng vua và đạp nhằm giày lấm bết, lật đật cung tay xin lổi, mặt mày buồn bực, coi bộ có việc đi gấp rút.

    Vua cản lại hõi rằng :

    - Ngươi có việc chi can hệ hãy nói cho ta biết.

    Người ấy trả lời rằng ;

    - Tôi vô tâm lở đạp nhằm chơn đại nhơn, không phải do tôi dám khi dễ, xin đại nhơn buông tha cho tôi đi lo việc đại sự, cầu cứu mạng, nếu trể thì phải khốn.

    Vua nói :

    - Nguyên sự tích làm sao, hãy nói cho ta rõ, họa may ta có thể giúp chút đỉnh gì chăng ?

    Người ấy nghe nói cả mừng và nói :

    - Tôi nghe tiếng nói và tướng mạo ông không phải tầm thường, xin cho tôi biết cao tánh đại danh, và ở đâu mà đến đây có việc chi ?

    Vua rằng :

    - Ta họ Cao tên Thiên tứ, ở Bắc kinh, làm quan Quân Cơ Vụ sự trong phủ Lưu Dung, nghe đồn phong cảnh Nam Kinh vui vẽ nên đến chơi, còn ngưòi này là con nuôi ta tên Châu Nhựt Thanh. Vậy ngươi có việc chi hãy nói cho ta nghe thử.

    Người ấy nghe nói liền vổ tay cả mừng.

    Thiệt là :

    Ðạp giày quan khách nguyên không biết,
    Thác mộng thần nhơn thật chẳng sai.

    Người ấy mừng và nói rằng :

    - Tôi vưng lời anh tôi đi tìm đại hiền, may gặp ở đây, số cháu tôi may khỏi tai nạn, Tôi tên Trần Ðăng, còn anh tôi là Trần Thanh, thuở nay ở xứ này cũng có hằng sản chút đỉnh, đều không có con trai, anh tôi có một đứa con gái tên Trần Tố Xuân tuổi vừa mười sáu, đã hứa gã cho con họ Tiêu, gần đến ngày cưới, rủi bị yêu ma mười phần chắc chết, cả nhà đều kinh hải, đã có rước một đạo sĩ mà không trừ đặng, và một ông hòa thượng tụng kinh cũng không giãm, thời may đêm hôm qua anh tôi nằm chiêm bao thấy Kim Giáp thần nhơn dạy rằng :

    - Ngày mai hãy đón người ở Bắc Kinh tên là cao Thiên Tứ lão gia và một công tử tên là Châu nhựt Thanh, hai người ấy có phép thần thông trừ yêu quái cứu con ngươi được, nếu thất cơ hội thì con ngươi không còn, nên anh tôi sai tôi đi đón rước, may gặp đây thật là lời thần nhơn mách bảo ứng nghiệm, thật là tam sanh hữu hạnh. Vậy xin hai vị đại hiền lấy lòng lành, rộng ra phép tắc, cứu mạng cháu tôi, thời anh em tôi sẽ đền ơn ba ngàn lượng bạc và một trăm hột minh châu.

    Comment


    • #3
      Hồi Thứ Ba


      Trừ yêu quái, Châu lang đặng vợ
      Bị bạc giả, Trương phụ mình



      Nói về Trần Ðăng đem hết các việc thần nhơn mách bảo nói lại cho vua nghe và nói :

      - Nay may tôi gặp đặng quới nhơn, xin quới nhơn lấy lòng từ bi, ra ơn cứu cháu tôi cũng bằng lập năm bảy kiển chùa, chẳng phải là nhờ ơn cứu đặng sống mà thôi, anh em tôi cũng cám ơn đức vô cùng nữa.

      Nói rồi cứ việc lạy hoài không thôi.

      Vua lật đật đở vậy mà nói rằng :

      - Không dối chi Trần huynh, vì tôi không học phù phép, thì biết thể nào mà trừ yêu quaí cho đặng. Chớ chi nếu là con người, dẩu mình đồng da sắt, mãnh hổ, giao long, võ nghệ bực nào đi nữa, thì ta cũng trừ đặng. Còn như yêu ma, quỉ mị cùng như máy móc không hình tượng, nó thấy mình còn mình không thấy nó, dầu cho sức mạnh thể nào đi nữa cũng không làm gì đặng, thôi ngươi hãy đi tìm người khác kẻo để lâu mà hư việc.

      Trần nhị viên ngoại nghe nói nghĩ thầm rằng :

      - Vua chối từ không chịu, nên đổ mồ hôi ướt áo, hai hàng nước mắt dầm dề, quì mọp dưới đất mà khẩn cầu rằng :

      - Nay đã có thần nhơn mách bảo, quới nhơn rõ ràng không sai, còn đi rước ai cho hơn nữa bây giờ, nếu không chịu cứu thì có chết tôi cũng theo nhị vị mà thôi.

      Nói rồi quì mọp dưới đất mà khóc.

      Lúc ấy người đi theo Trần Ðăng chạy về báo cho đại viên ngoại là Trần Thanh hay lập tức, Trần Thanh bổn thân đẩy hai cái kiệu đến đó quì xuống khẩn cầu rất nên chí thiết, khi ấy những người đi đường đều xúm lại coi không biết ý gì, còn vua thì tay đở hai người ấy dậy, trong lòng thì kiếm điều nói tháo đặng đi cho khỏi ; không dè Châu Nhựt Thanh tánh còn con nít, chưa hiễu việc yêu ma ra thể nào, thấy người cầu lụy lắm như vậy, thì đem lòng thương ma sa nước mắt, và thưa rằng :

      - Xin cha hãy rộng lòng cứu giúp kẻ bị nguy hiểm, đến đó xem thử dường bao,họa may cứu đặng chăng, kẻo để người bi lụy lắm vậy không nở.

      Hai người nghe nói lật đật đứng dậy, vui mừng mà nói rằng :

      - Lịnh lang đã bằng lòng, xin quới nhơn chớ chối từ tội nghiệp.

      Hai người bèn phò vua và Nhựt Thanh lên kiệu, rồi vẹt người đứng coi ra chạy riết về nhà, tại thính đường làm một cách rất trọng hậu.

      Vua nói :

      - Thật là ta không biết cách bắt yêu ra thể nào, nhưng mà thấy ngươi có lòng khẩn cầu quá, và con ta tại lở hưúa lời, vẫy ta cũng liều mình mà giúp. Như bắt đặng, ấy là phúc đức cho ngươi, bằng không xin chớ chê cười. Vậy chứ bây giờ yêu quái hiện ở tại đâu, đặng ta ra tay coi thử ?

      Trần Thanh nói :

      - Trời còn sớm nó chưa về, còn con gái tôi ở tại sau vườn bông mẫu đơn, xin đại nhơn dùng trà rượu nghĩ ngơi cho khỏe rồi sẽ hay.

      Vua nói :

      - Vậy thời phải dời lịnh ái đi chổ khác rồi dọn một tiệc rượu tại Mẫu đơn đình chổ lịnh ái nằm đó đặng ta uống rượu mà đợi yêu quái đến ta sẽ dùng kế mà bắt.

      Trần Thanh thưa rằng :

      - Chẳng hay đại hiền muốn dùng vật chi mà bắt yêu, xin nói cho tôi biết đặng lo sắm trước.

      Vua nói :

      - Hãy sắm một cây thiết côn đặng làm khí giới, và lựa vài mươi người cho mạnh dạn để theo con ta, như có yêu đến thì ở sau gióng chiên đánh trống, đốt pháo, và la lên cho lớn tiếng đặng trợ oai, còn trong nhà bốn phía phải đốt đèn cho sáng, ở ngoài đốt đèn pha ly cho nhiều, phòng khi yêu khí về, có giông lớn thì khỏi bị tắt đèn, vì âm khí thấy dương khí phải sợ, và xông thuốc bùa lên cho kỵ tà yêu, còn người nào nhát thì đừng cho ở đó.

      Anh em Trần thị dạy trong nhà sắm sửa đủ đồ, và dọn một tiệc rượu sau vườn rồi hai anh em ngồi đải vua và Nhựt Thanh, lúc đó đương giờ mùi, bốn người uống rượu cùng nhau cho đến tối, vua cũng có ý say, bèn dùng cơm tối, rồi tiệc hết, lại dọn ra một tiệc rượu khác, uống rượu chơi cầm chừng, đặng đợi yêu đến. Ðang lúc trăng tỏ, sao thưa trời thanh, đêm lặng, bốn người ra dạo cảnh xem trăng, vừa lúc canh ba, xảy thấy phía Ðông một lùm mây đen bay đến giữa sân, giây lâu nổi lên một trận cuồng phong, thiên hôn địa ám, cát đá bay dậy, mọi người đều nói :

      - Nó đã đến rồi đó, núp lại đàng sau.

      Vua ngó lên thấy trên mây xẹt xuống một người đạo gia, ước chừng ba mươi tuổi, mặt trắng, không râu, mặc áo lam bào, đội mão cân đai, đi giày vân lý, lưng buộc dây tơ, mình đeo gươm vắn, tay cầm phất trần, bươn bươn bước đến sân hỏi rằng :

      - Ai dám đến đây uống rượu, phá tịnh thất và ngăn trở việc giai kỳ của ta ?

      Vua cất tiếng mắng rằng :

      - Ðồ giả đạo ở xứ nào mà dám đến đây hóa yêu quỉ ô dâm con gái người, không kiêng phép nước, tự thị chước yêu, cả gan làm quấy, tội chẳng nên tha, nếu nghe lời ta, bỏ tà qui chánh, các lỗi đều thôi, bằng chẳng nghe sẽ có phép ngủ lôi oanh đánh xuống, hườn phục nguyên hình, bỏ vào địa ngục, uổng công phu tu luyện lâu năm, nay vì sắc dục, bỏ hết công trình trôi theo giòng nước, chẳng là uổng lắm, ngươi khá liệu toan, chớ để ngày sau mà tiếc.

      Ðạo gia nghe nói cả ré lên một tiếng mà nói rằng :

      - Mầy thật lớn gan, muốn quản việc ta, tưởng khi mầy số chết mới dám đến đây, vốn ta cùng nàng Trần Tố Xuân có phần túc thế nhơn duyên, bởi vậy nó có rước những thầy cao tăng, đạo sĩ thần thông quảng đại còn không làm chi ta nổi, huống gì ngươi tài cán chi dám đến đây chịu chết, ngươi muốn tỷ thí cùng ta, hãy xưng tên họ đi.

      Vua nghe nói nổi nóng khí xung ngươn đẩu, đạo núi lở sông, nạt lên như sấm mà nói rằng :

      - Ta là Cao Thiên Tứ nếu không chặc mầy ra hai khúc ắt chẳng biết sức ta.

      Nói rồi liền hươi thiết côn nhắm ngay đầu đạo gia đánh xuống ; đạo gia rút gươm đở, đánh được vài hiệp, vua hăng sức dùng hết chổ hay, thiết côn đánh như tuyết che trùm dưới cây lão thọ cứng cỏi, bốn phía gió không qua, mưa chẳng lọt, hào quang hiện ra chỉ thẳng vaô mặt yệu đạo, còn ngoài thì quân la ó, chiêng trống đánh rùm tai, một bên thì Châu Nhựt Thanh đốc thúc thủ hạ đốt pháo và đánh chương hoa đồng vào trong mặt yêu. Yêu đạo dùng đao vắn, gặp phải thiết côn dài, đánh sao cho lại, còn đường thiết côn của vua là thần xuất quỉ nhập biến hóa vô cùng, yêu đạo đánh không lại, liền chạy, cả kêu rằng :

      - Chớ khá theo ta làm chi.

      Vua cứ việc theo mãi, các thủ hạ lại rượt theo gấp lắm.

      Khi ấy yêu đạo hiện nguyên hình, mình cao dư một trượng, lưng lớn hai vừng, đầu mọc lông đỏ, mặt xanh có nanh co vút, mắt như lục lạc, mình mọc những vảy, hả miệng đỏ lòm, giương vấu ra nhắm mặt vua vấu xuống. Khi ấy vua thất kinh, tam hồn bay mất, thất phách bay xa, liền nổ lên một tiếng, hiện ra một con rồng vàng năm móng đón trước mặt yêu ; khi ấy yêu biết là thiên tử, bèn hóa ra một trận thanh phong bay mất, để lại một bài thơ.

      Nhựt Thanh và các người thủ hạ chạy đến lượm đặng dưng cho vua, đem về giữa tiệc giở ra thấy bài thơ như vầy :

      Trời đà trước định mối oan ương

      Chẳng phải chàng Tiêu nghĩa vấn vương

      Thái Bạch Kim Tinh lời dặn bảo

      Duyên nầy khá sánh với Châu lang

      Khi ấy anh em viên ngoại nghe vua đọc thơ rồi, liền vổ tay lên trán mà nói :

      - Vậy thì con gái tôi không duyên nợ gì với Tiêu thị, thật là sánh với công tử, nên thần nhơn chỉ rõ ràng, chẳng biết lịnh ân công có bằng lòng không ? Như đành thì tôi xin cùng ân công kết nghĩa Châu trần, vầy duyên qua các.

      Vua đáp rằng :

      - Như vậy rất tốt, nhưng mà lộ đồ lữ thú, không biết lấy chi đặng làm phải.

      Rồi thò tay vào trong áo nhỏ lấy ra một hột minh châu, trao cho Trần viên ngoại để làm lễ sính, Trần Thanh liền lấy rồi đặt bàn giữa trời, lạy tạ Thái Bạch kim Tinh đền ơn chỉ bảo, rồi thỉnh vua và Nhự Thanh vào [phòng yên nghĩ. Khi ấy hai anh em Trần thị vào nhà trong thuật hết các công chuyện cho Viện Quân và Tố Xuân nghe, thì hai mẹ con đều vui mừng, sáng ngày Trần thanh dạy người trong nhà sửa soạn tiệc đám cưới. (Nguyên nàng Tố Xuân nầy khi trước có hứa gả cho Tiêu thị mà khi bị yêu ma phá hoại, thì viên ngoại có rao nếu ai cứu đặng thì gả làm vợ, họ Tiêu cũng bằng lòng làm vậy, nên nay tính gã không cần phải nói đến Tiêu thị nữa ).

      Trần Thanh hỏi :

      - Chẳng hay lệnh lang đã đặng bao nhiêu tuổi ?

      Vua nói :

      - Nhựt Thanh mười lăm tuổi.

      Còn nàng Tố Xuân mười sáu tuổi, bèn rước thầy coi ngày cưới. Thầy coi đặng ngày mai giờ dần ; ngày ấy cho mời thân tộc dọn một chổ tân nhơn ngọa phòng tại Mẫu đơn đình rất nên hoa mỹ. Vì hai anh em giàu có mà chỉ có một đứa con gái đó thôi, lại mang ơn Nhựt Thanh, còn Thái Bạch Kim Tinh thì làm mai, thì chắc ngày sau cũng vinh hiển, nên lấy bạc vàng dọn chổ riêng cho vợ chồng Tố Xuân tốt vô giá.Ðến ngày các thân bằng cố hữu đều đi lễ hạ sanh tiêu. Cổ nhạc động phòng huê chúc, thật là tài tử giai nhân.

      Vua và viên ngoại lấy làm đẹp dạ. Ở đó đạng ba ngày, vua bèn nói với anh em Trần thị rằng :

      - Ta mắc việc quan ở lâu không đặng, vậy mai nầy ta sẽ lên đường, rồi ngày sau trở lại.

      Có bài thơ rằng :

      Trừ yêu nhờ bởi có thần nhơn

      Lại khiến Châu lang đặng kết thân

      Quỉ quyệt nhơn sơn đành bị bại

      Trình thanh Trương phụ được nhờ ơn

      Người lành há dễ lầm tay quỉ

      Lòng dữ đâu che được mặt thần

      Mới biết xưa nay đều có trả

      Ðạo trời sau trước cũng đều cân

      Rạng ngày vua dạy Nhựt Thanh lạy tạ mà người trong nhà đưa đón đều buồn. Vua cùng Nhựt Thanh ra khỏi xứ hải Thanh, ngày kia trời gần tối đi đến mé biển, thấy cây cối mịt mù, tiếng sóng bủa ầm ầm, xảy thấy một người đàn bà có chửa, ẳm một đứa nhỏ chừng giáp năm, lại dắt hai đứa nữa chừng năm tuổi đập tay dậm chân kêu trời than khóc rất là thảm thiết, coi bộ muốn nhảy xuống sông tự vận, vua lật đật cản lại, thì người đàn bà ấy mắng vua và nói :

      - Ta không phải bà con quen lớn chi với ngươi, lại gái trai chẳng phép lại gần nhau, sao ngươi dám ngăn cản ta một cách vô lễ như vậy?

      Vua Càn long đáp rràng :

      - Lời tục có nói : Cứu ngưòi sống hơn đống vàng, ta thấy ngươi muốn tự vận, ắt có oan ức chi nên ta mới cản lại, vậy hãy nói hết đầu đuôi cho ta rõ, hoặc may ta cứu đặng, thi mấy đứa nhỏ nầy cũng khỏi bị hại, sao ngươi lại dám mắng ta ?

      Ngươì đàn bà kia nói :

      - Việc oan ức tôi kể sao cho xiết, may có vua mới giải đặng, chớ nói cho người nghe cũng không có ích gì.

      Vua nói :

      - Ta là cao Thiên tứ làm Biện Lý Quân Vụ của quan Tể Tướng Lưu Dung, ngươi hãy nói hết cho ta nghe, có lẻ cứu đặng.

      Người đàn bà nghe nói, liền muốn tỏ bày tâm sự của mình, nhưng mà nước mắt tuôn ra như mưa, tức tưởi nói không ra tiếng ; vua an ủi rằng :

      - Ngươi hãy bớt khóc, thủng thẳng kể hết gốc ngọn cho ta nghe.

      Người đàn bà vừa khóc vừa nói :

      - Tôi họ Cao vợ của trương Quế Phương ở tại xứ nầy, nguyên chồng tôi có nghề bán gà, ngày trước Tân Khoa Hàn Lâm là Khu Nhơn Sơn ăn đầy tháng cho con, có mua của chồng tôi một tạ gà giá mười lượng bạc, người đem bạc giả mà trả, chồng tôi không gnhe, ra việc tranh đấu, người lại xúi gia đinh bắt chồng tôi đem đến huyện Kim Thành làm án bạch nhựt hành thích, xử về tội chết, còn đang giam tại khám, rồi lại bắt tôi đem bán cho nhà đĩ, bởi thế bức như vậy,nên tôi dắt xcon ra liều mình cho tròn trinh tiết, xin quan khách đem lòng thương, cứu giúp vợ chồng tôi, ơn ấy muôn kiếp không dám quên.

      Vua nghe cả giận nói :

      - Nay ta có việc ở lâu không đặng, ta cho ngươi một trăm lượng bạc đây, hãy đem đến nhà Kim nhơn Sơn, lấy lời thuận lẻ êm năn nĩ với nó mà chuộc chồng ngươi về.

      Comment


      • #4




        Hồi Thứ Tư



        Bắt Nhơn Sơn, muợn thế giải vây
        Giết Tri Phủ, đặng trừ đảng nịnh


        Mấy người giáo đầu kéo thẳng vào thơ phòng vây bắt vua, vua bèn lấy ghế ngồi vừa đánh và đở, đánh một người té xuống, vua giựt đặng cặp đao, đánh giết hơn mười mấy người, nhưng mà cửa đóng chắc, lại gia đinh liều mạng vây phủ nên ra không đặng, khi ấy vua nghĩ ai rằng :

        - Hồi trước Quan Vân Trường đơn đao phó hội, bắt Lỗ Túc cặp theo mới giải đặng trùng vây, nay ta bắt chước làm theo. Bèn đánh quân gia đinh dang ra, vua nhảy tới bắt Khu Nhơn Sơn cặp bên tay tả, rồi lấy đao thọc trên đầu.
        Lúc ấy Nhơn Sơn hồn phách bay mất, cả kêu xin dung tánh mạng.

        Vua nạt lớn rằng :

        - Ðồ cẩu loại, như muốn khỏi chết phải biểu gia đinh lui ra, và mở cửa đưa ta ra, ta sẽ tha, bằng không thì sẻ giết mầy trước rồi kế lủ nó.
        Khu Nhơn Sơn lật đật kêu gia đinh biểu phải lui và mở cửa đưa Cao lão gia ra.

        Gia đinh đều vưng lời mở cửa và không ngăn cản nữa.

        Vua chậm chậm từ thơ phòng ra khỏi cửa, muốn tha Nhơn Sơn rồi nghĩ lại nếu buông ra thì cả lủ nó theo nửa ắt là khó đi, bèn kéo riết đến huyện Kim Thành.

        Khi ấy Nhơn Sơn kêu cứu mà gia đinh đều không dám lại gần, còn trăm họ muôn dân đều mừng, niệm Phật nói :

        - Người ác ngày nay gặp như vậy mới đáng kiếp !

        Vua vào đến nha môn, tay đánh trống, miệng kêu rằng :

        - Có việc oan ức !

        Quan Huyện thăng đường cho đòi hai người vào hỏi :

        - Việc gì oan ức hãy bẩm cho ta biết.

        Khu Nhơn Sơn bị kéo mệt hết hơi, nói không đặng. Vua liền nói :

        - Khu Nhơn Sơn đúc bạc giả, ỷ thế hiếp cô, Trương Quế Phương có bán cho nó một lạng vàng, nó đem bạc giả mà trả, Quế Phương không chịu lấy, nó lại vu cho người là tội bạch nhựt trì đao hành thích, lại đem vợ con người mà bán cho nhà đĩ. Nên vợ con Quế Phương nhảy xuống sông tự vận. Ta thấy tội nghiệp tiếp cứu hỏi và cho một trăm lượng bạc biểu mẹ Quế Phượng là Ðỗ thị đem đến nhà nó xin chuộc Quế Phượng và huề việc ấy. Ai dè nó là người lang tâm cẩu hạnh, lấy bạc thiệt; đỗi bạc giã lại. Ðỗ thị bèn chạy về kêu trời than khóc, ta thấy vậy cầm lòng không đậu nên mới đến nhà nó lấy lời ngon tiếng ngọt mà nói với nó, nó lại ăn nói vô lễ, đòi mười muôn lượng bạc mới chịu, ta lấy lời phải nói lại cho nó nghe, nó lại xúi hơn ba trăm gia đinh đầu cầm binh khí áp lại vây bắt ta, ta túng thế nên phải bắt nó làm thế thoát thân mà đem nó đến đây. Xin quan Huyện lấy việc công bình, vì dân mà trừ hại.

        Khu nhơn Sơn lúc ấy vừa khóc, vừa bước tới xá quan huyện mà thưa rằng :

        - Cao Thiên Tứ nầy là người cường đạo ở Hải Dương, chiêu tập côn đồ, đến muốn ăn cướp tôi, bị tôi biết trước, sợ tôi nên vu oan cho tôi rằng đúc bạc giả, nó lại bức hại mạng dân, muôn trông huyện đường đại độ, xét lại cho kỹ vì dân lành cứu giúp tôi thật là ơn trọng.

        Vua lại đem một trăm lượng bạc giả Nhơn Sơn tráo đó, trình giữa án đường xin quan Huyệt minh nghiệm, và xin quan Huyện cho người đến xét nhà Nhơn Sơn lập tức. Nếu có cáo gian xin chịu phản tội. Tri huyện nầy tuy là thanh liêm yếu ớt xử việc không rành, khi nghe lại người nói thì cũng biết Khu Nhơn Sơn là người hay làm việc phi phép, ỷ thế hiếp cô ; gian hùng tàn bạo, lại nghe Tri Phũ là anh em thiết nghĩa với Nhơn Sơn, còn mình thì !ám quan nhỏ, lại thấy Cao Thiên Tứ là người đường đường, diện mạo lại can đởm, không biết xử lẽ nào, bèn giải hai nguời đến phủ.

        Hồ Tri Phũ lên án đường đòi hai đàng đến hỏi lếu láo, không rỏ hắc bạch gì hết, rồi tha Nhơn Sơn về, vỗ ghế thộp bàn, ra oai quở nạt.

        Vua cả giận mắng rằng :

        - Ðồ cẩu quan, đáng lẻ ăn bỗng lộc triều đình, phải vì dân giúp nước, lẻ nào trọng án như vậy mà lại thông đồng tác tệ, tàn hại nhơn dân, như vậy, đấng xử tội gì, chết trước mặt mà chưa biết, sao lại dám quở ta ?

        Hồ tri phủ bị mắng, tam tiêu đều lữa dậy, thất khiếu thảy xung lên, dạy thủ hạ đem ra đánh một trăm, nha dịch vâng lệnh áp lại bắt, vua đánh đấu té tăn ra hơn một trượng, không ai dám vô nữa, Tri phủ lật đật muốn chạy bị Vua một đạp té dưới đất, Tri phủ kêu cứu, vua dùng sức đạp trên lưng một cái mạnh, cữu khiếu đều ra huyết mà chết .
        Nha dịch chạy phi báo cho quan Ðài Hiếu hay, nguyên quan Ðài Hiếu nầy họ Huỳnh tên Ðắc Thắng, tên chữ là Bắc Thần người đất Hà Nam, Trường Sa, em là Huỳnh Hữu Thắng đồng ở một nhà. Khi nghe báo có người đánh chết Tri Phủ tại án đường, lập tức chạy tới cho quan Du Phủ Kim Bình điểm binh ngăn giử các cửa thành, và sai hết gia dịch đón các nẻo yếu lộ mà bắt.

        Có bài thơ rằng :

        Ỷ thế Nhơn Sơn rất dữ thay
        Ðáo đầu mới thấy họa ngày nay
        Thông đồng tội đến Hồ tri phủ
        Chớ trách trời cao với đất dày

        Nói về khi vua đạp chết Tri Phủ rồi chạy ra sau công đường lấy được một dại đao, liền trở ra cho án đường chặt Hồ tri phủ ra làm hai khúc, rồi chạy ra khỏi công phủ đặng ít bước thì thấy các nẻo đều có binh vây phủ, bèn ráng hết sức cầm đao chém tới giết hơn mươi người, song chém chừng nào thì thấy binh lại kéo đến nhiều chừng nấy, còn cây đao cũng hư. Lúc ấy quan Du Phủ là Hứa Ứng Long đốc suất quân lính hiệp với binh Ðài Hiếu lấy dây giăng giựt vua té xuống mà bắt, may vua có áo ngự bửu mặc trong mình !, và có thần linh phò hộ nên không hề gì.

        Khi ấy các đạo binh dẫn vua đến phủ Ðài Hiếu.

        Huỳnh Ðắc Thắng thăng đường dạy quân dắt vua ra trước. Nguyên Ðắc Thắng năm trước có ở Kinh sư lâu năm, nên nhìn biết chắc là vua thì thất kinh, không hiểu vì ý gì mà vua đến đây.

        Khi ấy vua cười mà hỏi rằng :
        - Huỳnh Ðắc Thắng ngươi có biết ta chăng ? Ðắc Thắng lật đật đem vua ra hậu đường dạy quân lui ra, rồi Ðắc Thắng và em là Hữu Thắng mỡ trói rồi thĩnh vua ngồi, quì lạy tung hô và hỏi vua làm sao đến đây, xin vua thứ tội.

        Vua nói rằng :

        - Ngươi có lòng ngay vì nước, đáng khen, vậy ngươi hãy cẩn mật chớ khá lậu, và phải sắp đặt binh mã cho sẳn đợi chỉ ta đến bắt Khu Nhơn Sơn, chớ khá trái mạng, nay ta có việc xuống chơi Giang Nam.

        Hai anh em thay đồ tư phục đưa vua ra khỏi thành mới trở lại.

        Khi ấy vua trở lại tiệm ngũ, thuật hết các việc cho Châu Nhựt Thanh nghe, rồi tã một tờ mật chiếu và lấy mười lương bạc cho chủ tiệm làm lộ phí dạy đem chiếu cho quan Tuần phủ Giang Tô, là họ Trang tên Hữu Cung, người tĩnh Quảng Ðông; huyện Phan Ngang, do trạng nguyên xuất thân. Ngày kia quan Tuần phủ ở công phủ xãy thấy có mật chiếu đến, liền đặt bàn bương án giữ ra đọc.

        Chiếu rằng :

        " Trẫm xuống Giang Nam dạo chơi đi vừa đến Kim Bình, Cao thị là vợ Quế Phương có nghén dắt năm đứa con quyết nhẩy xuống sông mà tự vận, thấy việc thảm thương Trẫm đà cứu khỏi, cũng bởi Nhơn Sơn đem lòng độc ác, vu cho Trương thị phạm tội hành hung, đã cầm chồng tại chốn lao tù, lại bắt vợ bán cho nhà đĩ, khi ấy Trẫm đến chổ Nhơn Sơn đem việc giãi huề, nó càng hung bạo, khiến lũ gia đinh bắt Trẫm mà giết. Kim Bình Tri phủ đồng lỏa làm gian, nhờ sức Huỳnh Gia, là quan Ðài Hiếu, có dạ trung thần, cứu ta mới khỏi. Chiếu cho Tuần phũ, thừa mạng điểm binh đến bắt Nhơn Sơn, toàn gia chính pháp. Chiếu như có đến ngươi khá vưng lời ".

        Trang Hữu Cung đọc chiếu xong rồi, lật đật điểm năm ngàn quân phi kỵ và quan Trung quân là Vương Bưu, nội têm kéo đến phủ Kim Bình an dinh hạ trại, cho người báo cho Huỳnh Ðắc Thắng hay. Khi ấy Huỳnh Ðắc Thắng kéo hết văn vỏ nội thành đến ra mắt Trang Tuần phủ, rồi hiệp cùng cáo quan đem xe giá đến nghinh liếp thánh giá; ai đè vua đã đi rồi.

        Các quan không dám trễ nải, liền đến vây nhà Khu Nhơn Sơn, Nhơn Sơn thấy quan quân đến vây phủ biết là việc bất tường, bèn đay quân côn đồ trong nhà ráng sức gìn giữ. Nguyên Nhơn Sơn làm những việc khuynh làm, nên làm giàu xuất tiền bạc rèn binh khí, súng ống rất. nhiều bởi vậy đánh hơn hai ngày mà không làm chi được ; qua ngày thứ ba, quân Trang Tuần phũ thi đánh phía Nam; quan Huỳnh Án Sát đánh phía Bắc, Vương Bưu phía Ðông và phũ Kim Bình phía Tây, bốn phía đồng áp đánh, hơn nữa ngày trong nhà Khu Nhơn Sơn đà hết thuốc đạn cự không lại, quan quân bốn phía phá tường ào vô giết ba trăm gia đinh dường như xẻ dưa chém chuối, còn khu nhon Sơn và mười mấy tên giáo đầu liều thác đánh riết ra, bị binh Vương Bưu chận lại đánh một trận bắn chết vài tên, còn bao nhiêu đều bị bắt, rồi kéo thẳng vào nhà bất kỳ là già trẻ bé lớn đều bắt trói lại hết, rồi niêm phong vàng bạc tính hơn hai mươi vạn, đồ quân trang và binh khí không biết ba nhiêu mà kể. Còn nhà cửa đều đốt hết. khi ấy Trang Hữu Cung giao cho quan Ðề Hình Án Sát Sứ Tư là Huỳnh Ðắc Thắng gia quyến của Nhơn Sơn . Từ mười lăm tuổi sắp lên đều bị xữ chém ; con gái, đàn bà thê thiếp là nam trăm hai mươi ba người, còn con nít hơn bảy trăm đứa đœ hết hết.

        Trang Hữu Cung cùng các quan ai về dinh nấy còn Trương Quế Phương và mấy người bị hại đều cho về.

        Nói về vua ở tại tiệm ngũ nghe Trang Tuần phủ xữ án như vậy thì mười phần cả đẹp, và nhớ chuyện nàng Cao thị là vợ Trương Quế Phương trinh tiết đen nổi liềumình, thế gian ít có, liền thảo một tờ chiếu dạy Châu Nhựt thanh đem cho quan Án Sát Sứ Tư Huỳnh Ðắc Thắng đặng lấy mười muôn lượng bạc trong gia sản của Khu Nhơn Sơn mà thưởng nàng Cao thị. Trương Quế Phương từ khi được bạc thưởng đó đến sau, nhà cửa trở nên giàu có, ăn ở hiền từ, ham bố thí, còn năm đứa con khôn lớn đều nên danh, làm quan cả thảy.

        Khi Châu Nhựt thanh xong việc trở về liền cùng vua dời qua xứ khác.

        Bây giờ nói về tĩnh Quảng Ðông, phủ Triệu Khánh, huyện Cao Yếu, làng Hiếu Liêm có một người nhà giàu họ Phương tên Ðức, tên chữ là Tế Hanh, vợ là Lý Thị. Lúc còn nhỏ lìa quê hương qua thành Nam Kinh, huyện Triều Dương lập tiệm hiệu là Vạn Xương, buôn bán hàng hóa tơ lụa. Buôn bán thật thà, chắc chắn, càng ngày càng thạnh, còn hai người con, một người tên Hiếu Ngọc, một người tên Mỹ Ngọc, ở lại quê hương đếu có gia sản.

        Phương Ðức buôn bán có lợi mỗi năm đều mang tiền bạc về quê hương xứ Quảng Ðông. Phương Ðức tuổi đã già sáu mươi, trưa ngày kia trời giông mưa lớn, đang hối người trong tiệm dọn đồ đạc, xảy thấy một ông già quảy một tạ muối đến xin đụt nhờ, các người trong tiệm thấy muối ướt sợ dơ tiệm, liền đuổi ra đặng đóng cửa.

        Phương Ðức thấy người Quảng Ðông thì động lòng cố thổ, nhớ đến quê hương, lại thêm già cả, liền nói :

        - Không hề gì ! Cứ để người ta đụt nhờ.

        Mấy người làm vưng lời cho vào đụt mưa.

        Ông già bước vào làm lễ.

        Phương Ðức hỏi :

        - Vậy chớ nhơn huynh ở Quảng Ðông về Châu, Huyện nào ? Tôi cũng là người Quảng Ðông đây.

        Ông già cung tay đáp rằng :

        - Vậy đại nhơn cũng là người Việt Ðông , mà tôi không biết, xin tha lỗi. Tôi họ Miêu, tên Hiển, ở tại Châu Liên Sơn, động Nhập Lý, đến đây đã hơn mười năm. Nguyên có anh em bạn rước đến học côn quyền võ nghệ, dạy đưọc vài năm, người ấy mang bịnh mà chết, nên ở lại đây không ai giúp đở, còn muốn về thì không có tiền lộ phí. Kế vợ tôi chết, không có con trai, sanh có một gái, tên là Thúy Hoa, tuổi mười sáu, cha con nương nhau bán muối lậu nuôi miệng, may tôi có nghề một ít, nên mấy người tuần phòng không tra xét, ngày nay lại nhờ đại nhơn có lòng rộng rải cho đụt mưa khỏi phải bị ướt muối có tiền để hộ khẩu, thật là cám ơn rất trọng. Vậy xin hỏi đại nhơn cao tánh đại danh là chi, và ở huyện nào ?

        Phương Ðức nói :

        - Quê hương tôi tại phủ Thiệu Kinh, làng Hiếu Ðể, họ Phương tên Ðức, tên là Tế Hanh, đến đây lập tiệm Vạn Xương nầy buôn bán đả hơn ba mươi năm nay. Vợ con còn ở tại quê hương, như Miêu nhơn huynh muốn tới lui đây chơi cũng là người đồng hương với nhau, thôi để tôi giúp cho người mười lượng bạc mà buôn bán nghề khác chớ muối là một vật cấm chớ khá làm nữa.

        Miêu Hiển mừng rỡ lấy mười lượng bạc tạ ơn và nói rằng :

        - Phương ông thật là sơ tài trọng nghĩa, tích lảo lân bần, trong đời ít có. Vậy có mấy vị lịnh lang ở đây chăng, xin ra cho tôi biết mặt .

        Phương Ðức đáp :

        - Tôi có hai đứa con trai: Thằng lớn tên Hiếu Ngọc hai mươi tuổi, thằng nhỏ là Mỹ Ngọc mười sáu tuổi đều có vợ rồi, lại đều buôn bán hàng hóa, như sau Miêu huynh có dịp dạy bảo chúng nó chút đỉnh côn quờn thì tôi lấy làm cám ơn.

        Miêu Hiển nói :

        - Xin vưng.

        Trời còn mưa, hai người đàm luận cho đến giờ thân, kế trong tiệm sửa soạn dọn cơm tối, Phương Ðức mời Miêu Hiển dùng cơm rồi ra về. Từ ấy tới lui như bà con ruột, và nghe lời bỏ nghề buôn muối, nhiều khi thiếu thốn đến mượn, Phương Ðức đều giúp.

        Ngày kia Hiếu Ngọc và Mỹ Ngọc đến thăm cha, thấy cha mình kính trọng Miêu Hiển thì hai đứa cũng kính kêu bằng bác, Miêu Hiển nhờ cha con Phương Ðức nhiều phen nên đem hết võ nghệ học lúc bình sanh truyền cho hai con Phương Ðức.

        Miêu Hiển thấy Phương Ðức tuổi đã sáu mươi bộ còn mạnh mẻ cũng bằng người bốn mươi tuổi, bèn nói chuyện với con gái là Thúy Hoa rằng :

        - Nay cha mang ơn Phương ông nhiều phen, nên cha muốn gã con cho người đặng đến ơn.

        Thúy Hoa bằng lòng.

        Ngày kia Miêu Hiển đến tiệm nói chuyện ấy cho Phương Ðức nghe thì Phương Ðức nói rằng :

        - Tôi nay già cả không muốn làm lở thanh xuân của lịnh ái.

        Miêu Hiển khóc và nói :

        - Một là tôi mang ơn người rất trọng, không biết lấy chi đền bồi, hai là con gái tôi cũng tình nguyện phục thị người, ba là tôi nay già cả phòng khi bất trắc có lẻ nhờ người được, nên tôi sẳn lòng việc ấy xin người bằng lòng, tôi rất có phước.

        Phương Ðức thấy Miêu Hiển thật tình và có dạ ân cần, bèn nói chuyện lại cho con là Hiếu Ngọc hay.

        Hiếu Ngọc thấy cha tuổi lớn không ai phục thị, nay lại có người muốn đưa con làm bé ắt có người nuôi dưởng cha già, nên theo khuyên lơn cha lo cho xong việc.

        Phương Ðức thấy con khuyên lơn và Miêu Hiển lại đến cầu khẩn nữa, nên phải gắng gượng ừ theo, rồi chọn ngày tốt, rước Thúy Hoa về thành thân.

        Thân bằng cố hữu đều đi lễ hạ , Phương Ðức dọn tiệc đải đằng tử tế.

        Việc xong rồi Miêu Hiển ở đó đặng nữa năm kế phát bịnh, biết mình không xong, nên đem hết võ nghệ mấy chổ bí yếu, và mấy phương thuốc hay để luyện gân cốt, truyền hết cho con gái, rồi chết.
        Khi ấy tuổi đã bảy mươi hai.

        Phương Ðức lo tống táng xong xuôi và các chạy trần làm đũ. Qua nữa năm sau Thúy Hoa sanh đặng một đứa con trai, đặt tên là Thế Ngọc, đầy tháng anh em đều đến ăn mừng cho bạn sanh cháu. Còn Miêu thị từ khi ở với chồng đến sau, lấy thân huề trong họ, lấy nghĩa thuận theo chồng, cả nhà đều vui mừng, lại từ khi Thế Ngọc đầy tháng rồi thì Miêu thị lấy sắt ngâm với dấm mà tắm rửa, lại lấy tre tăm và sắt miễng vổ trong mình Thế Ngọc cho gân cốt da thịt cứng như sắt đá, đến ba tuổi thì cho đội mão và đi giày bằng sắt, dạy học nhảy, ban đầu thấp sau lần lần lên cao và tập ban đầu bẻ cây sau đến sắt ; sáu tuổi tập cởi ngựa, bảy tuổi học quyền, tám tuổi học cầm binh khí, đến mười bốn tuổi thì thập bát ban võ nghệ đều thông, mình mẩy gân cốt như sắt, sức mạnh vô cùng tánh nết hung hăng, mỗi ngày chí tối cứ ở ngoài đường gây họa, có nhiều người đời ngầy ngà, nhưng mà Phương ông thuở nay ăn ở tử tế nên người ta đều vị .

        Phương Ðức nhiều khi la rầy, mà bởi Miêu thị cưng Thế Ngọc quá, nên thường sanh chuyện hoài, Thế Ngọc thấy mẹ cưng lại càng ngang dọc, cứ giao du cùng bạn tác, xài tiền bạc như đất cục, ban đầu còn ngang dọc nội xứ mình, sau lần ra đến Giang Nam, người người đều biết mặt.
        Phương Ðức bắt về treo trên cây đại thọ mà đánh, Thế Ngọc cũng không biết đau, tánh hung hăng không chịu bỏ. Mẹ hay binh vực, Phương Ðức nhiều khi dứt bẩn và hờn giận vợ.

        Ngày kia Phương Ðức có chuyện muốn qua Cang châu, biểu Thúy Hoa sắm sửa đồ hành lý đặng ngày mai khởi trình.

        Miêu thị sửa soạn xong xuôi rồi nói cùng Phương Ðức rằng :

        - Thế Ngọc nó ở nhà không có việc gì, vậy lang quân hãy đem nó theo cho biết chuyện và có mặt lang quân nó không dám hung hăng.

        Phương Ðức nói :
        - Việc đi đường không phải như ở nhà, nếu nó gây họa thì làm sao ngăn cản được.

        Miêu thị nói :

        - Việc buôn bán làm ăn là phận con trai, hãy đem nó theo, cho nó coi mà bắt chước.

        Phương ông nghe nói phải thì bằng lòng cho đi. Qua ngày thứ, cha con đồng qua Cang châu.

        Có lời phê rằng :

        Người đời chớ khá khoe tài giỏi
        Trên thế tự nhiên lắm kẻ hay

        Comment


        • #5
          Hồi Thứ Năm



          Lôi Lão Hổ trên đài táng mạng,
          Lý Bá Sơn ỷ giỏi khi người


          Nói về Phương Ðức cùng Thế Ngọc xuống ghe đi ít ngày đến Cang châu, rồi mướn ghe nhỏ qua Tây Hồ thấy cảnh đẹp, xe ngựa đầy đàng, dưới sông thì tlủy lục, ghe, tàu lại qua đông đảo, lầu đài đờn ca xướng hát nghe rất thanh thao, trước sông Tiền Ðường trời thanh, nước lặng phong quang u nhả, thật là, đất phồn hoa phú quới ; ghé bến, hai cha con lên bờ, thẳng vào cửa Dỏng Kim môn, tìm đến Quãng Ðông hội quán, đường đi hai bên các sắc nhơn dân đông đảo, phố xá mườì phần huê mỷ, tửu lầu trà quán, khí vị phong hương.

          Phương Ðức đến tại Hội quán, chủ tiệm là Trần Ngọc Thơ mừng rở vì đã lâu năm không gặp, liền rước vào thơ phòng trà rượu vui vẻ, rồi dạy thủ hạ cất đồ hành lý và dọn một cái phòng hạng nhứt cho Phương Ðức nghĩ.

          Trần Ngọc Thơ hỏi rằng :

          - Làm sao lâu quá không thấy anh đến chơi, việc buôn bán ra thế nào, tẩu nương và nhị vị hiền diệt mạnh giỏi chăng ? Còn người nhỏ nầy là ai ?

          Phương Ðức đáp rằng :

          - Nội nhà đều bình an, bấy lâu nay mắc công việc nhiều nên qua thăm không đặng, còn hài nhi nầy là con của tôi.

          Rồi kêu Thế Ngọc lại làm lễ thúc phụ.

          Ngọc Thơ đáp lễ mà nói rằng :

          - Ca ca sanh đặng một vị hiền điệt nữa khá mừng.

          Khi ấy Phương Ðức thuật chuyện thâu nạp Miêu thị, sanh đặng Thế Ngọc và công việc buôn bán bên tiệm Vạn Xương, rồi hỏi Ngọc Thơ và công việc buôn bán bên này ra thế nào, có mấy vị lịnh lang nữa ?

          Ngọc Thơ đáp :

          - Từ thuở nay có một đứa đó mà thôi, còn việc nhà cũng như thường không chi lạ.

          Nói rồi bèn thở ra mà than rằng :

          - Khó lắm.

          Phương Ðức hỏi việc chi ?

          Ngọc Thơ nói :

          - Lúc nầy có một đứa ác còn họ Lôi tên Hồng hiệu là Lôi Lão Hổ lập một cái lôi đài tại Thanh Ba, nó làm đầu tại đài ấy. Thinh quan phủ có ra yết thị rằng : Cấm không ai đặng đem binh khí lên đài, bằng ai đánh đặng một đấm, thì thưởng hai trăm lượng, xô rớt xuống đài thưởng năm trăm lượng, lại đánh chết không thường mạng, trước đài có sáu mươi người lão tướng thị chiến không cho sanh sự, chung quanh có ba trăm học trò cầm đao thương gìn giữ, trước đài còn một tấm biển đề : Vô địch đài. Hai bên có hai câu liễn : Quờn đã Quảng Ðông toàn tỉnh ; Khước tích Tô Cang nhị châu (Tay đánh cả tỉnh Quảng Ðông, chơn đạp hai quận Tô, Cang). Từ khi lập đài ấy đến nay hơn một tháng, hại người quê hương mình không biết bao nhiêu lại không ai địch thủ với nó nổi, tuy là lập điều lệ làm vậy mà chẳng công bình, dầu cò ai giỏi đánh nó được nữa, cũng chạy không khỏi đài với ba trăm học trò đó, vì vậy nên người Tô châu không thèm đến thí võ, chỉ có người hương lân của ta háo thắng đến đó mà chịu chết nhiều lắm.

          Phương Ðức nghe nói thì than dài và nói rằng :

          - Ðời thái bình mà có người vô phép hung bạo như vậy, hay là trời khiến tĩnh Quãng Ðông bị hại chăng ?

          Thế Ngọc đứng một bên nghe các việc thì nổi nóng hai con mắt trợn trắng và nói rằng :

          - Ðể ngày mai con ra giết Lôi Lão Hổ đặng trả thù cho những người đồng hương.

          Phương Ðức nạt rằng :

          - Con nít miệng còn hôi sữa, sao dám nói chuyện lớn lối, hãy đi vô.

          Khi ấy Thế Ngọc tức mình lui ra, về phòng nằm lăn lộn nghĩ không an giấc, sáng ngày thức dậy rửa mặt, thay áo quần dắt gia đinh là Lý An ra cửa, bị cửa đóng đi không đặng vì Phương Ðức sợ Thế Ngọc lén đi làm chuyện hại, nên khóa trước.

          Thế Ngọc nhảy ra cửa, đi giày cửu hoàn kiếm, trước đeo kinh của mẹ cho, đút trong tay áo một cặp thước sắt, hỏi thăm chổ lôi đài, người chỉ phía Nam, theo một bọn đi trước đó là những người đi thí võ.

          Thế Ngọc cám ơn rồi theo bọn ấy, đến cửa thành quả thấy một tòa lôi đài rộng lớn cao chừng một trượng bốn năm thước, có treo biễn liễn và có một tờ cáo thị rằng : "Quan Khâm mạng trấn thủ Cang châu các xứ tướng quân, nay có Lôi Hồng là chủ lôi đài nầy, võ nghệ tinh thông, muốn chọn anh hùng hào kiệt trong bốn phương, có mấy điều cấm kể ra sau đây :

          Ðiều thứ nhứt : Binh ở trong dinh ngũ không đặng lên đài.
          Ðiều thứ hai : Ðạo Nhu, Thích và Tam giáo không đặng lên đài.
          Ðiều thứ ba : Phụ nữ không đặng lên đài, vì sợ trai gái lộn lạo làm hư phong hóa.
          Ðiều thứ bốn : Khi lên đài thí võ không đặng cầm binh khí.
          Ðiều thứ năm : Những người muốn lên đài phải khai tên họ, niên canh, và quê quán.

          Trừ mấy điều cấm trên đây, thì các sắc nhơn dân đặng phép lên đài thí võ, hạn trong một trăm ngày, nếu quá hạn không đặng tranh đang, mấy điều cáo thị xin khá tuân theo.
          Còn bên hữu thì Lôi Hồng có ra một tờ huê hồng như sau đây :

          Ðiều thứ nhứt : Ai đánh đặng một đấm thì thưởng về trăm lượng bạc.
          Ðiều thứ nhì : Ai đạp đặng một đạp thì thưởng hai trăm lượng bạc.
          Ðiều thứ ba : Xô té xuống thưởng năm trăm lượng bạc.
          Ðiều thứ tư : Ðánh chết không thường mạng.

          Thế Ngọc thấy quả như lời Trần Ngọc Thơ nói, lại thấy trước đài có lập một cái công án, có quan Thị sự ngồi, và có vài mươi binh đinh, còn chung quanh có vài trăm học trò gìn giữ. Người đi coi và buôn bán đông như kiến cỏ.

          Thế Ngọc coi rồi đứng đợi hơn nữa ngày mà không thấy chủ đài đến, nghe người ta nói Lôi giáo đầu đi qua Kim Lăng chưa về, thì Thế Ngọc vỗ vế một cái nhảy lên đài, đạp phá liễn đối và yết thị tan nát hết, học trò và binh giử đài la nói :

          - Thằng nhỏ nào dám cả gan như vậy !

          Bèn gióng trống, binh gia cầm dao thương chạy đến áp bắt.

          Thế Ngọc không lo lắng chi hết cầm hai cây thước sắt nạt lớn mà nói rằng :

          - Ta là Phương Thế Ngọc ở Quảng Ðông quyết đến giết Lôi Hồng mà không gặp, ta dung cho nó sống một ngày nữa, như ngày mai nó về hãy đến Hội quán tìm ta.

          Nói rồi nhảy xuống đài cầm thước sắt đánh chết năm sáu người học trò, còn bao nhiêu bị thương tích cũng nhiều, nên không ai dám theo.

          Thế Ngọc đi đường cũ về Hỏi quán đi thẳng vào phòng.

          Lúc ấy Trần Ngọc Thơ mắc lo công việc buôn bán, còn Phương Ðức mắc đi chơi nên không hay.

          Nói về Lôi Lão Hổ về thì học trò thuật các việc Phương Thế Ngọc ở tại Quảng Ðông hội quán đến phá lôi đài, giết hết sáu người học trò và đánh bị thương tích hơn hai mươi mốt tên.

          Lôi giáo đầu cả giận liền mặc giáp đội khôi, cầm đại đao, nhảy lên ngựa Ô chùy về một lũ môn nhơn cũng đều cầm binh khí, kéo đến vây phủ Quảng Ðông hội quán.

          Người trong tiệm vào báo cho Ngọc Thơ là chủ tiện hay.

          Ngọc Thơ nhe báo thất kinh hoảng hốt một hồi mới tỉnh, bước ra trước thấy Lôi Lão Hổ cả tiếng mắng nhiếc.

          Ngọc Thơ bèn hỏi :

          - Vì cớ gì mi đến vây tiệm ta ?

          Lôi Lão Hổ mắng rằng :

          - Trần Ngọc Thơ sao ngươi đám cả gan xúi Phương Thế Ngọc đến phá lôi đài, giết hết sáu tên học trò của ta, lại đánh hai mươi mốt tên bị thương tích. Như vậy thì mi chịu tội gì ? Sao hãy còn chối, phải đem Thế Ngọc ra đây cho mau, và thường mấy mạng chết đó, bằng không thì ta phá tiệm mi không còn một món.

          Trần Ngọc Thơ đáp :

          - Trong tiệm tôi có tên Thế Ngọc, mà nó là con nít, có đâu dám làm đến việc ấy, nó ở Kim Lăng theo cha đến đây đòi nợ, mới vài bữa rày, nó mới mười bốn tuổi, giỏi gì mà đánh chết ai đặng ; xin Giáo đầu chớ nghe lời người ta đến hại tiệm tôi.

          Lôi Lão Hổ nói :

          - Ðồ cẩu đầu, đùng nói xuyên ngoa, phải đem Thế Ngọc ra cho mau đặng cho học trò ta nhìn mặt, như không phải thì thôi.

          Ngọc Thơ nói :
          - Xin Giáo đầu hay lui ra chừng một lằn tên, rồi tôi biểu nó ra đặng chăng?

          Lôi Lão Hổ nói :

          - Thôi ta cũng tạm nghe theo, không lẻ lũ bây lên trời cho khỏi đặng. Bèn dạy học trò lui ra mà đợi Thế Ngọc. Khi ấy Ngọc Thơ vào bảo cho Phương Ðức hay các việc Thế Ngọc làm tác tệ dường ấy, nay Lôi Lão Hổ đến vây Hội quán, bây giờ tính thế nào ?

          Phương Ðức nghe nói sửng sốt, mồ hôi ra ướt áo, cã mắng Thế Ngọc là đồ súc sanh muốn hại cha.

          Thế Ngọc quì xuống thưa rằng :

          - Ðể tôi ra giết Lôi Lão Hổ, xin thúc phụ chớ oán trách cha tôi, hể đứng đại trưọng phu làm việc chi không để cho liên lụy đến người. Bèn sửa soạn đồ chiến trận, cầm thiết côn dạy mở cửa rồi xông ra, cả kêu mà hỏi người ngồi trên ngựa có phải là Lôi Lão Hổ chăng ?

          Giáo đầu nói :

          - Phải.

          Lại hỏi rằng :

          - Mi phải là Phương Thế Ngọc chăng ? Sao mi dám phá lôi đài và giết học trò ta, mi đáng tội chưa ?

          Thế Ngọc trả lời rằng :

          - Ta giết học trò ngươi, thì ngươi hỏi, còn ngươi giết người quê hương ta thì ai thường mạng, ta coi ngươi như người trao gói, không phải bộ giỏi, tài cán chi đến đây mà chịu chết, chớ có khoe khoang, mau giục ngựa đến cho ta giết cho rồi.

          Giáo đầu nghe nói mặt phừng phừng như lửa đốt, nạt lớn rằng :

          - Ðồ tiểu súc sanh chớ có khua miệng, để gia gia lấy đầu cho mà coi. Bèn giục ngựa đến cầm đại đao chém xuống một cái như núi Thái sơn đè trứng.

          Thế Ngọc cười mà nói :

          - Chém như vậy rất tốt.

          Liền cầm thiết côn đở, rồi đánh trước đầu ngựa một coi, Lôi giáo đầu cũng đở lại, một đàng đi bộ, một đàng cởi ngựa đánh nhau từ giờ thìn đến giờ mùi hơn tám mươi hiệp chưa phân hơn thua, Thế Ngọc nhảy ra khỏi vòng kêu một tiếng biểu ngừng lại:

          Giáo đầu hỏi :

          - Ngừng làm gì ?

          Thế Ngọc nói :

          - Ở đây đánh thì kinh động quan binh thiên hạ, và trời cũng tối rồi vậy dể ngày mai đến tại lôi đài sẽ quyết hơn thua.

          Lôi Lão Hổ nói :

          - Nói cho chắc ngày mai phải đến.

          Thế Ngọc nói :

          - Sợ cho ngươi chớ ta không nói dối. Rồi hai đàng ra về.

          Thế Ngọc về đến hội quán, Ngọc Thơ thấy Thế Ngọc anh hùng hào kiệt như vậy thì cả mừng, mà nghĩ rằng :

          - Chắc sau xứ Quảng Ðông cũng nổi danh và sẽ rửa hờn cho thân bằng đặng.

          Bèn rót rượu mời uống mà khen ngợi, rồi cho những người anh hùng tráng sĩ trong bổn địa hay, ngày mai tựu tại hội quán đặng đến lôi đài trợ oai.

          Rạng ngày Thế Ngọc và một bọn thân lân đều sửa soạn kéo đến lôi đài, thấy thiên hạ coi đặng hơn bữa trước, lại thấy Lôi giáo đầu đứng trên lôi đài mà đợi.

          Thế Ngọc để bọn thân lân đứng một bên, rồi nhãy lên lôi đài, thấy Lôi Lão Hổ đầu đội bao cân, mình mặc chiến bào, buộc đôi hồng sô sa đái, chơn đi ban tiêm hài, còn Phương Thế Ngọc đầu đội anh hùng chiến mão, mình mặc áo đàn hoa bổn than, trước ngực kết một cái đại hồng sô cầu, trong đeo kính hộ tâm, chơn đi giày cửu hườn kiếm, lưng buộc dải sô sa đái, đầu tròn, mặc vuông, lưng dài vai rộng, vóc lớn, chơn bước như núi Thái sơn, tuy tướng mạo anh hùng, song còn con nít, bề cao không đầy bốn thước, so với Lôi Lão Hổ thì thấp hơn phân nữa, những người coi thấy Lôi Lão Hổ mình cao tám thước, đầu lớn bằng cái đấu, tay như ống sắt, đều đổ mồ hôi mà thất kinh cho Thế Ngọc, chắc là đánh không lại, chết uổng mạng.

          Khi Lôi Lão Hổ thấy Thế Ngọc thì nạt rằng :

          - Ðồ tiểu súc sanh, miệng còn hôi sửa, tóc máu chưa khô, dám cả gan đến đây đối địch cùng ta, dầu ta có đánh chết cũng nhơ tay, nếu muốn nạp mạng, lại mà chịu chết.

          Thế Ngọc nói :

          - Ngươi tuy cao lớn, sức mạnh bất quá bằng trâu, không đủ cho tiểu gia sợ.

          Nói rồi ra một miếng kêu là Ðại sư tử diêu đầu, Giáo đầu dùng thế Mảnh hổ cầm dương, nhắm trên đánh xuống một cái rất mạnh, Thế Ngọc tránh khỏi, bèn dùng một thế Thoát lương hoán trụ đánh xuống, Giáo đầu thất kinh vổ hai vế nhãy qua một bên rồi dùng thế Thiết thủ nhứt thiên tự nhắm ngay cổ Thế Ngọc đánh xuống, Thế Ngọc cũng tránh khỏi, hai người đánh nhau hơn hai trăm hiệp, không ai hơn thua, thiên hạ coi dưới đài thấy Thế Ngọc còn con nít mà giỏi dường ấy đều khen.

          Lôi giáo đầu cũng khen thầm Thế Ngọc, rồi dùng một thế hay hơn hết kêu là Âm dưong đồng khước đạp ưên bụng Thế Ngọc bể cái hộ tâm kính, té xuống đài. (Ðạp thế đó như người khác thì đã tan xương nát thịt).

          Còn Thế Ngọc nhờ thuở nhỏ có tẩm thuốc, gân cốt cũng như sắt đá, lại có đeo kính hộ tâm nên không hề gì, bèn nhảy lên đài nữa.

          Lôi giáo đầu thất kinh, nghĩ rằng :

          - Mình đạp một cái sao không chết, mà cũng không thấy thương tích gì, hay là mình đồng da sắt chăng ? Lại nghỉ mình đạp như thế thì nặng bằng năm trăm cân mà không hề chi, dẩu có đánh thế gì nữa cũng không đặng, thì thất kinh. Còn Thế Ngọc bận nầy tay đánh xuống như mưa, đều nhắm chổ trí mạng của Giáo đầu.

          Giáo đầu tuy là võ nghệ tinh thông mặc lòng, song lúc ấy mắc lo sợ, nên tay chơn bận rộn che đở không kịp, bị Thế Ngọc đi giày cửu hườn kiếm đạp nhằm bắp vế phía tả, máu chảy dầm dề, Thế Ngọc cả mừng đạp bồi hai chơn vô sườn, gân cốt đền gãy.

          Lôi giáo đầu la một tiếng lớn té xuống đài mà chết. Những người đi coi đều khen ngợi, còn hoc trò của Lôi giáo đầu thấy Thế Ngọc giỏi không dám nói chi hết, liền khiêng thây Lôi giáo đầu về báo cho sư mẫu hay.

          Lúc ấy Trần Ngọc Thơ và thân bằng tỉnh Quảng Ðông cả mừng trở về.

          Thế Ngọc cởi tuấn mã về đến Hội quán, thấy giữa trung đường mở tiệc bày sẳn sàng đải đằng hỉ hạ, các người thân bằng đều khen mừng Phương lão bá có con đặng anh hùng dường ấy, ắt nổi tiếng cho tỉnh Quảng Ðông, lại trừ đặng tai hại thật là công đức vô cùng, đều bưng rượu kính mừng.

          Có bài thơ rằng :

          Võ nghệ nào ai lại dám khoe
          Dầu cho tinh thuộc hãy còn e
          Người hay cũng còn người hay khác
          Ðến bực thánh nhơn há chẳng dè

          Nói về vợ Lôi Lão Hỗ là Lý Tiểu Hườn thấy trời tối mà chồng chưa về, đang trông đợi xảy thấy học trò khiêng thây chồng về, nói bị Phương Thế Ngọc đánh chết.

          Lý Tiểu Huờn khóc rống té xuống chết giấc, có thuốc cứu mới tỉnh lại, cả mắng rằng :

          - Ðồ súc sanh, cừu nầy thề chẳng ở chung trên đời.

          Rồi thấy thây chồng máu chảy dầm dề, biết là dấu giày cửu hườn kiếm càng thêm thương xót mà nói :

          - Ðồ súc sanh lòng độc, lén đem lợi khí hại người, mai ta nguyện giết mầy trả thủ.

          Rồi sắm sửa quan quách tẩm liệm, tống táng xong xuôi, liền sắm sửa chỉnh tề, giấu một cặp phi đao, và đi giày long hổ đinh ngoa, kéo lủ môn đệ thủ hạ, bạch kỳ bạch giáp, cầm binh khí đến Quảng Ðông Hội quán.

          Khi ấy có người chạy báo cho Thế Ngọc hay.

          Thế Ngọc vào thưa cùng cha, rồi sửa soạn khôi giáp, đeo hộ tâm kính, tay cầm thiết côn, cởi ngựa, kéo các anh hùng thân hữu Quảng Ðông ra, thấy một người đàn bà chừng hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, mày liễu dững lên, mặt mày căm giận, mặc đồ tang phục, tuy chẳng đúng tuyệt sắc giai nhơn, song cũng là thanh xuân thiếu phụ. Còn Lý Tiểu Hườn thấy Phương Thế Ngọc tuy là diện mạo anh hùng mà hãy còn con nít thì lấy làm lạ, có lẻ nào trượng phu ta đánh không lại, chắc nó đi giày cữu hườn kiếm nên mới hại chồng ta chết, lại nghĩ rằng :

          - Nó bị miếng Âm dương đồng tử khước đạp xuống đài mà không bề chi, ắt là đồng đạo với mình, chắc thuở nhỏ nó có tẩm thuốc luyện gân cốt rồi, nên không dễ giết bèn hỏi :

          - Ngươi có phải là Phương Thế Ngọc chăng ?

          Thế Ngọc đáp :

          - Phải.

          Rồi hỏi :

          - Ngươi tên họ chi, đàn bà sao không giử phận khuê môn, đến đây làm gi ?

          Tiểu Hườn mắng rằng :

          -Ðồ tiểu súc sanh, hãy ngoáy tai mà nghe, ta họ Lý tên Tiểu Hườn vợ Lôi giáo đầu, vì mầy giết chồng ta, nay ta đến gịết mầy mà báo cừu.

          Nói rồi liền hươi Tú long đao chém xuống, Thế Ngọc giơ thiết còn ra đở nói :

          - Khoan động thủ, để ta nói hết rồi sẽ đánh không muộn gì.

          Tiểu Hườn nói :

          - Việc chi hãy nói cho mau ta nghe thử.

          Thế Ngọc rằng :

          - Ngươi là vợ Lôi giáo đầu đến báo cừu sao ? Chồng ngươi lập lôi đài nầy mà thí võ, trong lời rao ai chết nấy chịu, lại từ ngày lập đến nay trong hương lân ta chết biết là bao nhíêu, đến nay chồng ngươi bị ta mà chết, cũng tại nơi trời, lẽ không hờn mới phãi, vậy chớ người tỉnh ta chết đó thì làm sao ? Lời cổ ngữ có nói rằng : Oan gia nghi giải bất nghi kết. Lại có câu rằng : Tiên lễ nhi hậu binh . Nay ta lấy lời phải nói cho ngươi nghe, chớ như chồng ngươi là anh hùng cái thế, còn chưa khỏi tay ta, huống chi là ngươi, chớ cha ta thường dạy ở đời phải tồn tâm trung hiếu, không nên hung hăng, ta cực chẳng đã mới giết chồng ngươi, không lẽ giết ngươi nữa, vậy ngươi phãi suy đi xét lại mới đặng.

          Tiểu Hườn nghe nói càng thêm giận lắm, mắng rằng :

          - Ðồ súc sanh tự thị khoe tài, mắt ngó không ai, trượng phu ta lập lôi đài nầy, trong điều lệ cấm không đem binh khí mà ngươi lại đi giày cữu hườn kiếm, mà hại trượng phu ta, nay lại kiếm lời khôn, tiếng khéo mà đố hoặc ta.

          Bèn hươi đao lại chém.

          Thế Ngọc cản lại rằng :

          - Ngày nay trời đã gần tối, đễ mai sẽ đến lôi đài tĩ thí.

          Tiểu Hườn đáp :

          - Vậy ta dung cho mi sống một đêm nữa, ngày mai sẽ giết. Rồi quay ngựa trở về.

          Rạng ngày hai đàng đều kéo những kẻ hộ tùng đến lôi đài.

          Tiểu Hườn thấy Thế Ngọc thì muốn nuốt sống cho đặng mới lại gan.

          Thế Ngọc cũng không dám khinh dễ, hai đàng đều ra qườn thế, một bên như chim đại bàng xòe cánh, một đàng tợ quái mảng khoe mình, trước ra miếng Kim kê độc lập, sau diễn tài Dư tư diêu thân. Long tranh hổ đấu một trường ngự hải kình thân, trăm trận khó phân thắng bại, bởi hai đàng thuở nhỏ đều có tẩm thuốc luyện gân cốt, cho nên đánh đến hai trăm hiệp chưa phân hơn thua. Tiểu Hườn sợ Thế Ngọc đánh trước bèn giở chơn có đi giày long hổ đinh ngoa dùng thế Song phi hườn long khước đạp trước ngực Thế Ngọc bể nát hộ tâm kính, nhằm bụng máu chảy dầm dề té xuống đài, may nhờ có hộ tâm kính che nên không chết, mấy người tương thân xúm khiêng về Hội quán, chết đi sống lại đôi ba lần, hộc máu ra hoài, bịnh coi ngặt nghèo.

          Phưng ông lúc ấy tâm thần rối loạn, cửu nhi thất thần.

          Trần Ngọc Thơ lật đật rước thầy điều trị, mà không thấy giảm.
          Phương ông nói :

          - Phải kêu mẹ nó đến mới cứu đặng.

          Bèn sai gia đinh là Lý An đem thơ về rước Miêu thị.

          Khi Miêu thị được thơ và nghe Lý An nói các công việc thì thất kinh, liền xé thơ ra coi rồi nói với Lý An rằng :

          - Con ta đã có tẩm thuốc luyện gân cốt từ nhỏ đến lớn, nay ta qua cho thuốc ắt là phải lành. Bèn sửa soạn đồ hành lý và thuốc men giao cho Lý An rồi nai nịt cầm hoa thương lên ngựa đi cùng Lý An, ít ngày đến Cang châu, vào Hội quán, làm lễ Phương ông và thân bằng cố hữu, đi vào xem bịnh Thế Ngọc, bèn lấy thuốc ngoài thoa, trông uống thất là thần hiệu, trong một giây lát liền mạnh, Thế Ngọc tĩnh lại, mở mắt thấy mẹ, liền khóc mà nói :

          - Mẹ làm sao mà báo cừu cho con.

          Miêu thị nói :

          - Con hãy yên lòng để mặc mẹ báo cừu cho.

          Bèn sai người đến hẹn với Tiểu Hườn ngày mai tựu tại lôi đài thí võ.

          Phương ông ngăn cãn không đặng, kế một lát người đi về nói Tiểu Hườn y lời, ngày mai sẽ tựu tại lôi đài thí võ.

          Rạng ngày hai mẹ con sữa soạn đồ chiến trận, trước ngực đeo hộ tâm kính, chơn đi giày tiểu kiếm ngoa, cầm thương lên ngựa, kéo những người hộ tùng theo, đến lôi đài thấy đã có Lý Tiểu Hườn đứng đợi, Miêu Thúy Hoa dạy các thân hữu ở dưới đài phòng khi ứng tiếp. Rồi nhãy lên đài, thấy Tiểu Hườn mình mặc đồ trắng, chơn đi giày tiểu thiết đinh,bèn hỏi :

          - Nàng có phải là Lý Tiểu Hườn chăng ? Bởi chồng nàng làm dữ, nên chết bỏ mình, nàng lại tự thị ỷ tài đến báo cừu, muốn giết con ta, may ta cứu đặngg không thì đã chết tại tay nàng rồi, nay ta đến đây nàng có miếng Song phhi hườn long kước thì hãy dùng thử coi.

          Lý Tiểu Hườn nghe biết là mẹ Thế Ngọc, bên nạt mà nói rằng :

          - Ðồ ác phụ xúi con làm dữ , lén dùng đồ ám khí mà hại chồng ta, dẫu đánh con mi chết, đặng trả thù chồng, ấy là lẻ thường, nay mầy lại muốn đến chết thế sao ? Chớ ta tưởng mi đến thì có đường, chớ về không ngỏ.

          Nói rồi xem lại thì Thúy Hoa niên kỷ cũng một trang với mình, sửa soạn mười phần tề chỉnh, lại thế nhảy lên đài cũng là một điệu với mình.

          Khi ấy Thúy Hoa cả nạt một tiếng rồi lập ra một thế Mãnh hổ cầm dương đánh tới.

          Tiểu Hườn dùng phép Song long quá hải mà giải, hai đàng đánh với nhau cũng như :

          Rồng giành cọp chụp trên non lớn
          Ngọc lội kình đua giữa biển Ðông

          Ðánh dư hai trăm hiệp, kế trời tối, đều kéo nhau về nghĩ, đánh luôn ba ngày, không ai hơn thua. Khi ấy có học trò lớn clta Bạch Mi đạo nhhơn là Lý Hùng tên ngoài là Bá Sơn xuống thăm rể là Lôi Lão Hổ.

          Tiểu Hườn rước vào khóc mà thuật hết các việc, Bá Sơn cả giận tức thì đến Quảng Ðông Hội quán biểu Thúy Hoa lên đài thí võ.

          Thúy Hoa thấy sư bá đến, thì ra trước chịu tội mà nói rằng :

          - Vì con tôi không biết mà giết lịnh tế, muôn trông ơn sư bá rộng lòng dung thứ.

          Bá Sơn không nghe, biểu Thế Ngọc phải lên đài thí võ đặqg quyết hơn thua.

          Thúy Hoa năn nỉ không đặng, thì kỳ nữa tháng cho bịnh Thế Ngọc lành rồi sẽ ra đấu võ.

          Ba Sơn chịu ra về.

          Khi ấy Thúy Hoa nghĩ con mình không phải là địch thủ với sư bá, vậy phải đến chùa Thiếu Lâm cầu sư bá là Chí Thiện thiền sư đến giải nguy mới đặng, bèn nói với Phương ông hay rồi sắm sữa đồ hành lý, cắp hai cặp song tiên mà đi.

          Nguyên Thúy Hoa thuở nhỏ có theo cha đi buôn bán, xứ nào cũng biết, nên đi riết ít ngày đến Phước Kiến chùa Thiếu Lâm, học trò tiếp rước biết là Thúy Hoa, mới hỏi thăm sư thúc sao đã lâu không thấy, nay người đến có việc chi ?

          Thúy Hoa nói :

          - Phụ thân tôi đã qua đời rồi. Nay Lý Bá Sơn tự thị khi dễ nên tôi đến cầu nhị sư bá cứu giải việc ấy. Rồi thưa hết các việc đầu đuôi cho mấy người ấy nghe.

          Sư thúc đáp rằng :

          - Sư phụ vân du các xứ không biết bửa nào về, vậy ngươi đến Vân Nam, núi Bạch Hạc cầu Ngũ Mai đại sư bá, người có lòng từ thiện, lại dễ nói, cầu xuống giải cứu chắc đặng.

          Thúy Hoa nghe nói cả mừng, liền tạ ơn rồi lên ngựa, nhắm hướng qua Bạch Hạc sơn mà đến.

          Comment


          • #6
            Hồi Thứ Sáu



            Mai Hoa Thung, tục tăng thí võ
            Tây thiền tự, sư đệ gặp nhau



            Khi Miêu Thúy Hoa đi ít ngày đến núi Bạch Hạc, vào am thấy Ngũ Mai sư bá, liền cúi lạy.

            Ngũ Mai đở dậy hỏi :

            - Ngươi đến có việc chi chăng ?

            Thúy Hoa bèn thuật hết các việc Lôi Lão Hổ lập lôi đài thí võ, rồi Lý Hùng báo cừu làm sao nói hết cho Ngũ Mai nghe, rồi lạy mà khóc xin đại sư bá đem lòng từ huệ xuống cứu con tôi thì ơn ấy kết cỏ ngậm vành.

            Ngũ Mai rằng :

            - Từ ta xuất gia về núi tu luyện đến nay, đã lâu võ nghệ quên hết, e đánh không lại Lý Bá Sơn, nay có Chí Thiện nhị sư bá ở tại Việt Thành, chùa Tích Quang hiệu, rước xuống giải cứu mới xong.

            Thúy Hoa nghe nói hai hàng lụy nhỏ ròng ròng mười phần sầu nào, lạy lục khẩn cầu.

            Ngũ Mai thấy vậy thì chịu xuống giúp, Thúy Hoa cả mừng.

            Khi ấy Ngũ Mai dặn học trò giữ gìn sơn động ta đi ít bửa sẽ về, rồi soạn đồ hành lý tay cầm thiền trượng cỡi lừa ra đi.
            Thúy Hoa cũng lên ngựa theo Ngũ Mai trở về, nữa tháng về đến Quảng Ðông hội quán, Phương ông và Thế Ngọc đã thiệt mạnh, Thúy Hoa mười phần vui vẻ liền sai người đến nói cho Lý Bá Sơn hay, ngày mai đến lôi đài thí võ.

            Có bài thơ rằng :

            Tự thị sanh ra chuyện bất hòa
            Bá Sơn bày lập trận mai hoa
            Ỷ tài không tưởng lời khuyên dạy
            Ðến nổi thân mình phải hóa ma

            Rạng ngày Thúy Hoa hầu cho Ngũ Mai sửa soạn rồi dạy Thế Ngọc cầm thiền trượng theo hầu Ðại sư công. Còn Thúy Hoa và bọn hương thôn đều đội khôi, mặc giáp rở ràng oai phuông lẩm liệt, kéo đến lôi đài, phân ra hàng ngũ.

            Khi ấy Ngũ Mai xuống lừa rồi dùng một thế Kim Cô Ðộc Lập hai tay soè ra, một chơn đứng xuống vùng bay lên đài, thiên hạ coi đều khen ngợi.

            Khi ấy Lý Bá Sơn ở trên đài có ý đợi Thế Ngọc lên đặng đánh báo cừu cho Lôi Hồng, xảy thấy dưới đài nhảy lên một người đạo nhơn già ước tám chín mươi tuổi tóc bạc, bộ mặt coi còn nhỏ, mình cao hơn bảy thước, hông tròn, lưng lớn, đầu như cái đấu, cổ tay tròn như ống tre, vốn là con ông Huỳnh Hoa từ thuở nhỏ tu luyện có công, cho nên tinh thần mạnh mẻ hơn kẻ thiếu niên, Bá Sơn nhìn biết là Ngũ Mai ở núi Bạch Hạc, học trò lớn của Hồng Mi đạo nhơn, tài nghệ giỏi lắm, không phải tầm thường, bèn cung tay chào rằng :

            - Không dè Sư huynh đến chẳng kịp rước, xin tha tội, xin hỏi chẳng hay Sư huynh đến đây có việc chi chăng ? Chớ không lẽ đến mà thí võ cùng em. Xin Sư huynh nói cho em rỏ ?

            Ngũ Mai đáp lễ lại và nói rằng :

            - Hiền đệ, nay ta đến đây không phải có việc chi khác, vì ta muốn khuyên giải một chuyện chẳng biết hiền đệ có nạp dung chăng ?
            Lý Hùng đáp rằng :

            - Nếu Sư huynh nói phải lẽ thì sao tôi lại không nghe, bằng chẳng phải thì tôi cũng không theo.
            Ngũ Mai nói :

            - Từ khi ta xuất gia đến nay, một mãy thế tình tranh đấu, đều không đem vào lòng, há đến đây mà thí võ làm chi. Nhơn ta vân du đến Cang châu, nghe lịnh tế của hiền đệ lập lôi đài mà hại sanh linh không biết là bao nhiêu là kể, ấy là vô phép lắm, rủi bị tay Phương Thế Ngọc là con nít mà chết. Ấy là trời khiến dường ấy cho khỏi hại sanh linh nơi xứ nầy, rồi Thế Ngọc lại bị lịnh ái mà chết, may cứu khỏi thì giận ấy cũng đã vừa, nay xin hiền đệ vì ta mà dung việc ấy, đặng ta biểu mẹ con chịu lỗi, và cha nó là Phương Ðức phải phạt một ngàn lượng bạc, đặng hai đàng huề nhau, chẳng biết hiền đệ có nghe chăng ?

            Lý Bá Sơn nghe nói hai con mắt trợn lên, chơn mày đều dựng mà nói rằng :

            - Sư huynh nói như thế thì rể ta bị oan ức nầy chừng nào rửa đặng, chớ chi lúc thí võ mà nó đừng đi giày cửu hườn kiếm, lén hại rể ta thì ta thôi, chớ nó lén đem gươm đao mà hại như vậy, biểu ta thôi sao đặng. Nếu Sư huynh ỷ tài muốn bảo hộ cho nó đánh với tôi thì tôi cũng đánh với.

            Ngũ Mai thấy khuyên giải không đặng, thì nói rằng :

            - Nay ta đã xuất gia lấy chữ từ bi làm trước, mà khuyên ngươi không đặng, bất đắc dĩ nên phải đánh, như rủi có việc chi chớ khá trách ta.

            Lý Hùng cả giận, nạt rằng :

            - Lão sư đừng nói phách.

            Bèn ra miếng Suy sơn chưởng, nhắm đầu Ngũ Mai đánh xuống.

            Ngũ Mai không lo sợ chút nào, miệng niệm Nam mô a di đà phật, tay tả thì gạt trừ miếng ấy, còn tay hữu ra thế Tạ mã quờn đánh ngay sườn Bá Sơn, hai người cứ ra miếng thế cùng nhau như rồng đánh cọp nhãy, thật là kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lương tài, một bên như nghinh phong mãnh hổ, một đàng như hí thủy giao long, đánh hơn hai trăm hiệp trời tối mà chưa ai hơn thua.

            Lý Bá Sơn nói :

            - Hãy đợi ta trong ba ngày, đặng lập một cuộc Mai Hoa Thung rồi sẽ tỷ thí với nhau đặng chăng ?

            Ngũ Mai nói :

            - Thôi ta cũng dung cho ngươi sống ba ngày nữa rồi đến Mai Hoa Thung sẽ giết.

            Hai đàng kéo nhau ra về.

            Lý Bá Sơn về sắm sữa chọn một chổ đất tốt, chiếu theo phương hướng lập cuộc Mai Hoa Thung như vầy :
            Mai Hoa Thumg chia ra một trăm tám cuộc, mỗi cuộc làm năm cây, trong mỗi cây bốn phía có bốn cây hình như bông mai, người thí võ phải đạp chơn lên đó, bước tới bước lui cho có phép tắc, tay chơn cho liền nhau nếu sai một mãy thì tánh mạng không còn. Ấy là côn quờn kỵ nghệ, phép bí truyền thứ nhứt ; trận lập xong xuôi, đợi đến kỳ đặng dẫn Ngũ Mai lên đó mà giết.

            Khi Ngũ Mai về đến Hội quán thì Thế Ngọc ra rước và hỏi cuộc Mai Hoa ra thể nào, xin công sư chỉ bảo.

            Ngũ Mai cắt nghĩa rõ ràng cuộc Mai Hoa, thì mấy người trong Hội quán đều le lưỡi.

            Thúy Hoa nói :

            - Cuộc ấy cha tôị có để bản đồ lại, mà tôi chưa học được, nếu ngày nay mà không có Sư bá đến ắt mẹ con tôi không khỏi chết !

            Ngũ Mai nói :

            - Các ngươi đừng lo, ta đã tính trước rồi, nay Bá Sơn nó tự thị không chịu huề thì chớ, mà nó lại muốn hại ta, thì sau nó đừng oán trách rằng ta không dung tình. Bởi ta tưởng tình Sư thúc là Bạch Mi đạo nhơn, nên ta dung cho khỏi chết mà thương người đồng đạo, nên khi thí võ ta nhường nó hết ba bốn phần, mà nó không biết phải quấy, lại trở muốn hại ta, thôi để khi đến Mai Hoa Thung ta sẽ ra tay đưa nó về địa phủ.

            Các người nghe nói đều vui mừng hớn hở. Còn chủ tiệm là Trần Ngọc Thơ mỗi ngày đều dọn tiệc chay mà đãi đằng Ngũ Mai một cách khiêm nhượng.

            Lúc rảnh Ngũ Mai đem hết các thế hay mà dạy Phương Thế Ngọc.

            Thế Ngọc có tánh thông minh nên hiểu hết, qua ngày thứ hai, Lý Hùng cho người đến hẹn cùng Ngũ Mai rằng :

            - Rạng ngày đến Mai Hoa Thung thí võ.

            Ðến kỳ Ngũ Mai và nội bọn đều sắm sửa kéo đến lôi đài.

            Ngũ Mai kêu Lý Hùng nói rằng :

            - Ngươi ỷ tài không kể đến ai nên mới lập trận Mai hoa này mà khi ta, là đạo lý gì vậy, hèn chi rể ngươi cũng bởi ngươi dạy mới ra thế ấy, nay ngươi lại không nghe lời phải, chẳng may có điều gì, thì uổng công sư phụ là Bạch Mi đạo nhơn dạy bảo, cũng trông cho ngươi rỡ ràng môn giáo, để tiếng đời sau, chớ có dè ngươi ngày nay làm ra cớ sự như vầy đâu. Vậy ngươi hãy suy đi xét lại kẻo để sau ăn năn thì sự đã rồi.

            Lý Bá Sơn nghe mấy lời thì không biết tính lẽ nào, phải gắng gượng nạt rằng :

            - Ta không thèm nói miệng tày với ngươi, có giỏi thì lên Mai Hoa Thung thí võ cùng ta cho biết thư hùng.

            Ngũ Mai nói :

            - Ngươi hãy lên trước đi rồi ta theo sau.

            Lý Hùng liền cởi áo nhảy lên Mai hoa thung, các ngươi đứng coi, thấy Lý Hùng tuổi ước sáu mươi dư, râu bạc, mình cao tám thước năm, sức mạnh ngàn cân, oai phong sát khí, ráng sức bình sanh ra quờn phân thế, tỷ như cọp dữ trên non, rồng giởn dưới nước, tới lui đều có phép tắc, đi hết tám mươi mốt đường quờn rồi nhảy xuống biểu :

            - Ngũ Mai nhãy lên đi cho ta xem.

            Ngũ Mai bèn cởi áo mang giày da nhĩ nhảy lên Mai Hoa Thung ráng súc bình sanh đi một trăm tám đường quờn, tới lui, qua lại, tả hữu, trước sau, nhảy lên tạ xuống như bay, oai phong lẩm lẩm, nhuệ khí đằng đàng, tợ giao long hí thuỷ, xà mãng phiên thân, những người coi đều vổ tay khen ngợi, rồi Ngũ Mai bước xuống khí lực như thường, thần sắc chẳng đổi, Lý Hùng thấy vậy thất kinh không dè ngũ Mai dùng phép ấy còn hay hơn mình bội phần, nhưng việc đã lở rồi, không biết tính làm sao, bèn kêu con dặn nhỏ rằng :

            - Phải cầm cái thư hùng tiên lén đánh Ngũ Mai một cái đặng giúp sức cho ta.

            Tiểu Hườn vưng lời.

            Khi ấy Lý Hùng hỏi Ngũ Mai rằng :

            - Vậy ngươi dám lên trận đặng quyết đua tranh cùng ta chăng ?

            Khi Ngũ Mai thấy Lý Hùng nói nhỏ với con nó thì đem lòng nghi, bèn kêu mẹ con Thế Ngọc dặn rằng :

            - Ta thấy cha con Lý Hùng nó nói nhỏ với nhau ắt là có việc lén lút chi đây chớ không không, vậy mẹ con bây phải giữ gìn mới đặng.

            Mẹ con Thế Ngọc vưng lời.

            Ngũ Mai dặn dò xong rồi, liền kêu Lý Hùng lên trận.

            Lý Hùng lên trận ra thế Sư Tử Diêu Ðầu, Ngũ Mai dùng miếng Ðại Hỏa Thiêu Thiên trừ lại, hai đàng áp chiến cùng nhau như giông như gió, đá chạy, cát bay, đánh đến một trăm hiệp Lý Hùng sức đuối, chịu không nổi, còn Ngũ Mai không dung tình nữa, cứ chổ trí mạng mà đánh.

            Tiểu Hườn thấy cha sút thế, bèn cầm Thư Hùng tiên nhắm Ngũ Mai đánh xuống, bị Thế Ngọc cầm thiết xích đở rồi đánh lại, Tiễu Hườn lật đật đở, thấy người thù càng thêm giận, rằng sức mà đánh, không tính chuyện khác đặng.

            Lý Bá Sơn thấy con mắc đánh với Thế Ngọc, không giúp đở mình đặng, còn mình thì sức cự không nổi nữa, rủi sa xuống trận, bị Ngũ Mai đánh trên cổ một cái, hởi ôi ! Thương thay !

            Có bài thơ rằng :

            Bày cuộc Mai Hoa lập trận đồ
            Khéo lo xảo kế uổng mưu mô.
            Chẳng nghe bạn tác lời khuyên giãi
            Há trách rằng sao huyết nhiểm ô.

            Nói về Tlểu Hườn thấy cha chết lòng như dao cắt, ruột tợ kim châm, bèn bỏ Thế Ngọc mà đánh với Ngũ Mai, lúc ấy Ngũ Mai tay không, nhờ Thúy Hoa ngăn cự, Ngũ Mai liền kêu Thế Ngọc biểu đem thiền trượng lại rồi nạt Thúy Hoa lui ra, rồi nói với Tiểu Hườn rằng :

            - Mi không hiểu cơ quan gì hết, còn dám hành hung mà chịu chết sao ?

            Tiểu Hườn không thèm nói lại, cứ việc giở song tiên nhắm đầu Ngũ Mai đánh xuống, Ngũ Mai cả giận, đánh được ba mươi hiệp, Tiểu Hườn cũng bị một cây thiền ưượng mà chết.

            Có bài thơ khen Lý Tiểu Hườn như vầy.

            Tiết hiếu khen cho Lý Tiểu Hườn
            Cũng vì cừu hận thất cơ quan
            Phải chi trước biết lời can gián
            Ðâu nổi tên đề chốn quỉ quan

            Khi ấy các học trò của Tiểu Hườn thấy vậy đều chạy hết.

            Ngũ Mai kêu lại nói rằng :

            - Lủ bây chớ khá kinh tâm, vì ta đã khuyên giải mà không đặng nên mới đến nổi nầy, còn lũ bây không can gì, hãy đem thây về chôn cất rồi phá lôi đài đi.

            Nói rồi đều kéo nhau về Hội quán hỏi lại thì Lôi Hồng còn một đứa con trai tên Ðại Bằng mười tuổi cho học võ nghệ với Phùng Ðạo Ðức tại Võ Dương sơn, thì Ngũ Mai đem lòng thương xót, giết cha con đó là bất đắc dĩ mà thôi.

            Rồi Ngũ Mai sửa soạn đồ hành trang trở về núi, vợ chồng Miêu Thúy Hoa cầm không đặng. Khi ấy Trần Ngọc Thơ đem ba trăm lượng bạc tạ ơn, Ngũ Mai không chịu lấy.

            Trần Ngọc Thơ năn nỉ nói rằng :

            - Tôi thành tâm kính về hương khói cho Phật, xin Sư bá nhậm tình.

            Ngũ Mai chối từ không đặng nên phải nhận, rồi dặn dò Thế Ngọc phải ráng tập luyện những miếng dạy bảo ngày trước đó, đặng sau ra giúp mở nước nhà mà lập công danh quí hiển. Dặn rồi từ biệt ra đi Thúy Hoa và Thế Ngọc đưa ra, khóc mà trở về.

            Khi ấy Phương Ðức sắm sửa đồ hành lý trở về tiệm Vạn Xương xét sổ sách, thâu bạc tiền giao cho người coi tiệm, rồi đồng kéo nhau về quê quán.

            Ði ít ngày đến chổ, Hiếu Ngọc và Mỹ Ngọc ra tiếp rước.

            Thúy Hoa đem Thế Ngọc vào ra mắt chủ mẫu và hai chị dâu, một nhà sum hiệp đoàn viên, bày yến tiệc vui mừng hĩ hạ. Khi ấy Phương Ðức và Thúy Hoa tính đem ba đứa con đến tỉnh thành cầu Chí Thiện thiền sư dạy học võ nghệ, bèn vào cho vợ lớn hay, rồi kéo nhau ra đi, đến tỉnh thành vào quán an nghĩ.

            Ba anh em Hiếu Ngọc vưng lời cha mẹ, đến chùa Quang Hiếu tự vào hỏi thăm thiền sư thì người trong chùa nói :

            - Ngài đã qua chùa Tây Thiền tự dạy học.

            Ba anh em bèn ra khỏi Tây môn đến phố thứ sáu, xảy thấy một người học trò chừng hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi, mày xanh, mắt đẹp, mặt trắng môi son, đáng bực anh tài, khôi ngô tuấn tú, bị một lũ cường nhơn áp đánh, kêu la mà không ai cứu, hai bên phố cứ việc lo buôn bán.

            Thế Ngọc hỏi thăm người đi đường mới biết lũ ấy là quân Cơ phòng, còn người bị đánh đó là Hồ Huệ Càng, hai bên phố sợ lũ Cơ phòng lắm, nên không ai dám cứu hết.

            Ba anh em đều giận nói :

            - Ðời thái bình không phải ly loạn gì, mà để cho nó đánh người ta chết sao ?

            Khi ấy Thế Ngọc bước vào hai tay khoát một cái, lũ ấy đứng không vững té lăn ra hơn mười mấy đứa. Còn người bị đánh thì gần chết.

            Thế Ngọc lật đật đở dậy bụng muốn cứu người, không phải muốn sanh sự, ai ngờ lũ Cơ phòng thấy ba người xô lũ nó té lăn, rồi lại cứu người cừu nhơn, thì cã giận bèn cầm binh khí áp lại vây đánh ba anh em Thế Ngọc.

            Khi ấy Thế Ngọc và hai anh đánh một hồi đều ngã lăn, lớp thì lủi chạy, lớp lại bị thương cũng như gió dữ thổi cây khô, không chổ chống chỏi, may có Hiếu Ngọc là người hay cẫn thận cản không cho chém giết, nếu không thì Thế Ngọc giết biết số đâu mà ể.

            Việc xong rồi, Thế Ngọc thấy Hồ Huệ Càng bị thương nặng lắm, bèn cỏng đến chùa Tây Thiền tự, vào ra mắt Chí Thiện thiền sư, rồi trình thơ của mẹ là Miêu thị, thơ ấy một là kính thăm ; hai là xin dạy ba đứa con học, rồi thuật các việc Thế Ngọc đánh chết Lôi Lão Hổ cho huề thượng nghe, Chí Thiện cả mầng, hỏi Thế Ngọc rằng :

            - Ngươi cõng ai đó ?

            Thế Ngọc thưa rằng :

            - Ðệ tử đi vừa đến phố thứ sáu, thấy một lũ Cơ phòng vây đánh người nầy nặng lắm, mà không ai cứu, nên anh em tôi dám cứu đem đến đây cầu xin Sư phụ cho thuốc cứu tánh mạng người.

            Chí Thiện khen rằng :

            - Anh em ngươi biết điều phải mà làm thì phải lắm.

            Rồi Chí Thiện đem hồ lô ra lấy huờn hồn đơn, và bồ cốt sanh cơ chỉ thống tán, cho trong uống ngoài thoa, giây lâu liền hết ; người ấy mở mắt ra, miệng mửa ra một cục ứ huyết mới tĩnh lại, rồi lạy tạ ơn sư phụ cho thuốc và ba anh em cứu mạng.

            Chí Thiện hỏi :

            - Ngươi tên họ chi, ở đâu, vì cớ nào mà bị người ta đánh ?

            Người ấy thưa rằng :

            - Tôi họ Hồ tên Huệ Càng, ở Tôn Hội hà đường, hai mươi hai tuổi, mẹ tôi họ Ðỗ, vợ tôi họ Hà, con tôi tên là Á Ðức, khi trước cha tôi là Hồ Thành đến chổ Cơ phòng buôn bán, bị bọn ấy khi dễ làm nhiều điều xỉ nhục, lũ nó đông lắm, nên cha tôi sợ sanh sự, đem tôi ở chổ khác, tháng trước tôi về thăm mới hay cha tôi bị lũ nó đánh chết, tôi tính đến tĩnh minh oan, không dè đến đó bị lũ nó đánh, may nhờ có ân nhân đây cứu khỏi.

            Các người nghe nói đều bất bình.

            Thế Ngọc nói :

            - Hồ huynh đến tĩnh thưa không đặng đâu, thời để ở đây học võ nghệ với Sư phụ cho giỏi rồi sẽ về trừ lũ nó, ắt không dám làm dữ nữa, chớ bây giờ đến quan chắc quan cũng binh vực chúng nó nữa chớ không ích gì.

            Các người nghe Thế Ngọc nói đều khen phải.

            Hồ Huệ Càng nói:

            - Tôi nghèo hèn yếu đuối, biết Sư phụ có lấy lòng từ bi mà dung nạp không ?

            Chí Thiện nói :


            - Ta đã xuất gia lấy lòng từ bi làm trước, thường dạy học trò hoặc là cho thuốc, thì là một thế, không luận giàu nghèo, chẳng kỷ tiền bạc, nếu ngươi muốn học thì ta hết lòng dạy bảo, nhưng mà học với ta thì phải ăn ở cho hiền lương, đừng ỷ sức côn quờn mà sanh sự, cứu người được phép, bằng hại không nên, như y theo mấy lời ta dặn, thì học với ta mới đặng.

            Các người đều thưa rằng :

            - Chúng tôi xin vâng lời thầy dặn, không dám cải lịnh.

            Khi ấy Hồ Huệ Càng ráng ngồi dậy đến trước mặt Thiền Sư quì lạy mà thưa rằng :

            - Xin tôn sư cho tôi cùng anh em Thế Ngọc kết bằng hữu, sống thác có nhau, hoạn nạn tương cứu.

            Nguyên Chí Thiện lập trường dạy võ, trước đã đặng sáu người, nay thêm bốn nữa là mười, thì biểu mỗi người phải biên tên họ, rồi sắm sửa hương đăng trà quả, đến truớc bàn thờ Quan Ðế thánh quân vái lạy kết làm anh em xương thịt, như ngày sau ai phụ nghĩa thì thần minh châu chiếu giám.

            Tên mười người ấy kễ ra sau đây :

            Lý Cẩm Lương, Tạ Á Phước, Lương Á Tòng, Liễu Á Thắng, Hồng Hy Quan, Ðồng Thiên Cân, Phương Hiếu Ngọc, Phương Mỹ Ngọc, Phương Thế Ngọc và Hồ Huệ Càng.

            Mấy người cầu nguyện xong xuôi đều vui mầng hạ hạ.

            Từ ấy Chí Thiện thiền sư hết lòng, tài học bao nhiêu đều đem dạy hết mấy người ấy, đặng nữa năm, Thiền sư nói cùng học trò rằng :

            - Ðã hơn một năm rồi ta không đến chùa Thiếu Lâm, lòng không yên, ta muốn qna đó tính toán công chuyện rồi sẽ về dạy bảo, nhưng mà lũ bây học chưa đặng tinh, sợ ta đi lâu ngày, thì công phu bày giải đải, tính như vầy thì vẹn toàn : Nguyên ta có một người học trò họ Huỳnh tên Khôn nghề học không thua gì ta, nay ở ghe Huỳnh An Tường muối cá, vậy để ta gởi thơ kêu va đến thế cho ta, thì ta mới yên, chừng ta tính xong công việc chùa rồi sẽ trở về dạy bảo, các ngươi bằng lòng chăng ?

            Các học trò thưa :

            - Xin vưng lời, dầu có Sư huynh đến dạy, chúng tôi cũng xin Sư phụ trở về cho sớm mới yên lòng chúng tôi trông đợi.

            Thiên sư thấy học trò bằng lòng, bèn viết thơ gởi qua Triều châu rước Huỳnh Khôn về rồi sẽ đi.

            Nguyên có thơ nầy mới diễn ra việc gian phu, dâm phụ, cùng các việc lạ nữa.

            Comment


            • #7
              Hồi Thứ Bảy


              Lâm Thắng bắt gian, vương phản gián,
              Huỳnh Khôn oan ức, gặp tôn sư


              Nguyên Huỳnh Khôn tên chữ là Tịnh Ba, người phủ Triều châu, huyện Ác Dương, thuỡ nhỏ giàu có không muốn văn chương, lònng ham võ nghệ, nên đến chùa Thịếu làm tại tỉnh Phước Kiến, châu Tuyền châu, học nghề võ với Chí Thiện thiền sư, tập luyện tinh thông, không ai bì kịp, Chí Thiện thiền sư đem lòng thương cho làm đầu giọc học trò.

              Huỳnh Khôn lại có dạy một người tên là Lâm Thắng. Ðến việc võ nghệ của thầy trò Lâm Thắng thật là thủ đoạn cao cường, tay trừ lão hổ, chân đạp giao long. Tánh của Huỳnh Khôn thì hay phóng đảng, giao kết anh em, gia tài cha mẹ để lại xài trong vài năm hết sạch, vợ là họ Cam, em gái là Huỳnh Ngọc Lan. Lúc ấy Huỳnh Khôn tuổi đặng ba mươi hai chưa có con, thời vận truân chuyên, làm ăn hao tốn, gia đạo suy vi, vợ nhà dứt bẩn, nhờ Ngọc Lan khuyên giãi nên vợ chồng mới thuận hòa với nhau, nhưng Huỳnh Khôn rầu buồn việc gia đạo lắm, mới đến giúp vìệc tại ghe muối cá của Huỳnh An Tường cho khuây lãng việc nhà, từ khi Huỳnh Khôn đi khỏi, ở nhà vợ và em cứ việc soi gương đánh sáp, dồi phấn cài đầu, trau tria nhan sắc, đến mấy chổ án đường chơi giỡn, mỗi ngày đều đứng trước cửa, so nhan, sóng sắc, đánh quần sửa áo, giởn hớt cùng nhau không sợ xấu hổ.

              Ngày kia có võ giải nguơn mới thi đậu, tên là Mã Xuyến Quần đi ngang qua cửa ngó thấy phải lòng.

              Ấy là :

              Gian phu dâm phụ xưa nay thế
              Ong bướm hoa thơm thấy phải ưa

              Khi ấy thói dâm dấy động, lòng dục liền sanh, lại thường thấy hai nàng ấy đến chùa Nga Mi chơi bời cùng hai cô vải họ Trương và họ Lý, thì nghĩ thầm :

              - Hai cô vải ấy là người quen biết, vậy đến đó tính mưu kế ắt đặng.

              Liền đến chùa, hai cô vải là Trương Tịnh Diên và Lý Tịnh Diêu bước ra cửa đón rước mà cười nói rằng :

              - Ngày nay nhờ gió lớn đưa Giải nguơn đến đây, chẳng biết có việc chi chăng ?

              Mã Giải nguơn đáp rằng :

              - Ta đến đây trước là thăm chơi, sau cũng có việc tư một tí, chẳng biết nhị vị ni cô có ráng giúp ta đặng chăng ?

              Tịnh Diên dưng trà rồi nói rằng :

              - Chùa này nhờ ơn đức đại đàn việt có lòng thiện nguyện công đức rất nhiều, lũ tôi cám ơn vô cùng, lại cho đến việc nhỏ mọn cũng nhờ có sức quới nhơn giúp đở, nay dẫu quan nhơn có dùng việc chi khó nhọc cho đến thân phó thân đạo hỏa đi nữa thì lũ tôi cũng chẵng dám từ nan.

              Rồi Tịnh Diên mĩm cười hỏi rằng :

              - Hay là ngài thấy con nhà ai rồi lửa lục nó lừng lên, nên đến khiến lũ ta chuyện ấy chăng ?

              Mã Xuyến Quần vỗ tay cười nói rằng :

              - Việc tâm sự ta đã biết rồi, vậy chớ hai người con gái hay đến chùa này đó là chi của Huỳnh Khôn ?

              Hai cô vải le lưỡi nói rằng :

              - Tưởng con ai thì khó, chớ hai người này vốn là tánh tình hoa nguyệt, trên bộc lòng dâu, lòng thích gió trăng gieo đào thả lý, nói thì rất dễ, nhưng mà thầy trò Huỳnh giáo đầu rất nên lợi hại, sợ tính không đặng.

              Mã Giải nguơn nói :

              - Như nói giúp cho người nào khác thì khó, chớ như ta không hề gì đâu.

              Nhị ni cô nói rằng :

              - Người ước hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, mặt mặt trứng ngỗng, mắt hạnh, má đào, mập mà trắng, không cao không thấp, đó là vợ của Huỳnh Khôn họ Cam ; còn người lối chừng mười lăm, mười sáu tuổi đó, trăng hột dưa, mày tầm mắt phụng, miệng nhỏ môi son, vóc như dương liễu, ấy là em của Huỳnh Khôn, tên là Huỳnh Ngọc Lan ; hai người ấy thật kình bố, quần xoa, phong lưu phẩm cách, lại cùng bọn ta ý hiệp tâm đầu, khi rảnh việc thường đến am giãng luận. Như Giãi nguơn hiệp ý thì nàng Huỳnh Ngọc Lan cũng chưa có chổ nào, ta nói giùm cho quới nhơn cưới làm vợ bé chắc đặng..Vì Huỳnh giáo đầu trong nhà lúc nầy cũng eo hẹp, nếu chi nhiều tiền có lẻ xong, còn thể diện của Giải nguơn như thế thì chắc đặng, còn Cam thị thì sợ ngày sau thầy trò Huỳnh giáo đầu hay đặng thì chắc chết, vậy Giãi nguơn tính lẽ nào ? (Nguyên Mã Xuyến Quần là một người rất háo sắc, tham dâm, hay muốn con gái mới lớn lên mà gặt lúa sớm, như người nào khoái ý cho lắm, cũng chừng nữa tháng, có cao tay thì một tháng mà thôi, thường hay ỷ thế, hảm hiếp chẳng biết là bao nhiều con gái nhà lương dân, nên chuyến nầy phải hai nàng ấy là con nhà nào khác thì đã dám hiếp rồi, nghặt là nhằm nhà thầy trò Huỳnh Khôn nên phải chờ dịp Huỳnh Khôn đi vắng, lén biểu người dụ dỗ đặng tạm dùng một lúc mà thôi, chớ không muốn cưới ).

              Nay thấy hai người ni cô chối từ liền lật đật thò tay về túi lấy ra ba chục lượng bạc để trên ghế rồi nói :

              - Xin nhị vị ni cô lấy bạc này dùng việc chay giới trong chùa và tụng kinh niệm Phật, chừng công việc xong rồi ta sẽ trọng thưỡng ; còn thầy trò Huỳnh giáo đầu thật là dữ, nhưng lúc nầy Huỳnh Khôn đã theo giúp việc muối cá ngoài biển chưa lẻ về gấp. Còn Lâm Thắng thì ta sẽ cho người giả rước nó đi dạy nghề võ mà cầm giử nó không cho về, thì dầu việc lớn bằng trời cũng không hay, từ thuở nay hai người cũng biết ý ta, miễn cho thích chí trong nữa tháng cùng một tháng mà thôi, dẫu sau thầy trò nó có về cũng không bằng cớ chi mà nói ta đặng ; hai vị nghĩ như thế đặng chăng ?

              Hai vị ni cô thấy bạc đã đến tay không lẻ bỏ, lại nghe Giải nguơn tính kế như thế đó, thì quên thầy trò Huỳnh Khôn là lợi hại liền trả lời rằng :

              - Việc nhỏ mọn như vậy mà Giãi nguơn tốn hao như thế thì lũ tôi đâu dám lãnh.

              Mã Xuyến Quần nói:

              - Ấy là lễ mọn cho biết lòng thành ta, như ngày sau nên việc sẽ còn thưởng thêm nữa. Hai vị ni cô giả bộ chối từ thò tay lấy bạc cất rồi nói :

              - Việc này không nên trễ, vậy rạng ngày mai Giải nguơn sẽ đến trốn trong buồng, đợi bọn ta dọn một tiệc chạy đãi hai chị em va uống rượu say, lúc nữa chừng rồi Giải nguơn cứ làm như vầy...như vầy thì ắt đặng tiệc.

              Mã Xuyến Quần cả mầng bèn từ biệt ra về.

              Rạng ngày hai vị ni cô sửa soạn dọn mở tiệc chay rất trọng hậu, tại nơi liêu vắng vẻ. Kế thấy Xuyến Quần vào thi lễ rồi ngồi. (Nguyên Mã Xuyến Quần là người tướng mạo khôi ngô, ngày nay lại mặc những đồ gấm nhiểu, tuy là lịch sự không bì đặng Phan An, Tống Ngọc, chớ cũng hơn kẻ thầm hương trộm ngọc ).

              Khi ấy Xuyến Quần lấy ra năm lượng bạc trao cho hai vị ni cô làm sở phí dọn tiệc chạy ấy, thì hai vị tạ ơn lấy cất.

              Ba người dùng cơm nước xong rồi, Xuyến Quần vào liêu trong an nghĩ.

              Khi ấy Trương Tịnh Diên biểu Lý Tịnh Diêu đến nhà Huỳnh Khôn thĩnh hai nàng.

              Khi Lý ni cô vừa đến, thì Cam thị và Ngọc Lan rước vào cười mà nói :

              - Mấy ngày rày không thấy sư phụ và Trương sư phụ đến chơi thì chị em tôi chắc là trong chùa mắc việc vu lan thắng hội, kẽ phụ cúng nhiều nên không rãnh.

              Lý ni cô đáp :

              - Quả như lời không sai, nay mới vừa rảnh, nên vưng lời sư huynh đến thĩnh hai cô đến chùa chơi, xin chớ từ chối.

              Hai chị em nghe nói cả mầng ; bèn vào phòng sửa soạn áo quần rồi đóng cửa lại đi với Lý Tịnh Diêu, đến chùa Trương Tịnh Diên rước vào phân ngôi chủ khách mời ngồi, rồi nhị vị nói :

              - Nay nhân cuộc làm chạy nhờ ơn Phật tổ các thí chủ đều thiện tâm hoan hĩ, còn dư tiền bạc, nên làm lễ nầy tạ trai đàn viên mãn, mới thĩnh nhị vị cô nương đến dùng một tiệc cơm chay mà hĩ hạ.

              Cam thị bèn lấy hương trà hai tay dưng trước mặt ni cô và thưa rằng :

              - Xin Sư phụ đem tôi vô đến Phật đường đặng khẩn cầu thân thể bình an, thất gia khương kiện.

              Nhị vị ni cô liền nói :

              - Ðại nương đa có lòng thành cúng Phật ta phải lãnh cầu khẩn thế cho, xin phật Bồ tát phò hộ đặng bình an vô sự, sớm đẻ con trai và đại quan nhơn ở ngoài biển cũng đặng mạnh.

              Khi trà nước xong xuôi rồi thĩnh vào trong, thấy việc chay dọn tử tế thì hai chị em Cam thị bèn hỏi :

              - Vì cớ nào dọn tiệc này trọng thể lắm vậy ?

              Nhị vị sư cô nói :

              - Ấy là cuộc cúng ta Phật, đều là của thí chủ cúng còn dư lại, chớ không phải xuất tiền mua đâu, mà hai cô nương phòng ngại.

              Hai người tin thật, bên phân ngôi chủ khách ngồi lại ăn uống, bày nói những chuyện phong lưu tài sắc, khi uống gần say thì hai ni cô kiếm lời ghẹo rằng :

              - Hai bà con tôi đấy thuở còn nhỏ cũng là ham phong hoa tuyết nguyệt, phong lưu khoái huợt vô cùng, cũng vì mẹ không hay bắt lổi phải, chồng lại chẳng dung, rầy la câu thúc, lên lũ ta nữa chừng xuất gia đầu Phật, ở dây đả hơn hai mươi năm, bảy giờ gặp cuộc rượu thì ngùi ngùi nhớ lại việc chơi bời khi trước ; thí như cô em đây chưa nếm đến mùi đời thì chẳng nói làm chi, chớ như đại nương nầy còn đang lúc xuân thời, quan nhơn lại đi vắng, thoảng như gặp lúc trăng thanh gió mát có lẻ cũng xúc cảnh sanh tình lòng vui phải hứng, sao không tính một chuyện để tạm dùng cho vui đở lúc giải buồn.

              Nguyên Cam thị nầy tánh hạnh tà dâm, lại rượu đà xoàng xoàng, nghe chuyện ấy, lấy làm tri kỷ lòng dục lừng lên, liền thỡ dài một tiếng nói rằng :

              - Ối, ta mắc oan gia nghiệp báo, vô duyên, bạc phận, từ thuở nay chồng ta không đếm gì đến ta, dầu lúc ở nhà cũng như đi khỏi, ở cùng nhau như người thù oán, nhờ có cô nương đây, tánh tình rất hiệp, phân giải mới bớt phiền muộn.

              Khi ấy ni cô nói :

              - Nếu đại quan nhơn vô tìnhnhư thế thì thiếu chi kẻ hữu tình, vậy thì hay kiếm một chổ chơi cho thích chí, để khỏi uỗng lúc thanh xuân, lại kiếm đặng tiền bạcđể dành khi già yếu rồi tọa hưởng thanh nhàn, như bọn ta đây tuổi tác đã lớn rồi, nhan sắc suy bại, lại là người xuất gia thì không nói làm chi, chớ như nhị cô nương là người bóng sắc đến thế, nở nào lại chịu gá nghĩa với người vô tình, ta thấy vậy nên không ngại mới nói, chẳng biết ý đại nương thể nào ? Theo ý ta tưởng, đại nương có lẻ Phật phò hộ sao cũng gặp người nầy đây không phải vô tình vô nghĩa như trước đâu.

              Cam thị nghe nói nhằm tâm, khoái ý, lại rượu đà phừng mặt, thì đáp rằng:
              - Ta vẫn có bụng đó đã lâu, nhưng chưa gặp người phải, nên ráng ôm lòng sầu mà chịu vậy. Khi ấy Mã xuyến Quần núp tại phòng ngoài nghe các chuyện đã rõ ràng liền chạy vào kêu nhị vị ni cô mà hỏi :

              - Tiệc dọn tử tế như vầy sao lại không mời ta ?

              Nói rồi ngồi a vào.

              Chị em Cam thị lật đật chạy tránh, hai ni cô kéo lại nói :

              - Không hề chi phòng ngại, người nầy là Tân khoa Giải nguơn tên là Mã Xuyến Quần đại thí chủ chùa nầy đó.

              Rồi kiếm lời bổi dối rằng :

              - Giải nguơn thật là về tình thì thôi, không hay đến chùa cho thường, ngày nay đến đây hay là có việc dạy ta tụng kinh siêu độ làm việc ấy chăng ?

              Mã Xuyến Quần hội ý, liền lau nước mắt làm bộ thương xót rằng :

              - Từ khi vợ tôi qua đến cho đến nay, việc chi đều lậu, khiến cho tâm thần hoảng hốt, hồn phách đảo điên, năm canh giọt lụy chẳng ngừng, sáu khắc lòng sầu chẳng ngớt ; cầu siêu độ đã đủ tuần chay rồi, mà không đêm nào nó cho tôi nằm chiêm bao thấy mặt một chút. Mai đây đến tuần giáp năm, thĩnh sư phụ xi giúp ta một cuộc nữa, cho phỉ tình sở nguyện, không dè có khách ở đây, xin dung thứ lổi.

              Nhị vị ni cô giả đò khen ngợi :

              - Giải nguơn thiệt là người tình sâu nghĩa nặng, ấy nương tử thật là có phước, lấy Giãi nguơn mới đặng làm vậy, chớ tôi thường thấy vợ nhà giàu chẳng thiếu chi, không có chổ nào chịu tốn mà có lòng như thế.

              Mã xuyến Quần nói :

              - Viêc khó nhọccùng là tốn hao chẳng kể làm chi, miển là cho phỉ lòng ta thương tưởng thì thôi. Thật là từ khi vợ ta nhuốm bịnh cho đến nay, đã tốn hơn ngàn ngoài lượng bạc rồi; còn thuở trước thì không tính tới, té ra nhọc mà không công, nên lấy làm phiền rầu về cùng.

              Liền giã đò lấy khăn lau nước mắt và hỏi rằng :

              - Hai cô đây là người ở đâu ?

              Ni cô nói :

              - Người nầy là vợ Huỳnh giáo đầu, tên Cam thị còn cô đây là em, tên Ngọc Lan, nay ta thỉnh đến ăn chạy chơi, không dè là có duyên cùng Giải nguơn nên mới gặp nhau. Vậy bấy giờ có một mình hai chị em đó chớ không ai, xin đồng ngồi tiệc cho vui .

              Mã giải nguơn không ngại cũng ăn uống chơi vui vẻ. Chị em Cam thị nghe Giải nguơn nói các lời thì tưởng thiệt là người thương hoa tiếc ngọc, lại thấy mạo tướng đường đường thì phải lòng, ngoài miệng làm bộ từ chối, mà cứ việc ngồi đó hoài không chịu đi.

              Ni cô biết ý hai chị em đã bằng lòng, thì lật đật đem thêm rượu rồi giả đò có bước trái ra ngoài để ba người trò chuyện (Việc ấy chẳng cần nói nữa).

              Từ đó đến sau nghĩa oan ương tình như giao tất, Giải nguơn thường đến nhà Huỳnh Khôn, sớm mơi đi tối về.

              Qua đến tiết Ðông chí, một ngày kia Lâm Thắng đến thăm thầy là Huỳnh Khôn, thoạt thấy gian phu, dâm phụ đang ăn uống trong tiệc thì cả giận, đạp đổ bàn ghế.

              Giải nguơn thất kinh bỏ chạy, Lâm Thắng rượt theo bắt, chị em Cam thị cũng thất kinh liều mình chạy theo cản lại.

              Mả xuyến Quần nhờ cản chạy mới khỏi.

              Lâm Thắng tài giỏi mặc dầu cũng là đạo học trò, bị Cam thị cản, không dám vô lễ thì giận nói rằng :

              - Chuyện nầy để thầy ta về sẽ thưa lại.

              Nói rồi bỏ ra đi.

              Khi ấy Cam thị thất kinh nói với Ngọc Lan rằng :

              - Không xong rồi, tuy là nó bắt không đặng Giải nguơn mặc lòng, chớ nữa anh mầy về nó học lại ắt tánh mạng chị em ta chẳng còn, ấy giờ liệu tính thế nào ?

              Ngọc Lan rằng :

              - Vậy chị em ta hãy đến chùa cùng nhị vị sư phụ tính mưu kế, họa may có chước chi thoát thân.

              Hai người liền chạy đến chùa Nga Mi thuật hết công việc cho nhị vị ni cô hay.

              Hai cô vải nghe nói le lưỡi nói rằng :

              - Nếu việc nầy truy nguyên ra thì bọn ta cũng không khỏi chết.

              Khi ấy ni cô chậu mày liền sanh ra một kế, rồi cười nói rằng :

              - Vậy thì khi đợi quan nhơn về, ngươi phao phản rằng : Lâm Thắng lúc đông chí uống rượu say đến nổi muốn cưỡng dâm hai chị em, ắt Huỳnh giáo đầu làm sao cũng giận giết Lâm Thắng, dầu có chối cải cũng không đặng, tính như vầy đặng chăng !

              Hai chị em Cam thị nghe cả mừng nói rằng :

              - Thật là diệu kế.

              Rồi lật đật trở về nhà đợi Huỳnh Khôn về sẽ tính.

              Nói về Huỳnh giáo đầu ở giúp việc muối cá với Huỳnh An Tường cũng bình an vô sự, làm lúc mãn năm các thuyền chủ đều về, năm ấy đặng mùa, các ghe đều có tài lợi nhiều.

              Huỳnh Khôn lảnh bạc công và phần hoa hồng đặng sáu trăm đồng tuy là không phải lợi nhiều, chớ cũng đặng yên lòng, khi ghe về đến bến, bạn bè về hết. Huỳnh Khôn cũng về, đến nhà cất tiền bạc xong rồi vừa ngồi xuống, Cam thị và Ngọc Lan đều nhào lăn ra kêu khóc rằng :

              - Lâm Thắng là đứa đại bất nghĩa, ngày trước nó giã say đến chọc ghẹo muốn cưỡng dâm chị em tôi, chớ chi quan nhơn về trước chừng ba bửa thì khỏi chuyện chi, lúc ấy nó thấy chị em tôi không chịu, nó lại lấy mấy lạng bạc dạy quờn bên Mã gia mà dụ dỗ chị em tôi, nó kiếm điều ngon ngọt năn nỉ cũng không đặng, nó lại nộ rằng : Nếu chị em tôi không thuận để nó đợi quan nhơn về đây nó học láo rằng : Chị em tôi đem trai về nhà đâm loạn, thì lũ tôi chắc chết, nói rồi lại muốn a lại ôm đùa, chị em tôi cứng cỏi nên không làm chi đặng chớ chi đàn bà nào khác thì không khỏi bị nó làm xấu rồi .

              Huỳnh Khôn nghe liền nổi giận mắng rằng :

              - Lâm Thắng thật là vong ơn bội nghĩa dám chọc ghẹo sư mẫu, tội đáng muôn thác, nếu ta giết nó không đặng thề chẳng làm người.

              Kế tối dùng cơm. nước rồi vào phòng an nghỉ, Cam thị nằm một bên làm bộ khóc và kiếm điều độc ác mà nói thêm.

              Có bài thơ rằng :

              Thanh trước xà nhi khẩu
              Huỳnh phong vị tự châm
              Lưỡng bang vô tối kỵ
              Tối độc phụ nhơn tâm

              Dịch nôm :

              Nọc rắn tre xanh chạm
              Dùi ong chích đến ta
              Hai thứ chưa mấy độc
              Rất độc bụng đàn bà

              Huỳnh Khôn trong lòng bứt rứt lăn qua trở lại nghĩ không an, đợi gần sánh giấu một cây đao trong lưng rồi kêuCam thị mở cửa, đặng đi giết Lâm Thắng.

              Cam thị thấy chồng mắc kế thì lấy làm mừng rỡ, để đợi coi việc ra thể nào.

              Khi Huỳnh Khôn ra khỏi nhà, thẳng theo đường lớn đến Trạng nguơn đình, là chổ Lâm Thắng làm quán tại đó dạy học kiếm tiền độ nhựt.

              Khi ấy Lâm Thắng ở trong quán ngó ra thấy thày đến thì lật đật chạy ra chào hỏi, không dè Huỳnh Khôn thấy mặt Lâm Thắng thì như lửa chế dầu thêm, liền rút đao nhắm ngay đầu Lâm Thắng chém xuống mắng rằng ;

              - Ðồ súc sanh, mày đà nên việc gì chưa ?

              Lâm Thắng thất kinh, may là có biết nghề chút đỉnh mới tránh khỏi, rồi !ật đật kêu sư phụ nói rằng :

              - Xin chớ nóng giận, có việc chi hãy nói cho tôi rõ.

              Huỳnh Khôn cứ việc làm thinh, cầm đao cứ chổ trí mạng chém hoài, lại đang lúc còn sớm nên không có ai can gián.

              Lâm Thắng túng không biết làm sao, vừa đở vừa chạy đến Hạng khẩu giựt đặng một cây cột quán mà đở.

              Huỳnh Khôn chém một cái mạnh, đao lút vô cột hơn năm sáu tấc, Lâm Thắng quăng cột chạy như bay.

              Huỳnh Khôn rút gươm ra đặng thì Lâm Thắng đã chạy xa rồi, theo không kịp.

              Khi ấy Lâm Thắng nghĩ rằng :

              - Thày mình giận như vầy, ắt cũng có duyên cớ gì đây, lúc nầy đang nóng giận hỏi không được, thôi để lánh đi trong ít bửa rồi sẽ trở về phân lại .

              Liền đi luôn qua Quảng Ðông chớ không dám trở về nhà thưa cho mẹ hay.

              Có bài thơ rằng :

              Hoạn họa vì chưng cương xuất đầu
              Mới sanh ra đến chuyện buồn rầu
              Ví bằng phản gián mình thông trước
              Nào đến gây nên việc tử tù

              Ðây nói về Huỳnh Khôn theo giết không đặng Lâm Thắng thì lấy làm giận lắm, trở về thuật hết các chuyện cho vợ và em nghe.

              Cam thị và Ngọc Lan nói :

              - Thôi, từ nay về sau có gặp nó đâu thì giết phứt cho rồi kẻo để vậy xấu hổ lắm.

              Huỳnh Khôn nói :

              - Lẻ phải như vậy chớ dễ bõ qua đâu.

              Nói về Cam thị lòng muốn giết Lâm Thắng nên ráng làm bộ thương yêu chồng, nay lại nhớ vê tình nhơn, còn chồng thì ở nhà hoài nên lấy làm giận lắm, liền lén qua chùa cùng hai cô vải và Mã Xuyến Quần mà nghị luận.

              Mã Xuyến Quần nói :

              - Như hai chị em muốn làm vợ chồng với ta cho lâu dài, thì phải đến huyện Hải Dương cáo cho Huỳnh Khôn rằng : Trọn một năm nay nó giả bộ đi giúp việc muối cá cho người ta mà làm cớ, chớ thật là nó giao kết vơí quân đại đạo ở Hải Dương, rồi nó lại dặn các ghe muối cá rằng : Như có ai hỏi thì nói nó có giúp việc tại ghe, bằng không thì nó sẽ hiệp cùng quân cường đạo đặng ăn cướp các ghe ấy, bây giờ nó đang làm đầu mục phân tán cho quân cường đạo, nếu quan có hay mà bắt thì nó thông tin cho quân cường đạo hay, chị em người thường can gián mà nó không chịu nghe, hóa ra cừu hận, nên sợ sau có phát giác ra điều chio ắt bị liên can, nên đến các trước, còn ta đến huyện quan cáo trước. tính như thêé thì bọn ta mới ở với nhau lâu dài được.

              Chị em Cam thị nghe nói thì vui mừng, y theo lời ấy, rồi xin làm đơn giùm, ba người hẹn nhau đến quan khống cáo.

              Nói về Tri huyện thấy tờ cáo tội chứa gian án nặng không dám trì huỡn, lập tức sai quân đi bắt Huỳnh Khôn đến đặng thẩm án.

              Khi ấy quân Khâm Sai là Sầm An và Kỳ Tường thưa rằng :

              - Huỳnh Khôn là tay võ nghệ cao cường, sức mạnh đánh muôn người, thảy đều biết danh, xin lão gia hãy huỡn cho chúng tôi ít ngày sẽ dùng kế bắt mới đặng.

              Quan Huyện gật đầu nói rằng :

              - Hôm qua Giải nguơn Mã Xuyến Quần có đến cáo nó ăn cướp tiệm cầm đồ, và nó là người võ nghệ cao cường oa trử trộm cướp làm nhiều điều hại trong xứ, vậy lũ bây phải cho cẩn thận, ta hạn cho năm ngày phải bắt cho đặng đem nạp sẽ trọng thưởng, nếu để thoát khỏi thì lũ bây có tội.

              Khâm sai lảnh tờ tập nả, rồi trở về sai phòng dặn mấy người nha dịch qua ngày mai giả kế đi thĩnh Huỳnh Khôn đến dạy võ.

              Nguyên Huỳnh Khôn thường hay đến dinh ngủ dạy võ nghệ, nay có quân rước liền đến, chẳng dè nha dịch đải rượu bõ mông hãn dược vào liền say, rồi lấy dây trói tay chơn lại và đóng gông, bắt giải đến án đường.

              Huỳnh Khôn vừa tĩnh say mới hay mắc mưu thì nghĩ rằng :

              - Mình không làm điều gì gian ác sao đến nổi nầy.

              Hỏi lại mới biết là vợ và em mình ra đầu cáo, lại Mã Giải nguơn cũng vu cáo cho mình ăn cướp tiệm cầm đồ nữa, nên quan Huyện mới sai bắt đến mà tra.

              Khi ấy mới nghĩ lại Lâm Thắng mắc gian kế của nó, liền hối hận không kịp, rồi than dài một tiếng rằng :

              - Không dè ngày nay mà ta bị tay đàn bà như vầy.

              Kế quan Huyện ra khách dạy dẫn vào rồi hỏi rằng :

              - Ngươi có phải là Huỳnh Khôn chăng ?
              Huỳnh Khôn thưa :

              - Phải.

              Quan Huyện nổi giận mắng rằng :

              - Sao ngươi dám oa trữ quân đại đạo Hải Dương, ăn cắp ghe thuyền và cướp phá tiệm cầm đồ, đã đáng tội chưa ?

              Huỳnh Khôn cúi đầu thưa rằng :

              - Tôi thường năm ở giúp việc muối cá cho Huỳnh An Tường chớ không ở ghe nào, mỗi tháng bạc công hai đồng và chia tiền huê hồng, tôi làm như vậy đã nhiều năm, nếu như có chuyện ấy chủ ghe vào dám chứa tôi, nhân lúc nầy Huỳnh An Tường thôi muối cá, nên tôi mới về vài ngày nay, còn việc đánh tiệm cầm đồ thì lúc ấy có tôi ở nhà đâu, mà làm việc đó, xin đại lão gia thẩm xét, nguyên tôi thường ở ngoài Hải Dương ít khi ở nhà, nên vợ và em tôi tư thông với Mã Xuyến Quần, rồi chúng nó bày mưu niết tạo ra tội trọng nầy đầu cáo mà hại tôi, xin nhờ đại lão gia cho đòi Huỳnh An Tường hỏi thì biết.

              Quan huyện vỗ ghế nói :

              - Nếu không dùng phép dữ mà tra thì ngươi không chịu khai.

              Bèn dạy tả hữu lấy thứ đại bảng hạng nhứt đánh tra.

              Nguyên Huỳnh Khôn thuở nhỏ có tẩm thuốc luyện gân cốt, nên không hề gì.

              Quan Huyện thấy vậy không biết tính làm sao, liền dạy đọc hai tờ cung trạng cho Huỳnh Khôn nghe, nói rằng :

              - Bỡi cung trạng của vợ và em ngươi đầu cáo như thế không lẻ tha đặng, nếu ngươi chịu cũng chết, bằng không chịu cũng chết, vậy ngươi hay nghĩ đi nghĩ lại chịu phứt cho rồi, nếu không thì ta sẽ dùng hình độc hơn nữa mà tra.
              Huỳnh Khôn cúi đầu nghĩ lại, đồ tham quan như vầy chắt là không dung mạng mình, chi bằng chịu đở, cho khỏi hình tra, rồi đáp rằng :

              - Những việc ăn cướp thật tôi không biết đến, nay bị hình tra, nên phải chịu đở.

              Tri huyện cả mầng, liền lấy cung chiêu rồi giam lại, đợi chạy tờ phúc cơ quan trên rồi sẽ xử. Khi lũ gian phu dâm phụ nghe đặng tin ấy đều cả mừng.

              Nói về chuyện Lâm Thắng đi, thiếu tiền phí lộ, nên đến đâu đều phải dạy võ mà độ nhựt, khi đến tĩnh thành thì nghe đồn tại Tây môn nơi chùa Tây thiền có khai trường võ, bèn vào đó thử côn quờn chơi, các người coi đều rộ lên khen ngợi, đồn đến trường võ, liền ra thĩnh vào uống trà. Xảy có Chí Thiện thiền sư nhìn biết là học trò của học trò mình, bèn hỏi :

              - Nhơn việc chi mà ngươi đến đây ?

              Lâm Thắng liền quì xuống thuật hết các việc đầu đuôi của sư phụ cho sư tổ rõ, thì Chí Thiện cùng các học trò đều nói : :

              - Ấy là dâm phụ nó thêu dệt ra chuyện đó chắc.

              Rồi Chí Thiện vội vàng tã một phong thơ giao cho Lâm Thắng về kêu Huỳnh Khôn đến cho người biểu, nếu chậm trể ắt không khỏi bị tay dâm phụ hại .
              Lâm Thắng liền lạy từ biệt ra về, đến Triều châu vào thăm mẹ, mới hay là thầy mình đã bị hại, còn giam nơi tử lao, lấy làm thương xót, bèn lật đật đem bạc và thơ của sư tổ đến tử lao, lo lót với chủ ngục mà vào, thấy thầy liền ôm khóc một hồi rồi trao thơ.

              Huỳnh Khôn xem thơ rồi, dạy Lâm Thắng đến tĩnh thành đặng cầu sư tổ đến cứu.

              Khi ấy Lâm Thắng thuật hết câu chuyện đầu đuôi rồi lấy bạc còn dư để lại cho thấy dùng, liền quày quả ra đi cầu sư tổ đến cứu.

              Thiệt là :

              Thê mụi quyết đem lòng hảm hại
              Thầy trò may cũng đặng bình an

              Comment


              • #8



                Hồi Thứ Tám


                Sư đồ đến Triều châu báo oán
                Bạch xà lại Kim sơn cầu phong




                Nói về Lâm Thắng biệt thầy ra khỏi lao, về thưa cho mẹ hay, rồi lập tức ra đi, hai ngày mới đến tỉnh thành, vào chùa Tây thiền, thấy Chí thiện thiền sư, liền quì lạy rồi nhào lăn dưới đất mà khóc, Chí Thiện đở vậy hỏi ra mới biết là Huỳnh khôn bị hại còn giam nơi tử khám thì lấy

                làm thương xót khôn cùng, rồi dắt Phương Thế Ngọc, Hồ Huệ Càng và Lâm Thắng, thẳng qua Triều châu.

                Nguyên có học trò của Chí Thiện chỉ có Hồ Huệ Càng biết việc và thảo thuận với thầy còn Phương Thế Ngọc thì thuở nhờ có tẩm gân cốt, tập luyện tay chân nhuần nhả, tánh ý thông minh nên Chí Thiện thương hơn đã truyền dạy các món mầu nhiệm, nên lúc nầy đem theo, còn Lâm Thắng thì dắt đường. Bốn thầy trò đi đến Triều châu trời vừa tối, vào nhà Lâm Thắng làm lễ ra mắt lão mẫu rồi dùng cơm tối, nghĩ đó một đêm, qua ngày thứ Lâm Thắng dắt mấy thấy trò đến ngục huyện Hải Dương dọ các nẻo cho biết rồi trở về.

                Khi ấy Chí Thiện dạy Lâm Thắng cuối giờ ngọ vào ngục cho Huỳnh Khôn hay trước, và đem theo mười lượng bạc mua đồ ăn dọn một tiệc đải quân coi khám cho say, đặng dễ tính công việc. Qua giờ thân Lâm Thắng vào khám cho thầy hay trước, rồi trở ra nói với quân coi khám rằng :

                - Thầy tôi cám ơn anh em có lòng tử tế, nên dạy tôi đem mười lượng bạc, mua đồ dọn tiệc đải anh em ăn cho hĩ hạ.

                Các người coi lao nói :

                - Như Lâm huynh vậy thật là tử tế, thầy mắc nạn học trò lo lắng như thế thật là ít có. Ðang khi ăn uống thì Lâm Thắng lấy lòng nưng đở khuyên mời, lúc gần say lại bõ mông hãn dược vào nên các quân coi khám đều say mê, đến canh hai Chí Thiện leo nóc nhà nhảy xuống bẻ gông và xiềng tay chân cho Huỳnh Khôn rồi đồng nhãy lên nóc nhà lẹ như vượn, nhẹ nhàng không ai hay, còn Lâm Thắng về đem mẹ đi ở chổ khác.

                Khi ấy năm người ra khỏi thành nhắm đại lộ thẳng về tĩnh thành.

                Rạng ngày quân coi khám tỉnh say mới hay Huynh Khôn đã trốn rồi, thất kinh chạy báo quan huyện hay.

                Quan Huyện quở trách, liền cho tờ tập nả bốn phía, lại tra ra mới biết là Lâm Thắng đầu mưu việc ấy, bèn niêm phong nhà cửa Lâm Thắng lại, và cũng tư tờ cho các Châu Huyện tìm bắt nghiêm nhặt, nhưng mà lúc đó mồng một tháng giêng nhằm ngày Tết nên có rộng dễ một chút.

                Nói về năm người về đến Tây Thiền tự nhằm ngày mồng chín tháng giêng trong chùa đều ra mừng rỡ.

                Huỳnh Khôn vào lạy tạ ơn thầy cứu mạng rồi làm lễ các đồ đệ.

                Khi ấy Lâm Thắng nói :

                - Lũ gian phu dâm phụ ấy rất nên đại ác, phải tính báo cừu mới đặng.

                Huỳnh Khôn thưa cùng Chí Thiện rằng :

                - Xin thầy vì đệ tử ra ơn báo cừu giùm, kẻo tôi mắc tờ tập nã nghiêm nhặt, không dám về. Chí Thiện nói :

                - Ta cũng bằng lòng đi giùm cho ngươi một phen nữa, nhưng mà phải đình lại trong vài ngày nữa cho nguôi bớt việc tra xét rồi sẽ đi cũng không muộn gì, vậy thì ngươi ở lại đây dạy học trò thế cho ta . (Nhơn Huỳnh Khôn cũng là gịáo đầu nên việc võ nghệ sánh với Chí Thiện thì bằng nhau, lại sức lực mạnh hơn, nên các học trò đều bằng lòng).

                Ngày tháng như thoi đưa, lật bật đã đến mồng một tháng hai, Chí Thiện sữa soạn hành lý, dắt Thế Ngọc và Lâm Thắng ra đi, nhằm lúc trọng xuân trời mưa dầm dề, đường đi bất tiện, bèn quá giang ghe Lão Long nhắm đường Kỳ Lãnh thẳng đến Long Xuyên, qua khỏi bải sông, đi hơn nữa tháng mới đến Triều châu, thầy trò lên bờ đi đến núi Trưước Chi, chùa Thanh Trước. Nguyên chùa này cũng là chùa Thiếu Lâm chia ra, chủ trì tên là Ngộ Không huề hượng, khi ấy có tiểu sai vào báo, các đồ đệ ra rước Chí Thiện vào làm lễ rồi, Ngộ Không hỏi :

                - Sư huynh ở đâu vân du đến đây, còn hai người nầy có phải là học trò chăng ? Tôi có nghe rằng : Huỳnh Khôn bị vu cáo về tội chứa ăn cướp, ngày mồng một tháng giêng đã trốn rồi, nên Huyện quan có tư tờ tra bắt phải chăng ?

                Chí Thiện gật đầu, nói nhỏ các chuyện cho Ngộ Không hay.
                Ngộ Không cả mừng nói :

                - Mã Xuyến Quần là đồ cẩu đầu đáng ghét, năm trước nó mong lòng giựt ruộng chùa nầy, may nhờ có quan Thái thú là người thanh liêm có quen với tôi nên bõ qua việc ấy, như sư huynh muốn giết nó thì phải cẩn thận mới đặng.

                Chí Thiện gặt đầu rồi qua ngày sau đi cùng Lâm Thắng đến nhà Mã Xuyến Quần và Huỳnh Khôn mà dọ đường sau trước cho thuộc, rồi trở về chùa cơm nước xong xuôi, bèn dắt Thế Ngọc và Lâm Thắng đến nhà Huỳnh Khôn trước rồi ba người nhãy tường đạp vách vào thì nhằm lúc canh ba, không có Mã Xuyến Quần ở đó, Cam thị và Ngọc Lan đang ngủ nghe thất kinh lật đật dậy thì Thế Ngọc và Lâm Thắng đã giơ đao ngay đầy, hai nàng hồn vía bay mất, cầu xin dung mạng.

                Lâm Thắng nạt, nói rằng :

                - Nếu bây nói lớn tao giết lập tức.

                Bèn kéo thẳng ra trước, Chí Thiện hỏi rằng :

                - Vậy chớ ai biểu hai đứa bây vu cáo cho Huỳnh Khôn độc thủ, vậy chớ ban đầu ai dụ dỗ bây với Mã Xuyến Quần hòa gian cùng nhau, phải khai cho thật.

                Chị em Cam thị thấy có Lâm Thắng thì không dám giấu, bèn kể hết đầu đuôi gốc ngọn hai cô vải là họ Trương và họ Lý dụ dổ và Mã Xuyến Quần xúi vu cáo cho Huỳnh Khôn các chuyện, rồi cúi lạy xin dung mạng.

                Lâm Thắng mắng rằng :

                - Ta với bây không phải là thù oán chi, còn bây với thầy ta lá nghỉa lẻ đâu lại ra độc oán dường ấy, vậy thì gan dạ bây ra thể nào ?

                Nói rồi cùng Thế Ngọc kéo hai nàng ra lắt thịt, phân thây, rồi cùng lấy hết vàng bạc lận vào lưng, lại lấy máu viết lên tường bốn câu thơ như vầy :

                Dâm phụ dạ mong độc dữ thay
                Nên ta lắt thịt trả thù nầy
                Huyện quan có hỏi ra người giết
                Lâm Thắng, Huỳnh Khôn chẳng phải ai

                Việc xong ba người nhãy lên tường thẳng đến nhà Mã Xuyến Quần, vừa đến cửa, bị chó sủa vô không đặng, Lâm Thắng bèn lấy bánh có trộn tóc, quăng cho chó ăn không sủa nữa, rồi nhãy lên nóc nhà nhắm ngay nhà thính mà xuống, xảy gặp quân tuần canh, vừa muốn la lên, Thế Ngọc cầm dao giơ ngay mặt, nói rằng :

                - Nếu mầy la thì ta giết., vậy chớ bây giờ Mã Xuyến Quần ở tại đâu ?

                Quân canh thưa rằng :

                - Chủ tôi đang ở tại Mẫu đơn đình ăn uống vui chơi cùng các ái thiếp.

                Thế Ngọc hỏi :

                - Mẫu đơn đình chổ nào ?

                Quân canh thưa :

                - Ở sau vườn bông đi khỏi nhà thính nầy thì thấy cửa ngỏ là chổ đó, xin hảo hớn dung mạng tôi.

                Thế Ngọc liền bảo nó dắt đi chỉ, đến cửa ngỏ liền chém bõ đó, ba người thẳng ra sau vườn, thấy có một tòa bát giác đình, đèn đuốc sáng rực rỡ, nghe tiếng cười giởn chẳng dứt, liền phá cửa vào gặp một đứa a huờn liền giết rồi chạy thẳng đến, thấy Mã Xuyến Quần cùng hai người ái thiếp đều lòa thể cùng nhau, dâm lạc rất nên xấu hổ.

                Mã Xuyến Quần lúc ấy đà xoàng xoàng, ngó thấy ba người cầm đao thương thì thất kinh, lật đật lấy ghế ngồi mà đở, còn hai người ái thiếp vừa la đặng vài tiếng, kế bị Thế Ngọc và Lâm Thắng chém chết. Còn Chí Thiện thì nhãy lại chém Mã Xuyến Quần, chớ chi Mã Xuyến Quần không say và có binh khí gì thì còn đở gạt đặng một ít hiệp, ngặt không có mà lại bị ba người hiệp lực chém, nên sao cự cho lại, bèn kêu hai tiếng :

                - Cứu mạng.

                Rồi bị ba người áp chém, bầm như tương, ba người lấy vàng bạc chạy ra, kế có hơn vài trăm gia đing hô lên áp vây phủ.

                Khi ấy Chí Thiện thấy có binh vây, liệu ra lén không đặng, liền lật lưng lấy diêm sanh và những đồ dẫn hỏa mà đốt cái đình tử, ngọn lửa phát lên rần rần, rồi ba thầy trò áp đánh quân gia trang, giết hơn mười người, còn bị thương tích cũng hơn vài mươi, quân gia thấy thế dữ tợn đều vỡ tan không dám vây nữa, ba thầy trò mới ra khỏi chạy về Thanh Trước tự, thay đổi quần áo vấy máu, rồi lấy đồ hành lý từ biệt Ngộ Không huề thượng xuống ghe mà về tỉnh thành.

                Sáng ra làng xóm đều tiếp cứu, thì ba thầy trò đã đi mất rồi, còn người trong nhà thì lo chửa lửa và lượm mấy thây bị giết, thì thây Mã Xuyến Quần và hai người cơ thiếp cháy ra tro, kế đi báo quan đến khán nghiệm.

                Ngày ấy quan Huyện Hải Dương đặng tờ cáo rằng :

                - Cả nhà Huỳnh Khôn đều bị giết.

                Ðang đi tra xét, thấy trên vách tường có đề một bài thơ, liền sao lục vào án, kế đặng tờ cáo nhà hay, rồi tư tờ và đồ hình rao khắp bốn phương, ai bắt đặng Huỳnh Khôn và Lâm Thắng thì sẽ trọng thưởng, việc ấy còn lưu lại đó.

                Ðây nói về ba thầy trò qua cuối tháng hai mới về đến Tây Thiền tự, rồi thuật hết các việc đó lại.

                Khi ấy Huỳnh Khôn mới biết là hai mụ vải mưu sự, thì lấy làm giận, rồi lạy tạ ơn Chí Thiện và hai vị sư đệ. Khi ấy Chí Thiện đem những vàng bạc đã lấy của gian phu dâm phụ giao cho Huỳnh Khôn thì Huỳnh Khôn không chịu lảnh.

                Chí Thiện nói :

                - Ta thấy nhà ngươi nữa chừng thất ngẫu nên mới lấ đem về cho ngươi, chớ ta là người tu hành nhận những đồ đó làm gì, thuở nay ngươi theo ta đã lâu, vậy ngươi không biết lòng ta ra thế nào sao ?

                Các đồ đệ cũng tiếp khuyên giải nói :

                - Như sư huynh không chịu lấy thì mích lòng thầy mà lại ra sự bất nghĩa.
                Huỳnh Khôn chối từ không đặng phải lấy cất, rồi thưa rằng :

                - Ðồ đệ còn một chút việc nữa chưa yên lòng, xin thầy ra ơn ráng giúp.

                Chí Thiện nói :

                - Việc chi con nói ra, điệu thầy cũng như cha con, cần gì phải dùng theo tình khách làm chi.

                Huỳnh Khôn thưa :

                - Hai mụ vãi ở Nga Mi tự thật là độc ác, hại hai thầy trò tôi cho đến gia tán nhơn ly, thiếu chút nữa thì tánh mạng không còn, nhờ có thầy cứu mới khỏi, nay khó dung chúng no đặng, vậy xin thầy nhân tiện về Thiếu lâm tự, đến đó giết chúng nó luôn thể .

                Chí Thiện nói :

                - Trương Tịnh Diên và Lý Tịnh Ðiêu là hai đứa cẩu đầu làm cho nhơ nhuốc đạo ta, phá hư Phật pháp lúc ấy cũng muốn giết luôn cho rồi, đặng trừ hại cho con gái đờn bà xứ ấy, ngặt việc kia người ta đang tìm kiếm nghiêm nhặt nên mới trở về, nay lòng đồ đệ không yên, vậy ta phải đi giùm cho một lần nửa, không ngại chi, chỉ lo việc thầy trò ngươi, quan quân truyền lịnh tầm nã nghiêm nhặt lắm, mà chổ nầy đây thì cách đó không xa, vậy phải sửa soạn về Phước Kiến ở tại Thiếu Lâm tự trốn mới đặng. Còn phần các học trò thì chưa học đặng phép mộc nhơn, mộc mã, vậy để ta dắt hết qua Triều châu, tính công việc ấy xong rồi, sẽ trở về Thiếu Lâm tự.

                Các đệ tử nghe nói đều nguyện đi theo.

                Khi ấy Huỳnh Khôn và Lâm Thắng sửa soạn qua ngày hai mươi tám tháng hai từ tạ thầy và các học trò lên đường.

                Ðến mồng một tháng ba nầy, Chí Thiện cả thảy là mười một người, sữa sang hành lý xuống ghe Lão Long mà đi, trọn mười ba ngày mới đến Triều châu vào chùa Thanh Trước.

                Ngộ không huề thượng ra tiếp rước, rồi nghĩ thầm rằng :

                - Chí Thiện lúc nầy dắt học trò theo nhiều, không biết có việc chi nha đây.

                Bèn hỏi rằng :

                - Sư huynh về chưa đặng bao lâu, lại đem các vị sư điệt theo có việc chi chăng ?

                Chí Thiện đáp rằng :
                - Ta muốn đem chúng nó về Thiếu lâm tự đặng học tập phép mộc nhơn, mộc mã, sẳn dịp ghé đây đặng tính việc khác nữa, trong vài ngày sẽ đi.

                Bèn kề tai nói nhỏ, Ngộ Không nghe trong lòng có ý phiền, không biết làm sao, rồi dạy đồ để dọn cơm tối đải đằng.

                Qua giờ thân Chí Thiện dặn các học trò đừng ra đường chơi, rồi dắt Thế Ngọc đến Nga Mi am dọ đường, thấy cửa am thấp, rồi trỡ về chùa thay áo quần đen, buộc dây tơ, đi giày da nhỉ thẳng đến am, lúc ấy trời mưa lâm râm, trăng lu phải lúc làm đặng, thầy trò vào thành, đêm ấy trong thành có bày cuộc hát bóng, lại có nhiều chổ hát theo bổn địa và kinh ký. Tô châu rất nên vui, thầy trò mặc đồ đen nên coi bất tiện. Ðến canh ha hai thấy trò nhảy lên nóc chùa ở đó rình nghe, hai cô vải nói chuyện với nhau rằng :

                -Việc Huỳnh Khôn may không ai biết ta hôn dụ, nếu biết thì lũ ta đả làm quỉ không đầu rồi. Người kia lại nói :

                - Cũng bởi bọn ta thường ngày thành tâm khẩn cầu, nên nhờ ơn Bồ tát phò hộ mới khỏi, mà cũng chưa chắc, tưởng lại hai đứa mình từ vào cữa phật đến nay, trừ ra cầm dao cắt cổ chúng thì không có, chớ còn những việc dâm đạo tà gian, mưu tài hại mạng không biết là bao nhiêu mà kể, nên mới tích trử vàng bạc ngày nay được chừng ấy ; ví lẻ trời báo ứng rõ ràng thì không lấy làm tin.

                Lại nghe người kia nói :

                - Ừ, nói như vậy nhằm lắm, chớ mỗi việc cư giử lương tâm theo lẻ trời, thì cơm chẳng ăn làm chi nghĩ cho kỷ, tu nhơn tích đức già đời cũng chết, hung hăng tàn bạo tận số cũng không còn, miễn là vật chi hễ làm cho kín đáo thời thôi. Vì hai mụ vải nầy rất nên độc ác mới buông lời nói làm vậy.

                Khi ấy thầy trò Chí Triện trên nóc chùa nghe hết các chuyện thì nghĩ thầm rằng :

                - Thật là quân đại ác, dẫu ngày nay không giết nó thì nó còn hại nhiều người khác nữa.

                Kế hai mụ vải tắt đèn đi ngủ.

                Chí thiện bèn nhảy xuống chém một đứa một đao, lại mổ gan ruột ra, rồi tuốt vào buồng thấy của bất nghĩa hơn ba ngàn lượng vàng, thì tính dùng của ấy giúp cho những kẻ nghèo, liền lấy trao lên cho Thế Ngọc rồi nhảy lên, đang lúc tối trời, ngó xa xa thấy một người đi như vượn nhảy, rắn thong, rất nên nhanh lẹ, không nghe động dạng.

                Nguyên Chí Thiện có một cặp kiếng coi mắt để coi ban đêm nên thấy rõ ràng, thì biết là người đồng đạo bèn biểu Thế Ngọc đứng đó chờ, rồi nhảy tuốt theo.
                Thấy người ấy nhảy xuống vào tại nha huyện Hải Dương, giây lâu lại nhảy lên nóc nhà chạy về phòng Ðạo thương Huệ triều, lại thấy một người đờn bà ra tiếp rước rồi người ấy thò tay vào túi lấy ra một cái ấn đồng trao cho người đờn bà đem cất.

                Chí Thiện lấy làm lạ, bèn trở về chổ cũ nói các việc lại với Thế Ngọc, rồi hai thầy trò nhãy thành về chùa thì đà nữa canh năm.
                Rạng ngày Chí Thiện nói với mấy người trong chùa rằng :

                - Nay ta muốn lập tức khởi trình, ngặt hồi hôm thấy một việc rất lạ, nên ta phải nán lại vài bửa nữa coi việc ra thể nào, rồi sẽ đi cũng không muộn. (Việc nầy sau sẽ tiếp).

                Thơ rằng :

                Ba bận Triều châu trả oán thù
                Giết yên gian phụ với dâm phu
                Chỉ vì trộm ấn nên kỳ sự
                Mới đăng cùng nhau khỏi tội tù

                Nói về quan huyện Hải Dương tên là Thạch Kỷ, nguyên đêm trước vào lúc canh ba bị mất ấn, thì thấy kinh hồn vía, không biết vì cớ nào, rán sức tìm kiếm không đặng.
                Kế có người đến báo rằng :

                - Hai mụ vải ở Nga Mi am bị người ta giết và lấy hết vàng bạc. Bởi Thạch Tri huyện mắc rầu việc mình, nên đi tra xét không đặng bèn sai Lại Mục là Hà Phúc Trình đi khám nghiệm. Khi ấy quan Huyện lo lắng vô cùng, mới nghĩ lại Tri phủ là Vương Ðình Hòe, cũng là người địa phương, ở cùng nhau rất hậu, vậy đến đó lo tính coi có kế chi bảo toàn đặng chăng, liền lên kiệu thẳng đến nha môn vào thi lễ rồi thưa hết công việc ấy.

                Vương thái thú nghe nói kinh tâm, bèn nói :

                - Việc nầy phải lén thăm dò không nên tiết lậu, nếu quan trên hay đặng ắt là khó lắm, vậy phải trở về cáo bịnh, như trong huyện có iàm việc chi mà có ấn tín thì ta sẽ làm thế cho, còn việc ấy phải lén dọ như ra mối thì chịu chuộc nhiều tiền một chút, đợi trong mười ngày nữa sẽ hay .

                Quan Huyện lạy tạ rồi trở về nhà.

                Bây nói về chuyện Khâm sai án sát sứ quản binh bị tại Huệ triều tên là Lại Ðại Bàng. gốc đầu mục quân hải tặc, thuở nhỏ có học với đạo sĩ tại Võ Ðương sơn là Phùng Ðạo Ðức, nên võ nghệ cao cường, nay thấy chổ Huệ triều là nơi giàu có mới lo với quan trên đến đó trấn nhậm đặng thâu góp của dân nuôi quân trộm cướp.

                Nguyên Vương thái thú là người hay thương dân như con, còn Thạch tri huyện tuy không phải quan thanh liêm cho lắm chớ cũng một người hay giữ phép, nên đem lòng giận mà ăn trộm ấn cho bỏ ghét, tại Tri phủ cũng một bụng với Tri huyện nên không báo cho quan trên hay việc mất ấn ấy, thì giận mà ăn trộm luôn ấn của Tri phủ nữa. (Nguyên Tri phủ thấy quan Huyện bị mất ấn, thì lấy ấn của mình cột vào lưng, không dám rời ra, ai ngờ quân của Lại Ðại Bằng có nghề giỏi lắm, đợi Tri phủ ngủ, lén vô cắt lưng mà lấy, khi ấy Huyện, Phủ đều mất ấn hết, lấy làm lo rầu vô cùng).


                Nói về Chí Thiện thiền sư có lòng đi do thám thì biết Huyện, Phủ đều bị mất ấn, bèn đến huyện đường, biểu sai nha và thưa rằng :

                - Có Chí Thiện thiền sư ở Thiếu Lâm tự đến xin ra mặt lão gia.

                Lúc ấy Thạch tri huyện đang lo rầu, nghe sai nha vào thưa có Huề thượng đến, thì nghĩ có việc chi đây, trong lòng cả mừng, liền dạy mở cửa giữa, mặc áo đội mảo, bổn thân ra rước vào đại tràng, thấy Huề thượng đầu tròn, trán cao, mặt vuông, tác lớn mười phần chắc chắn, tuy đã hơn tám chục tuổi, mà hai con mắt như đồng linh, oai phong lẩm lẩm, tướng mạo đường đường, biết là người phi thường, liền bước tới cung tay xá mà nói :

                - Tôi không dè Phật gia đến, tiếp rước chậm trể xin tha lỗi.

                Chí Thiện cười nói :

                - Tôi nghe Sứ quân và Thái Thú bị người ám hại nên đến giải cứu, nhưng chổ nầy không lẻ nói.

                Bèn nắm tay Thạch Kỳ dắt vào hậu thính, phân ngôi chủ khách mời ngồi, kế quân thủ hạ dưng trà uống rồi, Chí Thiện biểu đuổi quân hầu lui ra đặng nói chuyện.

                Quan Huyện dạy tùng nhơn lui ra.

                Chí Thiện nói :

                - Từ khi Huỳnh Khôn bị vu cáo cầm tại ngục thì ta đã ba phen đến Triều châu cứu đồ đệ,
                và giết gian phu, dâm phụ cùng hai đứa tặc ni tại Nga Mi am, thấy Lại Ðại Bằng ăn trộm ấn đem về tại nhà, nay đến nói cho Sứ quân và Thái Thú hay, đặng đến bắt nó lấy ấn đem về đái công chuộc tội trước đặng chăng ?

                Thạch Kỳ thất kinh mà nói :

                - Nguyên Lại Ðạo Thai là người đại đạo Hải Dương có công nên được thăng thọ bực ấy, lại ngày trước có đến mượn tiền lương trong kho, ta không chịu cho, nên thiết kế mà hại ta như thế. Nay nhờ Thiền sư nói mới hay, bằng không thì Thái Thú và tôi ắt tánh mạng không còn, còn việc Huỳnh Khôn thật tôi không rõ, mới bị can khúc làm vậy, Mã Xuyến Quân, Cam thị, Ngọc Lan và hai mụ vải thật quân độc ác chết đà đáng số, chớ Thiền sư có tội chi phòng ngại, vậy để tôi bẩm cùng quan Thái Thú, đặng hủy án ấy.

                Chỉ lo việc Lại Ðạo Thai là bực thượng ti, nay không bằng cớ chi, làm sao dám đến nhà ?

                Chí Thiện nói :

                - Vậy để lão tăng nầy đến ra mắt quan Thái Thú định một phép bắt đặng bắt nó đến đây tra xét.

                Quan Huyện nói :

                - Vậy thì Thiền sư và tôi đến đó toan liệu.

                Bèn cùng Chí Thiện đi đến phủ.

                Quan Thái Thú lật đật rước vào làm lễ mời ngồi rồi Thạch Kỳ thuật hết các việc thiền sư giết quân gian phu dâm phụ và việc Lôi Ðạo Thai ăn trộm ấn cho Tri phủ rõ, và nói :

                - Tôi đã hứa lở với thiền sư rằng để tôi bẩm cùng ngài đặng xin hủy án sát nhơn ấy, Thiền sư
                lại nói : Ðể đến cho giáp mặt ngài, đặng tính kế bắt Lại Ðạo Thai.

                Tri phủ bèn bước đến xưng tạ xin Thiền sư bày kế.

                Chí Thiện nói :

                - Thái thú cũng rỏ biết Lại Ðại Bằng là người không tử tế thì ắt có nuôi quân phĩ đồ đạo tặc, nên thường nghe những nhà giàu bị trộm cướp hoài, mà tra xét không ra, còn Thái Thú và sứ quân mỗi lần đều có tư tờ cho nhơn dân ai bắt đặng kẻ gian thì sẻ trọng thưởng mà cũng không thấy ai bắt đặng món đồ tang nào, ấy có phải là tại nó yêm ẩm chăng ? Vậy để thầy trò tôi chia ra bốn phía rình nhà nó ít đêm, hễ gặp đem đồ tang về thì bắt đến phủ đường tra xét thì rõ chiếc ấn tích nó để chổ nào, khi ấy sẽ bẩm với đại hiến hội đồng đến nhà nó xét thì chắc làm sao cũng đặng, Phủ, Huyện gặt đầu nói rằng :

                - Thật là diệu kế, vậy chớ khá trể, xin phiền Lão thiền sư nội đêm nay cùng mấy vị cao đồ ráng tính chuyện ấy cho xong, ắt đặng trọng thưởng.

                Chí Thiện từ tạ trở về Thanh Trước tự nói chuyện lại với các học trò, rồi sai Thế Ngọc núp phía
                Ðông, Hồ Huệ Càng phía Tây, Lâm Thắng phía Bắc, còn mình thì phía Nam, bốn người đều có đem khí giới, dặn rằng :

                - Hể thấy ăn trộm ra thì để cho nó đi rồi nom theo sau, chờ nó lấy đặng đồ tang đem về sẽ bắt giải đến phủ.

                Ba đồ đệ vâng lịnh chia nhau núp các hướng đó quả thiệt đêm ấy bắt được hơn mười tên ăn trộm, liền giải đến nha Phủ, huyện hội đồng tra hỏi, mới biết chổ nó giấu ấn quan và tài vật, bèn lập tức sai người đến tĩnh báo cho quan trên hay, rồi nhóm các gia dịch đến nhà Lại Ðại Bàng, xét bắt thêm đặng mấy tên ăn trộm nữa, và hai cái ấn đó.

                Khi ấy Vương tri phủ liền giao việc trong phủ tại cho Thạch tri huyện làm thế, rồi hiệp cùng thầy trò Chí Thiện đến bắt Lại Ðạo Thai giải chung với lũ ăn trộm và đồ tang đến tỉnh, liền nơi vào bẩm cho quan trên hay.

                Quan trên thất kinh liền hội tam pháp công đồng lại mà tra xét, việc qua như vậy, làm sớ tâu
                vua và điệu Lại Ðạo Thai về kinh trị tội.

                Việc xong rồi, Tri phủ cùng thầy trò Chí Thiện trở về Triều châu, thì phủ huyện đền ơn, thầy trò Chí Thiền từ chối không chịu rồi từ tạ trở về Thanh Trước tự, từ biệt Ngộ Không huề thượng đặng trở về Thiếu Lâm tự tại Phước Kiến.


                Ðây nói về Thanh thiên tử cũng Châu Nhựt Thanh đi đến Kim Lăng, chổ đó là gia quán của Nhựt Thanh.
                Nguyên khi trước mẹ Nhựt Thanh cho Nhựt Thanh theo làm con nuôi Cao Khánh Nhơn thì bà ấy trở lại Kim Lăng mà ở.

                Ðến nay Nhựt Thanh vào lạy mừng mẹ và hỏi thăm việc nhà xong rồi, vua cũng lấy lễ mà thăm viếng, rồi vào thơ phòng an nghĩ.

                Khi ấy Nhựt Thanh thuật hết các việc đi đường và đã cưới vợ rồi cho mẹ hay, thì mẹ mừng
                rỡ, qua ngày thứ Nhựt Thanh sữa soạn dọn cơm ăn uống xong rồi, đồng ra ngoạn kiển, xuống ghe nhỏ đến trước núi , bên mé sông có một cái chùa tên là Kim Sơn, rất nên đẹp đẻ, rồi đến trước đài Ngọc Thơ thấy đoàn ghe buôn qua lại hơn hai ngàn chiếc, xa xem sắc nước màu trời tốt tươi như vẻ, thật là cảnh chùa nầy mười phần xinh lịch, khi ấy vua hoan hỉ bèn lấy viết để bài thơ như vầy :

                Sông lồng bóng nước mấy ngàn thu
                Mây úp non cao nước chảy trôi
                Muôn dặm Trường giang in ngọc đáy
                Một vừng minh nguyệt chói kim cầu
                Xa hơn Tây, Bắc ba ngàn cõi
                Thế tước Giang Nam mấy chục châu
                Tươi tốt khôn cùng là thắng cảnh
                Duyên trời có phận mới lên chơi.

                Vua làm thơ rồi vào chùa, thấy trước cửa có làm hai tướng đứng hai bên, trong cửa có bốn vị Tứ đại thiên vương, trong chổ đại hùng bửu điện, sơn vẽ rỡ ràng, tại Tây du lang có mười tám vị La hán thếp vàng, quét tước dọn dẹp sạch sẻ. Chủ trì là Ðạt Cơ lão hòa thượng, kéo một bọn chúng tăng ra làm lễ rước vào phương trượng mời trà nước xong xuôi, rồi bày dọn tiệc chay thết đãi.

                Thanh thiên tử lấy ra hai mươi lượng bạc mà cúng chùa, rồi ngồi đàm đạo chơi một hồi, vua thấy trời còn sớm, bèn dẫn Nhựt Thanh ra phía trước dạo theo chơn núi giải muộn.

                Khi đi gần đến một cái tháp, xảy nghe gió thổi ào ào, khói bay mù mịt, trong khói ấy lại hiện ra một con rắn trắng rất lớn, mình dài hơn năm trượng, đầu to hơn thúng, miệng hả đỏ lòm, giương nanh múa vuốt bay đến.

                Nhựt Thanh thấy vậy cả kinh chết giấc, còn vua thì lúc ấy cũng thất kinh, lật đật rút cây Long Tuyền kiếm, chăm chỉ ngó con quái ấy, thì thấy nó mọp sát đất, cất đầu gặt lên gặt xuống không thôi, dường như ra mắt bái yết vua. Khi ấy vua tĩnh ngộ, thầm nghĩ rằng :

                - Chắc là con quái này đến cầu phong chi đây ? Bèn cất tiếng hét lớn lên mà nói :

                - Như muốn cho trẫm sắc phong thì hãy hiện nguyên hình đi.

                Con quái ấy liền hiện ra một đạo cô, quì dưới đất cúi đầu cầu phong.
                Vua bèn phong cho làm Chúa lôi phong tháp, lại tặng tên họ là Bạch thị phu nhơn, chưởng quản Kim sơn tự mà thọ hưỡng muôn dân tế tự. Khi ấy Bạch thị phu nhơn tạ ơn rồi đứng dậy hóa luồng gió bay đi, xảy có hai vị tiên đồng đánh nhạc làm lễ mừng nghinh tiếp về chùa ngụ làm thần.

                Lúc ấy Nhựt Thanh vừa tỉnh dậy mở mắt ra thì không thấy yêu xà liền hỏi vua mới rõ là yêu đến cầu phong.

                Lúc ấy trời đã chiều liền dắt nhau về chùa thì Hòa thượng ra tiếp vào đải cơm chay tại hậu liêu, vua nghĩ đó đến canh ba xảy có một luồng gió thổi ào đến, vua tĩnh giấc dậy ngó ra thấy một con cọp đen, trương nha trảo đến quì trước mặt làm cho vua cã kinh

                Bạch xà đã chịu ơn vua tặng
                Hắc hổ đến nhờ sắc đế phong

                Nói về vua ở hậu liêu thức giấc vừa muốn tiểu, xảy thấy một con cọp đen quì mọp dưới đất cúi đầu, dường thể bái yết vua mà cầu phong.

                Vua liền lấy tay chỉ cọp mà phán rằng :

                - Ta phong cho ngươi là Trấn sơn hắc hổ tướng quân, hưởng muôn dân cúng quải. Hắc hổ liền gặt đầu tạ ơn vua mà đi.

                Khi ấy vua đi tiểu rồi trở vào nghĩ đến sáng, dậy tắm rữa thay đổi quần áo tinh khiết rồi bước đến Hùng bửu điện bái yết phật Như Lai, tăng chúng kẻ đánh trống, người gióng chuông rất nên nghiêm chĩnh.

                Khi ấy vua bái yết rồi trở vào phương trượng lót lùng một bửa cơm chay, rồi cùng Nhựt Thanh từ biệt Hòa thượng mà lên đường.

                Lúc đi đường nghe thiên hạ nói :

                - Chốn Anh võ viên rất nên vui vẻ.

                Khi ấy Nhựt Thanh mới thuật chuyện lại cho vua nghe : Nguyên chổ ấy của Diệp Hoàng Cơ là em Diệp binh hộ lập ra để chứa cờ bạc, ỷ thế anh lại có nuôi thầy nghề võ vô số, hiếp đáp người lương thiện, dẫu có kiện thưa cũng không làm chi xuể.Quan viên lớn nhỏ thảy đều không dám nói thốt đến va, bất luận là ai hễ vào sòng cờ bạc đánh trúng không chung, bằng thua thì ních trót, còn ai muốn đánh mà không bạc, thì làm giấy thế gia viên điền sản, hoặc của cha mẹ hoặc của chú bác hay là anh em cũng đặng, liền trao bạc cho mà đánh, ra sòng rồi đi đâu mặc ý, nó cứ nhân lộc họ hàng mà đòi thì phải trả lập tức, cũng bởi ỷ quyền anh nó hiếp chúng như thế, nó tom góp những của phi nghĩa như vây nên mới ra cự phú, có tiền bạc xây cất ra một tòa huê viên mười phần huê mỹ, nay sẳn hai cha con ta cũng nên đến đó coi chơi cho biết.

                Comment


                • #9
                  Hồi Thứ Chín



                  Châu Tiên trấn, cầm đồ tiêu dụng
                  Mắc nạn to dỏng sĩ giải nguy


                  Vua nói :

                  - Nếu quả vậy thì hơn quân ăn cướp. Vậy ta hãy đến đó xem thử ra thế nào rồi sẽ giết phứt nó đi mà trừ đại hại trong xứ nầy.

                  Tính rồi liền dời gót đến đó, thấy Anh Võ viên cơ xảo cất khéo lạ lùng, thiên hạ đông đảo, thẳng vào vườn thấy những tòng bá sum suê rất nên thạnh mậu, kiển vật phô trương, bông thơm nực mùi, chim nói líu là, rất nên khoát ý, ngó thẳng tới có một tòa lầu cao lớn, phía trước lầu có một cái khe nước trong leo lẻo, lại có bắc cầu bằng đá, qua khỏi cầu có vòng quanh lộn, tốn khác hình rồng, bốn phía đều xây non bộ, mỗi chặng lại có cất hậu đình nghĩ mát, đi lần đến chổ hốt me, (vì vua muốn coi việc cờ bạc ra thế nào) liền chăm chỉ tại sòng me, không muốn đi chơi chổ khác, khi ấy có người tại sòng me bưng nước trà lại chào mừng mời uống, và hỏi :

                  - Chẳng hay nhị vị khách quan đến đây đánh me chơi chăng ?

                  Vua gặt đầu nói :

                  - Phải, để thong thả coi đã.

                  Khi hái hốt được hai chén thấy đánh ăn thua nho nhỏ tưởng việc cũng tầm thường, qua chén thứ ba vua cởi đôi kim xuyến người cầm chén thấy đặt lớn không dây giở bèn chổ người mời Diệp Hoằng Cơ.

                  Diệp Hoằng Cơ đến thấy vua lạ mặt mà đánh lớn làm vậy thì nghĩ thầm trong bụng rằng :

                  - Như ăn thì vùa, còn trúng thì không chung, sợ gì mà không dám giở.

                  Liền nháy biểu tên canh chén khui đi, chẳng ngờ khui ra tiền yêu, trúng của vua đặt, trù xâu rồi còn phải chung 418 lượng 5 chỉ.

                  Khi ấy Diệp Hoằng Cơ bước mà nói rằng :

                  - Số là khách quan không rỏ điều lệ trong tiệm nầy nbư vầy : Như đánh nhỏ ăn thua mỗi chén mỗi chung, còn đánh đánh lớn thế nầy thì phải đánh luôn ba chén rồi sẽ tính chung một lần.

                  Vua nghe nói cả giận mắng rằng :

                  - Mi nói bậy, đánh lớn nhỏ là tại ý ta, dám khui chén thì dám ăn chung, phải đem bạc tính chung cho mau, nếu để lâu ắt khó dễ cho mi.

                  Diệp Hoằng Cơ nói :

                  - Nghe không mặc ý mi, rồi đây mi sẽ biết.

                  Liền kêu lớn rằng :

                  - Kẻ tả hữu đâu ra đây cho ta biểu.

                  Một lũ côn đồ xốc ra, lúc ấy mấy người đánh me thấy việc bất tường, liền lật đật chen nhau ra cho khỏi chổ hung hiểm.

                  Khi ấy Nhựt Thanh thấy việc dữ như vậy thì lộn theo người ta ra ngoài đặng lo mưu giải cứu. Vua thấy Nhựt Thanh ra rồi, bèn chuyển thần lực rút cặp roi ra, kêu Diệp Hoằng Cơ nói :

                  - Nhà ngươi tội ác dẩy đầy, nên khiến ngày nay gặp ta đến đây giết ngươi mà trừ hại trong xứ này.

                  Nói rồi múa cặp roi xốc tới đánh Diệp Hoằng Cơ, chẳng dè lũ côn đồ áp lại ngăn đở xúm đánh với vua một cách dữ tợn, thì ấy Diệp Hoằng Cơ truyền lịnh ai bắt được vua sẽ trọng thưởng, song vua mạnh lắm, lũ côn đồ chống trả chẳng lại, kẻ bể đầu, người gãy tay, và chết hết vài tên.

                  Diệp Hoằng Cơ thấy vậy liền cho kêu mấy người thầy nghề võ áp ra cự với vua.

                  Vua đánh với chúng nó đến mặt trời chen lặn, tay chơn đà bải hoải, một mình khó nổi cự đặng
                  thế đà nguy cặp, đang lúc ấy bổn cảnh Thần hoàng thấy thánh giá lâm nguy thì thất kinh, lật đật đi kiếm người đi cứu giá, vừa may gặp Ðường Hoán đang nằm ngủ lại Bá Huề đình thượng liền kêu dậy mách bảo đi cứu giá.

                  Ðường Hoán thức dậy nghe tiếng la chém giết vang tai, liền xách khí giới chạy đến chổ ấy, thấy một bọn học trò của mình đang vây một người ước chừng ba mươi tuổi, tướng mạo khôi ngô, tư dung lẩm lẩm, bộ đà đuối sức, lo đở gạt mà thôi, không thể đánh lại, thì Ðường Hoán kiếm chước mà cứu, bèn la lớn lên rằng :

                  - Bọn ngươi hãy lui ra để ta vào bắt sống tên hung phạm ấy cho.

                  Bọn giáo đầu nghe thì cả mầng lui ra để cho Ðường Hoán ra tay.

                  Khi ấy Ðường Hoán xốc vào đánh so với vua chừng ba bốn hiệp, rồi liếc mắt thấy bọn giáo
                  đầu đứng xa, bèn nói nhỏ với vua rằng :

                  - Hảo hớn hãy theo ta.

                  Vua liền hội ý biết người ấy có ý trợ lực cho mình, liền tuốt theo Ðường Hoán.

                  Lúc ấy Ðường Hoán giả lấy một cây phi phiêu huơi trước mặt làm như tuồng trá bại dụ vua đến chổ vắng mà giết vậy, bọn giáo đầu ngở là thiệt mừng thầm nên không cần theo tiếp ứng, khi ra đến huê viên thì Ðường Hoán nhảy thót lên tường rồi mở dây lung ra thòng xuống, chẳng dè tường cao dây vắn, bên nói với vua rằng :

                  - Hảo hớn hảy mở dây trong mình ra nối với dây tôi, rồi trèo lên giả sơn nắm dây cho chặc đặng tôi kéo lên tường đào nạn.
                  Vua làm y theo, rồi Ðường Hoán ráng sức kéo vua lên, nói với vua rằng :

                  - Phía bên kia tường thì thuộc về huê viên của quan thượng thơ tên là Trần Kim Bảng là người
                  quen, vậy chắc xuống đó thì vô hại.

                  Ðường Hoán liền thòng vua xuống đó rồi cũng nhảy theo lẹ như nhiếp.

                  Khi ấy vua tạ ơn rồi hỏi tên họ quê quán.

                  Ðường Hoán lật đật cúi đầu quì mọp xuống đất tâu rằng :

                  - Kẻ hạ thần không hay đến cứu Bệ hạ chậm trể, xin thứ tội, tôi là Ðường Hoán ở tĩnh Phước Kiến, tạp học trò võ nghệ tại Thiếu Lâm tự, nay ở với Diệp Hoằng Cơ làm chức Tổng giáo đầu, may nhờ Thần hoàng mách bảo, đến cứu được Bệ hạ vẹn vẻ mình rồng.

                  Vua cả mừng nói :

                  - Nhà ngươi vốn là ơn của tìàm. có tội chi mà ngại, hãy đứng dày cho trẫm phân trần.

                  Vua bèn lấy một vật tên là Cửu long hớn ngọc ban cho Ðường Hoán và dặn rằng :

                  - Như ngày sau trẫm hồi trào rồi thì ái khanh hãy đem vật báu nầy trình với Lưu Dung quân cơ thì người sẽ đem ái khanh đến ra mắt trẫm, rồi trẫm sẽ gia phong quân tước.

                  Khi Ðường Hoán chịu ban thưởng và nghe các lời vua dặn dò, liền tạ ơn vua mà tâu rằng :

                  - Phía trước đây có một cái phòng ốc, vậy xin Bệ hạ đến đó tạm nghĩ, xin cho kẻ hạ thần lui gót.

                  Nói rồi liền nhảy lên tường lẹ như chim bay, không hề khua động.

                  Vua mừng khen không xiết.

                  Lúc ấy trời đã tối, trăng mờ, sao lu, khiến lòng vua ái ngại khó bề lui lới, nghỉ vì Trần Kim Bảng, tuy là tôi của mình mà lúc nầy đang ở tại trào làm chức Lễ Bộ thượng thơ, có một mình vợ con nó ở nhà, nay ta đương lúc nguy cấp làm vầy, chẳng biết nó có khứng cho ta ở ngụ nhà nó đêm nay chăng ?
                  Ðang bàn luận một mình, bỗng thấy đèn ở xa xa đi chăm chỉ đến chổ vua, lại nghe có tiếng đàn bà nói với nhau.

                  Khi đến đi gần tới, vua lật đật núp theo hòn non bộ mà ẩn mình, thì nghe có a huờn nói :

                  - Ðây là vườn Tây quế huê thọ, sao không thấy bóng dạng người, tưởng không lẻ có Hoàng đế lâm nạn đến chốn lấy mà chúng ta phòng đi cứu giá, chắc là Bồ tát báo mộng không thiệt, vậy thì tôi với cô về đóng cửa nghĩ cho sớm, kẻo để bà ở nhà mặc đồ triều phục hầu đợi mệt lòng.

                  Rồi lại nghe một người con gái mắng con a huờn rằng :

                  - Can chi mi mà mi lòng cắt nghĩa chớ có nói bậy mà mang tai, hãy đi tìm cho kỷ lưởng.

                  A huờn vưng lời cầm đèn đi rọi một vòng nữa.

                  Khi ấy vua núp trong hòn non bộ nghe hai người cải lẩy với nhau, thì có bụng mừng, bèn bước ra nói :

                  - Trẫm ở đây, sao ái khanh biết, đến mà tiếp giá.

                  Tiểu thơ lấy vạt áo che mặt tâu rằng :

                  - Như ngài quả là đương kim Thiên tử, xin cho tôi biết dấu tích mời dám tin !

                  Vua liền thò tay trong lưng lấy cái ấn cửu long trao cho con tỳ tất đưa lại cho Tiểu thơ xem. Khi ấy Tiểu thơ đưa gần đèn thì thấy có làm chữ : "Thọ mạng ư Thiên ký thọ vĩnh xương ".

                  Tiểu thơ xem đà quyết, liền lật đật quì tâu :

                  - Kẻ hạ thần đến cứu giá chậm trể tội đánh muôn thác.

                  Vua đỡ mà nói :

                  - Khanh là người ân của trẫm, nào có tội chi phòng sợ.

                  Tiểu thơ liền đứng dậy khiến a huờn xách đèn đi trước dẫn đường, vua và Tiểu thơ đi sau, khi gần đến phủ, Tiểu thơ xin vua đứng chờ một chút đặng vào thưa cho mẹ hay mà nghinh tiếp, liền vào thưa cho mẹ hay :

                  - Thánh giá đã đến xin mẹ ra rước cho mau, Ðổ thị phu nhơn cả mừng, lật đật ra nghinh thánh giá vào. Vua lên ngồi trên thượng tòa, còn hai mẹ con quì triều bái mọp dưới đất, vua miễn lễ cho hai mẹ con đứng hầu hai bên, lúc ấy trong phủ đèn đuốc sáng trưng ; vua xem Tiểu thơ diện mạo đoan trang, hình dung yểu điệu, thật là sắc nước hương trời, đẹp xin vô giá, vua rất mừng thầm, rồi sang hỏi :

                  - Phu nhơn vì sao biết trẫm lâm nạn, hay là mộng ứng chi nên mới tiên tri thể ấy ?

                  Phu nhơn tâu rằng :

                  - Có Quan Âm mách bảo, và dặn dò cặn kẻ về sự lhương duyên con gái tôi tên là Ngọc Phi, ứng hiệp cùng Bệ hạ, đêm nay thì thành giai ngẩu, nay mẹ con tôi tiếp được thánh giá về đây cũng nhờ sức Phật Trời mách bảo.

                  Vua nghe rất mừng và cảm tạ ơn Bồ tát chỉ dẫn, ấy cũng là tại thiên duyên túc hiệp xui khiến sum vầy tơ tóc.

                  Phu nhơn tâu :

                  - Chẳng hay duyên cớ nào thánh giá lâm đại nạn dường ấy, xin Bệ hạ chỉ dụ cho kẻ hạ thần rõ.

                  Vua nói :

                  - Trẫm nhơn xuống Giang Nam, đi với con nuôi trẫm là Nhựt Thanh, đặng du ngoạn, khi đến Anh Võ viên thì ghé đó nhàn du đánh me chơi, trẫm thắng, chẳng dè bị Diệp Hoằng Cơ ỷ thế thị cường không chịu chung, nên trẫm giận muốn giết nó ai ngờ kẻ thủ hạ của nó rất đông, trẫm một mình đánh không lại tưởng đã sẩy tay may nhờ Ðường Hoán giải cứu khỏi mới đến chốn nầy, lại gặp Tiểu thơ nghinh tiếp. Nay thần thánh làm mai trẫm há phụ tình lấp nghĩa sao đành, vậy trẫm phong Ngọc Phụng chức Tây cung, chờ ngày sau hồi trào sẽ rước.

                  Ðêm ấy vua cùng Ngọc Phụng huê chúc thành hôn, vua lại truyền rằng :

                  - Những tôi gia dịch trong Trần phủ nầy ai truyền ngôn lọt thấu ra ngoài, thì trẫm sẽ trị tội chẳng dung, vì trẩm e là Diệp Hoằng Cơ ám hại, hai là các quan biết được khó nổi ngoạn du.

                  Phu nhơn tâu rằng :

                  - Xin Bệ hạ chớ lo theo ý tôi tưởng thì Diệp Hoằng Cơ chừng lẻ dám đến đây tra xét, song tôi lo cho nhựt Thanh ái ngại về sự Bệ hạ thôi. Vậy để tôi sai kẻ tâm phúc đi tìm thông tin cho Nhựt Thanh hay cho bớt sự buồn rầu.

                  Liền sai gia nhơn đi lập tức.

                  Nói về Nhựt Thanh Ngày ấy lỏn đặng ra ngoài, thám nghe song bặt tin tức, không biết việc hiền dữ thế nào, bèn tuốt về nhà thưa cho mẹ hay đặng lo mưu giải cứu.

                  Khi đang lo tính cùng mẹ, xảy được tin vua thì rất mừng.

                  Còn Diệp Hoằng Cơ khi thay Ðường Hoán dẫn dụ tên lạ mặt đến chổ vắng mà giết thì trong lòng mừng rỡ vô cùng, bèn khiến gia đinh đóng các cửa sau lê viện lại rồi có ý ngồi chờ báo tin, chẳng dè chờ một ngày một khuya trong lòng phát nghi, liền khiến kẻ thủ hạ đốt đến đi tìm kiếm nội vườn không thấy, thì biết là Ðường Hoán cứu người ấy, bèn nổi giận trở về phũ dạy chôn cất mấy thây chết rồi sai người đi báo với Phũ, Huyện rằng :

                  - Ðường Hoán ăn trộm châu báu đi trốn, xin đóng các cửa thành đặng tra xét.

                  Khi ấy Phũ, Huyện tuân lời, truyền đóng bít các cửa thành, làm cho kẻ thương mãi ra vô bất tiện, lại náo động cả thành Giang Nam, vì hỏi kẻ thũ hạ của Hoằng Cơ ỷ thế mượn hơi cọp nhát nai, nên hà hiếp tra xét, đánh đập dân tình rất nên khổ khắc, còn việc bán buôn bất tiện. Khi ấy gia nhơn của Trần phũ thấy vậy về báo lại cho Phu nhơn hay.

                  Phu nhơn nỗi giận mắng rằng :

                  - Thật lũ ấy là quân loạn thần, dám to gan làm cho náo động lê dân.

                  Bèn sai người đi cho Phũ, Huyện hay, phải mở cửa thành cho dân sự bán buôn, bằng cường bức náo động lê dân sanh biến, thì ta sẽ chạy tờ về Kinh báo bẫm cho Tướng phũ hay rồi phúc tâu với Hoàng thượng gia tội, thì chừng ấy chớ khá trách ta sao không nói trước.

                  Khi ấy Phũ, huyện nghe thất kinh liền cho Hoằng Cơ hay rồi mở cửa thành cho dân sự an cư buôn bán trong thành như xưa.

                  Ðây nói về sự vua ở tại Trần phũ gá duyên cùng Ngọc Phụng phong cho chức Tây cung nương nương (Ðến sau bà nầy sanh ra Thế tử nối ngôi, đặt hiệu là Gia Khánh hoàng đế).

                  Khi vua hiệp cẩn được ba ngày rồi, tính đi du ngoạn, nên ước định trước cho mẹ con Phu nhơn hay và nói :

                  - Sau trẫm hồi trào rồi, sẽ cho quan đến nghinh tiếp.

                  Hai mẹ con rơi lụy, chẳng dám ngăn trở.

                  Khi ấy vua từ biệt đi thẳng đến nhà Nhựt Thanh rồi sắm sửa hành lý hai cha con thẳng qua Hà Nam về tĩnh Châu Tiên trấn, vì đã nghe đồn tĩnh nầy thiên hạ đông đảo, phố xá kinh dinh rất nên thanh lịch, tốt hơn mấy tĩnh kia. Ði hơn bảy ngày mới đến, thật là thiên hạ bán buôn đông đão, phố xá nguy nga rất nên xinh lịch..Nguyên xứ nầy thiên hạ gồm đến ở buôn bán, lại thuộc về địa đầu, nên món ngon vật lạ không thiếu chi, tài tữ giai nhơn khiông kể xiết, tuy là không bằng xứ Nam kinh phú hậu mặc đầu, đường sá rộng lớn xe ngựa rần rần, ngày như đêm chen chơn không lọt ; còn thanh lầu nhà xéc, tiệm tiên lầu ngó càng chóa mắt, vua xem không nhàm, rồi ghé tiệm tiên lầu ăn lót lòng đặng đi chơi nữa, khi ăn rồi thò tay vào lúi lấy tiền trả chẳng dè tiền bỏ quên tại nhà Nhựt Thanh, không biết làm sao, bèn cởi áo lá mặc trong mình có năm hạt ngọc báu, khiến Nhựt Thanh đem đến tiệm cầm đồ cầm đở một trăm lượng bạc, đặng chi đụng trong vài ngày, sau trỡ về Nam kinh sẽ lấy tiền chuộc lại, Nhựt Thanh vưng lịnh đem áo đến tiệm cầm đồ hiệu là Thành An đường, tiệm nầy có một người tài phú, họ Trương tên Kế Ðức lào thông bửu vật xem biết trọng khinh, nên khi Nhựt Thanh đưa cái áo về thế, thì tên tài phú coi hàng giẻ đã cũ giá không đáng, song năm cái nút áo giá đáng liên thành, liền chịu cầm một trăm lượng bạc, rồi biên giấy, giao bạc và giấy cầm cho Nhựt Thanh đem về.

                  Khi ấy mấy người làm công trong tiệm lấy làm lạ chẳng biết áo ấy cách gì mà tài phú cầm nhiều tiền như vậy, hay là tài phú bữa nay điên khùng gì hay sao ?

                  Bèn thuật công chuyện ấy cho ông chủ tiệm bay. Khi ấy chủ tiệm làm áo coi thì thật là áo cũ mới hỏi tên tài phú rằng :

                  - Sao ngươi dám đem tiền của ta mà hủy hoại cho người mà thâu cái áo cũ như vày, dẫu cho áo nầy còn mới đi nữa thì giá đáng cũnng chùng một lượng bạc là nhiều, còn như có muốn cầm thì chừng một lượng tám chỉ thì phải, chớ lẻ nào cầm đến một trăm lạng làm vày, một là ngươi muốn phá của ta, nên làm chuyện hồ đồ dường ấy, hai là ngươi muốn làm mưu chuyên của ấy mà xài.

                  Tên tài phú cười đáp rằng :

                  - Của ấy cầm một trăm lượng có nhiều gì, dẫu có cầm một ngàn lượng cũng không bỏ.

                  Chủ tiệm nghe cả giận mắng rằng :

                  - Trong thế ngươi điên hay sao ? Ngươi tưởng áo ấy quí dường nào mà đắc ý như vậy ?

                  Tên tài phú nói :

                  - Như ông muốn biểt áo ấy ra thể nào thì ông hãy cho mời các ông chủ tiệm cầm đồ đến đây thị chứng rồi tôi sẽ chỉ sự báu áo của ấy cho biết, chừng ấy ông mới biết tôi nhản lực thúc phá vật báu, như áo ấy quí thì xin ông mỗi năm phải thêm tiền ông cho tôi năm lượng và thưởng hiện một trăm lượng về sự nhản lực của tôi, còn như vật ấy không ra gì thì tôi chịu thường y giá và ở làm công không một năm, ông chịu cùng chăng ?

                  Người chủ tiệm nói :

                  - Chịu, ta sẽ y lời ngươi giao kết đó.

                  Bèn cho người mời mấy người chủ tiệm cầm đồ đến thị chứng.
                  Khi các chủ tiệm đến trà nước xong xuôi, chủ tiệm cầm áo coi rồi hỏi tên tài phú :

                  - Vậy chớ áo nầy lấy chi làm bằng mà biết là quí và trọng giá dường ấy ?

                  Tên tài phú trả lời rằng :

                  - Không cần gì phải hỏi, để tôi thí nghiệm thì biết.

                  Liền đem ra mười ngọn dao, một lò lửa, một bồn nước rồi đứng cắt nghĩa rằng :

                  - Áo nầy quí tại năm cái nút, nguyên là năm hột ngọc ở bên Tây Liêu, đời nhà Tống, sai Ðịch Thanh qua bình Liêu, mới thâu đặng một cây trân châu kỳ thì trong cây cờ ấy có năm hột ngọc, một hột tị thủy, một hột tị hỏa, một hột tị phong, một hột tị trần và một hột tị khí giái. Vậy để tôi thí nghiệm cho các ông coi. Bèn để áo ấy trên bàn, biểu mười người cầm mười cái đao mà chặc mõi tay mà áo ấy không đứt chút uào, các người coi đều thất kinh. Rồi đem ra một lò lửa bỏ áo vô quạt cháy hừng hừng bõ áovô mà đốt, một hồi lâu cũng không cháy, còn lữa thì tắt hết, cả thảy đều lấy làm lạ, lại lấy áo ấy nhận vào bồn nước thì nước vẹt chảy tràn ra. Khi thí nghiệm rồi ai nấy đều khen người tài phú là người có nhản lực, còn ông chủ tiệm cả mừng, rồi bồi thường y theo lời đã giao kết. Khi ấy tên tài phú sanh tâm lập kế biểu ông chủ tiệm đổi năm cái nút ấy, để làm của, rồi đem năm hột nút giả tra vào áo ấy.

                  Nói về khi vua quyền biến cầm áo lấy tiền trả cho tiên lầu và tiêu dụng, nên phải ở nán tại tiệm ngủ ít ngày đặng chờ Nhựt Thanh về Giang Nam lấy bạc đem lại chuộc.

                  Khi Nhựt thanh phụng mạng ra đi, tính khứ hồi là mười bửa.

                  Vua khiến Nhựt Thanh đem bạc đi chuộc thì tiệm tính lời một tháng, giá bạc lời là một lượng năm chỉ.

                  Khi Nhựt Thanh đem áo vào cho vua thì vua chăm chỉ xem năm hột nút, biết là đồ giả, trong lòng cả giận bèn dẫn Nhựt Thanh tới tiệm Thành An đường mà đòi báu ấy lại, chũ tiệm và tài phú chối từ không chịu có làm điều gian trá.

                  Vua thấy lũ ấy khăng khăng chặc lòng không chịu trã thì vua và Nhựt Thanh cả giận nhảy đến bắt tên chủ tiệm và tài phú rút báu kiếm ra chận ngang bản họng chúng nó và mắng rằng :

                  - Quân bây là đồ chó, tham lam của người tội dư muôn thác, như bọn ngươi muốn sống hãy đem trả báu ấy cho ta, thì ta sẽ tha. Còn mấy người làm công trong tiệm không dám ra binh cự, là sợ nếu binh thì chủ tiệm và tài phú ắt chết nên đứng xa mà ngó.

                  Khi ấy chủ tiệm trách móc tài phú rằng :

                  - Cũng tại ngươi sanh sự nên mới dấy ra họa này.

                  Rồi nói với vua :

                  - Xin ông tha, tôi sẽ hườn cựu vật lại cho ông.

                  Nói rồi sai hai người đi lấy năm hột nút áo đem ra trả cho vua ; vua nhìn thiệt của mình liền bỏ vào túi rồi cười mà nói :

                  - Nay ta lấy đức mà tha cho bọn bây.

                  Nói rồi tức thì vua và Nhựt Thanh xách tóc bọn dó quăng ra và đá một đứa một đá té lăn cù đưới đất, rồi cha con vua dắt nhau ra đi.

                  Khi ấy tên tài phú giận lắm lồm cồm chổi dậy trèo lên lầu vọng canh xáng mả la tri hô rằng :

                  - Có ăn cướp đến cướp tiệm, hãy ra tay bắt chúng nó.

                  Nguyên có điều lệ cho mỗi tiệm, hễ khi nào bị hung hiểm thì xáng mã la ra hiệu lịnh, đặng các phố xá hay mà tiếp cứu nhau, nên khi vua và Nhựt Thanh ra khỏi tiệm rồi, nghe sau lưng có tiếng mã la đánh om sòm thì ngó lại thấy các tiệm và quan binh rũ nhau truy tróc tiếp cứu.

                  Vua biết họa to, hèn xông tới trước mà chạy, còn hai bên phố xá cửa đóng bịt bùng, kẻ đi đường đông nứt phía trước khó nổi bôn ba, sau lưng thì Trương Kế Ðức là tài phú tiệm thành An Dương dẫn bè bạn, cầm những đồ binh khí rượt theo.

                  Lúc đó vua nổi xung, rút gươm báu đánh tới, bạc mạng cho Trương Kế Ðức vừa trớn xông tới bị vua mới đao đứt làm hai khúc, quan binh thấy vậy liền áp tới vây phủ.

                  Nguyên xứ Châu Tiên trấn nầy là chổ khẩn yếu địa đầu nên quan binh đông lắm, áp đến bốn phía phủ vây, mủi kim chen chẳng lọt, rồi hổn chiến với hai cha con vua đánh hơn nữa ngày mà ra không khỏi, thế đà nguy cấp, Thổ địa, Thần hoàng thất kinh, liền chạy đi kiếm người bảo giá, dòm thấy trên vọng lầu canh có Quan Tối Bình đương nằm ngủ, người nầy là một tên vũ tướng, võ nghệ siêu quần. súc mạnh ngàn cân, vì thời vận vị đạt nên nương ngụ chốn này, nay vận đà đến nên khiến cho thần mách bảo ra cứu giá. Khi ấy thần nhơn cho nằm chiêm bao, dặn dò hãy dậy đi giải nạn cho vua, thì Tối Bình lồm cồm chổi dậy đứng ngó mông, xảy nghe chiêng trống vang dậy, tiếng la hét dường như sấm dậy, bèn dòm theo lổ song cửa sổ, thấy có hai người đang bị quan binh vây khổn, thế đà nguy cấp, lại thấy trên đầu người ấy có chiếu hào quang sáng rực, thì nghĩ thầm :

                  - Chục người nầy là thiên tữ lâm nạn, nên thần nhơn mách bảo cho ta đến để cứu giá mà lập công. Liền lạy tạ ơn thánh thần rồi cầm thiết côn nhảy đại xuống lầu, xông vào trận huơi như điễn xiếc quan binh ngã lăn, (Nguyên cây còn ấy nặng hơn tám chục cân, nên trúng nhằm ai la người ấy cũng chết binh tướng thấy Tối Bình rất mạnh, nên phải tránh cho về vào.

                  Khi Tối Bình đánh giết đến trước mặt vua, liền quì xuống tâu rằng :

                  - Kẻ hạ thần cứu giá chậm trể, tội đáng muôn thác, xin Bệ hạ theo tôi đánh giết, phá vây mà ra.

                  Vua cả mừng nói :

                  - Vậy ân huynh mau hiệp với trẫm đánh dồn ra.
                  Lúc ấy Tối Bình khai tiền lộ gặp quan bổn trấn làm chức Hiệp Thái tên Mã lão gia đánh cùng Tối Bình hơn mười hiệp, liền bị Tối Bình một côn nhào xuống ngựa, quân mắc áp vào cứu không rưọt theo Tối Bình.

                  Khi ấy vua ngó lại kêu Tối Bình biểu vào trùng vây cứu giùm con mình.
                  Tối Bình liền trở vào chổ chiến trường, qnân sĩ thấy Tối Bình mạnh bạo thì không dám ngăn đón, nên cứu đặng Nhựt Thanh, rồi hai người chuyễn thân lực đánh ra khỏi vây. Khi vua thấy Tối Bình sức manh dường ấy thì hỏi tên họ. Tối Bình bày tõ tên họ và thuật chuyện thần nhơn mách bảo mới biết đến mà cứu giá, kế ba người tuốt về tiệm ngũ lấy đồ hành lý đi ước đặng mười dặm đường, kế trời tối ba người ghé tiệm ăn cơm, rồi vua viết một đạo chỉ giao cho Tối Bình đem về kinh trình cho Lưu Dung, đặng phong cho Tối Bình làm chức Ðề đốc và thưởng tiền bạc đặng làm phí lộ.

                  Tối Bình liền tạ ơn vua rồi thẳng tuốt về kinh.

                  Còn vua và Nhựt Thanh thì thẳng qua Trấn Giang mà chơi.

                  Ấy là :

                  Chúa tôi gặp gỡ nên tri kỷ,
                  Phụ tử ngao du rất khoái tâm.

                  Comment


                  • #10
                    Hồi Thứ Mười



                    Miễu Quan đế , Ngộ Xuân diễn võ
                    Chùa Thạch Liên, Huề thượng dâm ô


                    Vua có ý qua Trấn Giang du ngoạn nên noi theo đại lộ thẳng đến, đi đặng nữa ngày, hỏi thầm kẻ thổ nhơn thì thổ nhơn nói :

                    - Phía trước đây là Lâm thành, còn phía đàng kia là Trấn Giang, như muốn qua Trấn Giang thì noi theo đàng cũ trở lại mới nhằm.

                    Khi ấy vua và Nhựt Thanh mới hay mình đi lạc thì nói :

                    - Vậy thì thẳng đến Lâm thành chơi một chuyến cho biết, rồi sẽ trở lại Trấn Giang.

                    Khi tính rồi liền thẳng đến Lâm thành. (Nguyên xứ nầy còn thuộc về Trung châu, ai muốn đến Nam kinh cũng phải noi theo đường nầy mà đi, nên xe ngựa, kiệu, võng qua lại đầy đường, tuy không bằng Châu Tiên trấn, song cũng hơn mấy xứ kia).

                    Dọc dàng phong cảnh đẹp xinh, ngày đi đêm nghĩ, hai ngày mới tới Lâm thành, thấy đường sá rất nhiều, chợ buôn đông đảo, phố phường tề chĩnh, khi trời vừa tối vua và Nhựt Thanh vào tiệm nghĩ.

                    Rạng ngày thức dậy rửa mặt, chải gỡ thay quần áo, rồi hỏi thăm chủ tiệm các nẻo đường đặng đi chơi, chủ tiệm chỉ vẻ đành rành, vua và Nhựt Thanh dời gót ra đi.

                    Ðây nói về Ðương Thọ Xuân, người tĩnh Phước Kiến, làm chức Lưỡng Quảng Tổng đốc, khi trước thi đậu Lưỡng bảng tấn sĩ, làm quan thanh liêm, cẩn thận thương dân như con, danh thơm đồn dậy đế đô, người đều kính phục, quan đại thần nầy có một người em ruột tên là Ngộ Xuân, không ham học thi thơ, bõ văn chuyên lo nghề võ, tánh hay kết bạn cùng anh hùng hào kiệt bốn phương, lại học được thập bát ban võ nghệ, mỗi món đều thông, còn việc mạnh thì ít kẻ bị kịp, tánh ham cờ bạc không lo việc làm ăn, xài phí lớn, làm tiêu điều sự nghiệp, bị anh quở trách, nên lánh mình lưu lạc nổi trôi xứ người, không nghề làm ăn nên phải mải võ kiếm tiền chi độ.

                    Ngày kia đi đến Lâm thành nhằm tiết khí ôn bòa, thì Ngộ Xuân tựu lại một bọn mải võ, lộng quyền trước miếu Quan Vỏ đặng cầu những người coi tư trợ ít nhiều. Thiệt là tội nghiệp cho Ngộ Xuân là con nhà quan xuất thân trôi nổi giang hồ không hiểu thói tục xứ người, nên không đến ra mắt kẻ hào kiệt trong xứ nầy. Vì vậy, nên lên khi Ngộ Xuân mải võ lộng quyền, thiên hạ coi thì đông, mà không ai tư trợ ít nhiều gì, là bởi xứ nầy có một người xưng là Tiểu bá vương tên là Ðoàn Ðức, tánh tình hung bạo tật đố người hiền ; thấy Ngộ Xuân đến xứ mình mải võ tự thị tài năng không thèm đếm xỉa gì đến va, nên xúi mấy người coi đừng cho tiền, những người đứng coi đều sợ oai thế Ðoàn Ðức nên không ai dám cho hết, coi thì biết khen hay, mà tiền thì không lọi.

                    Khi Ngộ Xuân ráng sức bình sanh lộng quyền thí võ mà không ai cho tiền, nên ngừng lại thưa rằng :

                    - Nay tôi tình cờ đến đây trong quới cảnh này, mải võ đặng xin các ông tư trợ ít nhiều chi độ hồ khẩu, xem ra các ông chẳng có ông nào hảo tâm thưởng kẻ thất thời, hay là các ông chê võ nghệ tôi sơ lược không ra gì, nên các ông không khứng ban thưởng chăng ? Vậy có ông vào giỏi ra thử võ cùng tôi ít hiệp đặng tôi học thêm.

                    Khi ấy Ðoàn Ðức hét lớn lên mà nói :

                    - Ngươi ở đâu đến xứ nầy mải võ lộng quờn rất nên vô lễ, một là chẳng biết thói tục xứ người, hai là chẳng đến cầu thân ra mắt với ta, nôl. không tiền xài, rất nên đáng kiếp, nay ngươi muốn thử quờn với ta ắt tính mạng ngươi không còn.

                    Khi Ngộ Xuân nghẹ h.ùl hl Iin lừ rằng :

                    - Vì tôi là người ở tha hương đến, nên không hiểu thói tục, chẳng hay nhơn huynh tên họ chi, xin nói cho tôi biết đặng xin lỗi.

                    Ðoàn Ðức nạt rằng :

                    - Trong cả và thiên hạ, ai không biết danh. Ta là Tiểu Bá vương tên là Ðoàn Ðức, tại ngươi tự phụ tài năng, khi trong bổn trấn nầy vô nhơn, nay gặp ta đây, ta đánh ngươi cho hư thân mang xấu cho bõ ghét.

                    Nói rồi dùng huê quờn đánh tới một cách dữ tợn. (Nguyên Ðoàn Ðức là một tay du côn đệ nhứt trong xứ này, hai tay sức manh cất nổi trăm cân, nên ai mà bị va xuống một quờn thì không khi nào dậy nổi, khi Ngộ Xuân thấy Ðoàn Ðức huơi quờn đánh tới một cách dử tợn, Ngộ Xuân cũng không náo động chút nào, liền né tránh qua một bên, lấy trái giơ ra gạt đở huê huờn, rồi chơn trái đá nghịch vào hông Ðoàn Ðức.

                    Ðoàn Ðức đau quá văng ra xa vài thước, và té lăn xuống đất, Ðoàn Ðức mắc cỡ gượng gạo chổi dậy, liều mạng xông vào đánh một lần nữa.

                    Ðang lúc ấy vụa và Nhựt Thanh đang đứng lộn trong đám đông coi Ngộ Xuân múa quờn mãi võ, thấy tầi cao hơn chúng, tướng mạo khôi nhô, oai phuông lẩm lẩm, tiếng nói tợ chuông ngân, ăn nói lễ nghĩa, khi diễn quờn gần nữa ngày mà không ai cho tiền, vua thấy vậy thầm thương vừa muốn hỏi tên họ cho biết đặng tặng tiền lộ phí, làm ơn đặng phòng ngày sau ra giúp nước cho mình, chẳng dè thấy Ðoàn Ðức làm điều vô lễ, tật đố hiền năng.

                    Khi ấy vua và Nhựt Thanh bước ra ngăn cản hai người rồi hỏi Ngộ Xuân danh tánh là chi, xứ ở tại đâu đặng cho hai mươi lượng bạc làm phí lộ, còn Nhựt Thanh thì khuyên giải Ðoàn Ðức rằng :

                    - Thiện hạ trong bốn biển thảy đều là anh em, phải quấy lấy tiếng nói cũng đũ, cần gì phải xâu xé cùng nhau mất điều hòa thuận, xin tưởng tình tôi, chớ hờn giận nhau nữa.
                    Khi ấy Ðoàn Ðức bớt giận, song thấy có một người lạ mặt cho Ngộ Xuân hai mươi lượng bạc thì cả giận trợn mắt nói :

                    - Trong xứ Lâm thành này thảy đều sợ ta, duy có bọn bây tặng tiền cho nhau, làm thất thể diện ta, vậy bọn bây hãy coi ta.

                    Rồi vụt chạy mất.

                    Khi nói đó vua nghe cũng nổi giận, song nhẫn nhục dằn bớt tánh ý, vì vua hay làm náo động, bị sự hung hiểm đã năm ba phen, nên cười bõ qua không thèm đem vào tai, rồi dắt Nhựt Thanh và Ngộ Xuân vào tiệm cao lâu ăn uống đàm đạo chí khí người anh hùng, vua hỏi :

                    - Sao chẳng đi đầu quan ra giúp nước đặng lập công danh, để chi trôi nổi xứ người mà chịu điều cay đắng lắm vậy, khá tiếc, xin tráng sĩ hãy tỏ phân cho ta biết.

                    Ngộ Xuân than thở trả lòi rằng :

                    - Nguyên tôi là người ở Chiết giang, dòng dõi trâm anh, tên Ngộ Xuân, em ruột của Thọ Xuân, đang làm chức Lưỡng Quảng thống đốc, khi tôi còn nhỏ chẳng ham học văn, chuyên lo nghề võ, tánh ưa giao hết với anh hùng, xài phí hết gia tài, mới học được võ nghệ tinh thông, thấy việc bất bình không chịu, ghét bậy ưa ngay nên sanh ra nhiều điều tai họa, bị anh quở trách nên phải đổi tên họ, trôi nổi xứ người mãi võ kiếm ăn, nay hai ông hỏi, tôi phải trần tình, vậy chẳng biết hai ông cao danh quí tánh là chi, đến xứ nầy có việc gì, xin tỏ cho tôi biết.

                    Vua nghe Ngộ Xuân nói thì cả mừng, bèn nói thiệt các việc cho Ngộ Xuân hay, và dặn chớ nên trương thinh lậu sự.

                    Ngộ Xuân nghe vua nói thiệt với mình thì cả mừng và thất kinh, liền quì mọp dưới đất tâu rằng :

                    - Kẻ hạ thần có mắt không ngươi, xin Bệ hạ tha tội.

                    Vua đở dậy nói :

                    - Ðừng làm như thế mà lậu cơ quan, trẫm miển lễ cho khanh, khá tua nhập tiệc mà ăn uống tự nhiên.

                    Khi ấy tôi chúa ăn uống đến tối mới mản tiệc, rồi thẳng đến tiệm ngủ mà nghĩ.

                    Bây giờ nói về Ðoàn Ðức về đến nhà lấy thuốc thoa bóp mấy chổ thương tích lành mạnh rồi, bèn sai thủ hạ đi dọ thám coi ba người ngủ tiệm nào, ông lập kế rước Ngộ Xuân đến dạy nghề võ, chừng và đến nơi, thì quân mai phục áp ra bắt va trói lại, thình lình xuất kỳ bất ý, dẫu va có ba đầu sáu tay cũng không chạy khỏi, rồi phao vu cho va là bọn ăn cướp, giải đến cho quan Huyện khảo tra chết cho rảnh.

                    Mưu kế sắp đặt xong xuôi, bèn cho hai tên đi mời Ngộ Xuân đến đặng làm kế độc ấy.

                    Hai tên học trò đến tại tiệm ngủ Vạn An khách sạn mời Ngộ Xuân.

                    Làm rọ hòng toan cầm mảnh hổ
                    Thả mồi mong quyết bắl ngao ngư

                    Ðêm ấy vua nghĩ tặi tiệm, rạng ngày thức dậy rửa mặt chải gở xong xuôi, rồi khiến Nhựt Thanh và Ngộ Xuân theo vua du ngoạn các nơi, xảy thấy chủ tiệm dẫn hai người vào phòng ra mắt mà rước Ngộ Xuân dạy nghề võ.

                    Ngộ Xuân lật đật mời ngồi, trà nước rồi hõi tên họ, hai người thưa rằng :

                    - Bọn tôi đây một người họ Lâm tên Giang và một người họ Lý tên Hải, ham học võ nghệ.
                    Nguyên ngày trước chúng tôi thấy lão sư mải võ lộng quyền trước miễu Quan Võ rất nên tuyệt điệu, bọn tôi ái mộ, nay đến xin rước lão sư về dạy hai tôi, mỗi tháng cấp lương ba chục lượng quần áo vật thực thì hai tôi phụng dưỡng, chẳng biết lão sư khứng cùng chăng ?
                    Vua nghe liền nói :

                    - Việc ấy Dương Huynh hãy chịu di đừng ngại, đặng tạm ở đở đó ít ngày, chờ tôi qua Trấn giang rồi sẽ trở lại đây toan líệu.

                    Vua lại hỏi hai tên kia nhà ở chổ nào xin chỉ chừng, đặng hậu nhựt trở lại thăm viếng. Hai người liền thưa :

                    - Nhà chúng tôi ở gần đây, hỏi chủ tiệm nầy thì biết.

                    Khi ấy Ngộ Xuân nghe theo lời vua, bèn tù tạ quảy gói xách côn theo hai người đó. Ngày ấy vua cùng Nhựt Thanh đi đạo chơi các nơi đến tối mới về tiệm, lúc về dọc đàng nghe thiên hạ đồn rằng :

                    - Người mải võ bị người ta bắt giãi đến huyện Lâm thành nghiêm hình tra xét về tội ăn cướp, nay giam cầm chờ biện minh tang chứng rồi sẽ làm tội.

                    Khi về đến tiệm, vua bèn tra vấn chủ tiệm thì chủ tiệm thưa rằng :

                    - Nguyên hai người rước lão sư hồi sớm mai đó, h tâm phúc của Ðoàn Ðức, thiết kế đến thỉnh lão sư về mà hảm hại, bởi tôi sợ chúng nó gây oán ám hại, nên không dám nói thiệt trong lúc đó.

                    Vua nghe cả giận liền chạy thẳng đến nha huyện Lâm thành, bước vào nhà khách hồi trống.

                    Khi ấy quan Huyện đang ăn cơm, xảy có gia đinh vào báo rằng :

                    - Có một người hớn tử đến hồi trống minh oan, xin lão gia toan liệu.

                    Quan Huyện lật đật ra khách, thấy người đánh trống tướng mạo khôi ngô, bèn hỏi rằng :

                    - Nhà ngươi minh oan về việc chi hãy trình đơn trạng cho ta xem.

                    Vua liếc mắt ngó quan Huyện hình dung như quả có bịnh, lại thường nghe người ta đồn quan Huyện nay hay ăn hối lộ của người, tham mê tửu sắc, nên thân thể gầy mòn mét ương, vua biết là ô quan, mới nói miệng tày với quan Huyện rằng :

                    - Ta tới minh oan cho bạn hữu là Dương Ngộ Xuân, bị Ðoàn Ðức là tay du côn, nguyên có cừu trước, nên lập kế hảm hại bắt Ngộ Xuân giải nạp cho quan Huyện, và vu rằng : Trộm cướp, rất oan ức cho người, nên ta đến đây bảo lãnh và làm chứng về sự ấy, xin quan Huyện xét lại tha người chớ nên tin lời Ðoàn Ðức nói không đủ bằng cớ vì không có chứng cớ, nghe chi lời huyền hoặc mà hảm hại người lành.

                    Quan Huyện nghe nói bèn nạt rằng :

                    - Mi tên họ là chi, bà con gì với đứa tội phạm, sao dám cả gan đến bảo bọc, việc nầy ta đã tư tờ về tỉnh rồi đặng lãnh công thăng thưởng, lẻ đâu lại tha, hay là mi cũng là một đảng gian ác với nó chăng ? Nếu còn đứng nói ráng ta sẽ bắt luôn mà giải nạp, nay ta dung người hãy đi cho mau.

                    Vua nổi giận mắng rằng :

                    - Nhà ngươi làm Huyện chẳng khác nào như cha mẹ dân, sao không xét suy tình lý, vã chăng luật triều đình có buộc rằng : Phàm bắt đặng trộm cưóp thì phải lấy tang luận tội, cớ sao bỏ luật triều đình, ham của hối lộ mà hại kẻ hiền lương, có phải tại nhà ngươi tham công làm điều trái phép chăng ? Ta là Cao thiên Tứ chẳng phải là bà con cật ruột chi với Dương Ngộ Xuân vốn là tình bậu bạn mà thôi, nay thấy sự bất bình nên đến đây minh oan há để cho ngươi hại đặng sao ? Còn nhà ngươi có biết Dương Ngộ Xuân là người gì không ? Ngộ Xuân là em ruột cũa quan Lưởng Quãng tổng đốc Dương Thọ Xuân, nay Ngộ Xuân du ngoạn đến đây mãi võ chớ chẳng có tội gì ? Vậy ngươi hãy rộng tình tha cho mau, kẻo họa đến thì ngươi ăn năn không kịp.

                    Quan Huyện cả giận vỗ bàn mắng rằng :

                    - Mi là đồ khốn kiếp, ở đâu cả gan đến chốn công đường nhục mạ ta, vậy ngươi có nhớ lời tục ngữ thưòng ví chăng : Hễ Thiên tữ phạm tội thì như kẻ thứ dân, hà huống gì là em Dương Thọ Xuân ta há sợ nó sao ? Nói rồi truyền kẻ tả hữu xúm lại bắt vua. Vô phước cho hai tên nha dịch bị vua đá mỗi đứa một cái như thể đá cầu văng ra chết ngắt rồi nhảy phóc lên công án bắt quách lão Huyện xách xuống mĩm cười nói rằng :

                    - Mi muốn chết hay là muốn sống ?

                    Lão Huyện hoảng kinh cầu xin dung mạng.

                    Vua nạt lớn rằng :

                    - Như muốn ta tha thì mi hãy đem Dương Ngộ Xuân giao cho ta lập tức.

                    Khi ấy lão Huyện sợ chết, túng phải sai người mở cửa ngục dẫn Ngộ Xuân ra giao cho vua.

                    Vua thấy Ngộ Xuân không bị thương tích chi, bèn thả lão Huyện ra và mắng rằng :

                    - Hôm nay tha đở cho ngươi khỏi chết đó, ngày sau sẽ lấy đầu ngươi.

                    Nói rồi liền dắt Ngô Xuân chạy ra khỏi cửa nha môn, gặp quan binh đến đón đường. ( Vì các nha nghe báo rằng : Có cường nhơn đến công đường đại náo giựt tù, nên các quan dẫn binh đến tiếp.)

                    Khi đến nơi gặp vua và Ngộ Xuân, liền áp vây hổn chiến đánh nhầu một cách dữ tợn, song vua và Ngộ Xuân coi quân lính ấy cũng như không.

                    Ngộ Xuân giết chết vài tên quân đoạt đặng khí giái, tôi chúa sẳn trớn đánh nhầu, quan quân tan nát chẳng khác nào cọp chụp bắt dê.

                    Khi ấy hai bên phố đều sợ đóng cửa lại hết, còn đường thì không ai dám đi.

                    Khi đó vua và Ngộ Xuân tuốt ra khỏi thành, xảy gặp Nhựt Thanh mang đồ hành lý chực hờ tại đó, liền hiệp cùng vua và Ngộ Xuân thẳng đường lớn qua Trấn Giang .

                    Khi các quan thấy quân lính chết nhiều mà bọn môn đồ bắt không được, liền chạy tờ về tĩnh.

                    Ðây nói về vua cùng Nhựt Thanh và Ngộ Xuân chạy đặng ba chục dặm thì trời đã tối bèn vào tiệm ngủ hiệu là Hằng Thới khách sạn mà nghĩ.

                    Xứ nầy tên là Trảo chiêu thuộc về Trấn giang địa cảnh phía trước có sông Lâm Dương, mé sông bên kia thuộc về Dương Chiêu phủ, có hai quận, vì vậy nên quan dân thương khách noi theo đường nầy mà đi, đến chổ yếu lộ ai nấy cũng phải tá túc tại đây một đêm.

                    Ba người nghĩ đó một đêm, rạng ngày lên đường thẳng đến Trấn giang, nhằm cửa Nam môn tìm quán mà tá túc, quán nầy hiệu là Thắng khách sạn, khi ấy Nhựt Thanh mang bịnh cảm mạo, đau bụng bắt đi sông hoài. Khi thầy coi mạch rồi bèn đoán rằng : Ngoại cảm sơ sài khiến nên sông bến làm vãy, chớ không hề chi, uống thuốc rồi phải tĩnh dưỡng vài ngày sẽ lành bịnh.

                    Vua nghe nói yên tâm, song tánh ngồi yên một chổ không vui, chỉ muốn đi chơi mà thôi, bèn dạy Ngộ Xuân ở lại tiệm săn sóc Nhựt Thanh đồng vua đi dạo chơi một minh giải muộn.

                    Khi đi dọc đàng nghe người ta đồn rằng : Chùa Thạch Liên linh nghiệm lắm, lại có một cày sen bằng đá, cảnh chùa rất nên thanh lịch.

                    Vua nghe hỏi thăm đường đi, kẻ đi đường chỉ cho vua xong rồi, vua noi theo đó mà đi thấy hai bên đường phố xá nguy nga, chợ búa bán buôn, rất đẹp nhà cửa cảnh vật đông đảo giàu có hơn xứ Bắc kinh, đi lần ra khỏi thành thì tới cửa chùa, thấy một đứa đạo đồng ước chừng mười lăm, mười sáu tuổi mặt mày xinh đẹp, tứ dung mỷ lệ, giống như con gái, tướng đi nết đứng chẳng phải con trai chút nào, Vua liền phát nghi chăm chỉ coi cho ái chất, thiệt là con gái chẳng sai.

                    Khi ấy đạo đồng tình cờ ngó ngoái lại, thấy vua đang chăm chú ngó mình thì có ý sợ sệt liền quày trở lại đi thẳng riết vô chùa.

                    Vua đi theo vừa bước vào cửa thứ hai, thấy hai bên thờ Tứ đại thiên vương hình cao hơn một trượng, phết vàng rất nên lịch khiết, ngó phía sau thấy ao cả đua bơi, chốn chổ sen nõ đầy dẩy, lại có một đường thẳng thông đến bửu điện, có những cây thanh tòng bạc, hạc liên tiếp theo mé ao.

                    Vua vừa muốn bước vào trong coi, xãy thấy huề thượng dẫn một bọn tăng đồ đến nghinh tiếp.

                    Vua đáp lễ huề thượng thỉnh vào khách đường dùng trà thết đãi, và rghìêng mình.xuống một cách cung kính mà hỏi thăm vua tên họ quê quán, vua đáp rằng :

                    - Ta vốn ở Thuận Thiên phủ, họ Cao tên Thiên Tứ, nhơn du ngoạn đến xứ này, nghe đồn cãnh chùa linh nghiệm, nên đến đây trước bái yết phật Như Lai, sau xem gộp đá sen cho hãn, xin huề thượng mở lòng từ bi cho người chỉ dẫn ta coi giây lát, ta cám ơn vô cùng.

                    Huề thuợng liền khiến người đạo đồng giống con gái đó, dắt vua đi coi các chổ.

                    Vua đi đến chánh điện bái yết Như Lai, rồi theo tên đạo đồng thẳng ra sau vườn, thấy huê quã thạnh mậu, lại thêm thanh tịnh vô cùng khiến lòng ái mộ, khị ấy đạo đồng dắt vua đi lần đến gộp đá, thấy trên gộp có mọc một cây sen đá bề cao một trượng, bông lớn bằng cái tô, chung quanh đá mọc chớn chổ hình như lá hà diệp. Vua thấy việc kỳ dị, còn đương khen thầm trong bụng, xảy nghe một luồng gió thổi đến ào ào, liền thấy gộp sen đá ấy, day lại ngay mặt vua rồi cúi đầu gặt lên gặt xuống 24 lần, như tuồng bái yết vua, lại nỗ lên một tiếng sấm lớn, gộp đá sen vùng nở ra ngàn từng, lớn hơn trước mười phần.

                    Vua thấy vậy nữa mừng nửa sợ, rồi ngó lại thấy tên đạo đồng quì mọp dưới đất, lạy mà khóc rằng :

                    - Muôn ơn Bệ hạ xin cứu mạng kẻ hạ thần.

                    Vua liền đở dậy nói :

                    - Như như người quả là con gái, khá tua nói thật, ta sẽ lập kế cứu cho.

                    Ðạo đồng khóc thưa rằng :

                    - Nguyên huề thượng này tên là Yến Nguyệt, rất nên hung dữ, chiêu nạp những kẽ hung hoang làm vây cánh, khi ra ngoài thì giựt cướp của người, gặp gái tốt bắt không dung, như chịu hòa dâm thì đem nhốt dưới hầm, bằng cải mạng thì giết ném xuống sông, trong mấy năm dư thường làm thói ấy, bây giờ đây hiện nơi dưới hầm nhốt hơn ba chục con gái, còn tôi vốn họ Phan tên Ngọc Thiền, cha là Ðức Huy, mẹ tôi là Hà thị ở tại Việt Tây thuộc Ngô Chiêu phủ, Thượng Ngô huyện, khi cha mẹ tôi còn song toàn đến xứ này buôn bán, chẳng may cha tôi lâm bịnh bõ mình thì mẹ con tôi lo tẩn liệm đem quan tài đến bên chùa này đình trú đặng tụng kinh siêu độ, rồi sẽ hồi hương tống táng, chẳng ngờ bọn ác tăng thấy tôi có nhan sắc đem lòng dâm dục, cưởng bức, khi ấy tôi không chịu dâm ô với bọn nó, muốn tự ải, may nhờ có thần thánh mách bão cho tôi nên nhân lập kế nói dối cùng bọn nó chờ mản tang sẽ ưng thuận việc vợ chồng, còn mẹ tôi bị chúng nó đập chết tha trôi sông. Bởi việc oan ức ấy, nên tôi thường van vái, xin phật tổ Như Lai ủng hộ thoát thân đặng minh oan báo oán, thì hộ pháp thần nhơn có mách bảo dặn rằng :

                    - Chừng nào sen đá này nở, thì có thánh chúa lai lâm, nạn kia tiêu hóa.

                    Còn phần tôi mà được thong thả theo hầu hạ bọn nó đây, một là chúng nó sợ tôi chết nên bắt tôi cạo đầu làm đạo đồng đặng che mắt thế gian, hai là không sợ tôi trốn, vì chúng nó biết xứ nầy tôi không có thân thích bà con chi. Vậy xin Bệ hạ rộng tình hà hải, trước là cứu ba chục mạng con gái nhốt dưới hầm, sau nữa cứu thân tôi khỏi hại.

                    Vua nghe các sự tình liền nổi giận vừa muốn nói, xảy thấy Yến Nguyệt huề thượng đi tới, nên ẩn nhẩn làm thinh, còn tên đạo đồng làm bộ giả lả, phôi pha gắng gượng chào mừng, rồi nói lảng sang hoa sen đá nở bông, Yến Nguyệt huề thượng nghe nói thất kinh, bèn nghỉ thầm rằng :

                    - Ðêm nọ thổ địa có mách bảo cho ta hay, đến giờ ngọ ngày nay có Thiên tử lai lâm đến chơi thì sen đá nở bông, và dặn dò ta chớ nên âm mưu ám hại, nếu cải thì chết cả chùa, song coi bộ tên đạo đồng con mắt khóc còn ướt khóe; ắt là sự nầy đã lâu cơ quan rồi, chớ chẳng những, nếu ta nay không hại người thì người ắt hại ta.

                    Bèn quyết ý không dung, nên làm bộ mơn trớn vỗ về một cách ân cần, rồi thĩnh vua lên lầu ăn mừng về sự bông sen đá nở.

                    Vua đáp rằng :

                    - Ta vốn không ân đức chi mà huề thượng trọng đãi hết lòng dường ấy.

                    Nói rồi xin cáo từ lui gót.

                    Huề thượng sợ để người về thì họa ấy sẽ đến cho mình, bèn lấy lời nhỏ ngọt dịu hết lòng khuyên mời vua đến lầu nhậm dùng một bửa cơm chạy lấy thảo.

                    Khi tên đạo đồng nghe mời vua đến lầu thì thất kinh chắc là nó có ý mưu hại mà giết vua ! (Nguyên lầu nầy tạo ra một nơi rất hung hiễm, ai lạ vào đó không biết đường đi nước bước thì chắc chết ).

                    Tên đạo đồng liền nghĩ rằng :

                    - Nay ta thông thạo từng quen đường sá, lại nhờ nó dạy ta võ nghệ tinh thông, nếu Thiên tử nhậm lời mời thì sẽ bị hại, ta nở khoanh tay mà ngó cho đành hay sao ?

                    Bèn chạy tuốt về phòng nai nịt đem theo binh khí theo mình một cặp song kiếm và hai cây thước sắt đặng theo vua mà ám trợ lúc hiểm nguy.

                    Khi tiệc chạy dọn rồi , bọn ác tăng vào thưa lại cho huề thượng Yến Nguyệt hay đặng mời vua dự tiệc.

                    Khi ấy huề thượng làm bộ ân cần mời vua đi.

                    Cực chẳng đã vua phải theo chớ trong lòng giận lắm mà ngặt có một mình khó nổi cự đương, nên kiên nhẫn làm bộ vui mừng chớ trong lòng không muốn đi dự tiệc chút nào.

                    Khi vua bước đến lầu thì đường đi quanh lộn hiểm trở vô cùng khó mà nhìn đường ra được, song thấy có đạo đồng ấy theo bên mình cũng bớt lo nên gắng gượng đến nơi, thấy bốn phía rất nên kínn đáo, gió vô không lọt, còn giữa căn. lầu có dọn tiệc chay rực rỡ, khi nhập tiệc huề thượng cố ý mời vua uống cho say đặng dễ hạ thủ, song vua biết trước nên cầm chừng đôi ba ly rồi đứng dậy xin kiếu, Yến Nguyệt huề thượng thấy sự không xuôi bèn rút đại đao ra làm hiệu lịnh, thì ba chục tên ác tăng cầm khí giái xốc lên lầu, bộ tướng hăm hở như cọp bắt người, khi ấy vua thất kinh vì hai tay không, không có khí giái khống cự, may nhờ tên đạo đồng là Phan Ngọc Thiền trao cặp song kiếm cho vua và tâu rằng :

                    - Khá theo tôi dắt đường đánh nhầu xuống lầu thì vô hại.

                    Vua cả mừng, cầm song kiếm chỉ bọn ác tăng mắng rằng. :

                    - Tội bây đãa đầy tràn chết đừng than thở.

                    Yến Nguyệt huề thượng nghiến răng mắng tên đạo đồng rằng :

                    - Mi là đồ khốn kiếp, ta nguyền giết ngươi mới tiêu hoạn hậu.

                    Bèn truyền lịnh các môn đồ ngăn giử nẻo yếu lộ cho nghiêm nhặt chờ cho vua và tên đạo đồng ra khỏi, rồi huơi đại đạo chém nhầu lới.

                    Ngọc Thiền lấy cặp thước sắt chống cự, còn vua thì dùng cặp song kiếm đánh với bọn ác tăng.

                    Nguyên vua võ nghệ siêu quần lại thêm sức mạnh, nên bọn ác tăng lại không đặng, lúc hổn chiến vua giết hết vài mạng, song đồ bịnh khí của Yến Nguyệt sắm rất nặng, lại cả chùa thì đông nên quả bất địch chúng, vua phải vừa đánh vừa thối lui, nhờ có Ngọc Thiền biết đường sanh lộ, dắt vua lánh nẻo gai chông, tránh nơi hầm hố, Còn Yến Nguyệt huề thượng rượt theo khẩn cấp, trên đánh xuống dưới đánh lên quyết giết cho đặng vua, phần thì trời đã tối, noi theo đường thang lầu quanh lộn, tối mịt nhờ ở trong hang, vua và Ngọc Thiền ráng sức đánh ra chẳng thấu, rất nên nguy cấp.

                    Nhựt Thanh ở tại tiệm uống thuốc, dưỡng bịnh cũng chưa được mạnh, đang có lòng trông vua, vì vua đi vô chùa chơi từ sớm mai đến tối không thấy về, bèn nói với Ngộ Xuân đi kiếm giùm.

                    Ngộ Xuân hỏi thăm ngươi ta đi lần đến chùa vào chánh điện thấy không ai thì hồ nghi, liền đến hậu điện đặng tìm tăng nhơn mà hỏi, xảy thấy có một tên thầy chùa, mình mẩy đầy những máu, chạy thở hào hển, thì sanh nghi mới thộp bắt tra hỏi :

                    - Ngươi làm sao bị thương tích máu đầy mình, phải nói cho thiệt thì ta dung tánh mạng bằng giấu thì ta giết lập tức.

                    Tên ác tăng thưa hết đầu đuôi.

                    Ngộ Xuân thất kinh liền biểu tên thày chùa ấy dắt đến chổ đó, tên ác tăng sợ Ngộ Xuân giết nên phải dắt theo đường, quanh lộn gay go, khi gần đến nghe tiếng la chém giết om sòm, lại thấy có hai tên ác tăng cầm khí giái chận cửa lầu.

                    Ngộ Xuân nỗi xung cử quờn đá chết hai tên ác tăng ấy rồi tuốt lên lầu đánh chết quân giử các nẻo yếu lộ, khi đến nơi thì thấy lũ ác tăng đương vây đánh vua và tên đạo đồng thế gần nguy cấp, liền hét lớn một tiếng như sấm, nói :
                    - Ta là Ngộ Xuân đến cứu giá.

                    Khi vua thấy Ngộ Xuân tiếp chiến thì rất mừng, liền ráng sức hiệp với Ngộ Xuân đánh riết tới, lũ ác tăng chống cự không nỗi, còn Yến Nguyệt huề thượng bị Ngộ Xuân đoạt được khí giái rồi đá té nhào xuống đất.

                    Lủ ác tăng quì lạy xin dung tánh mạng.

                    Khi ấy vua sai tăng nhơn xuống hầm đem lũ con gái bị nhốt đó lên, Ngọc Thiền bèn tỏ cho bọn con gái ấy hay về sự vua đã trừ lũ ác tăng rồi.

                    Bọn con gái đồng cúi đầu lạy tạ ơn vua, và thuật chuyện bị ác tăng dâm ô.

                    Vua cả giận khiến Ngộ Xuân và Ngọc Thiền trói óc lũ ác tăng lại, rồi viết chiếu chỉ giao cho quan viên coi về tĩnh nầy xữ trảm, còn bọn con gái như ai còn cha mẹ thì được lảnh về, còn đứa nào không cha mẹ thì giao cho quan cấp cho mỗi đứa năm chục lượng bạc và gả lấy chồng, lại thưởng Ngọc Thiền một ngàn lượng bạc về sự có công hộ giá chẳng sợ hiểm nguy, khi ấy Ngọc Thiền lại tâu xin tình nguyện ở đó tu hành.

                    Vua hạ chỉ lựa chổ thanh nhàn u tịnh, cất am cho Ngọc Thiền tu, còn chùa Thạch Liên thì các quan phải lựa huề thượng cho có đạo đức mới được ở.

                    Vua lại dặn Ngộ Xuân ở đó hiệp với quan thi hành y như chiếu chỉ, rồi viết riêng một cái chiếu chỉ nữa giao cho Ngộ Xuân dặn để trong mình chờ khi về đến kinh, giao cho Lưu Dung thì sẽ trở nên vinh hiển, dặn dò xong xuôi vua liền dời gót về tiệm, dặn chủ tiệm như có ai đến hỏi thì nói ta đã dời gót qua Nam kinh rồi, khi ấy vua khiến Nhựt Thanh quảy đồ hành lý đến tiệm khác mà ngụ.
                    Nói về các quan đến nơi tuân ý thánh chỉ, hiệp với Ngộ Xuân chém sạch lũ ác tăng.

                    Khi Ngộ Xuân thi hành xong xuôi bèn từ biệt các quan xuống kinh.

                    Ấy là :

                    Dâm ô tội ác trả ghe ngày
                    Chẳng kíp thì chày cũng đến đây.

                    Comment


                    • #11
                      Hồi Thứ Mười Một


                      Gặp Thi ông, Thái Phương cướp thuyền
                      Tầm thánh giá, Bá Ðạt cứu giá


                      Nói về vua không muốn các quan nghinh tiếp bèn đi qua tiệm ngủ khác ngụ đở một hai ngày chờ Nhựt Thanh lành bịnh sẽ sang chơi nơi khác, tiệm ngủ nầy thì thuộc cửa hướng Nam, cận thành có một cái bến đò, tiệm nầy hiệu là Long khách điếm, Nhựt Thanh ở đó dưỡng bịnh, còn vua thì đi dạo chơi, sớm đi tối về bình yên vô sự, cách vài ngày Nhựt Thanh lành mạnh như xưa. Lúc ấy nhằm ngày mồng năm tháng năm, quan dân đồng thưởng giai tiết, đua bơi ghe phụng dưới sông ba ngày, rất nên vui đẹp, ghe đều kết bông hoa rực rỡ, treo màn trướng xuê xoang, vật thực rượu trà đem theo du ngoạn chẳng thiếu món chi, đua nhau trương buồm lướt sóng chật sông, các phú hộ tài tử và đĩ điếm đều mướn thuyền du ngoạn, ngủ âm, trống nhạc đầy sông inh ỏi.

                      Ngày ấy vua cùng Nhựt Thanh ăn cơm sớm đặng sửa soạn đi thưởng tiết Ðoan Dương, bèn đi thẳng đến bến đò mướn một chiếc thuyền kết nhưng bông hoa rực rỡ, các vật thực về phần chủ thuyền chịu, có cấp theo một đứa tiểu đồng để hầu hạ sai chát, giá mướn du ngoạn mỗi ngày mười lượng.

                      Vua cùng Nhựt Thanh xuống thuyền trương buồm thăng chỉ giòng sông ; thấy thuyền buồm vô số, ngủ âm nhạc trổi vang tai, pháo đốt mịt sông, thuyền bè liên kết rực rỡ, chẳng khác chốn thị thành, buồm gấm huê thuyền chói lòa mặt nước, xa xem vọi vọi thấy cãnh núi Kim Sơn, chót núi liên tiếp với mày, đá rạng lố hình, vua xem rất nên toại chí, xảy nghe tiếng nhạc đến trỏi bên tai, pháo vang trước mặt, bèn day lại thấy một chiếc thuyền phụng, vẽ đũ năm màu, bề dài mười trượng, rộng lớn hai tầm, phân ra ba từng, lướt sóng chạy đến ồ ồ, như ngựa sải trên bờ, khi thuyền ấy xông lướt kề khít thuyền vua, vua thấy ro ràng, từng trên treo đồ kiển ngoạn rất xinh, màn trướng kim tòng xích tụi treo khắp. Còn hai bên hông thuyền gấm trương làm cánh phụng để bọc gió bôn đằng trên mặt nước ; từng giữa cũng bài trì huê dạng chẳng kém từng trên, lại có treo một tấm liển hứng nhơn đổ thi thỉnh giáo, nghĩa là rao ai có tài làm thi hay thì trọng thưởng. Vua thấy vậy ngứa nghề bèn hối bạn bắc đòn dài rồi dắt Nhựt Thanh qua thuyền phụng ấy, khi qua đến nơi, thấy trên án treo những khăn, quạt, giày vớ, ống điếu, bình ngọc thạch, cùng các món đồ chơi khác kể không xiết, các món nói đây là để thưởng kẻ tài cao học rộng, lại thấy trên bàn giấy viết mực và đề mục làm thi phú, cùng liển đối chẳng thiếu chi, văn nhơn tài tử tại đó cũng đông, lăng xăng tranh tài giành thưởng. Khi ấy có hai người làm chũ, hay về việc khão thi phú, lật đật đứng dậy chào mừng vua và Nhựt Thanh rồi thết đãi trà nước xong rồi, vua hỏi rằng :

                      - Chẳng hay hai ông tên là chi và nhà cửa ở đâu mà bày cuộc chơi có ích như vầy ?

                      Bọn tôi rất đẹp lòng.

                      Người thứ nhứt thưa rằng :

                      - Tôi họ Trần tên Ngọc Trì, con quan Huyện trấn nhậm tại tỉnh nầy, quê quán ở tỉnh Quảng Ðông, huyện Phan Ngung, còn người này họ Tiêu tên Hồng, bà con cô cậu với tôi, tỉnh Phước Kiến, thi đậu về Thám Huê, nhơn về thăm bà con, đi đến đây gặp tiết Ðoan Dương, nên ở lại với tôi ngoạn thưởng tiết lành, tuy là đậu võ Thám Huê song việc văn cũng thạo ; nên bọn chúng tôi nương dịp tốt này bày cuộc văn chương ra đây, đặng tìm trang tài tử trước là kết bầu bạn, sau học thêm cho rõ đạo Khổng trình.

                      Vua nghe nói cả mừng, bèn vưng chịu các việc đã tỏ đây. Nguyên vua là đại tiên ở cỏi trên, lâm phàm trị thế, tài cao học rộng bác lãm thi thơ, nên không tị hiềm sự chơi nhỏ mọn ấy. Bèn lảnh đề mục làm thơ về sự ngọc Hà châu, bốn câu như vầy :

                      Hà châu vật báu bởi trời sinh
                      Ánh dọi sáng lòa tợ Ðẩu tinh
                      Mường tượng hột sương gieo ngọn cỏ
                      Giống hình giọt nước điểm bông quỳnh

                      Vua làm không nháy mắt đã rồi, giao cho hai ông thị chứng xem, thấy chữ viết như cù giởn sóng, giống phụng múa đền Nam và lời nói hay vô giá, trang nhả vô cùng, cả khen, liền lấy quạt khăn mà tặng thưởng, khi ấy Nhựt Thanh hứng chí, bèn xin lảnh đề mục làm một bài thơ nói về tiết Ðoan Dương đi chơi phụng thuyền. Tám câu như vầy :

                      Ðoan Dương tiết đến cảnh khoe tươi
                      Thuyền phụng vầy đoàn tách dặm khơi
                      Buồm gấm trải giăng ngời mặt xước
                      Ðèn lé tỏ rạng ảnh da trời
                      Dập dìu tài tử chen đua bút
                      Inh ỏi nhạc thiều tiếng kẻ còi
                      Chẳng khác du xuân ngày tái ngộ
                      Cuộc vui trăm họ đáng ngàn thoi

                      Hai người thị sự thấy thơ Nhựt Thanh làm cũng hay so tài cao bặt thiệp thì thua vua, liền thưởng tặng các món đồ chơi.

                      Nhựt Thanh đều thâu chấp. Hai người liền xin vua đặt giùm ít đôi liền đối.

                      Vua chẳng từ nan liền cất bút viết bốn câu đối như vầy :

                      1 - Ðèn rạng đêm đông họ Hạ Hầu đọc Xuân thu truyện.
                      Nắng ngời ngày hạ người Nam Kinh hát cuộc Tây tương

                      2 - Củi táo gói khiêng đứt đoạn một lần thành bốn bó
                      Cột nhà ba trụ giao nguyên trọn cuộc đặng hai căn.

                      3 - Bảy dậm sơn trường đi bán lẻ đường kia ba dặm rưỡi.
                      Chín khe mang động quá trung khe khi ấy bốn khe dư.

                      4 - Tây tích, tích Tây ba tháp cảnh chùa, chùa ba tháp
                      Bắc Kinh, kinh Bắc năm tòa non núi, núi năm từng.

                      Vua làm bốn câu đối vừa, liền làm luôn bài thơ bốn câu nói về cảnh chùa Kim Sơn như vầy :

                      Kim Sơn đồ sộ ngó vơi vơi
                      Liên tiếp Hoài dương cũng một trời
                      Văng vẳng chuông ngân kình bặt dấu
                      Ngọc tiêu trổi tiếng ngọc tuôn rơi

                      Bốn câu thơ nầy rồi, vua làm luôn một bài tám câu về bông sự với trăng (huê nguyệt) như vầy :

                      Huê thơm nguyệt rạng lưỡng tương nghi
                      Thương nguyệt chạnh huê trái thữa thì
                      Trăng lặn huê tàn ngơi chén rượu
                      Huê tàn trăng lặn bặt hơi thi
                      Trăng lờ huê ũ lòng ngao ngán
                      Huê phát trăng tròn hội khã vi
                      Nhớ thuở dưới trăng ngâm vịnh phú
                      Vầy cùng huê nguyệt giải sầu bi

                      Chư nhơn tài tử xúm xem các văn từ của vua làm đều khen rộ, và nói với vua rằng :

                      - Tài tiên sanh đường ấy, thật là trong thiên hạ có một mà thôi.

                      Khi ấy hai người thị sự là Trần Ngọc Trì và Tiêu Hồng tặng thêm các vật vô số ; Nhựt Thanh lấy làm vui mừng đắc chí. Chẳng ngờ có một Công tữ tên là Thái Phương, con quan Tam giang Tổng trấn, học hành cũng đã lâu năm biết quẹt lọ ít chữ thấy Nhựt Thanh thâu lấy đồ tặng thưởng nhiều thì nột ý, một là chẳng ai đếm xĩa đến mình, hai là văn từ đề mục, thi phú mắc lắm làm chẳng đặng câu nào, xét vậy càng thêm mắc cở, trước là hỗ với các thi nhân, sau là hổ cùng kẻ hầu hạ của mình, lại thấy Nhựt Thanh hân hoan, đắc chí làm vậy thì cả giận, bèn nói với Nhựt Thanh rằng :

                      - Ta xem bài thơ mầy làm du ngoạn phụng thuyền chơi cảnh Ðoan Dương nầy, xét ra cho kỷ chẳng hay chút nào, theo ý ta thì không thưởng mầy một món cóc rác gì hết, nay mầy lảnh được của tặng ấy, là bởi người ta vị tình mà cho, mầy chớ nên mừng mà vinh mặt vinh mày . Nhựt Thanh nghe Thái Phương mắng nhiếc thì mắc cở, bèn nổi xung mà nói :

                      - Ta cũng mi vốn không quen không biết, sao lại dám cả gan nhục mạ ta, như ngươi nói giỏi lấy lảnh đề mục lành thơ một người một bài, nếu ngươi hơn ta thì của tặng nầy sẽ để lại cho mi, bằng thua thì theo ta mà mang gói.

                      Vua thấy hai người rầy lộn cải lẩy với nhau e sanh oán thù, bèn lấy lời ngọt dịu can dứt hai đàng, thì Thái Phương mắc cở lui gót xuống thuyền nhỏ mà về.

                      Khi ấy Trần Ngọc Trì nói :

                      - Nó là đứa hay sanh sự thù vặt hại người, nay nó đã kết oán, xin nhị vị tiên sanh phải cẩn thận giữ mình kẻo lâm hại ngày sau.

                      Vua bèn hỏi :

                      - Vậy chớ người ấy con ai mà cang cường ngang dọc lắm vậy ?

                      Ngọc Trì liền tỏ căn do gốc tính và tên họ nó cho vua nghe :

                      - Bởi nó ỷ thế cha nó quyền hành lớn hại người như cỏ rác, coi phép nước như không, dân tình đều sợ nó như cọp, còn cha nó hay nghe lời làm thiệt hại dân ; mỗi khi bắt người hảm hại giao cho cha tôi xử đoán, thì cha tôi kiếm thế bào chửa cứu người, tâm như thiết thạch, cầm mực nhắc cân, thương dân như con, chẳng sợ quyền thế ấy chút nào, nên cha con có lòng hờn giận mà không tỏ ra. Bởi vậy hai anh em tôi đây không ưa bọn nó.

                      Vua nghe Ngọc Trì tỏ các điều ác của cha con Thái Phương thì ghi dạ, rồi nói :

                      - Ai làm dữ nấy lo, bọn ta cứ việc vui chơi ngày nay thì hơn. Nay tôi xem hai ông là người văn vật, có lẻ thi phú rất hay, xin hãy bày lời châu ngọc vạch mở trí ra, chẳng hay nhị vị khứng cùng chăng ?

                      Hai người cùng đáp rằng :
                      - Tiên sanh dạy bảo, bọn tôi há chẳng nghe lời sao.

                      Bèn xin ra đề.

                      Nhựt Thanh nói :

                      - Cứ theo để huê nguyệt ấy làm.

                      Hai người vưng lời, rồi cất bút viết liền chẳng suy nghĩ chút nào, bài thơ Trần Ngọc Trì làm tám câu như vầy :

                      Gương trăng ảnh dọi thấu lòng huê
                      Rực rỡ mình huê ngó chỉnh tề
                      Mây tỏ ủ màu huê với nguyệt
                      Bóng tùng ám sắc nguyệt cùng huê
                      Riêng hờn mây kéo che hình nguyệt
                      Căm hận tàng cao phủ đóa huê
                      Thi phú cầm chừng trông thức nguyệt
                      Vài hồ tiển hứng ngóng màu huê

                      Tiêu Hồng cũng làm một bài tám câu theo đề như vầy :

                      Trăng thanh giãi muộn hứng tình huê
                      Ðôi cụm chói ra tợ má kề
                      Huê hứng gương trăng xem hớn hở
                      Bông chào đuốc nguyệt ngó tê mê
                      Cụm huê gió thỗi hơi ngàn dặm
                      Vừng nguyệt mây che ủ bốn bề
                      Với hỏi ả Hằng sao lỉnh lảng
                      Ðể cho hoa chịu tiếng đồn chê

                      Vua xem hai bài thơ tuồng chủ viết như dao cắt, lời nói thanh tân trang nhả thì có lòng mừng, khen vô cùng, bèn nói :

                      - Thơ hai ông làm hay hơn của bọn tôi thập bội.

                      Trần Ngọc Trì và Tiêu Hồng khiêm nhường thưa :

                      - Chúng tôi học hành sơ lược, đâu dám sánh cùng nhị vị tiên sanh, xin rộng tình chỉ dẩn ít nhiều ơn ấy cảm đội vô cùng.

                      Khi còn đang chuyện trò thì trời đã tối, vua muốn cáo từ lui gót, thì Ngọc Trì và Tiêu Hồng. lưu luyến cầm vua và Nhựt Thanh ở lại vui chơi một tiệc.

                      Vua thấy hai người có lòng lưu luyến bèn ở lại làm thi chơi long phụng thuyền, kế tiệc xong đồng vui vầy hoan lạc, vua dùng kinh điển, sách vở mấy chổ khúc mắc, viễn vọng u thâm bạch hỏi, hai người đối đáp như lưu lại bặt thiệp vô cùng, chuyện trò cùng nhau rất ưng ý. Khi mản tiệc vua liền từ biệt ra về chổ ngủ, và hẹn ước. Rồi sẽ đến tương hội đàm đạo cùng nhau giải muộn .

                      Rạng ngày vua cùng Nhựt Thanh nhớ lời hẹn; bèn ăn cơm sớm tuốt qua cửa Nam môn đến bến đò, xảy gặp Thái Phương đang hỏi mướn chiếc thuyền của vua đã mướn đi chơi hôm qua, thì chủ thuyền không muốn cho Thái Phương mướn, vì nó biết Thái Phương hẹp hòi bụng xấu, trả tiền ít nên nó làm lơ, kế đó thấy vua và Nhựt Thanh đi đến, thì nó lật đật đón rước nói rằng :

                      - Hôm qua hai ông dặn tôi đậu thuyền tại đây chờ hai ông, nay quả như lời, xin hai ông
                      xuống đi chơi cho sớm, tự ý hai ông trả tiền mướn ít nhiều tôi không nệ.

                      Khi ấy Thái Phương thấy chỉ thuyền mừng rỡ đón rước hai người gây lộn với va hôm qua một cách rất cung kính, còn va thì nó coi không ra gì, liền nổi xung mắng rằng :

                      - Bớ thằng đó, mầy là đứa khốn kiếp, sao mày dám khinh bạc tao ? Vậy chớ hai người đó có tiền, còn tao đây không tiền hay sao, mầy không cho tao mướn, số mầy chếi tại tay tao nên khiến cho mấy khi dể tao dường ấy.

                      Tên chủ đò sợ hoảng kinh, cúi đầu lạy thưa rằng :

                      - Tôi đâu dám khi dễ Công tử, bởi vì tôi dã hứa hồi hôm qua cho hai ông đó mướn lỡ rồi, xin Công tử xét lại tha tội cho tôi nhờ.

                      Thái Phương trợn mắt quyết tình không dung, bèn khiến mấy tay thủ hạ rằng :

                      - Áp bửa thuyền nó rồi đập chết nó đi.

                      Mấy tên thủ hạ vâng lời áp lại làm dữ, tên chủ đò thất kinh cúi đầu lạy mãi.

                      Vua thấy sự bất bình như vậy liền nổi xung. Còn Nhựt Thanh cả giận nạt lên một tiếng, rồi xông vào cứu chửa, đánh bọn ấy ngã lăn, đứa thì gảy tay, đứa thì bể đầu.

                      Thái Phương liệu bề không xuôi vừa muốn chạy trốn, bị Nhựt Thanh đá một đá nhào xuống đất, hộc máu chết giấc ; Nhựt Thanh cố ý đánh chết đặng trả thù hôm qua.

                      Vua thấy vậy kéo lại không cho đánh nữa, vì sợ Nhựt Thanh giận đánh chết thì sanh ra sự khó lòng. Vua liền dắt Nhựt Thanh đi đến chổ khác, kiếm thuyền mướn đặng đến hội diện với Trần Ngọc Trì và Tiêu Hồng kẻo thất ước, nhưng mà mướn thuyền không được nên còn đi thơ thẩn lui chổ đánh hồi nảy đó.

                      Còn tên chủ đò sợ bị tội, bỏ đò cuốn gói trốn mất.

                      Ðây nói về Tam giang Tổng trấn tên là Thái Chấn Võ đương ngồi tại nhà giởn với các hầu thiếp, xãy thấy quân hào hển chạy về bị thương tích dập mặt lổ đầu, còn con mình là Thái Phương máu mủ đầy mình đi không được nhờ quân lính cõng về.

                      Khi ấy Thái Phương nói :

                      - Xin cha đem quân đi bắt kẻ cường đồ báo cừu cho con.

                      Chấn Võ thất kinh ôm con mà khóc và hỏi :

                      - Vậy chớ ai đánh con ra thân thể như vầy, hãy nói cho cha đi bắt lũ ấy.
                      Thái Phương nhào lăn khóc và tỏ các sự tích ấy cho Chấn Võ nghe.

                      Chấn Võ nghe nói nổi xung, bèn phát lịnh tiển cho quân binh đi bắt cường đồ ; Chấn Võ bổn thân dẩn một trăm quân cầm khí giới và năm sắc cờ, thẳng riết đến bến đò.

                      Khi ấy phố phường đóng cửa chặc cứng, đường sá chẳng ai dám đi.

                      Khi Chấn Võ đem quân đến nơi thì không thấy ai hết, thấy có một chiếc đò kéo để trên bờ đó.

                      Chấn Võ sợ cường đồ thoát khỏi qua sông, liền sai quân đến Tam giang quan nói cho đạo binh thủy đặng ngừa đón, còn Chấn Võ thì dẫn quân đi riết theo mé sông, gặp hai ngươi còn đi thơ thẩn thì quân đã bị đánh khi nảy nhìn biết mặt liền hô lên rằng :

                      - Lũ cường đồ kia cà !

                      Quân nghe hò liền áp ta phủ vây.
                      Lúc ấy quân lính áp tới thình lình, còn vua thì tay không cự chẳng lại.

                      Nhựt Thanh nhảy ào xuống sông lặn trốn ; vua thấy Nhựt Thanh thoát nạn rồi, bèn day lại đoạt binh khí của quân mà chống cự, chẳng dè bị giăng dây vấp chân té xuống, bị chúng nó bắt.

                      Thái Chấn Võ thấy quân bắt được côn đồ thì mừng lắm, liền khiến trói lại dẫn về nha, đi nữa đường gặp quân Huyện là Trần Tường, vốn là người ở tỉnh Quảng Ðông huyện Phan Ngung, thi đậu Thám Huê, tính hạnh thanh liêm, trăm họ đều kính mến người như cha mẹ. Nay tình cờ gặp Chấn Võ đem quân đi rất đông, khí giái rực rỡ, bộ tịch hâm hở , dường thể giận ai, lại có bắt đặng một người hớn tử, diện mạo đường đường, chẳng phải tay du thủ, thì nghĩ rằng :

                      - Hớn tữ này bị nó bắt ắt là gia hại chớ chẳng không. Chi bằng ta lập kế lảnh về tra vấn, đặng kiếm kế tha kẻo tội nghiệp.
                      Tính rồi bèn xuống kiệu lướt thẳng vào vòng quân ra mắt Chấn Võ.

                      Khi ấy Chấn Võ đang ngồi trên ngựa, bộ rất oai nghi, sắc diện giận dữ chẳng vui, song Trần Tường không nao sợ chút nào, đứng trước đầu ngựa vòng tay thưa rằng :

                      - Xin ngài dừng ngựa cho tôi bẩm gởi một điều.
                      (Nguyên Chấn Võ với Trần Tường không tương đắc cùng nhau, còn Chấn Võ hằng lo hại Trần Tường, song thấy Trần Tường làm quan rất thanh liêm, dân tình yêu mến, nên khó nổi ra tay, lại Trần Tường chẳng phải là quan võ không thuộc về tay va sai cắt, tính thế hại không được nên phát làm lơ).

                      Nay gặp Trần Tường chận hỏi cực chẳng đả phải xuống ngựa đáp lể rồi nói rằng :

                      - Chẳng hay quan huyện có việc chi gấp rút đón ta lại hỏi, sao chẳng đến nhà đàm luận ?

                      Trần Tường đáp rằng :

                      - Nhơn vì tình cờ gặp ngài dẫn quân lính về đến đây, lại có bắt được một người, chẳng hay phạm tội chi, xin ngài tỏ cho tôi biết, rồi giao người ấy cho tôi đem về nha nghiệm hình tra hỏi thế cho ngài, ước đặng chăng ?

                      Thái Chấn Võ nghe nói thì cười rằng :

                      - Ta đâu dám làm nhọc trì ông. Nguyên người nầy to gan lớn mật chẳng nể phép vua, đánh con ta hộc máu chết giấc tại huê thuyền, lại đánh quân lính dập mặt lổ đầu, vốn nó hai đứa, nay bắt đặng một, còn thằng kia nhãy xuống sông trốn mất, nay ta bắt nó đem về nha tra khảo cho ra người chủ chốt đồng mưu xúi nó, như chiếu theo luật hình thì tội nầy nặng lắm, nên ta khó nổi giao cho ông phán đoán.

                      Nói rồi giục ngựa ra đi.

                      Quan Huyện giận nói rằng :

                      - Vả chăng tên nầy là dân chớ không phải là quân lính, như quân lính thì về phần ngài cai quản, còn như dân tình cùng người thương khách thì tôi xử đoán, dẩu thiệt kẻ cường đồ đánh con ngài hay là phạm đến nhà quốc thích có bằng cớ đành rành, thì chiếu theo luật trị tội, há ỷ thế làm ngang, hãm hại kẻ mồ côi được sao ? Vậy xin ngài hãy xét lại.

                      Nói rồi bèn kiếu ra về, khi ấy Chấn Võ thấy quan huyện nói bấy nhiêu lời, thấm mật nhằm lý, và thấy quan Huyện giận bỏ đi thì bước lại nắm tay quan huyện cười lớn nói :

                      - Theo lời ông công luận rất nhằm, xin nhờ ông tra xét dùm cho ra lẻ, và khán dùm luật nghiệm tang tích con tôi và mấy tên quân bị thương tích.
                      Quan Huyện nói :

                      - Việc ấy là bổn phận tôi phải lo, xin ngài chớ ngại.

                      Nói rồi lảnh kẻ phạm tội về nhà.

                      Rạng ngày Thái Chấn Võ sai quân mời quan Huyện đến khán luật nghiệm và có quan Phủ tại tĩnh đến chứng.

                      Khi khán tang tích rồi quan Huyện kiếu ra về thì Chấn Võ căn dặn đôi ba phen về sự ấy xin phán đoán cho phân minh. Khi quan Huyện về tới nha suy nghĩ một mình, sực nhớ tới con mình có học chuyện rằng : Ngày nọ nó đi du thuyền gặp Cao Thiên Tứ, Nhựt Thanh làm thơ lấy làm tương đắc, nó lại khen hai người ấy cao tài rộng học, lại ngày ấy cũng có Thái Phương xen vô đó ỷ thế hiếp ngưới, nên gây lộn với Nhựt Thanh gần sanh ra sự dữ, nhớ con ta với Cao Thiên Tứ và Tiêu Hồng can gián mới khõi, nó lại khen Cao Thiên Tứ là người rất nên đoan chánh, ăn nói chỉnh tề, cốt cách phi phàm, nay sanh ra sự nầy, bởi tại Chấn Võ không nghiêm dạy con, để ra húng hiếp người, nay bị tay hào kiệt đánh gần chết, xét cũng đáng, bèn tính kế cứu người cho khỏi ngục, ngặt tang án còn đó khó nổi cứu tha.

                      Lúc ấy Ngọc Trì thấy lòng cha có ý muốn cứu người tài ngỏ thì thôi thúc cầu xin cha lập kế cứu người kẻo tội nghiệp, còn Tiêu Hồng cũng sẳn lòng cứu Cao Thiên Tứ, sẳn dịp ấy liền thưa với quan Huyện hay rằng :

                      - Xin dượng chớ lo, vã chăng từ ngày tôi ở kinh đi về, có gặp quan Tổng đốc Bá Ðạt đi do thám các tĩnh, nay nghe người đã đến tĩnh này, vậy dượng nương dịp ấy thát kế, để đình vụ nầy lại vài bửa sẽ hỏi, vì dượng lúc này mắc lo đi nghinh tiếp quan đại thần nhập cảnh, như vậy trì huởn ra được ít ngày, thì thương tích chúng nó sẽ hết, khi ấy dượng phóng xá Cao Thiên Tứ như chơi.

                      Ngọc Trì đáp rằng :

                      - Anh tính rất hay, song đã khán, nghiệm rồi làm sao cho tiện ?

                      Quan Huyện nói :

                      - Không can chi đâu mà con lo, như lời anh con tính đó rất hay.

                      Bèn kêu kẻ nha dịch dặn dò rằng :

                      - Như quan Thủ Bị có đến đây hỏi ta, thì bây thưa rằng ta mắc đi rước quan Tổng Ðốc vài ngày sẽ trở về xử đoán.

                      Ðây nói về Chấn Võ sai Thủ Bị đến nha, hiệp cùng quan Huyện phán đoán, chẳng dè khi đến nha thì kẻ nha dịch thưa lời cho quan Thũ Bị hay rằng :

                      - Quan Huyện mắc đi rước quan Tổng Ðốc vài bửa sẽ về.

                      Chấn Võ hay tin ấy thì nổi giận và sanh nghi cho quan Huyện làm chủ xúi giục côn đồ đánh con va, nên có ý diên trì đặng kiếm cớ cứu chửa, bèn tính kế dâng tờ mật cáo với quan Tổng Ðốc rằng :

                      - Trần Ngọc Trì là con quan Huyện, có thù hiềm với con tôi là Thái Phương nên mướn côn đồ đánh gần chết, nay quan Huyện có ý binh vực, không chịu tra xét thẩm án, lại muốn tha quân côn đồ.

                      Khi tờ mật cáo ấy chạy đến quan Ðốc Phủ là Trang Hữu Cung coi rồi lấy làm nghi ngại không biết chơn giả thể nào, vì thường nghe Trần Tường làm Huyện rất thanh liêm một mãy chẳng tham, thương dân như con, lẻ đâu lại làm tác tệ dường ấy, nên giao tờ mật cáo ấy cho Bá Ðạt coi, xin người dến Trấn Giang tra xét giùm.

                      Bá Ðạt nói :

                      -Ta ở đây đã lâu tìm kiếm Chúa thượng không được, ta có ý đến chổ khác đặng tìm, vậy luôn dịp này ta sẽ thi hành cận tiện hơn.

                      Nói rồi, bèn từ giả lên đường, các quan đưa đón một dặm đường mới trở lại, khi ấy quan Tổng Ðốc xuống thuyền thẳng qua Trấn Giang, đi dọc đàng có lòng tìm kiếm vua các chổ song bặt tin, khi vừa đến Trấn giang thấy văn võ các quan đến bến đò nghinh tiếp, ngài liền dạy các quan về nha làm việc, song mời một mình quan huyện Trần Ngọc Tường ở lại nha quan Tuần phũ mà thôi, khi ấy quan Tổng đốc mặc đồ thường mời quan Huyện ngồi một bên trò chuyện, quan Huyện thưa :

                      - Phận tôi nhỏ nhoi, đâu dám vô phép cùng ngồi với ngài, xin cho tôi đứng hầu.

                      Quan Tổng đốc nói :

                      - Không can chi phòng ngại, ta mời ngồi thì cứ ngồi đặng ta nói việc kín cho mà nghe.

                      Quan Huyện vâng lời ngồi một bên, quan Tổng Ðốc phán rằng :

                      - Nguyên ta đi tuần vảng dân tình ở tại phũ Trang Hữu Cung, người có đưa tờ mật cáo cũa Chấn Võ kiện ông cho ta coi, trong tờ ấy cáo rằng : Con ông với Công tử Thái Phương hai người có hiềm khích nhau, nên ông làm chủ mưu xúi bọn côn đồ đánh Thái Phương sút huyết gần chết, nay tên hung phạm ấy đã bắt đặng rồi, giao cho ông thẩm xét, mà ông không thẩm án, có ý tha đi, lẻ giả chơn ta chưa rõ, nên phải hỏi lại ông. Nguyên vụ ấy Trang đại nhơn cậy ta tra xét giùm và người lại có tỏ cho ta biết tánh hạnh ông làm quan rất thanh liêm, thương dân như con, không lẻ ông bỏ phép nước mà tư vị điều quấy, vậy công việc làm sao ông hảy nói hết cho tôi biết, không can chi phòng ngại.

                      Quan Huyện dứng dậy thuật hết các việc đầu đuôi rằng: Từ ngày con tôi là Trần Ngọc Trì và Tiêu Hồng du ngoạn phụng thuyền nhằm lúc Ðoan Dương, có gặp Cao Thiên Tứ và Nhựt Thanh ý hiệp tình đầu về sách vở, chẳng dè có xen Thái Phương vô dó, ỷ thế hỏn hào, gây lộn với Nhựt Thanh mới sanh ra sự đánh đập này. khi ấy tôi thấy Chấn Võ đem binh đi bắt được Cao Thiên Tứ, là người rất nên đường đường diện mạo, phẩm cách phi phàm, chẳng phải tay du thủ, tôi sợ nó đem về dinh ra tay độc thũ thì uổng đúng người ngay, nên tôì đón giành, lảnh đem về dinh, tôi tính bề tha cứu.

                      Quan Tổng Ðốc nghe nói tên phạm ấy là Cao Thiên Tứ, thì lật đật hỏi :

                      - Người ấy bây giờ giam cầm tại đâu, có bị thương tích chăng ?

                      Quan Huyện bẩm rằng :

                      - Không có thương tích chi cả và còn đương giam tại ngục và phần nha tôi canh giử.

                      Quan Tổng Ðốc bèn đuổi mấy tên quân hầu ra và nói cho với quan Huyện rằng :

                      - Thật ông là người nhơn đức, nguyên Cao Thiên Tứ ấy là tên của Thánh thượng giả danh đặng đi chơi Giang Nam đó, ta biết tên ấy là nhờ nhị vị đại thần Trần Hoàng Mưu Và Lưu Dung tỏ vẽ, nay ta phụng lịnh nhị vị đại thần đi do thám kiếm tìm Thánh thượng đặng rước về, đi đã lâu ngày mà kiếm không ra, may trời xui gặp tại đây xin ông hết lòng với nhà nước chớ cho ai hay, vậy ông hãy mau đến ngục rước về nhà ông, còn ta thay đồ hèn hạ sẽ lén đi sau đến đó ra mắt ngài.

                      Trần Tường nghe nói nữa mầng nữa sợ, bèn lật đật cáo lui tuốt về nhà nói rõ với con đến ngục giam mời Cao Thiên Tứ thẳng vào chổ tịnh phòng, khi đó Bá Ðạt đã đến chực hờ tại đó, còn cha con Trần Tường cúi đầu bái yết vua và quì móp dưới đất mà tâu rằng :

                      - Cha con chúng tôi nhục nhản, không rõ thánh thượng giáng lâm, để Bệ hạ đến thân cực khổ, tội đáng phân thây muôn đoạn, xin Bệ hạ rộng dung xét cho chúng tôi nhờ phần phước.

                      Vua phán rằng :

                      - Cha con Trần khanh không tội chi mà sợ, hãy dậy cho mau ra cửa ngoài ngăn giử đừng cho ai vào.

                      Cha con Trần Tường cám tạ ơn vua lui gót trở ra.

                      Khi ấy vua ngồi trên ghế giao kỷ còn Bá Ðạt quì mọp bái yết dưới đất ra mắt vua mà tâu :

                      - Kẻ hạ thần vâng lời Ðại học sĩ là Trần Hoàng Mưu và Lưu Dung, tầm thánh giá hồi kinh, sửa lo việc nước trị dân làm trọng, kẻo quân liêu có lòng kính trọng, còn Hoàng thái hậu luống trông, lo sợ mình rồng chẳng an quới thể.

                      Vua phán :

                      - Trong vài ngày ta sẽ phản giá hồi kinh, vậy khanh hãy đứng dậy chớ khá tâu nữa. Nay sẳn dịp gặp khanh đây, khá tua lảnh ý chĩ của trẫm, một là bắt nội nhà em của Diệp binh bộ ở tại Nam kinh, vì ngày trước nó sanh tâm cướp giá, khi bắt rồi thì giam cầm chúng nó tại thiên lao chờ trẫm về sẽ phân đoán. Còn cha con Chấn Võ tội ác đã đầy, chẳng nên dung tha, phải bắt giải đi cho Trang Hữu Cung kết án ; Trần Tường tri huyện làm quan thanh liêm ngay thẳng, có công cứu giá, sắc phong Tam giang Tổng Trấn, thế cho Chấn Võ, còn Tiêu Hồng đả đậu võ Thám Huê, võ nghệ tinh thông, phong làm Trung quân, hay việc quân vụ giúp việc cùng Tổng Trấn, chờ khi về quê quán thăm viếng bà con xong rồi sẽ thăng nhậm chức ấy. Phán rồi vua giao thánh chĩ cho Bá Ðạt hiệp cùng Trang Hữu Cung thi hành, an bài các việc rồi phục chỉ cho vua hay, vua dặn dò rồi ra đi.

                      Khi ấy Bá Ðạt và cha con Trần Tường lén đưa vua ra khỏi nha rồi trở lại, Bá Ðạt trao chiếu cho Trần Tường mà nói :

                      - Nay Bệ hạ thăng chức cho ông làm Tam giang Tổng Trấn, thế cho Chấn Võ bị cách chức và kết án.

                      Cha con quan Huyện cả mầng, liền bày hương án cảm tạ thánh ân, và tạ ơn Bá Ðạt có lòng ái mộ.

                      Khi ấy Bá Ðạt chẳng dám ở lâu vì có thánh chỉ ân cần mật sự, nên từ biệt Trần Tường xuống thuyền thẳng chỉ đến nhà Chấn Võ, truyền thánh chỉ ra, nả tra cả gia quyến Chấn Võ giải đến tĩnh thành.

                      Còn Trang Tuần phủ khi được chiếu chỉ vua, thì đi bắt cả nhà Diệp Hoằng Cơ giải nạp về kinh.

                      Ðây nói về vua ra khỏi nha huyện gặp Nhựt Thanh đương đi dọ thám tại đó, cha con bèn tỏ việc một hồi, rồi khiến Nhựt Thanh đi lấy đồ hành lý mướn thuyền thẳng qua Tòng Giang phủ, đi dọc đàng xem phong cảnh rất vui, xa xem thấy Ðộng Ðình hồ, cùng các cửa biển phong cảnh hơn sông rạch, lại thấy thuyền chài câu lưới kết đoàn lĩnh ngỉnh ngoài khơi.

                      Khi thuyền đến phủ Tòng giang, vua và Nhựt Thanh lên bờ ghé tiệm ngủ mà nghĩ một đêm, rạng ngày vua hỏi chủ tiệm rằng :

                      - Ta thường nghe tĩnh nầy có cá Lý ngư bốn tai ngon lắm, chẳng biết có quả như lời đồn chăng ?

                      Chủ tiệm cười mà đáp rằng :

                      - Xứ tôi đây thường có thứ cá ấy nhiều lắm, thật là vật quí, nhằm lúc tháng hai tháng ba thì có nhiều, nay khách quan đến đây không nhằm mùa tiết của nó, lúc nầy dầu có cũng khó gặp.

                      Vua nghe nói thì tiếc thầm rằng :

                      - Mình không có lộc ăn, nên đến đây chậm trể.

                      Rồi hỏi thăm chủ tiệm chỉ các chổ phong cảnh tốt ghi nhớ trong bụng, liền dẫn Nhựt Thanh đi chơi, thấy đường xá rộng rải lại nhiều, chợ búa kinh dinh đông giảo, phố xá nguy nga. Vua đi dạo xem phố phường tính cả thảy là 360 dảy, mỗi chổ đều chất hàng hóa dẩy đầy thì nghĩ thầm rằng :

                      - Hèn chi thiên hạ đồn xứ Tòng Giang nầy giàu có lớn chẳng sai.

                      Lúc trời vừa đứng bóng, vua thấy đồ vật thực dưới biển đem bán cho các tiệm rất nhiều, thì chăm chỉ coi có cá Lý ngư không, đặng mua ăn cho biết mùi ngon giống cá ấy ra thể nào, xảy thấy hai người bưng một cái mâm cây có đựng hai con cá Lý ngư thì trong lòng vui đẹp vô cùng, bèn kiến Nhựt Thanh kêu mua mắc rẻ chớ nài.

                      Tên bán cá đáp rằng :

                      - Thứ cá nầy lúc mùa Xuân chẳng thiếu gì và rẻ, còn lúc nầy trời nắng, nó trốn dưới đáy nước khó bắt. Vì có quan Phủ tân nhậm, đã có lời truyền dạy tôi hơn một tháng nay, phải ra sức bắt mà nạp cho ông bao nhiêu cũng mua, nên tôi không nài khó nhọc, xuống đáy biển may tầm được hai con, như khách quan muốn mua ăn cho biết mùi ngon thì mỗi con giá năm lượng bạc, bằng không tôi sẽ đem dưng nạp cho quan phủ.

                      Nói rồi liền bưng cá ra đi. Vua ưng chịu mua theo giá ấy, vì muốn biết mùi ngon không nài hao tốn. Khi vua vừa lấy bạc ra trả, xảy thấy một người đi tới, ăn mặc tề chỉnh, chơn đi giày, tay cầm quạt kim phiến, có vài tên gia đinh theo hầu, xốc lại nạt :

                      - Tháng bán cá, sao dám bán cá ấy, vì ta đã dặn mầy hơn một tháng rồi, nay bây ham tiền mà bán làm vậy, tội ắt không dung, hãy đem vô nha lập tức.

                      Lại nói :

                      - Còn hai tháng nầy, sao dám mua cá của ta ?

                      Hai tên bán cá nghe Công tử Luận Xương nói bấy nhiêu lời, thì hồn phi phách tán, liền cúi đầu lạy nói rằng :
                      - Tại hai người nầy cưỡng bức giành mua chớ tôi đâu dám bán. Xin gia gia thứ tội cho kẻ tiểu nhơn nhờ.

                      Công tử nghe nói nổi giận trợn mắt mắng vua và Nhựt Thanh rồi hối quân xách cá ra đi.

                      Khi ấy vua biết người ấy là con quan Tri phủ trấn nhậm Tòng giang, mặt mày hung ác chẳng phải kẻ tư văn.

                      Lúc ấy người ta xúm coi cũng đông khi thấy công tử Luận Xương đi rồi nói chuyện hỏi Vua rằng:
                      - Việc nầy rất may cho hai người khỏi bị bắt về nha trị tội.

                      Nguyên cha con Tri phủ từ ngày đáo nhậm xứ này, hơn một tháng nay, bõ qua việc nước, không xữ đoán vụ kiện thưa chút nào, cứ nghe lời con làm hại dân tình nhiều điều oan khúc, như có tiền lo thì may khỏi họa, nếu người còn trấn nhậm đây lâu ngày, thì ắt là trăm họ mang khốn đốn chớ chẳng không.

                      Vua nghe nói cả giận nghĩ thầm rằng :

                      - Việc mua cá nhỏ mọn bỏ qua thì phải, còn việc nó hại dân khó nổi làm ngơ.

                      Bèn tuốt theo giành cá lại nói :

                      - Cá nầy tuy ngươi dặn trước, song thằng bán cá đã chịu bán trước cho ta, ngươi phải chia hai cho ta.

                      Nói rồi khiến Nhựt Thanh giựt lại một con.

                      Luận Xương nổi giận hành hung, mắng :

                      - Bây là đồ chó con dám lừng lẩy đến trước miệng cọp trêu ngươi hay sao ?
                      Nói rồi hô quân tùy tùng áp bắt đem về nha trị tội, bị Nhựt Thanh đánh lũ ấy ngã lăn, Luận Xương thấy vậy áp vào binh, vì ỷ võ nghệ giỏi, dụng quờn thế kêu là Cao tháo mã đánh xuống, Nhựt Thanh tránh không kịp té nhào, Luận Xương nhãy đến chụp bắt Nhựt Thanh.

                      Vua thấy quờn thế Luận Xương mạnh dạn, liền lật đật dùng miếng tuyệt thủ đánh tới, trúng nhằm hạ nang lăn nhào dưới đất, kêu la om sòm.

                      Ấy là :

                      Thị phi vì bởi thài lai miệng.
                      Phiền muộn do nơi xướng đứng đầu

                      Comment


                      • #12
                        Hồi Thứ Mười Hai



                        Mua lý ngư giận đạp Luận Xương
                        Ðến thôn trang, nạp dùng hào kiệt



                        Khi vua nghinh địch sợ đánh không lại, xuất kỳ bất ý dùng quờn kêu là Âm dương quĩ khước, đá vào hạ nang Luận Xương té xuống đất tức la om sòm, mấy tên quân bị thua chạy lại cỏng đem về nhà, còn Nhựt Thanh lồm còm chổi dậy, hiệp cùng vua vuốt về tiệm ngủ lấy đồ hành lý, chạy được một đổi xa. (Khi vua chạy thoát khỏi là bởi cả xứ nầy đều ghét Luân Xương tàn bạo, nên không ai thèm ngó ngàng đến).

                        Ðây nói về Luận Thượng Chí là Tri phủ trấn nhậm xứ nầy, thấy con bị thương tích nặng, lật đật hối rước thầy hốt thuốc cứu chửa và sai quân nha dịch cầm khí giái đến chổ giao chiến bắt quân hung phạm, khi đến nơi thì không thấy bóng người, còn tiệm hai bên đóng cửa chặc cứng, liền tra hỏi mấy tiệm ở gần đó, mấy chủ tiệm nói: Khi nảy xúm đánh nhau tại đó, rồi chạy tản lạc hết, không biết người nào là tay hung thủ .

                        Tri phũ không biết tính làm sao bèn dẫn vài người chũ tiệm ở gần đó, đem về nha đặng hỏi thăm hình tích và đồ ăn mặc của tên côn đồ ấy, đặng mạc đồ hình, rao ai bắt đặng sẽ trọng thưởng.

                        Vua và Nhựt Thanh sợ quân lính vượt theo, nên chẳng dám noi theo đường cái mà chạy, cứ đường nhỏ mà chạy , ước đặng ba chục dậm thì trời đã tối, thấy nhà trong xóm cũng gần, bèn vào đó tả lúc, ai ngờ vô nhằm nhà Diêu Lân là con quan Tuần phủ trấn nhậm tỉnh Sơn Tây, tên là Diêu Quốc Thanh, quan này rất thanh liêm nên bá tánh ngợi danh người là Diêu Thanh Thiên.

                        Vua đã từng nghe danh tiếng người, thiên hạ ngợi khen đã lâu, còn Diêu công tử thì trọng nghĩa sơ tài, giao kết anh hùng trong bốn biển, nên khi vua mới đến chuyện vản sơ qua, xin ngủ nhờ một đêm, thì hai người hiệp tình ưa rất nếu tương đắc, rồi công tử với Nhựt Thanh, kết làm anh em, còn vua thì xưng hô là chú.

                        Công tử đải đằng một cách tử tế, khi ăn uống rồi, Diêu Lân bèn tỏ cùng vua rằng :

                        - Trong xứ nầy rằm Trung nguơn thiên hạ cúng lớn lắm, đèn đốt sáng trời, dưới sông thì làm thủy lục, cúng siêu độ âm hồn không nhà cửa nương dựa, rất nên vui lắm . Xin chú ỡ nán lại ít ngày để xem chơi cho biết.

                        Vua thấy Diêu công tử hảo tâm nên yên lòng ỡ đó vài ngày đặng coi lễ Trung nguơn.

                        Nói về tục xứ nầy cúng rằm Trung nguơn cũng như Thượng nguơn, các phố phường chưng đồ rực rở, đèn đốt sáng cả thành, ai nấy đều kình nhau chưng các vật chơi rất tốt, có ý khoe khoang là nhà giàu có, không ai cấm ai, quan dân đồng vui, trước là chúc nhà nước thanh bình, cuộc chơi này vui hơn tiết trung thu, còn dưới sông là giàn thũy lục chưng đũ các vật, ban ngày ngó rất lịch sự, tối lại đèn đốt sáng trời không thua gì trên bờ, thiên hạ già cả lớn bé dắt nhau đi coi vô số, nhứt là nấy kiển chúa thiên hạ đến đốt hương, đem tiền cúng thí nhiều lắm.

                        Có bài thơ như vầy :

                        Trung ngươn rộn rực phóng huê đăng
                        Tức nguyệt đua chen sáng khắp ngàn
                        Muôn cụm liên huê khoe mặt nước
                        Chín từng châu tháp rực vân đoan
                        Kim ngao ngọc tượng xem đồ sộ
                        Bửu điện đài diêu ngó rỡ ràng
                        Chúc tụng thanh bình an bốn bể
                        Quan dân vui đẹp thảy an nhàn

                        Từ ngày vua tá túc tại nhà Diêu Lân thì chủ khách tương đắc cùng nhau lắm, vì Diêu Lân tánh hay ưa người làm bậu bạn, nay gặp vua và Nhựt Thanh đồng chí nên kính yêu như ruột thịt, lại gặp dịp Trung ngươn cảnh tốt, nên mỗi ngày Diêu Lân và cha vợ là Vương thái công đều dọn tiệc thết đải vua và Nhựt Thanh một cách trọng hậu, khi thì chuyện vản sách vỡ thơ từ, khi lại luận đàm võ nghệ binh pháp, khiển tướng đề binh, bố trận, lúc rãnh thì cỡi ngựa xạ tiển, tập các môn võ nghệ giải muộn cho qua ngày tháng.

                        Diêu Lân thấy vua văn võ toàn tài hỏi đâu đáp đó, tài cao hơn người thì càng thêm phục, lại buồn phận mình gặp người tài muộn lắm vậy. Ngày lụn tháng qua xảy đến ngày rằm Trung nguơn, lại rủi tronh mình Diêu Lân dả dượi nên ngày ấy đi cùng vua không được, vua đem theo vài đứa gia đinh và Nhựt Thanh thẳng đến thành thị thấy đèn thắp sáng trời coi rực rỡ. Khi đến đó đang lúc canh hai, bốn cửa thành đều mở thông thương, sánh với các chổ thì chổ nầy xinh đẹp hơn hết, đương lúc thiên hạ đông đảo vui đẹp, vua khoái ý nên quên sự nhơn mạng đánh Luận Xương gần chết tại đây ngày trước. Khi ấy vua giao ngựa cho một đứa gia đinh giử rồi dắt Nhựt Thanh đi bộ dài theo phố, thấy bài trí nhiều đèn tết lạ, kế đến các cửa chùa thấy càng xinh tốt hơn nữa, chưng đồ rất đẹp và khéo lạ vô cùng, chẳng dè đi lần đến cửa phủ Tòng Giang mà không hay.

                        Ðương lúc xem chơi, xãy gặp mấy tên thủ hạ đi theo hầu Luận Xương hồi trước, chúng nó biết mặt vua liền chạy vào báo cho Luận Thượng Chí hay .

                        Khi ấy Thượng Chí đang buồn rầu vì sự con bị đánh trọng bịnh uống thuốc không nhẹ, xảy nghe quân báo, bèn truyền đóng cửa thành lại cho chặc, và thông tin cho bên võ dinh đem binh đến bắt vua và Nhựt Thanh.

                        Khi ấy vua và Nhựt Thanh trở tay không kịp vì thình lình quân áp đến đông lắm, phần uống rượu đã nhiều, nên yếu sức chống cự chẳng lại, cả hai đều bị bắt, còn tên gia đinh đi theo vua đó, thấy sự thể không xong chạy trốn mất.

                        Khi Thượng Chí bắt được vua và Nhựt Thanh dẫn về nha tra hỏi, rủi bị bổn phủ thành hoàng chỉ xói vô bụng . Thượng Chí đau quá nên tra khảo không được phải giam lại ngục hình, vì chư vị Thành hoàng sợ nó làm thiệt hại cho vua nên phải ngăn trở như vậy đặng kiếm người cứu giá.

                        Qua ngày sau Thượng Chí ra khách thì bụng càng đau hơn nữa, nên phải dẹp vụ ấy lại đó.

                        Nói về tên gia đinh chạy trốn núp trong nhà dân chúng, chờ đến canh năm tuốt ra khỏi thành gặp thằng giử ngựa của vua, liền rũ nhau trở về phủ Diêu Lân phi báo.

                        Diêu Lân thất kinh cả giận mắng Luận Thượng Chí là đồ ô quan, tham công hiếp người, làm việc trái phép, dám bắt chú và em mình giam cầm không kể đến mình, bèn thưa lại cho cha vợ là Vương thái công coi liệu tính lẽ nào.

                        Vương thái công nói :

                        - Con chớ khá nóng, hãy lấy lễ nghĩa, viết thơ tỏ cho Thượng Chí hay, như êm thì tốt, còn như nghịch thì sẽ dụng binh mà cứu không muộn gì.

                        Diêu Lân nghe theo lời cha, viết thơ xong rồi sai Diêu Ðức cởi ngựa, đem giao cho Thượng Chí.

                        Khi Thượng Chí đang dưỡng bịnh, xảy đặng thơ Diêu Lân gởi đến bèn gắng gượng chổi dậy xé thơ coi thấy như vầy :

                        Kính bẩm quan Phủ rõ, vả chăng Cao Thiên Tứ và Nhựt Thanh là bà con quen biết với tôi, nay hai người vào thành du ngoạn, coi phóng huê đăng bị ngài bắt giam cầm tại ngục, chẳng hay phạm tội gì ? Nguyên hai ngườii này của cha tôi sai về thăm gia quyến nay đã đúng một tháng không bước cẳng ra khỏi nhà, tưởng việc này nha dịch bắt lầm, bởi việc án mạng cần kíp nên bắt người lạ mặt đặng kết án nghiêm hình cho mau rồi, nếu làm như thế rất hàm oan, xin đại nhơn rộng lòng tưởng tình cha con tôi, tha người làm phước.

                        Diêu Lân kính bái .

                        Thượng Chí coi thơ rồi nổi xung, vỗ bàn nạt rằng :

                        - Diêu Lân là đồ khốn kiếp, ỷ thế cha nên chũ mưu cho Cao Thiên Tứ và Nhựt Thanh độc đả con ta bịnh nặng hiểm nghèo, nay trời khiến bắt được quân cường đồ nầy, ngươi lại dám biểu ta tha, thiệt là khinh khi ta lắm, tưỡng có lẽ ngươi không thoát khỏi tay ta trong vụ án mạng nầy, nghĩ đến càng thêm giận..

                        Bèn sai đòi tên dem thơ đến.

                        Khi ấy Diêu Ðức đến cúi đầu ra mắt Thượng Chí thì Thượng Chí vỗ bàn nạt lớn và mắng rằng :

                        - Chũ nhà ngươi rất nên đại ác, lén xúi côn đồ đánh con ta chết sống chưa rõ được, lại viết thơ khiến ta thả kẻ hung dữ ấy, thiệt là khi dể ta vô cùng, tội ấy đáng hay chưa ?

                        Nói rồi khiến quân vác hèo đánh đuổi Diêu Ðức về, còn thơ thì quăng xuống đất.

                        Diêu Ðức lật đật lại lượm bị quân nha dịch, áp đánh vô số, đau hết sức không dám la, liền chạy tuốt về khóc lóc tõ đầu đuôi cho Diêu Lân nghe.

                        Khi ấy Diêu Lân nổi xung thiên quên điều phải quấy, không suy nghĩ đến phép nước thể nào, vì bởi còn nhỏ, tánh khí cang cường không sợ tội lỗi, liền dẫn hai trăm gia đinh cụ bị khí giái, kéo thẳng đến phủ Tòng giang.

                        Khi đến nha môn không thèm ra mắt quan Phủ, đóng quân tại đó, dẫn theo hai chục tên thủ hạ thẳng đến cửa ngục.

                        Quân canh giử biết Diêu Lân công tử nên không dám ngăn trở.

                        Diêu Lân nạt và hỏi :

                        - Cao Thiên Tứ và Nhựt Thanh ở đâu bây giờ ?

                        Quân canh sợ phải dẫn đến nơi mà chỉ.

                        Diêu Lân liền cứu hai người ra khỏi ngục đem tuốt về nhà mình.

                        Khi Thượng Chí hay đặng liền dẫn quân theo bắt lại thì Diêu Lân đã đi xa rồi theo không kịp, phải đem quân trở lại, nghĩ càng thêm thấm mệt, cả giận nhiếc mắng Diêu Lân là loài súc sanh cả gan phản nghịch coi phép nước như chơi ; bèn bổn thân lập tức đến quan Ðạo Ðài cáo bẩm ; khi ra khỏi cửa vừa gặp quan Huyện đến viếng, hỏi thăm vì cớ nào Diêu Lân phá ngục cướp tù làm vậy ?

                        Quan Phủ thuật đầu đuôi sự tích cho quan Huyện nghe rồi cùng nhau đến Tô Tòng cáo báo cho quan Ðạo Ðài tên là Châu Lương Tài hay đặng lập kế bắt Diêu Lân.

                        Khi đến nơi ra mắt xong xuôi, liền bẩm các việc Diêu Lân làm phản, xin đem quân bắt nó trị tội.

                        Quan Ðạo Ðài nghe nói thất kinh thầm tính trong bụng rồi đáp lại rằng :

                        - Như đem binh bắt Diêu Lân cũng được đó, song sợ trước là hao quân lính, hóa ra việc lớn, sau ngại nổi mích lòng quan Diêu Tuần phủ cũng là người đồng liêu với bọn ta, nếu làm thẳng phép, sau khó nổi ngó mặt nhau, chi bằng dụng kế mời Diêu Lân đến bắt trước, thì lòi hai tên hung phạm ấy ra, rồi sẻ tư tờ cho Diêu Tuần phủ hay đặng biện luận, làm như vậy thì việc công tư lưỡng toàn.

                        Quan Huyện đáp ứng :

                        - Ngài tính như vậy rất hay, song lo nổi Diêu Lân sợ có tội trọng không chịu đến đây, chừng ấy ngài liệu thế nào cho tiện việc ?

                        Quan Ðạo Ðài đáp rằng :

                        - Diêu Lân không tội chi trọng, bất quá mạo phạm cướp tù, tù nhơn hãy còn đó chưa trốn đi đâu, nếu rũi Luận công tử có chết đi nữa, thì Cao Thiên Tứ với Nhựt Thanh phải một người thế mạng, chớ can gì đến Diêu Lân mà phòng sợ.

                        Nói rồi bèn viết thiệp sai người đến Diệu gia trang mời Diêu Lân ngày mai giờ ngọ đến nha hội yến và thương nghị việc gấp.

                        Diêu Lân được thiệp mời liền chịu miệng hội yến, không ngờ không ngờ là kế dụ mình, bởi Công tử nầy tánh ý can đảm, can cường khônsg sợ ai hại mình., nên rạng ngày lên kiệu thẳng đến tĩnh thành, đến nha thì thấy các viên quan lớn nhỏ đã chực sẳn nơi tiệc, Diêu Lân vào ra mắt quan Ðạo đài và hàng Phủ, Huyện, thì các quan vị tình Diêu Tuần phủ, nên phải đáp lễ lại, rồi mời nhập tiệc, ăn vừa đặng nữa chừng, thì quan Ðạo Ðài nói cùng Diêu Lân rằng :

                        - Ta có nghe cháu vào ngục cướp tù là Cao Thiên Tứ và Nhựt Thanh, nếu cháu làm như vậy thì là trái phép lắm, vã chăng chúng nó đánh Công tử Luận Xương trọng bịnh chết sống chưa hay nên quan Phủ phải cầm giam đở chúng nó ít ngày, chờ coi thương tích Luận Xương nặng nhẹ thể nào rồi sẽ phán đoán. Vã lại cháu cũng là người biết phép, làm sự ngang tàng dường ấy, thì trái lẻ nhiều lắm, nếu ta làm thẳng lẻ theo lời quan Phủ cáo bẫm, chạy sớ về kinh, ắt phải liên lụy đến ông già của cháu, ta bởi riêng nghĩ tình bằng hữu đồng liêu với ông già cháu chẳng nở ra tay, nên mời cháu đến đây, cạn tỏ cho cháu nghe, vậy phải đem giao hai tên can phạm ấy thì yên, bằng cháu tự cường chẳng lẻ bõ qua việc ấy đặng.

                        Diêu Lân chắp tay thưa rằng :

                        - Theo lời quan lớn dạy tôi đâu dám cải, xin đại nhơn thẩm xét. Vã chăng Cao Thiên Tứ và Nhựt Thanh ở tại nhà tôi gần một tháng khộng bước chơn ra khỏi nhà, sớm tối không lìa, tôi xét tình lý ấy, thì có đâu độc đả Luận Xương cho được, nhơn ngày rằm Trung nguơn hai người vào thành coi đốt đèn, chẳng dè gia nhơn của quan Phủ bắt lầm, giam cầm nơi ngục, khi ấy tôi hay riệc như vậy thì tôi có bẩm minh bạch cho quan Phủ rõ, người không đếm xỉa lời tôi, lại nghe lời tôi, cứ quyết hảm hại hai người ấy đặng báo cừu cho con người, đã vậy thì chớ lại còn đánh đuổi Diêu Ðức là bộ hạ của tôi sai đem thơ cho người, nên tôi giận quá trí mà sanh sự ấy, nay ngài dạy giao hai tên phạm ấy lại tôi đâu dám cãi, song có chứng cớ văn bằng cho minh bạch thì tôi giao lập tức, nếu a tùng cùng nhau dựng chúng đặng hại người, thì tôi đâu dám nghe lời theo ngài.

                        Thượng Chí nghe nổi xung nói :

                        - Quan lớn đã có lòng khuyên giải mà Diêu Lân không vừa lòng rất nên bội phản.

                        Liền khiến thủ hạ bắt Diêu Lân giam lại, và khiến quan Huyện Vương Vân đến nhà Diêu Lân bắt hai tên du thủ, lại căn dặn không được làm náo động trong Diêu phủ, và không được đá động món gì.

                        Khi Diêu Lân biết mình mắc kế nên ẩn nhẩn chịu giam đở một đôi ngày sẽ tính kế thoát thân.

                        Ðây nói về quan Huyện Vương Vân thẳng đến Diêu gia trang, xuống kiệu thẳng vào căn giữa, khiến mời mẹ Diêu Lân ra tỏ tự sự cho Diêu thái quân nghe và an ủi chớ phiền rầu, việc nầy Diêu công tử vô can, song cầm đở đó cho lòi hai tên hung phạm ra rồi sẽ tha, nếu không làm như vậy thì sợ Công tử sanh sự khó lòng.

                        Khi ấy vua nghe mấy lời quan Huyện phân tỏ với mẹ Diêu Lân thì sợ liên lụy cho cả nhà Diêu Lân, nên vua và Nhựt Thanh ra chịu, rồi từ biệt Diêu thái quân mà đi với quan Huyện thẳng đến cửa ngục chịu giam.

                        Khi Diêu thái quân nghe cớ sự làm vậy, thì lo sợ ngồi đứng không yên, bèn khiến gia nhơn đến nói cho ông sui đàng gái là Vương Thái Công hay và cậy đến thành dọ thám tin tức.

                        Khi Vương thái công đặng tin, thì kinh khủng lật đật đem tiền bạc theo lưng, vào thành thẳng đến khám thì thấy rể và Cao Thiên Tứ cùng Nhựt Thanh đồng bị giam một chổ đang lo kế thoát thân, xảy thấy Vương thái công đến thì Diêu Lân cậy ông đến Hải Ba trang nói giùm với Thôi Tử Tương tính kế cứu giùm.

                        Vương thái công y lời, liền để tiền bạc lại cho quân canh cửa mua vật thực nuôi dưỡng ba người ấy, rồi trở lại cho Diêu thái quân và con gái mình hay, cho bớt nổi rầu phiền, liền thẳng qua Hải Ba trang.

                        Ðây nói về Thôi Tử Tương chiếm cứ chốn Hải Ba trang, chuyên nghề ăn cướp, nên trong nhà giàu có lớn, tánh hay giúp anh hùng hào kiệt, giao kết cả trong thiên hạ, những tay ăn cướp anh tài, người này mình cao bảy thước, sức mạnh hơn người, võ nghệ tinh thông, việc văn vừa đũ , nghĩa khí rất lớn, lại thêm có một bọn anh em trí nhiều mưu đũ, võ nghệ cao cường, không chịu cướp phá nhà cửa nhơn dân, chỉ ưa đánh cướp những ô quan tham lạm ăn của dân tình, còn các xứ ruộng nương nhà cửa phố xá ở chung quanh Hải Ba trang, thì bảo hộ bình an chẳng có đạo tặc nào dám đến cướp phá, vậy nên dân tình cảm phục, tình nguyện cùng nhau mỗi năm dưng lúa thóc đền ơn, còn các quan văn võ xứ này, thấy bọn Thôi Tử Tương tuy là ăn cướp, song làm nhiều điều phải nghĩa nên bỏ qua không nói đến.

                        (Ngày trước, Diêu Lân với Thôi Tử Tương làm bạn cùng nhau rất thiết, sanh tử chẳng lìa, lại đồng học một thầy).

                        Ngày ấy Thôi Tử Tương đương tập đao thương cùng chư huynh đệ, xãy nghe gia đinh đến thưa :

                        - Có Vương thái công đến xin ra mắt.

                        Thôi Tử Tương biết là cha vợ Diêu Lân, lật đật ra nghinh tiếp vào đải trà nước, trò chuyện sơ qua một hồi rồi Thôi Tử Tương đứng dậy chắp tay thưa với Vương thái công rằng :

                        - Bọn tôi không dè bác lên đây nên ra nghinh tiếp chậm trể, xin bác miễn chấp, chẳng hay bác mạnh giỏi ra sao ?

                        Vương thái công bèn thuật chuyện đầu đuôi về sự Diêu Lân bị giam và nói :

                        - Vì việc ấy nên già đén đây cầu xin chư vị hảo tâm lo phương cứu giúp nó thoát khỏi ngục hình.

                        Thôi Tử Tương nghe nói thất kinh, rồi suy nghĩ một hồi lâu rồi thưa rằng :

                        - Bọn tôi ra sức cứu em tôi cùng hai người kia thì không khó gì, song sợ liên lụy cho bác tôi là Diêu Tuần phủ, nên khó nổi liệu toan.

                        Khi Thi Lương Phương nghe Thôi Tử Tương nói thì nổi giận rằng :

                        - Nay việc đã dĩ lở ra như vầy, bọn ta há nở làm lơ cho đành hay sao ? Theo ý tôi tính, chúng ta vào đó cướp ngục, đừng giết qnân lính, chớ nên động đến của nhà nước và dân chúng, cứ giết cha con Luận Xương mà trả thù thì đũ, nhưng mà bác phải mau về trước chở hết gia quyến của cải tài vật của Diêu Lân lên đây tị nạn phòng khi tai họa xảy ra như quan binh có kéo tới đây, thì tôi cũng đủ sức cự đương, chứ Diêu Tuần phủ có can hại chi mà phòng sợ.

                        Vương thái công liền từ biệt ra về, thi hành y kế ấy.

                        Khi ấy Thôi Tử Tương đi cùng Thi Lương Phương với Kim Phiêu và mười tên thũ hạ, phân làm ba bọn thẳng đến Tòng giang phủ. (Nguyên Lương Phương và Kim Phiêu là học trò ông Chí Thiện huề thượng, võ nghệ tinh thông, lại có tài bay nhảy lên rường nhà hoặc trên tường không nghe khua động cũng như đi đường cái vậy, nên coi Tòng giang phũ như không ).

                        Khi đến thành rồi kiếm chổ ngụ đợi đến rằm tháng tám sẽ ra tay, nên cho người đến cho Vương thái công hay, đặng vào ngục thông tin cho Diêu Lân biết trước.

                        Ðến đêm ấy Vương thái công mua đầu heo, tam xên và rượu giả đem vào ngục cúng thánh thần, mà nói với quân canh gát rằng :

                        - Từ ngày rể tôi bị giam tại đây, các người có lòng đải đằng tử tế, tôi không biết lấy chi đáp phải, nên đem lễ cúng nầy đải các người ăn uống vui say cùng tôi một bửa lấy thảo.

                        Quân canh nghe nói mừng rỡ, liền đem vào ngục dọn ra ê hề, xúm nhau ăn uống.

                        Còn Diêu Lân thì ép bọn ấy ăn uống gần cụp, rồi rưới thuốc mê thêm nữa nên chúng nó bất tĩnh nhơn sự.

                        Ðến canh tư, Thi Lương Phương vạch ngói cưa rui, trên mái nhà nhảy xuống mở xiềng cho ba người rồi nhãy trở lên kéo ba người ra khỏi ngục, lại leo tường trở ra đi quanh theo đường nhỏ đặng hiệp với mấy quân đã mai phục tại chổ yếu lộ ấy.

                        Vua, Diêu Lân, Nhựt Thanh và Thi Lương Phương ở đó chờ bọn Thôi Tử Tương.

                        Ðây nói về Thôi Tử Tương và Kim Phiếu dặn hai tên quân đem ngựa và khí giới chực sẳn tại cửa Bắc môn, ẩn tại Quang vương miếu là chổ rất vắng vẻ mà chờ, dặn dò xong rồi bày rượu ra uống đến trống trở canh ba dắt nhau ra đi lòn ngả sau nha môn phía vườn bông, rồi trèo tường lần qua mái nhà nhằm chổ hậu đường, dòm thấy Thượng Chí còn đương uống rượu với mấy con hầu thiếp.

                        Lúc ấy hai người núp trên ngói nghe Thượng Chí nói :

                        - Bửa nay trăng tốt, bị mây áng coi chẳng dặng vui, lại thêm rầu nổi con ta bị thương tích nặng thuốc trị không lành, còn cừu nhơn đả bắt được giam tại đó, không biết luận án gì mà kết cho chúng nó, vì bởi vưng theo ý quan Ðạo Ðài, nên khó nổi làm gì được, lại căm hận Diêu Lân là đồ khốn kiếp nghĩ đến thêm buồn, đã vậy thì chớ, lại còn đôi ba cái án ngày trước tính chưa xong, là vì nhậm lở bạc nó lo hối lộ rồi, còn thiên hạ thì đền rực lổ tai rằng : Ta ăn của tiền lo lót, làm sự vậy vò bỏ phép, nếu việc ấy quan Thượng ti hay đặng ắt không xong, nên ta lo rầu nhiều nổi, không muốn uống rượu chút nào, hảy dọn dẹp cho sớm đi ngủ thì hay hơn.

                        Lại nghe một đứa con gái còn nhỏ tuổi đáp rằng :

                        - Sao lão gia không bắt những người đồn huyền hoặc ấy mà răn chúng ?

                        Thượng Chí khen hay và nói :

                        - Mai ta sẽ sai anh nhà ngươi đi dọ thám rình bắt đứa nói bậy ấy, mà kết án chúng nó xĩ mạ quan quyền, rồi đóng gông giam phạt trước cửa nha thì yên việc.

                        Tính rồi hối quân hầu dọn dẹp ly nhạo, đóng cửa lên giường, gầy việc gió trăng.

                        Lúc ấy trống điểm canh tư, ai nấy đều ngũ hết.
                        Thôi Tử Tương đánh đá lửa đốt chó lén, rồi hai người ở trên ngói nhảy xuống, phá cửa phòng vào chém Thượng Chí một đao chết tốt, rồi đến phòng Luận Xương cũng chơi miếng ấy, giết xong rồi nhảy lên chổ củ trở ra, lên ngựa theo đàng nhỏ vầy đoàn cùng nhau trở lại Hải Ba trang.

                        Khi về đến nơi Diêu Lân tạ ơn các vị anh hùng có lòng cứu chửa ra khỏi chốn hiểm nguy.

                        Còn vua và Nhựt Thanh khâm phục nghĩa khí các đứng hào kiệt nầy vô cùng, duy có mỗi mình Diêu Lân buồn rầu, vì sợ liên lụy đến cha.

                        Vua thấy vậy hết lòng an ủi và tỏ rằng :

                        - Cháu chớ phiền rầu, vì ta với Lưu Dung quân cơ là tình nghĩa thấy trò, dẫu việc lớn bằng trời ta cũng gở xong, cháu hay an tâm viết thơ cho cha cháu rõ, đừng lo sợ vô ích, có ta cứu chửa sẽ an như bàn thạch.

                        Diêu Lân nghe vua nói thì bớt lo rầu liền vào nhà trong nói lại vác lời vua hứa cho mẹ và vợ con hay.

                        Ðây nói về phủ Tòng giang, đêm rằm tháng tám, cha con Tri phủ bị giết, lại tù đồ trốn hết ba người.

                        Quan Ðạo Ðài được hung tin ấy bèn dẫn quân đến vây nhà Diêu Lân, xét thì không có ai, nhà trống lổng không còn món chi hết, thì biết là Diêu Lân tư thông với ăn cướp giết cha con Tri phủ và đoạt tù giam, liền chạy tờ cho Tuần phủ và Tỗng đốc hay và họa đồ hình ba tên tù trốn ấy, rao ai bắt được hoặc biết chổ trú báo bẩm sẽ trọng thưởng.

                        Cách ít ngày có người đến báo rằng :

                        - Diêu Lân ở tại Hải Ba trang thuộc về địa cảnh của Thôi Tử Tương chiếm cứ.

                        Quan Ðạo Ðài liền cấp thưởng cho tên đến báo ấy, rồi lập tức cho Trang Tuần phủ hay mà xin phát đại binh đến trừ kẻ nghịch, sắp đặt xong rồi, bổn thân dẫn một ngàn quân đi trước thẳng đến Hải Ba trang.

                        Còn Trang Tuần phủ đặng tờ công báo xua binh tiếp ứng thì thất kinh, bèn sai quan Trung quân là Cao Phát Sĩ dẫn năm ngàn quân rần rộ kéo riết đến Hải Ba trang.

                        Ðây nói về Thôi Tử Tương đương vầy vui cũng như huynh đệ luận bàn binh pháp, võ nghệ cùng nhau. Cả thảy đều khâm phục lời vua ứng đáp tài cao, rộng thấy ; ai nấy đều khen ngợi vô cùng, xảy thấy có quân vào báo :

                        - Trang Tuần phủ sai Cao Phát Sĩ dẫn năm ngàn quân và Châu Ðạo Ðài một ngàn quân phân làm hai đạo thủy, bộ kéo đến.

                        Ai nấy cả kinh (vì binh sơn trại được chừng vài ngàn thôi, còn binh triều thì đông nên lo rầu.) Diêu Lân lo sợ hơn hết.

                        Duy một mình Cao Thiên Tứ cười mà nói :

                        - Các ngươi chớ sợ, có ta tại đây dù binh trào có đông cho mấy cũng không làm thiệt hại được. Vậy để ta làm một kế mọn thì mấy đạo binh ấy thối quân bình yên vô sự.

                        Các người nghe nói bán tín, bán nghi.

                        Diêu Lân bèn chấp tay nói :

                        - Xin chú thi hành diệu kế che chóng, kẻo quan binh đánh tới khó nổi cản đương.

                        Cao Thiên Tứ gặt đầu, vào phòng viết một đạo thánh chỉ, đóng ngự ấn và phong lại không cho ai biết, rồi kêu Nhựt Thanh dặn dò thẳng đến đạo quân Cao Phát Sĩ nói rằng có thánh chĩ đến cho Trang Hữu Cung và dặn dò chớ nên sơ lậu.

                        Nhựt Thanh lập tức ra đi một đổi xa, gặp đạo binh Cao phát Sĩ, bèn sấn vào cho hay, thì Cao Phát Sĩ nói :

                        - Tôi có nghe thánh giá du ngoạn Giang Nam, nay quả không sai.

                        Bèn đến tõ ho Châu Ðạo Ðài hay đặng đình quân lại và sai thủ hạ là Trần Ban Kiệt hộ tống Nhựt Thanh đến Trang Tuần phủ cho người hay rằng có mật chĩ của Thánh thượng đến.

                        Trang Cữu Cung lật đật mở cửa giữa, bày hương án ta nghinh tiếp, mở thánh chỉ ra thấy chữ ngự phê như vầy :

                        "Trẫm nhơn du ngoạn đến tĩnh Tòng giang, gặp cá tứ nhỉ lý ngư muốn nếm cho biết mùi ngon ra thể nào. Chẳng dè Luận Xương gây dữ, cả hai cha con chúng nó đem lòng cướp giá, lại tánh hay tàn bạo hại dân, tham lam vô cùng, nên trẫm khiến bọn Diêu Lân cướp ngục tru lục loài gian, việc ấy do nơi trẫm, chẳng can phạm đến bọn Hải Ba trang, việc án mạng giết ô quan ấy hãy tiêu hủy và phải vưng theo chiếu trẫm, chạy tờ cho Lưu Dung hay về vụ ấy, cho nên gia tội cho Diêu tuần phũ, còn các đạo binh phải hỏa tốc điệu hồi, hãy kín miệng chớ nên phong văn cho ai biết, mà lậu cơ quan cũa trẫm, khanh khá thi hành theo chiếu chĩ này và miễn lễ cho các quan khỏi đến chầu, vì trẫm không ở đó nữa, sẽ di giá sang chơi tỉnh khac. "

                        Khi đọc thánh chỉ rồi, Trang Tuần phủ ra mắt Nhựt Thanh chuyện vãn hõi thăm tin.

                        Nhựt Thanh vội vã cáo từ lui gót, dặn dò Trang Tuần phủ hãy theo thánh chỉ thi hành đặng về phúc tâu cho an thánh ý.

                        Khi ấy Trang Tuần phủ đưa Nhựt Thanh ra khỏi nha môn, rồi phóng lịnh tiển lập tức triệu hồi hai đạo binh ấy trỡ về, và chạy tờ cáo cho Lưu Dung quân cơ hay theo các lời mật chĩ vua đã dặn dò tiêu hủy án mạng đã tõ trước đó.

                        Nói về Thôi Tử Tương và Diêu Lân thấy Nhựt Thanh đi chừng một ngày thì hai đạo binh đều êm ru, cờ xí không thấy nữa, nên có lòng mừng, nghĩ thầm cùng nhau chắc là Cao Thiên Tứ bà con thân thích chi với vua, nên mới có quyền thế thối lui hai đạo binh ấy được, các anh hùng đều đem lòng kính phục, dọn tiệc ăn mừng cảm tạ ơn vua có lòng chiếu cố, khỏi việc binh đao. Khi tiệc vừa mản, thì Thôi Tử Tương dắt bốn người con trai là : Thôi Long, Thôi Hổ, Thôi Bưu, Thôi Báu, và cháu ruột là Thôi Anh ra mắt lạy Cao Thiên Tứ cầu xin người hết lòng đoái tưởng truyền dạy thêm các môn võ nghệ, vua liền nhậm lời, không hiềm lao nhọc, gắng sức chỉ biểu những miếng tuyệt diệu côn quờn, ngỏ đặng ngày sau giúp đo nước nhà. Vì vua thấy bọn Thôi Tử Tương có lòng trung nghĩa, lại hết dạ kính vì, nên phải ở nán lại đó ít ngày, trước là truyền võ nghệ cho con cháu Thôi Tử Tương, sau luận đàm binh pháp cùng mấy về hào kiệt ấy đặng giải khuây.

                        Nói về Cao phát Sĩ từ ngày phụng lịnh Trang Tuần phủ đem binh đánh Hải Ba trang chẳng ngờ bị chiếu vua ngăn trở nên phải dẫn quân trở về, thì sanh lòng bội phản cướp giá, bèn lén tư tờ cho Châu Hồ Lữ hay, đặng dấy binh tạo phản. (Nguyên Châu Hồ Lữ là người ở động Bạch Liên, một phe với Cao Phát Sĩ.)

                        Khi Hồ Lữ đặng tờ Cao Phát Sĩ thì lấy lành mừng rỡ vô cùng, liền tựu binh lại hơn ba ngàn.

                        Hồ Lử nầy ngày trước vâng lệnh Bạch Liên giáo chủ, xuống cảnh Giang Nam giao kết cùng các bọn ăn cướp và mấy chú ô quan, và hội lập phe đảng phòng ngày khởi loạn, nay gặp dịp nầy, nên khởi binh rất mau, kéo riết đến Hải Ba trang rồi chạy tờ cho nhị vị đại vương ở Bạch Liên động tên Dương và Tân, đem binh đến sau ứng tiếp.

                        Còn Cao Phát Sĩ lén đem vợ con dời đi ở xứ khác rồi dẫn năm trăm quân tâm phúc đến trợ chiến với Châu Hồ Lử.

                        Khi hai đạo binh áp vây đánh thình lình Hải Ba trang, bốn phía phủ vây chen kim chẳng lọt, nước chảy không thông, làm cho các vị anh hùng chưng hửng thất kinh không biết giặc nào đến vây đánh tình cờ như vậy.

                        Vua cũng chẳng rõ duyên cớ liền khiến người đi dọ thám, mới biết là bọn Bạch Liên động đem binh cướp giá, may Thôi Tử Tương là người hùng cứ nhứt phương, tuy chốn ấy không có thành quách mặc dầu, song bốn phía hào hố cứ hiểm chắc chắn khó vô. Còn nhơn số tại Hải Ba trang đặng hơn một ngàn người.

                        Ðương khi nguy cấp như vậy, vua mới tỏ thiệt cũng bọn Thôi Tử Tương rằng :

                        - Ta là đương kim Thiên tử du ngoạn Giang Nam, xin chư tướng tận lực bảo giá, thì sẽ trọng thưởng. Mấy người hào kiệt nghe vua phân như vậy thì nữa mừng nữa sợ, bèn quì mọp dưới đất xin vua thứ tội.

                        Vua liền miễn xá, ai nấy đều hân hoan hừng chí, hăm hỡ nguyện tử chiến giết giặc đặng bảo an thánh giá.

                        Khi ấy Thôi Tử Tương quì tâu rằng :

                        - Xin Bệ hạ, hạ chỉ sai người giải phá trùng vây, đặng viện binh đến, trong đánh ra ngoài đánh vô, hai đàng hiệp công cùng nhau thì giặc ở giữa phãi rã tan.

                        Tâu vừa dứt Kim Phiêu lảnh mạng chịu ra đi.

                        Vua liền phê một đạo thánh chỉ giao cho Kim Phiêu, dặn đến tỉnh thành trao cho Trang Tuần phủ phát binh lập tức.

                        Kim Phiêu vưng lảnh ý chỉ, rồi nai nịt khôi giáp, hăm hở cầm thương lên ngựa xông riết đến dinh giặc.

                        Nhơn quần bị khổn chốn Ba trang
                        Nghĩa sĩ phá vây chẳng kể nàn
                        Ðộc mã đơn thương xông trận tám
                        Viện binh giải phá giặc kinh hoàng

                        Comment


                        • #13
                          Hồi Thứ Mười Hai



                          Yêu đạo khổn giá Hãi Ba Trang
                          Kim Phiêu chiến trãm Cao Phát Sĩ


                          Nói về Kim Phiêu cụ bị vật thực theo mình, cầm cương lên ngựa ra khỏi Hải Ba trang đánh riết tới dinh giặc.

                          Lúc ấy Hồ Lử chưa kịp an dinh hạ trại, còn đương lộn xộn bị Kim Phiêu đánh gấp tới trở tay không kịp, gần thì bị giản đánh, xa bị thương đâm, sức mạnh vô cùng thật là một tay danh tướng, quân Hồ Lử bị thương, tính bề chống cự không nổi, túng thế phải vẹt đường cho Kim Phiêu xông thẳng vào dinh, tướng giặc chận đường không cho Kim Phiêu đi.

                          Kim Phiêu nhìn tuớng ấy đầu đội tân châu khôi, mình mặt giáp ô du khải, cởi ngựa bảo nguyệt ô chì, tay cầm xích đồng đao, chơn mày thưa, mặt lớn bề ngang, đầu rắn mặt chuột, râu rìa, lưng đeo cung tiển, bộ tướng dường thể oai phong, thì biết là Cao Phát Sĩ, bộ hạ của Trang Tuần phũ, thì giận mắng rằng :

                          - Ngươi là đồ phản tặc, ăn lộc triều đình trở lại hại vua, thật là loài súc sanh.

                          Cao Phát Sĩ bị mắng hổ thẹn, gắng gượng nhìn lại tướng ấy đầu đội ngân khôi, giáp tố, cỡi ngựa trắng, cầm ngân thương, đeo kim nang giản, bên tả đeo cung có ba phi ngư nang bọc ngoài, bên hữu đeo bầu tẩu thú để đựng tên bắn, mặt tợ trăng tròn, môi đỏ dường son, tướng mạo đường đường, oai phong lẩm lẩm, tiếng nói như chuông ngân, thì có lòng khủng khiếp, không biết tướng ấy tên chi, bèn nạt lớn hỏi rằng :

                          - Nhà ngươi tên gì, đến đây tung hoành vô lễ dường ấy ?

                          Kim Phiêu đáp rằng :

                          - Hiệu ta là Ngọc Diện Hổ, tên Kim Phiêu chuyên nghề ăn cướp ở tại Hải Ba trang, ai nấy nghe tiếng ta đều sợ hãi.

                          Cao Phát Sĩ nghe nói thất kinh vì đã từng nghe danh tiếng ấy lâu nên đề phòng dè dặt kẻo bị hại.

                          Kim Phiêu xưng tên họ rồi liền huơi thương đâm nhầu.

                          Cao Phát Sĩ lật đật lấy xích đồng đao chân đở, hai đàng đánh nhau được chín mười hiệp.

                          Kim Phiêu sợ giặc đến tiếp cứu nên không chịu giao chiến lâu, sọ hư sự, bèn giả thua rút thương xông phá trùng vây mà chạy, Cao Phát Sĩ rượt theo, Kim Phiêu cả mừng, gò bớt cương lại cho ngựa đi chậm chậm.

                          Cao Phát Sĩ rượt gần đến, đưa xích đồng đao ráng sức chém xuống.
                          Kim Phiêu quày ngựa tránh qua một bên, một tay đưa thương chận đở, còn một tay rút kim nang giản, đánh xuống đầu Cao Phát Sĩ, thì đầu rụng lức đâu không thấy, thân liền ngã ra, rớt xuống đất, miếng tuyệt thủ ấy tục gọi là Tần gia sát thủ giãn.

                          Binh tướng thấy Cao Phát Sĩ chết rồi, xúm nhau lại vây, Kim Phiêu nổ lực đâm đùa chết thêm hai tướng nữa, đánh rã tan đạo binh giặc ra khỏi trùng vây, nhắm tỉnh thành riết đến, khi ấy Châu Hồ Lử đem binh rượt theo thì Kim Phiêu đã đi xa rồi, phải đem binh trở lại, điểm binh tướng chết hơn một trăm, còn chiến tướng chết hết mười người.

                          Châu Hồ Lử giận căm gan, khiến quân canh giử nghiêm nhặt mấy nẻo yếu lộ, rồi truyền đào huyệt chôn những thây chết, lại hạn cho quân binh rạng ngày phải ráng sức công phá Hải Ba trang cho được mà báo thù hôm nay.

                          Nói về vua và các vị anh hùng trèo lên địch lầu dùng ống thiên lý xem thấy Kim Phiêu đại thắng, giết binh tướng giặc rất nhiều, ra khỏi trùng vây thì cả đẹp và khen Kim Phiêu võ nghệ cao cường, đáng rường cột nước nhà, khi ấy chư tướng chúc mừng cho vua và tỏ rằng :

                          - Kim Phiêu lập được công lớn nầy cũng bởi Bệ hạ hồng phước.

                          Lúc ấy vua xem bốn phía chung quanh Hải Ba trang chừng vài dặm đều có hào hố, chừa có một đường quanh queo vô Hải Ba trang, mỗi chổ quanh ấy đều có trí pháo đài hỏa pháo, chung quanh có xây tường chắc chắn, còn trên địch lầu có trí đủ các thứ thuốc pháo hỏa nổ, cung tên tẩm thuốc độc, coi bộ vững vàng.

                          Thôi Tử Tương sợ vua không yên lòng, liền quì xuống tâu nữa rằng :

                          - Hải Ba trang nầy tôi đã cụ bị lương hướng dùng đặng nữa năm, các thứ binh khí sẳn sàng, xin bệ hạ cho người luân phiên bảo thủ địch lâu, dầu giặc đông cho mấy cũng không lại gần được, lại chung quanh đều có đào hầm gắn chông tẩm thuốc độc, hễ xông vào thấy máu đều chết, nên giặc khó phá nổi.

                          Vua bèn khiến Thôi Tử Tương cắt phần cho chư tướng thay phiên canh giử địch lâu.

                          Thôi Tữ Tương vâng lịnh rồi sai Diêu Lân, Thi Lương Phương, bốn người con trai và một người cháu, mỗi người lảnh hai tên đầu mục và năm mươi gia đinh phòng thủ bốn phía địch lâu và tuần phòng mấy nẽo đường nghiêm nhặt, lại mời Nhựt Thanh gồm lảnh năm trăm binh tuần tra, tiếp ứng các ngả và lo chuyển vận cung tên thuốc pháo chi dụng, khi bài trí xong liền đoạn dứt diếu kiều, lấp ngăn cửa cái đich lầu, để Vương thái công ở đó chuyện cùng vua, lại cắt người đặng chuyên vận dầu đặng làm đuốc, phòng khi dạ chiến thì tiện cho quân lính ; vua thấy Thôi Tử Tương điều độ trúng phép thì yên tâm ; rồi dắt Vương thái công đi do thám các nẻo động tịnh dường bao.

                          Nói về Châu Hồ Lử rạng ngày kêu Cao Năng Bá là con Cao Phát Sĩ dặn rằng :

                          - Nay cha ngươi đã chết rồi, ngươi khá đem quan tài về Bạch Liên động an táng.

                          Năng Bá vâng lời chở quan tài về đặng nữa đường bị giông gió chìm thuyền, cả nhà Năng Bá phải vào bụng cá. (Cũng vì làm tôi không ngay, mới ra cớ đổi ấy ).

                          Sau có kẻ làm thơ ai mắng như vầy :

                          Khi quân tội ác kể khôn ngằn
                          Trời hại cả nhà tuyệt họa căn
                          Nhơn bởi thánh quân hồng phước lớn
                          Anh hùng phò tá trổ tài năng

                          Khi Châu Hồ Lử khiến Năng Bá đem quan tài Cao Phát Sĩ ra khỏi dinh, liền hỏi chư tướng rằng :

                          - Ai dám ra khiêu chiến cho bần đạo áp hậu dụng phép thuật trợ chiến ?
                          Mao Anh lảnh chức Tiên phong ấn chịu ra đi.

                          Châu Hồ Lử dặn phải cẩn thận cho lắm.

                          Mao Anh vựng lịnh sắm sữa nai nịt, đầu đội thỉ ma đồng thôi, trong mặc miêu cẩm chiến bào, ngoài mặc thêm liên huờn giáp, lưng đeo mười hai cái phi phiêu, cởi ngựa xích thố, tay cầm tam tiếu đao, mặt tợ con beo, râu rìa, giục ngựa tới Hải Ba trang khiêu chiến, còn Hồ Lử thì áp hậu.

                          Vua trên địch lầu thấy tướng giặc dẫn một đội quân hăm hở đến khiêu chiến, liền phán hỏi :

                          - Chư khanh ai dám lãnh mạng ra trừ giặc, trẫm sẽ ban thưởng.

                          Diêu Lân đứng dậy tâu :

                          - Tôi nguyện chốn chiến trường quyết liều tử chiến trừ giặc ấy.

                          Vua vừa muốn nhậm lời xảy thấy Thi Lương Phương can rằng :
                          - Diêu hiền đệ chớ khá liều thân ra chốn chiến trường. Vả tôi từng nghe Châu Hồ Lử ở Bạch Liên động, thường dùng yêu thuật hại người, nay giặc đến bố trận, tôi coi thấy phía sau có cây cờ bát quái, chắc là yêu đạo ẩn thân chổ ấy hòng thi độc kế, chi bằng sai một người Phó tướng, trước ra thân chinh phá giặc, sau là dọ thám binh tình, còn tôi và Diêu hiền đệ phân làm hai đạo, mai phục hai bên, cụ bị thần thương, ná lẩy và hỏa pháo, thoảng như có bại trận, mà yêu đạo rượt gấp đến, thì có hai ta tiếp ứng ắt nên việc.

                          Vua Nghe nói gật đầu khen rằng :

                          - Khanh tính kế ấy rất hay song chẳng biết ai chịu đi phá giặc lập công ?

                          Liền có một người tướng bộ mạnh bạo, lãnh mạng ra đi. (Nguyên tướng nầy họ Lôi tên Văn Báu, võ nghệ linh thông sức đánh muôn người, làm chức Giáo đầu), Thôi Tử Tương cả mừng mà dặn rằng :

                          - Yêu đạo tà thuật phi thường, Tướnh quân có đt trước phải cẩn thận, sau hảy tùy cơ ứng biến mà làm.

                          Văn Báu vâng lời, rồi lảnh năm trăm binh bộ ra cự chiến, còn Thi Lương Phương và Diêu Lân y kế mai phục hai bên.

                          Khi Văn Báu cầm thiết côn ra đến trận, mắng rằng :

                          - Bọn bây là để xã rác, ở đâu dám đến chốn này làm giặc, không sợ chết hay sao ?

                          Mao Anh thấy tướng ấy mình không cởi ngựa, mình cao tám thước, lưng to, cổ lớn, đầu như sao Bắc đẩu, cặp mắt tợ đồng linh, mặc giáp đỏ điều, chơn đi dép nhử bì, tay cầm thiết côn nặng ước bốn chục cân, bộ tướng oai phong.

                          Mao Anh liền giục ngựa đến gần hỏi rằng :

                          - Nhà ngươi tên chi nấy nói đi rồi chịu chết ?

                          Văn Báu cả giận hét lớn nói :

                          - Ta là bộ hạ Thôi đại vương, tên Lôi Văn Báu, còn ngươi tên chi nói cho ta rỏ, đặng lấy thủ cấp lảnh công.
                          Mao Anh giận đỏ mặt đáp rằng :

                          - Ta là tiên phuông cũa Châu quốc sư, vưng lịnh đến bắt tôi chúa nhà ngươi, như ngươi thức thời vụ, hãy trở về nói với Thôj Tử Tưưng đem vua ra nạp, thì bờ cỏi sẽ chia hai, bằng chẳng nghe lời, ta đánh rốc đến Hải Ba trang giết sạch.

                          Văn Báu cả giận liền huơi côn nhắm ngay đầu ngựa Mao Anh đánh tới.

                          Mao Anh cầm tam tiêu đao chận đở, hai đàng giao chến cùng nhau một cách dữ tợn hơn ba chục hiệp (Nguyên Văn Báu huơi thiết côn lẹ như chong chóng; hoặc trước, hoặc sau, hoặc tả, hoặc hữu, qua hti như nhiếp) tuy là Mao Anh sức mạnh song ngồi trên ngựa lo chống trả với người dưới đất lấy làm cực thân, mắc lo đở cho mình, lại phải đở cho ngựa hết sức mệt lòng, gắng gượng đở gạt mệt đà hết hơi, gân cốt bải hoải, tinh bề cự không lại, bèn chém bậy một đao rồi giục ngựa chạy tuốt lui về trận.

                          Văn Báu hét nói :

                          - Ngươi chạy đi đâu cho khỏi.

                          Liền rượt theo,còn binh bộ của Văn Báu giết binh Mao Anh như thể lặt rau.

                          Lúc ấy Hồ Lử ở tại môn kỳ thấy vậy thất kinh, lật đật lấy báu kiếm chỉ hướng Ðông và niệm thần chú, xảy thấy cuồng phong thổi đến ào ào, mây phủ mặt trời, rồi lấy một nắm đậu trong hồ lô vải ra trên không, liền biến thần binh vô số, cọp beo lỉnh nghỉnh.

                          Văn Báu và binh lính hồn vía mất hết đùa nhau mà chạy, binh Hồ Lử thừa thế tri soát.

                          Văn Báu bị thương rất nặng, còn quân bị chết hết phân nữa, may nhờ có Diêu Lân và Thi Lương Phương đến tiếp ứng, thấy trời thình lình vùng tối thì biết yêu đạo dùng tà thuật, liền khiến quân đốt lửa diêm lên cho quân của mình thấy mà trở về.

                          Khi Hồ Lử rượt theo đến chổ binh Thi Lương Phương và Diêu Lân mai phục, thì Thi Lương Phương truyền quân lính phải cho tĩnh, bằng loạn động thì chém đầu và truyền phát hỏa pháo, hỏa tiển, nhắm bắn ngay binh thú quái gở ấy tức thì rả tan hết.

                          Hồ Lử thấy vậy thối quân trở về, nhờ chước hay ấy nên quân Văn Báu thoát khỏi sự hiểm nguy.

                          Xét lại hai đàng đánh nhau khi thắng, khi bại bị thương tích chết cũng nhiều.
                          Còn Văn Báu tuy bị thương tích nặng, song có thuốc trị khỏi chết, vua thấy vậy dạy Thôi Tữ Tương biên tên những quân lính tử trận và những kẻ bị thương, đặng ngày sau thưởng công.
                          Vua lại khen Thi Lương Phương tuổi còn nhỏ mà cơ trí lo liệu hay, nên quân lính khỏi lâm hại nơi tay giặc, công ấy đáng thứ nhứt, rồi truyền bày yến tiệc đải chư tướng.

                          Nói về Châu Hồ Lử về đến dinh tra điểm quân lính bị thương tích hơn ba trăm, chết hơn bốn trăm năm chục tên, còn tướng cạnh bị Lôi Văn Báu giết hết tám tên và bị thương mươi tên, bèn nói cùng Mao Anh rằng :

                          - May ta mau tayy dùng phép mới cứu đặng nhà ngươi, nếu ta diên trì một chút nữa thì ngươi đà bị giặc giết rồi.

                          Mao Anh liền lạy tạ ơn.

                          Xãy có một tiếng nói lớn rằng :

                          - Sao Quân sư cứ khen người mà chê đè bọn ta, để rạng ngày mai bổn soái sẽ ra trận giết tướng giặc như thò tay vào túi lấy đồ, như không táng ta nguyền dưng thủ cấp.

                          Hồ Lữ nghe nói ngó lại thì là nguyên soái Miêu Oai, sức mạnh vô cùng, dùng binh khí cầm tay tên là Lưu kim đấu nặng ước sáu mươi bốn cân, sức cự muôn người. (Nguyên người nầy ở tại Bát Bài miếu động, xưng là đệ nhứt anh hùng, tự thị tài cao, coi thiên hạ vô nhơn, nên khoe khoang lổ miệng dường ấy.)

                          Hồ Lử mỉm cười nói rằng :

                          - Nguyên soái có ra trận xin hảy tiềm tâm cẩn thận, chớ khá khinh địch, vì Thôi Tử Tương là
                          người danh tướng ít kẻ bì kịp, nguyên soái không nhớ ngày trước Kim Phiêu phá trùng vây, Cao Phát Sĩ cũng là tay anh hùng còn bị giết thay, nên nay nguyên soái phải đề phòng cho lắm, chẳng nên thị cường mà lâm hại.

                          Miêu Oai nói :

                          - Bỗn soái sẽ tự liệu, xin Quân sư chớ lo sợ.

                          Hổ Lữ rằng :

                          - Tôi cầu nguyện cho Nguyên soái thành công, thì chúa ta rất có phước lớn.

                          Chuyện vãn xong rồi sai quân đi bắt dân làng đào huyệt chôn những thây đà bị chết đó.

                          Qua ngày thứ Hồ Lử thăng trướng, điều khiền binh nhung, thì Miêu Oai đã nai nịt sẳn sàng từ biệt Hồ Lử, dẫn tám trăm quân, cầm kim đản lên ngựa thẳng đến Hải Ba trang khiêu chiến.

                          Khi ấy Hồ Lử thấy Miêu Oai tự thị tài cao, thì sợ lầm tay giặc nên lén đem quân theo tiếp ứng.

                          Ngày ấy vua đang hội chư tướng thương nghị lo kế trừ giặc, xãy thấy quân vào báo có giặc khiêu chiến.

                          Vua liền phán hỏi chư tướng :

                          - Nay Hồ Lử dùng yêu thuật rất nên lợi hại, vậy phải dùng kế chi trừ khử ?

                          Thi Lương Phương tâu rằng :

                          - Tôi đã cụ bị huyết gà, máu chó, hòa với đồ nhơ uế, lấy tranh cỏ tẩm đồ nhơ uế đặng buộc tên mà bắn, và buộc theo thương đao phòng khi trừ khữ yêu thuật, họa may nhờ hồng phước cũa Bệ hạ có lẽ nên việc, còn quân thì phân làm ba đạo đầu đuôi tiếp ứng cứu nhau, ắt giặc không làm chi nổi.

                          Vua nghe có lòng mừng liền nói :

                          - Theo như lời khanh tính kế ấy rất phải, chắc chế giặc đặng, trẫm lấy làm vững lòng.

                          Khi ấy vua cắt phần cho Thôi Long là con trai lớn Thôi Tử Tương và Thi Lương Phương đem binh mai phục hai bên tả hữu, cụ bị cung tên đao thương có tẩm đồ ô uế phòng yêu thuật và hỏa tiển, hỏa pháo, để tiếp ứng khi giặc hảm đến.

                          Còn Diêu Lân thì ra trận cự chiến, điều khiền xong xui, bèn truyền phát pháo xuất binh.

                          Diêu Lân xông đến trận thấy tướng giặc mặt tợ con heo, Con mắt tròn lỉnh, râu rìa, mình
                          cao tám thước, tay cầm Lưu kim đản, cỡi ngựa thanh long, mặc cẩm bào, ngoài mặc giáp ngư lân, đầu đội đồng khôi, bộ tướng dữ tợn.

                          Diêu Lân nạt lớn hỏi :

                          - Tướng giặc tên gì khá nói cho mau mà chịu chết.

                          Miêu Oai nghe hỏi thì nhìn trực thị, tuy Diêu Lân tướng mạo ăn mặc tề chĩnh, bộ giống thiên thần, đầu đội kim khôi, mình mặc liên huờn giáp, trong mặc hồng bào, bên tả đeo cung, phía hữu mang tên, mặt mày sáng rỡ, mắt sáng tợ sao, râu vừa mọc le the, mình cao chín thước, vạm vở tốt người, cởi ngựa xích thố, tay cầm thanh long đao, tuổi chừng đôi kỹ dư, thì đáp rằng :

                          - Ta là bộ hạ Tân đại vương, lảnh chức Ðại nguyên soái, tên là Miêu Oai, ngươi khá xuống ngựa lai hàng thì đặng toàn thây, còn nhà ngươi tên chi nói cho Bổn soái biết.

                          Diêu Lân cười nói rằng :

                          - Ngươi là đứa vô danh, không tài chi, bọn bây dường thể chuột bầy, cậy thế yêu thuật hại người, nay gặp la mà không sợ chết, còn dám khoe khoang lổ miệng, vốn ngươi chưa biết danh ta, để ta tỏ cho nghe, ta là Diêu Lân con quan Diêu Tuần phủ, trấn tại Sơn Tây, nay ta phụng thánh chỉ ra đây lấy thủ cấp nhà người.

                          Nói rồi hét lên tợ sấm vang, giục ngựa huơi đao chém ngay đầu Miêu Oai, sức đao chém xuống một cách như núi Thái sơn ngã.

                          Miêu Oai lật đật cầm Lựu kim đản chận đở, tiếng đụng nghe rúng đất, hai đàng giao chiến hơn một trăm hiệp cầm đồng với nhau, hai bên đều có chư tướng và quân lính thực hờ phía sau, phòng khi tiếp ứng, chiêng trống vang trời, đánh nhau từ sớm mai đến xế chưa ai hơn thua.

                          Diêu Lân nghĩ thầm rằng :

                          - Thật là Miêu tặc rất mạnh, thương pháp tinh thông. Bèn tính kế thí đao thì mới chém đầu nó đặng, liền giả thua chém bậy một đao, quày ngựa chạy.

                          Thi Lương Phương đứng áp trận, thấy ngọn đao Diêu Lân chưa loạn sao lại tháo ra mà chạy, thì thầm tưởng :

                          - Chắc là giả thua đặng đùng chém tướng giặc.

                          Bèn dặn Thôi Long đừng tiếp chiến, cứ việc giã không biết.

                          Khi Diêu Lân trá bại, Miêu Oai giục ngựa rượt theo.

                          Diêu Lân nghe lạc ngựa gần đến, biết nó trúng kế, còn bên nầy Châu Hồ Lử cũng áp trận, ở cách xa thấy Miêu Oai thị dỏng, nếu cản Diêu Lân thì sợ trúng kế, liền hồi chiêng thâu quân, Miêu Oai cũng không thèm đếm xĩa, cứ dung ruỗi đuổi theo gần đến khít, Diêu Lân quày ngựa lại thình lình, giơ đao tận lực chém xuống ngay đầu.

                          Miêu Oai tránh đở không kịp nên đứt hai cã người và ngựa, Diêu Lân cắt lấy đầu rồi giục quân thẳng tới giết quân giặc vô số, quân Miêu Oai chống cự không nổi, vừa muốn chạy xãy có Châu Hồ Lử đến cãn lại hổn chiến, lại bị quân Thi Lương Phương và Thôi Long kéo đến ; Châu Hồ Lữ tính bề cự không lại, bèn dùng yêu thuật làm tối mịt trời đất, gió thổi ào ào, cát bay đá dậy, ma quĩ hét rân thần binh vô số, kỳ hình quái vật rất đông ào ào xông đến, làm cho Diêu Lân và chư tướng thất kinh, chạy thối lui đạp nhau rối loạn.

                          Lúc ấy Thi Lương Phương lật đật khiến quân phóng hỏa tiển hỏa pháo và vải nhầu đồ ô uế ra, trong giây phút yêu thuật đều rã tan.

                          Châu Hồ Lử thấy vậy nổi xung, liền lấy ngủ độc hầu châm trong túi da beo, niệm chú rồi vải trên không hóa ra mây năm sắc rơi xuống nhằm mình Diêu Lân.

                          Diêu Lân liền lé nhào xuống đất chết giấc, nhờ có hai tên tướng cạnh cỏng chạy đem về, còn chư tướng và quân lính cũng bị độc châm nhiều.

                          Thi Lương Phương thất kinh truyền quân phát hỏa tiển, hỏa pháo vải ra như mưa bất và hỏa hổ cháy rần rần làm cno quân giặc thất kinh phải lui lại.


                          Hồ Lử truyền cho quân thối lui, rồi giựt đầu và thây Miêu Oai trở về tẩn liệmchôn cất, rồi chạy sớ cho Miêu vương hay đặng xin thêm binh trợ chiến.

                          Nói về vua ở trên địch lầu thấy Diêu Lân cùng chư tướng giết giặc rất nhiều thì có lòng mừng, sau lại thấy chư tướng bị độc châm bại quân thối về, tin buồn và thấy Diêu Lân mê man bất tĩnh nhơn sự, càng thêm chua xót, rồi nghe cả nhà Diêu Lân than khóc om sòm thì càng thảm thiết, liền sực nhớ lại trong mình có mặc đến ngũ báu trân châu giải tà độc, bèn cởi ra đắp cho Diêu Lân thí nghiệm coi có hiệu nghiệm chăng?

                          Vừa đặng một lát thì năm hột trân châu rút ra châm độc, Diêu Lân liền tĩnh lại mạnh như xưa, còn chư tướng bị độc châm ấy cũng nhờ báu đó đều được khỏe mạnh lại như trước.

                          Khi ấy chư tướng đồng ra lạy tạ ơn vua cứu mạng và tâu :

                          - Bệ hạ có báu nầy thật là phước trong nước nhà rất lớn.

                          Rồi Thôi Tử Tương dọn tiệc ra mừng chư tướng đặng tráng kiện như xưa.

                          Khi giữa tiệc vua nghị luận cùng chư tướng rằng :

                          - Giặc nầy nếu thiết kế đánh phá thì không khó gì, chỉ hiềm yêu đạo phép thuật dữ tợn khó nổi khu trừ.

                          Chư tướng tâu :

                          - Theo lời Bệ hạ luận rất nhằm lẻ, vậy xin Bệ hạ sai người phá trùng vây đến Giang Tây, núi Long Hổ, đặng rước Thiên sư phủ Trương chơn nhơn đến, họa may trừ được yêu đạo.

                          Vua vừa muốn nhậm lời, xảy thấy Thôi Long quì tâu rằng :
                          - Tôi có một người sư phụ tên Vân Hà đạo nhơn, họ Huỳnh, hiệu là Giã Tiêu quán ở Sơn Ðông, tu tại La Phù sơn, vân du đến đây dạy anh em chúng tôi học võ nghệ thao lược đã đặng ba năm, mỗi năm thường đến nhà tôi ở chơi hoặc đôi ba ngày hoặc vài tháng, toán âm dương, nói việc tiên tri thường hay ứng nghiệm, trừ tà trục quĩ cũng hay, hô phong, hoán võ rất mầu, lại hay cứu giúp người, nên đến đâu thiên hạ đều lưu luyến cầm ở chơi, bởi vậy nên không dám chường mặt cho ai thấy. Hôm trước có đến đây, bây giờ còn ở tại Lữ tổ am ; nguyên am ấy của cha tôi cất ra phụng cúng nhang khói đêm ngày, có cắt hai tên đạo đồng ở trước, vật thực phụng cấp cho sư phụ tôi về phần cha con tôi chịu ; lúc ngặt nghèo nầy xin Bệ hạ sai kẻ rước người dđến phá yêu thuật, họa may người có kế chi giỏi chăng ?

                          Thôi Tử Tương liền tiếp tâu :

                          - May có cơn tôi nhắc sự ấy, bằng không thì tôi đã quên rồi. Cách ba năm nay ông đạo nhơn ấy có nói tiên tri mà dặn rằng :

                          - Trong ba năm nữa tại Hải Ba trang nầy sẽ nổi giặc giã lung tung, bị yêu đạo vây phủ, biểu tôi phải cất bát tòa vọng lâu tứ phía. Ngoài thì lập thêm hào hố cho chắc chắn và bốn phía tường tu bổ cho vững, thì bảo thủ mới đặng vẹn toàn, lại dạy tôi làm một cái đường bàn đạo vô Hải Ba trang, hình khu ốc quanh quẹo, các chổ hiểm trở phải đặt hỏa lôi, phục và trử lương hướng cho nhiều, để dành phòng khi cự địch với giặc, nay thật quả y như lời người nói tiên tri không sai, nay được vẹn toàn cũng nhờ có sức ông đạo nhơn ấy bày trước.

                          Vua nghe cha con Thôi Tử Tương tâu các việc thì có lòng mừng liền phán rằng :

                          - Theo như lời hai khanh tâu thì người đạo nhơn ấy chẳng phải tay tầm thường, thật là người tu chơn đạo đức, vậy khanh khá đến rước giùm cho trẫm.

                          Thôi Tử Tương lãnh thánh chỉ đến am ra mắt đạo nhơn, tỏ bày các việc vua ái mộ cầu hiền khiến đến rước.

                          Ðạo nhơn nghe nói liền chịu, lên ngựa theo Thôi Tử Tương đến ra mắt vua.

                          Vua thấy đạo trưởng mặt mày nở nang, tóc bạc phơi phới, cốt cách thần tiên, liền đứng dậy chào mầng.

                          Huỳnh đạo nhơn cúi đầu đáp lễ tâu rằng :

                          - Bần đạo tu hành sơ lược, ở theo non núi, trí siễn tài thưa, sợ e chẳng đũ tài giúp Bệ hạ, xin miễn tội.

                          Vua lấy lời ngon ngọt phủ ủy mà rằng :

                          - Xin đạo trưởng chớ nài lo nhọc, ráng sức giúp trẫm một phen trước trừ yêu đạo, sau khi phá trùng vây, công ấy trẫm sẽ đền.

                          Ðạo nhơn tâu rằng :

                          - Nguyên Bệ hạ tai ách chưa mãn, nên khiến phải kinh khủng vài ngày, chờ các nẻo cần vương tiếp binh đến chận được giặc, khi ấy bần đạo sẽ ra nhận trừ yêu đạo một trận thì xong, vậy phãi nhẫn nhục một đôi ngày nữa, chờ chư cầu vưong đến, nội ngoại hiệp công, tóm thâu dư đảng, thì dân sự mới yên.
                          Vua nghe mấy lời đạo nhân cạn tỏ rất vui lòng, bèn phán rằng :

                          - Nay trẫm gặp tiên trưởng đến trợ chiến thì dạ trẫm chẵng còn lo sợ nữa.

                          Vua liền sai người đưa đạo nhơn về am an nghĩ, rồi sai người dọ thám coi binh viện chừng nào đến.

                          Ðây nói về khi Kim Phiêu xông phá trùng vây rồi giục ngựa đi riết cả ngày đêm, đến tỉnh Giang Tô, thẳng vào viên môn nói với quân giử cửa rằng :

                          - Có mật chỉ vua đến cho Trang Tuần phủ.

                          Quân vào báo, Trang đại nhơn lập tức rước vào nội thất lạy tạ thánh chỉ, rồi mở chiếu ra thấy như vầy :
                          " Trẩm này ở tại Hải Ba trang bị Miêu tặc Châu Hồ Lử sanh tâm cướp giá, đem binh vây khổn thậm cấp, nên trẫm sai Kim Phiêu phá vây, đến viện binh giải ách. Khanh đặng chiếu nầy phải lập tức, dẫn đại binh bộ và thũy đến cứu cho mau, chớ khá diên trì, ngộ sự ".

                          Trang Tuần phũ đọc biểu rồi cả kinh, liền ra mắt Kim Phiêu hỏi thăm các việc.

                          Kim Phiêu tõ hết ngọn nguồn và thuật chuyện Cao Phát Sĩ tư thông với giặc, sanh sự cướp
                          giá, giao chiến bị mình giết tại trận, xin Ðại Nhơn phải hỏa tốc điều khiển các đạo binh đến cứu viện cho mau, mà giải giá, kẻo sợ Hải Ba trang không được chắc ắt là bị giặc hảm phá.

                          Trang Tuần phủ nghe nói cướp giá, thì kinh khủng, tỏ cùng Kim Phiêu rằng :

                          - Tại ta không cẩn thận tế sát, tội ấy ở nơi ta. Nguyên ngày trước Cao phát Sĩ kiếm cớ xin ta đặng thăm quê quán, ta ngở thật mới cho đi, nay sanh ra điều tác tệ dường ấy, may nhờ Tướng quân giết nó rất đáng, công lao Tướng quân rất hệ trọng.

                          Nói rồi điểm đại binh giao cho Từ Chiêu quản suất trung quân, và cắt mười người chiến tướng xuống chiến thuyền dẫn quân đi trước, còn Trang Cữu Cung và Kim Phiêu dẫn đại binh do nơi đường cái thẳng đến Hải Ba trang, tổng cộng cả hai đạo binh là ba muôn, còn thành quách thì giao cho Từ Lưu ở lại gìn giử ; lại tư tờ cho quan Ðề đốc ở Hải Biên quan tên là Diêu Văn Thắng và quan Tổng đốc Hà đạo quan, tên là Bá Ðạt, khởi binh lập tức đến Hải Ba trang tiếp chiến.

                          Nguyên Diêu Văn Thắng là chú ruột Diêu Lân, khi đặng tờ công báo lập tức khởi binh, đi dọc đàng gặp đạo binh Bá Ðạt dẫn đến.

                          Hai đàng hiệp binh lại, hỏa tốc đi riết không kể ngày đêm.

                          Nói về đạo binh của Trang Tuần phủ đi trước còn đặng ba chục dặm nữa, thì đến Hải Ba trang, quân do thám báo rằng :

                          - Xin Ðại nhơn hãy đình quân, vì giặc đóng binh cách đạo binh ta chừng vài dặm thôi.

                          Trang Tuần phũ liền truyền lịnh gaii đạo binh an dinh hạ trại nghĩ một đêm, rạng ngày sẽ giao chiến, rồi nghĩ thầm rằng :

                          - Miêu tặc hạ trại kết dinh còn đương phòng giử ở ngoài, thì chắc là Hải Ba trang chưa bị hại.

                          Qua ngày thứ, Trang Tuần phủ vừa thăng trướng, có quân vào báo :

                          - Có Ðề đốc Diêu Văn Thắng và Tổng đốc Bá Ðạt dẫn năm ngàn binh mới đến, còn ở ngoài dinh, dạy tôi vào bẩm cho Ðại nhơn hay.

                          Trang Tuần phủ cả mừng vội vàng ra rước vào dinh, trò chuyện khắc kỳ cũng nhau rằng :

                          - Nội ngày nay bọn ta phân ra bốn binh bốn ngã đánh riết vào dinh giặc ắt chúng nó rả tan.

                          Nghị luận xong rồi, mỗi người đều trở về dinh đặng điều khiển dấy binh .

                          Phía Ðông về phần Bá Ðạt sai Trung quân là Dương Ứng Long dẫn quân riết đến, phía Bắc thì Diêu Ðề đốc dẫn binh đánh tới ; phía Tây thì Kim Phiêu cũng dẫn binh áp đến, còn phía Nam thì Từ Chiêu và quan Tuần phũ đánh vô ; bốn đạo quân cờ xí gươm giáo người như rừng, tiếng ó la chém giết vang trời.

                          Lúc ấy Châu Hồ Lữ đang đốc quân phá Hải Ba trang, song bị hào hố chông gai tứ diện hiểm trở, lại các vọng lầu theo đường lớn vô Hải Ba trang đều trí hỏa pháo khó nổi lại gần nên vô kế khả thi.

                          Xảy nghe bốn phía quân la ó đánh tới dường như hỏa ngộ phong, thì biết có binh đến tiếp ứng.

                          Hồ Lữ ỷ mình có phép tà thuật nên không sợ, liền đốc suất cầm binh khiển tướng ra cự đương cùng bốn đạo binh ấy.

                          Lúc ấy vua ở trên địch lầu thấy cờ hiệu quan quân của mình, bốn phía áp vào dinh giặc, bèn lật đật cho triệu Huỳnh đạo nhơn vào thống lảnh chư tướng ra tiếp ứng.

                          Khi Huỳnh đạo nhơn dẫn binh đánh nhầu vô trung ương, đạo binh Hồ Lử cả loạn, đầu đuôi cứu nhau chẳng đặng.

                          Hồ Lữ thấy thế nguy cấp bèn lấy thư hùng bảo kiếm ra họa phù niệm chú, thì thiên ám địa hôn, cuồng phong khởi loạn, đá dậy cát bay, quái thần binh vô số, bốn đạo binh cứu ứng đều hoảng kinh hồn vía, vừa muốn chạy, còn Thi Lương phương vừa muốn dùng ô uế trừ tà thuật, xảy thấy Huỳnh đạo nhơn rút cây đào mộc kiếm chỉ ngay mấy vật quái ấy niệm thần chú, bắt ấn, liền nỗ ra một tiếng sấm vang tai, các vật quái ấy đều tiêu hủy, trời sáng lại như thường.

                          Hổ Lữ cả giận mắng rằng :

                          - Ngươi là đồ dã đạo ở đâu đám đến đây phá phép tiên của ta ?

                          Huỳnh Giả Tiên cười nói rằng :

                          - Bọn bây là Miêu tặc tự thị yêu thuật hại người, nghịch mạng trời trợ kẻ tàn bạo hại dân, ngươi sẽ chết tại tay ta, sao không hối ngộ hàng đầu, còn dám khoe khoang lổ miệng.

                          Hồ Lữ nghe nhiếc nổi xung nói :

                          - Ngươi là đồ khốn kiếp, ta nguyện giết ngươi cho đặng mới phỉ tấm lòng.

                          Liền thò tay vào túi da có lấy ra một cục đá tên là Thạch bửu ngũ sắc thần quang, niệm chú, nhắm ngay đầu Huỳnh đạo trưởng mà quăng, hào quang túa ra sáng lòa rất nên dữ tợn.

                          Quỳnh Giả Tiên lật đật lấy đào mộc kiến ra đở, miệng niệm chú tay chỉ, vùng nổ ra một tiếng lớn chém đứt bưu thạch ra làm hai.

                          Châu Hồ Lử thất kinh liền lấy thần châm quăng lên hại Huỳnh Giã Tiên.

                          Huỳnh Giả Tiên biết là đồ độc, liền lấy quạt phong hỏa bồ quăng tên đở độc châm, rồi niệm chú biểu Huỳnh Cân lực sĩ đến rút châm dạy đem về La Phù sơn đặng phát lạc.

                          Lực sĩ vâng lịnh rứt đi mất.

                          Hồ Lư chưng hửng rút thư hùng kiếm ra sáng lòa như tuyết, nhắm chém Huỳnh Giã Tiên.

                          Huỳnh Giả Tiên lấy bửu kiếm ra đở, hai đàng đánh nhau được vài hiệp, thì Miêu binh bị binh trào chém giết mười phần hết bảy.
                          Hồ Lử thấy việc không xuôi, vừa muốn độn thổ chạy, chẳng dè bị Huỳnh Giả Tiên quăng đào mộc kiếm ra rớt xuống nhằm mình Hồ Lữ đứt làm hai đoạn.

                          Trang Tuần phủ thấy đầu đãng giặc đã bị giết rồi, bèn bảo quân giặc hàng đầu thì khỏi chết.

                          Quân gịặc nghe truyền ân xá mừng rỡ qui hàng.

                          Bá Ðạt truyền lịnh hồi chiêng thâu quân.

                          Các quan vào Hải Ba trang bái yết, vua lấy lời ngon ngọt phủ ủy các quân đâu về trấn nhậm đó, chờ vua về trào sẽ thăng thưởng ; còn bọn giặc hàng đầu thì giao cho Trang Tuần phủ biện liệu, rồi truyền bày yến tiệc ăn mừng giải lao chư tướng.

                          Khi ấy Huỳnh Giả Tiên cáo biệt về núi thì vua phong làm Thanh Hư diệu đạo nhơn.

                          Giả Tiên tạ ơn vua, rồi độn thổ đi mất.

                          Các quan lấy làm lạ tâu :

                          - Bởi chúa thượng nhơn từ mới có chơn tiên đến giúp.

                          Khi mản tiệc các quan từ giả trở về bổn trấn.

                          Sẳn dịp ấy vua tả một đạo chĩ giao cho thôi Tử Tương, Diêu Lân, Thi Lương Phương, Kim Phiêu và Lôi Văn Báu, đem đến Kinh ra mắt Binh bộ thượng thơ đặng cấp bỗng cho năm ngườii làm Tham đu đô tư, bổn trấn các tĩnh, năm người lạy tạ ơn vua ; khi vua phán đoán các việc an bài, bèn đem Nhựt Thanh nhắm Cô Tô thẳng đến.

                          Ðây nói về tĩnh Phước Kiến tại chùa Thiếu Lâm tự có một ông hòa thượng lên là Chí Thiện thiền sư, đang giảng dạy kẻ môn đệ học tập võ nghệ, lộng quờn, phi khước; xảy thấy Hồ Huệ Càng quì trước mặt xin trở về Quảng Ðông, trước thăm viếng mộ phần, sau báo cừu bọn Cơ phòng tữ giết cha ngày trước ; xin thầy nhậm tình thương xả ơn ấy cám đội vô cùng.

                          Ấy là :

                          Chí tâm muốn trã oan cùu trước
                          Ðoái lụy liên hờn các giáo sư

                          Comment


                          • #14
                            Hồi Thứ Mười Bốn



                            Học trò Thiếu Lâm tự lén hạ san
                            Phe đảng Cẩm Luân đường lo đi kiện




                            Nóị về Chí Thiện thiền sư nghe Hồ Huệ Càng cầu xin về Quảng Ðông đặng trước thăm viếng mộ phần, sau đánh báo cừu bọn Cơ phòng tử, thì lấy lời ngon ngọt mà nói :

                            - Nay con muốn gấp về báo cừu cho cha con, ấy là việc hiếu khá khen, thầy đâu dám ngăn cản, song con cũng biết điều lệ chùa nầy đã có lời truyền bảo trước cho chư đệ tử hay rằng :

                            - Phải khổ luyện tinh ròng võ nghệ chưa đủ mười năm và phá cho đặng mộc nhơn, mộc mã một trăm tám chặng, thẳng riết ta cửa ngỏ, mới được hạ san, cho khỏi mất danh tiếng chùa nầy, còn như bị mộc nhơn, mộc mã đánh té thì phải khổ tâm tập luyện nữa chớ không đặng ra khỏi chùa, nay thầy xét phận con võ nghệ chưa đặng tinh, e xuống đánh báo cừu không lại chúng, có phải chết uống mạng chăng ? Ðã vậy thì chớ lại còn thêm nhục tiếng thầy, vì vậy nên thầy chẳng khứng cho con hạ san gấp.

                            Hồ Huệ Càng nghe thầy cạn tõ bấy nhiêu lời, bèn thưa rằng :

                            - Xin thầy cho phép con đánh thử mộc nhơn mộc mã con có tiện việc chăng ?

                            Chí Thiện nhậm lời.

                            Hồ Huệ Càng cầm thiết côn thẳng ra sân, thấy mộc nhơn, mộc mã đã mở máy khua động chín ghê, Hồ Huệ Càng chuyển thần lực cẩn thận gìn giữ đở trước ngăn sau, chống cự được ba mươi sáu chặng, ấy là cũng khổ luyện công phu lắm, mới đặng đến chặng đó, đánh lần ra một chặng nữa, liền bị mộc nhơn đánh té nhào xuống, lật đật kêu thầy cứu mạng.

                            Chí Thiện hối học trò khóa máy lại, thì mấy mộc nhơn, mộc mã đều đúng cứng không khua động nữa. Khi ấy các đệ tử mới đám vô cõng Hồ Huệ Càng ra, đem thẳng đến pháp đường, thì thấy Hồ Huệ Càng lỗ đầu xể mặt máu chảy dầm dề, nằm thiêm thiếp, ai nấy xem thấy chắc lưỡi lắc đầu kinh sợ, mới biết máy ấy là dữ.
                            Lúc ấy Chí Thiện đem thuốc thấm rửa một hồi cho thấm gân cốt, rồi cho uống linh đơn huờn hồn, liền bớt đau và bó thuốc ráng dịt mấy chổ thương tích, trong mấy phút dẫn máu hết sưng, đi đứng như thường, liền quì lạy tạ ơn Chí Thiện, chư đệ tử mừng rỡ khen thuốc hay thần hiệu.

                            Khi ấy Chí Thiện lấy lời an ủi Hồ Huệ Càng rằng :

                            - Con hãy bền lòng rèn chí ở lại một hai năm nữa, tập luyện võ nghệ thêm cho tinh, khi ấy sẽ hạ san mà báo cừu cũng chẳng muộn màng gì, nếu ngày nay con nóng xuống báo cừu, thầy e cho con, cừu nhơn trả chưa đặng mà lại bị hại thì bất tiện cho con, và cũng nhục cho thầy nữa.

                            Hồ Huệ Càng gắng gượng vưng lời thầy, lui vào phòng trằn trọc, ngồi đứng không yên, thầm tính một mình rằng :

                            - Con người sanh trong đời đất có một việc hiếu làm trọng, nay cừu cha chưa trả đặng sao gọi làm người, như ta húy tử tham sanh ẩn dật xứ người, ngơ lấp việc cừu nầy thật xấu hổ với đời, lại mang thất hiếu, nếu nghe lời thầy ở học thêm võ nghệ phá cho đặng mộc nhơn, mộc mã thì tuổi đã già rồi, nay còn nhỏ phải ráng lo trả thâm cừu, dầu chết cũng cam tâm, ta muốn trốn về Quảng Ðông đặng báo cừu, thì khó bề là vì cửa chùa tăng nhơn canh giữ nghiêm nhặt, muốn nhãy ra tường thì bị lưới sắt phủ giăng. Sực nhớ lại có hào rộng lớn thông ra ngoài tường, vậy sẽ do theo đường thủy đạo mà thoát thân thì xong, tính được kế ấy mới bớt rầu phiền, lo dưỡng thương tích cho lành mạnh, cách vài ngày bịnh lành mạnh như xưa.

                            Khuya đêm ấy lúc vắng vẽ, Hồ Huệ Càng lén vượt hào ra đến tường, cắt phía lưới sắt, nhảy ra khõi tường, trời vừa sáng tuốt đến tỉnh thành Tuyền Chiêu mướn ghe về Quảng Ðông.

                            Rạng ngày Chí Thiện thức dậy, các đệ tử đến ra mắt trình diện viếng thầy, mà không thấy mặt Hồ Huệ Càng, thì hồ nghi, bảo các học trò lục kiếm trong ngoài, mới hay Hồ Huệ Càng vượt hào phá lưới sắt trốn rồi.

                            Chí Thiện buồn rầu, than rằng :

                            - Ðồ đại dột không nghe lời khuyên bảo, nay trốn đi ắt tánh mạng chẳng còn, rất uổng công ta dạy dỗ mấy năm trời, chẳng khác chi công linh thả xuống giòng nước, khá tiếc thương cho đứa hiếu dường ấy.

                            Các học trò nghe thầy than thở thì xúm nhau can khuyên thầy an tâm, bớt cơn phiền muộn.

                            Nguyên Chí Thiện bình nhựt thương Hồ Huệ Càng như con ruột nên gắng công dạy võ nghệ lấn hơn các học trò, nay Hồ Huệ Càng trốn về báo cừu cho cha, nên vắng mặt thì đem lòng thương nhớ, song việc dĩ lỡ rồi phải gắng gượng làm lơ.

                            Nói về Hồ Huệ Càng về đến tỉnh thành ghé chùa Tây Thiền tự, không tỏ sự mình trốn thầy mà về.

                            Khi ấy mấy người anh em bạn ở chùa này xúm lại mừng rỡ hỏi thăm sư phụ ở Thiếu Lâm mạnh giỏi ra thể nào, cùng sư huynh đệ sức khõe chăng ? Khi chuyện vản vừa xong, liền dọn tiệc đải đằng hĩ hạ, thì Hồ Huệ Càng thuật công việc học hành tại Thiếu Lâm tự cho bậu bạn nghe, kế trời tối dọn dẹp đi nghĩ.

                            Rạng ngày Hồ Huệ Càng tõ thiệt công việc về đây đặng đánh bọn Cơ Phòng tử mà báo cừu cho cha ngày trước, mấy người anh em nghe nói đều ưng ý, song có một hai người trải việc thì ngăn cản không cho, vì xợ dấy động ra việc to ắt phải liên lụy đến bọn mình nên cản trở, song Hồ Huệ Càng quyết tình báo cừu cho đặng, nên không nghe treo lời can gián, liền thân hành đến tiệm đặt một cặp đèn lồng lớn, treo trước cửa Tây Thiền tự và mười mấy cái đèn nhỏ treo chung quanh, mỗi cái có đề chữ son và chữ mực đính tên Tây hội Hồ Huệ Càng, quyết đánh bọn Cơ Phòng tử, song tiệm lồng đèn không dám lảnh làm, vì ở gần Vơ Phòng Tử, nên Hồ Huệ Càng phải đến tiệm khác xa chốn ấy, đặt làm theo các việc đã nói trên đó, rồi tối áp đặt treo đốt rực rỡ cả chùa.

                            Ðêm ấy bọn Cơ Phòng Tử xem thấy chữ hiệu của lồng đèn Hồ Huệ Càng trả thù đánh bọn mình, thì tức giận căm gan , liền trở về xáng mã la lên, tựu lại hơn mười mấy người, cụ bị khí giới, tính đến chùa, trước là đánh phá mười mấy cái lồng đèn, sau nữa vào chùa tìm huề thượng để tra vấn.

                            Chẳng dè Hồ Huệ Càng đã sắp đặt với mấy người anh em bạn mà gìn giử, kế bọn Cơ Phòng Tử xốc đến vừa muốn phá lồng đèn, thì Hồ Huệ Càng liền nhãy xòng ra trước cửa chùa cản lại hét lớn :

                            - Ta là Hồ Huệ Càng đón đây đánh bọn chúng bây.

                            Bọn Cơ Phòng Tử nghenói không hỏi vì cớ nào, cứ áp cây đánh Hồ Huệ Càng.

                            Hồ Huệ Càng sẳn giận, nên huơi thiết côn đánh tới, ngọn côn múa như giao long giởn sóng, như tuồn cọp mạnh lìa rừng, đánh bọn Cơ Phòng Tử tan nát dường như hue rụng, máu chảy dầm đường, chết hết mười ba mạng, bị thương chạy vô số, còn bọn Hồ Huệ Càng thì trở vào chùa an nghĩ.

                            Qua ngày sau bọn Cơ Phòng Tử đầu đơn cáo báo cùng quan huyện Nam Hải là Châu đại gia, xin đến chốn ấy khán luật nghiệm.

                            Ðơn đầu cáo như vầy :

                            "Cẩm Luân đường khấu bẩm :
                            Nguyên bọn chúng tôi từ ngày khai tiệm đến nay, chuyên lo dệt hàng lụa, buôn bán sanh nhai, thủ phận làm ăn, giử gìn phép nước, chẳng dám khi sức đến ai, nay Hồ Huệ Càng hiệp cùng bọn ác tăng là Tam Ðức huề thượng, Hồng Hi Quang và Ðổng Thiên Cân, toa rập đốt đến treo trước cửa chùa Tây Hội, Hồ Huệ Càng độc đả bọn chúng tôi chết mười ba mạng, còn bị thương tích mười người, rất nên oan ức, xin ông đến chốn ấy khán luật nghiệm, phán đoán trừng trị kẻ hung phạm cho chúng tôi thờ phần phước.
                            Trần Ðức Thơ đẳng khấu bẩm ".

                            Quan Huyện Châu Hồng Tân xem thấy lời đưn cáo thì thất kinh, xét vì đời thái bình, lẽ nào dám làm việc dữ giết người không sợ phép nước, liền lập tức sai nha dịch đi bắt Hồ Huệ Càng đến đặng hầu tra án mạng rồi thân hành đến chổ đánh lộn ấy đặng khán nghiệm lấy cái tử thi, và xét những kẻ bị thương tích coi nặng nhẹ đặng kết án.

                            Khi khán nghiệm rồi dạy tẩn liệm, chôn cất mấy cái thây ấy, hến quay về nhà tắm gội, khử uế trược, thay sắc phục triều đình, thăng đường ra khách thẩm vấn Huệ Càng vì cớ nào giết người không kiêng phép nước.

                            Hồ Huệ Càng khóc bẩm rằng :

                            - Nguyên cha tôi ngày trước bị bọn Cơ Phòng Tử đánh làm bịnh nặng mà chết, sau lại tôi cũng bị bọn nó đánh ngất ngư, may nhờ Phương Hiếu Ngọc gặp cứu khỏi đem đến Thiếu Lâm tự ra mắt Chí thiện thiền sư, ở đó gắng công khổ luyện võ nghệ, nay về báo cừu cho cha tôi. Nguyên việc đánh cha tôi chết đó cũng mới đây, thiên hạ đều biết, xin ông thẩm xét minh bạch, ngay gian cho kẻ tiểu nhơn nhờ phần phước, dầu chiếu theo luật hình trị tội, xữ giết tôi cũng cam tâm.
                            Quan huyện nghe mấy lời Hồ Huệ Càng cung khai, lời ăn nói hẳn hòi, chí khí can đảm anh hùng, không sơ chết bó mình chịu tội, thì thầm nghĩ trong lòng :

                            - Việc này quả chẳng sai, vì khi ta mới đáo nhậm tỉnh này thường nghe đồn bọn Cơ Phòng Tử có thói dữ tợn ỷ mạnh hiếp người hoành hành khi yểm các phố. Bởi vậy án kết bọn nó tại huyện đường vì tội đánh người đã bốn năm án.

                            Khi quan Huyện nghĩ rồi, thì cất tiếng truyền lịnh dạy Hồ Huệ Càng như vầy :

                            - Theo lời Ngươi cung khai đó, như quả thật thì ngươi là đứa hiếu tử, ta sẽ chạy tờ bẩm cho Thượng Ti tha tội cho ngươi, song không biết lấy cớ chi làm chắc.

                            Huệ Càng bẩm rằng :

                            - Nguyên cha tôi khai tiệm buôn bán tại đây đã lâu, khi bị bọn Cơ Phòng Tử độc đả trọng bịnh mà chết thì lân gia lý hựu đều biết, xin ông do thám, nếu tôi khai gian thì tội tôi phân thân muôn đoạn cũng cam .

                            Quan Huyện thấy Huệ Càng cam đoan ắt chất, thì dạy quân nha dịch tạm giam Hồ Huệ Càng nơi ngục, còn bọn Tam Ðức huề thượng tha đở cho về chùa nghĩ an, chờ xét minh lẻ vụ nay trong vài ngày sẽ nhứt định.

                            Khi ấy quan Huyện vào nhà trong thay đổi sắc phục, ăn mặc đồ thường, lén đi một mình đến gần lối tiệm của cha Hồ Huệ Càng ở buôn bán khi trước, làm bộ vô tình không biết gì, hỏi thăm lom thưng ẻ ấy về sự Hồ Huệ Càng làm sao mà dám giết phe Cơ Phòng Tử nhiều như vậy, hay là Hồ Huệ Càng điên cuồng gì hay sao, nên không kiêng phép nước.

                            Những kẻ ở gần đó thường thường có dạ bất bình về phe Cơ Phòng Tữ húng hiếp người song sợ phe đãng ấy đông, nên phải nhịn thua, nay thấy có người hỏi thăm vụ ấy thì trả lời rằng :

                            - Số là khách quan không rõ nên gọi Hồ Huệ càng điên, chớ như rõ thiệt thì hắn là người rất chí hiếu.

                            Quan Huyện nghe nói thì hỏi :

                            - Làm sao gọi rằng nó chí hiếu ?

                            Mấy người ấy đáp :

                            - Tiên sanh là khách qua đường, bọn tôi cũng không hiềm nghi gì, để tôi nói hết cho tiên sanh nghe : Nguyên việc mới chừng hai năm nay, nhiều người rõ biết vụ ấy mà không ai dám hở môi, là vì bọn Cẩm Luân đường giàu có lớn, thế thần to, ở cùng nhau đồng lòng lắm, phàm có xảy ra việc gì thì chung cùng, vác của xúm lo cho nhau, nên húng hiếp nhung kẻ lân cận coi phép nước như không nay bị Hồ Huệ Càng đánh chết lũ bó cũng đáng kiếp lắm, thật là trời có con mắt, báo ứng rõ ràng, khi đánh chết cha Hồ Huệ Càng, cả thảy đền biết, song sợ bọn nó kết oán, không ai dám làm chứng minh oan, sau Hồ Huệ Càng đến phân biện cũng lũ nó về sự cha bị chết ức, lại bị bọn nó đánh gần chết nữa, may nhờ gặp phe Tây Thiền tự cứu Hồ Huệ Càng khỏi hại.

                            Quan Huyện nghe như vậy cũng chưa lấy gì làm tin, liền từ biệt đến chốn khác hỏi thăm cũng nói y như thế nên quan Huyện hết hồ nghi, mới trở về nha chạy tờ bẩm cho Thượng Ti rỏ khúc nôi.

                            Thượng Ti xét theo lời quan Huyện bèn dạy tiêu hủy án ấy, phóng xá Hồ Huệ Càng và truyền dạy hai đàng từ nầy sắp đến sau phải lo làm ăn thủ phận, không đặng tranh đấu cùng nhau nữa, quan Huyện lại lên án phân đoán rao cho thiên hạ biết như vầy :

                            "Từ ta đáo nhậm tĩnh này, vì nước thương dân trừ hung khữ bạo, thẳng ngay một lẻ, minh điều oan khuất, vạch nẻo gian tà, nay ta tế sát án mạng bọn dệt tơ lụa của Cẩm Luân đường, tục danh là Cơ Phòng Tử bị Hồ Huệ càng giết chết mười ba mạng bị thương tích mười người, án nầy hủy bõ không làm tội Hồ Huệ càng, vì nó có lòng hiếu thảo vẹn trả thù cha, đã bị bọn Cẩm Luân đường ỷ thế húng hiếp đánh chết, ngày trước đã giết chết cha người thì chớ, lại còn mong tuyệt dòng giống người, cường bức Hồ Huệ Càng gần chết ngày nọ, xét lỗi ấy trước tại phe Cẩm Luân đường khởi đoan hoành hành thị cường, coi phép nước như không, nên nay trời xui mang họa dường ấy. Nay ta nhiêu dung hai đàng, song phải bõ thói cũ , thủ phận làm ăn, nếu còn ỷ thế hoành hành ra nữa, hoặc bị người ta thưa kiện hoặc ta nghe được thì gia tội chẳng dung, chớ khá than trách rằng ta không giáo huấn trước ".

                            Ðây nói về bọn Cơ Phòng Tử thấy án quan Huyện truyền rao như vậy thì biết tại mình gây họa ngày trước nên nay không làm tội Hồ Huệ Càng, thì có ý kiêng sợ, nên dằn lòng lo làm ăn, không dám khởi đoan gây oán thù nữa. Không dè Hồ Huệ Càng lòng dữ không chừa, bởi thấy mình giết người ta nhiều quan không gia tội, nên hoành hành không sợ, mỗi ngày giắt thước sắt vào lưng, ra đường hễ gặp bọn Cơ Phòng tử cứ việc đánh không dung, tối lại vầy bạn tác tại võ quán, cắt phần mỗi người đều có khí giái tùy thân, còn lồng đèn thì đốt theo các nẻo đường, nhứt là tại chồn Hà Cơ, Tân kiều, Kiên sa nang, Thanh tử, Y linh miễu, mấy chổ này đều gần ranh phố bọn Cơ Phòng Tử, ấy là cố ý cho ngó thấy bọn Cơ Phòng đánh cho dễ, song không đánh chết, chớ cũng bị gảy tay lổ đầu mới đã giận.

                            (Ðến sau Thượng Ti dọ thám hay đặng nên lên án xứ tử Hồ Huệ Càng là việc sau ).

                            Nói về bọn Cơ Phòng Tử bị thương lần sau rất nhiều, nên đóng cửa tiệm lại không buôn bán nữa.

                            Khi ấy ba ông chủ là Trần Ðức Thơ, Lý Quế Phương và Bạch An Phước, mời cả phe lớn nhỏ nhóm nhau nghị rằng :

                            - Bởi ngày trước bọn ta sanh sự, nên dấy việc họa ngày nay, bị quan Huyện mật thám rõ biết sự tình, tiêu hủy án mạng, lại bị trách cứ, bởi vậy Hồ Huệ Càng đặng nước không kiêng nể phép quan, cứ theo làm hại bọn chúng ta hoài, thì chịu nhục sao kham, còn như muốn lựa người ra chống cự với nó, thì bọn ta không có kẻ giỏi. Vậy chúng ta ai biết chước chi hay đặng trừ nó cho được, thì mới an việc bán buôn.

                            Khi bàn luận thì mấy kẻ khởi đoan việc họa ngày trước tự hối trong lòng rằng :

                            - Phải dè như vầy thì ngày trước chẳng nên làm dữ làm chi.

                            Còn kẻ trải việc thì có lòng hờn giận mấy tay khuấy rối sanh ra điều sầu thãm hôm nay, căm giận không đám nói ra, thảy đều nhìn nhau làm thinh lẳng lặng, không ai nói chi hết.

                            Bạch An Phước thấy vậy thì có lòng phiền tính kế như vầy :

                            - Nếu muốn trừ kẻ nghịch cho tiện, thì đừng sợ tốn tiền, phải đậu cùng nhau, mượn một người khí khái võ nghệ cao cường về đây giết nó cho đặng, mới tiêu oán hận nầy.

                            Nội bọn nghe nói đều mừng khen tính kế ấy rất hay, song không biết đâu có người võ nghệ siêu quần, chớ tay tầm thường ắt không xong.

                            Bạch An Phước nói :

                            - Ta có nghe tại Võ Ðương sơn có một người đạo sĩ hiệu là Bát Tý Na Tra, tên chũ là Phùng Ðạo Ðức, có dạy ba tên học trò võ nghệ tinh thông, bây giờ có người học trò thứ ba là Ngưu Hóa Giao ở tại Tây pháo đài, đương tập võ dạy kẻ môn đệ, nếu bọn ta dem bạc đến thĩnh người ấy về đây, ắt Hồ Huệ Càng phải mạng vong, nhưng chúng ta phải dùng lễ trọng mới đặng, bằng tiếc tiền ắt là người chẳng khứng ra tay.

                            Nội bọn nghe nói đều vui lòng, liền đậu cùng nhau được ba ngàn lượng bạc, cậy An Phước lập tức ra đi, đến Tây pháo đài ra mắt Ngưu Hóa Giao.

                            Chuyện vản trà nước, hỏi thăm danh tánh cùng nhau, và tõ sự tình Hồ Huệ Càng húng hiếp.

                            Hóa Giao đáp rằng :

                            - Theo lời cậu nói tôi đâu dám từ, việc đánh cho chết Hồ Huệ Càng thì không khó, nhưng e lúc thái bình giết người không dể gì, phải khó cho phận tôi.

                            An Phước nghe nói lật đật lấy ra ba ngàn lượng bạc, hai tay dưng lên thưa rằng :

                            - Bởi bọn tôi khốn đốn, nay xin dưng lễ mọn nầy, rước thày về trừ kẻ nghịch ấy, như quan hay bắt tội thầy, thì bọn tôi chịu làm cam đoan gánh vác sự họa ấy chẳng dám sai lời.

                            Hóa Giao ý không chịu nhưng thấy lễ trọng rước mình đến ba ngàn lượng bạc thì xiêu lòng ưng chịu ra đi.

                            An Phước mướn kiệu khiêng Hóa Giao về đến công sở Cẩm Luân đường, bọn Cơ Phòng thấy An Phước xuống kiệu lại có rước được thấy nghề võ, lật đật chạy ra nghinh tiếp vào công sở, thết đải một cách trọng hậu và lấy lời bợ đở rằng :

                            - Bọn tôi nghe danh tiếng của lão sư bấy lâu như sấm vang tai, nay rước đặng về đây trừ kẻ nghịch, thật là bọn tôi rất nên có phước, xin lão sư thương mười mấy mạng đã chết, ráng ra sức giết Hồ Huệ Càng, trước là mấy đứng vong hồn chết oan ấy được siêu thăng, sau là bọn tôi được nhờ phần phước, xin lão sư lấy bụng hải hà thương xót, thì bọn tôi sẻ đặng toàn sanh thời chớ, lại vửng bền nghề nghiệp làm ăn, khỏi nổi chia ly lìa thảm, giết một mạng cứu đặng muôn người thì ơn ấy sánh tày tái tạo.

                            Hóa Giao nghe bấy nhiêu lời, liền đứng dậy lấy lời khiêm cung nói rằng :

                            - Vốn tôi là đứa võ phu học hành võ nghệ không bao nhiêu, nay các cậu lấy lễ trọng rước tôi đến đây, trong lòng tôi rất thẹn, nhưng mà tánh tôi bình sanh hay giúp đỡ kẻ nguy, chống ngăn người cường bạo, dầu Hồ Huệ Càng có dữ như cọp đi nữa, tôi cũng ráng sức trừ không khó gì, nay các cậu khiến tôi giết nó, tôi e nhơn mạng là điều hệ trọng, xin liệt vị tính lẽ nào ?

                            Trần Ðức Thơ đáp :

                            - Xin lão sư ra sức giết Hồ Huệ Càng chết mà quan ta vấn làm tội lão sư thì bọn tôi xin ra chịu tội thế, chẳng để lão sư mang tội đâu phòng sợ.
                            Hóa Giao nói :

                            - Theo lời lịệt vị đoan thế thì tôi xin tuân.

                            Mày người chủ liền làm tờ cam kết cho Hóa Giao cầm làm bằng, rồi bày tiệc đải đằng ăn uống cùng nhau, khi ấy Hóa Giao tra vấn cật hỏi tự sự trước sau, rõ hết ngọn ngành, thì nổi giận nói :

                            - Theo như lời liệt vị tỏ đây thì Hồ Huệ Càng báo cừu cho cha nó thì phải lẻ, song cừu oán đã trã được rồi thì thôi, có đâu khắc bạc mỗi ngày đánh phá giết người, tuy là nó không thù chi với tôi, nhưng nghe nó làm sự hoành hành như thế, khó nổi nhiêu dung, vậy rạng ngày mai hãy viết phiếu rao cho Hồ Huệ Càng, hẹn trong ba ngày đến Y Linh miễu tại lôi đài tỷ võ, chớ giao chiến ngoài đường sợ đánh nhằm kẻ đi đường hóa ra bất tiện.

                            Ai nấy nghe nói phải lẽ lấy làm ưng phục.

                            Có bài thơ như vầy :

                            Dốc trả cừu xưa đáp nghĩa thân
                            Cớ sao đon đạo chẳng tương lân
                            Tham tiền gánh vác thân tiêu tán
                            Chớ trách đây rằng dạ bất nhân

                            Nói về Hồ Huệ Càng thì ngày đánh phá bọn Cơ Phòng Tử thì người bị thương tích không xiết kể. Bởi vậy Tam Ðức huề thượng và mấy người anh em bạn của Hồ huệ Càng thấy Hồ Huệ càng hoành hành làm vậy, thì lấy lời phải can gián rằng :

                            - Chớ nên dấy việc hung bạo nữa, nếu không nghe sẽ gởi thơ thưa cho thầy hay.

                            Hồ Huệ Càng nghe nói thất kinh, bèn cầu xin chư huynh đệ đừng viết thơ cho thầy, từ rày sắp sau không làm thiệt hại cho chúng nó nữa.

                            Tam Ðức hòa thượng nghe nói thì mừng mà nói :

                            - Vã càng hiền đệ ở tại đây, nếu còn sanh sự nữa, trước là liên lụy tới anh là người tu hành, sau nữa mất bề danh tiếng chùa này, có phài là bất tiện cho anh chăng ? Em phải biết ngày trước em đã đánh chết mười ba mạng con người, may nhờ Bồ Tát che chở phù hộ em được vững vàng bổn mạng, nếu lấy em còn khởi đoan ra nữa thì anh e quan sở tại không nhiêu dung. Phàm ra làm người phải dè dặt cẩn thận thì khỏi sự nhục đến mình, em là một đứng thông minh nói ít biết nhiều, xét theo các lời anh can gián đây có phải lẽ cùng chăng ?
                            Hồ Huệ Càng nghĩ lại biết mình lổi, thì tự hối ăn năn mà thưa :

                            - Em rất cám đội ơn anh giáo huấn.

                            Ngày kia Hồ huệ Càng thấy giấy trường hồng dẫn ngoài chùa như vầy :

                            "Bọn ta làm nghề dệt tơ lụa hiệu là Cẩm Luân đường nguyên có thù khích với Hồ Huệ Càng, bởi nó nhiều phen ỷ sức, đánh giết bọn ta kẻ chết người đau, tính đà vô số, nay oan gia này khó giải, nên bọn ta có rước được một người thầy nghề võ tên là Ngưu Hóa Giao đặng trừ nó, kỳ cho ba ngày dến tại Y Linh miếu là chổ có lập một cái nguyệt đài đặng tỷ võ, như Hồ Huệ Càng có tài hãy đến đó cự đương, chết ai nấy chịu, chẳng khá than van, bằng sợ chết chớ gọi đứng anh hùng ".

                            Hồ Huệ Càng coi rồi, nổi xung mà nói thầm rằng :

                            - Ta đã hết lòng nhơn đức nghe lời bọn ta can gián, dung cho lũ bây được toàn sanh, nay bây lại viết trường hồng dán đây mà khiêu khích ta, ta há lại đi nhịn thua, để ta làm cho bây một trận nữa mới đã nư.

                            Nói rồi xách đao đến cữa Cơ Phòng Tử xông phá chém rả những hàng lụa đương dệt.

                            Lúc ấy bọn Cơ Phòng Tử không dám cự bõ chạy hết.

                            Khi Ngưu Hóa Giao hay đến tiếp cứu, thì Hồ Huệ Càng đã trở về chùa rồi, Hóa Giao liền sai cắt bốn tên học trò là Lý Hùng, Mã Dỏng, Châu Oai, Hầu Mãnh và mười người mạnh dạn có khí giái tùy thân giữ canh các nẻo đường, sợ Hồ Huệ Càng trở lại phá nữa, và dặn dò như thấy Hồ Huệ Càng đến thì xáng mã la đặng nghe đến tiếp ứng, sai cắt xong rồi, liền khiến người quét tước Y Linh miếu cho sạch và dọn dẹp thủy nguyệt đài cho tử tế, trên đài treo màn trướng, trước dán trưòng hồng, căn giữa treo một tấm trướng đề bốn chữ : "Thượng nghĩa tranh hùng " Nghĩa là hơn, sau tranh sự giỏi dở cùng nhau cho biết, còn hai cột đài treo một đôi liễn như vầy :

                            Vì bạn báo cừu trọng nghĩa ra oai tróc hổ
                            Cùng người trả hận quyết tình diễn võ đảo long.

                            Khi bài trí rồi, thì bọn Cẩm Luân đường hộ tống Hóa Giao thẳng đến thủy nguyệt đài, Hóa Giao khi ấy mặc sắc phục như vầy : đầu bao khăn tơ, chơn đi dép sắt, mình mang giáp nhiễu, ngực nịt yếm đồng, mặt lớn, râu rìa, mắt lộ, hình to, cao tám thước, lưng ước một vừng, tay chở trăm cân, coi bộ vạm vở, bọn môn đồ đều nai nịt gọn gàng, phương thiên hạ đến coi chen chơn không lọt.

                            Hóa Giao lên đài liền sắp đặt kẻ môn đệ đứng giữ hai bên phòng lo tiếp ứng, rồi đứng giữa đài cấ tiếng lên nói cùng những kẻ đứng coi dưới đài :

                            - Ta nhơn đi đường thấy Hồ Huệ Càng húng hiếp bạn tác của ta, nay ta vì bạn ra sức chống đương, vậy trong đám đông này ai tên Hồ Huệ Càng hãy lên đài tỷ võ cùng ta cho biết thư hùng.

                            Nói vừa dứt lời, xảy thấy một người còn trẻ, hình dung tuấn tú, đương vịn trên vai chúng, vùng nhãy lên đài nhẹ như chim bay.

                            Ngưu Hóa Giao xem thấy người ấy ăn mặt tầm thường, không nai nịt, đầu đội mủ, mình mặc áo sô sa, chơn đi giày mã vĩ, tay cầm quạt kim phiến, mình cao tám thước, mặt mày xinh đẹp, má phấn môi son rất nên phong nhả.

                            Ngưu Hóa Giao khen thầm, nghĩ rằng:

                            - Người này hình dung giống đứng tư văn, không lẻ mạnh dạn, ắt là dễ giết.

                            Bèn vòng tay đáp lễ hỏi rằng :

                            - Ngươi có phải là Hồ Huệ Càng chăng ?

                            Hồ Huệ Càng đáp :

                            - Phải.
                            Và hỏi ngươi có phải là Ngưu Hóa Giao không ?

                            Như phải thì khá nghe ta phân tõ đôi lời rồi sẽ tranh đấu không chầy.

                            Ngưu Hoá Giao nói :

                            - Ngươi hãy phân mau đi.

                            Hồ Huệ Càng rằng :

                            - Vã chăng ta cùng ngươi kẻ một nơi người một ngã không quen biết nhau, cũng không thù nghịch chi, nay bọn Cẩm Luân đường tục danh là Cơ Phòng Tự đã giết cha ta vô cớ lại độc đả ta trọng bịnh, thiệt lũ bất nhơn, may nhờ có bạn ta cứu khỏi, tìm thầy chuyên học đả lâu năm đặng báo cừu cho cha ta, việc ấy quan Huyện sở tại đả tế sát rỏ rằng, thương ta là đứa đại hiếu, nên mới hủy án, ấy là người dưng còn biết xử nghĩa như vậy, huống chi thầy ta là Chí Thiện thiền sư với thầy ngươi là Phùng Ðạo Ðức vốn đồng môn cùng nhau, tình như thủ túc, sao ngươi không nghĩ bọn đồng đạo cùng nhau, nỡ tham tiền mướn là trọng, không kể người đồng đạo đến gánh vác việc này, trước không kể mạng sau đừng trách ta không nghĩ niềm hòa khí.

                            Ngưu Hóa Giao nghe Hồ Huệ Càng khuyên giải mấy điều thì tưởng thầm rằng :

                            - Một là Hồ Huệ Càng học hành không bằng ta, hai là sức yếu mới kiếm lời trau chuốt dịu ngọt làm vậy, thì đáp rằng :

                            - Theo lời nhà ngươi nói đó cũng phải, song nội bọn Cẩm Luân đường người nào hại cha ngươi thì ngươi tầm kẻ ấy trả thù mới phải, chớ lẻ nào đánh giết kẻ vô can, còn cha ngươi chết có một mạng mà ngươi đã đánh chết hết mười ba mạng chưa vừa lòng, lại còn hung hăng theo nhiểu hại người nữa, có phải là coi phép nước như không, cứ lo phận mình báo cừu được thì thôi, chớ cần gì sợ ai trả oán, như trong số mưòi ba mạng đã thác tại tay nhà ngươi đó. Nếu ngươi biết ta là một tay dữ, mưốn khõi chết hãy đến tại Cẩm Luân đường lạy tạ xin lổi, trước an táng và để tang cho mấy vong linh đã thác đó, sau nữa bõ xứ nầy mà đi, chớ khá gây sự tác tệ nữa, ấy là ta tưỡng niềm sư bá lắm, nên mới phân giải như thế, thì ta dung tánh mạng ngươi đặng.

                            Hồ Huệ Càng nghe nói nổi xung, nạt lớn lên rằng :

                            - Nhà ngươi hôm nay đến kỳ chết, nên mới buông lời nói vô lể như vậy.

                            Nói rồi cỗi áo ngoài quăng xuống đài cho bọn mình giữ, còn đồ mặc trong đã nịt sẳn sàng, liền vo tay áo, kêu Ngưu Hóa Giao nói :

                            - Phen nầy ta đưa ngươi về thiên đàng cho biết cỏi ấy ra thế nào.

                            Liền ra miếng Hắc Hổ Tán Tâm đánh tới, Ngưu Hóa Giao khen hay, rồi né lại một bên, dùng phép Ngân Long Thám Trảo ráng sức giơ tay mặt chống đở miếng Tán Tâm, còn năm ngón tay trái thì đâm vô sườn ba, Hồ Huệ Càng né khỏi, hai người ráp quờn đánh nhau qua lại như giao long giởn sóng, gạt đở nhậm lẹ giống cọp mạnh lìa rừng, qnờn đánh chơn đá như nhiếp, cả hai đều trí mạng cho nhau, kẻ nông sức trã thù cha, người ráng hơi trã cừu cho bạn, vốn hai người đều là học trò danh sư mà ra, võ nghệ cao cường, đánh từ sớm mai cho đến xế, thiên sầu địa thảm chốn chiến trường bụi hay cuồn cuộn, mặt trời u ám, chưa ai ăn thua, thiệt là : Kỳ phùng địch thủ, nan phân biện, tướng ngộ lương tài, các biển danh.

                            Những kẻ đứng coi dưới đài ngó sửng, ban đầu thay dạng hai người đánh quần cùng nhau, sau lần lần thấy quờn xoang lẹ như gió, chơn đá như mưa, ngó tá hỏa con mắt, đều khen rộ lên.

                            Nói về Hồng Hi Quan khi ấy dắt chư huynh tệ cùng kẻ môn đồ đến lôi đài, đem khí giới hộ thân phòng tiếp ứng, đứng dưới đài giử gìn sợ kẻ khác ám hại Hồ Huệ Càng.

                            Lúc ban đầu thấy Hóa Giao cao lớn vạm vở, tướng mạo hung ác thì có lòng lo cho Hồ Huệ Càng yếu đuối chống cự không lại, sau thấy Hồ Huệ Càng đánh quờn nhặm lẹ lui tới đũ phép tỷ với thầy mình nhắm cũng sâm si, xét lại thì hay hơn quờn mình nhiều lắm, có ý mừng thầm và khen Hồ Huệ Càng khổ luyện công phu, ngày nay mới rỏ là thầy mình thương Hồ Huệ Càng hơn hết, nên dạy các quờn biến ấy khác hơn của mình nhiều lắm, xét lại thì Hồ Huệ Càng nhờ các miếng tinh xảo mới đỡ gạt chống chọi với Hóa Giao được, chớ Hóa Giao thì sức mạnh vô cùng, nếu lấy sức cự thì Hồ Huệ Càng chống sao cho nổi.

                            Hóa Giao nhơn bởi tham tài lợi
                            Khiến phải mạng căn chẳng vẹn toàn

                            Comment


                            • #15



                              Hồi Thứ Mười Lăm


                              Ngưu Hóa Giao tham tài táng mạng
                              Lữ Anh Bố trượng nghĩa báo cừu



                              Nói về Hồ Huệ Càng cùng Hóa Giao giao chiến hơn nữa ngày chưa ai hơn thua, khi ấy Hồ Huệ Càng nghĩ thầm rằng :

                              - Mình yếu nó mạnh như voi, nếu lấy sức chống cự thì không lại, chi bằng dùng miếng Huê quờn là một miếng mật nhiệm của thấy ta truyền để hộ thân, khi gặp kẻ mạnh bạo mà dùng miếng ấy thì yếu sẽ trở lại mạnh, còn kẻ mạnh sẽ thất thế trở ra yếu.

                              (Nguyên miếng ấy không phải nai lưng kịch đánh đở, cứ lo trốn tránh trở né, nhảy trước nhãy sau, hoặc tả, hoặc hữu, lẹ làng như gió, giông tuồn vượn chuyền doanh bên mình, chờ cho Ngưu Hóa Giao mỏi mệt, chậm chơn day trở không kịp sơ sẩy, sẽ ra tay hại lại.)

                              Khi Ngưu Hóa Giao bị miếng ấy mệt đuối sức thì Hồ Huệ Càng đánh Hóa Giao đà nhừ, song nhờ sức mạnh nên chưa ngã còn ráng cự chống. Xét việc võ nghệ thì Hồ Huệ Càng học hơn Hóa Giao nhiều, còn sự mạnh thì không bằng, nên Huệ Càng dùng trí cậy miếng huê quờn nầy làm cho Hóa Giao hai con mắt sanh huê vì chưa học đến miếng ấy, nên bị đánh mềm xương, muốn nhãy xuống chạy, nhưng sợ mắc cở với bọn Cơ Phòng Tữ nên phải gắng gượng đánh đến chiều, lúc ấy Hồ Huệ Càng thăm hơi biết Hóa Giao đuối sức thì cã mừng, tinh thần thêm tráng kiện, đánh riết theo bên mình Hóa Giao một mảy chẳng rời.

                              Khi ấy kẻ đồ đệ và bọn Cẩm Luân đường thấy Hóa Giao bị đánh nhừ, muốn lên đài tiếp ứng, song bị mười người anh em bạn của Huệ Càng rút khí giái ra ngăn dưới đài hét lớn lên nói :

                              - Việc tỳ võ ai chết nấy chịu, nếu ai lên đài binh vực thì ắt bọn ta không dung.

                              Còn những người coi thấy việc bất bình như vậy, cũng nói y như lời bọn Hồ Huệ Càng, nên phe Cơ Phòng Tử và kẻ môn đệ của Hóa Giao đứng mà ngó trân.

                              Ðương lúc thiên hạ lao xao xảy nghe một cái đụi, xúm nhau ngó lại thì thấy Hóa Giao bị miếng Bát Khoái Phò Diệp của Huệ Càng đá té nhào xuống nói không được, tưởng có lẻ đã đứt ruột rồi, lại bị đá nhằm bể đầu, máu thất khiếu đều chạy ra đỏ đường, thiên hạ đều khen rộ Hồ Huệ Càng là người anh hùng võ nghệ rất hay.

                              Phe Cẩm Luân đường lấy ván cửa khiêng thây Hóa Giao về công sở đổ thuốc, giây phút tỉnh lại, mở mắt ra than rằng :

                              - Ta tưởng ta là một đứng anh hùng, không dè hôm nay chết tại tay Huệ Càng, vậy bọn bây chớ khá diên trì, mau đến Võ Ðương sơn cầu khẩn thầy ta là Phùng Ðạo Ðức mà thỉnh sư huynh ta là Lữ Anh Bố đến trả thù cho ta.

                              Nói rồi hét lớn lên một tiếng, thổ huyết đi xuôi, cả bọn đều thảm sầu rơi lụy, lo tẩn liệm rước thầy tụng siêu độ vong hồn, sau lại tế trâu, dê, coi rất nên rần rộ, trong vài ngày chôn cất xong xuôi, thì người chủ sự phe Cẩm Luân đường hỏi thăm Lý Hùng là học trò của Hóa Giao rằng :

                              - Chẳng hay sư bá ngươi là Lữ Anh Bố với thầy ngươi hai người ai giỏi hơn ?

                              Lý Hùng đáp rằng :
                              - Ngày trước tôi có được tin sư bá tôi ngụ tại Thiệu Khánh phủ, nơi cửa thành phía Nam, lập võ quán dạy học trò, so tài nghề sư bá tôi hơn thầy tôi bội phần, song e rước người không chịu đi, chớ người chịu thì hai mạng Hồ Huệ Càng cũng phải chết.

                              Bọn Cơ Phòng nghe nói rất đẹp, bèn sắm sửa lễ và ba ngàn lượng bạc, rồi dắt bốn tên đồ đệ của Ngưu Hóa Giao mướn thuyền thẳng qua Thiệu Khánh phủ.

                              (Người đời sau coi đến hồi truyện nầy cười Ngưu Hóa Giao tham của đã bị chết thì chớ, lại còn tiến cử sư huynh mình chết theo, thật rất ngu dại đến chết mà không biết tự hối.)

                              Có bài thơ như vầy :

                              Kẻ trí đâu ham giống bạc tiền
                              Tham tiền thí xác thật cuồng điên
                              Hóa Giao đến thác còn ngu dại
                              Xui giục sư huynh xuống cửu tuyền

                              Việc Cẩm Luân đường qua Thiệu Khánh phủ rước Lữ Anh Bố còn lâu, nên để dẹp lại đó.

                              Ðây nói về Hồ Huệ Càng tại Thủy Nguyệt đài đánh Ngưu Hóa Giao rớt xuống đài hộc máu chết giấc thì bọn anh em Huệ Càng lên đài tiếp rước Huệ Càng xuống, song gân cốt đà rủ liệt, mặt mày thất sắc, song gắng gượng giã bộ còn sức mạnh, liền lên kiệu theo chư huynh về chùa, pháo đốt mừng theo kêu vang dầy, khi về vừa tới chùa, ai nấy đều hoan hĩ.

                              Lúc ấy Hồ Huệ Càng bước xuống kiệu đi được vài bước, liền xây xẩm mày mặt, bủn rủn tứ chi, ngất ngư như đứa say, té xĩu xuống đất, cả thảy thất kinh, đở lên giường nằm thiêm thiếp.

                              Tam Ðức hòa thượng và Hồng Hi Quan biết Huệ Càng dùng hết sức mạnh mà đương cự cũng Hóa Giao. (Nguyên Huệ Càng khí lực yếu đuối, may nhờ có thầy truyền miếng huê quờn mới thắng đàng nọ đặng, nên sanh ra chứng bịnh này.) liền dùng thuốc theo chứng bịnh ấy mà trị, nguyên thuốc ấy của Chí Thiện thiền sư chế luyện làm ra huờn cho môn đệ để ai có bịnh như thì uống vào thì linh nghiệm, nên khi Huệ Càng uống vào trong giây phút thì tinh thần khỏe mạnh như xưa, liền ngồi dậy lạy tạ ơn chư huynh đệ có lòng thương cứu tử và tương tiếp phò nguy.

                              Tam Ðức hòa thượng đáp rằng :

                              - Anh em tình như ruột thịt phải giúp đở nhau ấy là thường, can chi phòng ngại.

                              Bèn dọn tiệc ăn mừng, đương lúc uống rượu thì Tam Ðức hòa thượng và Hồng Hi Quan nói cùng Hồ Huệ Càng rằng :

                              - Chúng ta xem Ngưu Hóa Giao bị trọng thương tất phải chết, thì oán cừu này khó giải, bởi thầy nó là Phùng Ðạo Ðức với bọn ta như tình sư thúc, nếu hay Hóa Giao chết tại tay em, e người không hỏi minh bạch cội rễ, mà nghe lời bọn Cơ Phòng Tử, ắt là người báo cừu không dung thì em phải chết, lại bọn ta cũng bị liên lụy chớ chẳng không, vậy chúng ta phải lo phương giải cứu trước thì mới tiện, chớ chi em đừng có ra tay độc thủ có đâu sẽ xảy họa to.

                              Hồ Huệ Càng đáp rằng :

                              - Khi đầu tôi cũng có vị nhượng, song Hóa Giao lòng độc ỷ mạnh cố ý hại tôi, nếu dung chế thì bị nó hại lại, nên thế bất đắc dĩ phải ra tay trừ khử, như sư thúc có đến đây không biện căn do, cứ việc vấn tội mà giết tôi, tôi há khoanh tay mà chịu chết hay sao. Việc sống thác phú nơi trời, cũng đánh nhầu lại, dầu chết tại tay người cũng cam bụng chịu.

                              Tam Ðức hòa thượng nói :

                              - Sự đã dĩ lỡ rồi lui ăn năn cũng không kịp, chi bằng gởi thơ thưa tự sự cho thầy chúng ta hay coi thầy toan liệu lẻ nào. Không biết chư huynh đệ có bằng lòng như thế chăng ?

                              Cả thảy đều khen :

                              - Sư huynh rất nên cao kiến, tính như thế ắt thuận trăm bề.

                              Hồng Hi Quan lập tức viết thơ sai người đem đi, hạn trong tám ngày cho có tin tức thì trọng thưởng mười lượng bạc, bằng trể thì truất mổi ngày một lượng, bây giờ giao trước năm lượng đi đường, người lảnh thơ liền thẳng qua Triều châu phủ, tĩnh Phước Kiến.


                              Nói về Chí Thiện thiền sư chuyên lo dạy học trò tập võ nghệ, mỗi ngày tư tưởng sợ Hồ Huệ Càng báo cừu phải sanh họa to, xảy có tin đến thì sanh nghi về việc Hồ Huệ Càng, lập tức giở thơ ra xem, thì thất kinh mà than rằng :

                              - Quả thật Huệ Càng mang họa, vã chăng Ngưu Hóa Giao là học trò ruột của Phùng Ðạo Ðức, nếu người hay Hóa Giao chết tại tay Hồ Huệ Càng ắt là không dung, thôi thôi, nó làm nó chịu chớ khá than van, song uổng công ta khổ luyện những nghề hay của ta cho nó bấy lâu. Nói rồi sa nước mắt.

                              Nguyên Chí Thiện bình nhật thương Hồ Huệ Càng như tình cha con, nay lâm sự nguy nầy, người sợ Hồ Huệ Càng chết, và sợ nhục danh tiếng người, nên người thương xót mà khóc.

                              Khi ấy chư đệ tử xúm nhau lại hỏi :

                              - Chẳng hay Tây Thiền tự gởi thơ có việc chi cần kíp mà thầy kinh hải, buồn rầu, khóc như thế. Xin thầy tõ cho chúng tôi biết ?

                              Chí Thiện bèn thuật hết các việc lại cho cả thảy nghe.

                              Phương Thế Ngọc liền thưa :

                              - Việc đã dĩ lỡ như vậy, xin thầy định lẽ nào, cứu hay là không ?

                              Chí Thiện nói :

                              - Ta muốn sai bọn bây làm thế cứu ứng, song sợ bây học chưa lành nghề, chớ chi bọn bây địch với mộc nhơn, mộc mã đặng thì chúng bây đi ta mới yên lòng.

                              Phương Thế Ngọc ỷ tài năng từ nhỏ đến lớn chuyên lo lập luyện võ nghệ tinh thông, nên thưa cùng thầy xin cho bọn mình đánh thử coi được cùng chăng.

                              Chí Thiện nhậm lời.

                              Phương Thế Ngọc liền hội chư huynh đệ lại thương nghị rằng :

                              - Nguyên một trăm tám mộc nhơn nầy sắp đặt chia ra một trăm tám khoản, vậy anh em ráng cẩn thận coi theo đường đi nước bước của tôi mà theo và dùng quờn cho nhặm lẹ, coi theo tôi mà đở gạt thì ra mới khỏi, nếu sơ sảy chắc là bị hại chớ chẳng chơi, vả chăng mộc nhơn này bằng máy khua động một cách dữ tợn, nó là vật vô tình không vị nhượng ai.

                              Bàn luận xong rồi dẫn lộ khai tiền đạo cho chư huynh đệ theo đều tận lực, dùng quờn đở gạt cẩn thận nên đánh khỏi một trăm tám mộc nhơn ấy thẳng ra khỏi cửa chánh môn, Chí Thiện xem thấy cả đẹp, bất đắc dĩ mới cho hạ san, vì thương Hồ Huệ Càng lắm, phải gắng gượng làm ngơ, chớ trong lòng không muốn cho đi chút nào hết.

                              Khi chư đệ tử lạy tạ ra đi, thì Chí Thiện dặn dò Phương Thế Ngọc rằng :

                              - Phải chuyên lo dạy dỗ chư huynh đệ của con cho nhuần việc võ kinh, chớ nên thấy vắng mặt thầy mà bỏ luống, phòng ngày sau giúp đở nước nhà may được quan chức, trước được tiếng tốt cho thầy, sau là phong thê ấm tử.

                              Chư đệ tử nghe các lời thầy khuyên bảo thì trong dạ ngậm ngùi, bận bịu không rồi, cực chẳng đả phải ra đi.

                              Trong bọn học trò nầy có ý hạ san, trước cứu ứng Hồ Huệ Càng, sau về thăm viếng quê hương luôn thể, duy có một mình Tạ Tam Phước không chịu về viếng quê hương, tình nguyện xin ở tại Thiếu Lâm tự cạo đầu tu hành, Chí Thiện thấy Tam Phước tánh ý chơn chất thì nhậm lời, song dạy đi tiếp ứng cứu Huệ Càng xong rồi sau sẽ trở lại qui y đầu Phật. Nên khi Tạ Tam Phước ra đi cùng Thế Ngọc, thì Chí Thiện cho Tam Phước một cái bữu bối kêu là Thiết oan ương, để khi nào gặp cường nhơn chống cự không nổi, thì dùng cặp Thiết oan ương ấy, nhắm ngay mặt quăng đến, ắt kẻ mạnh ấy gảy rụi hai tay, nhưng phải cẩn thận đợi lúc nguy cấp sẽ dùng, lại trao một cái cẩm nang thơ mà dặn Thế Ngọc, chừng nào Phùng Ðạo Ðức xuống báo cừu, khó bề cứu giải, thì hãy trao thơ nầy cho đại sư bá là bà Ngũ Mai xin xuống trợ cứu ắt xong.

                              Khi ấy chư đệ tử từ tạ ra đi thẳng đến Dương thành thuộc về tỉnh Quảng Ðông, đều trở về nhà thăm viếng cha mẹ vợ con, rồi tựu nhau tại chùa Quang Hiếu tự mà ở, vì Tây Thiền tự với Cẩm Luân đường thù khích, nên sợ đến đó mang tiếng.

                              Rồi lén sai người đến nói cho Tam Ðức huề thượng và Hồng Hi Quan hay mà dời cả bọn Hồ Huệ Càng đến Quang Hiếu tự đặng tập võ nghệ thêm, phòng khi ứng tiếp.

                              Khi ấy Tam Ðức huề thượng mới hay thầy mình cho chư huynh đệ đến cứu ứng thì cả mừng, bèn rũ nhau tới Quang Hiếu tự mà luận đàm, lúc ấy chư anh hùng hội nhau một nhà trò chuyện và trách móc Hồ Huệ Càng làm việc tác tệ, cho thầy lo sợ buồn rầu.

                              Hồ Huệ Càng không dám cải chối, cứ làm thinh mà chịu, nên hờn không chịu ở Quang Hiếu tự tập võ nghệ thêm.

                              Lý Cẩm Luân thấy vậy thì kêu Huệ Càng an ủi và nói :

                              - Khi chúng ta hạ san thầy có dặn dò, khuyên bảo anh em phải tập luyện võ nghệ chẳng nên tự thị, rủi có sơ sẩy, trước là tánh mạng không còn, sau hổ nhục đến danh tiếng thầy.

                              Huệ Càng ỷ mình, không vưng lời bạn khuyên giãi, cứ việc ở riêng một mình, chư huynh đệ thấy vậy cũng không nói năng đến nữa.

                              Ðây nhắc lại phe Cẩm Luân đường đi với bọn lên học trò của Ngưu Hóa Giao khi đến Thiệu Khánh phủ, tìm qua cửa thành Nam vào nhà võ quán, ra mắt Lữ Anh Bố, quì xuống đất, khóc tỏ về sự Ngưu Hóa Giao bị Hồ Huệ Càng dùng huê quờn đánh nhào xuống đài, lâm trọng bịnh, khi gần chết có di ngôn dặn dò chúng tôi đến đây rước thấy đánh báo cừu giùm, nay bọn Cẩm Luân đường đem trọng lễ là ba ngàn vượng bạc đến cầu khẩn rước thầy, xin tưởng niềm thủ túc ra sức phục thù, ơn ấy cảm độ vô cùng.

                              Lữ Anh Bố nghe vừa dứt lời liền khóc rống lên mà nói rằng :

                              - Cách chừng nữa tháng nay, ta nằm ngủ mơ màng, chiêm bao thấy em ta là Ngưu Hóa Giao mình mẩy đầy những máu, đến xin ta đánh báo cừu giùm cho nó. Lúc ấy ta có ý để hỏi nó ai giết, chẳng dè vừa tỉnh giấc thức dậy thì chẳng thấy chi hết, trong mình nổi ốc phát lãnh không biết điềm ứng như lẻ nào, nay đặng tin đây mới hay em ta chết tại tay Hồ Huệ Càng, nếu ta không báo cừu cho em ta thì sao gọi là người.

                              Bọn Cẩm Luân đường nghe nói lấy làm mừng, liền dưng lễ vật và ba ngàn lượng bạc mà thưa rằng :

                              - Xin lão sư nhậm tình dùng lễ mọn nầy, trước là báo cừu cho thủ túc, sau tiết hận cho bọn tôi, thì ơn ấy khắc cốt minh tâm.

                              Lữ Anh Bố đáp :

                              - Tôi vốn không công đức chi cùng chư vị mà dám thọ của trọng nầy, tôi xin phát hồi lại cho chư vị.

                              Bọn Cẩm Luân đường cầu xin năn nĩ hết sức, cực chẳng đả Anh Bố phải chịu lảnh, rồi sữa soạn đồ hành lý ra đi, dặn kẻ môn đệ rằng :

                              - Ở nhà coi sóc võ quán, như có ai đến hỏi thì nói trong vài ngày ta sẽ về, bọn bây không cần gì phải theo ta. Vì có bọn học trò cũa sư thúc đây, chúng nó theo ta thì cũng đủ.

                              Khi dặn dò xong xuôi, liền mướn ngựa đi vài ngày đã đến Dương thành, vào công sở Cẩm Luân đường, thì có Bạch An Phước đứng chực sẳn tại đó nghinh tiếp vào, trà nước rồi, đứng dậy mà thưa :

                              - Lão sư đến gặp dịp rất may, vì lúc này học trò Thiếu Lâm tự hạ san rất nhiều đặng tiếp ứng Hồ Huệ Càng, bấy giờ còn ở tại Quang Hiếu tự, xin lão sư hãy để phòng cho lắm.

                              Anh Bố đáp rằng :

                              - Không cần gì lo, dầu nhiều cho mấy đi nữa ta cũng không sao, vậy xin liệt vị dọn bày tiệc mọn, đặng ta đến Song Sơn tự cúng tế em ta một phen.

                              Khi cúng tế rồi Anh Bố biểu An Phước dắt đường thẳng qua Quang Hiếu tự thì bọn tăng đồ đón rước vào làm lễ mắt, bái yết Phật Như Lai rồi thẳng đến võ quán ra mắt các vị anh hùng.

                              Khi ấy Lý Cẩm Luân ra tiếp rước vào trong, mời ngồi trò chuyện, hỏi thăm rằng :

                              - Chẳng hay sư huynh đến đây có việc chi, xin tỏ cho tôi rõ ?

                              Anh Bố sẳn giận, đáp rằng :

                              - Ta đến báo cừu cho em ta là Hóa Giao, vậy chớ bọn ngươi không biết hay sao mà hỏi đố ?

                              Lý Cẩm Luân nói :

                              - Nguyên phe Cẩm Luân đường với Hồ Huệ Càng là có sát phụ chi thù, bởi vậy quan sở tại tra vấn minh bạch mới xử hủy án mạng ấy, tha Hồ Huệ Càng. Rồi Ngưu Hóa Giao nghe lời người ngoài không kể niềm đồng đạo cùng nhau, lại trợ Cẩm Luân đường thị cường gánh vác, ra tranh đấu cùng Hồ Huệ Càng thì Hồ Huệ Càng cũng có phân trần, song Hóa Giao tham tiền nhiều chẳng tưởng tình nhau, nên ra sức tỷ võ lập đoan thệ ai chết nấy chịu, trong việc giao quờn hổn chiến, dẩu cha con cũng không vị tình dung chế được, xét cho kỹ thì Hóa Giao quấy bởi khinh nghĩa trọng tài, nên chết cũng đáng, chớ có thù chi mà sư huynh gọi rằng thù, xin sư huynh xét lại, kẻo tổn thương hòa khí.

                              Anh Bố nói :

                              - Bọn nhươi chớ khá chuốt ngót miệng lưỡi vô ích, vậy ai là Hồ Huệ Càng hãy ra cho ta thấy một chút, coi người ra thể nào mà độc dữ đến thế, đánh chó đẳng kiêng chủ nhà, lại không vị đến thầy ta, nay ta quyết đến đây báo cừu cho em mới nghe, như ai biết Hồ Huệ Càng ở đâu phải dẫn đến cho ta, bằng không chớ trách ta sanh sự.

                              Khi ấy Phương Thế Ngọc thấy Lữ Anh Bố buông lời xấc xược thì nổi xung đáp rằng :

                              - Như muốn Huệ Càng ra đây không khó gì song sư huynh nói sao không biết xét, như Ngưu Hóa Giao là đứa bất thức thời vụ, ham ăn hiền chúng, không kể người đồng đạo, coi của hơn người nên mới bõ thây, sư huynh muốn trả cho đặng cừu nầy mà Hóa Giao sống lại được chăng ? Ðã không được thì chớ lại thêm thù khích với nhau nữa, túng sữ như sư huynh giết được Hồ Huệ Càng, thì bọn ta há khoanh tay ngồi vậy, chẳng biết trả thù lại hay sao ?

                              Anh Bố nghe nói đỏ mặt tía tai, nhưng mà Thế Ngọc nói nhằm lẻ, nên mắc cỏ thẹn thùa, làm thinh gục mặt xuống đất mà than rằng :

                              - Thôi, ta vị tình các ngươi phải sao chịu vậy, song phải kêu Hồ Huệ Càng đến trước mặt lạy thì ta tha.

                              Lý Cẩm Luân nói :

                              - Huệ Càng không có ở chùa nầy, y ở bên Tây Thiền tự.

                              Lữ Anh Bố liền từ biệt mấy vị anh hùng, thẳng qua chốn ấy, khi đến nơi thì mấy chú sải nhỏ vào thông tin cho bọn hào kiệt Tây Thiền tự hay, thảy đều thất kinh. Song Hồ Huề Càng tự thị tài năng, không có một mảy chi sợ, khi Anh Bố vào liền nạt lơn mà hỏi rằng :

                              - Ai là Huệ Càng ?

                              Hồ Huệ Càng xốc đến nói :

                              - Ta đây, vậy ngươi có phải là Lữ Anh Bố chăng ?

                              Anh Bố trả lời :

                              - Phải.

                              Huệ Càng nói xốc ý rằng :

                              - Ngươt hỏi danh tánh ta đặng nạp mạng phải chăng ?

                              Anh Bố nổi giận xốc đến huơi qườn đánh xuống.

                              Huệ Càng cũng không nhịn, nhảy lại đá nhầu cả hai vừa muốn hỗn chiến.

                              Tam Ðức huề thượng và Ðồng Thiên Cân lật đật can hai đàng ra, rồi Tam Ðức huề thượng khuyên giải mà Lữ Anh Bố không thèm nghe, liền tuốt trở về công sở Cẩm Luân đường, lập tức viết phiếu hồhg đem dán tại cửa chùa Tây Thiền tự, tỏ như vầy :

                              " Bọn ta hiệu là Cẩm Luân đường, thường bị tay Hồ Huệ Càng hàm hại rất thảm thiết. Nay có Lữ Anh Bố là thầy nghề võ không tham tài lợi, có tình báo cừu cho bạn là Ngưu Hóa Giao, chết tại tay Hồ thị. Như Hồ Huệ Càng là người anh hùng khí khái không sợ chết, thì rạng ngày tựu tại Thủy Nguyệt đài mà thí võ, ai chết nấy chịu không thường nhơn mạng ".

                              Bọn Tây Thiền tự thấy lời hịch thì lo rầu cho Hồ Huệ Càng, song Huệ Càng ỷ mình có tài không lo sợ, bèn sửa soạn định ngày mai đến nghinh địch.

                              Khi ấy chư anh hùng tại Quang Hiếu tự hay được việc ấy thì thất kinh, rũ nhau qua Tây Thiền tự khuyên giải Hồ Huệ Càng chớ nên thượng đài thí võ, nhưng mà Huệ Càng không chịu nghe lời can gián, ai nấy đều chắc làm sao Huệ Cáng cũng chết tại tay Anh Bố chớ chẳng không, nếu làm thinh để vậy thì mất danh tiếng chùa Thiếu Lâm tự của bọn mình.

                              Ðương lúc lo liệu, xảy thấy Tạ Tam Phước vổ tay cười mà nói :

                              - Ta có kế rất mầu nhiệm song chờ lúc Huệ Càng nguy cấp sẽ ra tay giải cứu.

                              Cả thảy nghe nói đều mừng, hõi kế ra thế nào ?

                              Tạ Tam Phước nói :

                              - Lúc hạ san thầy có cho ta một cặp Thiết oan ương và dặn đò kỷ lưởng, khi gặp giặc mạng đánh không lại thì lén quăng cặp Thiết oan ương ấy vào mình giặc tức thì chặt rứt gân cốt hai tay, việc ấy thầy đã truyền dạy nhuần nhả rồi, và ta đã thí nghiệm bá phát bá trúng, nay gặp lúc nầy phải dùng nó thì cứu Huệ Càng đặng cho khỏi nhục danh tiếng thầy. Vậy để mai ta giã dạng kẻ đi đường đến coi rồi tay lại gần bên đài ra tay ắt là xong việc.

                              Cả thảy đều khoái chí, còn Phương Thế Ngọc thì lo phụ ích thêm cho Huệ Càng, trao giáp cho mượn mặc coi cho lịch, đưa yếm tâm mang trước ngực phòng sự rủi ro.

                              Huệ Càng mầng, tạ ơn bậu bạn có lòng chiếu cố, thương tưởng phận mình.

                              Rạng ngày Anh Bố nai nịt tề chỉnh, nhóm bọn Cẩm Luân đường và bốn tên học trò của Hóa Giao thẳng đến Thủy Nguyệt đài, dàn giá nghiêm chỉnh, cởi ngựa tuấn mã, đầu bao khăn đen, mình mặc giáp nhiểu, cỏ đeo yếm âm đồng ở trong, chân đi dép giát sắt, mặt nở nang, mắt như lục lạc, râu ria tua tủa, lưng dài lớn rộng, sức mạnh ngàn cân, cao tám thước, tiếng nói tợ thanh la, xem càng mạnh bạo.

                              Khi Anh Bố đến đài, xuống ngựa đi thẳng lên đài, dòm xuống thấy thiên hạ coi đông như kiến cỏ, bên vòng lấy thủ lể nói rằng :

                              - Tôi là Lữ Anh Bố đến Thủy Nguyệt đài này báo cừu cho em là Hóa Giao chẳng phải tham tiền hay là cầu danh vọng, xin các người miễn nghị.

                              Nói rồi ngồi ngay giữa đài mà chờ.

                              Xa xem thấy Hồ Huệ Càng tuồng mặt như uống rượu ngồi kiệu đi đến, có một bọn anh em bạn theo sau, khi kiệu đến trước đài, Hồ Huệ Càng xuống kiệu, có ý khoe tài hay, liền nhắm đài nhảy thóc lên lẹ như chim bay, khi hai chơn nhón đụng tới đài nhẹ nhàng không động địa, những ngươi coi đều khen rộ.

                              Anh Bố lật đật đứng dậy, chăm chỉ ngó, thấy Huệ Càng đầu đội nhỉ bì khôi nhuyễn, mình nịt giáp, trước ngực có thiết yếm tâm hộ thân, chơn đi giày cửu huờn kiếm, diện mạo siêu quần, nhơn tài xuất chúng, liền nạt mà nói :

                              - Ngươi đã giết sư đệ ta, thù ấy bất cọng đái thiên, nên ngươi đến chịu chết, chớ trách ta sao không nghĩ tình đồng đạo cùng nhau .

                              Hồ Huệ Càng vỗ tay cười mà đáp rằng :

                              - Bớ Anh Bố, ngươi vì bạn đến tìm ta mà trả thù, song ta e ngươi đã đa đến kỳ chết nên khiến cho ngươi đến nạp mình, vậy ta ra tay làm phước đưa ngươi xuống diêm đài kẻo Hóa Giao trông đợi.

                              Anh Bố nghe nói nổi xung không thèm nói lại, cứ dùng quờn ráng sức đánh tới, miếng quờn nầy kêu là Diện Hổ Thân Khai rất nên hung ác, Huệ Càng né khỏi, dùng miếng Thiên Tự Thiết đấu thủ đánh trã phá miếng quờn của Anh Bố.

                              Anh Bố một tay ra miếng Thôi Sơn Quá Hải, và một tay ra thế Mảnh Hổ Cầm Dương đánh xuống Hồ Huệ Càng nhảy tránh khỏi, hai đàng chống chỏi giải phá cùng nhau hơn hai mươi miếng từ sớm mai cho đến xế, tranh đấu gần bốn chục hiệp.

                              Lữ Anh Bố sức mạnh vô cùng, đánh chừng nào thì tinh thần càng thêm bội sức chừng nấy, còn Hồ Huệ Càng xương hóc nhỏ, sức không bao nhiêu mà chống chọi được lâu không sơ sẩy là nhờ học đã tinh thông, và thầy thương truyền nhiều miếng tuyệt diệu, bí yếu, đang lúc giao chiến Huệ Càng nghĩ rằng :

                              - Sức nó thì mạnh còn mình thì yếu nếu dùng sức chống chỏi nữa ắt phải bị hại, vậy ta dùng chước khác họa may thắng đặng chăng ?

                              Liền ra miếng huê quờn nhảy nhót lẹ làng như chim.

                              Anh Bố thấy miếng ấy thất kinh vì chưa biết đến, nên ráng đề phòng gìn giử nguyên Lữ Anh Bố công phu học nghề võ hơn Hóa Giao thập bội (Nói sơ lược về sự võ nghệ học đến nước, mỗi ngày phải tập ngó mặt trời, ban đầu thì xốn xang, cong đầu nhức óc khó chịu, lần lần quen, hết sợ ánh sáng, không đau mắt khi lâm trận, dầu kiếm kích lăng xăng, đao thương mật bố thì con mắt cũng không loạn).
                              Khi Huệ Cng dùng miếng huê quờn, song Anh Bố cũng không náo thì biết mình thua, lại đuối sức nhảy không được nhanh lẹ như trước.

                              Anh Bố thấy rất mừng, bèn ráng sức dùng miếng La Hán ngủ hành đánh ngay khắp sanh Huệ Càng như núi Thái sơn ngã.

                              Huệ Càng chắc chết khó bề trốn tránh, may nhờ Tạ Tam Phước thấy vọi Huệ Càng gần thua nên hảm cận bên đài, thò tay vào tay áo rút cặp Thiết oan ương nhắm ngay tay Anh Bố quăng vô, hơi bay như luồng gió, rồi giựt thâu vào tay áo. (Vật nầy hại người không thấy). Lúc Anh Bố vừa ra tay hại Huệ Càng, chẳng may chạm nhằm cặp Thiết oan ương, hai tay gảy xụi lơ.

                              Hồ Huệ Càng cả mừng, sẳn trớn lộng quờn đánh ngay cổ.

                              Anh Bố tránh không kịp, gảy đoạn xương cổ té chết tươi trên đài rất thảm thiết.

                              Bởi vậy kẻ sau coi đến hồi truyện này thì thì ta thán thương tiếc Anh Bố võ dỏng, nên có bài thơ thư vầy :

                              Thủ túc tình thán nghĩa rất thâm
                              Báo cừu vì bạn phải đồng tâm
                              Tuy nhiên bị hại tay gian trá
                              Roi để danh thơm quán cổ câm

                              Khi Anh Bố bị hại thì học trò của Hóa Giao và bọn Cơ Phòng Tử tuốt lên đài cứu ứng, nhưng gân cốt Anh Bố đã đoạn lìa chết ngắt, còn Huệ Càng nhảy xuống đài như chim đáp, thần sắc như thường, rồi bước lên kiệu.

                              Bốn phía thiên hạ đều khen, rộ lên rằng :

                              - Quả thiệt Hồ Huệ Càng anh hùng đệ nhứt.

                              Huệ Càng nghe lấy làm đắc ý, bèn vầy cùng chư huynh đệ trò về Tây Thiền tự, pháo đốt tiếp rước rầm rộ.

                              Nói về bọn Cẩm Luân đường sắm sửa quan cách tẩn liệm Anh Bố cho người khiêng đến Song Sơn tự để tạm chớ không đem về công sở, rồi nhóm nhau thương nghị rằng :

                              - Bọn ta tốn bạc ngàn mà trừ kẽ nghịch không đặng, lại thêm hai mạng nữa, vầy tính lẻ nào ? Nếu bỏ qua thì nó cũng không dung, còn làm sấn tới thì sợ khó nổi, có phải là tấn thối lưỡng nan chăng ? Xin chư huynh đệ ai có kế chi, bày ra mà trừ hậu hoạn.
                              Ngưu Cường nói :

                              - Nay chú và sư bá ta đều bị tay Huệ Càng hảm hại, cừu ấy ví như biển, há bỏ qua sao. Nay ta phải dùng kế như vầy thì trả thù ấy mới xong. Nguyên sư bá, sư thúc tôi vốn là học trò ông Phùng Ðạo Ðức, tình yêu mến như cha con, vậy xin liệt vị chớ nài hao tốn, sắm sữa hai quan tài ấy cho trọng hậu, và chuẩn bị lễ vật cho nhiều, rồi mướn thuyền đưa hai linh cữu ấy đến Võ Ðương sơn trước là cho người thấy mũi lòng, sau bọn ta dùng lễ vật ra mắt người tỏ sự oan ức ấy cho người nghe, ắt lập tức hạ san, dù một trăm mạng như Huệ Càng cũng phải tan xương, không lẻ người để cho thiên hạ chê Võ Ðương sơn không bằng Thiếu Lâm tự sao ? theo ý tôi xét việc võ nghệ và sức của sư bá tôi, đương trường chống trã đánh với Huệ Càng thì mười phần thắng hết chín, song Huệ Càng tráo trất linh lợi dùng miếng huê quờn, làm cho sư bá tôi khó hề hạ thủ, lại chẳng biết vì cớ nào đương lúc giao quờn mà tay sư bá tôi gảy lọi thình lình, chắc là bị nó ám toán binh khí mà đánh mới ra cớ ấy, như không phải Huệ Càng thì ắt có kẻ khác đứng gần bên đài ám trợ, thật việc vô bằng, khó bề phân định.

                              Ai nấy nghe Ngưu Cường nói thì lấy làm lạ, vì khi hai đàng giao chiến thì không có binh khí, nên không lẻ nghi ngờ, song cũng phải tỏ việc ấy cho Lão đạo sư nghe phòng sau đối địch chẳng khá dùng quờn nữa, phải đánh bằng binh khí và để phòng kẻ ám toán mới xong, cả thảy đều khen phải.

                              Bèn sắm sửa lễ vật, tu chĩnh quan quách và đem theo sáu ngàn lượng bạc, mướn thuyền thẳng đến Võ Ðương sơn, những người hộ tống là bốn người họ trò Hóa Giao và hai người bọn Cẩm Luân đường.

                              Nói về tại núi Võ Ðương sơn có một tòa miếu võ thờ Huyền thiên Thượng đế, có một lão đạo sĩ là Phùng Ðạo Ðức hiệu là Bát Tý Na Tra ở tu hành, và có một người đồ đệ tên Lôi Ðại Bàng con Lôi Lão Hổ, cảnh chùa nầy thiên hạ thượng hương cúng kiến rất đông, song Phùng Ðạo Ðức tánh ưa thanh tịnh, nên ở hậu điện cho thanh vắng.

                              Ngày kia Ðạo Ðức ngồi trên giường nhắm mắt niệm Phật đến canh ba, mơ màng thấy Hóa Giao và Anh Bố, cả mình bị thương tích, quì khóc xin thầy báo cừu dùm.

                              Ðạo Ðức thất kinh lật đật bước xuống hỏi bị ai làm hại thân thể ra như vậy. Chẳng dè bị dương khí xung đến nên hai hồn liền biến mất, Ðạo Ðức mở mắt không thấy gì hết trong mình vùng phát lảnh, rởn ốc, kế rạng ngày đương ngồi bàn luận cùng Lôi Ðại Bàng, xảy thấy Ngưu Cường và bọn Cẩm Luân đường chở hai quan tài đến quì lạy tỏ khúc nôi, Ðạo Ðức nghe liền ngã ngữa chết giấc.

                              Comment

                              Working...
                              X