Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Anh Hùng Lĩnh Nam - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Hồi 15 - Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma

    Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma
    (Đặng Dung, Thuật hoài)
    Nghĩa là:
    Mấy độ mài gươm dưới ánh trăng
    Mười năm về trước, anh em Đào Thế Kiệt, Đào Thế Hùng cùng Đinh Đại là ba Lạc-hầu vùng Cửu-chân. Họ nổi tiếng là những người độ lượng, văn võ kiêm toàn. Hằng ngày, họ theo gương Việt-vương Câu Tiễn, cứu kẻ cùng khốn, giúp đỡ người già, trẻ côi. Dân chúng trong trang ấp của họ đều thấm ơn đức. Họ khai khẩn đất hoang, phá rừng làm rẫy, nên trang ấp của họ ngày càng rộng, dân chúng tụ về đông đảo. Trong vùng Cửu-chân có chín trang ấp đều là giòng dõi của các trung thần theo An-Dương vương chạy vào đây. Khi Vương khám phá ra vụ Mỵ châu, xấu hổ với tướng sĩ, ngài dặn họ nhất tâm phục quốc. Còn ngài thì nhảy xuống biển tự tận. Các trung thần mang binh lính còn sống sót lập trang ấp và họ thiếp lập phái Cửu-chân. Trải qua 200 năm, phái Cửu-chân trở thành một phái võ danh tiếng bậc nhất vùng Lĩnh Nam. Các đại tôn sư của môn phái đều nổi danh hào hiệp, lòng dạ luôn luôn hướng về cố quốc.
    Trải qua mấy trăm năm, mới đây, Hán đế cử Thái-thú Nhâm Diên vào trấn vùng này đã làm đảo lộn hết cả. Nhâm Diên là người đã đậu Hiếu-liêm ở Trung-nguyên. Nhiều mưu trí, giỏi cai trị. Khi tới Cửu-chân, y nhận thấy đã trải gần 200 năm rồi mà con cháu các di thần Âu-lạc vẫn còn giữ nguyên tinh thần Việt, không bị ảnh hưởng của Hán chút nào. Y muốn tập trung quân tiêu diệt, nhưng không nổi. Thêm nữa, dù có phúc bẩm lên Thứ-sử để mang quân cả vùng Giao-chỉ, Nhật Nam, Hợp-phố hợp với quân Cửu-chân cũng không dễ gì diệt được chín Lạc-hầu. Mà ngay cả nếu diệt được hết chín Lạc-hầu, thì y còn gì để cai trị? Có chăng, chỉ còn là vùng đất hoang vu mà thôi. Y là người đọc sách, thâm cơ viễn lự, nên thấy chỉ có cách làm cho người Việt đồng hoá thành người Hán là tốt nhất.
    Nguyên trước đây có một chỉ dụ từ đời Lã hậu cầm quyền, cấm người Trung-nguyên không được bán đồ đồng, đồ sắt, các thứ hạt giống, cũng như thú vật giống cái cho người Việt. Người Việt không được đọc chữ Hán. Người Hán không được kết hôn với người Việt. Chính những điều đó là nguyên nhân khiến người Việt bị cai trị mấy trăm năm cũng vẫn còn là người Việt. Y mật tấu về triều đình, xin huỷ bỏ những điều đó. Một mặt, y mang vàng bạc mời các nho sĩ khoa bảng không thích công danh, sang giúp y để truyền bá đạo Khổng, Mạnh. Rồi y ban hành chính lệnh năm điều gọi là Ngũ-pháp Thánh hoá, nghĩa là năm điều pháp lệnh, giáo hoá đạo Thánh cho dân Cửu-chân.
    Thứ nhất: Người Hán, người Việt đều bình đẳng trước pháp luật. Người Hán, người Việt được kết hôn với nhau.
    Thứ nhì: Những người Việt được mời thầy, mở trường, dạy chữ Hán như người Hán.
    Thứ ba: Người Việt được quyền mua bán các thứ đồ đồng, đồ sắt, cũng như hạt giống, cây giống, thú vật giống cái từ Trung-nguyên. Thái thú sẽ tổ chức những đoàn người sang Trung-nguyên du học về phép đánh cá, trồng cây, chăn nuôi, làm đồ đồng, đồ sắt cho dân chúng.
    Thứ tư: Dân chúng được học lễ nghi, thờ cúng tổ tiên, học lễ nghi về hôn sự, tang chế.
    Thứ năm: Trai tráng tới 18 tuổi không có tiền lấy vợ, phủ Thái-thú sẽ giúp đỡ.
    Chính lệnh ra ra, các Lạc-hầu đều mừng rỡ, cho rằng Thái-thú là người đi truyền đạo Thánh. Các Lạc-hầu đua nhau gửi người sang Trung-nguyên đón thầy về mở trường dạy chữ Hán cho dân chúng trong trang ấp. Nếp sống dân chúng đổi hẳn: Từ cách ăn mặc cho đến nhà ở, lễ nghi, nhất nhất đều giống như Trung-nguyên. Người Việt đua nhau học chữ Hán, nói tiếng Quảng. Trẻ con đến trường, chỉ chơi những trò chơi của người Hán, hát bài hát Hán, nói tiếng Hán, bỏ tiếng Việt. Dân chúng chỉ biết Tam-hoàng, Ngũ-đế, biết đến Văn-vương, Chu-công, Khổng-tử, Bách gia chư tử mà không biết đến Lạc-long quân, Âu-cơ, Hùng-vương. Trẻ con, người lớn ngồi kể chuyện cho nhau nghe về sự tích Tiêu Sử, Lộng Ngọc mà quên truyện Trương Chi, Mỵ Nương. Những bậc trí giả đàm đạo với nhau về Lưu Bang, Hạng Võ mà quên mất Hùng-vương, An-dương vương. Họ luận bàn về làm thế nào để ngăn chận quân Hung-nô không nhập được vào quan ải, mà quên mất những phương cách đề phòng người Hán nhập Việt.
    Dân chúng ca tụng Thái thú, có nhiều người Việt ngu muội còn lập đền thờ sống y. Dân chúng được lập ấp sống với nhau, họ tự tách rời các ấp của Lạc-hầu, Lạc-tướng. Thế là các Lạc-hầu, Lạc-tướng không còn lực lượng hậu thuẫn của dân chúng hầu mong phục quốc nữa.
    Ghi chú của thuật giả
    Sau này, Hán-sử đề cao Nhâm Diên, Tích Quang, coi như y là người sang khai hóa ho người Việt. Kể từ thời y, người Việt mới biết trồng ngũ cốc, mới biết cưới xin. Sau khi Trưng-vương tuẫn quốc, những triều đại Đông Hán, Tam-quốc (Ngô), Đông Tấn, Tuỳ, Đường (44-924), nghĩa là từ sau thời Trung-vương cho đến khi Dương Diên Nghệ khởi nghĩa, non một nghìn năm. Các quan lại người Hán sang cai trị Lĩnh-nam hết sức ca tụng, đề cao Nhâm Diên, Tích Quang. Bắt dân chúng lập đền thờ. Ngày rằm, mồng một, ngày Tết, dân chúng phải đến tế lễ linh đình, coi họ như hai người Hán đầu tiên đến khai phá đất Nam-man, dạy cho người Việt biết lễ-nghĩa, biết trồng cây, biết chữ thánh hiền. Làm như vậy để dân chúng thêm tự ty mặc cảm, hy vọng quan lại người Hán là những người mang phúc đức đến Lĩnh Nam hầu bớt mầm chống đối.
    Gần đây, sử gia Trần Trọng Kim cũng đi vào đường sai lầm, coi Nhâm, Tích là hai người tốt bụng. Sau khi nghiên cứu thư tịch Trung-hoa hồi đó, nhất là những cuốn phổ của đền thờ anh hùng Lĩnh-nam. Khi tổng hợp lại, thì tôi thấy khi Nhâm, Tích chưa tới nước ta, dân Việt đã có một nền văn minh rực rỡ ngang với Trung-nguyên. Lễ giáo, phong tục đã thành, có thua gì đâu? Đọc cuốn phổ về anh hùng Đào Kỳ, chúng tôi tìm thấy Nhâm, Tích là hai tên thực dân lớn nhất, muốn đồng hoá đất Lĩnh-nam với Trung-nguyên, nhưng bị anh hùng Đào Thế Kiệt, Đào Thế Hùng và Đinh Đại phá vỡ.
    Hồi còn thơ ấu, nhiều lần thuật giả được tiền nhân dẫn đi thăm đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang. Tại những ngôi đền thờ này, có rất nhiều thơ, phú, bia, ký ca tụng công đức chúng. Thuật giả lấy làm ngạc nhiên, có nhiều tấm bia đến chữ Nhâm Diên, Tích Quang thì bị đục đi mất. Hỏi tiền nhân, thì được dạy:
    "…...Những tấm bia lành lặn được tạc từ sau năm 1284. Còn những tấm bia bị đục tên Nhâm, Tích là do Trấn Bắc đại tướng quân, Hoài-văn hầu Trần Quốc Toản. Khi qua đây, Trần Quốc Toản thấy người thời đó thờ cúng Nhâm, Tích, hầu tuyên bố : Nếu y có thiêng thì vật chết ngài đi. Rồi ngài sai quân đục tên y trên các bia đá, dùng côn đánh vỡ tan tượng của y. Tương truyền từ đó, y hết linh thiêng"
    Xin coi bộ Anh Hùng Đông A, Gươm thiêng Hàm-tử, sẽ xuất bản.
    Trước kia, mỗi huyện đều có một Huyện lệnh để cai trị, một Huyện-uý để điều khiển quân đội, bên cạnh có một sở Tế-tác (công an). Những chức vụ này toàn là người Hán cả. Nhâm Diên tâu Hán đế giao quyền huyện uý cho các Lạc-tướng, chỉ giữ lại các chức huyện lệnh và sở Tế-tác là người Hán thôi. Như vậy, sở Tế-tác điều tra thấy mầm mống nổi loạn, báo cáo về, Huyện-lệnh sẽ truyền cho Huyện-uý người Việt mang quân Việt đi đàn áp người Việt. Tuy nhiên, Thái-thú vẫn còn một Đô-uý chỉ huy những đội quân Hán, hoặc Hán-Việt hỗn hợp, sẵn sàng đánh dẹp nếu các Huyện-úy làm loạn.
    Đứng trước thế nguy đó, chín nhà trong phái Cửu-chân họp nhau để đối phó, thì năm nhà đã là quan chức của Thái thú, còn hai nhà thì mở rộng cửa dạy dỗ dân chúng thành người. Hán. Chỉ có Đào gia, Đinh gia là cương quyết, không chịu Hán hoá, mà chỉ mưu đồ phục quốc. Âm mưu của Thái-thú không nhắm vào lớp người lớn tuổi, mà nhắm vào lớp trẻ cắp sác đến trường. Tương lai chúng sẽ thành người Hán. Những binh lính người Hán đến đồn trú, đều lấy vợ Việt, khi sinh con đẻ cái ra, tất nhiên những đứa trẻ đó đều nhận mình là Hán, nói tiếng Hán chứ không còn nói tiếng Việt nữa.
    Đào Thế Kiệt quyết định cho em là Đào Thế Hùng ra Bắc, lập ấp ở vùng Cổ-loa, kinh đô cũ của Âu-lạc, liên kết với hào kiệt Giao-chỉ, lập thế ỷ dốc để chuẩn bị khởi nghĩa. Nếu Đào trang ở Cửu-chân có điều gì, thì còn Đào trang ở Cổ-loa.
    Sau khi Đào trang ở Cửu-chân bị đánh phá, Đào Kỳ đến Cổ-loa dò tìm hết các nơi, vẫn không thấy tin tức chú mình đâu. Không ngờ đêm nay, chú cháu lại trùng phùng. Nảy ra Đào Thế Hùng làm Huyện-úy Đăng-châu.
    Đào Kỳ thuật hết tất cả những đoạn đường chàng đi mấy năm nay cho chú nghe.
    Đào Thế Hùng thẫn thờ như người mất trí:
    – Không biết bố mẹ cháu và Đinh Đại bây giờ ở đâu? Không chừng họ cũng ẩn thân làm Huyện-uý nơi nào hầu chờ thời cơ cũng nên. Vậy hãy chờ đại hội Tây-hồ, chú cháu mình cùng về tham dự nghe ngóng tin tức của cha cháu.
    Lê Chân hỏi:
    – Cháu có thể góp ý kiến với lão bá được chăng?
    Thế Hùng nói:
    – Tôi tuy thân làm quan với Hán, nhưng lúc nào cũng theo dõi tình hình của ta. Mấy năm nay, nghe danh Đông-triều nữ hiệp vang dội như sấm. Cô nương tự lập ra trang An-biên này, giả làm người bán quán, mà tôi tuyệt không hay. Cô nương là đệ tử chân truyền của Nam Hải nữ hiệp, đứng hàng đầu trong Sài-sơn bát tuấn. Hà... cứ cái tên Đông-triều nữ hiệp thì chú cháu tôi sẵn sàng dãi bày ruột gan với cô nương. Nãy giờ, những việc cơ mật nhất, chú cháu tôi cũng nói trước mắt cô nương, như vậy, đã coi cô nương là người đồng tâm vậy.
    Lê Chân nói:
    – Đa tạ lão bá quá khen. Xin hỏi lão bá, trong huyện Đăng-châu còn một cao thủ người Hán nào không?
    Thế Hùng đáp:
    – Hiện chỉ có Giám-sở Tế-tác, võ công y thuộc vào hạng thượng thặng. Tuy nhiên, tôi chưa đấu với y bao giờ nên chưa biết trình độ võ công đích xác của y. Tên hắn là Lưu Chương. Không hiểu cô nương hỏi như vậy là có ý gì?
    Lê Chân nói:
    – Lão bá quên mất hoàn cảnh khó khăn của lão bá rồi sao? Tôi sợ trong khi lão bá ở đây, Trương Thanh sai Lưu Chương bao vây trang ấp của lão bá, đổ tội bắt Tô Phương cho lão bá. Đợi lão bá bắt xong Đào Kỳ, Phương Dung rồi, y ra tay giết Tô Phương, Ngũ Phương thần kiếm và quản ngục để diệt khẩu.
    Phương Dung lắc đầu:
    – Nếu Trương Thanh ngu muội thì y sẽ hành động như vậy. Còn nếu khôn ngoan thì y không dám. Muôn ngàn lần y không dám.
    Đào Thế Hùng ngạc nhiên:
    – Tại sao y không dám?
    Phương Dung cười:
    – Lão bá thử đặt mình vào trường hợp y, rồi suy nghĩ sẽ thấy. Lão bá là Huyện-úy, Huyện-lệnh chỉ có quyền giết khi lão bá cử binh làm phản. Còn không, y phải phúc bẩm về Thái-thú để xin lệnh. Nay lão bá đã làm phản đâu? Vả lại các tướng sĩ cùng quân sĩ đều là người thân tín của lão bá, dễ gì Lưu Chương đã điều động được họ? Quân số của huyện Đăng-châu cũng không đủ để đánh trang ấp của lão bá.
    Đào Thế Hùng hiểu ra, ông nhìn Phương Dung bằng con mắt khâm phục. Ông nghĩ thầm:
    – Con bé này là bạn của Đào Kỳ, mới từng ấy tuổi mà ước tính tình hình như một vị tể tướng. Chỉ cần năm, ba năm nữa, nó sẽ trở thành vô địch.
    Ông trả lời:
    – Lưu Chương là tên hồ đồ, ngu muội.
    Lê Chân quyết định:
    – Đúng, tiên hạ thủ vi cường. Tôi có ba kế hoạch, xin lão bá chọn lấy một. Thứ nhất: Lão bá cùng hai em Kỳ, Dung với tôi, đánh cướp nhà ngục thả Tô Phương ra. Tô Phương sẽ giết chết Trương Thanh. Y cảm kích, có khi xin cha tấu cho lão bá làm Huyện-lệnh. Lão bá yên tâm, ẩn thân, chờ ngày khởi nghĩa, đem quân bản bộ ở Đăng-châu đánh lên Luy-lâu.
    Phương Dung suýt xoa:
    – Kế này hay lắm. Nhưng Tô Phương võ công rất cao, kiến thức rộng, thêm Ngũ-phương kiếm nữa, tôi e rằng chúng sẽ giết lão bá để che dấu cái nhục bị bắt, bị đánh ở Đăng-châu.
    Lê Chân cười:
    – Chị biết có em đây, thì em bảo Tô Phương chết, nó cũng chết. Huống hồ chính em đem lão bá cứu y, y sẽ cảm kích biết mấy? Cứu hắn rồi, em liếc mắt, ban cho vài nụ cười, thì điều gì em muốn chẳng được?
    Đào Kỳ chau mày:
    – Còn kế thứ nhì?
    Lê Chân cười:
    – Kế thứ nhì nguy hiểm hơn, nhưng nhiều ích lợi cho việc quang phục. Bây giờ Đào Kỳ, Phương Dung về thả Ngũ-phương kiếm ra, bắt Tô Phương dấu đi. Đương nhiên, Ngũ-phương kiếm sẽ đến hỏi tội Huyện-lệnh. Huyện-lệnh nhờ Lưu Chương chống Ngũ-phương kiếm. Lão bá vờ giúp Huyện-lệnh đánh đuổi Ngũ-phương kiếm, rồi vu vạ cho Ngũ-phương kiếm làm phản, đã giết mất Tô Phương. Ngũ-phương thần kiếm không nơi nương tựa. Kỳ, Dung sẽ xuất hiện cứu giúp họ. Họ cảm khái theo mình. Mình vô tình được năm tay trợ thủ đắc lực. Trong khi đó, lão bá khống chế Huyện-lệnh và Lưu Chương bằng cái án Tô Phương và nắm lấy thực quyền trong huyện. Khi cuộc khởi nghĩa bùng lên, lão bá thả Tô Phương ra. Hắn sẽ tìm Huyện-lệnh trả thù. Bây giờ lão bá giết Huyện-lệnh, nộp đầu cho Tô Phương. Tô Phương tin tưởng lão bá, giao Huyện-lệnh cho lão bá. Lão bá sẽ mang quân đánh thẳng lên Luy-lâu.
    Đào Kỳ gật đầu:
    – Kế này thực tuyệt, nhưng hơi nguy hiểm.
    Lê Chân cười:
    – Chị biết em thích kế này hơn kế thứ nhất. Bởi kế thứ nhất thì Phương Dung phải liếc mắt đưa tình với Tô Phương.
    Đào Kỳ nóng bừng mặt vì bị nói trúng tâm tư.
    Chàng cúi đầu xuống, tự nhủ:
    – Chị Lê Chân tuy thông minh, mưu kế tuyệt vời, nhưng hiểu lầm ta rồi. Ta coi Phương Dung như cô em gái. Chứ lòng ta... ta chỉ tưởng nhớ có một mình Tường Quy mà thôi. Ta cách xa Tường Quy đã hơn một năm rồi, không biết nàng đã về làm dâu họ Trương chưa? Thằng Trương Minh Đức là một thứ công tử bột, văn dốt, vũ dát, tính khí ngông cuồng, chắc nàng phải đau khổ vì hắn nhiều lắm. Nó là thằng ăn chơi trác táng, có thiết gì đến tiếng đàn, giọng hát của nàng nữa?
    Chàng thở dài, hỏi tiếp:
    – Còn kế thứ ba?
    – Chúng ta đón gia đình lão bá lên Đông-triều ở với chúng tôi, mặc cho bọn Trương Thanh, Lưu Chương với Tô Phương cắn cấu nhau. Trương Thanh thấy chúng ta bỏ đi, có khi sợ không dám giết Tô Phương. Đành thả chúng rồi cúi đầu tạ tội...
    Đào Thế Hùng suy nghĩ một lúc rồi nói:
    – Kế thứ ba thì hèn quá, ta còn mang tên Hùng thế nào được? Còn kế thứ nhất chưa chắc đã thành công. Chúng ta lấy việc phục quốc làm đầu, ta muốn chọn kế thứ nhì. Đông-triều nữ hiệp mưu thần chước thánh, danh bất hư truyền. Sau này khởi nghĩa, cháu sẽ phải lĩnh đội binh từ Đông-triều chặn không cho giặc rút lui. Cháu là gái mà chí khí hào hùng còn muốn hơn bọn ta. Bây giờ chúng ta nên bàn thêm chi tiết.
    Phương Dung bàn:
    – Ngay đêm nay, em với anh Kỳ đến nhà tù bắt Tô Phương giao cho chị, để chị giam giữ ở Đông-triều. Sau đó, chúng em cứu Ngũ-phương kiếm ra. Ngũ-phương kiếm tất tới huyện để hạch tội Trương Thanh. Lão bá hợp với Lưu Chương đánh đuổi Ngũ-phương kiếm đi, rồi hiến kế vu oan giá hoạ cho Ngũ-phương kiếm. Thôi, chúng ta bắt tay vào việc.
    Đào Kỳ, Phương Dung lên ngựa trở về Đăng-châu. Vừa đi được một quãng thì gặp Trương Minh Đức với ba tên tuỳ tòng đi tới. Bọn chúng thấy Đào Kỳ, Phương Dung thì mừng rỡ vô cùng, hô lên một tiếng, cùng rút vũ khí nhảy vào. Đào Kỳ chụp từng tên một, nắm đầu liệng xuống đất. Chàng vận kình lực khá mạnh nên ba tên đó chết giấc tức thời. Trương hoảng hốt chưa kịp chạy, Phương Dung đã từ mình ngựa vọt sang ngựa hắn, kề lưỡi kiếm vào cổ:
    – Mi dám bắt Tô đại công tử là mệnh quan của triều đình. Cha con mi mưu đồ phản nghịch, tội đáng giết cả ba họ. Mi mau đưa chúng ta về nhà ngục thả Tô công tử ra.
    Trương Minh Đức hoảng hồn, nói lắp bắp:
    – Tiểu nhân xin nghe lời cô nương.
    Đào Kỳ vận hết sức mình vào tay, nhắm cây thông to bằng bắp đùi bên đường đánh một chưởng. Cây thông to như thế, kêu cái ầm rồi gẫy đôi, đổ xuống. Chưởng này là một trong Phục Ngưu thần chưởng tên là Ác ngưu nan độ, mạnh nhất trong 36 chưởng của Sơn Tinh khi xưa.
    Phương Dung nói:
    – Từ đây về nhà ngục, nếu mi mưu đồ gì, đại ca đây sẽ cho mi một chưởng như vậy, thân thể nát như tương, mi hiểu không?
    Trương Minh Đức biết việc hôm nay không thể nào cứu vãn nổi, y chỉ mong thả Tô Phương ra, rồi cha con y dập đầu lạy, may mới thoát chết cả nhà.
    Y dẫn Đào Kỳ, Phương Dung đến Đăng-châu lao xá. Bọn lính giữ tù líu ríu đưa y vào. Phương Dung vẫy tay bảo bọn lính:
    – Công tử với chúng ta có việc riêng, các người khỏi theo hầu.
    Trương Minh Đức dẫn hai người tới một dãy nhà, nói:
    – Tô đại công tử tôi giam tại đây, còn bọn năm người tuỳ tùng, tôi giam riêng ở bên kia.
    Phương Dung nhanh tay bóp cổ Minh Đức. Y há miệng ra hắc, hắc mấy cái, nàng đã nhét giẻ vào mồm, trói lại, liệng vào một bụi rậm. Đào Kỳ lấy kiếm chặt khoá, đẩy cửa bước vào. Phương Dung đánh lửa lên, thấy Tô Phương bị bịt mắt, trói nằm đó. Đào Kỳ cho tay vào miệng, nói giọng ồm ồm:
    – Tô Phương, Trương Huyện-lệnh đã hợp mệnh trời, giúp người Việt phục quốc, nên muốn giết người để tỏ ý phản Hán. Hôm nay là ngày chết của ngươi đây.
    Nói rồi chàng nhấc bổng y lên, vọt ra ngoài hàng rào, biến vào đêm tối. Còn Phương Dung tiến đến căn nhà giam Ngũ-phương kiếm. Phía ngoài cửa có mấy tên lính canh. Chúng thấy một người con gái đến cửa nhà giam vội hỏi:
    – Cô là ai?
    Nàng đáp:
    – Ta là người của Huyện-lệnh đại nhân sai đến để tra xét tù nhân.
    Một tên hỏi:
    – Có lệnh bài không?
    Phương Dung nói:
    – Có, ngươi lại đây mà coi.
    Y tiến lại. Phương Dung rút kiếm phóng vèo vèo hai nhát. Y giật bắn người thì mũi kiếm đã xuyên qua ngực y. Y lảo đảo ngã xuống. Phương Dung vung kiếm chặt khoá, vào nhà tù. Nàng đánh lửa lên thì thấy Ngũ-phương kiếm bị đóng gông ngồi đó.
    Nàng hỏi:
    – Huyện-lệnh làm phản nên bắt giam công tử cùng các vị. Tôi trốn được, đi cứu công tử và các vị. Công tử đâu?
    Bọn Ngũ-phương kiếm nói:
    – Tôi cũng bị bắt giam cùng công tử, nên không biết người bị giam ở đâu. Nguyễn cô nương, mau cứu bọn tôi để chúng tôi đi cứu công tử.
    Phương Dung chặt gãy còng, cắt dây trói cho năm người rồi ra lệnh:
    – Bây giờ chúng ta đại náo nhà tù tìm cứu công tử trước, hay đến huyện đường hỏi tội huyện lệnh?
    Năm người thấy năm thanh kiếm của mình để gần đó, vội nhặt lấy đeo vào lưng.
    Hoàng kiếm nói:
    – Đại náo nhà tù, e khó cứu được công tử. Chi bằng chúng ta tới huyện đường bắt Huyện-lệnh dễ hơn.
    Phương Dung dẫn năm người vọt qua hàng rào nhà tù, rồi hướng huyện đường đi tới.
    Trời đã về khuya, nhưng trong huyện đường vẫn còn đèn đuốc sáng choang. Phương Dung biết Huyện-lệnh đang ngồi chờ tin Thế Hùng và con trai đi bắt nàng với Đào Kỳ nên chưa đi ngủ. Nàng bảo khẽ Ngũ-phương kiếm:
    – Chúng ta dò thám thử xem.
    Ngũ-phương kiếm là những người lịch lãm giang hồ nhiều nên gật đầu. Năm người vòng ra phía sau huyện đường, dùng tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, nhìn vào.
    Trong sảnh đường, chủ nhân Anh hùng tửu lâu đang quỳ dưới đất với một người con gái tuổi khoảng 17, 18, vẻ mặt xinh tươi. Huyện lệnh ngồi trên ghé, bên cạnh, một tên lính cầm roi như tra khảo.
    Huyện lệnh hỏi:
    – Phùng Đại Tín, bấy lâu nay ta che chở cho ngươi mở Anh hùng tửu lâu, ngươi đã trở thành giàu có. Nhưng nay ngươi lại trở thành gian tham, ăn cắp. Bọn khách tám người đến, trong đó có hai người Việt, chúng đi đâu mất, ngươi không hay? Hành lý của hai tên người Việt và tên công tử đầu xỏ thì biến mất, chỉ còn hành lý của năm tên người Hán. Ta muốn biết hành lý của tên công tử và hai tên người Việt ngươi cất nơi đâu?
    Chủ quán lắc đầu:
    – Tôi không biết gì hết. Hôm qua, sau khi ăn, họ cùng đi ngủ. Trưa nay không thấy họ thức giấc, tôi cho cạy cửa phòng của năm vị quan nhân người Hán thì thấy hành lý còn để đó. Hành lý của hai tên người Việt và của tên công tử thì biến mất.
    Trương Thanh phất tay ra lệnh. Tên lính vung roi quất túi bụi vào người chủ quán. Phùng Đại Tín lăn lộn dưới đất, thịt nát, máu chảy đầm đìa nhưng vẫn chối là không biết gì cả.
    Huyện-lệnh thấy đánh chủ quán không ăn thua, quay hỏi người con gái chủ quán:
    – Phùng Vĩnh Hoa, cô là người đọc sách, là học trò giỏi nhất trong vùng Đăng-châu này, ta tin cô, bởi cô biết lễ, nghĩa, liêm, sĩ. Những lời khai của cha cô có đúng không?
    Phùng Vĩnh Hoa nói:
    – Cha tôi là người ngay thẳng, người ta trả quá một đồng, cha tôi cũng không nhận, huống hồ ăn cắp của khách hàng? Hôm qua, tám người khách trong đó có sáu Hán, hai Việt đều ăn mặc theo lối quyền quý, người nào cũng đeo gươm bên mình. Họ trả tiền sòng phẳng, còn thưởng nhiều tiền cho người hầu bàn nữa. Tối đến, cha tôi chọn tám phòng hạng nhất cho họ ở. Nhưng sáng ra thì cửa các phòng còn đóng kín, nhưng cửa sổ đã mở tung. Cha tôi cho người vào xét, thấy hành lý của năm vị quan nhân người Hán còn nguyên. Trái lại, hành lý của vị quý nhân người Hán với hành lý của hai người Việt thì không thấy. Sự tình có thế. Đại quan minh kiến. Nếu mấy người hầu trong khách điếm có lòng gian, thì có cho ăn vàng cũng không dám vào phòng mấy vị đó, mà dù có vào phòng thì họ sẽ lấy hết tất cả hành lý chứ đâu có lấy của ba người mà thôi? Như ngài đã khám xét, hành lý của năm vị quan gia người Hán đều đầy vàng bạc, nếu chúng tham, chúng đã lấy hết rồi.
    Huyệnh lệnh nói:
    – Nghe ta hỏi! Ta muốn biết hành lý của quý nhân người Hán chứ không hỏi vị quý nhân người Hán ở đâu. Ta muốn hỏi hai người Việt chứ không hỏi hành lý của chúng.
    Phùng Vĩnh-Hoa nói:
    – Sự tình như vậy thì tôi đoán ra rằng vị quý nhân người Hán và năm vị quan nhân bị quý phủ bắt giam. Còn hai người Việt thì trốn được. Hai người Việt trốn đi, họ mang theo hành lý của họ. Năm quan nhân người Hán thì hành lý vẫn còn đó. Còn hành lý của quý nhân người Hán thì một là do hai người Việt ăn cắp mang theo, hai là do các vị công sai của quý phủ lấy đi.
    Phương Dung nghe Vĩnh Hoa nói khen thầm:
    – Người con gái này quả thực cơ mưu viễn tự, đoán việc như thần. Ta đã nổi tiếng là quyền biến, mưu mẹo nhưng còn thua Lê Chân một bậc. Nhưng cả Lê Chân với ta, đều thua người con gái này.
    Trong khi đó, Huyện-lệnh Trương Thanh suy nghĩ:
    – Con ta ngu quá. Hôm qua nó chỉ mải mê bắt gái, không ngờ gái trốn mất. Bọn tuỳ tùng thuận tay bắt luôn Tô Phương và Ngũ-phương kiếm để sinh vạ. Hai đứa người Việt chắc chạy qua phòng Tô Phương, thấy hành lý có nhiều giấy tờ quan trọng thì lấy đi. Không biết Huyện-úy với con ta có bắt được chúng về không? Nếu không bắt được thì họa không nhỏ. Thôi, ta cứ đổ cho chủ quán là mọi việc êm đẹp.
    Trong khi đó, Ngũ-phương thần kiếm lại nghĩ:
    – Đêm qua bọn ta với đại công tử bị chúng thổi thuốc mê bắt đi. Có lẽ lúc đó, Nguyễn cô nương ra ngoài chơi nên thoát được. Về sau, cô nương mới trở lại cứu bọn ta. Hành lý của đại công tử chắc bọn sai nha đã dấu đi. Nguyễn cô nương và Âu tiểu đệ chắc không phải là người ăn cắp hành lý của công tử. Nếu họ ăn cắp thì tội gì đêm hôm vượt nguy hiểm trở lại cứu bọn ta?
    Vì đã có chủ ý nên Huyện-lệnh đập bàn quát:
    – Mi nói láo? Ta là quan người Hán, tại sao lại cho bắt quý công tử người Hán với năm vị quan nhân người Hán? Nếu ta bắt thì đã đem người tới vây khách điếm, chứ việc gì phải vượt cửa sổ lén lút? Ta nói cho cô hay, cô phải khai thực như thế này: Người hầu trong khách điếm với cha cô thấy quý công tử với năm quan nhân người Hán có nhiều tiền, nên đã xông thuốc mê cho họ ngủ say. Người hầu khách điếm đã giết chết quý công tử và ăn cắp hành trang trốn mất. Bây đâu, lấy bút mực cho cô này cung xưng.
    Thư lại mang bút mực ra để trước mặt Phùng Vĩnh Hoa. Vĩnh Hoa cầm bút viết. Nàng đưa bút thực nhanh, chỉ một lát đã đây trang giấy, đưa cho thư lại. Thư lại cầm lấy đọc lên:
    Niên hiệu An Dương vương nước Âu Lạc thứ 291 nhằm năm Ất Mùi, tháng ba, ngày 25.
    Việt nữ họ Phùng, tên Vĩnh Hoa, 18 tuổi, ở đất Đăng-châu khai như sau:
    Cha tôi là Phùng Đại Tín, chủ nhân đại tửu lầu Anh hùng, từ khi mở khách điếm đến giờ, là người mẫn cán, trung thực, ai trả dư một đồng cũng không lấy. Suốt đời không tham của bất nghĩa.
    Ngày 24, có tám quý khách đến, dẫn đầu là một công tử người Hán, tuổi khoảng 23, lưng đeo bảo kiếm. Đi theo quý công tử có năm người Hán, người lớn tuổi nhất khoảng 40, người nhỏ nhất khoảng 25, tất cả đeo kiếm, dáng điệu hùng vĩ, dường như đều giỏi võ. Ngoài ra, còn có hai người Việt: nữ khoảng 17, mặt đẹp như hoa, nam khoảng 18, anh tuấn, tiêu sái. Họ cùng đeo bảo kiếm. Khi tới khách điếm, quý công tử đòi ngồi vào chiếc bàn danh dự của tửu lầu, mà công tử của Trương Huyện-lệnh bắt phải dành riêng cho người.
    Cha tôi phân trần rằng bàn này của Trương công tử. Công tử là quý tử của Trương Huyện-lệnh. Nhưng quý công tử nhất định ngồi bàn đó. Tám người đang ăn uống thì Trương công tử đánh đuổi họ. Họ đánh Trương công tử và ba người hầu ngã lăn xuống đất, rồi tha cho đi.
    Đêm tới, Trương công tử mang người đến thổi thuốc mê để bắt cô gái Việt. Nhưng cô và anh cô không có trong phòng. Trương công tử chỉ bắt được quý công tử và năm người Hán.
    Sáng nay, cha tôi khám phá ra sự tình, có vào huyện cớ. Quan Huyện-lệnh bắt cha tôi khảo dã và ép tôi cung xưng cho người hầu phòng đã giết và ăn cắp hành trang của quý công tử. Tôi không nhận, cứ sự thực khai.
    Nay ký: Phùng Vĩnh Hoa.
    Thư lại vừa đọc xong, Huyện-lệnh mặt tái mét, quát lớn:
    – Mi khai... láo! Rõ ràng là mi theo bọn phản nghịch. Mi dám dùng niên hiệu của Âu-lạc. Nguyên một tội đó cũng đủ giết cả nhà mi rồi.
    Phùng Vĩnh Hoa cầm nghiên mực ném vào mặt Huyện-lệnh. Kình lực mạnh vô cùng. Huyện-lệnh né đầu sang một bên tránh khỏi.
    Phùng Vĩnh Hoa quát lên:
    – Này Trương Thanh! Con mi giữa chốn đô hội, bắt cóc gái đẹp toan hãm hiếp là một tội. Con mi còn cho thủ hạ bắt cóc sáu người Hán đó là hai tội. Sau khi khám phá ra họ là những quan chức người Hán, mi muốn giết người để bịt miệng, đó là ba tội. Mi còn muốn đổ tội cho chúng ta ư?
    Mấy tên lính hầu nhảy vào bắt trói Vĩnh Hoa. Huyện lệnh cầm con dao nhỏ dí vào mặt nàng cười hề hề:
    – Nếu nàng không chịu khai như lời ta, ta sẽ rạch mấy nhát dao vào mặt nàng, mặt nàng sẽ trở thành xấu xí vô cùng. Ta hô ba tiếng, nếu nàng không chịu khai thì ta rạch. Nào... một...
    Phùng Vĩnh Hoa:
    – Mi cứ rạch đi. Chỉ mấy ngày nữa, cả nhà mi sẽ chết phơi thây.
    – Hai...
    – Ta đã bảo, dù mi rạch nát mặt ta, khoét mắt ta, cũng vô ích.
    – Ba... Được, ta rạch.
    Y vung dao lên thì đánh vèo một tiếng, hai mũi phi tiễn nhỏ từ cửa bay vào. Keng một cái, con dao trên tay Huyện lệnh vuột khỏi tay y, văng ra xa.
    Trương Thanh quát hỏi:
    – Ai?
    Có tiếng đẩy cửa, rồi một người con gái nhỏ nhắn, mặt không đẹp nhưng tươi như hoa, tuổi khoảng 18, 19, lưng đeo gươm tiến vào, khoanh tay đứng giữa nhà:
    – Trương Thanh, mi bắt giam Tô Phương và tùy tùng của y thì mặc người Hán của mi chém giết nhau. Tại sao mi lại đổ tai vạ lên chủ quán và cô nương này?
    Trương Thanh quát:
    – Quân bây đâu?
    Thiếu nữ nhảy vèo đến, rút kiếm kề vào cổ y:
    – Muốn sống thì im mồm. Tô Phương hiện ở đâu?
    Tiếng quát của y vừa rồi làm bọn quân ở ngoài kinh động. Sáu tên mở cửa tiến vào.
    Huyện-lệnh kêu cứu:
    – Lưu Chương, cứu ta với.
    Người dẫn đầu sáu tên quân vào là Lưu Chương, Giám sở Tế-tác Đăng-châu. Y nói với cô gái:
    – Cô nương, cô là ai? Có mau buông Huyện-lệnh ra không? Cô không thể nào địch nổi cả đoàn thiết kỵ của huyện Đăng-châu đâu. Cô tha Huyện-lệnh ra, ta hứa sẽ tha cô rời chỗ này an toàn. Lưu Chương này, xưa nay nói một là một.
    Cô gái chỉ Phùng Đại Tín và Phùng Vĩnh Hoa nói:
    – Các người phải tha cả hai người này ra.
    Huyện-lệnh gật đầu ưng chịu.
    Lợi dụng lúc cô gái phân tâm, Trương Thanh lộn người đi tránh khỏi lưỡi guơm của cô. Cô gái phóng kiếm theo thì Lưu Chương đã vung chưởng đánh vào ngực cô. Hai chưởng chạm nhau, cô gái cảm thấy khí huyết đảo lộn, lồng ngực như bị nghẹt thởi.
    Lưu Chương cười:
    – Thì ra cô là Nguyệt-điện Đàm Ngọc Nga, Nguyệt-điện nữ hiệp. Ngươi không phải là đối thủ của ta đâu.
    Nói rồi, y vung chưởng đánh nữa. Đàm Ngọc Nga đảo kiếm theo hình bán nguyệt, rồi vòng từ dưới lên trên. Lưu Chương thu chưởng về thì kiếm lại từ trên vòng sang phải. Y lùi lại, kiếm chiêu lại từ phải hướng vào ngực y. Lưu Chương đối chưởng với nàng tuy thắng thế nhưng võ công của y chỉ cao hơn Đàm Ngọc Nga một chút, làm sao y đánh lại kiếm của nàng? Y lui đến cửa thì một toán cận vệ đã tràn vào bao vây lấy nàng vào giữa.
    Phương Dung bảo Hoàng kiếm:
    – Chúng ta xuất hiện ngay thì vừa, có đủ nhân chứng. Nếu chậm trễ, Trương Thanh có thể trở mặt, ta không còn dịp tốt nữa.
    Hoàng kiếm ra lệnh:
    – Bọn chúng ta cùng xuất hiện. Bạch kiếm trấn cửa ra vào. Ta trấn áp Lưu Chương, Hắc đệ bắt Huyện lệnh, Lam đệ thanh toán lũ cận vệ, Xích đệ bắt giữ Đàm Ngọc Nga, Nguyễn cô nương tiếp ứng.
    Trong thâm tâm Hoàng kiếm, y coi Phương Dung không vào đâu, bất quá nàng đeo kiếm cho oai, chứ võ công không có gì. Y hú lên một tiếng, cả bọn cùng nhảy vào sảnh đường.
    Hoàng kiếm hô lớn:
    – Ngừng tay.
    Tất cả ngạc nhiên, ngừng lại.
    Huyện lệnh hỏi:
    – Các người là ai?
    Hoàng kiếm nói:
    – Chúng ta là Ngũ-phương thần kiếm, khâm sai của Kiến Vũ thiên tử. Chúng ta vâng chỉ thiên tử tới đây để tra xét việc ám muội của mi.
    Hắc kiếm nhanh tay chụp gáy Huyện-lệnh, bắt quỳ gối, rồi dí kiếm vào cổ y. Trương Thanh run lẩy bẩy, nói không ra lời.
    Lưu Chương quát lớn:
    – Các người vâng chỉ thiên tử, vậy chiếu chỉ đâu?
    Hoàng kiếm tức quá quát lên:
    – Lệnh bài đây!
    Y rút kiếm ra đâm Lưu Chương. Lưu Chương đã có đao trong tay nên vội vung đao đỡ. Choang một tiếng, tay y tê chồn, y vội lùi lại hai bước, trong khi Hoàng kiếm vẫn đứng nguyên.
    Nguyên Lưu Chương xuất thân là đạo tặc ở Trung-nguyên, được Thái-thú đời trước là Tích Quang dẫn dụ sang Giao-chỉ cùng nhau tha phương cầu thực. Quang cho y chưởng quản Tế-tác huyện Đăng-châu để cùng làm việc với anh em cô cậu y là Trương Thanh, hầu vơ vét, làm giàu cho dễ. Từ ngày sang Giao-chỉ, y đã so tài với biết bao nhiêu cao thủ, nhưng chưa bao giờ bị bại. Gần đây, y quen biết với Huyện-úy Thế Hùng là một cao thủ võ học Lĩnh Nam. Nhưng Thế Hùng vốn tính hiếu hoà nên hai người chưa từng động thủ. Giờ đây, lần đầu tiên trong mười năm tung hoành, y đã gặp một đối thủ lợi hại đến trình độ không thể tưởng tượng được.
    Y đã nghe tiếng Ngũ-phương kiếm trợ giúp Cảnh-Thủy hoàng đế đánh Vương Mãng, chiếm lại Trường-an, Hàm-đan, Đồng-quan, Lâm-đồng. Sau đó, khẳng khái bỏ đi hành hiệp cứu dân, không nhận quan chức. Người này mặc áo vàng, chắc là Hoàng kiếm đứng đầu trong Ngũ kiếm.
    Mặc dù đã biết rõ ràng Ngũ-phương kiếm từ Trung-nguyên sang, nhưng trước sự việc cỡi cọp, y với Huyện lệnh đành phải làm tới. Y buột miệng khen:
    – Hảo kiếm pháp.
    Rồi, y múa đao xông vào đánh Hoàng kiếm. Hoàng kiếm vung kiếm trả đòn. Hai cao thủ đấu với nhau trong phòng hẹp, nhưng vẫn biểu lộ được bản lĩnh tuyệt với. Trong khi đó, Lam kiếm chỉ sau mấy chiêu đã dồn lũ cận vệ vào góc phòng, bắt bỏ vũ khí. Bọn cận vệ biết mấy vị đại nhân này từ Trung-nguyên sang nên líu ríu tuân theo, không dám chống lại.
    Còn Xích kiếm vừa nhảy vào đã vung kiếm đâm Đàm Ngọc Nga năm chiêu. Ngọc Nga lui lại tránh chiêu đầu, cố đỡ được bốn chiêu. Đến chiêu thứ năm, nàng phóng kiếm đâm y. Chiêu thức của nàng dường như lối đánh liều mạng để hai bên cùng chết. Y giật mình lùi lại, đang thế công trở thành thế thủ. Y là người trẻ nhất trong ngũ kiếm, tâm tính hiền hậu. Y thấy Ngọc Nga dường như chỉ muốn gây hấn với Huyện-lệnh, có vẻ có lợi cho anh em y. Vì vậy y đã không dám thẳng tay. Ngọc Nga đánh liền năm chiêu quái dị, rồi nàng thu kiếm nhảy lui lại, cười:
    – Con bé nhà quê là Đàm Ngọc Nga hôm nay hân hạnh được diện kiến với Ngũ-phương thần kiếm.
    Xích kiếm thu kiếm về, chấp tay đáp lễ:
    – Đa tạ cô nương quá khen. Dường như cô nương tới đây chỉ mục đích ăn thua với Trương Thanh?
    Đàm Ngọc Nga nói:
    – Ăn thua thì không có. Nhưng tôi nghe dường như y muốn hại Ngũ-phương thần kiếm. Đàm Ngọc Nga tôi, được đời tặng cho chữ nữ hiệp, nay thấy Thần-kiếm bị gian tặc hãm hại, nếu không ra tay hỏi còn gì là hiệp nữa?
    Xích kiếm thấy Đàm Ngọc Nga xinh đẹp, nói năng uyển chuyển, dịu dàng, lại vì bọn y mà đến, nên y chắp tay xá:
    – Vừa rồi tôi lỗ mãng, lỡ ra tay đánh mấy chiêu, mong cô nương hỷ xả đại xá cho.
    Ngọc Nga cười:
    – Người Việt chúng tôi thường nói: Đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận họ. Xích đại ca, người võ lâm chúng ta qua lại với nhau mấy chiêu là chuyện thường.
    Cả hai ngừng lại theo dõi cuộc đấu giữa Hoàng kiếm và Lưu Chương.
    Trong khi Chương dùng hết sức, còn Hoàng kiếm chỉ như con mèo vờn con chuột chứ không muốn ra tay. Y cầm cự được một lúc thì đã mệt nhừ, vội quăng đao nói:
    – Ta giận vì học nghệ không tinh, chịu thua dưới tay ngươi, vậy ngươi muốn giết, muốn băm vằm, cứ ra tay. Lưu Chương này thề không nhăn mặt hay kêu một tiếng.
    Hoàng kiếm nói:
    – Lưu tướng quân! Chúng ta cùng là tôi nhà Đại Hán, tại sao lại giết nhau? Những việc ở đây đều do Huyện-lệnh mà ra cả. Chúng ta chỉ cần cứu Tô công tử rồi đưa Huyện-lệnh về để Thái-thú xử trị. Lưu tướng quân là người vô can, không nên dính líu vào việc này.
    Hoàng kiếm thu kiếm về rồi hỏi Lam kiếm:
    – Huyện-lệnh đâu?
    Mọi người chưng hửng. Nguyên trong lúc mọi người không chú ý, Huyện-lệnh đã chui theo lỗ chó ở Huyện-đường sang phòng bên cạnh, trốn biệt.
    Lam kiếm nói:
    – Dù cho nó trốn đâu chăng nữa cũng không thoát khỏi tay chúng ta. Việc trước mắt, chúng ta phải tìm cho ra đại công tử ở đâu? Bây giờ chúng ta nên tới Đăng-châu lao xá.
    Đàm Ngọc Nga nói:
    – Hậu hội hữu kỳ. Ngũ-phương thần kiếm đã ra tay thì một Huyện-lệnh chứ ngàn huyện lệnh cũng bị trói tay. Tôi xin bái biệt.
    Hoàng kiếm nghĩ:
    – Người con gái này không hiểu lý lịch ra sao, nhưng nàng đã có hiệu là Nguyệt Điện nữ hiệp, kiếm pháp khá kỳ diệu, ắt địa vị không nhỏ. Nàng lại tỏ cảm tình với bọn ta. Bọn ta chưa quen nàng, trong khi nàng cũng muốn ăn thua với Huyện lệnh cứu bọn ta. Bọn ta phải kết thân với nàng. Ta là người nghĩa hiệp, nếu được kết thân với những người như nàng, thực còn gì hay hơn nữa?
    Nghĩ rồi, Hoàng kiếm chắp tay vái dài:
    – Nguyệt-điện nữ hiệp, khi nào có dịp, xin ghé Luy-lâu, anh em chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng chờ đón nữ hiệp.
    Đàm Ngọc Nga nói với cha con Phùng Vĩnh Hoa:
    – Chúng ta đi thôi, Phùng tiên sinh, Phùng sư tỷ.
    Anh em Ngũ-phương thần kiếm tiễn Đàm Ngọc Nga ra cửa, lúc trở lại thì không thấy Lưu Chương đâu nữa.
    Lam kiếm quát lớn:
    – Chúng ta là người của triều đình. Nó là Giám-sở Tế-tác Đăng-châu, lại không tuân lệnh chúng ta, rõ ràng nó làm phản rồi. Hãy mau mau đến Đăng-châu lao xá cứu công tử ra đã.
    Năm anh em Ngũ-kiếm với Phương Dung vừa ra khỏi huyện đường thì tứ phương trống dậy, thiết kỵ bao vây trùng trùng, điệp điệp. Bốn cánh quân bao vây bốn ngả. Mỗi cánh quân do một tướng chỉ huy.
    Phương Dung nói:
    – Chúng ta có sáu người, không thể địch nổi với hàng nghìn thiết kỵ, vậy chỉ còn đường duy nhất là chạy về Luy-lâu mang đại quân xuống bắt Huyện-lệnh mới giải quyết được vụ này.
    Anh em Ngũ-phương xuất thân là hiệp sĩ, không phải người lưu manh như bọn Lưu Chương. Họ sang Giao-chỉ do chỉ dụ của triều đình. Họ không giữ chức vụ gì ở Lĩnh-nam. Nhưng uy quyền rất lớn, chỉ thua có Tô Định. Khi đi đến đâu các Huyện-lệnh đều phải cúi đầu. Nay gặp trường hợp Huyện-lệnh Đăng-châu phản trắc, không coi họ vào đâu, điều mà họ chưa từng gặp. Uất giận cành hông, nhưng họ cũng biết rằng ngoài lời khuyên của Phương Dung, không có đường nào khác.
    Hoàng kiếm nói:
    – Chúng ta mạnh ai nấy phá vòng vây chạy ra, rồi tụ họp ở Luy-lâu.
    Trong khi sáu người bàn tán thì quân sĩ phủ vây bốn mặt. Huyện lệnh Trương Thanh nói lớn:
    – Các tướng và ba quân hãy nghe: Đây là năm tên phản nghịch đã liên kết với bọn tạo phản, bắt Tô đại công tử của Thái-thú đại nhân, không chừng chúng đã giết công tử rồi cũng nên.
    Chỉ mặt bọn Ngũ-phương, y tiếp:
    – Các người đều ăn cơm, mặc áo của nhà Đại Hán, hãy bắt giữ lấy chúng nó cho ta. Ai bắt hoặc giết được một tên sẽ được thưởng mười lượng vàng.
    Chư quân hô rầm một tiếng rồi lăn xả vào. Lam kiếm nhắm phía Đông chạy, đụng phải Huyện-uý tức Đào Thế Hùng. Y khinh thường, nhắm đầu Huyện-uý phóng một chưởng. Thế Hùng vận chưởng vào tay trả đòn. Hai chưởng gặp nhau. Lam kiếm phải thối lui ba bước mới đứng vững, còn Thế Hùng cũng cảm thấy tê dại cánh tay.
    Ông nghĩ:
    – Tên này là một trong Ngũ-phương kiếm, ta chỉ nên đấu chưởng, mà không nên đấu kiếm với nó. Vừa rồi, ta ngồi trên ngựa, nó đứng dưới đất, thắng không phải anh hùng. Dẫu sao ta cũng là đệ tam thái bảo phái Cửu-chân, ta đâu cần mượn sức ngựa?
    Ông nói:
    – Lam kiếm, ta nghe nói ngươi là một trong Ngũ-kiếm danh vang đất Kinh Tương, vậy ngươi có dám đấu chưởng với ta chăng?
    Lam kiếm cười:
    – Được, ta há sợ ngươi sao?
    Ông nhảy xuống ngựa. Trong khi còn lơ lửng trên không ông đã phóng ra chiêu Loa thành nguyệt ảo. Chiêu này do đại tướng Vũ Bảo Trung của Âu-lạc sáng chế ra, dùng để đánh từ trên xuống dưới, sức toả ra như ánh trăng từ trên trời chiếu xuống thành Cổ-loa. Lam kiếm vận sức vung chưởng đỡ. Hai chưởng gặp nhau. Thế Hùng mượn sức chưởng đối phương vọt ra xa, rồi phát chiêu Hải triều lãng lãng, chiêu này một thế sẽ thành hai, hai thành bốn, bốn thành 16, một trong những chưởng tuyệt học của Cửu-chân. Lam kiếm vung chưởng đỡ lớp thứ nhất, y chỉ hơi rung động. Lớp thứ nhì đến, y biết nguy hiểm, vội vận toàn lực đỡ. Bùng một cái, người y tuy không bị lui lại, nhưng khí huyết cũng đảo lộn. Y chưa kịp thở, thì lớp thứ ba đã đến. Y vận đủ toàn lực đón đỡ. Lần này, toàn thân y rung động và y phải lùi lại đến bốn bước. Chưa kịp định thần thì lớp thứ tư đã đến. Y không dám đỡ, vội nhảy vọt lên không. Kình lực của Thế Hùng đi dưới chân y mà y cảm thấy tê dại. Khi rơi xuống đất, y vội vận kình lực để chuẩn bị đối phó với đối thủ. Nhưng đối thủ đã khoanh tay, đứng mỉm cười, nói:
    – Lam hiệp, tại hạ thật vô lễ. Từ ngày ra đời đến giờ, Lam hiệp là người đầu tiên đỡ được ba chưởng của ta. Ta vì khâm phục mà ngừng lại ở đây. Tâm phục ngươi. Ngươi đấu chưởng thì thua ta, nhưng đấu kiếm thì ta không phải đối thủ của ngươi. Thôi, ngươi đi đi, ta không làm khó dễ ngươi đâu.
    Lam kiếm tuy thua, nhưng thấy đối phương hào sảng, lỗi lạc, lại thú nhận không phải là đối thủ kiếm thuật với mình, bất giác y cảm phục, và tự hẹn trong tâm rằng:
    – Nếu sau này có dịp gặp, ta phải kết bạn với người này.
    Hoàng kiếm phóng về phía trước viên tướng chỉ huy đội thiết kỵ. Tên tướng này có tài chỉ huy, nhưng võ công tầm thường nên chỉ nội một hiệp, y đã phải lùi.
    Hoàng kiếm ra khỏi vòng vây dễ dàng, nhưng khi quay lại thì không thấy Phương Dung đâu.
    Y ngẫm nghĩ:
    – Nguyễn cô nương cứu anh em ta, nay ta bỏ đi một mình, còn gì là hiệp nghĩa nữa? Ta phải trở lại tìm cô mới được.
    Y quay trở lại thì gặp Xích kiếm đi tới. Y hỏi thăm tin tức Phương Dung.
    Xích kiếm nói:
    – Chúng ta không cần trở lại. Dù Lưu Chương có bắt Nguyễn cô nương, chắc y không dám hại cô đâu. Chúng sẽ giữ cô nương để nhử bọn ta đến cứu và gài bẫy bắt. Nếu ta trở lại, ắt mắc mưu nó. Bây giờ phải về Luy-lâu đem đại quân tới cứu Tô công tử và Nguyễn cô nương sau.
    Còn Phương Dung, nàng đợi Ngũ-kiếm thoát vòng vây rồi, mới chạy ra phía đông. Gặp Lưu Chương, nàng rút kiếm ra nói:
    – Lưu tướng quân, ta nghe ngươi là một võ lâm anh hùng Trung-nguyên. Vậy, nếu là hảo hán, hãy xuống ngựa đấu với ta ít chiêu kiếm.
    Lưu Chương thấy nàng còn nhỏ tuổi, y có vẻ khinh thường:
    – Cô nương là ai? Tại sao lại đi chung với Ngũ-kiếm?
    Phương Dung cười:
    – Lưu tướng quân, ta thấy ngươi sắp chết, gia đình ly tán, mà ngươi không hay sao? Ngũ-kiếm là khâm sai của triều đình đã thoát. Họ sẽ về Luy-lâu mang đại quân xuống đây bắt ngươi với Huyện-lệnh. Bấy giờ người có đến 100 cái đầu cũng bị chặt hết. Ta thương cho ngươi mà cảnh cáo trước.
    Lưu Chương tuy làm liều theo Huyện-lệnh, nhưng trong lòng lo ngay ngáy. Bây giờ nghe Phương Dung nói, y mới thấy sợ hãi. Nhưng trước ba quân, y không muốn tỏ vẻ nhu nhược:
    – Ta không nói chuyện với con gái Nam-man.
    Rồi y rút đao, nhảy xuống đất, nói tiếp:
    – Mời cô nương ra tay.
    Xoẹt, xoẹt, xoẹt Phương Dung rút kiếm ra khỏi vỏ, vung lên hai cái rồi thu kiếm tra vào vỏ, động tác cực kỳ thần tốc. Lưu Chương cảm thấy mát rượi ở cằm và đầu. Y đưa tay lên sờ, thì râu, tóc đều bị tiện sát da thịt. Y ngây người ra không tin ở đời lại có thứ kiếm thuật như vậy. Y chưa chịu phục nên lui lại nói:
    – Ta không đề phòng, như vậy không kể.
    Phương Dung hỏi:
    – Bây giờ ngươi đề phòng chưa?
    Lưu Chương thủ kiếm đáp:
    – Rồi.
    Ánh kiếm lấp loáng xoẹt, xoẹt, xoẹt ba tiếng nữa. Lưu Chương chỉ kịp thấy ánh bạc lấp loáng, thì Phương Dung đã tra kiếm vào vỏ. Y thấy lạnh ở ngực, vội đưa tay lên sờ, thì áo đã bị thủng hai lỗ tròn bằng hai chén. Mũi kiếm cắt vải tuyệt không đụng vào da thịt y chút nào. Mặt y tái nhợt. Động tâm linh, y nhớ lại trước đây nghe nói phái võ Long-biên, có một thứ kiếm thuật cực kỳ thần tốc, chỉ người chưởng môn mới có thể sử dụng được. Y run run hỏi:
    – Cô nương có phải đệ tử của phái Long-biên không?
    Phương Dung thấy y nhận ra môn hộ của mình, thì cười:
    – Bây giờ tướng quân có còn muốn cản đường ta chăng?
    Lưu Chương chưa kịp trả lời, thì thấp thoáng một cái, Phương Dung đã vượt khỏi hàng quân, chạy mất hút vào bóng đêm.
    Phương Dung chạy thẳng về trang An-biên, đã thấy đủ mặt: Lê Chân, Đào Kỳ, Phùng Vĩnh Hoa, Đàm Ngọc Nga và Đào Thế Hùng. Nàng cúi chào mọi người rồi đưa mắt hỏi Lê Chân về Đàm Ngọc Nga, Phùng Vĩnh Hoa.
    Lê Chân cười tủm tỉm:
    – Tất cả kế hoạch chị đã an bài. Biết rằng sau khi cứu Ngũ-kiếm, em sẽ trở về huyện đường, nên chị cho Vĩnh Hoa đến huyện đường xin yết kiến Huyện lệnh, xin tội cho cha. Khi Huyện-lệnh làm khó dễ nàng, nàng nhân đó tố cáo tội lỗi của y để cho lính tráng, lại thuộc biết âm mưu của Huyện lệnh, hầu sau này Đào lão bá dễ kiềm chế y. Có điều, Vĩnh Hoa phải đóng vai người không biết võ, hầu qua mắt Ngũ-kiếm. Sau đó, chị cho Ngọc Nga xuất hiện, làm thân với Ngũ-kiếm, hầu sau này kéo y theo mình.
    Phùng Vĩnh Hoa buồn bã:
    – Bố em đã chuẩn bị cả rồi. Bao nhiêu tiền bạc, châu báu đều mang theo. Bây giờ, em theo bố lên huyện Yên-lạc lập nghiệp. Đó là quê mẹ của em. Ông ngoại em vừa mất nên trang Tiên-nha không người trông coi. Em tới đấy sẽ huấn luyện tráng đinh, tích trữ lương thảo, chờ ngày khởi nghĩa. Còn chị Lê Chân, chị nổi danh là Đông-triều nữ hiệp, khắp vùng ai cũng phục. Chị nên bỏ nghề đánh cá, bỏ bán quán, dành thời giờ để chiêu mộ sĩ tốt, nuôi ngựa, tích trữ lương thảo. Nếu không làm ngay, khi cuộc khởi nghĩa bùng lên, em sợ không kịp đâu. Phàm làm tướng phải lo xa tính trước cho vạn người. Biết những việc người thường không biết được. Nay chị đi đánh cá, bán hàng, đó là những việc ai mà chả làm được?
    Lê Chân nói:
    – Em thực là người mưu lược hơn đời, nhìn xa thấy rộng, chị biết lỗi rồi. Từ nay chị xin nghe lời em.
    Nguyệt-điện Đàm Ngọc Nga hỏi:
    – Vĩnh Hoa, nếu sau này khởi nghĩa, chị xin làm tiền đạo tướng quân đánh giặc, còn em, ngồi trong màn mà quyết thắng ngoài ngàn dặm, em phải làm quân sư mới đúng. Chị Lê Chân sẽ khởi binh ở vùng biển này đánh quặt lên phía Bắc, chặn đường về của giặc. Bây giờ chị trở về huyện Thanh-hóa vùng Đà-giang hạ để thu thập 36 động, nuôi ngựa, tích trữ lương thảo.
    Đào Thế Hùng nói với Vĩnh Hoa:
    – Ta tuy già, nhưng mưu lược không bằng cháu. Hôm qua ta nghe lời Lê Chân mà làm, nay ta muốn cháu cho ta lời khuyên.
    Vĩnh Hoa đứng dậy, chắp tay thưa:
    – Lão bá trở về huyện ngay. Lão bá giúp Huyện-lệnh cử người phi ngựa ngày đêm về Luy-lâu cáo với Thái-thú Tô Định rằng Ngũ-phương kiếm đã giết Tô Phương, đoạt vàng bạc theo bọn tạo phản. Ở đời, lời nói đầu tiên bao giờ cũng là lời nói mạnh nhất. Lão bá nhân đó nắm lấy binh quyền ở Đăng-châu. Lựa con cháu, đệ tử giỏi võ xung vào quân ngũ, nhất là tổ chức đạo quân của các trang ấp. Khi khởi sự, chỉ việc thí cho Huyện lệnh một kiếm, hô một tiếng, con em nằm trong quân ngũ, các trang ấp là người của ta. Bấy giờ lão bá dẫn đội quân Đăng-châu tiến đánh Long-biên, rồi đánh tập hậu Luy-lâu. Chủ lực chính là lão bá đó. Có điều, những gì chuẩn bị, dù cho con đẻ, dù cho đệ tử, cũng không nên tiết lộ, rất nguy hiểm.
    Nàng quay lại nói với Đào Kỳ, Phương Dung:
    – Hiện nay võ công hai em là đệ nhất Lĩnh-nam, phá âm mưu đại hội Tây-hồ của Tô Định, ngoài hai em, không ai làm nổi. Hai em hãy đuổi theo Ngũ-kiếm để đi cùng với họ. Ngũ-kiếm về đến Luy-lâu ắt ra mắt Tô Định. Nhưng Tô đã được tin báo của huyện lệnh Trương Thanh rằng Ngũ-kiếm làm phản, sẽ sinh nghi ngờ. Nay họ đi với hai em nữa, tất Tô Định sẽ tin lời Trương Thanh. Bấy giờ hai em chờ Ngũ-kiếm cùng đường mới ra tay cứu vớt. Như vậy chúng ta gây cho Ngũ-kiếm có thành kiến với bọn quan lại người Hán toàn một thứ lưu manh. Y tất tâu về triều đình rằng những việc làm của Lĩnh-nam công là đúng.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      Hồi 16

      Xưa kia nói nói, thề thề,
      Bây giờ bẻ khóa, trao chìa cho ai?
      (Ca dao)


      Đã hơn mười năm, chú cháu Đào Thế Hùng mới gặp nhau. Nhớ nhung chồng chất như núi, tình thương như biển. Thời bấy giờ, tình nhân luân chú cháu, anh em rất nặng. Cho nên khi Thế Hùng dẫn các con và đệ tử ra Bắc lập nghiệp, hằng ngày, ông và các con luôn nhắc đến anh, đến các cháu ở quê nhà. Còn Đào Kỳ, khi gặp lại ba người em họ: Hiển Hiệu, Quý Minh và Phương Dung, nỗi mừng kể sao cho xiết?
      Thuở bé, chàng cùng các em họ ở chung một nhà, nô đùa, tập võ với nhau. Chàng thường cùng các em dạo chơi đảo Nghi-sơn, lên núi Biện-sơn hái trái cây. Từ khi các em theo chú ra Bắc, chàng cảm thấy như thiếu thốn một cái gì trong đời. Hàng ngày, cha mẹ chàng cứ nhắc tới người chú này luôn. Còn các anh chàng cũng hay nhắc đến những kỷ niệm vui đùa với các em họ. Cho nên trong thời gian mười năm xa cách, lúc nào Đào Kỳ cũng nhớ đến chú thím, nhớ đến ba người em họ. Hôm nay, trong hoàn cảnh bèo nước gặp nhau, kể sao cho xiết nỗi vui mừng? Đào Kỳ gặp các em, chàng mới thấy con người ta có hai thứ tình: Tình nhân luân, là cha con, anh em và tình yêu nam nữ. Trước kia xa chú, chàng nhớ nhung, nhưng sự nhớ nhung đó nhẹ nhàng, dài dằng dặc. Khi xa cha mẹ, các anh, chàng cũng thấy nhớ như vậy mà thôi. Khi xa sư tỷ Thiều Hoa, chàng vừa thấy cái nhớ nhung giống như nhớ bố mẹ, kèm theo cái nhớ nhung đối với các anh chàng. Sau này gặp Tường Quy, chàng thấy cái nhớ nhung mãnh liệt, rung động khắp người. Có khi chân tay chàng bải hoải, đầu óc mơ hồ.
      Đào Thế Hùng nói:
      – Lâu ngày chú cháu không gặp nhau. Cháu với Nguyễn cô nương về trang ấp của chú ở mấy ngày đã. Thím vẫn nhắc đến cháu luôn. Bây giờ võ công cháu cao như vậy, cháu nên dạy cho các em, để khi khởi binh, còn dùng để đuổi giặc. Giòng giống họ Đào mà không nghĩ đến đuổi giặc thì thà làm trâu, làm chó còn ích lợi hơn.
      Nghe chú nói, Đào Kỳ mới thấm thía trong lòng:
      – Người đời thường ca tụng cha, chú, cậu ta là hào kiệt có hùng tâm, tráng khí thực quả đúng. Cha và cậu ta thì ta thấy bất cứ việc làm gì cũng hướng về phản Hán, phục Việt. Còn chú ta... lưu lạc ra Bắc mười năm, thân phải làm Huyện-úy cho giặc mà tấc lòng son đối với đất Lĩnh Nam vẫn không bao giờ nguôi.
      Dọc đường về trang của chú, Đào Kỳ, Phương-Dung ríu rít chuyện trò với ba người em họ. Trang của Đào Thế Hùng tên là Hiển Minh. Chữ Hiển Minh ghép tên của hai con ông là Hiển Hiệu và Quý Minh. Khi ông rời Cửu-chân, chỉ dẩn theo có trên trăm tráng đinh và đệ tử. Tới Cổ-loa, ông tìm đất hoang để lập ấp, thì đất hoang không còn. Ông bàn cùng vợ, lên Đăng-châu đất rộng, người thưa, tai mắt của giặc không mấy chú ý. Ông tìm đến địa điểm nầy, cùng gia nhân, đệ tử phá hoang lập ấp. Với chủ tâm phục quốc trong lòng, ông đi chiêu tập dân chúng phiêu bạt sống rải rác các nơi về ấp. Ông chiêu nạp những người chống Hán, thất thế sa cơ, những người bị Hán đàn áp, những người trốn không chịu đi lính Hán sang Trung-nguyên đánh nhau. Chẳng bao lâu, dân đinh trong trang của ông đã lên tới trên hai ngàn người.
      Thái-thú Tích Quang thấy thế lực của ông mạnh, uy tín lên cao, mời ông ra làm Huyện-úy. Là người đọc sách, ông biết lẽ tiến, thoái, nên nhận lời ra làm quan. Ông nghĩ: với uy tín của ông, không ai có thể nghi ông làm tôi mọi cho người Hán. Là Huyện-úy, nắm binh quyền trong tay, ông có nhiều cơ hội giúp đỡ dân chúng. Chứ nếu ông chống lại, Tích Quang sẽ phá trang ấp của ông ngay. Đến trang, Đào Kỳ xuống ngựa, gặp vợ Đào Thế Hùng, chàng hành đại lễ:
      – Cháu là Đào Kỳ xin kính cẩn chào thím. Chúc thím được vạn sự nguyện đắc như sở cầu.
      Bà Đào Thế Hùng là một mẫu phụ nữ hiền thục, không biết võ nghệ. Bà chỉ biết có việc chăm lo nội trợ. Nghe chồng con nói tìm được đứa cháu thì mừng lắm. Bây giờ thấy Đào Kỳ thành người lớn, dùng đại lễ kính bà, bà nắm tay cháu:
      – Cháu đứng dậy đi.
      Bà lo dọn cơm đãi Đào Kỳ. Khi thấy Phương Dung đi theo bèn hỏi:
      – À, cháu lấy vợ rồi đấy à? Vợ cháu đẹp quá nhỉ? Vợ cháu quê ở đâu? Bao nhiêu tuổi?
      Phương Dung ngượng quá, cúi đầu xuống, chưa biết trả lời sao, thì Đào Kỳ đã đỡ lời:
      – Thưa thím, đây là Nguyễn Phương Dung sư muội.
      Đào Hiển Hiệu ngạc nhiên:
      – Hồi nãy em thấy Nguyễn cô nương sử dụng kiếm pháp Long-biên đến chỗ tuyệt kỹ. Em nghĩ, dù bố em gặp kiếm pháp đó cũng đành chịu thua... Nhưng sao cô nương lại là người của phái Cửu-chân ta?
      Đào Kỳ cười:
      – Để anh nói cho mà nghe. Nguyễn cô nương là sư muội của anh, nhưng không phải là đệ tử phái Cửu-chân. Anh được một vị cao nhân phái Long-biên dạy cho kiếm pháp, thì Nguyễn cô nương là sư muội của anh.
      Rồi chàng tỉ mỉ thuật hết tất cả những gì đã gặp từ khi xảy ra trận đánh cảng Bắc. Nhưng chàng dấu chuyện gặp Tường Quy.
      Đào Phương Dung và Đào Kỳ bằng tuổi nhau, thuở nhỏ thường chơi thân với nhau, nên nàng không tỵ hiềm, nói với cha:
      – Bố ơi! Luật lệ trong vũ lâm Lĩnh Nam có cấm sư huynh, sư muội lấy nhau không? Phái Cửu-chân nhà ta có cấm như vậy không?
      Thế Hùng lắc đầu:
      – Trong các phái võ chỉ cấm những người trên, dưới vai như sư thúc với sư điệt không được lấy nhau mà thôi. Phái Cửu-chân nhà ta còn khuyến khích sư huynh, sư muội lấy nhau là khác. Như bác trai, bác gái con chả là sư huynh, sư muội là gì đó?
      Đào Phương Dung vỗ tay:
      – Bố ơi! Hai bác không biết bây giờ ở đâu? Vậy bố đứng ra hỏi Nguyễn cô nương cho anh Kỳ đi, rồi làm lễ cưới. Nhà mình sẽ có thêm nàng dâu đẹp như tiên nga, kiếm pháp thần thông mưu trí tuyệt vời.
      Đào Phương Dung là cô gái học võ, được nuông chiều, tính tình tự nhiên, nghĩ sao nói vậy. Lời đề nghị của nàng làm Nguyễn Phương Dung ngượng quá, không biết trốn vào đâu cho thoát.
      Bà Đào Thế Hùng cũng nói:
      – Ừ, cháu cũng đã lớn rồi, bố mẹ cháu hiện không biết ở đâu. Thôi, chú thím đứng hỏi Nguyễn cô nương cho cháu, để trên đường xuôi ngược, vợ chồng bên nhau. Chứ cháu tuy là sư huynh của Nguyễn cô nương, mà hai người cứ đi với nhau như vậy, thì còn ra... thể thống gì nữa? À, thế song thân Nguyễn cô nương là ai?
      Đào Kỳ tường thuật tỉ mỉ tất cả những điều chàng đã trải qua cho chú thím với các em nghe. Đào Thế Hùng bảo cháu:
      – À, thì ra Nguyễn cô nương là con nhà danh gia, Nguyễn Trát với chú là chỗ giao tình rất hậu. Năm xưa, chú đã đấu với ông trên trăm chưởng.
      Từ lúc đến trang, Phương Dung bị hết cô em họ của Đào Kỳ đến bà Thế Hùng tấn công không đường thoát, bây giờ thấy có chỗ tránh né, nàng đánh trống lảng:
      – Thưa chú, thế cuộc đấu đó ai thắng, ai bại?
      Đào Phương Dung reo:
      – Đấy nhé, chị đã gọi bố em bằng chú, tức là xong rồi nghe.
      Suốt đời Nguyễn Phương Dung chuyên tìm chỗ sơ hở của lời nói người ta mà tấn công. Nay nàng bị Đào Phương Dung dồn vào chân tường, đành ngồi chết trân. Nàng nghĩ thầm:
      – Cái cô em này dồn mình vào chỗ dẫy không nổi rồi. Không biết cô này đã thôi chưa đây?
      Đào Thế Hùng nói:
      – Chúng ta ước hẹn đấu đến 120 chiêu thì thôi, vì vậy, không ai thắng, không ai bại. Thời gian qua mau thực, mới hôm nào đây, mà nay tóc chúng ta đã bạc hết rồi. Việc phục quốc thì chưa đi đến đâu cả.
      Ngừng một lát, ông tiếp:
      – Sau khi đi Mê-linh về, cháu phải đào kho tàng tại đền thờ Hùng-vương ngay. Biết đâu, một ngày kia, chẳng bị người ta vô tình đào lên lấy mất. Cháu đem kho tàng về Cối-giang cất để dùng vào việc khởi nghĩa. Còn vụ cháu với Phương Dung, chú khuyên cháu nên tiến hành sớm thì tốt hơn.
      Tối hôm đó, Đào Kỳ dẫn các em đến giảng võ đường thao luyện. Chàng bắt các em biểu diễn cho xem để biết trình độ đến đâu. Chàng thấy bản lĩnh Đào Phương Dung ngang với sư tỷ Thiều Hoa của chàng. Còn Hiển Hiệu và Qúy Minh thì không kém gì nhị sư huynh. Đầu tiên, chàng đem nội công dương cương của gậy đồng ra giảng rất kỹ cho ba người luyện tập. Chàng giảng giải tới khuya mới ngừng.
      Chợt nhớ ra điều gì, chàng hỏi Hiển Hiệu:
      – Anh có một điều thắc mắc. Hôm qua trên tửu lầu, Trương Minh Đức sử dụng mấy chiêu của họ Đào nhà ta. Vậy hắn có phải là đệ tử của trang mình hay không?
      Hiển Hiện lắc đầu:
      – Huyện-lệnh xin bố em dạy võ cho hắn. Nhưng hắn chỉ mải trác táng nên tuy có tập mà chẳng thu được kết quả nào. Hắn lại mới cưới vợ.
      Tim Đào Kỳ nhói lên. Chàng nghĩ đến Tường Quy:
      – Hắn cưới vợ lâu chưa?
      Đào Phương Dung là gái, hay tò mò chuyện yêu thương, vợ chồng, nên nàng biết rất tận tường, trả lời:
      – Vợ hắn là con của Huyện-úy Bắc-đái Chu Bá. Tức cháu ngoại của nhân vật lừng danh võ lâm Lê Đạo Sinh. Nàng tên là Tường Quy. Võ công cũng không thua gì em. Nhan sắc thì thực là tiên nga giáng trần. Dù cho Mỵ Nương, Mỵ Châu tái sinh cũng không bằng. Nàng đàn ngọt, hát hay. Nhưng từ khi làm vợ Minh Đức, thì không được vui vẻ, suốt ngày ủ rũ. Em thường vào dinh Huyện-lệnh chơi với nàng. Em có hỏi tại sao, nàng không trả lời.
      Khi Đào Kỳ nói chuyện với Đào Phương Dung, thì Nguyễn Phương Dung ngồi cạnh. Nàng đã biết mối tình của Đào Kỳ với Tường Quy. Biết chàng chưa quên được Tường Quy, nàng nghĩ thầm:
      – Ta không trách Đào lang được. Chàng đã gặp Tường Quy trước khi gặp ta là điều thứ nhất. Điều thứ nhì, Tường Quy là người ôn nhu, văn nhã, thuần hậu hơn ta, tuy võ công nàng thua ta. Mẹ ta chả từng nói rằng trai gái mới lớn, thì mối tình chớm nở lần đầu bao giờ cũng làm người ta say đắm nhưng rồi mau quên.
      Đào Phương Dung là cô gái rất thông minh, lại gần Đào Kỳ từ nhỏ, nên cô biết rõ người anh họ mình hơn hết. Nàng thấy Đào Kỳ chú ý đặc biệt đến Tường Quy, nét mặt, hơi thở thay đổi theo lời tường thuật của mình thì nghĩ:
      – Anh ta kể rằng đã ở Thái-hà trang của Lê Đạo Sinh. Tường Quy là cháu ngoại Lê Đạo Sinh, biết đâu hai người đã chả từng gặp nhau? Ta phải dò cho ra manh mối vụ này mới được.
      Nghĩ thế, nàng tiếp:
      – Tường Quy thường ưa ra cửa sổ nhìn trăng đánh đàn. Dường như nàng có mối ẩn tình câm nín thì phải.
      Câu nói này làm Đào Kỳ như mê như tỉnh. Bất giác, chàng buông tiếng thở dài não nuột. Tiếng thở dài đó cả hai nàng Phương Dung cùng nghe, nhưng tâm tư họ khác nhau.
      Đối với Nguyễn Phương Dung, từ khi mới gặp Đào Kỳ, nàng đã cảm thấy xao xuyến trong lòng. Rồi Đào Kỳ luyện võ cho nàng trong suốt một năm. Hai người ở bên sông, vừa luyện võ, vừa ngắm trời nước mênh mông. Dần dần nàng yêu Đào Kỳ lúc nào không biết. Trai cũng như gái, ở bất cứ thời đại nào, nơi nào, mối tình đầu bao giờ cũng dễ đến. Cái thuở ban đầu đó mãnh liệt vô cùng. Còn Đào Kỳ thì chỉ coi nàng như một cô em gái. Chàng đem tất cả những đau khổ của mối tình tuyệt vọng ra than thở với Phương Dung. Phương Dung tuy yêu thương chàng, nhưng đành câm nín, không dám thổ lộ ra ngoài. Nàng là người thông minh, tự nghĩ:
      – Dần dần chàng sẽ quên Tường Quy và nghĩ đến ta.
      Giờ đây, nghe cô em họ nói đến Tường Quy, chàng thở dài não nuột, thì Phương Dung biết rằng hình bóng Tường Quy đã ăn sâu vào tâm tư Đào Kỳ, thật khó phai mờ đi được. Mấy hôm trước, ông bà Đào Thế Hùng ngỏ ý sẽ về Long-biên hỏi nàng cho Đào Kỳ, nàng cảm động, mừng vô hạn. Nhưng bây giờ nàng mới thấy: Muốn xóa bỏ hình bóng Tường Quy thật không phải dễ.
      Trời về khuya, Đào Thế Hùng dục các con, các cháu đi ngủ. Đào Kỳ về phòng, để nguyên quần áo, nằm vật xuống giường, ôm đầu mà khóc. Chàng tự biết mình khóc là thiếu vẻ anh hùng, nhưng chàng không thể nào cầm được nước mắt. Nước mắt tuôn ra không ngừng. Mãi về khuya, mối ẩn ức mới nhẹ đi đôi chút. Chàng nghĩ:
      – Ta phải đi thăm nàng. Ta chỉ cần được nhìn nàng một lúc cũng đủ thỏa mãn rồi. Huyện Đăng-châu này có chú ta là cao thủ, lại ở riêng. Ta lọt vào dinh Huyện lệnh thăm nàng, dù ta bị muôn ngàn mũi tên của giặc bắn vào người mà được nhìn nàng một cái cũng thỏa lòng.
      Nghĩ rồi, chàng lấy khăn bị mặt lại, đeo kiếm vào lưng, rồi theo cửa ngách của trang, hướng về huyện đường. Từ trang Hiển Minh đến huyện đường không xa. Đứng ngoài nhìn vào dinh huyện lệnh, nhờ bóng trăng dọi xuống, chàng thấy hai chòi canh của quân Hán. Nhún người một cái, chàng nhảy vào trong hàng rào. Tên quân Hán thấy thấp thoáng có bóng đen trước mặt, hắn cho rằng hoa mắt, đưa tay lên dụi, thì Đào Kỳ đã chạy qua. Chàng nhảy lên nóc huyện đường, rồi móc hai chân vào mái ngói, đu người xuống cửa sổ, nhìn vào trong: Đó là một căn phòng trang trí cực kỳ hoa mỹ, nhưng không có ai trong đó. Chàng buông chân, vọt vào phòng. Chợt có tiếng chân người đi vào. Chàng vội núp sau một cái tủ. Người đi vào là một thiếu nữ người Việt, mặc quần áo theo lối nô tỳ, cô bưng một dĩa trái cây để lên bàn, châm lửa đốt trầm cho vào lư hương. Có tiếng nói từ phòng bên vọng qua:
      – Ninh ơi, công tử đã về chưa?
      Tim Đào Kỳ đập loạn lên. Chàng đã nhận ra tiếng nói đó là của Tường Quy.
      Người nữ tỳ đáp:
      – Thưa mợ, công tử đang bận việc với quan, không biết giờ nào mới xong.
      Tiếng Tường Quy nói:
      – Thôi, ngươi đi ngủ đi.
      Người nữ tỳ lau cái án thư rồi ra khỏi phòng. Cánh cửa phòng bên cạnh mở ra, Tường Quy thẫn thờ bước vào. Nàng mặc bộ quần áo lụa màu thiên thanh, trên ngực có thêu nhánh đào rực rỡ.
      Đào Kỳ bủn rủn cả chân tay, ngẫm nghĩ:
      – Không lẽ vì nàng nhớ đến ta mà thêu cành đào trên áo?
      Tường Quy đến bên cửa sổ, nhìn lơ đãng về phương trời xa, cất tiếng hát khe khẽ:
      Thanh thanh tử khâm,
      Du du ngã tâm,
      Túng ngã bất vãng,
      Tử ninh bất tự âm.
      Thanh thanh tử bội,
      Du du nga tư,
      Túng ngã bất vãng,
      Tử ninh bất lai.
      Yểu hề, đạt hề,
      Tại thành khuyết hề,
      Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!
      (Tà áo xanh xanh, em nhớ anh không nguôi. Em không đến thăm anh được, tại sao anh không gửi thư thăm em? Chiếc khăn xanh xanh, làm em nhớ anh buồn dằng dặc. Em không tới thăm anh được. Tại sao anh không đến thăm em? Một mình em ngồi, lòng bồi hồi nhớ anh. Em chỉ thấy bóng mình theo mình mà thôi. Em ngồi trong cửa thành đã mòn mỏi. Một ngày không gặp anh, dài bằng ba thu).
      Đào Kỳ biết bài ca trên là bài Tử khâm trong kinh Thi, nghĩa là Tà áo của anh.
      Tường Quy mơ màng nhìn trăng, cất tiếng ngâm sa mạc:
      Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
      Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
      Anh ơi, chua ngọt đã từng,
      Non xanh, đất đỏ, xin đừng quên nhau.
      Tiếng ngâm của nàng dài lê thê, bay vào không gian. Dưới ánh trăng, Đào Kỳ thấy những giọt lệ tuôn rơi xuống hai gò má. Nàng lấy ống tiêu đưa lên miệng thổi. Tiếng tiêu lên cao tít tận mây mờ, bay vào trong đêm trăng, tạo thêm vẻ thảm não. Đào Kỳ nhận ra đó là bài Cổ Loa di hận. Bản này chàng đã nghe Chu Thổ Quan thổi hôm chàng cùng Tường Quy, Minh Châu đi thăm cố đô Cổ-loa. Có điều tiếng sáo của Tường Quy thổi trong đêm trăng, giọng thảm não hơn nhiều. Đào Kỳ không tự chủ được nữa, chàng lột khăn bịt mặt ra, thẫn thờ tới trước mặt nàng ngồi xuống.
      Tường Quy xuất thần theo tiếng tiêu, đắm chìm vào mối tình xa xưa, đến nỗi Đào Kỳ tiến ra ngồi đó, nàng cũng không hay.
      Điệu sáo ngưng, nước mắt nàng rơi từng giọt trên gò má. Nàng ngửng đầu lên, thấy Đào Kỳ ngồi trước mặt, thì cho rằng mình đang sống trong mơ. Nàng không dám chớp mắt, vì sợ nếu chớp mắt, hình ảnh Đào Kỳ sẽ biến đi mất. Nàng than:
      – Anh ơi! Từ khi gặp gỡ ở trang Thái-hà, chúng mình du ngoạn cố đô Aâu-lạc, em đã mơ màng được cùng anh trăm năm chữ đồng. Tại sao em lại sinh vào gia đình người Việt. Cha mẹ dạy em hận thù người Hán, khinh ghét Mỵ Châu, rồi lại bắt em làm một Mỵ Châu? Tại sao ông ngoại lại cho em mượn du thuyền của người, để chúng mình chơi trăng trên sông? Đêm trăng trên sông Hồng-hà ấy, chúng mình đã yêu nhau. Em đánh đàn cho anh nghe. Để rồi mấy ngày sau anh bỏ đi, chỉ để lại cho em mấy chữ. Từ hôm lấy chồng, em vẫn dành tình yêu cho anh. Em ước mơ một ngày nào đó, em được gặp lại anh một lần, dù chỉ trong giấc mơ. Hôm nay, trong giấc mơ, em đã toại nguyện. Nhưng tình trong giấc mộng, muôn ngàn vẫn là không.
      Nàng đến ngồi bên Đào Kỳ, ngả đầu vào vai chàng mà khóc. Đào Kỳ như bay bổng lên cao, chập chờn, mơ mơ, tỉnh tỉnh. Nước mắt Tường Quy nhỏ xuống cánh tay. Chàng đưa cánh tay lên miệng hớp lấy giọt nước mắt đó.
      Bỗng những tư tưởng, ý thức trong sách Đại-học, Trung-ung, Luận-ngữ, Mạnh-tử trở về với chàng. Chàng nghĩ:
      – Tường Quy đã có chồng. Ta có thể để cho nàng ô danh, thất tiết được không? Ta là con trai của một Lạc- hầu, chưởng môn phái Cửu-chân, ta có thể nào đi tình tự với vợ một tên Hán dốt nát, yếu hèn không?
      Chàng định đẩy Tường Quy ra, nhưng giọt nước mắt thứ nhì lại nhỏ xuống tay chàng. Chàng đưa hai tay bế nàng lên, ôm chặt trong lòng, tự bào chữa cho hành động của mình:
      – Nàng với ta yêu thương nhau, thì ta là chồng nàng. Tên Trương Minh Đức là Hán tặc, đến cướp đất nước ta, cướp cả người yêu của ta. Chỉ ta mới xứng đáng được hưởng mối nhu tình của nàng.
      Trong đầu óc chàng lóe lên ý tưởng:
      – Bây giờ ta bồng nàng trở về Long-biên, đào kho vàng cất dấu ở đền Hùng, rồi tìm một nơi xa xôi ẩn thân, hưởng diễm phúc bên nàng, thì thực là thần tiên.
      Nhưng hình ảnh cô bé Tía và mẹ bị quân Hán bắt giết giữa chợ Long-biên lại hiện lên. Hình ảnh những đoàn người Việt bị bắt làm lao binh sang Trung- nguyên, vợ con, cha mẹ tiễn lên đường khóc lóc thảm thiết, nhảy múa trước mắt chàng. Chàng nghe văng vẳng tiếng cha nói:
      – Là con dân Âu-lạc, nếu một ngày quên phục quốc, thì thà làm chó, lợn còn ích lợi hơn.
      Hai giòng tư tưởng đối nghịch nhau làm đầu óc chàng mê đi, mà hai tay chàng vẫn ôm chặt tấm thân mềm mại của Tường Quy.
      Cứ như vậy, hai người, hai cơ thể, mà hồn hòa lẫn với nhau trong giấc mộng dài. Không biết thời gian đã trôi qua được bao lâu. Bỗng có nhiều tiếng nhạc ngựa vọng từ sân lên, rồi có tiếng người nói:
      – Huyện lệnh đại nhân và công tử đã về.
      Tường Quy giật mình tỉnh giấc vu sơn. Nàng ngước mắt nhìn Đào Kỳ. Bấy giờ nàng mới biết rằng Đào Kỳ đến thăm nàng thực chứ không phải giấc mơ.
      Đào Kỳ định phóng mình qua cửa trốn chạy. Nhưng chàng nghĩ lại:
      – Đất nước này là đất nước Văn-lang, đất nước Âu-lạc. Ta đường đường là một đấng nam tử người Việt, tại sao phải trốn chạy trước kẻ thù người Hán? Võ công chúng muôn ngàn lần không bằng ta. Tường Quy thương yêu ta thì nàng là vợ ta. Việc gì ta phải trốn? Ta cứ hiên ngang ngồi đây. Cha con tên Trương Minh Đức vào thì ta phóng chưởng giết chết chúng. Ta há sợ bọn Hán cướp nước sao?
      Trong khi đó, Tường Quy lo sợ cuống quýt:
      – Anh! Anh mau vượt cửa sổ trốn đi. Em những tưởng là giấc mơ, không ngờ là anh thực. Anh ơi, em là gái có chồng, muôn ngàn lần chúng ta không thể thành vợ chồng được nữa. Anh đi đi!
      Đào Kỳ hiên ngang nói:
      – Anh không đi đâu hết. Đây là đất nước Âu-lạc, em là người anh yêu. Anh cứ ở đây. Anh mới chính là chồng em và em là vợ anh. Anh phải giết chết tên Huyện lệnh, chiếm huyện này rồi đánh thẳng lên Luy-lâu, lập lại nước Âu-lạc.
      Có tiếng gõ cửa, rồi giọng Trương Minh Đức kêu:
      – Phu nhân! Mở cửa cho ta, sao lại đóng cửa như vậy?
      Đào Kỳ ôm chặt Tường Quy vào ngực, đặt lên môi nàng một cái hôn. Cả hai đắm chìm vào cơn ảo mộng.
      Trương Minh Đức lại gọi:
      – Phu nhân! Mở cửa mau. Làm gì mà không lên tiếng vậy?
      Tường Quy bị Đào Kỳ ôm chặt, hai môi dính vào nhau. Đừng nói tiếng gọi của chồng, chứ tiếng sét đánh nàng cũng không nghe thấy nữa.
      Đức gọi cửa không được, y tức mình, ghé vai huých một cái. Then cửa gãy lìa. Y mở cửa bước vào. Tường Quy hất Đào Kỳ ra quát lên:
      – Ngươi là ai? Vào đây định làm gì?
      Trương Minh Đức nhận được mặt Đào Kỳ, gã kêu lên:
      – Thằng Nam-man này đi với thằng Tô Phương và Ngũ-phương kiếm. Phải bắt lấy nó.
      Trương Minh Đức nhảy tới, vung quyền đánh vào mặt Đào Kỳ. Chàng nhận ra đó là thế quyền của phái Cửu-chân. Thấy công lực Minh Đức tầm thường, chàng không thèm tránh né, chỉ vận công chịu đòn. Chát một tiếng, Trương Minh Đức ôm tay nhăn nhó, y có cảm tưởng như vừa đấm vào một bức tường bằng đá.
      Thấy Đào Kỳ vẫn đứng yên, cho rằng có sự gì lạ, y vội kêu lên:
      – Phu nhân! Phóng chưởng đánh nó mau. Kiếm đây, giết nó đi!
      Tay trái Tường Quy tiếp kiếm, tay phải phóng chưởng đánh vào mặt Đào Kỳ. Chưởng lực của nàng khá hùng hậu. Đào Kỳ không tin Tường Quy đánh mình thực. Chàng không vận công chịu đòn, cũng không đỡ. Binh một tiếng, chàng bị hất tung vào tường. Người chàng lảo đảo, rồi khạc ra một tiếng, nhổ ra một búng máu tươi.
      Trương Minh Đức kêu:
      – Dùng kiếm đâm nó mau.
      Tường Quy thấy Đào Kỳ không đỡ, không tránh, không vận công chịu đòn, khi thấy Đào Kỳ thổ máu tươi, thì vô cùng ái ngại:
      – Ngươi là ai? Mau chạy đi, nếu không, đừng trách kiếm ta không sắc.
      Tường Quy đưa mũi kiếm chênh chếch hướng vào ngực Đào Kỳ đâm một nhát. Từ lúc bị chưởng lực của Tường Quy đánh trúng. Đào Kỳ cảm thấy như trời long đất lở, chàng không đau vì chưởng mà đau vì tình:
      – Thì ra nàng vẫn coi trọng chồng hơn ta. Chồng nàng bảo nàng đánh ta, giết ta, nàng cũng làm theo. Đã vậy, ta để nàng giết ta cho vừa lòng chồng. Ta cũng không thiết sống nữa.
      Mũi kiếm đã tới trước ngực, Đào Kỳ vẫn không tránh. Tường Quy hoảng hốt đẩy xéo đi. Xoẹt một tiếng, mũi kiếm đâm vào ngực phải chàng. Máu tươi phun ra đầy áo.
      Trương Minh Đức hô:
      – Đừng giết y, hãy bắt sống.
      Mấy tên quân Hán ở ngoài chạy vào phòng. Chúng ùa đến bắt Đào Kỳ. Vết thương ở ngực làm chàng điên tiết:
      – Mấy tên Hán thối tha kia. Tường Quy là người yêu của ta, nàng có quyền giết ta, đánh ta. Còn bọn mi, muốn bắt ta còn khó hơn bắc thang lên trời.
      Chàng vận chưởng phóng về phía trước. Bùng một tiếng, bốn tên quân Hán văng vào tường, miệng phun máu có vòi. Thuận tay, chàng phóng một chưởng nữa về phía Trương Minh Đức. Tường Quy hô:
      – Không được hại chồng ta!
      Nàng vung chưởng đỡ. Đào Kỳ thấy chưởng của mình mạnh quá, nếu để nàng đỡ trúng, thế nào cũng bị gãy tay hoặc thiệt mạng. Chàng vội thu chưởng về, đẩy xéo sang một bên. Bình một tiếng, cánh cửa sổ bị bay ra xa, rơi xuống đất, kêu lên một tiếng lớn.
      Chàng nhảy vèo đến, tay trái cặp Tường Quy vào nách, vượt cửa sổ ra ngoài. Phía ngoài, lính Hán bao vây chặt như nêm, nhưng chúng không dám bắn tên vì sợ trúng Tường Quy.
      Lưu Chương đứng giữa bọn binh Hán. Y nhận ra Đào Kỳ là người đi với Ngũ-phương kiếm. Y cho rằng chàng vào đây bắt huyện lệnh để đòi thả Tô Phương. Y bảo Đào Kỳ:
      – Ngươi đi cùng bọn Ngũ-phương kiếm thì đúng là bọn phản nghịch. Nếu ngươi là anh hùng hảo hán, hãy để phu nhân của công tử xuống. Chúng ta đấu mấy trăm chưởng. Chứ thân là anh hùng lại đi uy hiếp một nữ nhân, thực là hèn hạ.
      Uất khí làm Đào Kỳ nổi máu hung. Chàng hít một hơi dài, vận đủ mười thành công lực, phóng chiêu Ác ngưu nan độ, một chiêu cương mãnh nhất của Phục ngưu thần chưởng.
      Lưu Chưởng kinh lịch nhiều. Y thấy chưởng lực ác liệt, chiêu số kỳ diệu, chưởng phong vừa chụp xuống người thì y biết ngay là nguy rồi. Y vận hết sức, đưa hai tay lên đỡ chưởng của Đào Kỳ. Binh một tiếng lớn, người y bị bật lên cao, lưng đập vào một cây lớn trong sân huyện đường, rơi xuống. Y dãy dụa mấy cái, rồi nằm luôn.
      Đào Kỳ định tìm đường chạy, chợt chàng cảm thấy đau nhói trên vai, như bị ai đâm bằng dao. Chàng bắt dao, thì ra Tường Quy đã đâm chàng. Kinh lực trên tay bị mất, chàng để Tường Quy tuột xuống đất.
      Vừa đứng xuống đất xong, Tường Quy đã dùng dao tấn công chàng. Đám quân Hán thấy chàng đã bị thương nặng nên chúng ào vào ôm chặt lấy chàng rồi trói lại.
      Thình lình, một bóng đen từ nóc nhà nhảy xuống, vung kiếm lên như sao sa. Mỗi lần vung lên là đầu một tên quân Hán rơi xuống. Vòng vây đã mở rộng. Bóng đen ôm Đào Kỳ nhảy qua hàng rào, biến mất trong đêm tối.
      Rung động mãnh liệt vì tình yêu, mệt mỏi vì chiến đấu, lại bị Tường Quy đánh một chưởng, thích một kiếm vào ngực, cuối cùng đâm một dao vào lưng, máu ra nhiều quá, chàng ngất đi lúc nào không hay. Trong lúc mơ màng, chàng biết một người trùm kín mặt, đánh đuổi quân Hán, rồi ôm chàng chạy vào đêm tối.
      Chàng giật mình tỉnh dậy, thì thấy mình đang nằm trên giường, bên cạnh là ông bà Đào Thế Hùng, ba người em họ và Phương Dung. Nhờ nội công thâm hậu, đầu óc chàng tỉnh táo trở lại. Chàng tự nhủ:
      – Thế là mình không chết. Ù, tại sao mình không để cho Tường Quy giết mình đi có hơn không?
      Ông bà Đào Thế Hùng ôn tồn hỏi cháu:
      – Hôm trước, cháu đã ước hẹn kế hoạch với Lê Chân, Phùng Vĩnh Hoa, Đàm Ngọc Nga. Nhiệm vụ của cháu là đi Phong-châu gặp chưởng môn phái Tản-viên. Thế tại sao hôm qua cháu lại đột nhập huyện đường Đăng-châu định bắt cóc con dâu Huyện-lệnh?
      Câu hỏi của Đào Thế Hùng chứng tỏ ông không biết chuyện của chàng? Khuya hôm qua, Phương Dung gõ cửa phòng đánh thức ông dậy, báo cho ông biết rằng Đào Kỳ bị thương nặng. Ông hoảng hốt vội cùng vợ và các con vào phòng Đào Kỳ. Thấy chàng bị hai vết ngoại thương và bị chưởng lực đánh vào ngực. Thương thế không nặng lắm. Ông rịt thuốc cho chàng. Ông hỏi nguyên do, Phương Dung rưng rưng nước mắt, lắc đầu.
      Nguyên đêm qua, nghe cô em họ Đào Kỳ kể chuyện Tường Quy, Phương Dung đoán biết thế nào chàng cũng đột nhập huyện đường Đăng-châu thăm người yêu. Gần Đào Kỳ một năm qua, nàng hiểu tính chàng hơn ai hết: Bề ngoài thì cương nghị, nhưng trong lòng đầy tình cảm. Chàng có thể vì người yêu mà moi gan, móc tim cho ăn. Người yêu muốn là trời muốn. Chàng còn đi trước cả ý muốn của người yêu nữa. Sợ Đào Kỳ có gì sơ xẩy, nàng dắt kiếm vào lưng rồi băng mình theo sau.
      Khi Đào Kỳ nhảy vào phòng Tường Quy, nghe nàng hát, thổi tiêu... rồi xuất hồn đắm đuối hôn nhau, nàng đều thấy hết. Cơn ghen nổi lên, nàng uất nghẹn trong cổ, định nhảy vào giết chết cả hai người cho hả giận. Song đến lúc thấy Đào Kỳ bị Tường Quy đâm trọng thương, nàng vội rút kiếm giết quân Hán cứu chàng đưa về trang Hiển Minh.
      Đào Thế Hùng thở dài:
      – Sau khi băng bó cho cháu, thì Huyện lệnh báo cho chú biết đêm qua có gian tế đột nhập, định bắt cóc vợ Trương Minh Đức. Võ công thích khách cực kỳ cao thâm, một chưởng đánh bốn tên quân Hán vỡ ngực chết trong phòng Trương Minh Đức. Lưu Chương võ công cao biết chừng nào, thế mà chỉ một chưởng đã khiến y bị phun máu miệng, hôm nay còn chưa biết sống chết ra sao. Sau khi thích khách bị vợ Trương Minh Đức đánh một chưởng phun máu miệng, bị đâm một kiếm vào ngực, một dao vào vai. Ta biết ngay thích khách là cháu.
      Ngưng một lúc, ông thở dài nói tiếp:
      – Vợ Trương Minh Đức là cháu ngoại Lê Đạo Sinh, kể ra võ công cũng vào hàng cao thủ hiếm thấy so với tuổi nàng. Nhưng nàng không thể đả thương vào ngực cháu được. Võ công Cửu-chân nhà ta...
      Đào Kỳ kinh hãi tự nghĩ:
      – Chú mình là nhân vật tinh tế hiếm có ở đời. Đúng, võ công Cửu-chân luôn luôn bảo vệ khu ngực. Dù cao thủ hạng nhất cũng khó có thể đánh trúng ngực một đệ tử Cửu-chân loại thường. Trừ trường hợp chưởng lực mạnh quá, làm thiệt mạng thì không kể.
      – Với công lực của cháu, nếu cháu vận khí phản công, đến ngay sư phụ nàng cũng bị hất văng đi, có thể bị nội thương mà chết. Thế mà cháu bị nàng đánh trúng, còn bị thương nữa, rõ ràng cháu muốn để cho nàng đánh. Cháu còn bị nàng đâm hai nhát... Chú thực không hiểu.
      Đào Kỳ đoán chú mình đã biết sự thực, chàng giả đau, rên lên một tiếng, rồi nhắm mắt vờ ngủ.
      Thuốc trị thương của Đào trang Cửu-chân vốn nổi tiếng khắp Lĩnh Nam, nên chỉ ba ngày sau, Đào Kỳ đã khỏe mạnh như thường, vết thương gần đóng vẩy. Chàng lại tiếp tục luyện võ cho các em. Ba người con của Thế Hùng thấy mình gần người anh họ một ngày, bằng luyện tập cả mấy năm. Võ công của họ tiến rất nhanh.
      Đào Phương Dung cùng tuổi với Đào Kỳ, thuở nhỏ anh em chơi đùa, sống chung trong một nhà với nhau, tình nghĩa như ruột thịt. Xa nhau mười năm, nhớ thương chồng chất. Bây giờ gặp lại nhau, Đào Kỳ đã trở thành người võ công tuyệt vời, còn hơn cả bố nàng. Nàng thấy người anh họ thân thiết với mình nên nói với bố:
      – Bố ơi, anh Kỳ đi Mê-linh, bố cho con đi theo anh ấy, nghe bố!
      Đào Thế Hùng thấy con và cháu quấn quýt bên nhau thì mừng lắm. Ông bảo con gái:
      – Anh con đi có việc cơ mật, chỉ trong nửa tháng lại về. Con cứ ở nhà luyện tập. Nếu có con đi theo chỉ thêm vướng tay vướng chân vô ích.
      Sau mười ngày, vết thương Đào Kỳ đã lành hẳn. Đào Phương Dung nói với anh rằng:
      – Anh Kỳ ơi! Em muốn dẫn anh đi dạo chơi một cảnh đẹp bậc nhất vùng này. Vậy anh có muốn đi không? Mà này, chỉ mình anh đi với em thôi.
      Xưa nay Đào Kỳ vốn chiều cô em họ. Bất cứ nàng muốn gì, dù là những việc khó khăn chàng cũng không từ chối. Huống hồ, nay nàng rủ đi chơi?
      Nguyễn Phương Dung là con nhà võ học danh gia, nàng hiểu biết tình nghĩa anh em Đào Kỳ nên không tỏ vẻ khó chịu:
      – Cô em họ này tính hay làm nũng đã quen, bây giờ nàng muốn đi chơi với Đào Kỳ để tâm sự riêng tư gì đó, ta chẳng nên xen vào.
      Đào Phương Dung lấy ngựa. Hai anh em rời trang đi về phía đồi núi xa xa.
      Hai người ruổi ngựa thong thả qua cánh đồng đầy hoa thơm. Đào Kỳ nhận thấy hôm nay nét mặt cô em có vẻ huyền bí, cười không phải cười, nghiêm không ra nghiêm. Chợt Phương Dung hỏi:
      – Em đố anh biết em sẽ đưa anh đến chỗ nào?
      – Thì dễ quá. Em bảo sẽ đưa anh đến một nơi cảnh trí nên thơ của núi rừng Đăng-châu, chứ còn đi đâu nữa?
      Phương Dung nheo mắt:
      – Đành rằng núi rừng, có suối chảy, có nước trong, có hoa thơm, nhưng tại đó còn có một người mà anh ghét nhất thế gian.
      Đào Kỳ nhìn thẳng vào mặt cô em để tìm lấy câu giải đáp, nhưng chỉ thấy khuôn mặt thanh tú, hàm răng trắng đều và đôi mắt đen trong đen. Chàng nói:
      – Trên đời anh, anh chỉ ghét có một người, đó là cô em họ, con chú của anh.
      Phương Dung nheo mắt:
      – Nếu vậy, tất cả thiên hạ đều muốn được anh ghét. Anh ghét mà em nói gì anh cũng nghe, em xin gì cũng được. Em hỏi anh câu này nhé: Có phải anh ghét Lê Đạo Sinh, Hoàng Đức lắm không?
      – Đúng, vì chúng giả nhân giả nghĩa. Hoàng Đức bắt giam anh, Lê Đạo Sinh bắt anh làm nô bộc, để gài bẫy bắt bố anh.
      – Thế thì anh ghét là phải. Giả dụ: Nếu anh tử tế với hắn, mà hắn đánh anh phun máu miệng thì sao?
      – Thì dĩ nhiên chúng là kẻ thù của anh.
      – Nếu chúng lại dùng kiếm đâm anh?
      – Thì anh phải giết chúng.
      Phương Dung xì một tiếng:
      – Anh nhớ lấy câu này nghe.
      Hai người leo qua ngọn đồi sim, đến một bờ suối, nước chảy trong veo. Phương Dung bảo Đào Kỳ xuống ngựa, rồi cột ngựa vào gốc cây. Hai anh em men theo bờ suối mà đi. Đến gần một thác nước, Phương Dung chỉ vào một tảng đá rất lớn:
      – Bên kia tảng đá có một cái hang rất sâu, anh lại đó coi trước đi, em sẽ đến sau. Trong hang có một nàng tiên nữ đang ngồi ngắm mây trời và chờ tình quân Đào Kỳ tới.
      Đào Kỳ cho là cô em nói đùa, nên chàng xăm xăm bước tới. Chàng phì cười vì tài tưởng tượng của Phương Dung. Sau khi vượt qua mấy tảng đá nhỏ, lúc đến trước tảng đá lớn, chàng bỗng giật mình. Vì, quả nhiên bên kia tảng đá lớn có một thiếu nữ đang ngồi soi bóng dưới nước. Tay nàng cầm ống tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu vang lên tít tận trời xanh, lơ lửng theo mây trắng trôi về miền xa xa. Chàng nhận ra đó là bài Trường hận Trương Chi. Trước đây, chàng đã nghe Đệ-tứ Thái-bảo của phái Sài-sơn thổi trên sông Hồng mấy năm về trước.
      Chàng bước thêm mấy bước nữa thì nhìn thấy tấm lưng thon thon và bàn tay búp măng của thiếu nữ. Tim chàng đau nhói lên, chàng loạng choạng muốn ngã, vì, người thiếu nữ đó chính là Tường Quy.
      Nguyên sau hôm Đào Kỳ bị thương, Đào Phương Dung đầy thắc mắc về việc chàng đột nhập huyện đường Đăng-châu, nên nàng tìm cách vào chơi với Tường Quy để hỏi cho ra lẽ. Nàng là bạn Tường Quy, nên mỗi lần nàng đến thăm, nô tỳ không cần vào thông báo. Nàng lên thẳng phòng khách, gõ cửa rồi bước vào. Tường Quy thấy nàng thì mừng vô kể:
      – Mình đang mong Phương Dung đấy. Vào đây, mình cần hỏi chị mấy câu.
      Tường Quy đóng cửa phòng, Phương Dung chặn trước:
      – Để mình hỏi trước đã. Cách đây nữa tháng, dường như có người đột nhập vào đây định bắt cóc chị. Nghe nói người này võ công cao cường, chỉ một chiêu, bốn người lính vỡ ngực chết. Lưu Chương võ công cao biết mấy, cũng chỉ chịu được có một chưởng, đến nay chưa khỏi. Thế mà tại sao chị đánh hắn một chưởng, hắn đỡ không nổi? Rồi còn bị chị đâm cho hai kiếm?
      Tường Quy thẫn thờ nhìn vào không gian vô tận, lúc sau mới thở dài, nói:
      – Hắn muốn mình giết hắn đấy chứ. Với bản lĩnh của hắn, dù ông ngoại mình có ra tay, chưa chắc đã thắng.
      Phương Dung càng ngạc nhiên:
      – Chị có biết tại sao không?
      Tường Quy trả lời bằng cái gật đầu, hai hàng nước mắt tuôn rơi, nàng thuật lại chi tiết tất cả những gì liên hệ giữa nàng với Đào Kỳ cho Phương Dung nghe. Rồi kết luận:
      – Giữa chàng với mình có nhiều ân ân, oán oán quá. Chàng bị sư thúc Hoàng Đức bắt giam, bị thái sư phụ bắt làm nô bộc. Chàng với mình yêu nhau, rồi không hiểu sao chàng lại đi với Tô Phương và Ngũ-phương kiếm tới đây. Rồi Ngũ-phương kiếm làm nhục chồng mình, rồi chồng mình xông thuốc mê bắt Tô Phương và Ngũ-phương kiếm để xảy ra cuộc động binh. Hiện giờ, Tô Phương đã được một bàn tay bí mật cứu ra, Ngũ-phương kiếm sẽ còn đi đến sinh sự... Và chàng tới đây vì mình, muốn mang mình đi xa để cùng hưởng hạnh phúc. Hôm qua, vì sợ chồng, mình ra tay đánh chàng, những tưởng chàng đỡ lại hay phản đòn. Không ngờ chàng để cho mình đánh, mình đâm, mới đau lòng...
      Ngừng một lát, Tường Quy tiếp:
      – Trước đây, mình đã đi cùng chàng đến Cổ-loa tìm một người chú họ Đào nhưng không thấy. Chỉ gặp Chu Thổ Quan, ông cho biết có ba người từ Đăng-châu, một gái hai trai cũng đã đến Cổ-loa tìm cha chàng. Chàng cho biết đó là ba người em con chú của chàng. Bây giờ mình mới hiểu ông chú chàng chính là lão bá và ba người em họ là hai người anh của chị và chị.
      Tường Quy thở dài:
      – Nếu chuyện này lộ ra thì giữa cha chồng mình với lão bá sẽ xảy ra một cuộc đụng chạm lớn, khó có thể biết kết quả sẽ đi về đâu. Mình đành im miệng, mặc cho con tạo xoay vần. Mình nhờ Phương Dung làm cách nào giúp mình... giúp mình gặp lại anh ấy một lần, rồi mình chết cũng đành cam.
      Thế rồi, hai người con gái bày mưu thiết kế, để dẫn Đào Kỳ tới đây, tương hội với Tường Quy.
      Đào Kỳ như người mất hết sức lực. Chàng ngồi xuống tảng đá cạnh đó, ngắm nhìn cái lưng thon thon, hai bờ vai gầy của Tường Quy. Chàng cứ ngồi như vậy, không biết đến bao lâu. Còn Tường Quy thì tựa lưng vào phiến đá thổi tiêu. Mối hận tình trong lòng hợp với cảnh trước mắt: Hai người tuy gần nhau trong gang tấc, nhưng lại cách nhau ngàn trùng, như hai thế giới khác biệt, nàng phổ vào khúc tiêu.
      Khúc tiêu dứt, nàng thẫn thờ nhìn Đào Kỳ. Bốn mắt gặp nhau, không ai dám lên tiếng.
      Rồi những giọt nước mắt của Tường Quy chảy dài xuống hai gò má. Đào Kỳ không tự chủ được nữa, chàng run run đứng dậy, tiến đến bên nàng. Nàng đưa tay hướng về trước chờ đợi. Chàng nắm lấy tay nàng, ngồi xuống bên cạnh, tay trái quàng qua cổ nàng, tay phải nắm lấy hai tay nàng, hai má kề nhau. Hai người cùng cảm thấy giờ phút thiêng liêng vô cùng này không thể buông nhau ra, vì buông nhau ra, sẽ vĩnh viễn xa nhau. Họ cùng nhìn bóng mình in dưới suối nước. Mỗi lần gió riu riu thổi, bóng của họ lại rung động dưới đáy nước.
      Cứ như vậy, họ quên mất thời gian trôi đi. Họ cùng nhìn lên trời, thấy từ phía sau lưng họ, một sợi khói xanh lơ lửng bốc lên. Bỗng Tường Quy lên tiếng:
      – Anh ơi! Anh hiểu cho em. Hôm trước em phải ra tay là sự bất đắc dĩ. Tại sao anh không tránh? Sao anh không vận công để đến nỗi bị thương nặng như vậy?
      Đào Kỳ lắc đầu:
      – Anh nghĩ thà để chết dưới tay em, còn sung sướng hơn là chết vì nhớ nhung em.
      Câu nói của Đào Kỳ làm Tường Quy muốn ngất lịm đi. Nàng nằm gọn trong lòng chàng. Đào Kỳ đặt lên môi nàng một chiếc hôn. Hai người lại lịm đi trong một thời gian lâu.
      Tường Quy giật mình tỉnh trước. Nàng vội đứng dậy, sửa quần áo, định bước đi. Nàng biết, nếu còn chần chờ, chỉ chuốc thêm đau khổ mà thôi. Trí thì nàng nghĩ như thế, nhưng con tim lại không cho nàng rời bước.
      Chợt nhớ ra chuyện gì, Tường Quy vội hỏi:
      – Hồi trước, trong trang Thái-hà xảy ra vụ gian nhân định cứu tù, rồi sư bá Đức Hiệp, sư thúc Hoàng Đức, cha em, mẹ em vây đánh gian nhân. Y đã nhanh tay bắt dì út làm con tin thoát nạn. Y lấy kho tàng của ông ngoại làm ông ngoại lo buồn không ít. Y còn đánh sư bá Đức Hiệp bị trọng thương, y cũng đã đấu chưởng với ông ngoại. Người trong trang không bao giờ ngờ là anh, chính em cũng thế. Hôm anh đột nhập vào huyện đường thăm em, em mới biết kẻ đó chính là anh, vì anh chỉ phát có ba thành công lực đã đánh Lưu Chương suýt bỏ mạng.
      Có tiếng chân người đi lại gần. Nội công Đào Kỳ đã tới mức thượng thừa, nên chàng nghe rất rõ. Chàng nhận ra tiếng chân của một người đàn ông và một người đàn bà. Chàng còn phân biệt được đó là người thuộc phái Cửu-chân. Chàng giật mình, vì quanh vùng này, ngoài chú chàng ra, làm gì có người nào có nội công Cửu-chân cao như thế?
      Chàng vội đứng lên nhìn về sau thì thấy Nguyễn Phương Dung và Đào Thế Hùng đang đi tới.
      Thế Hùng thấy chàng thì mừng lắm, nói:
      – Cháu đi chơi với em từ sáng đến giờ chưa về, làm chú lo ngại quá. Em đâu rồi?
      Đào Phương Dung từ ngọn cây gần đó nhảy vèo xuống cạnh cha:
      – Bố ơi! Con đây này.
      Đào Thế Hùng thấy Tường Quy, ông thở dài:
      – Con người ta, dù thánh hiền, dù anh hùng, dù kẻ ngu phu ngu phụ, cũng không ai thoát khỏi đường tình. Nhưng hoàn cảnh của cháu, ông trời đã an bài như vậy, thì phải chấp nhận. Cái thế của cháu: Tới có được không? Tường Quy với cháu có thể trở lại thành vợ chồng được, thì cháu cứ tới. Còn không, nên sớm xa nhau, đừng để đau khổ làm hại cả cuộc đời.
      Đào Kỳ nghe lời giảng giải của chú, chàng tỉnh ngộ liền. Tự suy nghĩ:
      – Dầu sao ta cũng không thể thoát khỏi cái ràng buộc luân lý của Khổng-Tử. Ta là người đọc sách, hiểu biết nhiều. Xuất thân ta là con trai của một Lạc-hầu danh tiếng, làm chưởng môn phái lớn trong võ lâm. Nếu ta cùng Tường Quy bỏ trốn, thiên hạ sẽ phỉ nhổ ta không ít. Bố mẹ, chú thím, cậu mợ ta còn bị ảnh hưởng lây. Ta thương yêu Tường Quy, nhưng ta không thể làm thế nào hơn. Ta đành phải xa nàng...
      Thế Hùng bảo con gái:
      – Con đưa Tường Quy về đi thôi.
      Tường Quy theo Đào Phương Dung, tới chỗ buộc ngựa, phi thân nhảy lên. Nàng dơ roi ngựa định cho chạy, không biết nghĩ gì, nàng ngừng lại, liếc nhìn Đào Thế Hùng, Nguyễn Phương Dung và Đào Kỳ, rồi dùng chân thúc vào bụng ngựa, lững thững trở về.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        Hồi 17 - Thanh thanh tử khâm, Du du ngã tâm.

        Thanh thanh tử khâm,
        Du du ngã tâm.
        (Kinh Thi)
        Nghĩa là:
        Tà áo xanh xanh, em luôn nhớ anh.
        Chiều hôm đó, Huyện-lệnh cho người mời Đào Thế Hùng vào dinh uống rượu. Việc giao tế của hai người đầu não của Đăng-châu diễn ra mỗi tháng vài lần. Trương Thanh giỏi văn, là người Hán lại ở vị thế cao hơn Thế Hùng. Y là người tham nhũng, tàn ác, bị dân chúng coi như cựu thù. Y lại không biết võ, nên phải nhờ vả Thế Hùng che chở cho. Thế Hùng là người hào sảng, văn võ kiêm toàn, điều khiển quân đội trong huyện, trong sạch, thanh khiết, giúp đỡ lương dân, nên được dân chúng nể phục. Ông cũng có yếu điểm là trang ấp của ông dung túng những người mưu phản Hán phục Việt ẩn náu. Hóa cho nên giữa hai người đều có chỗ úy kỵ lẫn nhau. Nhưng từ sau khi xảy ra vụ Tô Phương và Ngũ-phương Thần-kiếm thì Trương Thanh như cá nằm trên thớt, không biết sẽ bị Tô Định truy cứu bất cứ lúc nào.
        Hôm trước đây, xảy ra vụ Đào Kỳ đột nhập tư gia Trương Thanh định bắt Tường Quy đi, làm hắn không thể nào hiểu được. Theo ý nghĩ của hắn, nếu Ngũ-phương kiếm ra tay thì mục tiêu là hắn hay Trương Minh Đức, chứ sao lại là Tường Quy? Hắn cũng không hiểu nổi khi thấy thích khách võ công cao cường tới mức Lưu Chương chỉ chịu có một chưởng đã thành người tàn tật, mà thích khách lại bị Tường Quy đánh đến trọng thương.
        Phương Dung nói với Đào Thế Hùng:
        – Liệu Trương Thanh có dám đánh thuốc độc chú, rồi bất thần đem quân tiêu diệt trang Hiển Minh hay không?
        Đào Thế Hùng nói ngay:
        – Không! Trước kia, hắn còn dựa vào Lưu Chương. Giờ đây, Lưu Chương bị thương rồi, hắn chỉ còn dựa vào chú mà thôi. Các quan võ khác người Hán đều có xung đột với nhau vì tranh ăn cả. Chú là người duy nhất không xung đột với họ vì quyền lợi, vì chú không tham nhũng.
        Phương Dung nghĩ ra một kế:
        – Hôm trước cháu cứu anh Đào Kỳ, dùng kiếm thuật làm cho quân Hán kinh hồn táng đởm. Vậy thì đêm nay chú mang Hiển Hiệu, Quý Minh đi theo hầu tiệc. Giữa tiệc, cháu với anh Kỳ đại náo huyện đường. Chú để cho hai em đấu với bọn cháu. Bọn cháu giả thua bỏ chạy. Do vậy, chú đề nghị cho Hiển Hiệu tạm thay Lưu Chương, Quý Minh làm phó Tế-tác. Rồi dần dần chú yêu cầu Huyện lệnh tuyển mộ người Việt vào những chức vụ trong huyện. Chị Lê Chân sẽ đưa đệ tử Sài-sơn gia nhập vào các chức vụ đó. Chỉ ít lâu sau, chú nắm trọn quyền trong huyện, đợi khi khởi nghĩa, Đăng-châu sẽ là đội quân đầu tiên tiến lên Luy-lâu.
        Thế Hùng gật đầu:
        – Kế sách này trước đây Vĩnh Hoa đã đề ra, nhưng không có chi tiết. Bây giờ cháu đề ra chi tiết đó thì phải rồi. Có điều khi các cháu giao đấu với hai em phải nhớ một điều, những chiêu cháu đánh vào quân Hán thì nhả hết kình lực. Còn những chiêu đánh với các em, phát thì cực mạnh, mà kình lực thì không nhả hết. Các em thì phải bám sát các cháu, để tránh hai cháu bị quân Hán bao vây. Hai em đuổi các cháu đến suối Thạch-bích, thì hai cháu lên ngựa, đi Mê-linh ngay, vì ở lâu, sợ bị lộ. Chú sẽ cho người dẫn ngựa, đem hành lý của các cháu chờ ở đó trước.
        Phương Dung gật đầu:
        – Trong tiệc, nếu Trương Thanh yêu cầu chú nhận Trương Minh Đức làm đệ tử, chú cứ nhận lời. Theo như nhận xét của cháu, chú có dạy hết mình, y cũng chẳng học được là bao võ công của phái Cửu-chân. Có như thế, Trương Thanh mới không nghi ngờ chú.
        Đào Phương Dung kéo tai Đào Kỳ nói, nhưng cố tình để Nguyễn Phương Dung nghe:
        – Anh Kỳ thấy không? Khi thì chị Phương Dung gọi bố là lão bá, khi thì gọi là chú. Như thế có nghĩa là lúc chị ấy gọi lão bá thì chị ấy giận anh, chưa coi anh là chồng. Còn khi chị ấy gọi bố là chú thì chị ấy đã tự coi mình là cháu dâu rồi đấy.
        Thời gian ở trang Hiển Minh, Phương Dung bị cô em họ của Đào Kỳ trêu chọc mãi, riết rồi thành quen. Cũng từ những vụ trêu chọc đó, nàng tìm ra được một điểm: Anh em họ Đào thương nhau như chân tay.
        Đào Thế Hùng dẫn hai con trai, đeo kiếm đến huyện Đăng-châu. Huyện đường canh phòng cực kỳ cẩn mật. Ba cha con vừa tới cổng, binh Hán vội cúi đầu chào. Ba tên lính chạy ra cầm lấy giây cương dắt ngựa đến chuồng ngựa. Trương Thanh được loan báo, ra tận thềm đón ông. Trên mặt y lộ vẻ đăm chiêu, nhưng vẫn giả làm vui:
        – Đào huynh, hôm nay chúng ta lại đối ẩm với nhau. Chà! Người lại dẫn cả hai công tử theo nữa à? Quý hóa quá.
        Thế Hùng nói với Trương Thanh:
        – Hai con tôi đã lớn, bản lĩnh cũng tạm được. Chúng muốn được hầu rượu đại nhân với tôi, hầu học hỏi kinh nghiệm.
        Thời bấy giờ, sư phụ hay cha ngồi uống rượu với bạn bè, thường cho học trò hay con cháu đứng hầu bên cạnh. Hầu chỉ là cái cớ, mục đích là để nghe người trên nghị luận, thu thập kinh nghiệm cuộc đời.
        Thế Hùng với Trương Thanh ngồi vào bàn rượu. Hiển Hiệu, Quý Minh khoanh tay đứng hầu rượu sau lưng bố. Rượu được vài tuần, Trương Thanh bỗng thở dài thườn thượt:
        – Đào huynh sinh được hai người con uy vũ thế này thực là hổ phụ sinh hổ tử. Còn tôi... hổ phụ sinh ra con chó ghẻ. Tôi cưới cho nó một thiếu nữ Việt con nhà danh gia, tài sắc vẹn toàn, nhưng nó thì văn dốt vũ rát, chỉ lêu lổng ăn chơi, rồi gây ra đại họa. May nhờ huynh che dấu cho...
        Y ngừng lại, rót rượu cho Đào Thế Hùng:
        – Tại huyện mình có một sư đoàn. Sư trưởng chỉ ham rượu chè, bệnh hoạn liên miên. Trong năm lữ thì ba lữ trưởng đã già nua. Tôi muốn hai cháu theo gót cha, đề cử vào giữ chức sư phó và lữ trưởng lữ kỵ. Không biết Đào huynh nghĩ thế nào?
        Đào Thế Hùng thầm khen Phương Dung đã tính trước. Ông định đưa con vào chức vụ ngành Tế-tác, không ngờ Trương Thanh lại đề nghị trước. Ông chưa biết trả lời sao, thì Hiểu Hiện nói:
        – Đại nhân rộng dung cho như vậy thì quý biết chừng nào, nhưng sợ rằng cử anh em chúng tôi vào những chức vụ đó, phủ Đô úy sẽ không chấp thuận.
        Trương Thanh cười:
        – Các cháu không hiểu đấy thôi! Luật lệ cứ mỗi năm, các tướng từ lữ trưởng trở lên, đều phải khảo thí một lần tại phủ Đô úy. Ai không đủ khả năng hoặc già nua thì cho về nghỉ. Ta đề nghị cho cháu về thi, với tài năng của các cháu, sợ gì không được?
        Thế Hùng nghĩ đến việc hai con làm hai lữ trưởng, mình nắm phần điều quân trong huyện, Đăng-châu coi như đã nằm trong tay mình rồi, lợi cho việc phục quốc biết bao?
        Nghĩ vậy, ông đứng dậy, chắp tay:
        – Đa tạ đại nhân có lòng tài bồi cho các cháu.
        Ông quay lại các con:
        – Các con mau đa tạ đại nhân đi.
        Hiển Hiệu, Quý Minh là con nhà danh gia võ học, bao nhiêu đời chỉ biết có phục quốc. Lòng đầy kiêu khí, nay phải lạy một tên quan Hán tham ô thì cảm thấy tủi nhục vô cùng. Nhưng bố đã bảo, đành phải phục xuống đất lạy Trương Thanh. Trong lòng hai chàng cùng tự nghĩ: Ta lạy đây là lạy vua An-Dương của Âu- lạc.
        Trương Thanh cười khoan khoái, rót hai ly rượu đưa cho Hiển Hiệu, Quý Minh. Hai chàng vội bưng lấy, uống một hơi.
        Trương Thanh cùng Thế Hùng còn đang bàn chuyện làm thế nào để che dấu vụ Tô Phương với Ngũ-phương kiếm thì bên ngoài có tiếng la lớn:
        – Cướp! Có kẻ cướp!
        Mặt Trương Thanh tái mét:
        – Tôi sợ bọn Ngũ-phương kiếm trở lại. Chứ còn huyện đường mình, quân sĩ đông thế này, cướp nào dám đột nhập.
        Đào Thế Hùng rút kiếm nói:
        – Hai con mau theo bố, bảo vệ Trương đại nhân ra ngoài xem sao?
        Bốn người chạy ra ngoài sân thì thấy đèn đuốc sáng rực, quân Hán đang bao vây thành một vòng tròn. Ở giữa thì Lam kiếm đang ôm Trương Minh Đức trong tay. Bên cạnh, Bạch kiếm đang đấu với Tường Quy. Tường Quy thì đánh thục mạng để cứu chồng, còn Bạch kiếm chỉ đánh cầm chừng. Kể ra bản lĩnh của Tường Quy cũng không đến nỗi quá tệ, nhưng nàng là đệ tử phái Tản-viên thiên về chưởng hơn về kiếm, lại đi đấu kiếm với một trong Ngũ-phương thần-kiếm thì làm sao địch nổi? Kiếm pháp của nàng đã có vẻ rối loạn lắm rồi. Trương Thanh nói với Đào Thế Hùng:
        – Xin nhân huynh xuất thủ cho.
        Vừa lúc đó, choang một tiếng, kiếm của Tường Quy bị đánh bay bổng lên trời. Bạch kiếm nhảy vào định bắt sống, thì người nàng cũng bay bổng lên cao. Từ Đào Thế Hùng cho đến Trương Thanh, Bạch kiếm đều ngạc nhiên:
        – Trên đời này làm gì có thứ khinh công kỳ diệu như thế?
        Tường Quy bay lên đến nóc nhà, thì có một người đầu trùm kín, mặc quần áo đen, bồng lấy nàng phóng vào trong đêm. Bấy giờ mọi người mới biết rằng người đó đã tung giây chụp Tường Quy.
        Đào Thế Hùng thoáng cũng biết đó là Đào Kỳ, ông quát lớn:
        – Để người lại!
        Ông ra hiệu cho Đào Hiển Hiệu rượt theo. Hiển Hiệu rú lên một tiếng, băng mình theo bóng Đào Kỳ. Còn ông nhảy vào vòng, phóng chưởng đánh Lam kiếm. Lam kiếm thấy chưởng lực dương cương bao trùm khắp người, biết rằng gặp địch thủ, y vội buông Trương Minh Đức, đưa chưởng đỡ.
        Thế Hùng phóng liên tiếp ba chưởng liền, Lam kiếm cứ đỡ một chưởng lại lui một bước. Nhờ vậy, Đào Thế Hùng đã chụp được Trương Minh Đức. Ông vội quăng Minh Đức cho Quý Minh. Quý Minh tay phải đỡ lấy y định lùi lại, thì Bạch kiếm đã nhảy tới, vung chưởng tấn công. Quý Minh vội phóng ngược chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả hai đều phải lùi lại.
        Quý Minh đẩy Minh Đức lại cho Trương Thanh, chuẩn bị đối phó với Bạch kiếm. Sau khi đỡ một chưởng của Quý Minh, Bạch kiếm giật mình:
        – Tại sao ở đất Đăng-châu lại có một thiếu niên chưởng lực mạnh đến thế này? Y là ai?
        Bạch kiếm hỏi Quý Minh:
        – Thiếu niên kia, ngươi tên là gì? Ta chưa từng thấy ai tuổi trẻ như ngươi mà đã có bản lĩnh đến trình độ đó. Hãy đỡ chưởng nữa của ta!
        Nói rồi, y nhảy vọt lên cao, phóng chưởng xéo xuống. Chiêu thức của y quái dị vô cùng. Quý Minh vận sức đẩy xéo một chưởng. Bùng một tiếng nữa, chàng thấy tạng phủ như muốn đảo lộn trong khi Bạch kiếm cũng bị giật lùi hai bước.
        Đào Thế Hùng giao đấu với Lam kiếm, ông quay lại quan sát trận địa con mình, thấy Quý Minh có vẻ thắng thế, ông mới yên tâm. Ông mừng thầm vì chỉ trong vòng một tháng, Đào Kỳ đã huấn luyện cho con ông một bản lĩnh không thua gì ông. Ông mừng lắm, tiếp tục đấu với Lam kiếm.
        Quân Hán kéo đến trùng trùng điệp điệp. Hai viên lữ trưởng đứng ngoài chỉ huy quân bao vây nhị kiếm. Đào Thế Hùng suy nghĩ:
        – Mình đánh với nhị kiếm chẳng ích gì, chi bằng mình tìm cách rút lui để cho tụi Hán chém giết nhau cho vui.
        Nghĩ vậy, ông hô lớn:
        – Ngừng tay!
        Đào Quý Minh cùng nhị kiếm cùng ngừng tay, lùi lại.
        Bạch kiếm hỏi Trương Thanh:
        – Trương Huyện-lệnh, ngươi dấu Tô công tử ở đâu? Mau thả ra, nếu không, ngươi không yên được với ta đâu.
        Đấu võ thì Trương Thanh dở, nhưng đấu khẩu, thì y vô địch. Y quát lớn:
        – Chư quân nghe đây. Bọn Ngũ-phương kiếm cướp của, giết Tô công tử rồi còn đến huyện cướp tiền của công nho nữa. Hãy bắt lấy chúng.
        Quân Hán ào vào. Ngũ-phương Thần-kiếm là những kiếm khách bực nhất Trung-nguyên. Họ chỉ sở trường về kiếm, còn về chưởng rất dở. Ngược lại, võ công phái Cửu-chân thì sở trường về chưởng, còn về kiếm thì chỉ bình thường thôi. Thế mà Ngũ-phương kiếm lại đi đấu chưởng với cha con Đào Thế Hùng là lấy sở đoản của mình để đấu với sở trường của địch, làm sao thắng nổi? Hơn nữa, võ công Cửu-chân do Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung nghiên cứu chế ra để khắc chế với võ công Trung-nguyên. Nếu như một đệ tử Cửu-chân đấu với một để tử phái võ Lâm-ấp thì họ phải nghiên cứu lối đánh của đối thủ, nhiên hậu mới phản công. Còn họ đấu với người Hán thì mỗi chiêu, mỗi thức của họ đã bao hàm sát thủ khắc chế võ công Trung-nnguyên, nên Ngũ-phương Thần-kiếm kém thế là lẽ đương nhiên. Ngũ-phương kiếm đang nguy cấp mà quân Hán kéo tới đông quá. Họ vội rút kiếm ra múa lên như mây bay, gió cuốn. Đi đến đâu, quân Hán dãn ra đến đó. Đào Thế Hùng đứng nhìn mà ngơ ngẩn:
        – Quả thực là thần kiếm. Ta đấu kiếm với bọn chúng thì không biết có chống cự được mươi hiệp hay không?
        Ông tự hỏi, trong Ngũ-kiếm, thì tam kiếm đi đâu? Mà tại đây chỉ có nhị kiếm?
        Nhị kiếm tả xung hữu đột, tiến dần đến hàng rào huyện đường, thì quân Hán cũng bao vây theo. Hai người đã có vẻ mệt mỏi rồi. Bỗng có tiếng quát lớn trên mái nhà:
        – Ngừng tay!
        Mọi người nhìn theo thì thấy Xích kiếm đang ôm một người đàn bà, kề gươm vào cổ nói:
        – Trương Thanh, coi đây, ta bắt con gái ngươi rồi. Ngươi mau cho quân mở vòng vây, ta sẽ thả con ngươi ra. Bằng không, ta sẽ giết y thị liền.
        Có tiếng con gái khóc lớn:
        – Gia gia, cứu con với.
        Trương Thanh phất tay cho quân Hán lui lại, nói:
        – Ngươi mau thả con gái ta ra.
        Quân Hán vừa ngừng tay, thì vèo một cái, ba anh em Ngũ-kiếm đã biến dạng vào đêm tối. Đào Thế Hùng hô lớn:
        – Đuổi theo mau!
        Quý Minh vội phóng theo cha đuổi theo tam kiếm. Năm người, ba chạy trước, hai đuổi theo sau, tới một bờ sông thì trời vừa hừng sáng.
        Tam kiếm ngừng lại hỏi Đào Thế Hùng:
        – Coi thân thủ hai vị cũng là bậc kỳ tài, tại sao lại chịu giúp Trương Thanh làm việc phi pháp như vậy? Nếu mai này Thái-thú truy lùng, hai người cũng bị vạ lây.
        Đào Thế Hùng nháy mắt cho tam kiếm, chỉ vào đứa con gái bị Xích kiếm bắt, rồi chỉ vào tai. Ý muốn nói rằng: Tôi không nói được vì còn con nhỏ này. Xích kiếm hiểu ý, vội mang cô bé ra thật xa, trói lại, ném xuống cỏ.
        Đào Thế Hùng nói:
        – Tôi là Đào Thế Hùng, Huyện-úy Đăng-châu. Đây là Quý Minh, con tôi. Giữa chúng tôi với Ngũ-kiếm không có thù oán gì. Tôi bị đứng ở giữa, một bên là Thái-thú, một bên là Huyện-lệnh, tôi phải làm sao bây giờ? Tôi nghĩ Ngũ-phương kiếm nên về Luy-lâu gặp Tô Thái-thú, xin cử đại binh đến đây, bấy giờ, tôi sẽ án binh bất động, lo gì không tìm được Tô công tử?
        Xích kiếm nói:
        – Một trong chúng tôi đã từng đấu chưởng với đại nhân. Tuy đại nhân thắng, nhưng vẫn hào hiệp nhận rằng nếu đấu kiếm thì không lại chúng tôi. Võ công đến trình độ như đại nhân, tuy cao cường, nhưng còn tìm được vài mươi người. Còn tính tình hào sảng anh hùng, tôi e rằng chỉ có một hay hai. Lúc nãy đại nhân đối chưởng với tam ca tôi, dù trình độ võ công thấp kém, tôi cũng thấy đại nhân chỉ đánh cầm chừng. Như thế đủ tỏ đại nhân không phải là bè đảng của Trương Thanh. Vậy đại nhân có thể cho tôi biết tình trạng Tô công tử hiện thời ra sao không?
        Đào Thế Hùng thấy anh em Ngũ-phương kiếm là người trong võ lâm, tình tình hào sảng, ông không muốn nói dối, chưa biết trả lời sao thì Quý Minh đã đỡ lời cha:
        – Thưa ba vị thần kiếm, việc làm vô thiên vô pháp của Trương công tử, họa chăng có Huyện-lệnh biết mà thôi. Thảng hoặc giám sở Tế-tác Lưu Chương mới biết rõ. Cha con tôi nào có hay? Tôi nghĩ ba vị thần kiếm cứ bắt Lưu Chương tra khảo, có lẽ sẽ ra manh mối.
        Xích kiếm gật đầu:
        – Công tử nói đúng! Chúng tôi phải đi bắt Lưu Chương mới được. Còn đôi nam nữ người Việt đi cùng với chúng tôi, tuy chỉ mới sống với nhau có mấy ngày, nhưng Nguyễn cô nương đã ra tay hào hiệp cứu chúng tôi, đại nhân có biết tin tức của họ ra sao không?
        Quý Minh lắc đầu:
        – Tôi không rõ lắm. Dường như hai người định vào phủ đường bắt sống con dâu của Trương Thanh. Người con trai bị con dâu Trương Thanh đánh một chưởng hộc máu, còn bị y thị đâm hai nhát kiếm. Người con gái đã cứu kịp người con trai rồi sau đó biệt tích, đến nay không hiểu ra sao.
        Bạch kiếm thở dài:
        – Người Việt nghĩa khí đến thế là cùng! Vị tiểu huynh đệ đó, dường như võ công có phần giống công tử thì phải. Đêm nay, chúng tôi sẽ bắt Lưu Chương, xin đại nhân đừng ngăn cản.
        Đào Thế Hùng nghĩ thầm:
        – Người mà bắt giết Lưu Chương, con ta sẽ thay thế chỗ đó. Sở Tế-tác đã nằm trong tay ta, huyện Đăng-châu này coi như đã trở về với Âu-lạc rồi.
        Quý Minh gật đầu:
        – Chắc chắn Lưu Chương biết chỗ giam Tô công tử. Ba vị phải tra khảo thật kỹ mới hy vọng y khai ra.
        Bạch kiếm cười:
        – Công tử yên tâm. Bằng mọi giá, chúng tôi phải bắt y khai ra tông tích Tô công tử. Công tử, bây giờ phiền công tử qua lại với tôi mấy chiêu, rồi tôi giả thua, bỏ đứa con gái Trương Thanh lại, để công tử có thể phúc đáp với Trương Thanh cho hợp lý.
        Nói rồi, y nhảy lại bụi cỏ, cắp đứa con Huyện-lệnh trên tay rồi múa kiếm đâm Quý Minh. Quý Minh rút kiếm trả đòn. Đây là cuộc đánh nhau giả bộ, chứ đấu kiếm thực, ngay Đào thế Hùng cũng chưa chắc đã chống nổi Bạch kiếm mấy chục chiêu. Hai bên qua lại ít chiêu, Bạch kiếm giả vờ đánh rơi con gái Trương Thanh xuống. Y đấu với Quý Minh thêm hai chưởng nữa rồi ba anh em chạy vụt vào rừng, nháy mắt làm hiệu. Quý Minh chạy lại cởi trói, đỡ con gái Trương Thanh dậy:
        – Trương tiểu thư, tiểu thư có sao không? Khuê danh tiểu thư là Thanh Mai thì phải, bởi tôi có nghe lệnh tôn nhắc đến một lần.
        Trương Thanh Mai oà lên khóc:
        – Đào lão bá, Đào công tử, các vị thực là đại ân, đại đức, đã cứu được tiểu nữ. Xin lão bá và công tử nhận của tiểu nữ ba lạy gọi là tạ ơn.
        Quý Minh vội xua tay:
        – Tiểu thư đừng làm thế.
        Chàng định đưa tay đỡ Thanh Mai dậy, nhưng thấy mặt nàng hiện ra nét nhu hòa, xinh đẹp, chàng tị hiềm nam nữ, vội dụt tay lại. Đào Thế Hùng phất tay áo một cái, làm Thanh Mai như bị một luồng sức mạnh vô hình cản lại, không lạy được nữa.
        Quý Minh nói:
        – Bố ơi, thôi mình về đi. Con sợ chúng ta đi cả thế này, ở nhà lỡ xảy ra chuyện gì chăng?
        Đào Thế Hùng gật đầu. Ông vẫy con, cùng Thanh Mai ra về. Họ về đến phủ đường thì trời đã đứng bóng. Quân Hán vây vòng trong, vòng ngoài phủ, trong sân có mấy xác chết chưa kịp chôn. Sở Tế-tác bên cạnh bị đốt cháy thành tro. Ông biết ba anh em Ngũ-kiếm đã hành sự xong.
        Trương Thanh thấy cha con ông về, lại cứu được Thanh Mai thì mừng lắm.
        Thanh Mai thấy cha thì oà lên khóc:
        – Gia gia ơi, nếu không có Đào lão bá và Đào công tử thì con đâu còn được thấy gia gia nữa.
        Quý Minh nghe lời nói của Thanh Mai, chàng chợt nhận ra là cô gái Hán này không kiêu kỳ, phách lối như anh cô. Trái lại, còn tỏ ra người thanh cao, nhu nhã nữa.
        Trương Thanh thở dài:
        – Khi Đào huynh đi rồi, bọn Ngũ-kiếm trở lại đánh phá sở Tế-tác, bắt sống Lưu Chương đem đi mất. Huyện đường không ai là đối thủ của chúng. Đi theo chúng còn có người con gái bịt mặt. Y thị thuận tay đốt luôn sở Tế-tác...
        Đào Thế Hùng biết người đó là Nguyễn Phương Dung, nàng làm thế để gây thù hận giữa Ngũ-kiếm và huyện Đăng-châu.
        Ông bảo Trương Thanh:
        – Bây giờ tôi để Quý Minh ở lại bảo vệ đại nhân. Còn tôi đi tìm Tường Quy. À... mà công tử đâu? Tôi lo cho công tử quá.
        Trương Thanh thở dài:
        – Tôi cho nó đi Luy-lâu phúc bẩm với Thái-thú về việc Ngũ-kiếm làm phản.
        Rồi y ghé sát tai Thế Hùng, nói khẽ:
        – Nó mang vàng bạc đi theo để hối lộ cho tay chân của thái Thú.
        Đào Thế Hùng lên ngựa, hướng về phía đồi núi xa xa, ông cho rằng Đào Kỳ chạy về hướng đó. Đi được hơn giờ, ông gặp Hiển Hiệu đang ngồi trên phiến đá bên đường, gương mặt rất quái dị. Ông hỏi:
        – Có chuyện gì xảy ra không?
        Hiển Hiệu chỉ về phía trước:
        – Anh... Kỳ với Tường Quy...
        Nguyên lúc Tường Quy giao chiến với Bạch kiếm, gặp lúc nguy nan, Đào Kỳ thấy người yêu sắp lâm vào chỗ chết, chàng vội tung giây cứu Tường Quy, rồi ôm nàng băng mình vào đêm tối. Hiển Hiệu tuy biết rằng anh mình bắt Tường Quy, nhưng cũng giả vờ rượt theo. Chàng theo xa xa để Đào Kỳ không thấy được. Đến ngọn suối này, Đào Kỳ ngừng lại. Hiển Hiệu biết mối tình tuyệt vọng của anh với Tường Quy, nên chàng ở ngoài canh chừng, mặc cho hai người tình tự.
        Đào Kỳ đặt Tường Quy xuống. Trong đêm tối, nàng vẫn chưa nhận ra được người yêu, bèn lên tiếng hỏi:
        – Cao nhân là ai, lại ra tay cứu tiểu nữ?
        Đào Kỳ nghe tiếng nàng nói, lòng lại nhũn ra. Chàng đứng im, hơi thở dồn dập. Người chàng run run, không thốt nên lời. Tường Quy thấy sự hơi lạ, nàng lại lên tiếng:
        – Cao nhân đã cứu tiểu nữ, xin cho tiểu nữ từ tạ ở đây. Tiểu nữ phải trở về để cứu chồng.
        Nàng định cất bước đi, nhưng nàng không biết đã được cứu tới đây bằng lối nào, nên lại thở dài, hỏi:
        – Cao nhân đã cứu tiểu nữ. Tiểu nữ xin trọn đời nhớ ơn. Xin tiền bối chỉ cho nẻo về huyện đường.
        Đào Kỳ chỉ về phía trước. Tường Quy cúi đầu xá ba xá rồi trổ khinh công chạy vào đêm tối âm u. Nàng chạy được một quãng thì thấy phía trước có hai ngọn đèn xanh chiếu thẳng vào mặt. Nàng vội ngừng lại, vì trên đời nàng chưa từng thấy loại đèn kỳ lạ như vậy bao giờ. Rồi một mùi hôi thối nồng nặc xông lên. Nàng thất kinh hồn vía, vì biết rằng đã gặp cọp. Nàng vội đưa tay ra sau rút kiếm, mới chợt nhớ ra kiếm đã bị đánh văng mất tự bao giờ. Con cọp gầm lên một tiếng, rồi nhảy bổ lại vồ. Tường Quy sợ quá, phi thân nhảy lên một cành cây. Con cọp vồ hụt, lượn quanh gốc cây, há miệng nhìn Tường Quy mà táp, tỏ vẻ thèm thuồng.
        Nàng cứ ngồi trên cây nhìn xuống. Cọp cứ ngồi dưới gốc nhìn lên. Ngồi được một lúc, nàng mệt mỏi quá, dựa vào chạc cây mà ngủ gật. Chợp mắt được một lúc, nàng giật mình thức giấc vì tiếng cọp gầm. Nàng nhìn xuống, bất giác la lên một tiếng kinh hoàng: Dưới gốc cây, nguyên một bầy năm con cọp nằm dài ra đó, chờ... mồi. Nàng ước mong:
        – Không biết cao nhân cứu ta hôm qua bây giờ ở đâu? Làm thế nào ta thoát khỏi đàn cọp đói nầy?
        Trời hừng sáng. Từ phía xa, một người thất thểu đang đi tới. Nhìn kỹ ra, nàng suýt bật thành tiếng la: Đó là Đào Kỳ. Tự nhiên nàng bật thành tiếng khóc, gọi lớn:
        – Đào đại ca! Cứu em với.
        Đào Kỳ nghe tiếng nàng, chạy lại. Thấy Tường Quy ngồi trên cây, dưới gốc có một bầy cọp. Chàng hiểu tất cả. Chàng quát lên một tiếng, nhảy tới. Còn lơ lửng trên cao, chàng đã phóng chưởng. Đây là chiêu Hải triều lãng lãng, một chiêu cực mạnh của phái Cửu- chân. Bình, bình, hai con cọp lớn bật tung trở lại, rống lên một tiếng, nằm dãy dụa mấy cái rồi im lìm. Ba con khác thấy vậy, cong đuôi chạy vào rừng. Đào Kỳ đến gốc cây gọi:
        – Tường Quy, nhảy xuống đi.
        Tường Quy buông mình nhảy xuống. Đào Kỳ đưa tay đỡ. Tường Quy ôm lấy cổ Đào Kỳ bật thành tiếng khóc. Chàng đặt lên môi Tường Quy một cái hôn. Hai người ngã vào bụi cỏ.
        Trời hửng sáng, Đào Kỳ kéo Tường Quy ngồi dậy:
        – Bây giờ chúng mình đi Mê-linh để gặp Thị Sách cùng Nhị Trưng. Chúng ta sẽ bàn truyện phục quốc.
        Tường Quy lắc đầu:
        – Em yêu anh, em có thể cho anh tất cả những gì em có, kể cả tính mệnh của em. Nhưng em không thể theo anh được. Nếu em theo anh, danh tiếng của ông ngoại em, cha mẹ em sẽ không còn nữa. Thôi, chúng mình chỉ có vậy thôi... Anh đi đường anh. Anh để em trở về với kiếp sống của người con gái bán thân cho giặc Hán. Em ước ao rằng cuộc gặp gỡ đêm nay của chúng ta, em sẽ có đứa con với anh.
        Thế rồi, hai người ngồi ôm nhau thẫn thờ. Họ quên mất cả ngày giờ. Họ cũng không ngờ cách đó không bao xa, Đào Hiển Hiệu ngồi quan sát tất cả hành động của họ, cho tới lúc Đào Thế Hùng tới. Hai người thấy Đào Thế Hùng và Đào Hiển Hiệu tới cùng một lúc, bẽn lẽn đứng dậy.
        Đào Thế Hùng nói:
        – Kỳ cháu, cháu phải lên đường ngay. Phương Dung đang chờ cháu ở điểm hẹn. Còn phu nhân của công tử, chú đưa về được rồi.
        Trước vẻ mặt uy nghiêm của ông chú, Đào Kỳ chỉ biết liếc mắt nhìn Tường Quy rồi ra đi.
        Chàng đến chỗ hẹn, đã thấy Phương Dung ngồi dưới gốc cây, nhắm mắt dưỡng thần. Bên cạnh, hai con ngựa đang gậm cỏ.
        Đào Kỳ nghĩ lại chuyện đêm qua, nhìn Phương Dung chàng tự thấy mình không xứng đáng với nàng, tự thẹn với chính mình.
        Thời bấy giớ, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, hoặc ngao du với những đào hát mà không bị kết tội. Nên ý tưởng thẹn thùng của Đào Kỳ chỉ thoáng qua rồi thôi. Chàng đến gần gốc cây thì Phương Dung đã mở mắt ra, nhìn chàng:
        – Đêm qua em giả dạng Ngũ-phương kiếm đốt cháy sở Tế-tác Đăng-châu để khai thêm hố chia rẽ giữa bọn chúng. Em còn...
        Nàng chỉ vào bọc bên cạnh, rồi mở ra cho Đào Kỳ coi. Trong đó đầy vàng, ngọc sáng chói. Nàng tiếp:
        – Em vào huyện đường, bắt trói vợ Trương Thanh tra khảo bắt chỉ chỗ dấu của, rồi em lấy hết cho bõ ghét. Số vàng ngọc này sau có thể dùng để phục quốc.
        Phương Dung thấy Đào Kỳ mệt mỏi bơ phờ, tưởng rằng chàng mất ngủ. Nàng chỉ vào chiếc võng treo trên cây:
        – Anh ngủ một lát rồi chúng ta lên đường.
        Đào Kỳ cười gượng rồi lên võng nằm. Chàng thiếp đi lúc nào không hay. Khi chàng giật mình tỉnh giấc, trời đã về chiều.
        Chàng nói với Phương Dung:
        – Chúng ta lên đường thôi.
        Hai người ra roi cho ngựa phi lên hướng Bắc. Đi đến chiều, vẫn không gặp một trang ấp nào. Phương Dung chỉ vào khu rừng trước mặt:
        – Chúng mình vào rừng, lấy lương khô ăn, rồi qua đêm tại đây.
        Hai người cho ngựa ruổi vó ngắm cảnh chiều tàn trên núi rừng hùng vĩ của đất nước. Qua hốc núi, xa xa có con ngựa đang gặm cỏ bên đường. Cạnh con ngựa, một người lính Hán đang đứng, lưng đeo đoản đao, mắt lơ đãng nhìn trời.
        Người lính thấy hai người thì chắp tay lễ phép hỏi:
        – Có phải Đào công tử và Nguyễn tiểu thư không?
        Đào Kỳ gò cương ngựa lại, đáp:
        – Phải, đại ca có gì muốn dạy bảo?
        Tên quân Hán đưa ra một gói nhỏ nói:
        – Đây là một món quà mọn của chủ nhân tôi gửi biếu Đào công tử, mong công tử nhận cho.
        Đào Kỳ cầm lấy gói quà. Bên ngoài gói bằng tấm khăn lục, trên viết mấy chữ theo lối triện, rất đẹp:
        Thanh thanh tử khâm,
        Du du ngã tâm,
        (Tà áo xanh xanh, ta nhớ người, lòng sầu dằng dặc).
        Đào Kỳ biết hai câu này lấy trong kinh Thi. Chàng nhìn kỹ nét chữ xem người tặng là ai? Nhưng không nhận ra. chàng hỏi tên lính Hán:
        – Đại ca có thể cho biết ai đã tặng cho tôi gói quà này chăng?
        Tên quân Hán nói:
        – Công tử cứ mở ra thì rõ. Chủ nhân tôi khẩn khoản nói rằng công tử chỉ nên mở ra coi một mình mà thôi.
        Nói rồi, y ra roi cho ngựa chạy.
        Đào Kỳ ngẩn người hỏi Phương Dung:
        – Em thử đoán xem, ai đã tặng anh gói quà này?
        Phương Dung xịu mặt xuống:
        – Còn ai vào đây nữa? Đại ca thử nghĩ xem ai có thể sai phái được tên quân người Hán?
        Đào Kỳ lắc đầu:
        – Anh có nhiều người thân có thể sai phái được quân Hán: Nghiêm đại ca, chú anh, Tô Phương, Ngũ-phương kiếm.
        Phương Dung hừ một tiếng:
        – Nếu là Nghiêm Sơn thì ông ấy đã xuất hiện gặp anh. Chú Hùng là người lớn, muốn tặng anh cái gì thì đưa cho anh, việc gì phải sai lính Hán? Tô Phương thì bị chị Lê Chân giam rồi. Ngũ-phương kiếm là thứ anh hùng hào sảng, đâu có thì giờ làm chuyện ú tim này? Chỉ còn một người duy nhất mà thôi. Anh đừng giả bộ nữa.
        Đào Kỳ nhớ tới Tường Quy, mặt chàng chợt đỏ lên và nín thinh luôn. Phương Dung lấy lương khô ra cho Đào Kỳ ăn, rồi mắc võng lên cây, nói:
        – Anh ở đây coi ngựa, em vào trong có chút việc.
        Nói rồi, nàng bỏ đi.
        Đào Kỳ lấy gói vải lụa mở ra, bất giác tim chàng đau nhói lên. Chàng ngẩn người ra: Nguyên bên trong có bộ quần áo lụa xanh, trên ngực thêu cành đào. Chính là bộ quần áo của Tường Quy đã mặc. Trong có mẩu giấy viết mấy chữ:
        "Xin cho quần áo thay người, theo bên mình anh trên bước gian nan vạn dặm. Em đã mặc bộ quần áo này nửa tháng liền không giặt, để giữ hơi của em. Áo quần thay em ở bên anh".
        Tay Đào Kỳ run run, chàng đưa gói quần áo lên úp mặt vào hít lấy một hơi. Chàng thấy quả mùi thơm của Tường Quy thấm vào tạng phủ. Có tiếng bước chân Phương Dung lại gần, chàng vội gói bộ quần áo lại, cất vào bọc, leo lên võng nằm ngủ.
        Phương Dung cũng leo lên võng nằm. Nàng cất tiếng hát theo điệu Lý con sáo:
        Yêu nhau cởi áo cho nhau,
        Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.
        Qua cầu, ngả nón trông cầu,
        Cầu bao nhiêu nhịp, em sầu bấy nhiêu.
        Qua đình, ngả nón trông đình,
        Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu?
        Đào Kỳ liệu chừng Phương Dung đã biết chuyện nên hát trêu mình, chàng nằm im không lên tiếng. Phương Dung đằng hắng một tiếng, rồi hỏi:
        – Đào đại ca! Em muốn hỏi đại ca mấy câu có được không? Đại ca có hứa nói thực với em không?
        Đào Kỳ nhỏm dậy:
        – Cái gì của anh, em cũng biết hết rồi, còn gì nữa đâu mà hỏi
        Phương Dung chua chát:
        – Thế mà có điều em chưa biết đấy. Em hỏi anh, trong đời anh, những người đàn bà nào được anh yêu nhất?
        Đào Kỳ suy nghĩ một lúc rồi nói:
        – Trên đời anh, những người đàn bà sau đây anh ghi nhớ vào lòng: Thứ nhất là mẹ anh, thứ nhì là sư tỷ của anh, sau đến cô em họ anh, rồi đến em và... và... Tường Quy.
        Phương Dung hỏi tiếp:
        – Mẫu thân anh thì dĩ nhiên anh yêu nhất rồi. Không ai có thể so sánh. Trong bốn người còn lại, ai là người được anh yêu nhất?
        Đào Kỳ suy nghĩ một lát rồi nói:
        – Đối với sư tỷ, anh vừa yêu vừa kính. Anh thấy yêu sư tỷ giống như yêu mẹ, không khác gì mấy. Có thể nói, sư tỷ là bà mẹ thứ hai của anh. Nhưng anh yêu mà không sợ, vì sư tỷ rất chiều anh. Đối với cô em họ thì anh yêu nhẹ nhàng hơn. Còn Tường Quy, anh vừa yêu vừa hận, nghĩ đến nàng, anh có cảm tưởng như bị cái dùi đâm vào ngực. Còn đối với em... thì chú anh đã quyết hỏi em làm vợ cho anh. Chúng mình tuy chưa cưới xin, nhưng tình nghĩa đâu khác gì vợ chồng?
        Câu cuối cùng của Đào Kỳ làm Phương Dung hừ một tiếng:
        – Nếu bây giờ, hoàn cảnh bắt anh phải chọn em hay Tường Quy thì anh chọn ai?
        Đào Kỳ không bao giờ ngờ Phương Dung hỏi câu đó, chàng suy nghĩ mãi cũng không tìm ra câu trả lời. Sau cùng, quýnh quá, chàng nói:
        – Anh không bỏ được người nào cả.
        Câu trả lời này làm Phương Dung cảm thấy vui lòng. Nàng nghĩ:
        – Nếu chàng yêu ta bằng Tường Quy, thì còn gì bằng nữa? Tường Quy là gái có chồng, đâu có thể ở bên cạnh chàng mãi? Vả lại, Đào ca là người trọng danh dự, đời nào chàng chấp nhận một đứa con gái vợ thằng Ngô làm vợ mình? Vả ta với chàng còn có cái chí phục quốc vơí nhau. Tường Quy bì thế nào được.
        Thời bấy giờ, người Việt bị người Hán đối xử cực kỳ tàn bạo, có nhiều con gái Việt lấy chồng Hán, rồi lên mặt hách dịch với đồng bào. Do đó, dân chúng thường dùng danh từ vợ thằng Ngô, cũng như ngày nay, kẻ ác miệng gọi những người lấy chồng Pháp, Mỹ là me Tây hay me Mỹ vậy.
        Hai người ngủ đi lúc nào không hay. Bỗng cả hai choàng dậy vì có tiếng bước chân nhiều người từ xa vọng lại. Nội công Đào Kỳ rất thâm hậu, chàng nói:
        – Dường như là một đội quân Hán thì phải.
        Phương Dung gật đầu tỏ ý đồng tình. Hai người dấu ngựa vào rừng, đeo kiếm vào lưng rồi ra đường nhìn. Phía xa xa, có nhiều ánh đuốc ngoằn ngoèo như một con rắn lửa.
        Phương Dung bàn:
        – Chúng ta nên leo lên cây quan sát tình hình.
        Đoàn người ngày càng tiến đến gần. Bước chân lẫn với tiếng roi vụt chan chát, tiếng chửi rủa tục tằn của quân Hán. Phương Dung ghé tai Đào Kỳ:
        – Dường như một toán áp giải tù nhân thì phải.
        Người đi đầu cầm lá cờ đỏ, trên cờ thêu con gấu bay. Đào Kỳ biết đó là kỳ hiệu của lính thiết kỵ Giao-chỉ. Phía sau, một đoàn người đi chân đất, lưng đeo túi vải. Cứ năm người bị trói thành một chùm. Họ thất thểu lê bước, chứng tỏ đã quá mệt mỏi.
        Đào Kỳ nhẩm đếm rồi nói:
        – Không phải tù, mà là thanh niên bị bắt sang Trung-nguyên làm lao binh cho quân Hán. Tổng cộng trên ngàn người.
        Bỗng tên chỉ huy đoàn quân hô lớn:
        – Ngừng lại!
        Đoàn người ngừng lại. Một tên Hán nói:
        – Bọn lao binh nghe đây: Chúng mày tạm ngừng để nấu cơm ăn. Sau đó đi ngủ. Sáng mai tiếp tục lên đường.
        Bọn lao binh Việt chia nhau đi kiếm củi nấu cơm. Bọn lính Hán phân thành từng ngũ một, mỗi ngũ đóng một chỗ. Chúng nằm dài ra nghỉ, mỗi đứa có tới ba lao binh phục dịch. Một người bóp chân, đấm lưng, một người mang quần áo, một người phục dịch nấu ăn. Bọn lao binh đầy vẻ mệt nhọc, bơ phờ. tuy ngồi nghỉ, nhưng có người khóc, kẻ kêu. Bỗng có tiếng khóc rống lên:
        – Ối con ơi là con. Con đang đau nặng, mẹ con thì chết rồi mà bố phải đi lao binh thì con sẽ sống với ai? Ai nuôi con?
        Người buông tiếng khóc là tráng niên mập mạp, tuổi chưa tới ba mươi. Anh ta khóc càng ngày càng lớn tiếng, người run lên bần bật như bị lạnh.
        Có tiếng gọi:
        – Thằng Hoan đấy hả? Cơn sốt rét của mày chưa hết sao?
        Người tên Hoan càng run mạnh hơn. Tiếng khóc của chàng càng thê lương. Tên trưởng đoàn phát cáu, quát:
        – Đứa nào khóc đó? Câm mồm lại ngay!
        Nhưng tiếng khóc vẫn không ngừng. Tên trưởng đoàn bực mình vẫy tay một cái. Hai tên lính Hán đến nắm tóc người đàn ông khốn nạn lôi đến gốc cây bắt qùy xuống. Tên trưởng đoàn bắt tập trung hết lao binh thành vòng tròn, nói:
        – Kể từ nay, tao cấm khóc. Đứa nào khóc, sẽ như thằng này.
        Nói rồi, nó cầm dao đưa lên. Loáng một cái, cắt đứt tai trái người kia.
        Người đàn ông tên Hoan đau đớn quá, hóa liều, y nhảy lên ôm lấy tên đội trưởng, cắn vào mặt nó. Thế là hai ngươi ôm nhau lăn xuống đất vật lộn. Bọn Hán hò hét, lấy dao chặt một tay người kia. Người kia còn có một tay, ôm không vững đành buông tên đội trưởng ra.
        Tên đội trưởng cáu quá, quát lên:
        – Đem cả xâu của nó ra đây.
        Bọn lính Hán lôi bốn người còn lại ra, bắt quỳ xuống trước mặt. Tên đội trưởng nói:
        – Thằng này đánh tao, vậy tao ra lệnh cho chúng mày, mỗi đứa phải xẻo một miếng thịt của nó. Đứa nào lừng chừng đứa đó sẽ bị xẻo thịt.
        Nói rồi, nó đưa dao cho một lao binh. Tên lao binh này cầm dao run lẩy bẩy tiến đến, dơ lên, rồi không hạ xuống được.
        Tên đội trưởng quát lên một tiếng, vung đao chặt xuống đầu tên lao binh... Mọi người rú lên một tiếng kinh sợ. Họ thấy ánh thép loáng một cái, sau một tiếng ối, một cái đầu rơi xuống đất. Khi họ mở mắt ra thì không phải cái đầu của tên lao binh mà là cái đầu của tên đội trưởng.
        Tiếp theo, hai người từ trên cây nhảy xuống, vung kiếm đưa liên tiếp. Mỗi lần đưa, một cái đầu quân Hán rơi. Hai người đó là Đào Kỳ và Phương Dung.
        Phương Dung hô lớn:
        – Anh em lao binh, mau cướp khí giới của giặc Hán, đánh nó.
        Đám lao binh có người cầm đầu cùng xúm vào ôm lấy bọn lính Hán, cướp vũ khí. Chỉ một lát thì ba mươi tư tên lính Hán bị bắt hết. Còn mười sáu tên bị Đào Kỳ và Phương giết chết.
        Phương Dung nói lớn:
        – Anh em lao binh nghe đây: Chúng ta đều là người Việt, tại sao chịu nhục để cho bọn Hán bắt làm lao binh? Bây giờ chúng ta đã giết mười sáu tên, bắt sống ba mươi tư tên, vậy chúng ta hãy trốn vào rừng, lập trại để sống. Anh em có dám làm không?
        Bọn lao binh đồng la lớn:
        – Dám làm!
        Đào Kỳ chỉ vào khu rừng, nói:
        – Trong này có ngọn suối. Vậy ngày mai này, chúng ta vào đó lập trại, luyện tập võ nghệ, chờ ngày khởi nghĩa, đuổi giặc Hán. Lúc đó, chúng ta sẽ được tự do hồi hương, sống với gia đình.
        Đám lao binh reo hò đồng ý.
        Phương Dung điều khiển mọi người di chuyển vào trong rừng sâu. Đợi qua đêm, sáng hôm sau, họ đẵn gỗ, cắt lá làm nhà. Đào Kỳ chia năm người thành một ngũ, năm ngũ thành một lượng, năm lượng thành một tốt và năm tốt thành một lữ. Tổng cộng được hai lữ.
        Chàng chọn mấy người có sức khỏe, cử lên làm ngũ trưởng, lượng trưởng, tốt trưởng và lữ trưởng... Chàng huấn luyện họ theo phép luyện quân của sách Tôn-tử, Lục-thao.
        Trong vòng một tháng, doanh trại đã đủ, kỷ luật nghiêm minh. Chàng thấy lữ trưởng lữ 1 là Lê Hoàng lanh lẹ hơn lữ trưởng lữ 2 Phạm Tân, chàng bèn cho Lê Hoàng kiêm nhiệm chức sư trưởng, coi cả hai lữ.
        Để cho đủ nhu cầu nuôi quân, Phương Dung lấy số vàng bạc cướp ở huyện Đăng-châu đến các trang ấp gần đó bán đi, mua gạo thóc mang về. Hai lữ hàng ngày phải trồng trọt rau đậu, khoai sắn làm kế sinh nhai.
        Đào Kỳ đặt tên cho trang là Văn-lạc, rút từ hai chữ Văn-lang, Âu-lạc. Sau khi chỉnh đốn trang xong, Phương nói với Đào Kỳ:
        – Chúng ta có một nghìn người thực, nhưng cần phải liên lạc với các trang khác mới có thể đứng vững. Ởã đây gần Mê-linh, chúng ta nên tới Mê-linh liên kết với Thi Sách và Nhị Trưng. Bởi, nếu chỉ với một nghìn người, quân Hán kéo đến thì không đầy một ngày là bị tiêu diệt.
        Đào Kỳ lắc đầu:
        – Việc gặp Đặng Thi Sách và Nhị Trưng chưa biết thế nào. Ba người này tiếng tăm lừng lẫy, thì tai mắt giặc theo dõi không ít. Liệu họ có thể lo cho trang của chúng ta không? Từ đây về Đăng-châu cũng không xa, chi bằng ta cho người về liên lạc với chú Hùng. Chú là Huyện-úy, giặc sẽ ít nghi ngờ. Vả xưa nay, chú vẫn quy dân lập ấp quen rồi, chú có thể lo thêm cho trang Văn-lạc được. Hoặc biết đâu, chú có thể cử một trong các em lên đây trông coi trang này cũng nên.
        Đào Kỳ gọi Lê Hoàng, trao cho bức thư và dặn:
        – Lê đại ca! Đại ca cầm bức thư này về trang Hiển Minh ở Đăng-châu, gặp Lạc-hầu là Đào Thế Hùng trao cho người. Đào Lạc-hầu là chú ruột tôi. Đại ca kể sơ lược cho chú tôi nghe mọi biến chuyển ở đây.
        Lê Hoàng tuân lệnh, cầm thư lên ngựa ra đi.
        Hàng ngày Đào Kỳ huấn luyện võ thuật, hành quân, xung trận cho các tráng đinh. Chàng chia ra: Cứ hai toán làm việc thì một toán luyện tập.
        Phương Dung đã bán gần hết số vàng ngọc cướp được ở Đăng-châu, mua sắt, đồng về rèn luyện vũ khí, mà vẫn không đủ.
        Nàng chợt nhớ đến một đoạn trong Tôn Tử binh pháp:
        – Tại sao ta không lấy vũ khí của Hán làm vũ khí của mình?
        Nàng bàn với Đào Kỳ:
        – Bây giờ chúng ta đã vũ trang cho bảy trăm tráng đinh rồi. Vậy chúng ta băng rừng tới vùng Tiêu-sơn phục kích, đón đoàn tải vũ khí, lương thực về Trung-nguyên của Tô Định để đánh cướp.
        Đào Kỳ thắc mắc:
        – Tại sao lại vùng Tiêu-sơn?
        Phương Dung cười:
        – Đại ca quên câu hư là thực, thực là hư sao? Nếu chúng ta chặn cướp ở đây, Lê Đạo Sinh sẽ cho người điều tra, rồi mang quân lên đánh, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm. Chúng ta vượt rừng tới Tiêu-sơn là địa phận của chín trang ấp thuộc quyền Lê Đạo Sinh mà đánh cướp, khiến cho y điên đầu. Thêm nữa, Tô Định lại có thể nghi ngờ y. Có điều, chúng ta phải phục kích bắt gọn, không cho một tên sóng sót chạy thoát. Như vậy, Tô Định sẽ cứ tưởng đoàn vận tải đã sang Trung-nguyên. Hơn năm sau không thấy trở về, mới cho điều tra, lúc đó, e rằng còn khó khăn hơn bắc thang lên trời.
        Đào Kỳ khám phá ra rằng Phương Dung cũng đọc những sách Lục-thao, Tôn-tử binh pháp như chàng, nhưng nàng áp dụng uyển chuyển hơn nhiều. Nàng tổ chức những toán do thám nho nhỏ khắp nơi. Khi được tin có đoàn vận tải vũ khí, lương thảo sắp tới, nàng thân đi thám sát địa thế: Chỗ nào phục quân, chỗ nào phục toán tiễn thủ, chỗ nào lăn gỗ đá chặn đường. Phương Dung còn cẩn thận hơn, cho tráng đinh tập trận thử, để khi lâm trận không bị bỡ ngỡ.
        Trong một tháng, Phương Dung đã đánh cướp ba đoàn vận tải. Lính Hán chuyên chở nào là vũ khí, nào là lương thực, nào là lừa ngựa, trâu bò, đều bị cướp hết. Trong trang Văn-lạc kho đụn chất đống, vũ khí dư thừa. Trang có đến hơn ba trăm con trâu để cày bừa, chuyên chở. Ngựa chiến gần năm trăm con.
        Đào Kỳ định đánh cướp nữa, nhưng Phương Dung cản lại:
        – Không nên! Nếu trong chiến tranh, chúng ta đánh cướp của giặc càng nhiều càng tốt. Nhưng chúng ta hiện còn đang ẩn thân, nếu đánh cướp nhiều quá, có thể sẽ bị lộ mất. Hãy tạm ngưng. Chỉ khi nào thiếu lương thảo mới tiếp tục.
        Trong thời gian đó, Phương Dung giải thoát hơn năm trăm lao binh nữa. Thế là lực lượng trang Văn-lạc lên tới một sư, toàn những trai tráng ngút lửa yêu nước, chờ đợi ngày tiến đánh Luy-lâu. Hơn tháng sau, một hôm Phương Dung đang bàn với Đào Kỳ về phương lược sử dụng đạo binh Văn-lạc bất thần đánh Luy-lâu, thì tráng đinh vào báo:
        – Có khách từ phương xa tới, xưng là Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang và Trần Khổng Chúng xin vào yết kiến.
        Phương Dung nghe báo, mừng quá nói:
        – Ba vị sư thúc của em tới. Chúng mình mau ra đón.
        Đào Kỳ lấy áo khoác vào mình, theo Phương Dung ra cổng trang. Chàng hỏi:
        – Anh chưa từng nghe đến danh hiệu sư thúc Trần Khổng Chúng. Trong kỳ đại hội sao không thấy người?
        Phương Dung đáp:
        – Trần sư thúc là đệ tử út của thái sư phụ. Năm xưa được sư tổ thương yêu rất mực. Khi sư tổ mất tích, sư thúc nhớ thương người đến ngơ ngẩn cả người. Thế rồi, người bỏ đi tìm sư tổ. Từ đấy, trong môn phái, không ai biết người ở đâu. Bây giờ người trở về, chắc có tin tức của sư tổ.
        Phương Dung là cô gái lanh lợi, thông minh, lễ phép. Nàng được các sư thúc thương yêu đặc biệt, tình nghĩa thâm trọng. Nàng thấy các sư thúc, định quỳ xuống làm lễ, Trương Thủy Hải đã phất tay:
        – Sư thúc miễn lễ cho con. Cháu Đào Kỳ với con đã làm được nhiều việc đến bố cháu cũng không ngờ tới.
        Vào tới sảnh đường, Trần Khổng Chúng mắng yêu Phương Dung:
        – Con gái yêu của sư thúc càng lớn càng xinh đẹp.
        Đào Kỳ hỏi:
        – Tại sao các vị lại biết chúng cháu ở đây mà đến thăm?
        Trương Đằng Giang cười:
        – Các cháu ngạc nhiên là phải. Việc làm của các cháu bí mật đến quỷ thần cũng không hay, bọn ta làm sao biết được? Nguyên chúng ta đi thăm dò tin tức của thân phụ Thánh Thiên, thì gặp thái sư phụ. Người đã thoát khỏi nhà tù Luy-lâu. Người khen ngợi cháu Đào Kỳ luôn miệng. Hiện người đã nhận một thiếu nữ còn trẻ làm đệ tử. Thiếu nữ đó là em út của Trần sư đệ đây.
        Phương Dung nắm tay Trần Khổng Chúng:
        – Sư thúc, lâu nay ngươi đi đâu? Cháu nhớ sư thúc đến chết được.
        Trần Khổng Chúng cảm động:
        – Chú cũng vậy. Khi chú rời Cối-giang đi tìm sư phụ thì cũng nhớ cháu suốt ngày, suốt đêm. Chú đoán rằng thái sư phụ bị Hán bắt, vì vậy, chú bỏ sang Trung-nguyên, học tiếng Hán, đầu quân cho Quang Vũ.
        Đào Kỳ ngơ ngác không hiểu. Phương Dung vỗ tay:
        – Mưu kế của chú thực tuyệt. Chú muốn làm người Hán để dò la tin tức sư tổ. Chứ nếu chú đầu quân làm việc cho người Hán tại Lĩnh-nam thì không được trọng dụng.
        Trần Khổng Chúng gật đầu:
        – Chú đầu quân vào đạo của Ngô Hán. Nhờ võ công Lĩnh-nam khắc chế võ công Trung-nguyên, chú thắng hầu hết các võ sĩ của Ngô. Ngô Hán trọng dụng chú, cho chú làm sư trưởng. Từ sư trưởng, chú tham dự nhiều trận đánh, có công, chú được Quang Vũ tiếp kiến. Quang Vũ hỏi chú muốn được thưởng gì? Chú xin được về làm quan ở Lĩnh-nam. Quang Vũ cho chú theo Tô Định sang Giao-chỉ với chức vụ Đốc-bưu.
        Phương Dung ngơ ngác hỏi:
        – Đốc-bưu là chức vụ gì?
        Đào Kỳ gần Lục Mạnh Tân lâu, chàng biết khá nhiều về quan chức nhà Hán. Chàng đap:
        – Đốc-bưu là một chức vụ thay Thái-thú đi thanh tra các nơi. Cho nên người Trung-hoa thường nói: Thái-thú là vua, Đốc-bưu là Ngọc-hoàng Thượng-đế. Ý chỉ Đốc-bưu là chức quan hét ra lửa, mửa ra khói. Các Huyện-úy, Huyện-lệnh nghe Đốc-bưu đến thì sợ như sợ cọp.
        Trần Khổng Chúng tiếp:
        – Chú trở về Giao-chỉ, đến bạn hữu, thân thuộc cũng không nhận ra chú. Ai cũng tưởng chú là người Hán. Chú đi khắp các nhà tù Giao-chỉ thanh tra để tìm thái sư phụ. Cho đến một ngày kia, chú vào thăm nhà tù Luy-lâu, thì khám phá ra thái sư phụ mới được đua từ Thái-hà trang về. Đêm, chú vào nhà tù giải thoát cho Thái sư phụ. Người sai chú về Cối-giang thám thính tình hình. Chú trốn về Cối-giang gặp bố cháu. Giữa lúc anh em đang hàn huyên vui vẻ, thì có khách từ Đăng-châu tới.
        Phương Dung ngắt lời:
        – Chắc là người của Đào gia?
        Trần Khổng Chúng cười:
        – Không phải là người của Đào gia, mà là ông bà Đào Thế Hùng. Ông bà tới gặp bố mẹ cháu. Người mang theo nào trâu, nào bò, nào dê, nào lợn.
        Đào Kỳ kêu lên:
        – Ủa! Chú cháu tới có việc gì mà lại mang nhiều lễ vật như vậy?
        Trương Đằng Giang cười:
        – Còn gì nữa? Nếu là việc phục quốc thì chỉ mình ông đi là đủ rồi. Đây có bà đi theo thì chỉ còn có việc hỏi con bé Dung về làm dâu họ Đào. Đào huynh với sư huynh ta là bạn cũ, hai bên gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Họ ôm lấy nhau mà khóc. Hai bên khóc như trẻ con thiếu sữa vậy.
        Thời bấy giờ, quyền cha mẹ rất lớn. Khi cha mẹ qua đời, chú thím hoặc cậu mợ, cô dì sẽ thay thế, đứng ra dựng vợ gả chồng cho các cháu. Thường thì bề trên quyết định, không bao giờ hỏi ý kiến đôi trẻ cả. Ông bà Đào Thế Hùng thấy anh chị thất lạc không tin tức, mà Đào Kỳ, Phương Dung quấn quít bên nhau. Ông bà quyết định đi Long-biên hỏi Phương Dung cho cháu làm vợ. Ông bà biết cháu với Tường Quy có mối ẩn tình. Tường Quy trước mắt ông bà là một thứ Mỵ Châu, thân thể ô uế. Còn so bề gia thế, cha Tường Quy là Huyện úy Bắc-đái, làm sao bì với Nguyễn Trát, tiếng tăm lừng lẫy về ý chí phục quốc. Phương Dung xinh đẹp đâu kém Tường Quy? Võ công nàng lại siêu việt, kiến thức, mưu trí tuyệt vời. Ông bà mới gặp đã thấy thương yêu như con đẻ.
        Trương Thủy Hải tiếp:
        – Ông bà Đào Thế Hùng đưa thư của hai cháu ra bàn với chúng ta. Hai cháu muốn ông tiếp nhận trang Văn-lạc, nhưng ông không kham nổi, vì ông đang muốn liên hệ, ảnh hưởng đến các Lạc-hầu ở Đăng-châu. Ông bà nhờ bố cháu cử người lên trông nom dùm. Bố cháu quyết định cử chú với chú Đằng Giang lên đây. Nhân tiện chú Khổng Chúng nhớ cháu quá, cũng đòi đi theo để nhìn mặt con bé xinh đẹp của chú.
        Đào Kỳ, Phương Dung tập họp tráng đinh, giới thiệu Trương thị huynh đệ với họ. Còn Khổng Chúng thì vì cần bảo vệ bí mật nên không ra mặt.
        Sau lễ giới thiệu, Đằng Giang tiếp xúc với tráng đinh một buổi. Tối trở về sau khi cơm nước, ông gọi Phương Dung, Đào Kỳ nói:
        – Hai cháu khôn thì khôn thực. Mưu trí, võ công đều giỏi hơn chú. Song có điều các cháu còn trẻ, không kinh nghiệm đời.
        Phương Dung ngạc nhiên:
        – Chú muốn nói...?
        – Cháu cho tráng đinh ăn uống đầy đủ, đối xử tử tế. Nhưng vì các cháu còn trẻ, các cháu quên mất họ đều đã có gia đình. Họ ở đây mà lòng nhớ nhung cha mẹ, vợ con. Vậy từ ngày mai, ta phải tìm cách đón vợ con họ lên ở trong trang, làm kế lâu dài.
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #19
          Hồi 18 - Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu

          Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.
          (Kinh Thi, Quan thư)
          Nghĩa là:
          Có người con gái nết na, người quân tử đến xin cầu hôn.
          Câu này trích trong bài Quan-thư, phần Quốc-phong, Chu-nam, kinh Thi. Hai câu này rất thông dụng trong ngôn ngữ cổ, khi nói đến hôn nhân.
          Từ trang Văn-lạc đi Mê-linh không xa, chỉ mất khoảng một ngày sức ngựa. Đào Kỳ, Phương Dung càng đi gần về phía Mê-linh, càng thấy dân cư đông đúc, trang ấp rộng rãi.
          Qua một vài thị trấn nhỏ, họ dừng bước ngắm cảnh. Phương Dung nhận thấy ở vùng này quân Hán đỡ sách nhiễu dân chúng hơn vùng Long-biên. Dân chúng tương đối được tự do hơn.
          Đào Kỳ đưa ra nhận xét:
          – Người ta bảo rằng người nước Lỗ ai cũng biết đọc sách cũng không sai. Từ đây lên Mê-linh còn cả mấy chục dặm, vậy mà ảnh hưởng của Đặng Thi Sách với Nhị Trưng đã mạnh mẽ thế: Dân chúng sống thoải mái, tự do, bọn quân Hán không dám sách nhiễu.
          Nói xong chàng mỉm cười, mặt tươi hẳn lên, đầy hứng thú, tưởng chừng trên đời chưa bao giờ có vậy.
          Phương Dung suy nghĩ:
          – Từ ngày gặp chàng đến giờ, chưa bao giờ thấy chàng cao hứng như vậy. Suốt ngày nếu không than thở bọn Hán tàn bạo, lại nguyền rủa bọn Việt theo Hán, hoặc tủi hận đất nước tối tăm, điêu tàn. Cho tới hôm gặp Lê Chân, Phùng Vĩnh Hoa và chú của chàng mới thấy chàng cao hứng một lần. Nhưng sau đó chàng lại buồn sầu mất hết chí khí vì vụ Tường Quy, ta không biết cách nào khuyên giải được. Không ngờ giữa đường, ta với chàng lập đưọc trang Văn-lạc, rồi đến đây, thấy ảnh hưởng của Thi Sách, Nhị Trưng mạnh, chàng cao hứng đến như vậy. Thì ra tình yêu nhân luân là chú thím, các em họ. Tình yêu nam nữ là Tường Quy, là ta cũng không làm cho chàng vui bằng những tin tức tươi sáng về phục quốc. Ừ! Bố ta nói: Đào-hầu là đệ nhất hào kiệt đời nay có khác. Cứ coi cung cách người con út, bị xa cha mẹ từ năm mười ba tuổi mà còn thế. Thử hỏi chính bản thân người thì tư cách, hùng tâm còn cao đến đâu?
          Hai người đi qua một trang, thấy ngoài cổng treo đèn kết hoa rất đẹp, trên có chữ Toàn-liệt. Dưới chữ Toàn-liệt có chữ Vu-quy kết bằng hoa hồng, hoa mào gà đỏ thắm. Đào Kỳ gò cương đứng ngắm, rồi nói:
          – Phương Dung! Em thử đoán xem, dường như trang chủ Toàn-liệt gả chồng cho con gái thì phải?
          Dù học võ, dù mưu đồ phục quốc, Phương Dung cũng vẫn là cô gái tuổi còn nhỏ, thích tò mò vào chuyện yêu thương, vợ chồng:
          – Ừ nhỉ, anh Kỳ, chúng ta đứng đây ngắm xem cô dâu có đẹp không, nghe.
          Đào Kỳ cười:
          – Ngắm xem cô dâu đẹp hay xấu để biết vậy thôi, chứ còn để xem người đẹp, thì không có đâu.
          – Sao vậy?
          – Trên thế gian này làm gì có người đẹp hơn Nguyễn tiểu thư ở trang Cối-giang?
          Đào Kỳ là người ngay thẳng. Có sao nói vậy. Chàng khen Phương Dung đẹp, quả không sai. Chàng có ý tưởng so sánh giữa sư tỷ Thiều Hoa, Phương Dung và Tường Quy, ai đẹp nhất? Chàng lẩm bẩm một mình:
          – Sư tỷ Thiều Hoa vừa có vẻ đẹp tươi sáng, ôn nhu văn nhã, vừa có sức hút người nhìn sư tỷ rất mạnh. Vẻ đẹp của sư tỷ cao sang như một hoàng hậu. Tường Quy thì trong cái vẻ đẹp ôn nhu văn nhã, cón có vẻ lãng mạn, tha thướt, yểu điệu. Phương Dung thì khác, nàng đẹp lồ lộ như bông hải đường mới nở chói chang dưới ánh nắng. Con mắt Tường Quy thì luôn cúi xuống, bí hiểm, sâu xa. Còn đôi mắt Phương Dung thì chiếu ra ánh sáng long lanh, uy nghiêm. Về trí khôn thì Tường Quy kém nhất. Sư tỷ Thiều Hoa thông minh thì có, nhưng quyền biến thì không. Phương Dung thì thông minh tuyệt thế, lại thâm mưu viễn lự. Từ hôm gặp mình, nàng mới học Lục-thao, Tôn-tử, thế mà nàng đã hiểu thấu đáo, áp dụng uyển chuyển. Trong vài lần phục kích quân Hán, nàng điều động tráng đinh nhịp nhàng. Bọn lính vận tải bị bắt gọn, trong khi tráng đinh không mất một người. Tài đó, ta e đến bố với cậu ta, nổi tiếng giỏi dùng binh cũng không bằng. Nếu cứ đà này, mấy năm nữa, có lẽ không ai địch nổi nàng.
          Phương Dung nghe Đào Kỳ khen mình đẹp, biết chàng khen thực tâm. Mặt nàng đỏ lên, hiện ra vẻ e thẹn. Nàng định nói: Em đâu có đẹp bằng Tường Quy, nhưng nàng kìm lại được, vì thời bấy giờ, con gái mà nói mát, nói dỗi, hay ghen tương là một tính xấu. Vả nàng được bố dạy dỗ từ nhỏ, để sau này cầm quân khởi binh, nàng có cái khí hùng, trí dũng, nên ít khi thốt ra những câu nhi nữ thường tình.
          Hai người vừa dừng ngựa, thì thấy một lão ông mặc áo đen, thắt lưng đỏ chạy ra vái:
          – Hai vị từ xa tới đây, gặp lúc trang chủ chúng tôi cho ái nữ vu quy. Trước lạ sau quen, xin mời hai vị dời gót vào tệ trang uống chén rượu.
          Phương Dung vội nói ngay, vì nàng sợ Đào Kỳ từ chối:
          – Được chứ, được chứ. Người Văn-Lang thì đều là con cháu Lạc Long quân, một nhà cả mà.
          Cău nói của Phương Dung làm ông lão áo đen tươi mặt lên, hiện ra vẻ khác lạ. Lão dẫn hai người vào trang.
          Đào Kỳ thấy trang Toàn-liệt nhỏ hơn trang Thái-hà, nhưng lớn không kém trang Hiển Minh của Đào Thế Hùng. Chàng hỏi lão già:
          – Lão tiên sinh! Chẳng hay cao danh quý tính của trang chủ là chi vậy?
          Lão già đáp:
          – Trang chủ chúng tôi họ Trần, húy là Hậu. Trang này truyền đã bảy đời rồi. Trần-hầu chúng tôi chỉ có một tiểu thư gả về công tử của Hùng-hầu trang Thượng-hồng. Hùng-hầu là cháu bảy đời của Hùng-vương thứ tám mươi tám (88).
          Hai người đã vào đến nhà rạp lớn, người ngồi rất đông. Trang chủ Trần Hậu là một người tuổi khoảng bốn lăm, bốn sáu, tướng mạo thanh nhã như nho sinh. Ông ra mời Đào Kỳ, Phương Dung vào bàn. Hai bên chưa kịp trao đổi câu nào, thì có tiếng pháo nổ dòn dã ở cổng trang. Rồi có tiếng loa xướng:
          – Hùng-hầu và quý khách trang Thượng-hồng tới.
          Trần-hầu cáo lỗi cùng Đào Kỳ và Phương Dung để cùng phu nhân ra đón khách. Họ nhà trai đi khá đông, khoảng trăm người, khiêng gạo, dắt trâu đến để nạp đồ sính lễ.
          Bước vào nhà rạp, Hùng hầu khoanh tay hướng vào mọi người hành lễ, thưa:
          – Nhờ phúc ấm của tổ tiên, giòng dõi họ Hùng chúng tôi sinh được một trai là Hùng Bảo. Trai khôn tìm vợ, gái ngoan gả chồng, đó là lời dạy của các vua Hùng. Cho nên chúng tôi xin đến trước cửa Trần hầu, khẩn cầu cho Trần tiểu thư kết hôn với Hùng Bảo.
          Đào Kỳ ghé tai Phương Dung nói nhỏ:
          – Hùng hầu là người chống Hán cực đoan. Ông dùng lời dạy của vua Hùng, chứ không dùng chữ trong sách vở Trung-nguyên.
          Phương Dung không chịu:
          – Biết đâu ông không đọc sách Trung-nguyên thì sao?
          – Ừ nhỉ!
          Trần hầu đáp lễ, nói:
          – Nhất sinh chúng tôi chỉ có một gái là Trần Năng. Chim khôn tìm cây cao mà đậu. Được Hùng-hầu đoái thương hỏi về làm dâu, chúng tôi xin kính cẩn tuân lời cầu hôn.
          Ông vẫy tay một cái, người nhà dẫn cô dâu ra. Cô dâu đầu quấn khăn vàng, mặc áo lụa đỏ, từ nhà trong đi ra. Phương Dung huých cùi chỏ vào Đào Kỳ:
          – Cô dâu đẹp đấy chứ!
          Đào Kỳ lắc đầu:
          – Dĩ nhiên là đẹp rồi, nhưng còn thua ba người.
          Phương Dung hỏi:
          – Thua ai?
          – Một là sư tỷ Thiều Hoa, hai là Nguyễn tiểu thư ở Cối-giang, ba là...
          Phương Dung cướp lời:
          – Ba là Thanh thanh tử khâm.
          Phương Dung nhắc đến Tường Quy, Đào Kỳ lại ngơ ngẩn, xuất thần. Ngoài kia, Trần Hậu quỳ xuống trước bàn thờ gia tiên khấn xong, ông nói:
          – Các con vào lễ gia tiên đi.
          Hùng Bảo tiến lên đứng ngang với cô dâu Trần Năng.
          Trần-hầu hô:
          – Lễ gia tiên, bốn lễ.
          Hai người cùng quỳ xuống lễ đủ bốn lễ.
          Trần-hầu nói:
          – Ơn đức của tổ tiên để lại, công cha nghĩa mẹ sinh ra con, nuôi cho khôn lớn. Cha cho con đi làm dâu họ Hùng. Từ nay, con là người họ Hùng, sống gửi thịt, chết gửi xương. Các con quỳ xuống lễ cha mẹ.
          Nói xong, ông cùng phu nhân ngồi lên sập. Hùng Bảo, Trần Năng quỳ xuống lễ bốn lễ.
          Ghi chú của thuật giả
          Theo phong tục tộc Việt, khi con gái rời cha mẹ về nhà chồng, là thuộc họ nhà chồng. Cô dâu chú rể lạy cha mẹ vợ trong buổi hôn lễ, trước 1945 còn duy trì. Hiện trong nước cũng như hải ngoại nhiều gia đình Việt Nam còn áp dụng. Tục lệ này rất tốt, rất đẹp. Chúng ta nên duy trì. Còn tục lệ lễ Tơ Hồng là theo truyện truyền kỳ tưởng tượng ma trâu đầu rắn của Trung-quốc truyền vào Việt Nam sau này.
          Trần-hầu nhận đủ bốn lễ rồi nói :
          – Phu thê giao bái. Hai con phải lạy nhau ba lạy. Sau lễ này là thành vợ chồng .
          Bỗng có tiếng quát lớn:
          – Khoan!
          Mọi người giật mình nhìn ra thì thấy một lão già và một số đông người gươm đao sáng choang, đã bao vây quanh nhà rạp tự bao giờ. Phương Dung nói khẽ với Đào Kỳ:
          – Lão già này là ai?
          Lão già bước vào giữa nhà rạp. Hai họ đều đứng dậy, nhưng im phăng phắc. Trần Hậu bước ra chắp tay vái dài:
          – Hôm nay được ngày lành tháng tốt, họ Trần tôi cho cháu gái vu quy về làm dâu Lạc hầu họ Hùng. Không ngờ được Đinh nhị tiên sinh giá lâm chia vui với chúng tôi, thực là vạn hạnh. Nào, mời Đinh tiên sinh vào.
          Lão Đinh nét mặt rất khó coi, nói gằn từng tiếng:
          – Trần trang chủ! Con gái trang chủ là Trần Năng đã hứa gả cho chủ nhân tôi rồi, tại sao lại nuốt lời, gả cho gã tiểu tử Hùng Bảo này?
          Trần Hậu lắc đầu:
          – Đinh nhị tiên sinh dạy sai rồi. Tôi có hứa gả tiện nữ cho Đinh đại tiên sinh bao giờ đâu? So với con gái tôi, Đinh đại tiên sinh đáng tuổi ông nội, sao Đinh tam tiên sinh lại nói vậy?
          Câu nói làm cả rạp cười ồ lên. Có tiếng cười khúc khích:
          – Đúng là già mà dê. Đã có mười vợ rồi còn không đủ sao?
          Lão Đinh liếc mắt một cái ban lệnh cho thủ hạ. Lập tức một người chạy vào nhà rạp lôi người đàn bà vừa nói câu đó ra ngoài tát hai cái. Mũi người đàn bà bị chảy máu đỏ lòm. Người đàn bà vừa khóc, vừa chửi:
          – Cha tiên nhân bố thằng Đinh Công Dũng.
          Tên thủ hạ lại tát hai cái nữa. Người đàn bà ngoác mồm ra chửi:
          Tiên nhân cha mày họ Đinh.
          Cậy tiền cậy của,
          Cậy thế, cậy thần,
          Hiếp người yếu đuối,
          Ăn ở bất nhân,
          Tổ tiên ô nhục,
          Con cháu nợ nần...
          Nguyên dân chúng vùng này thường đặt những bài ca khen ngợi những người đạo đức và cũng có những bài vè để chửi rủa nhau. Người đàn bà bị đánh đau, thuận miệng đọc bài vè chửi rủa lão Đinh.
          Lão Đinh tức quá, quát lớn:
          – Vả vào miệng nó cho ta.
          Bọn thủ hạ xúm vào chân đá, tay đánh người đàn bà.
          Người đàn bà bị đánh càng chửi rủa lớn hơn:
          – Tên khốn kiếp Đinh Công Dũng, người dám để lũ đệ tử đánh bà ư? Tổ tông mười tám đời nhà mày sẽ không yên ổn với bà đâu.
          Bọn thủ hạ càng nặng tay hơn.
          Cô dâu Trần Năng quát lên:
          – Ngừng tay!
          Nàng phóng ra khỏi rạp. Tay chụp hai tên thủ hạ của lão Đinh liệng ra xa, rồi đỡ người đàn bà dậy, hỏi:
          – Chị Cần, chị có sao không?
          Người đàn bà bị thâm tím mặt mày, nhưng tính khí quật cường vẫn còn:
          – Không sao, chị chỉ đau một tý thôi. Nhưng tổ tông mười tám đời họ Đinh nhà hắn sẽ bị người đời xỉ vả. Cả giòng họ hắn không dám ngước mặt nhìn đời nữa.
          Bọn thủ hạ Đinh Công Dũng lại ào đến định đánh người đàn bà kia. Cô dâu lắc mình một cái, binh, binh, binh cô đá một thế trực cước, một thế hoành cước, một thế hồi phong cước, ba tên thủ hạ văng ra xa, nằm quằn quại không ngồi dậy được. Đồng bọn vội chạy đến đỡ dậy. Ba tên mặt mũi nhăn nhó, tỏ vẻ đau đớn.
          Đào Kỳ nói nhỏ bên tai Phương Dung:
          – Nàng sử dụng võ công Tản-viên đấy. Cái đá thẳng trước, chân chưa thu về biến thành vòng cầu, rồi nhảy vọt lên quay một vòng, đá giò lái là chiêu thức khá cao của Tản-viên. Nhưng dường như tập chưa được thành thục lắm cho nên, lúc đáp xuống phải lùi hai bước.
          Bọn thủ hạ của lão Đinh không dám xông vào đánh Trần Năng. Chúng biết rằng chủ nhân của chúng vì mê cô mà đến gây sự. Nếu chúng ra tay, chủ nhân chúng không những không vui lòng, lại nổi giận thì nguy.
          Đinh lão nhị cười ha hả:
          – Mỹ nhân ơi! Không ngờ mỹ nhân cũng biết võ. Hôm nay đại ca sai ta đến đây đón mỹ nhân về làm phu nhân thứ mười của người, chứ có phải sai ta đi đánh nhau đâu? Cô nương sau này là chị dâu của ta. Ta đâu dám mạnh tay với cô. Nhưng sự thể đã thế này, ta đành vô lễ vậy.
          Nói rồi y tiến đến trước mặt Trần Năng, chụp vào ngực nàng. Cử chỉ, thái độ thực khả ố.
          Trần Năng trầm người xuống tránh khỏi, chân di chuyển sang trái, rồi quay ngoắt người lại tát vào mặt Đinh lão nhị đánh bốp một cái. Cái tát này nàng vận toàn lực, khiến Đinh lão nhị phải lùi lại một bước. Cả hai họ cười oà lên, đầy vẻ chế diễu. Đinh lão nhị nổi giận quát:
          – À, con ác phụ. Mày dám hỗn à?
          Nói rồi, y vung quyền nhắm đỉnh đầu Trần Năng đánh tới. Trần Năng không sợ, phóng chưởng đỡ. Chưởng lực của nàng khá hùng hậu. Quyền chưởng gặp nhau đánh bộp một cái. Đinh Công Hùng cảm thấy cánh tay bị tê rần. Y ngạc nhiên suy nghĩ:
          – Con nhỏ này học võ bao giờ, ta không ngờ tới? Vì khinh địch, ta bị hạ nhục hai lần. Nếu ta không thẳng tay, e rằng cục diện hôm nay đến mất mạng chứ không chơi.
          Đã có chủ ý, y vung chưởng phản công. Chưởng của y thuộc loại hỗn tạp, quái dị. Còn chưởng của Trần Năng thuộc loại dương cương của phái Tản-viên. Hai người qua lại gần ba mươi chiêu.
          Đào Kỳ bảo Phương Dung:
          – Trần cô nương thua đến nơi rồi.
          – Sao?
          – Đinh lão nhị sử dụng võ công phái Hoa-lư, bảo vệ môn hộ rất vững, trong khi đó, Trần cô nương là nữ lại sử dụng chưởng dương cương, rất tốn hao chân khí. Chỉ một lát nữa, cô sẽ bị bại. Chúng ta phải cứu cô mới được.
          Quả nhiên qua mấy chiêu nữa, Trần Năng bắt đầu thở hổn hển. Đinh lão nhị cười ha hả:
          – Chị dâu ơi! Nàng không địch nởi ta đâu. Thôi, mau theo ta về hợp hôn với anh ta đi. Đánh nhau như vậy cũng đủ rồi.
          Dứt lời, y bước chéo sang bên cạnh, đánh dứ vào thái dương nàng. Trần Năng vội thụp xuống tránh, thì y tiến lên một bước, một tay ôm ngực, một tay quàng ngang mông nàng, bế bổng nàng lên.
          Đào Kỳ nhặt một viên sỏi định bắn vào Đinh lão nhị để giúp Trần Năng, thì, chú rể nãy giờ đứng ngoài quan sát trận đấu, bỗng nhảy vọt lên cao. Ởã trên không, chàng vung chưởng đánh vào đầu lão Đinh cứu vợ.
          Chưởng phong ào tới. Lão Đinh vội vuông Trần Năng ra, vung chưởng đở rồi cười:
          – À, thì ra thằng nhãi. Vậy ta với mi đấu võ ăn cuộc. Nếu mi thắng được ta, ta nguyện rút lui; còn ta thắng, thì ta đón nàng về cho đại ca ta.
          Hai người quần thảo nhau quyết liệt.
          Đào Kỳ nói nhỏ:
          – Hùng Bảo là người nhà ta.
          Phương Dung cũng nhận thấy, nói:
          – Đúng, anh ta sử dụng võ công Cửu-chân, giống hệt những chiêu thức của chú anh sử dụng hôm đánh nhau với Lam kiếm. Anh có biết Hùng Bảo là đệ tử của ai không?
          – Anh không rõ. Nhưng chắc không phải học trò của chú anh vì chú anh chưa từng lên vùng này. Người cũng không hề nói cho anh biết có thu người đệ tử nào thuộc giòng dõi Hùng-vương.
          Hùng Bảo với Đinh Công Hùng qua lại với nhau trên ba mươi chiêu, thì Hùng Bảo bắt đầu yếu thế, chân tay đã luống cuống.
          Phương Dung nhắc Đào Kỳ:
          – Anh phải giúp Hùng Bảo, nếu không, y lâm nguy mất. Y lâm nguy, e rằng mất vợ.
          Đào Kỳ gật đầu, nói lớn:
          – Kính thiên, tạ địa.
          Hùng Bảo đang luống cuống, thấy có người nhắc mình, lập tức tỉnh ngộ, một tay đánh vung từ dưới lên, một tay vòng ngang xuống đất đúng với chiêu Kính trời, tạ đất. Bách một cái, Đinh lão nhị bị tát trúng mặt, y đau đớn lùi lại, rồi nhảy xổ vào chụp đầu Hùng Bảo.
          Đào Kỳ lại la lớn:
          – Hàm mô nhược thủy.
          Hùng Bảo chống hai tay về phía trước như thế ngã chúi về phiá Đinh lão nhị, rồi chân lộn lên trời, giống như con ếch nhảy xuống nước. Bốp một cái, Đinh lão nhị bị đá trúng cầm té lộn ra sau. Cái đá này làm y cắn phải lưỡi, máu mồm chảy ra ri rỉ. Y đau quá ngã ngồi xuống đất, không đứng dậy được nữa. Bọn bộ hạ vội ào vào, đỡ y dậy.
          Hùng Bảo sắp bại, nhờ Đào Kỳ nhắc cho hai lần đã chuyển bại thành thắng. Chàng quay nhìn người chỉ điểm mình thì thấy đó là một thiếu niên ngang tuổi, tướng mạo uy vũ. Khi mới đến đây, chàng đã thấy người này, ngồi bên một cô gái sắc nước hương trời. Chàng đoán đây là những người trong họ nhà gái nên không chú ý mấy. Nay được thiếu niên chỉ điểm, đúng là thứ võ công chàng đã học một cách thành thạo, chàng vội đến trước thiếu niên bái tạ:
          – Không ngờ được cao nhân chỉ dạy, Hùng Bảo thành tâm đa tạ.
          Chàng đưa mắt nhìn Trần Năng dò hỏi vai vế Đào Kỳ. Nhưng Trần Năng cũng lắc đầu không biết. Người quản gia họ Trần điều khiển đám gia nhân khiêng đồ sính lễ ban nãy vội chạy ra nói:
          – Đây là hai vị miền xuôi mới lên Mê-linh thăm quê ngoại. Ban nãy tiểu nhân gặp trên đường đi, khẩn khoản mời vào uống rượu mừng ngày vui của tiểu chủ.
          Trần Hậu nói với Đinh lão nhị:
          – Đinh lão tiên sinh! Mong tiên sinh giữ lời hứa, rời khỏi nơi đây.
          Đinh lão nhị chỉ mặt Trần Hậu:
          – Không bao giờ tao quên cái hận này!
          Nói dứt lời, y vẫy tay ra hiệu, rồi cả bọn kéo nhau đi.
          Trần Hậu chạy đến bên Đào Kỳ, Phương Dung nói:
          – Cao nhân giá lâm tệ trang mà tôi không biết để tiếp đón, thực đáng tội.
          Sau đó ông chủ hôn tiếp tục cho làm lễ. Lễ tất, hai họ ngồi quây quần ăn uống. Đào Kỳ, Phương Dung được mời ngồi cùng bàn với Hùng Bảo và Trần Năng. Người nhà gái đi rót rượu mời khách. Đào Kỳ chưa từng uống rượu bao giờ, nên lễ phép từ chối.
          Hùng Bảo hỏi chàng:
          – Nhân huynh! Dường như nhân huynh với tiểu đệ cùng một môn hộ, chẳng hay nhân huynh có thể cho biết cao danh quý tính không? Sư thừa là ai?
          Đào Kỳ cười:
          – Tiểu đệ cũng đang muốn hỏi nhân huynh câu đó.
          Hùng Bảo nói:
          – Nhân huynh là ân nhân của tiểu đệ, đáng lẽ tiểu đệ không được dấu diếm điều gì mới phải. Nhưng ân sư cấm tiểu đệ nói tên người ra.
          Đào Kỳ thấy Hùng Bảo trẻ tuổi, dáng người uy nghi, lại là đồng môn, nên chàng nói thực:
          – Tiểu đệ họ Đào.
          Hùng Bảo la lớn lên:
          – Chẳng hay Đào huynh với Cửu-chân song kiệt là thế nào?
          Đào Kỳ đáp:
          – Tiểu đệ là con út của Cửu-chân nhất hiệp.
          Hùng Bảo vội rời ghế đứng dậy, thụp xuống đất lạy bốn lạy:
          – Đệ tử là Hùng Bảo kính cẩn ra mắt Tiểu sư thúc.
          Hồng Bảo nói câu Tiểu sư thúc làm Đào Kỳ tỉnh ngộ. Chàng đỡ Hùng Bảo dậy, và suy nghĩ:
          – Nếu vậy, Hùng Bảo là đệ tử của sư huynh, sư tỷ ta đây. Nhị sư huynh hiện ở Hoa-lư, đại sư huynh thì theo bố ta mất tích đã lâu. Người này mới học võ công Cửu-chân thì là đệ tử của tam sư tỷ. Chắc tam sư tỷ ẩn náu không muốn ra mặt, nên đã cấm chàng khai rõ sư thừa. Ta đợi sau bữa tiệc sẽ hỏi xem sư tỷ Hoàng Thiều Hoa hiện ở đâu. Ta nhớ chị muốn chết, tìm chị khắp nơi, không ngờ chị lại ẩn ở đâu đây.
          Chàng liếc nhìn chiếc khăn vàng của cô dâu rồi mỉm cười.
          Hùng Bảo hỏi:
          – Chắc sư thúc đã đoán ra sư phụ của đệ tử rồi?
          Đào Kỳ cười, gật đầu.
          Hùng Bảo nói tiếp:
          – Sư phụ thường nhắc đến tiểu sư thúc luôn. Người nhớ tiểu sư thúc lắm. Ước mong sau lễ cưới này, đệ tử sẽ đưa tiểu sư thúc đến tương kiến với sư phụ của đệ tử.
          Đào Kỳ hỏi:
          – Câu chuyện ra sao mà lão Đinh lại đến đây gây sự như vậy? Trần Hậu nói:
          – Nguyên phía nam sông Mê-linh có ba mươi sáu động tất cả. Các động chủ mỗi động tự cai trị lấy người của mình. Mấy chục năm trước đây, vì các động lẻ tẻ, không hợp quần với nhau, nên bị những Lạc-hầu chung quanh lấn áp. Cho nên ba mươi sáu động phải liên kết lại, bầu lấy một người thống lĩnh. Đinh Công Dũng là một trong các động chúa được đề cử thống lĩnh ba mươi sáu động. Từ đấy, uy thế của hắn ngày một cao, y tụ tập bọn vô lại, tổ chức thành đội ngũ, đi cướp của, giết người. Các động chủ không ai chống nổi hắn. Gần đây, hắn có ý định hợp nhất ba mươi sáu động thành động Mê-linh. Các động chủ khiếp uy hắn nên đều tuân theo, chỉ có tôi với động chủ Thượng-hồng là thông gia với tôi, thêm vào mấy trang động nữa, dám chống lại mà thôi. Đinh Công Dũng đã có chín vợ, y muốn hỏi cháu Năng tôi về làm vợ thứ mười, nhưng tôi không thuận. Hắn bèn cho em là Đinh Công Hùng đến định bắt cóc cháu Năng giữa ngày cưới.
          Phương Dung cười:
          – Lão tưởng rằng với em lão, thêm một bầy đầu trâu mặt ngựa, sẽ bắt được Trần cô nương. Không ngờ bị đánh chạy dài. Tôi xem chừng chúng nó chưa chịu thôi ngay đâu.
          Ông Hùng Trọng không biết con mình học võ và học với ai, và học bao giờ? Bất ngờ trong tiệc cưới, thấy con ra chiêu đánh với Đinh Công Hùng, ông mới biết con mình võ công thuộc loại cao. Ông không biết võ, nhưng thấy con mình được một người lạ mặt nhắc có hai câu, đã đánh cho Đinh Công Hùng, một động chủ, đến phun máu miệng, thì ông biết bản lĩnh Đào Kỳ không tầm thường.
          Sau bữa tiệc, đến lễ rước dâu. Đi đầu có ba người. Đi giữa là ông chủ hôn, bên trái là ông cầm bó đuốc, bên phải là ông cầm bó hương. Đi sau là cô dâu chú rể và họ nhà trai. Họ nhà gái cũng có một số người đi đưa dâu, nhưng bố mẹ cô dâu thì không đi tiễn con.
          Cô dâu Trần Năng là người học võ, tính tinh nghịch, không biết e thẹn. Nàng hỏi Đào Kỳ:
          – Sư thúc, cô nương đi bên cạnh là sư thẩm, phải không?
          Phương Dung ngượng quá, không biết trả lời sao.
          Đào Kỳ vội nói:
          – Không phải đâu.
          Trần Năng hỏi tiếp:
          – Thế cô là họ hàng hay sư muội của sư thúc?
          Đào Kỳ quýnh quá lắc đầu. Trần Năng cười, truy đến cùng:
          – À, thế thì chắc là đệ tử của sư thúc hẳn?
          Đào Kỳ cũng lắc đầu. Phương Dung than thầm:
          – Cái cô dâu này thực lý lắc. Kệ người ta có được không? Hỏi hoài!
          Trần Năng đã đoán biết trăm phần trăm rằng đây là cô bạn của sư thúc chồng mình, nhưng vì thấy họ ngang tuổi, nên đùa cho vui:
          – Vậy thì cô là ... gì gì của sư thúc hẳn?
          Phương Dung ngượng quá, đưa tay ngắt Trần Năng một cái. Trần Năng giả bộ la lên:
          – Trời ơi! Gì gì ngắt tôi này!
          Đám cưới đi một quãng lại đốt pháo. Đến trưa thì tới trang Thượng-hồng. Cổng trang treo đèn kết hoa rất đẹp. Bà mẹ chú rể ra trước cổng trang đón dâu.
          Tục lệ hồi đó khi cưới vợ cho con, rước dâu đến cổng, bà mẹ sẽ ra cầm tay dắt vào nhà, tỏ ý nhận làm con trong nhà. Cô dâu phải bước qua một cái lò nhỏ đốt than ở sân. Người thời đó tin rằng đốt cháy hết những lời nguyền rủa ác độc của kẻ thù đối với cô dâu, chú rể. Họ nhà trai đối với Đào Kỳ cực kỳ cung kính, mời chàng với Phương Dung vào bàn nhất với những người vai chú bác Hùng Bảo. Trong tiệc, Đào Kỳ toàn nói về chuyện phục quốc. Những người cùng bàn với chàng tuổi đều từ bốn mươi trở lên. Họ là những người có kiến thức, đều uất hận vì bị người Hán cai trị khinh bạc. Nghe Đào Kỳ, Phương Dung bàn luận về chuyện phục quốc đâu ra đấy, thì biết rằng hai người này không những chỉ giỏi võ, mà kiến thức lại khá rộng. Một vị lão thành hỏi:
          – Nghe Đào công tử bàn việc đuổi giặc Hán, chúng tôi thấy ngày sáng tươi sẽ đến. Nhưng có điều, người Hán đông hơn ta gấp trăm lần. Nếu Hán đế quyết tâm kéo quân sang đánh nữa, chúng ta làm sao chống lại? Đó là điều lão muốn thỉnh ý kiến công tử.
          Đào Kỳ nói:
          – Đời nhà Chu, tổ tiên chúng ta sai sứ sang cống chim trĩ và con rùa. Trên con rùa có khắc rõ lịch số của ta. Vua nhà Chu sai chép lấy mà học. Tổ tiên ta đâu có hèn? Cống rùa, trĩ để mua lấy an toàn cho đất nước. Cống rùa, có khắc lịch để cho vua tôi nhà Chu biết mình văn minh hơn họ. Lại trải qua đời An-Dương vương của Âu-lạc cũng sai Lý Thân dẫn một đoàn võ sĩ sang cống Tần Thủy Hoàng cũng để cho Thủy-Hoàng khỏi gây việc binh đao. Nhưng Lý Thân hiển dương võ thuật, khiến cho vua Tần khâm phục, phong làm tướng đánh Hung-nô. Sau khi Vạn-tín hầu Lý Thân qua đời, Thủy-Hoàng sai Đồ Thư mang nửa triệu quân sang đánh Âu-lạc. Âu-lạc giết Đồ Thư, đánh tan quân Tần. Chính quan Thái-sử lệnh nhà Hán là Tư Mã Thiên đã kể về cuộc đánh nhau giữa Âu-lạc với quân Tần trong bộ sách mang tên Sử-ký của ông, quyển 112 rằng :
          "Lúc bấy giờ vua tôi nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với rợ Hồ, ở phía Nam thì mắc ách với người Việt. Quân Tần đóng binh ở chỗ đất hoang phế vô dụng, tiến không nổi mà thoái cũng không an. Trên mười năm đàn ông phải mặc giáp, đàn bà phải khuân vác, khổ sở cùng cực, người ta thắt cổ tự tử trên cây dọc đường, người ta trông nhau mà chết".
          Cho đến khi Triệu Đà dùng gian kế chiếm Âu-lạc lập ra nước Nam Việt, thì bề trong là một nước nhưng bề ngoài, vẫn phải chịu thần phục để được an toàn. Tới đời Triệu Kiến Đức thế nước suy vi mới bị Vũ Đế nhà Hán sai bọn Lộ Bác Đức, Dương Bộc mang quân sang đánh. Từ đó đến nay chúng ta bị người Hán cai trị. Vậy đối với người Hán, ta phải mạnh để họ không thể đánh chiếm nước mình, nhưng vẫn phải có ngoại giao để được an thân. Vì vậy, thái độ đối với người Hán là: Anh đánh tôi, tôi chống lại, dân tôi yêu nước, đất tôi hiểm trở, tôi không sợ anh. Còn anh tử tế, tôi vẫn chịu ở vai dưới, thần phục anh. Như vậy, sau khi đuổi được bọn Hán rồi, chúng ta chẳng ngại gì mà không mất một lễ, cử người sang sứ với một tờ thư với lời lẽ nhún nhường mà được toàn vẹn quốc gia.
          Những người ngồi cùng bàn với Đào Kỳ đều gật đầu khen phải. Họ suy nghĩ:
          – Thiếu niên này không hiểu người gốc ra sao. Tuổi tác chỉ ngang với Hùng Bảo là cùng, nhưng lại là vai sư thúc của Hùng Bảo, võ công của chàng phải cao lắm, nên chỉ nói có hai câu mà Hùng Bảo đã đánh cho Đinh Công Hùng đến phun máu miệng. Rồi lại luận về tình thế đất nước không chỗ nào mà không hợp tình, hợp lý.
          Tiệc tàn, hai họ lục tục ra về. Hùng Trọng đến trước bàn Đào Kỳ, chắp tay nói:
          – Chẳng mấy khi Đào công tử và Nguyễn cô nương giá lâm tệ trang, xin lưu lại ít hôm để chúng tôi được nghe lời dạy bảo.
          Đào Kỳ liếc nhìn Phương Dung hỏi ý kiến, Phương Dung nói:
          – Anh em chúng tôi cũng không có việc gì gấp. Lạc-hầu đã có lòng quý mến, vậy chúng tôi xin được quấy quả ít ngày.
          Hùng Bảo, Trần Năng lại ngồi cùng bàn với Đào Kỳ, Phương Dung. Đào Kỳ hỏi Trần Năng:
          – Hùng phu nhân! Hồi sáng tôi thấy phu nhân sử dụng võ công Tản-viên rất đúng phép. Nhưng lại thiếu kinh nghiệm giao đấu. Đáng lẽ với bản lãnh phu nhân, chỉ mấy chiêu đã hạ được Đinh Công Hùng. Nhiều khi phu nhân đắc thế rồi mà không biết lợi dụng lúc địch thủ thất thế, đánh vào chỗ sơ hở, thì căn bản của hắn sẽ tự tuyệt. Cho nên khi Đinh lão rõ ràng nguy cơ, lại hồi phục được căn bản để phản công. Lại nữa, phu nhân là gái, dùng dương chưởng vốn dĩ dễ bị tiêu hao công lực, đấu với kể địch có gần bốn mươi năm luyện tập, công lực thâm hậu. Phu nhân không biết lợi dụng cái sở trường của mình đánh liên tiếp như sóng vỗ, để hạ địch nhân trong giây lát. Thành ra trận đấu kéo dài, công lực phu nhân cạn dần, địch nhân mới thắng phu nhân.
          Trần Năng như người mù được mở mắt:
          – Sư thúc thực là cao nhân, cháu nghe mấy lời của sư thúc mà như được học thêm mấy năm nữa.
          Đào Kỳ nói:
          – Võ công của phu nhân là võ công phái Tản-viên. Nguyên tắc của phái này là từ chiêu này đến chiêu kia phải liên tục như những đợt sóng. Chiêu này chấm dứt, chiêu khác đã dồn dập tiếp theo, địch nhân biết đâu mà tránh? Bây giờ phu nhân coi đây.
          Đào Kỳ giả làm Trần Năng, Phương Dung giả làm Đinh Công Hùng. Đào Kỳ với Phương Dung diễn lại từ đầu tới chiêu thứ ba mươi tám thì Trần Năng bị bại. Rồi ngưng lại hỏi:
          – Có phải như vậy không?
          Trần Năng gật đầu:
          – Đúng không sai tý nào cả.
          Đào Kỳ bảo Phương Dung diễn lại. Chàng đánh chiêu đầu, Phương Dung đỡ thì chàng đã chuyển tay nối liền hai chiêu làm một đánh chiêu thứ nhì rồi thứ ba. Đến đó thì Phương Dung chỉ có lùi. Đào Kỳ vung chưởng đánh bùng một cái, Phương Dung mượn đà nhảy bắn ra xa, coi như cuộc đấu chấm dứt.
          Chàng hỏi Trần Năng:
          – Phu nhân hiểu hết chứ?
          Trần Năng chấp tay thưa:
          – Sư thúc là thần nhân. Nếu cháu được chỉ điểm trước thì chỉ ba chiêu đã hạ được lão Đinh. Cháu gặp sư phụ trong một trường hợp kỳ ngộ, rồi được sư phụ truyền dạy võ nghệ. Người không cho cháu biết tên, cũng không nói rõ môn hộ và dặn rằng giữa hai người chỉ có duyên hội ngộ, mà không có tình thày trò. Người dạy cháu tất cả ba mươi sáu buổi, rồi sau không gặp nữa. Từ ngày cháu học đến giờ, chưa từng đấu với ai, nên không có kinh nghiệm.
          Phương Dung hỏi:
          – Phu nhân gặp sư phụ trong trường hợp nào?
          Trần Năng nói:
          – Cách đây bốn năm, cháu cùng bố cháu đi săn, một buổi sáng, gặp con gấu đang lội dưới nước. Cháu dùng tên bắn chết con gấu thì từ trên bờ một sợi giây cũng quăng xuống chụp cổ nó. Người quăng giây giật một cái, con gấu bay vọt lên.
          Người chụp gấu hỏi:
          – Ai bắn gấu của ta?
          Cháu trả lời:
          – Ta bắn được gấu, sao ngươi bắt của ta?
          Cháu vừa dứt lời , bỗng có một người xuất hiện. Đó là một cụ già đầu tóc bạc phơ, nhưng mặt đẹp như ngọc. Vẻ người tiên phong đạo cốt, trông như một tiên ông.
          Ông cụ nói:
          – Rõ ràng tôi chụp giây trúng đầu gấu trước, như vậy là gấu của tôi chứ đâu phải của cô nương.
          Cháu cãi:
          – Thể lệ săn bắn là ai bắn được thú thì của người đó. Cụ thử nhìn coi, mũi tên ở cổ gấu là mũi tên của cháu chứ đâu phải của cụ? Tên của cháu trúng gấu trước, giây của cụ tới sau. Vậy gấu thuộc về cháu.
          Ông cụ gật đầu:
          – Cô nói có lý. Tôi công nhận gấu của cô, nhưng tôi cần mật gấu cứu người. Nếu cô cho tôi cái mật thì tôi cảm tạ vô cùng.
          Cháu thấy ông cụ nói năng ôn tồn, càng đùa:
          – Nếu cụ muốn được mật gấu thì kêu ba tiếng: Chị cả, chị cả, chị cả, cháu sẽ biếu cụ.
          Người đó cười nói:
          – Tuổi cô chỉ đáng tuổi cháu nội tôi, mà tôi kêu là chị cả thì có tổn thọ không? Cô đẹp như thế mà chết non uổng lắm. Thôi, vậy tôi kêu cô ba tiếng: cháu nội, cháu nội, cháu nội để cho cô sống lâu, rồi cô cho tôi cái mật gấu.
          Bố cháu thấy cháu đùa vô lễ, vội chắp tay hành lễ với lão bá đó, nói:
          – Cụ bảo cần mật gấu cứu người, vậy cụ là thày thuốc? Tôi xin tặng cụ cả con gấu này đấy.
          Đến đây, cháu không dám đùa nữa, nói:
          – Lão bá, cháu đùa mấy câu mong lão bá thứ tội. Nếu lão bá cần mật gấu cứu người, cháu xin tặng thêm ít cái. Ở nhà cháu có nhiều mật gấu phơi khô, lão bá cần thêm, xin quá bộ về nhà cháu. Cháu sẽ biếu lão bá chục cái nữa để lão bá cứu người.
          Ông cụ gật đầu, đi theo bọn cháu. Về tới nhà, cháu bưng ra một bao trên mười cái mật gấu biếu ông cụ. Ông cụ cảm động lắm, bảo cháu:
          – Cô cho ta nhiều như thế này, ta có công trạng gì đâu mà dám nhận? Vậy cô muốn ta trả ơn gì thì cứ nói.
          Tính cháu ưa nói đùa nên bèn trêu ông cụ:
          – Hồi nãy lão bá quăng giây bắt được gấu. Vậy, lão bá dạy cháu được không?
          Ông cụ gật đầu bảo cháu:
          – Mỗi buổi trăng tròn ta sẽ đến chỗ săn gấu hôm nay gặp cô, dạy cô ném giây. Nhưng cô nhớ rằng không được tiết lộ với ai, dù rằng với cha mẹ hay anh chị.
          Cháu bằng lòng. Hôm sau cháu tới nơi, ông cụ bắt đầu dạy cháu ngồi, nằm ngủ, thở hít. Ông cụ bảo muốn tập ném giây phải học những thứ đó trước rồi mới có sức mạnh để ném. Cháu học được một tháng đã có thể ném tiêu giết chim. Cho đến một hôm, khi ông cụ đang dạy cháu, bỗng có người Hán cưỡi ngựa đi tới. Người này trông thấy ông cụ là phóng chưởng đánh liền. Ông cụ cũng phản công. Đánh được ít hiệp, người Hán có vẻ yếu thế. Y nhảy lùi lại, chắp tay nói:
          – Tiểu bối chịu thua, không địch nổi tiền bối.
          Ông cụ nói:
          –Thế thì ngươi phải giữ lời hứa.
          Người Hán nói:
          – Tôi xin thề có trời đất, nguyện thi hành lời hứa.
          Ông cụ bảo người Hán:
          – Thôi, ngươi đi đi.
          Người Hán hú lên một tiếng, thấp thoáng thân hình một cái đã biến mất.
          Ông cụ bảo cháu:
          – Này con bé cứng đầu! Chuyện hôm nay, cô không được tiết lộ với bất cứ ai. Nếu cô không giữ lời hứa, ta sẽ đập chết.
          Nói rồi, ông cụ đến bên một thân cây vung chưởng đánh một cái. Thân cây to bằng bắp đùi kêu đến ầm một tiếng, rồi từ từ đổ xuống. Cháu thấy ông cụ hiển thân võ nghệ tuyệt vời, bèn suy nghĩ:
          – Thì ra ông cụ này võ công cao không biết đâu mà lường. Thế mà hôm trước ông không ra sức cướp con gấu của mình, còn năn nỉ xin. Như vậy, ông là người hiền lành. Ta phải trêu ông cụ mới được.
          Nghĩ rồi, cháu bèn cười nói:
          – Võ công lão bá trên đời khó có hai. Nhưng không lẽ lão bá dùng võ công ăn hiếp con nít? Lão bá bảo cháu phải giữ lời hứa, không được nói chuyện này với ai ư? Cháu có hứa bao giờ đâu? Nội chiều nay cháu sẽ ra chợ nói với mọi người: Có một ông lão đầu râu tóc bạc, trông như một vị tiên ông, đấu với một quan nhân người Hán. Vị quan nhân người Hán thua, vị lão bá bắt người quan nhân phải hứa làm cho lão bá những điều như thế, như thế. Nếu lão bá cho rằng chưa đủ, cháu sẽ kêu hết tráng đinh, tỳ nữ nhà cháu, dân chúng ra chợ, gặp ai cũng nói như thế.
          Lão bá tức quá, vặt đầu vặt cổ rồi nói:
          – Cô thực là người cứng đầu cứng cổ số một trên thế gian này mà ta gặp. Giá cô họ Trần thì đúng hơn, vì người ta thường nói: Trần thị Bà chằng...
          Cháu cười khúc khích:
          – Lão bá ơi! Cháu họ Trần đấy. Lão bá nên gọi cháu là Trần thị Bà chằng lửa thì đúng hơn.
          Ông cụ vò đầu, bứt tóc:
          – Vậy cô muốn ta phải làm gì, cô mới giữ những điều bí mật hôm nay?
          Cháu nói:
          – Xin lão bá dạy võ cho cháu.
          Ông cụ lắc đầu quầy quậy:
          – Ta không dạy cô, ta không dạy cô. Ta không muốn thu đệ tử.
          Cháu thấy ông cụ bực mình, càng trêu:
          – Thôi được, cháu ra chợ đây. Cháu sẽ nói hết những điều cháu nhìn thấy hôm nay.
          Nói rồi cháu chạy một mạch. Ra tới đường đã thấy ông cụ đứng đó tự bao giờ. Ông cụ bảo cháu:
          – Con nhỏ cứng đầu! Rồi, ta chịu dạy võ cho mi, nhưng ta không thu nhận ngươi làm đệ tử đâu.
          Kể từ hôm đó, ông cụ dạy võ cho cháu. Cho đến ngày gần đây, một hôm sau khi dạy võ xong, ông cụ nói với cháu:
          – Ta có việc phải vắng mặt một thời gian. Vậy, mi trở về cứ tiếp tục luyện tập. Khi việc kết liễu, ta sẽ trở lại dậy mi sau.
          Đào Kỳ hỏi:
          – Trong thời gian đó, ông cụ có hành vi gì khác lạ không?
          Trần Năng đáp:
          – Ông cụ thường cùng cháu đi hái thuốc. Có một lần cháu bị cảm, lên cơn sốt mê mệt, nhưng vẫn giữ lời hứa, đến điểm hẹn để học võ với ông cụ. Ông cụ bảo cháu nằm xuống bụi cỏ, cầm tay chẩn mạch và nói:
          – Bệnh phong hàn đấy thôi, không có gì đáng lo đâu.
          Rồi ông cụ dặn cháu:
          – Bệnh này không chữa ngay, sẽ bị mắc chứng nghẹt mũi, ho, lâu khỏi lắm, không khéo sẽ chết. Đây, ta cho mi gói thuốc này, về sắc lên với ba bát nước, khi còn một bát thì uống. Uống xong, mi đắp chăn nằm ngủ, mồ hôi sẽ xuất ra, ngày mai hết bệnh.
          Cháu trở về làm y như vậy. Quả nhiên bệnh khỏi. Từ đó về sau, hễ cháu thấy ai bị cảm, vừa sốt, vừa lạnh, cháu cho uống thuốc như ông cụ cho cháu, đều khỏi hết. Lần sau gặp ông cụ, cháu kể cho ông cụ nghe. Ông cụ tát yêu cháu rồi nói:
          – Con bé này thông minh đáo để. Chỉ học sơ mà biết làm thầy lang rồi. Kể ra mi cũng mát tay đấy, thôi ta dạy mi cách chữa cảm đây.
          Cháu thích quá. Ngồi nghiêm chỉnh nghe. Ông cụ giảng:
          – Bệnh cảm có hai loại. Một là phong hàn, hai là phong nhiệt. Phong là dương tà, gốc của trăm bệnh. Hàn là âm tà, tính nó ngưng đọng lại. Khi phong với hàn nhập vào cơ thể, làm da bị bế tắc, chân khí không thoát ra được, vì vậy nên bị sốt. Ngặt vì hàn nó ở ngoài da, nên sốt mà vẫn cảm thấy rét. Dù trùm chăn vẫn thấy rét như thường. Trong y học gọi là ác hàn. Muốn trị phong hàn phải dùng vị thuốc có tính chất chạy từ trong ra ngoài, lại nóng nữa, mới đánh tan được hàn. Vì vậy, dùng gừng tươi, tính của nó cay lại nóng, làm cho hàn tan ra. Thêm vào đó là quế chi, tính của nó làm cho dương khí chạy đều, cùng chạy ra ngoài, mà làm tan hàn. Lại thêm ma hoàng, tính phát mồ hôi rất mạnh. Ba vị này giải được phong hàn.
          Cháu hỏi:
          – Thế còn cam thảo?
          – Cam thảo không phải là thuốc trị bệnh, mà nó chỉ làm cho vị thuốc dẫn vào cơ thể mau mà thôi. Còn một loại nữa là phong nhiệt. Bệnh nhân thấy sốt, mà miệng khô, cổ họng khô. Bệnh do phong và nhiệt, vậy phải dùng những dược vật gì để cho chạy ngoài, nhưng hạ nhiệt. Ma hoàng, cam thảo vẫn dùng, nhưng thêm lá tre với thạch cao, là hai vị thuốc làm giải nhiệt.
          Từ đấy, cháu cho tỳ nữ hái thuốc để sẵn. Gặp người cảm mạo, cháu chỉ việc phân ra phong hàn hay phong nhiệt, đều chữa khỏi hết. Vì vậy, tiếng tăm cháu lan rộng. Một lần khác, cháu hỏi ông cụ:
          – Có cách nào không uống thuốc mà hết bệnh không? Như ăn mà hết bệnh chẳng hạn?
          Ông cụ gõ tay vào đầu cháu nói:
          – Con bé láu cá, để ta dạy cho. Mi lấy một bó hành lá tươi, cắt nhỏ, cho vào nồi nấu cháo cật lợn (heo), ăn rồi đắp chăn ngủ cũng ra mồ hôi, khỏi bệnh. Nhưng, hôm sau trở về, cháu làm y như lời ông chữa cho người nhà, bệnh không khỏi. Cháu phải đổi cách điều trị, cho họ uống thuốc. Lần sau gặp ông cụ, cháu bắt đền. Cụ cười khúc khích, bảo cháu:
          – Tại mi làm sai lời ta dạy. Trước hết, mi phải nấu cháo cho nhừ, lúc sắp ăn mới cho hành với cật lợn vào đảo cho chín tái đi mà ăn. Trái lại, mi lại cho hành vào nấu nhừ với cháo, bệnh nhân không xuống Diêm vương là may rồi. Thường, bệnh nhẹ ăn như vậy cũng khỏi. Còn muốn ăn chắc phải cho uống thuốc, rồi ăn thêm cháo. Còn phương pháp thứ ba là xông. Xông thì dùng như thế này: Phong hàn gồm gừng tươi, ma hoàng, quế chi, tiá tô, kinh giới, nghệ, hương nhu. Phong nhiệt gồm bạc hà, lá tre, hoa cúc, bèo, sài hồ, thăng ma. Cho vào nồi đậy kín bằng lá khoai hoặc bằng vung, đun sôi, rồi cho người bệnh ngồi trên giường, trùm chăn kín, sau đó mở vung ra. Hơi nóng, đưa hơi thuốc lên người, làm mất phong đi, làm giải nhiệt hoặc tan hàn là bệnh khỏi.
          Phương Dung hỏi:
          – Hùng phu nhân, ông cụ rời phu nhân lần chót cách đây mấy tháng rồi?
          Trần Năng nói:
          – Khoảng nửa năm. Sư thúc, thì ra ông cụ đó người phái Tản-viên?
          Đào Kỳ xuất hồn, mơ màng nghĩ đến một chuyện xa xôi: Hôm đó, trong lao xá Thái-hà trang, chàng tiếp xúc với Đặng Thi Kế. Ông nói, ông còn một vị sư thúc nữa, võ công tuyệt cao, bỏ xa hẳn Lê Đạo Sinh, tên là Trần Đại Sinh. Võ công cực cao, nhưng vị sư thúc này trốn vào chốn sơn lâm thủy tận để nghiên cứu y học cứu đời, không biết nay ở đâu. Ông dặn Đào Kỳ nếu gặp vị sư thúc này, mới có thể thắng Lê Đạo Sinh để cứu phái Tản-viên khỏi tai kiếp.
          Phương Dung hỏi:
          – Hùng phu nhân, những điều mà viên quan người Hán hứa với ông cụ, phu nhân đã nói với ai chưa?
          Trần Năng nói:
          – Tuy ông cụ với cháu chỉ gặp nhau ít ngày, mà tính ông cụ thực đầm ấm. Ông cụ với cháu tình như cha con. Dù cháu không hứa với ông cụ, dù ông cụ không dạy võ cho cháu, cháu cũng không nói những điều ấy với ai.
          Đào Kỳ khen:
          – Phu nhân là nữ lưu mà tính tình khảng khái hơn trượng phu.
          Chợt nhớ ra điều gì, Phương Dung nói:
          – Thôi, xin cho chúng tôi tiêu dao tự tại, Hùng thiếu hầu, Hùng phu nhân cứ tự nhiên.
          Nàng nói câu này, Hùng Bảo, Trần Năng và chính nàng cũng đỏ mặt lên đầy vẻ ngượng ngùng. Vì hôm nay là ngày cưới, việc động phòng hoa chúc là việc mà trai gái chờ đợi bấy lâu nay. Phương Dung là người tinh tế, nàng giúp cho cô dâu chú rể được tự do, nhưng chính nàng lại ngượng đến đỏ mặt lên.
          Đào Kỳ cùng Phương Dung theo Hùng Trọng ra bờ sông ngắm cảnh hoàng hôn.
          Hùng Trọng nói với Đào Kỳ:
          – Tổ tiên tôi lập ấp ở đây đã mấy mươi đời. Đời nào cũng lấy điền ấp làm thú vui. Trước kia, tổ tiên tôi có tập võ. Đến đời tiên phụ, bị người Hán bắt giết lúc còn trẻ, tôi mồ côi cha, không ai dạy dỗ. Vì vậy, tưởng không bao giờ cất đầu lên nổi. Trang chúng tôi tuy lớn, thường bị những trang ấp khác lấn át. Không ngờ thằng con tôi lại được học võ của phái Cửu-chân. Nếu không có Đinh Công Hùng khuấy phá, chúng tôi cũng không biết cháu đã học võ nghệ. Đào thiếu hiệp, võ công của con tôi như vậy đã có thể gọi là khá chưa?
          Đào Kỳ nói:
          – Giỏi thì chưa thể nói rằng giỏi. Nhưng Bảo mới học, chưa có nhiều thời giờ luyện tập nên chưa thành thạo đó thôi. Sư phụ của của Hùng Bảo là người bề trên của tôi, để tôi xin phép người rồi sẽ truyền dạy thêm cho nó. Tuy không vô địch thiên hạ, nhưng trong vùng này sẽ không ai sánh kịp.
          Hùng Trọng hỏi:
          – Đào công tử đã biết sư phụ của Bảo là ai rồi à? Tôi là bố mà lại không biết ân nhân của gia đình mình, thực vô dụng.
          Đào Kỳ nói:
          – Người bề trên của tôi khi truyền dạy võ cho Bảo, chắc có nỗi khổ tâm gì nên dấu diếm đó thôi. Tôi không dám quyết là ai, nhưng khi Bảo nghe tên tôi, biết là tiểu sư thúc, tôi biết ngay, trong khi truyền thụ võ nghệ cho Bảo, sư phụ Bảo có đề cập đến tôi. Vì vậy, khi tôi xưng tên, Bảo biết liền.
          Hùng Trọng nói:
          – Trang Thượng-hồng của chúng tôi trải đã mấy chục đời, lúc nào cũng tự tại. Gần đây, chúng tôi bị Đinh Công Dũng uy hiếp, muốn thống nhất ba mươi sáu trang, động thành một châu, dưới sự quản trị của hắn. Tôi với Trần hầu can đảm chống lại, ngặt vì chúng tôi không biết võ. Hôm nay thấy Bảo và Năng có võ công, lại bái được minh sư làm thầy, chúng tôi yên tâm hơn. Hà... chỉ còn mấy hôm nữa là đại hội Mê-linh bàn về việc thống nhất các động, tôi và Trần hầu sẽ chống lại đến cùng.
          Phương Dung hỏi:
          – Trong đám thủ hạ của Đinh Công Dũng có những tay nào lợi hại không?
          Hùng Trọng đáp:
          – Đinh Công Dũng là một đại tôn sư võ học cao nhất vùng này. Tương truyền y đấu ngang tay với Đặng Thi Kế, chưởng môn phái Tản-viên. Y có ba anh em được đời tôn là Lôi-sơn tam hùng. Y đứng đầu, thứ đến Đinh Công Hùng, người mà thiếp hiệp đã gặp. Người này võ công tầm thường nhưng văn hay chữ tốt, nhiều mưu lắm mẹo. Người thứ ba là Đinh Công Thấng, võ công còn cao hơn Đinh Công Dũng nữa. Ba anh em làm chủ ba trang động. Ngoài ra, Công Dũng còn có hai người con. Người con trai tên Đinh Công Minh, theo học võ với một đại tôn sư vùng Quế-lâm từ nhỏ, mới trở về. Nghe nói võ công y dường như không kém gì cha, chú. Người con gái là Đinh Hồng Thanh nhan sắc mặn mà, võ công cũng cao. Ngoài ra, thủ hạ của ba trang họ Đinh cộng lại cũng đến gần vạn người.
          Phương Dung im lặng suy nghĩ, không nói gì.
          Sáng hôm sau, Phương Dung vừa dậy, tỳ nữ đã đưa một phong thư cho nàng:
          – Thưa cô nương, có người nhờ đưa cho cô nương phong thư này.
          Phương Dung mở ra coi, nàng ngẩn người ra rồi hỏi tỳ nữ:
          – Ai gửi cho tôi thế này?
          Tỳ nữ thưa:
          – Sáng nay có người cỡi ngựa đến trước trang nói rằng đưa thư này cho vị cô nương khách quý của trang. Rồi họ đi ngay.
          Phương Dung định đi kiếm Đào Kỳ, thì chủ nhân trang là Hùng Trọng đã sai người mời nàng ra phòng khách tương kiến. Nàng tới nơi, đã thấy Đào Kỳ cũng đang ngẩn người ra trước một phong thơ. Nàng hỏi Đào Kỳ:
          – Đại ca, tại sao thơ đều không có một chữ gì? Ai trêu mình đây?
          Đào Kỳ cầm thơ của Phương Dung lên coi, thư cũng không có chữ như thư của chàng.
          Hùng Bảo nói:
          – Cháu nghĩ rằng sư thúc với Nguyễn cô nương đến trang đây, chỉ có hai họ và đám Đinh Công Dũng biết mà thôi. Vậy thư này chắc do bọn Đinh Công Dũng trêu ghẹo bọn mình.
          Đào Kỳ cầm phong thư soi lên ánh sáng, nhưng tuyệt không thấy một chữ gì. Thoáng thấy mùi thơm bốc lên, chàng đưa giấy vào mũi ngửi, thấy mùi thơm rất nặng. Chàng cầm phong thơ kia lên coi, thì lại là mùi thơm khác. Chàng đặt thơ xuống, suy nghĩ:
          – Hai bức thơ có hai mùi vị khác nhau, thế thì kỳ lạ thực. Họ định làm gì đây?
          Bỗng chàng cảm thấy mũi như bị nghẹt dần. Miệng đắng, mắt hoa, đầu óc quay cuồng. Chàng chợt tỉnh ngộ, la lớn:
          – Thư có chất độc. Cấm không ai được đụng vào.
          Nói rồi, chàng vội ngồi ngay ngắn vận công chống độc. Nhưng đầu óc càng hoang mang, rồi ngã lăn xuống.
          Hùng Trọng, Phương Dung la lớn lên, lay gọi. Đào Kỳ chỉ gật đầu tỏ vẻ hiểu, nhưng chân tay cử động gần như không được nữa.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #20
            Hồi 19 - Ưu tùng trung lai, Bất khả đoạn tuyệt.

            Ưu tùng trung lai,
            Bất khả đoạn tuyệt.
            (Tào Tháo)
            Chú giải: Câu thơ trên trích trong bài "Uống rượu dưới trăng sáng trên sông Trường giang" của Tào Tháo. Tào Tháo là nhân vật lịch sử Trung-quốc. Ông cũng là một thi hào thời Kiến-an. Câu trên nghĩa là: Mối lo lắng trong lòng mà ra, không sao dập tắt đi được.
            Hùng Bảo, Trần Năng nghe tiếng kêu thất thanh vội từ trong nhà chạy ra, nhưng đều ngơ ngác, không hiểu những gì đã xảy tới. Cả hai, tuổi còn trẻ, chưa ra đời, ít kinh nghiệm, trước hoàn cảnh khẩn cấp, họ chỉ biết ngây người ra đứng nhìn. Phương Dung kiếm thuật thần thông, kinh luân gồm tài, gặp nghịch cảnh diễn ra mau chóng, cũng luống cuống, không biết giải quyết ra sao. Hùng Trọng lớn tuổi, kinh lịch nhiều, ông bảo Trần Năng:
            – Con cầm mạch cho sư thúc, coi sự thể ra sao?
            Trần Năng vội cầm tay Đào Kỳ bắt mạch, rồi nói:
            – Con thấy mạch đi khẩn và hồng đại. Như vậy là trúng nhiệt độc.
            Nàng nhớ sư phụ dặn: Khi trúng nhiệt độc, thì lấy rau má, đậu xanh, mỗi thứ một lượng, giã nhỏ ra mà uống. Rau má thì dễ kiếm. Nàng sai gia nhân làm thực gấp. Lát sau, gia nhân bưng nước rau má, đậu xanh lên. Phương Dung đỡ lấy, đổ vào miệng Đào Kỳ. Khoảng thời gian nhai dập miếng trầu, Đào Kỳ từ từ mở mắt. Chàng không nói gì, ngồi xếp chân vận công. Chàng nhớ một câu quyết trong thẻ đồng dạy luyện nội công âm nhu: Nếu nhiệt khí trong người lên cao, thì khí trầm đơn điền, vận từ đơn điền ra ngoài da. Chàng vận thử. Một lát sau, mồ hôi xuất ra như tắm, mùi tanh hôi bốc lên, mọi người đều buồn nôn. Chàng thấy người khoan khoái, tuy nhiên, lồng ngực vẫn còn như nghẹn, hơi thở khó khăn. Trần Năng than:
            – Không biết sư thúc trúng loại độc gì? Sư phụ chỉ dạy con trị cảm mạo, bong gân, gãy xương, trị trúng độc vì thức ăn. Còn trúng độc lối này thì con không biết. Bây giờ phải đi kiếm sư phụ mới cứu được sư thúc.
            Phương Dung mừng quá nói:
            – Thế sư phụ của Hùng phu nhân ở đâu?
            Trần Năng thở dài:
            – Có lần cháu hỏi sư phụ rằng người ở đâu? Thì người bảo: Ta ở nơi thánh Tản-viên ở. Rồi người chỉ lên ngọn núi mây mù che phủ, cao ngất lưng trời. Bây giờ, cháu phải lên núi Tản-viên tìm người.
            Hùng Trọng lắc đầu:
            – Núi Tản-viên thì làm sao mà lên nổi? Núi cao đến một ngàn năm trăm trượng (3000 mét). Từ dưới đi lên khoảng sáu trăm trượng thì núi thắt vào rồi lại phình ra như cái bầu, thử hỏi ai có thể leo lên được? Tương truyền trên đỉnh núi có thành do tiên xây.
            Hùng Bảo ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
            – Dù sao thì cũng cứ đi thỉnh sư phụ về cứu sư thúc. Vậy anh ở nhà trông trang ấp, còn em đi theo Nguyễn cô nương, quyết thỉnh cho được sư phụ, cứu sư thúc.
            Đào Kỳ gói hai tờ giấy tẩm độc vào hai tờ giấy khác nhau, dặn Phương Dung:
            – Em mang hai gói này đi, trình cho tiên sinh, thì người mới biết rõ là loại độc gì mà giải.
            Phương Dung cùng Trần Năng lấy ngựa lên đường khẩn cấp. Từ trang Thượng-hồng lên núi Tản-viên phải qua trang Lôi-sơn. Hai người phi ngựa như bay. Chiều hôm đó tới một ngọn thác chảy xuống rất đẹp. Trần Năng chỉ thác nước, nói:
            – Sư phụ thường dạy võ cháu ở chỗ này. Sau khi dạy xong, người hướng về đỉnh ngọn núi Tản-viên mà đi.
            Nàng ruổi ngựa đi trước. Phương Dung cũng cho ngựa đi kèm theo. Vượt qua được khoảng mấy trượng, thì lối đi thẳng như vách tường. Hai người xuống ngựa, ngửa mặt nhìn lên, chỉ thấy mây trắng phiêu bạt. Trên đỉnh núi lờ mờ như có thành quách.
            Phương Dung bảo Trần Năng:
            – Bố tôi thường nói, đỉnh núi Tản-viên đường lên theo một cái hang, chỉ người chưởng môm mới biết cửa hang ở đâu, chứ không ai có thể leo lên được. Hiện chưởng môn phải Tản-viên là Đặng Thi Sách. Vậy chúng ta phải đi Mê-linh, yết kiến Đặng chưởng môn, để hỏi đường lên.
            Hai người lại trở xuống thì thấy ngựa đã bị hai tên tiều phu đang dắt đi hướng về phía bờ suối. Phương Dung quát:
            – Này hai anh kia. Tại sao lại lấy ngựa của ta?
            Hai tên tiều phu cười:
            – Rõ ràng là ngựa rừng. Tôi bắt được, sao lại bảo rằng của cô? Thực là vô lý. Nếu cô cho rằng ngựa của cô, thì cô thử lại cưỡi xem có được không? Tôi e các cô không biết cỡi ngựa rừng, nó sẽ vật ngã các cô cho mà coi.
            Phương Dung, Trần Năng cùng tiến lại bờ suối. Bỗng nàng cảm thấy chân mình như dẫm vào chỗ không. Biết gặp nguy hiểm, nàng vọt người lên cao, đá gió một cái, tà tà đáp xuống. Chỗ đất nàng đáp xuống cũng bị lún. Nàng lại vọt người lên lần nữa, nhưng bị rơi xuống một cái hầm. Nàng đang định vọt người lên, thì có hơn mươi tráng đinh ở đâu nhảy ra, ôm chặt lấy nàng, đè xuống, trói lại. Nàng nhìn sang phía Trần Năng, cũng thấy nàng bị bắt như mình. Rồi một giọng cười quen thuộc vang lên:
            – May thực là may. Ta vâng lệnh đi bắt một nàng về làm vợ cho đại ca, không ngờ lại được một lúc hai nàng. Thôi thế thì nàng này phần ta.
            Người nói câu đó là Đinh Công Hùng. Bấy giờ Phương Dung mới biết hai nàng đã bị Đinh Công Hùng theo dõi. Trong khi hai nàng mải trèo núi, chúng đã đào hố, đặt cỏ lên trên, rồi sai tráng đinh giả làm tiều phu trộm ngựa, dụ cho hai nàng sa xuống hố.
            Trần Năng tức quá, chửi:
            – Chúng bay uổng danh là Lôi-sơn tam hùng. Hùng gì lại đi dùng xảo kế bắt chúng ta? Như vậy, người cũng dám mở mắt nhìn thiên hạ ư?
            Đinh Công Hùng không nói không rằng, truyền tráng định đặt hai nàng lên ngựa, rồi dẫn đi.
            Phương Dung lo nghĩ:
            – Ta bị bắt, trước sau gì cũng có kế thoát thân. Nhưng Đào đại ca bị trúng độc, không thỉnh được sư phụ Trần Năng thì chỉ mấy hôm là mất mạng.
            Đi được hơn hai giờ, tới chân núi Lôi-sơn. Vượt qua ngọn suối, đi vào trang. Phương Dung để ý quan sát, thấy trang Lôi-sơn dài ít ra cũng năm mươi dặm, còn chiều rộng thì nàng không biết. Dân chúng trong trang khá đông. Đời sống phồn thịnh không thua gì trang Cối-giang của nhà nàng. Tới một căn nhà lớn, xây bằng đá, Đinh Công Hùng gọi hai nữ tỳ lại bảo:
            – Ngươi đưa Trần cô nương sang dinh của đại ca ta. Còn Nguyễn cô nương, ngươi đưa vào dinh của ta. Chớ có cởi trói. Cả hai nàng đều là hai con sư tử thứ dữ đấy.
            Tên tỳ nữ dẫn Phương Dung qua một dãy nhà thứ nhất, tới căn phòng lớn, nó mở cửa đưa nàng vào. Căn phòng không lớn lắm, nhưng trang trí thanh nhã. Nó bảo nàng:
            – Cô nương đã bị bắt vào đây, chỉ có một đường duy nhất là nhắm mắt chịu thua số phận. Có chống cự cũng vô ích.
            Phương Dung dùng cước trái quét vào chân con nữ tỳ một cái. Nó ngã úp sấp xuống đất. Nó vừa định mở miệng la lên thì Phương Dung đã đạp chân vào miệng nó, chân kia nàng đạp lên ngực nó, miệng nói:
            – Nếu mi la lên, ta nhả kình lực ra, mi sẽ bị dập ngực mà chết. Mi biết không? Nếu chịu nghe lời ta, hãy nháy mắt làm hiệu đi. Con nữ tỳ nháy mắt hai cái.
            Phương Dung dẫm lên hai bàn chân nó, cho nó ngồi dậy được. Nàng bảo:
            – Mi cởi trói cho ta đi.
            Con nữ tỳ ngồi dậy cởi trói cho nàng. Được tự do rồi, nàng xé áo con nữ tỳ, nhét vào miệng nó rồi dùng giây trói nó lại, để lên giường. Nàng nhủ thầm:
            – Ta phải đi cứu Trần Năng trước, rồi sẽ đi thỉnh sư phụ nàng cứu Đào đại ca sau.
            Thấy trên tường có treo thanh kiếm, nàng cầm lấy, đeo vào lưng, rời khỏi phòng, thuận tay nàng đóng cửa lại.
            Ra khỏi căn nhà, nàng nương theo hướng con nữ tỳ dẫn Trần Năng hồi nãy mà đi. Tới một căn nhà lầu, dưới xây bằng đá, trên làm bằng gỗ, chạm trổ tinh vi, chung quanh trồng nhiều hoa thơm cỏ lạ. Trong vườn có mấy con hạc, hươu nai nhởn nhơ. Cạnh đó, là chỗ cột ngựa có cột bảy, tám con ngựa chiến. Thoáng nhìn Phương Dung cũng biết là ngựa của quân Hán, vì nàng đã thấy ở Long-biên. Trong căn nhà lầu có nhiều tiếng nói lớn vọng ra. Nàng ren rén lại bên cửa sổ, ghé mắt nhìn vào: Bên trong, Đinh Công Hùng ngồi đối diện với một người lớn tuổi hơn y một chút, da mặt hồng hào, khuôn mặt giống hệt y. Nàng đoán là Đinh Công Dũng. Cạnh đó là một người mặc theo lối quan lại người Hán, tuổi khoảng 25, 26 rất anh tuấn. Cạnh viên quan Hán là một thiếu nữ mặc theo lối Việt, tuổi khoảng 23-24 nhan sắc diễm lệ. Phương Dung nghĩ thầm:
            – Ta tưởng ta với Tường Quy đã là những người đẹp, thế mà so với thiếu nữ này, chúng ta còn thua xa.
            Viên quan Hán lên tiếng hỏi:
            – Đinh tiên sinh. Hiện các trang, động Lôi-sơn được khoảng bao nhiêu tráng đinh? Khi hữu sự tận dụng hết khả năng thì được bao nhiêu?
            Đinh Công Dũng lễ phép đáp:
            – Thưa Quốc-công, tráng đinh từ 15 tới 40 tuổi được trên ba ngàn. Khi hữu sự, có thể đạt tới năm ngàn người chiến đấu. Chúng tôi đã huấn luyện, chuẩn bị để bất cứ lúc nào Quốc-công cần đến, thì có ngay.
            Phương Dung giật mình:
            –Thì ra viên quan Hán này là Nghiêm Sơn, tước phong Lĩnh Nam công, Bình Nam đại tướng quân. Trước đây Đào đại ca có nói: Nghiêm Sơn là người Hán, theo học với phái Quế-lâm. Y cùng Hợp-phố lục hiệp, một đêm đánh hai mươi trận, bị thương mười lăm lần, cứu Quang Vũ thoát khỏi tay võ sĩ của Vương Mãng. Rồi một mình y giúp Quang Vũ khởi nghiệp từ Côn-dương, đánh chiếm năm quận. Tất cả các đại tướng danh tiếng Trung-nguyên như Đặng Vũ, Ngô Hán, Sầm Bành, Mã Viện đều do một tay y tạo ra. Sau khi chiếm Kinh-châu, y được Quang Vũ phong cho tước Lĩnh-nam công, lĩnh Bình-nam đại tướng quân. Y cùng Hợp-phố lục hiệp kinh lược Lĩnh-nam. Các Thái thú đều quy phục, nhưng vẫn được giữ đất mình như giang sơn riêng. Chỉ hơn một năm sau, y đã tìm cách loại hết các Thái thú, nắm lấy binh quyền.
            Nghiêm Sơn hỏi Đinh Công Dũng:
            – Đinh tiên sinh! Hôm nay tôi lên đường điều tra vụ Ngũ-phương thần kiếm giết Tô Phương. Tôi nghe trước khi đi Đăng-châu, họ có ghé qua Lôi-sơn. Đinh tiên sinh có thấy gì khác lạ không?
            Đinh Công Dũng gật đầu:
            – Trước khi đi Đăng-châu, Tô công tử cùng Ngũ-phương kiếm có ghé tệ trang ở lại chơi hai ngày. Tiểu nhân thấy họ rất thân với nhau. Không ngờ tới Đăng-châu lại xảy ra sự chẳng lành.
            Thình lình Nghiêm Sơn lên tiếng:
            – Chúng tôi đang bàn chuyện riêng tư với nhau, người là cao nhân phương nào, tại sao lại nghe trộm, đâu có phải trượng phu?
            Nói rồi, y cầm chung trà liệng về phía Phương Dung. Phương Dung kinh hồn, vì với nội công âm nhu, quy tức của nàng, ít ai khám phá ra được. Thế mà Nghiêm Sơn đã khám phá ra.
            Chung trà hướng về phía nàng, kình lực kêu rít lên, đủ tỏ nội lực cường mãnh tuyệt luân. Phương Dung rút kiếm lên khoa một vòng. Kình lực âm nhu của nàng làm cho chung trà đổi chiều. Nàng phát một chiêu chưởng âm nhu, chung trà bay trở về phía Đinh Công Dũng. Đinh Công Dũng phát chưởng đỡ. Bốp một tiếng, chung trà vỡ tan tành.
            Phương Dung định chạy, thì thấp thoáng một cái, bốn người đã bao vây nàng vào giữa: Đinh Công Dũng, Đinh Công Hùng, Nghiêm Sơn và nữ lang xinh đẹp.
            Nghiêm Sơn hỏi Đinh Công Dũng:
            – Cô nương này phải chăng là người quý trang?
            Công Dũng lắc đầu:
            – Không phải. Nó là người của phái Long-biên, được bọn phản tặc phái tới Mê-linh. Tôi vừa cho bắt về để giải lên phủ Tế-tác. Không ngờ, nó đã thoát ra ngoài được.
            Nghiêm Sơn là người tinh tế, chàng đã cai quản hàng triệu người, nên nhìn Phương Dung, chàng đã đoán ra tám, chín phần:
            – Cô này tuổi bất quá 17, 18 mà dùng một chiêu kiếm, vòng trên không, hoá giải kình lực chung trà của ta, làm cho chung trà đổi chiều tấn công Đinh Công Dũng, tất nàng là con nhà danh gia. Đinh Công Dũng nói không sai đâu.
            Đinh Công Dũng dùng một thế cầm nã, chụp vai Phương Dung. Thấp thoáng một cái, nàng đã nhảy lui lại hai bước.
            Nàng kêu lớn:
            – Bình-nam đại tướng quân. Cứu tôi với!
            Nghiêm Sơn ra hiệu cho Đinh Công Dũng ngừng tay, hỏi:
            – Cô nương là đệ tử của cao nhân nào? Thân pháp cô nương là của phái Long-biên. Vậy cô nương với Long-biên song hiệp là chỗ thế nào
            Phương Dung lắc đầu:
            – Tôi không là gì của họ cả.
            Nghiêm Sơn nói:
            –Vậy cô nương là đệ tử của Mai Huyền Sương nữ hiệp phải không?
            Phương Dung cũng lắc đầu. Nàng nói:
            – Bình-nam đại tướng quân! Người hiện là Lĩnh-nam công, tức là ông vua đất Lĩnh -nam. Tôi nghe nói người xuất thân hiệp nghĩa. Xin người chủ trì cho tôi một chuyện.
            – Cô nương cứ nói.
            – Nếu trên đất Lĩnh-nam, có kẻ dùng sức mạnh, bắt cóc con gái có chồng về hãm hiếp, thì người có cần trừng trị nó không?
            Nghiêm Sơn nói:
            – Ai đã làm việc đó, cô nương cứ nói, tôi sẽ chặt đầu nó liền.
            Phương Dung chỉ Đinh Công Dũng:
            – Thì anh em tên này. Hôm trước trong đám cưới con gái Lạc-hầu trang Toàn-liệt lấy con trai Lạc-hầu trang Thượng-hồng, chúng nó đã kéo đến định bắt cô dâu. Sau bị cô dâu đánh thua, chúng đem thuốc độc hại người, rồi dùng kế bắt tôi với Trần Năng về để hãm hiếp. May tôi thoát ra được, còn Trần Năng, xin Lĩnh-nam công cứu nàng.
            Mặt Đinh Công Dũng xám như tro. Y nói:
            – Xin Quốc công đừng tin con nhỏ phản tặc này. Y thị bịa đặt ra đó.
            Nói rồi, y nhảy tới chụp nàng. Ánh kiếm lấp lánh, Phương Dung rút kiếm ra khỏi vỏ, chĩa vào cổ Đinh Công Dũng. Đinh Công Dũng hoảng hốt ngửa cổ ra sau. Mũi kiếm như bóng với hình, đuổi theo. Y kinh hoàng lăn người xuống đất tránh khỏi, rồi vọt người dậy. Tuy y thoát chết, nhưng cũng bở vía.
            Nghiêm Sơn kêu lên một tiếng kinh ngạc:
            – Chiêu kiếm vừa rồi là chiêu gì? Rõ ràng đánh phải mà lại bật lên cao. Nếu ta là Đinh Công Dũng, ta cũng phải lộn ngửa như y mới tránh nổi. Cô bé này kiếm pháp cao minh thực.
            Đinh Công Hùng nói:
            – Con nhỏ này bịa chuyện nói xấu người. Ta bắt Trần Năng bao giờ? Ngươi chỉ nói láo.
            Vèo một cái, một người từ bụi hoa hướng về phía Đinh Công Hùng đánh tới. Chưởng lực ào ào. Đinh Công Hùng vung chưởng đỡ. Bốp một tiếng, y bật lùi lại hai bước. Người đó lại tấn công liền ba chưởng. Đinh Công Hùng thối lui tới cạnh Nghiêm Sơn. Vừa lúc đó, chưởng thứ năm đánh tới, mạnh vô cùng. Nghiêm Sơn phất tay đỡ. Bình một tiếng, tay chàng thấy hơi tê tê.
            Phương Dung nhìn lại thì ra Trần Năng. Nàng reo lên:
            – Đây là Hùng phu nhân, nhũ danh Trần Năng. Chính bọn mi bắt chúng ta, mi còn chối được nữa không?
            Nghiêm Sơn hỏi Trần Năng:
            – Hùng phu nhân, người vừa sử dụng Phục-ngưu thần chưởng, chiêu đó là Vong ngưu ư sơn. Chiêu này phái Tản-viên đã bị thất truyền từ lâu. Đến Lục-trúc tiên sinh Lê Đạo Sinh, Đặng Thi Kế, Đặng Thi Sách cũng không biết, sao phu nhân lại biết?
            Trần Năng nhìn Nghiêm Sơn cười:
            – Bình-nam đại tướng quân, người quên tôi rồi sao?
            Nghiêm Sơn nhìn Trần Năng. Chàng chợt nhớ lại một chuyện: Cách đây mấy năm, chàng ước hẹn với Khất đại phu Trần Đại Sinh, sư huynh của Lê Đạo Sinh đấu võ. Nếu chàng thắng, thì ông phải ra nhận chức Thái-thú Cửu-chân. Còn chàng bại, chàng phải làm theo một lời yêu cầu của ông. Chàng đấu với ông được chín chiêu thì bị thua. Chàng đành phải hứa làm cho ông một điều. Trong lúc đấu với Khất đại phu, chàng thấy cạnh đó có một cô gái nhỏ tuổi. Nhưng hôm đó là đêm trăng, chàng không nhận được mặt cô. Hôm nay, Trần Năng lên tiếng, chàng mới nhận ra.
            Trần Năng nói:
            – Nghiêm quốc công, những điều Quốc-công nói với sư phụ tôi, dù tôi có chết cũng không nói với bất cứ ai đâu.
            Nghiêm Sơn nói với Đinh Công Dũng:
            – Đinh tiên sinh! Cô này không phải là người của phản tặc đâu. Sư phụ cô với tôi là bạn tâm giao. Tôi biết người rất kỹ.
            Rồi chàng quay lại hỏi Phương Dung:
            – Cô nương sử dụng kiếm pháp Long-biên, vậy cô nương mới từ miền xuôi lên đây phải không?
            Phương Dung chưa kịp trả lời thì nữ lang xinh đẹp đã cất tiếng ôn nhu nói:
            – Này em! Em từ Long-biên lên đây, chị muốn hỏi em một vài tin tức, được không?
            Nghiêm Sơn chỉ nữ lang:
            – Đây là phu nhân của ta.
            Phương Dung thấy nữ lang xinh đẹp, nói năng nhu nhã, nàng có cảm tình ngay, nên đáp:
            – Tin tức phu nhân muốn hỏi là tin tức gì vậy?
            Nữ lang nói:
            – Tôi hỏi em, ở Long-biên có người nào họ Đào không?
            Phương Dung liếc nhìn nữ lang, thầm nghĩ: Không biết nàng hỏi Đào nào? Có liên quan gì tới Đào đại ca không?
            Nghĩ rồi, nàng trả lời lửng lơ:
            – Tôi biết rất nhiều người họ Đào. Người chết có, người sống có. Người sắp chết cũng có. Người giỏi võ có, người giỏi văn có. Song tôi đi đường xa hết tiền, nếu phu nhân muốn biết tin tức một người họ Đào thì phải ban thưởng mười lạng vàng.
            Nàng những tưởng đùa vậy cho vui, không ngờ, nữ lang gật đầu:
            – Nếu em cho chị biết tin tức của người họ Đào, chị sẽ thưởng cho em bất cứ vật gì chị có.
            Phương Dung gật đầu:
            – Phu nhân là người lớn, không được nói dối trẻ con. Phu nhân là đệ nhất phu nhân Lĩnh-nam... Xin nhớ lời. Tôi có một người biết tất cả tin tức của Cửu-chân song kiệt Đào Thế Kiệt, Đinh Đại. Y biết cả tin tức của Đào Thế Hùng nữa... Ngặt một điều, y bị trúng độc của tên Đinh Công Dũng, đang hấp hối. Nếu phu nhân bắt Đinh Công Dũng đưa thuốc giải cứu y, y sẽ cho phu nhân tin tức.
            Nữ lang đưa mắt nhìn Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn bảo Đinh Công Dũng, giọng uy nghiêm:
            – Xin Đinh tiên sinh ban thuốc giải.
            Đinh Công Dũng nói:
            – Y trúng phải chất độc của con tằm núi, pha với nọc độc lá han. Không có thuốc nào chữa được cả. Duy chỉ dùng ma hoàng, tiá tô, gừng tươi nấu lên uống thì kéo dài mạng sống được ba năm.
            Nữ lang nhảy lên ngựa. Thân pháp nàng đẹp vô cùng. Nghiêm Sơn nói với Phương Dung, Trần Năng:
            – Chúng ta đi thôi.
            Bốn ngựa hướng trang Thượng-hồng phi như bay. Từ xa xa, Phương Dung thấy trong trang khói bốc lên ngùn ngụt. Nàng la lớn:
            – Thôi, chết rồi. Chúng ta mắc kế điệu hổ ly sơn của anh em họ Đinh rồi!
            Bốn người đến cổng trang đã thấy có mấy xác chết của tráng đinh Thượng-hồng. Bên trong có sáu người cỡi ngựa chỉ huy tráng đinh Lôi-sơn tấn công tráng đinh Thượng-hồng. Bên phía Thượng-hồng, Hùng Bảo đốc chiến, có vẻ yếu thế lắm rồi. Phương Dung, Trần Năng nhảy xuống ngựa. Ánh kiếm lấp lánh. Hai nàng đi đến đâu, tráng đinh Lôi-sơn rơi đầu đến đó.
            Nữ lang ngồi trên mình ngựa thấy Đào Kỳ nằm ở sân, do hai tráng đinh Thượng-hồng chăm sóc. Nàng xông vào trùng vây, đánh liền năm chưởng. Phương Dung nhận ra chiêu Hải triều lãng lãng của phái Cửu-chân. Vòng vây dãn ra một khoảng. Nữ lang lách mình một cái đã lọt vào trong. Nàng đến bồng Đào Kỳ lên, nước mắt chảy ròng ròng.
            Phương Dung nghĩ đến vụ Tường Quy, nàng cho rằng nữ lang cũng là loại người trắc nết, nên nổi giận, cầm kiếm đâm liền. Nghiêm Sơn đưa kiếm gạt đánh choang một cái. Phương Dung đổ quạu:
            – Ngươi là vua Lĩnh-nam, để vợ đi ôm trai, không biết nhục, sao còn đỡ kiếm của ta?
            Đào Kỳ đã tỉnh. Chàng vẫy tay gọi Phương Dung:
            – Em Dung, không được vô lễ. Đây là tam sư tỷ của anh.
            Nghiêm Sơn, Trần Năng, Phương Dung cùng rút kiếm ra tấn công đám tráng đinh Lôi-sơn. Chỉ mấy chiêu đã giết trên mười người. Chúng kinh hoảng, hô lên một tiếng báo nguy, rồi cùng bỏ chạy.
            Hùng Bảo thúc tráng đinh đuổi theo. Trần Năng cản lại, nói:
            – Chúng ta phải thu xếp mọi việc ở đây trước đã. Không nên đuổi theo.
            Hùng Trọng, Hùng Bảo điều khiển tráng đinh chữa cháy, thu dọn xác chết. Trần Năng thì băng bó cho những người bị thương.
            Phương Dung bảo Hùng Trọng:
            – Hùng hầu, bọn chúng tới đây từ bao giờ?
            Hùng Trọng buồn bã đáp:
            – Khi cô nương với Trần Năng vừa đi khỏi, thì chúng kéo tới trên năm trăm tên. Không nói, không rằng đánh vào hai mặt nam và đông. Hùng Bảo giữ mặt đông. Sư thúc giữ mặt nam. Chúng đánh tới trưa mà không vào được, tráng đinh chết có hơn mười tên. Quá ngọ, sư thúc bị lên cơn suyễn ngất đi. Hàng ngũ Thượng-hồng rối loạn, vì vậy chúng lọt được vào vòng ngoài của trang. Tôi với Bảo thủ vòng trong, những tưởng sẽ nguy đến nơi, may nhờ cô nương về kịp.
            Hùng hầu không hổ là người lãnh đạo. Sau trận đánh, ông vẫn bình tĩnh như thường. Ông liếc mắt nhìn Nghiêm Sơn, Thiều Hoa, hỏi Trần Năng:
            – Quý khách đây là ai? Sao lại ra tay nghĩa hiệp trợ giúp chúng ta trong cơn nguy biến?
            Trần Năng chỉ Nghiêm Sơn và Thiều Hoa:
            – Thưa bố, vị này là Lĩnh-nam công. Còn vị này là phu nhân của người.
            Với địa vị Lạc-hầu, Hùng hầu thường chỉ gặp đến cấp Huyện-lệnh đã là ghê gớm lắm rồi, chẳng mấy khi gặp được Thái-thú, huống hồ đối với Lĩnh-nam công? Hùng Trọng thất kinh, vội kính cẩn ra mặt:
            – Lạc-hầu trang Thượng-hồng xin tham kiến Quốc-công, đa tạ Quốc-công đã ra tay cứu viện.
            Nghiêm Sơn phất tay, một kình lực nhu hòa đỡ Hùng Trọng dậy, không cho dùng đại lễ. Nghiêm Sơn nói:
            – Hùng hầu! Tôi ăn ở, cai trị không có đức nên để kẻ ác tới xâm phạm trang ấp của người. Dù đây là dã tâm của Đinh Công Dũng, nhưng tôi là Lĩnh Nam công, tôi vẫn phải chịu trách nhiệm. Hùng hầu yên tâm, tôi sẽ xử vụ này theo đúng luật lệ của bản triều.
            Hùng Trọng là giòng dõi Hùng-vương, coi người Hán như cựu thù. Vì luật lệ, ông phải hành đại lễ với Nghiêm Sơn. Khi thấy Nghiêm Sơn ở địa vị tối cao, mà giản dị, không hách dịch như những huyện lệnh, thái thú, ông đã thấy cảm tình. Nghiêm Sơn còn tự nhận là không có đức, nên Đinh Công Dũng mới làm loạn, lại còn hứa sẽ xử vụ này theo luật. Ông mừng lắm, kính cẩn mời Nghiêm Sơn với Thiều Hoa vào nhà khách, truyền làm tiệc đãi đằng.
            Hoàng Thiều Hoa đặt Đào Kỳ xuống sập, rồi hỏi:
            – Tiểu sư đệ! Em lớn quá rồi, tại sao em lại bị bệnh? Mấy năm nay chị nhớ em chết đi được. Chị tìm em khắp nơi mà không thấy.
            Nàng thiết tha săn sóc Đào Kỳ như mẹ săn sóc con. Đào Kỳ đã tỉnh, chàng vẫy tay gọi Phương Dung:
            – Phương Dung, lại ra mắt sư tỷ của anh đi.
            Từ lúc bị lầm lẫn, tỏ ý ghen tuông, Phương Dung xấu hổ đứng yên, không biết nói sao. Bây giờ được Đào Kỳ gọi, nàng mới lên tiếng:
            – Sư tỷ! Chị là người lớn xin đừng chấp. Em chưa gặp sư tỷ lần nào, nên vô phép.
            Thiều Hoa cười, hỏi Đào Kỳ:
            – Cô nương đây là ai?
            Đào Kỳ đáp:
            –...Là Nguyễn Phương Dung, con gái của chưởng môn phái Long-biên.
            Hoàng Thiều Hoa à lên một tiếng:
            – Đúng là danh gia đệ tử. Hèn chi kiếm thuật thần thông. Mấy chiêu kiếm em đánh Đinh Công Dũng, nếu chị là y, cũng chỉ có nước chịu chết.
            Hoàng Thiều Hoa vẫy tay gọi Hùng Bảo:
            – Đồ nhi! Con đến ra mắt tiểu sư thúc đi.
            Hùng Bảo đến trước Thiều Hoa thụp xuống lạy:
            – Đệ tử là Hùng Bảo, xin kính cẩn ra mắt sư nương.
            Đào Kỳ chỉ Hùng Bảo cười:
            – Ngay buổi đầu tiên gặp Hùng Bảo, em đã biết y là đệ tử của Cửu-chân. Bảo với em đã nhận nhau từ hôm mới gặp. Tuy Bảo không nói ra, nhưng em cũng biết sư phụ của Bảo là sư tỷ.
            Thiều Hoa nói:
            – Cách đây mấy năm, trên đường về thăm quê, ta gặp Bảo. Thấy Bảo là con cháu Hùng-vương, ta thu Bảo làm đồ đệ. Ta cấm không cho Bảo tiết lộ chuyện này với bất cứ ai. Vì vậy, hồi nãy Bảo thấy ta mà không dám ra hành lễ, cho đến lúc ta gọi, Bảo mới dám ra mắt.
            Nàng nhìn Phương Dung cười:
            – Em cưới vợ bao giờ? Chị có cô em dâu vừa xinh đẹp, vừa con nhà danh gia, kiếm thuật thần thông...
            Đào Kỳ ngắt lời:
            – Chúng em chưa thành vợ chồng. Chú Hùng đã đến Cối-giang cầu hôn. Cha mẹ đôi bên đều vui lòng, nhưng em muốn ngày cưới phải có bố mẹ với sư tỷ, nên còn hoãn lại.
            Thiều Hoa hỏi:
            – Từ hồi lạc nhau ở Long-biên đến giờ, em ở đâu?
            Đào Kỳ thuật lại chi tiết mọi sự việc xảy ra. Đến chỗ chàng viết thơ nhắn Nghiêm Sơn, thì Nghiêm Sơn ngắt lời:
            – Thư sư đệ viết cho ta, ta không nhận được. Ta không biết sư đệ ở Thái-hà trang. Chứ nếu ta biết, đã cho người đi đón sư đệ về cho sư tỷ rồi. Sư tỷ của em, không tìm được em, ăn không thấy mùi vị, ngủ không yên giấc, ta vui thế nào được?
            Phương Dung xen vào:
            – Như vậy Lê Đạo Sinh đã bịa ra chuyện đại ca viết thơ gửi gấm Đào đại ca cho y. Không biết y làm vậy để mưu đồ việc gì đây?
            Nghiêm Sơn lắc đầu:
            – Bảo y phản ta thì không đúng, vì y đang cầu cạnh ta một việc. Ta lại ủy cho y tổ chức đại hội Tây-hồ. Có lẽ y nói dối tiểu sư đệ như vậy để giữ tiểu sư đệ lại, chờ Đào hầu tới, rồi y bắt giam như Nguyễn Phan với Đặng Thi Kế.
            Thiều Hoa buồn rầu nói với Đào Kỳ:
            – Chị đã thành hôn với Nghiêm đại ca rồi. Chị biết như vậy là có lỗi với sư phụ, sư mẫu.
            Đào Kỳ cười khúc khích:
            – Đã là anh hùng thì phải biết tùy hoàn cảnh. Nếu vì thời thế, sư tỷ không tìm thấy bố mẹ. Sư tỷ sẽ ở vậy cả đời sao? Sau này gặp bố mẹ, nếu các người có trách phạt, em sẽ nhận tội hết. Em là ông mai mà.
            Chàng quay lại hỏi Nghiêm Sơn:
            – Nghiêm đại ca! Theo tục lệ người Việt, đại ca phải tặng ông mai cái thủ lợn. Vậy thủ lợn đâu?
            Nghiêm Sơn cười:
            – Xa nhau sáu bảy năm mà tiểu đệ tính tình vẫn như cũ. Tiểu sư đệ, ngươi là đại ân nhân của ta. Đời ta, công danh lên đến Lĩnh Nam công, nhưng ta vẫn không lấy làm vui. Nguồn hạnh phúc mà ta tìm được trên thế gian này là Hoàng sư tỷ. Vì vậy, tiểu sư đệ là đại ân nhân, ta không biết lấy gì báo đáp.
            Nghiêm Sơn là người tinh tế. Chàng biết giữa vợ mình với Đào Kỳ tình thì là sư tỷ, sư đệ, nhưng thực ra nàng săn sóc Đào Kỳ như mẹ với con. Hai người xa cách bấy lâu, bây giờ trùng phùng, chắc có nhiều chuyện riêng muốn nói. Chàng bèn nói với Hùng Trọng:
            – Hùng hầu! Hùng hầu dẫn tôi đi quan sát trang ấp một lát đi.
            Hùng Trọng líu ríu vâng lời, dẫn Nghiêm Sơn đi.
            Nghiêm Sơn đi rồi, Thiều Hoa bật thành tiếng khóc:
            – Ta... Ta đã bất hiếu với sư phụ. Ta là Mỵ Châu mất rồi.
            Phương Dung ngắt lời:
            – Sư tỷ, em muốn góp một vài câu được không?
            – Được, em cứ nói.
            – Em thấy chị có ý tưởng cho rằng chị lấy Nghiêm đại ca là thành Mỵ Châu. Nghĩ như vậy là sai. Mỵ Châu là đứa con gái ngu xuẩn, chỉ biết có tình yêu. Trọng Thủy là tên lưu manh. Còn sư tỷ, thân tuy là vợ Nghiêm đại ca, mà lòng luôn hướng về Lĩnh-Nam. Nghiêm đại ca là người hiệp nghĩa xuất thân. Từ khi tới Lĩnh-Nam, đã tạo cho dân Việt một đời sống thanh nhàn. Đất Lĩnh-Nam bây giờ có thua gì Trung-nguyên đâu? Em sợ đời vua Hùng, vua Thục cũng không bằng. Đại ca dường như không chú ý đến phong trào phản Hán phục Việt. Em có cảm tưởng như đại ca là người Việt.
            Câu nói của Phương Dung làm Trần Năng biến sắc. Nàng mở to mắt nhìn Phương Dung, nói lẩm bẩm trong miệng câu gì không rõ. Đào Kỳ tiếp:
            – Chính người Hán cũng có cảm tưởng như Nghiêm đại ca khuyến khích người Việt đứng lên đòi Lĩnh-Nam.
            Thiều Hoa gật đầu:
            – Chị thấy Nghiêm đại ca làm những việc có lợi cho Lĩnh Nam, nên chỉ khuyến khích mà không hỏi tại sao. Hôm chị lạc sư đệ ở Long-biên, thì trở về Mai-động với sư bá Nguyễn Tam Trinh. Chị cho sư bá biết Nghiêm đại ca là Lĩnh-nam công. Sư bá kinh hồn động phách. Người nghi chỉ một vài ngày Nghiêm đại ca sẽ đem đại quân đến san bằng Mai-động. Nhưng không ngờ...
            Ngừng một lát, nàng tiếp:
            – Ba hôm sau, Nghiêm đại ca đến, mang theo trâu, bò, ngựa, lợn, gà gấp một trăm lần lệ chuộc một người thường nạp cho sư bá.
            Theo tục lệ của Lĩnh-Nam, khi mình bị đối phương bắt thì phải mang trâu, bò, lừa, ngựa đến chuộc mạng. Người bị bắt càng ở địa vị lớn, lễ chuộc càng nhiều. Nghiêm Sơn bị Nguyễn Tam Trinh dùng mưu bắt được, chàng cũng mang lễ đến để chuộc mạng mình.
            Thiều Hoa tiếp:
            – Sư bá cảm động lắm. Người thắc mắc rằng nếu người bắt một Huyện lệnh nhỏ bé thôi, thì y cũng ghép người vào tội chết, đem quân tàn phá trang ấp. Thế mà tại sao Nghiêm đại ca không tính tội, còn đem lễ đến chuộc? Nghiêm đại ca là Lĩnh-nam công, những ai nói đến phản Hán phục Việt thì phải giết đi. Nghiêm đại ca biết trang Mai-động là nơi chuẩn bị khởi binh phục quốc mà lại đối đãi khách khí như vậy, ông thực không hiểu nổi.
            Nghiêm đại ca ghé tai ông nói chuyện một hồi lâu. Ông nghe xong, cúi xuống lạy Nghiêm đại ca tám lạy. Rồi ông gọi chị vào nói:
            – Ta thấy cháu với Nghiêm huynh đây, trời sinh một cặp tài sắc song toàn, vậy ta xin đứng ra thay mặt Đào hầu làm lễ thành hôn cho cháu với Nghiêm huynh. Đào hầu với ta là bạn. Sau này người có trách phạt gì, lão xin nhận hết. Vì vậy, ta trở thành vợ Nghiêm đại ca.
            Phương Dung trầm tư một lát rồi nói:
            – Chúng ta đã biết ý Nghiêm đại ca rồi thì tốt lắm. Em với Đào ca đi khắp nơi, khích hào kiệt tàng trữ lương thảo, huấn luyện tráng đinh, chờ ngày khởi sự. Nếu có gì rắc rối, đã có sư tỷ ở trong lo liệu.
            Nghiêm Sơn với Hùng Trọng đã trở về. Đào Kỳ hỏi Nghiêm Sơn:
            – Nghiêm đại ca, nếu như bây giờ em tìm ra bố mẹ và cậu em, lúc đó đại ca định liệu như thế nào?
            Nghiêm Sơn thở dài:
            – Thì còn thế nào nữa? Ta sẽ mời các người trở về Đinh, Đào trang, rồi ta cử Đào hầu làm Thái-thú, Đinh hầu làm Đô-úy Cửu-chân. Hai vị vốn đã có hùng tâm, thương dân thì ta trao đất Cửu-chân cho hai người. Hai người mặc lòng lo cho dân.
            Đào Kỳ hỏi:
            – Bố với cậu em xưa nay vẫn có chí phục hồi Lĩnh Nam, đại ca trao quyền Thái-thú cho người, đại ca không sợ ư?
            Nghiêm Sơn vỗ lưng Đào Kỳ:
            – Tiểu sư đệ, người thực là ngay thẳng. Kiến Vũ thiên tử là nghĩa huynh của ta, người phong Lĩnh-Nam cho ta khi Lĩnh-Nam còn ở trong tay giặc. Bây giờ, ta đã thu Lĩnh-Nam về một mối, người vẫn nói với ta: Người khởi binh là muốn đem hạnh phúc cho dân. Bây giờ Đào-hầu là người có thể mưu hạnh phúc cho trăm họ thì ta trao đất Cửu-chân cho. Đất Lĩnh-Nam trả cho người Lĩnh-Nam thì Đào hầu đâu có cần phải phản Hán phục Việt nữa? Nhưng chuyện hôm nay nhất thiết tiểu sư đệ phải giữ kín, đừng lộ ra ngoài. Bọn tham ô người Hán sẽ gây khó dễ cho ta.
            Hoàng Thiều Hoa rưng rưng nước mắt, cầm tay Nghiêm Sơn:
            – Nghiêm đại ca!
            Nghiêm Sơn nhìn nàng, bốn mắt gặp nhau. Hai người như nói với nhau hàng muôn ngàn lời. Một lát sau, Nghiêm Sơn mới lên tiếng:
            – Ta vì đại nghĩa mới sang Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam thuộc Hán cũng thế, trả về cho người Việt cũng vậy. Ta chỉ mong có một điều: Dân chúng được ấm no. Đây là nói về lý. Còn về tình, dù ta có bỏ cả Lĩnh-nam công, nếu phải bỏ tất cả, để được Hoàng sư tỷ, ta cũng vui lòng. Ta gặp Hoàng sư tỷ và tiểu sư đệ giữa lúc đánh phá Đào trang, hai người đã không coi ta là thù nghịch, còn tử tế với ta, ta dù có chết đến mấy lần cũng không xứng đáng với sư tỷ.
            Nghiêm Sơn ngưng lời. Trong phòng im lặng. Một lát sau Phương Dung đến trước mặt Thiều Hoa:
            – Hồi sáng ở trang Lôi-sơn, phu nhân có hứa rằng nếu em có tin tức một người họ Đào, phu nhân sẽ ban thưởng. Bây giờ phu nhân đã được toại ý, xin ban thưởng đi thôi. Người nghĩa hiệp không nói hai lời. Người lớn không dối trẻ con. Bậc cha mẹ dân phải thưởng cho dân.
            Thiều Hoa ngẩn người ra không biết trả lời sao. Nghiêm Sơn vội đỡ lời:
            – Sư tỷ đã hứa tức là ta hứa. Phương Dung, em muốn gì ta cũng sẵn sàng.
            Phương Dung chỉ Hùng Bảo, Trần Năng nói:
            – Bọn em đến đây ăn cưới, chưa có gì làm lễ mừng hai họ. Vậy em dám xin đại ca cho phép em đánh đuổi Đinh Công Dũng, chiếm Lôi-sơn làm quà cưới cho Hùng Bảo.
            Nghiêm Sơn thất kinh hồn viá. Chàng không ngờ đầu óc Phương Dung lại nghĩ ra được việc kinh thiên động địa đó. Kể ra thì Đinh Công Dũng đáng tội tử hình. Ngặt vì y là tay chân Tô Định. Bây giờ để Phương Dung chiếm Lôi-sơn, thế nào cũng xảy ra trận đánh lớn. Tô Định tất đem quân cứu Đinh Công Dũng. Lúc đó sẽ rầy rà to. Nghiêm Sơn ngẫm nghĩ rồi nói:
            – Kể ra món quà đó cũng chưa xứng đáng với sư muội. Song, Đinh Công Dũng là người của Tô Định. Sư muội gây chiến với y, Tô Định ắt sẽ đem quân tiếp viện. Lúc đó không lẽ ta lại tiếp cứu sư muội? Vậy ta ưng cho sư muội chiếm Lôi-sơn song có điều không được dùng binh.
            Thiều Hoa ngẫm nghĩ:
            – Nếu bây giờ ta với Nghiêm đại ca ở đây mà tiểu sư đệ với Phương Dung đánh Lôi-sơn trao cho Hùng Bảo, thì có khác gì chúng ta đánh? Chi bằng ta lánh mặt đi để Phương Dung làm. Sau này Tô Định có khiếu nại, ta sẽ trả lời là ta không biết. Tô Định biết Hùng Bảo là đệ tử ta, ắt hẳn y không dám làm khó dễ Bảo.
            Nghĩ vậy nàng nói với Đào Kỳ:
            – Tiểu sư đệ, mấy năm nay chị nhớ em đến héo ruột héo gan. Bây giờ Nghiêm đại ca với chị đi Đăng-châu có chút việc. Tiểu sư đệ ở đây chờ sư phụ của Trần Năng chữa bệnh cho, rồi sau đó về Luy-lâu ở với chị. Nhớ phải về ngay, đừng để chị mong.
            Nàng vẫy Phương Dung:
            – Em lại đây!
            Phương Dung lại gần. Hoàng Thiều Hoa tháo chuỗi hạt trai dài đến năm vòng trên cổ, đeo vào cổ Phương Dung nói:
            – Vì không biết trước nên chị chỉ có món quà nhỏ này để làm lễ diện kiến sư muội. Kỳ này xuống Đăng-châu gặp Đào sư thúc, chị sẽ bàn cùng người lo cưới hỏi cho hai em.
            Phương Dung là con gái yêu của Lạc-hầu, vàng bạc, châu báu nàng không thiếu gì. Nhưng thái độ nhu nhã của Thiều Hoa khiến nàng cảm động. Hai chị em chuyện trò một lúc, rồi Thiều Hoa với Nghiêm Sơn lên đường.
            Đợi hai người đi khỏi, Trần Năng nói:
            – Lĩnh-nam công đã hứa lấy Lôi-sơn phong cho chúng ta. Vậy chúng ta làm cách nào để chiếm được?
            Phương Dung cười:
            – Không khó gì cả. Đinh Công Dũng viết thư mời ba mươi sáu động, trang Nam Mê-linh cùng bàn chuyện thống nhất thành một châu lớn. Từ trước đến nay, trang Toàn-liệt với Thượng-hồng kịch liệt chống đối. Vậy khi đại hội, Hùng hầu, Trần hầu bất thình lình tỏ ý thuận. Cuối cùng thế nào cũng có cuộc đấu võ để chọn người thống lĩnh. Đào ca với tôi đại diện Thượng-hồng, Toàn-liệt ra tranh phong. Khi chiếm được rồi, chúng tôi sẽ nhường cho Hùng Bảo, lấy lý do Bảo là cháu vua Hùng. Hỏi ai dám nói?
            Hùng Trọng lắc đầu:
            – Chúng tôi không có tham vọng đó.
            Đào Kỳ phất tay:
            – Chúng ta chiếm Lôi-sơn là muốn mưu hạnh phúc cho dân. Hùng hầu chắc đã nghe tiếng đồn dân chúng ở Đinh, Đào trang sống sung sướng như thế nào rồi chứ? Bây giờ, thống nhất ba mươi sáu trang, động lại, chúng ta sẽ mưu đồ hạnh phúc cho dân theo gương vua Hùng, vua Thục chẳng hơn để cho anh em họ Đinh cai trị dân như chó, như trâu hay sao?
            Hùng Trọng nghe Đào Kỳ dùng đại nghĩa khuyên, ông đứng dậy chắp tay nói:
            – Đa ta sư thúc chỉ dạy.
            Rồi ông gọi Trần Năng nói:
            – Tục lệ Văn-Lang ta là con gái lấy chồng, ba ngày sau phải trở về lễ tạ tổ tiên, tạ cha mẹ. Vậy con với Bảo phải trở về ngay. Trang Thượng-hồng này không cần đề phòng, vì cái tin Hùng Bảo là đệ tử của Lĩnh-nam công phu nhân, Đinh Công Dũng không dám tấn công nữa đâu.
            Ông nói với Đào Kỳ:
            – Tuy vậy tôi vẫn sợ trong khi đi đường Đinh Công Dũng sẽ làm hại cháu Năng. Phiền sư thúc với Nguyễn cô nương cùng đi, cho tôi được an tâm.
            Đào Kỳ khẳng khái nói:
            – Bảo đã là đệ tử của tam sư tỷ thì là người phái Cửu-chân rồi. Tôi có bổn phận giúp Bảo.
            Hùng hầu đã chuẩn bị xong lễ vật, cho gia nhân gánh theo. Đào Kỳ, Phương Dung lên ngựa cùng đi với vợ chồng Hùng Bảo. Phương Dung với Trần Năng ngang tuổi nhau, tính tình lại ưa đùa nghịch như nhau nên trên đường đi, hai người luôn cười đùa.
            Trần Năng nói:
            – Bây giờ sư thúc với sư thẩm đi theo bọn cháu. Mai này khi đám cưới sư thúc, chúng cháu cũng sẽ đi tháp tùng để trả nợ. Có điều, đi từ Cối-giang đến Đào trang ở Cửu-chân thì phải mất mấy tháng.
            Đi đến gần trưa mới tới khúc quẹo vào trang Toàn-liệt. Trần Năng mới xa nhà có ba ngày, mà đã bao nhiêu biến cố xảy ra, nàng tưởng chừng như đã mấy tháng. Con đường này nàng đã đi lại không biết bao lần, nhưng sao lần này như có một cái gì khác lạ. Cũng cây cổ thụ ven đường, cũng hoa rừng, cỏ thơm như cũ, mà nàng cảm thấy nó như khác với ngày thường. Nhìn thấy cây đa lớn ở cổng trang xa xa, lòng nàng rộn lên. Chỉ lát nữa đây, nàng sẽ gặp lại cha, gặp lại mẹ, gặp lại cổng trang, sân trang thân yêu mà nàng đã từng sống gần hai chục năm trời.
            Đang đi, thình lình có ba người từ ven đường, cầm đao bước ra ngăn lối. Trần Năng thấy ba người có ý bất hảo, song hôm nay là ngày cô dâu trở về tạ tổ tiên, cha mẹ, nàng không muốn gây chuyện. Phương Dung lên tiếng:
            – Phiền ba anh cho mượn đường.
            Tên đầu đảng cầm đao khoanh trước ngực:
            – Đường này ta mua từ lâu rồi. Ai muốn đi qua, phải tuân theo luật do ta đặt ra.
            Phương Dung hỏi:
            – Xin đại vương cho biết luật đó là luật gì?
            Tên đầu đảng múa thanh đao nói:
            – Điều thứ nhất: Đàn ông muốn đi qua, phải để ta thiến. Còn đàn bà, phải cởi truồng.
            Nói xong, cả ba tên cùng cười hô hố.
            Bỗng bốp, bốp, bốp, ba tên đã bị Phương Dung tát ba cái. Tiếng cười tắt ngấm. Ba tên quát lên rồi cùng rút đao xông vào.
            Phương Dung rút kiếm đưa ra, ánh kiếm lóe lên, ba thanh đao cùng rơi xuống đất. Cổ tay ba tên ứa máu. Chúng chưa kịp phản ứng gì, Phương Dung đã nhảy đến, bẻ tay chúng lốp cốp. Hai bàn tay chúng đều bị trật khớp, không cựa quậy được nữa.
            Nàng nháy mắt cho Trần Năng rồi nói:
            – Hùng phu nhân, phu nhân có thứ thuốc uống vào, chỉ mười ngày sau người ta đứt ruột mà chết. Phu nhân cho tôi ba viên.
            Trần Năng biết Phương Dung hành sự xuất quỷ nhập thần, thấy nàng nháy mắt, Trần Năng vội móc trong bọc ra ba viên thuốc cảm , đưa cho nàng, dặn:
            – Thuốc này mới uống thì không sao. Nhưng sau mười ngày sẽ đứt ruột mà chết. Chỉ có thuốc giải của tôi mới cứu được mà thôi.
            Phương Dung bóp miệng ba tên, nhét thuốc vào mồm chúng, rồi nàng bịt mũi cho chúng nghẹt hơi, phải nuốt viên thuốc vào bụng. Xong, nàng kéo tay chúng, ráp cho khớp xương trở lại như cũ, nói:
            – Thôi, ba vị đại vương cứ tự tiện.
            Nàng vẫy Đào Kỳ, vợ chồng Hùng Bảo lên đường. Ba đại vương tuy đau đổ mồ hôi hột, nhưng cũng phải chạy theo. Chúng đến trước ngựa Trần Năng, quỳ mọp xuống, nói:
            – Xin phu nhân thương tình ban thuốc giải. Chúng tôi là phận tôi tớ, chỉ biết tuân theo lệnh của trang chủ. Trang chủ bảo sao, chúng tôi phải làm vậy.
            Phương Dung hỏi :
            – Trang chủ của ngươi là ai?
            – Thưa là Đinh Công Dũng.
            Phương Dung đưa mắt nhìn Trần Năng hỏi tiếp:
            – Tại sao Đinh Công Dũng lại sai bọn ngươi đón đường bọn ta?
            – Đinh lão gia bảo chúng tôi đón đường, nếu gặp người của trang Thượng-hồng tới tiếp viện thì đốt cỏ lên làm hiệu. Lão gia sẽ đem người tiếp ứng cho Đinh công tử.
            – Đinh công tử đâu?
            – Thưa, Đinh công tử đang đánh phá trang Toàn-liệt.
            Trần Năng nghe nói ruột nóng như lửa, hỏi:
            – Đinh công tử mang bao nhiêu người đi đánh trang Toàn Liệt?
            – Thưa khoảng năm trăm. Lên đường từ sáng.
            Phương Dung quát:
            – Bây giờ các ngươi muốn sống, phải trở về Lôi-sơn, tìm cách đốt dinh Đinh Công Dũng. Phải làm cho bí mật. Sau đó tới đây đợi ta. Ta sẽ cho thuốc giải. Nếu không đốt được dinh Đinh Công Dũng thì đừng đến đây, vô ích, hãy mau về bảo vợ con sửa soạn lo chôn cất nghe chưa?
            Nói rồi, nàng phi ngựa theo vợ chồng Hùng Bảo. Một lát thì tới trang Toàn-liệt. Trong trang, lửa cháy rực trời. Tiếng đàn bà, trẻ con kêu la thảm thiết. Tráng đinh Lôi-sơn đã đánh tới trung ương trang. Trần Hầu cùng tráng đinh cố thủ trong hàng rào dinh mình. Sức chống trả yếu lắm rồi.
            Trần Năng thấy cha mình khắp người đầy máu, đang đốc thúc tráng đinh. Nàng gọi lớn:
            – Bố ơi! Bố đừng sợ. Con đã về đây.
            Nàng rút kiếm xông vào đội hình tráng đinh Lôi-sơn cùng với Đào Kỳ, Phương Dung. Bốn cao thủ cùng ra tay, loáng một cái, trên mười tráng đinh Lôi-sơn đã rơi đầu. Ánh kiếm của Phương Dung như sao sa, như điện chớp. Nàng tiến tới đâu, đầu rơi tới đó. Vòng vây đã bị vỡ.
            Một thanh niên đang chỉ huy tráng đinh tấn công, thấy bốn người xông vào trận, y bèn chỉ cho tráng đinh vây bốn người vào giữa. Nhờ vậy trong dinh Trần Hậu, tráng đinh Toàn-liệt được nghỉ ngơi để chữa cháy.
            Đào Kỳ bật tay một cái, đoạt được hai thanh đao. Chàng dùng kiếm pháp Long-biên múa như mây bay thác đổ. Hợp với kiếm của Phương Dung, hai người đi đến đâu, thây người đổ đến đó.
            Trần Năng vọt qua hàng rào, vào đỡ cha:
            – Bố ơi, bố có sao không?
            Trần Hầu mải chỉ huy tráng đinh chống trả bên địch, nên còn có sức. Khi thấy con gái xuất hiện, ông mới thấy mệt. Ông không biết võ, lại bị trúng thương nhiều chỗ. Ông buông kiếm, người loạng choạng muốn ngã. Trần Năng vội ôm bố vào nhà, lấy thuốc băng bó cho ông. Nàng dặn tráng đinh trông coi ông, rồi nghiến răng, cầm kiếm xông ra ngoài. Thấy Phương Dung, Đào Kỳ, Hùng Bảo đã đánh cho tráng đinh Lôi-sơn phải lui ra gần cổng trang. Nàng rút kiếm nhảy vào. Cứ mỗi lưỡi kiếm đưa ra, một cái đầu rơi. Thình lình kiếm nàng chạm phải một lưỡi kiếm khác đánh choang một cái. Kiếm của nàng vọt lên cao. Cánh tay nàng tê dại, gần như không còn cử động được. Nàng nhìn lên, thấy đối thủ là một thanh niên tuổi khoảng 23, 24, gương mặt hơi giống Đinh công Dũng. Nàng than thầm:
            – Ta nghe đồn rằng Đinh Công Dũng có hai người con. Người con gái học ở Đăng-châu, người con trai thì học ở Quế-lâm, y tên là Đinh Công Minh, võ công y còn cao hơn cha chú. Có lẽ là tên này đây.
            Ỷ có Đào Kỳ, Phương Dung bên cạnh, Trần Năng vọt người lên, đá một Hồi phong cước vào đầu ngựa Đinh Công Minh. Con ngựa bị trúng cước, kêu thét lên một tiếng, nhảy dựng vó trước. Đinh Công Minh đạp chân vào yên ngựa, tung mình lên cao. Từ trên cao, y phóng chưởng đánh Trần Năng. Trần Năng chửi thầm:
            – Ta là đệ tử Tản-viên, sở trường về chưởng, nay ngươi đấu chưởng với ta, đó là điều ta cầu mà không được vậy.
            Nàng lui lại, đứng hạc tấn, vung chưởng đỡ. Chưởng của nàng là Phục-ngưu thần chưởng. Đó là chiêu Thanh ngưu nhập điền. Bốp một tiếng, Đinh Công Minh bật lui lại một bước.
            Y kêu lên một tiếng kinh ngạc, hỏi:
            – Cô nương, thì ra cô nương là đệ tử phái Tản-viên?
            Đinh Công Minh mới từ Quế-lâm trở về, y đã đấu với cha và chú. Y thắng được Đinh Công Hùng, nhưng thua Đinh Công Thắng.
            Trong ba anh em họ Đinh, Đinh Công Dũng lớn nhất, xu phụ theo người Hán. Y muốn thống nhất các trang, động Nam Mê-linh để ăn thua với các trang động của Bắc Mê-linh, của Đặng Thi Sách và Nhị Trưng. Y xu phụ người Hán để mong chức huyện úy. Em thứ nhì của y là Đinh Công Hùng, võ công tầm thường, nhưng nhiều mưu lắm mẹo, cũng theo chân y, ức hiếp người Việt. Em thứ ba là Đinh Công Thắng, võ công cao cường, hùng tâm, tráng chí, thương yêu dân chúng, có ý phục quốc. Vì vậy Thắng không hợp với hai anh. Trang ấp của Đinh Công Thắng không chịu nhập vào hệ thống của hai anh. Đinh Công Minh tuổi trẻ hào sảng, văn võ kiêm toàn. Y cùng chủ trương với Đinh Công Thắng. Đinh Công Dũng tức quá, không biết làm thế nào, thì Đinh Công Hùng hiến kế rằng:
            – Chúng ta cần bày một kế để cho cháu Minh tấn công trang Toàn-liệt. Khi đã tấn công rồi, dù muốn dù không, y cũng phải theo chúng ta.
            Rồi Công Hùng cho gọi Công Minh tới nói rằng:
            – Trang chủ Toàn-liệt là Trần Hậu. Y làm tai mắt cho sở Tế-tác Giao-chỉ. Trong trang y hiện giam hàng trăm người Việt yêu nước nuôi chí phục hồi Lĩnh Nam. Vậy cháu hãy đem tráng đinh bất thình lình đánh vào, để giải thoát cho họ.
            Đinh Công Minh mới từ xa về, không nắm vững tình hình. Chú nói sao, nghe làm vậy. Chàng dẫn tráng đinh bất thần đánh vào trang Toàn-liệt. Trận chiến diễn ra khốc liệt. Chàng thấy tráng đinh Toàn-liệt chiến đấu can trường, rõ ra những người liệt sĩ, chứ không phải là bọn trộm cướp như chú mình nói. Y muốn thâu quân về, nhưng sự đã lỡ, chưa biết tính sao, thì thấy bốn người, hai nam, hai nữ ở đâu nhảy vào vòng chiến. Y mới giao chiến với Trần Năng một chưởng, đã thấy ở nàng một bản lĩnh không tầm thường. Đinh Công Minh hỏi:
            – Cô nương là ai?
            Trần Năng đáp:
            – Ta là con gái Trần-hầu. Ngươi là Đinh Công Minh phải không? Cha ngươi vì tham vọng muốn gồm thâu các trang, động Nam Mê-linh, bố ta không đồng ý, cha ngươi đã sai ngươi tới gây ra thảm cảnh này. Ta nói cho ngươi biết, trang Toàn-liệt ta người ít, thế cô, nhưng ta cương quyết chống trả. Hãy tiếp chưởng của ta.
            Nàng lui lại hai bước, vận khí tấn công. Đinh Công Minh vung tay đỡ. Hai người lăn vào đấu với nhau.
            Về phía Phương Dung, Đào Kỳ, Hùng Bảo, ba người dồn tráng đinh Lôi-sơn ra khỏi trang Toàn-liệt. Phương Dung cho tráng đinh đóng cửa trang, dồn nỗ lực cứu hỏa. Nàng trở lại, thấy Đào Kỳ đứng khoanh tay lược trận, Trần Năng đang đấu với Đinh Công Minh. Đào Kỳ nói:
            – So về chưởng pháp tinh diệu thì Trần Năng hơn Đinh Công Minh. Nhưng so về công lực thì nàng thua xa. Nàng tuy là học trò của Khất đại phu, nhân vật khét tiếng thiên hạ, nhưng thời gian luyện tập chưa được bao lâu. Mới đây, tuy được anh chỉ điểm, nhưng công lực vẫn còn chưa đủ.
            Đào Kỳ thấy võ công của Đinh Công Minh hơi giống võ công của Nghiêm Sơn. Y lại mới du học ở Quế-lâm về, không chừng y cùng môn hộ với Nghiêm đại ca cũng nên.
            Dần dần Trần Năng đã hơi yếu thế. Nhưng ỷ có Đào Kỳ, Phương Dung bên cạnh, nên nàng vẫn bình tĩnh phát chiêu. Phương Dung bảo Đào Kỳ:
            – Anh nhắc Trần Năng mấy câu, nếu không, nàng bại đến nơi rồi. Đào Kỳ nói:
            – Anh muốn coi bản lĩnh chân thực của Đinh Công Minh nên không muốn can thiệp vào.
            Được hơn mười chiêu nữa, bỗng Trần Năng quát lên một tiếng, nàng ra chiêu Loa thành nguyệt ảo của Cửu-chân. Đinh Công Minh vung chưởng đỡ. Bình một tiếng, y thấy khí huyết đảo lộn, vội nhảy lui hai bước, hít một hơi chân khí.
            Y mới trở về Giao-chỉ, chưa kinh nghiệm nhiều, nên không biết chiêu vừa rồi là võ công Cửu-chân. Y chỉ thấy một chiêu dũng mãnh, gia số kỳ diệu, nhưng y vẫn tưởng đó là võ công Tản-viên. Chân khí vừa phục hồi, y hít một hơi dài, tiếp tục tấn công. Trần Năng tiến lên một bước, nàng ra chiêu Hải triều lãng lãng của Cửu-chân. Chưởng phong ào ào chụp xuống. Đinh Công Minh thấy chưởng quái ác, vội vận sức chống. Binh một tiếng, y phải lùi lại đến bốn bước mới đứng vững. Trong khi đó, Trần Năng cũng phải lùi lại hai bước. Hải triều lãng lãng là một chiêu có năm lớp. Lớp đầu mạnh hai thì lớp thứ nhì mạnh bốn. Vì vậy khi Trần Năng phát lớp thứ nhì, y cảm thấy bất hảo, nghiến răng vận đủ mười thành công lực đỡ, y mượn sức địch, nhảy lui về sau năm bước để hóa giải kình lực.
            Trần Năng phóng lớp thứ ba, nhưng chưởng không ra.
            Nguyên Hải triều lãng lãng là một chiêu số sáng tác của An Dương vương trước khi tự tử. Uất khí chồng chất nên chân khí đầy rẫy, mới đủ lực phát năm lớp. Ở đây, Trần Năng chân khí chưa đủ, lại mới lấy chồng, nguyên khí bị kém, vì vậy, khi phát đến lớp thứ ba thì không còn lực.
            Đinh Công Minh cười lớn:
            – Tưởng võ công Tản-viên thế nào, không ngờ chỉ có vậy thôi sao?
            Y phóng một chưởng chụp xuống đầu Trần Năng. Trần Năng biết cơ nguy đến, nàng chưa biết phải giải quyết ra sao, thì Đào Kỳ đã hô lớn:
            – Thiết kình quá hải.
            Thiết kình quá hải là một chiêu trong Thiết kình phi chưởng của phái Cửu-chân mà Đào Kỳ đã dạy Trần Năng. Thiết kình phi chưởng là một chưởng pháp lâu đời của phái Cửu-chân. Khi phát chưởng, lực đạo như một mũi dùi, đánh thẳng vào đối phương. Chiêu Thiết kình quá hải là một chiêu trông rất thô kệch, khi phát ra không thấy chưởng phong. Đối phương thấy vậy sẽ có ý khinh thường. Khi mũi nhọn đâm vào người, đối phương sẽ không còn đủ thời giờ để phản công nữa.
            Trần Năng xoạc cẳng, cuộn tròn hai tay, đẩy chưởng về trước. Đinh Công Minh ngơ ngác tự hỏi:
            – Chưởng này là chưởng gì mà lại kỳ lạ thế này?
            Y còn đang ngần ngại chưa biết phải phản công ra sao, thì mũi thiết kình đã chạm vào ngực y. Y vận khí chịu đòn, nhưng đã trễ. Chưởng như một mũi dùi đâm vào ngực. Đau quá, y nhăn mặt nhảy lui lại, hơi thở như gián đoạn.
            Y quay lại nhìn, thấy tráng đinh Toàn-liệt lăm lăm vũ khí như muốn ăn tươi, nuốt sống y. Nhưng y là người can đảm, vẫn không lùi bước. Y hít một hơi thực dài rồi dùng quyền tấn công. Quyền pháp của y không ảo diệu, nhưng dường như khắc chế với quyền pháp Cửu-chân. Trần Năng thì dùng quyền pháp Tản-viên chống lại. Đào Kỳ quan sát quyền pháp của Đinh Công Minh mà ngây người ra, vì, mỗi chiêu, mỗi thức đều bao hàm chống lại quyền pháp của Cửu-chân nhà chàng. Phương Dung cũng cảm thấy thế. Nàng thấy quyền của Đinh Công Minh, dường như chỉ để chống quyền pháp phái Long-biên nhà nàng.
            Chợt nhớ ra điều gì, nàng nói với Đào Kỳ:
            – Trước đây chỉ có võ công Văn-Lang, Âu-Lạc. Sau, Vạn-tín hầu Lý Thân và Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung nghiên cứu võ công Trung-nguyên, rồi chế ra võ công Âu-Lạc để khắc chế lại. Cho nên, người sử dụng võ công Âu-Lạc, đấu với người sử dụng võ công Trung-nguyên thì thắng dễ dàng. Phàm khi hai đấu thủ giao tranh, bao giờ cũng phải tìm ra sơ hở của đối phương mà đưa ra những chiêu thích hợp để phản công. Đệ tử Âu-Lạc đấu với người Trung-nguyên, thì võ công đã bao hàm những chiêu sát thủ sẳn, nên thắng dễ dàng.
            Khi Trọng Thủy sang làm rễ Âu-Lạc, y dùng lời nói ngọt ngào, dụ dỗ Mỵ Châu lấy cắp bí quyết võ công Âu-Lạc cho y. Y học rồi về trình bày lại cho cha. Triệu Đà nhân đó mới nghiên cứu ra các chiêu thức phá võ công Âu-Lạc. Chắc Đinh Công Minh học võ công với các đời sau của Triệu Đà, nên võ công y mới khắc chế võ công Cửu-chân, Long-biên.
            Một lát sau, Trần Năng cảm thấy khí lực suy kiệt, lui dần đến bên cạnh đống rơm. Đinh Công Minh phát một chưởng thần tốc đánh vào đầu nàng.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #21
              Hồi 20

              Công cha như núi Thái-sơn,
              Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
              (Ca dao)


              Trần Năng đang hoảng hốt thì Đào Kỳ đã phi thân đến trước mặt nàng. Chàng phất tay đỡ chưởng của Đinh Công Minh. Hai chưởng lực gặp nhau, Đinh Công Minh cảm thấy chưởng lực của mình mất tăm mất tích. Y lùi lại mấy bước, trố mắt nhìn địch thủ: Đó là một thiếu niên ít hơn y tới mấy tuổi.
              Y bàng hoàng, sửng sốt. Tại sao trên đời lại có người luyện được nội công âm nhu đến độ hai chưởng chạm vào nhau, kình lực của y mất tăm mất tích luôn? Y vẫn chưa tin, vội hít một hơi chân khí, vận đủ mười thành công lực tấn công.
              Chưởng phong của y ào ào tuôn ra. Trần Năng đứng sau còn cảm thấy nghẹt thở. Đào Kỳ vẫn ung dung đợi cho chưởng của địch tới nơi rồi mới đỡ. Hai chưởng gặp nhau, dính tẹt làm một. Đào Kỳ thấy chưởng đối phương thuộc loại dương cương, chàng vận âm nhu ra chống đỡ. Một lúc sau, mặt y đỏ bừng lên. Chàng biết chân khí y phát huy cùng cực rồi. Hai người tiếp tục đấu nội lực. Được một lát thì Đinh Công Minh cảm thấy yếu dần. Y muốn lên tiếng van xin, nhưng nếu mở miệng ra thì lập tức ộc máu mà chết. Y tự nghĩ:
              – Thôi rồi! Hôm nay ta phải chết.
              Đào Kỳ thấy nếu tiếp tục một lát nữa, gã họ Đinh tất phải chết. Tuy cha gã là một ma đầu, nhưng gã là một thiên tài, giết đi thực đáng tiếc. Chàng từ từ thu hồi nội lực. Đinh Công Minh như xuống quỷ môn quan được trở về, bải hoải ngồi bịch xuống đất.
              Phương Dung dí kiếm vào cổ y, hỏi:
              – Mi chịu phục chưa?
              Hắn gật đầu, uể oải đứng dậy nói:
              – Thiếu niên kia, ta muốn biết tên ngươi. Chưởng pháp của ngươi là chưởng pháp Tản-viên, nhưng ta thấy chính Đặng Thi Sách chưởng môn của phái này cũng không phải là đối thủ của ngươi. Vậy ngươi là đệ tử của ai?
              Đào Kỳ nói:
              – Ta không phải người của phái Tản-viên. Võ công ta học là võ công Văn-Lang, nên có đôi phần giống võ công Tản-viên. Hôm nay ta tha cho ngươi trở về. Ngươi đã bại thì phải mang trâu bò đến Thượng-hồng mà nộp.
              Đinh Công Minh nói:
              – Ta sẽ làm như lời ngươi nói.
              Rồi y vẫy tráng đinh ra đi. Lệ bấy giờ, hai đấu thủ đấu với nhau tới chỗ sống chết, nếu bên này thua, muốn được đối phương tha chết thì phải nộp từ mười trâu trở lên để chuộc mạng. Đáng lẽ giết Đinh Công Minh trả thù cho Trần Hậu, nhưng Đào Kỳ là người nhân hậu, chàng tiếc tài, không muốn giết một thiếu niên có chân tài, lại có khí phách, chứ không giống như cha chú.
              Chàng nói với Hùng Bảo:
              – Sư điệt, người cùng tráng đinh mai táng cho nhạc gia đi.
              Hùng Bảo cùng vợ điều động tráng đinh chôn cất Trần Hậu và những người tử thương. Trần Năng nói:
              – Bây giờ trang của ta bị đốt phá hết rồi, các anh em hãy mang gia đình sang trang Thượng-hồng mà ở.
              Các tráng đinh vội vàng thu xếp đồ đạc, trâu bò, gà vịt, dắt díu vợ con, lên xe hướng Thượng-hồng tiến phát. Đoàn người đi một buổi mới tới Thượng-hồng. Hùng-hầu được tin, cho mở rộng cổng trang đón những người của trang Toàn-liệt. Ông nói:
              – Trần-hầu với ta tuy là thông gia, nhưng tình như thủ túc. Chắc Trần Hầu cũng đã trối lại những điều giữa người và ta cùng mưu sự. Hỡi ôi! Ta những tưởng một mai sạch bóng quân thù, ta cùng Trần-hầu, ngày ngày cưỡi ngựa, tiêu dao mây nước, thế mà thoáng đây, nay đã cách trở đôi đàng!
              Đào Kỳ hỏi:
              – Ngày mai, ba mươi sáu động thuộc Nam Mê-linh họp để cử người đại diện dự đại hội Tây-hồ. Không biết Đinh Công Dũng có mời Thượng-hồng và Toàn-liệt ta dự không?
              Trần Năng đưa ra bức thư:
              – Có, trước ngày cưới, bố cháu cho biết người đã nhận được thư của Đinh Công Dũng mời tham dự đại hội 36 trang, động vùng Nam Mê-linh, chuẩn bị cho đại hội Tây-hồ. Bây giờ cha cháu đã ra người thiên cổ, cháu là con duy nhất, đương nhiên kế vị người. Sư thúc thử nghĩ xem cháu có nên đi không?
              Phương Dung hỏi:
              – Trong thư có giới hạn mỗi trang được mang đi bao nhiêu người không?
              Trần Năng gật đầu:
              – Ít nhất một người, nhiều nhất trăm người.
              Hùng Trọng nói:
              – Tôi thấy đại hội này Đinh Công Dũng dùng để thống nhất 36 trang, động lại. Vậy chúng ta phải đi, hầu phá vỡ âm mưu đó. Đại diện cho Thượng-hồng có tôi với Bảo. Tôi xin mạn phép thỉnh sư thúc đi theo trợ thủ, không biết người nghĩ sao?
              Đào Kỳ nói:
              – Sư tỷ giao Bảo cho tôi, tôi có bổn phận phải lo. Tôi nghĩ, khi Đinh Công Dũng ép các trang, động thống nhất làm một, chúng ta cứ chấp thuận. Cuối cùng sẽ đi đến việc cử người làm thống lĩnh, ta cứ bạo tay đoạt lấy.
              Phương Dung bàn:
              – Về phía Toàn-liệt thì Hùng phu nhân là trang chủ, tôi xin đi theo trợ giúp. Dù không thắng được Đinh Công Dũng, ít ra cũng phá cho đại hội nát bét. Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị cho chu đáo.
              Đào Kỳ đồng ý:
              – Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Nghiêm đại ca hứa sẽ nhắm mắt cho chúng ta làm việc này, chúng ta cứ tiến tới.
              Phương Dung bàn:
              – Chúng ta thấy những gì có lợi cho việc phục quốc thì cứ làm. Nếu có động đến quan nha thì để Đào đại ca đứng chủ trì. Lĩnh Nam công thì không dám trái ý phu nhân. Còn phu nhân thì rất thương yêu Đào đại ca. Ta cứ lợi dụng làm tới.
              Cuối cùng, Hùng Trọng mang theo Hùng Bảo, Đào Kỳ. Còn Trần Năng mang theo Phương Dung với hai tỳ nữ.
              Sáng sớm hôm sau, họ cùng lên đường, nhắm hướng Lôi-sơn mà đi. Họ đi rất chậm. Trong khi đi đường, Đào Kỳ đã giảng dạy cho Hùng Bảo những tinh yếu về võ công của Cửu-chân. Còn Phương Dung với Trần Năng thì ríu rít chuyện trò.
              Tới chân núi Lôi-sơn thì có một toán ba người mặc quần áo xanh, chắp tay hành lễ:
              – Lôi-sơn tam hùng sai bọn tôi đến đây nghinh tiếp đại giá Trần trang chủ Toàn-liệt và Hùng trang chủ Thượng-hồng.
              Hùng Trọng và Trần Năng đáp lễ, rồi đi theo đám người tiếp rước. Đến giữa sườn núi lại có đám người khác tiếp rước thay thế cho đám người kia trở xuống. Đường lên núi đã được sửa chữa bằng phẳng, cây cối cũng được chặt cho gọn gàng, quang đãng. Xem vậy đủ biết Đinh Công Dũng đã chuẩn bị cho đại hội này thực kỹ càng. Nơi họp đại hội là đỉnh một ngọn đồi, nằm dưới chân núi Ba-vì. Đây là ngọn núi cao, hùng vĩ của vùng Mê-linh. Giữa đồi dựng lên một đài cao, xung quanh có tám khán đài làm theo hình bát quái. Hùng Trọng vừa tới nơi thì có tiếng loa gọi lớn:
              – Hùng hầu, trang chủ Thượng-hồng và phái đoàn tới.
              Đinh Công Thắng bước ra, chắp tay hành lễ:
              – Xin mời Hùng-hầu lên đài cho.
              Hùng Trọng dẫn Hùng Bảo lên khán đài ngồi.
              Tiếng hô lại tiếp tục:
              – Trần hầu, trang chủ Toàn-liệt tới.
              Một thiếu nữ xinh đẹp, mắt sắc như dao cau, chắp tay mời Trần Năng:
              – Xin mời Trần hầu.
              Trần Năng nói nhỏ với Phương Dung:
              – Cô này là Đinh Hồng Thanh, con gái Đinh Công Dũng. Nàng trọ học tại nhà bà cô ở Đăng-châu mới về. Nghe đâu võ công của nàng không kém gì anh là Đinh Công Minh.
              Phương Dung liếc nhìn Đinh Hồng Thanh, thấy dáng người mảnh mai, nước da trắng, môi hồng, mặc bộ quần áo lụa xanh, thắt giây lưng tím, phất phơ trước gió như một vị tiên nữ.
              Trần Năng nói nhỏ vào tai Phương Dung:
              – Sư thẩm coi kìa, cô nàng đẹp có kém gì sư thẩm đâu?
              Hai người cùng tỳ nữ lên đài ngồi:
              Chợt tiếng loa lại hô lớn:
              – Chưởng môn phái Tản-viên và phái đoàn tới.
              Đào Kỳ, Phương Dung cùng rúng động. Từ hồi còn nhỏ, chàng đã nghe nói đến đương kim chưởng môn phái Tản-viên là Đặng Thi Sách, một trong đệ nhất cao thủ đương thời. Phái Tản-viên có chi phái lớn, một do họ Đặng chưởng quản, một do họ Trưng chưởng quản. Nhưng từ hơn trăm năm nay, hai họ không đồng ý với nhau, nên dù phái Tản-viên lớn là thế, vẫn không thể khôi phục được đất nước.
              Trong kỳ đại hội Quế-lâm để tranh chức Lĩnh Nam võ lâm chí tôn thì chưởng môn phái này là Đặng Thi Kế với sư đệ là Nguyễn Thành Công đứng đầu. Sau đó, đệ tử của Nguyễn Thành Công là Phong-châu song quái phản sư môn, qua lại giang hồ, gây nên một trường sát nghiệp kinh thiên động địa, khiến Nguyễn Thành Công xấu hổ, đã tuyệt tích giang hồ. Còn Đặng Thi Kế truyền chức chưởng môn cho con là Đặng Thi Sách, rồi cũng tuyệt tích luôn.
              Tuy Phong-châu song quái có hành vi ác độc, nhưng chính những hành vi đó, làm cho mọi người biết tiếng võ công Tản-viên đứng đầu thiên hạ. Có ai ngờ rằng Đặng Thi Kế bị sư thúc là Lê Đạo Sinh bắt giam ở dưới hầm trong vùng Long-biên, mà Đào Kỳ đã gặp. Riêng Nguyễn Thành Công không biết hiện giờ ở đâu?
              Trong phái Tản-viên, cao thủ như rừng. Họ đều là người nghĩa hiệp, mưu đồ phục quốc. Trên Đặng Thi Sách còn hai người thái sư thúc, đó là Trần Đại Sinh, tuyệt tích giang hồ đã lâu, Đào Kỳ biết ông ẩn thân để nghiên cứu y học giúp đời. Ông là sư phụ của Trần Năng. Người thái sư thúc thứ nhì hiện được coi như là Thái-sơn Bắc-đẩu, đó là Lê Đạo Sinh, khắp giang hồ đều tôn ông là Lục-trúc, cho rằng ông là người quân tử. Nhưng Đào Kỳ đã biết rõ hành vi của y. Y chỉ là một tên ngụy quân tử trá hình. Khi rời Cửu-chân, Đào Kỳ nghe hai chi phái lớn nhất Tản-viên đã hợp lại với nhau, bằng cuộc hôn nhân của hai người thừa kế là Đặng Thi Sách và Trưng Trắc. Cho nên hôm nay Đào Kỳ, Phương Dung nghe Đặng Thi Sách đến, cả hai không khỏi rúng động. Phái đoàn Tản-viên là quan khách, được mời đến một khán đài riêng biệt.
              Phương Dung hỏi Đào Kỳ:
              – Phái đoàn Tản-viên đông đấy nhỉ? Người đi đầu là Đặng Thi Sách, người đàn bà đi cạnh chắc là Trưng Trắc. Còn người đàn bà thứ nhì đi cạnh Trưng Trắc chắc là Trưng Nhị.
              Đào Kỳ chú ý nhìn Đặng Thi Sách, tướng đi bệ vệ, mắt nhìn thẳng, mặt hơi bầu, dáng người cao lớn, cử chỉ hòa nhã, vui tươi. Trưng Trắc dáng người thanh nhã, da trắng, mắt bồ câu đen, to, lưng đeo bảo kiếm. Trái lại, Trưng Nhị dáng người hơi đậm đà, da trắng, môi hồng, nụ cười luôn nở trên môi.
              Phái đoàn Tản-viên đến chỗ khán đài Đào Kỳ, thì Hùng Trọng đứng dậy, hành lễ:
              – Hùng Trọng xin tham kiến chưởng môn phái Tản-viên và phu nhân, cùng các vị anh hùng.
              Trưng Trắc đáp lời:
              – Hùng hầu, ngài là người thuộc dòng họ thân mẫu tôi, kể vai vế, tôi phải gọi người bằng cậu. Vậy xin cậu đừng quá đa lễ.
              Trưng Nhị nhìn Hùng Bảo nói:
              – Hôm trước được tin đệ đệ thành hôn, chúng ta bận quá, không đến chia vui được, chúng ta thành thực chịu lỗi với đệ đệ.
              Hùng Trọng nói:
              – Nhị Trưng là người hào kiệt đương thời, đừng quá khách sáo.
              Đặng Thi Sách thấy Trần Năng để tang, thất kinh hỏi:
              – Trần muội muội, chẳng hay lão bá đâu không đến dự?
              Trần Năng chỉ vào Đinh Công Dũng:
              – Tên ác tặc kia đã hại bố em rồi.
              Rồi nàng kể sơ lược tự sự cho Đặng Thi Sách nghe. Đặng Thi Sách nói:
              – Đinh tiên sinh định thống nhất 36 trang, động, không hiểu ý muội muội thế nào?
              Trần Năng nói:
              – Trang Thượng-hồng với Toàn-liệt sẽ chống đến cùng.
              Đặng Thi Sách nói:
              – Chúng ta tới đây cũng chỉ vì vấn đề đó. Dường như Đinh tiên sinh muốn thống nhất các trang, rồi sau đó, ăn thua đủ với những trang Bắc Mê-linh của ta...
              Nhị Trưng nhìn thấy Đào Kỳ và Phương Dung, đưa mắt ngó Hùng Trọng. Hùng Bảo nói:
              – Đây là Đào sư thúc của em. Còn đây là Nguyễn cô nương từ Long-biên tới.
              Nhị Trưng nhìn Đào Kỳ, Phương Dung tự nhiên cảm thấy như thân quen nhau tự bao giờ. Trưng Nhị nắm tay Phương Dung:
              – Em này, sau đại hội, nhất định hai em phải đến Bắc Mê-linh chơi với chúng ta ít hôm.
              Chủ ý chuyến đi này của Đào Kỳ và Phương Dung là tìm gặp Đặng Thi Sách và Nhị Trưng, nên Phương Dung nói ngay:
              – Hồi em còn bé xíu đã nghe danh Đặng chưởng môn, và nhất là Tản-viên song phượng Trưng Trắc, Trưng Nhị. Bố em thường nói: Sinh làm con trai mà chưa gặp Đặng Thi Sách thì coi như uổng một đời. Sinh làm con gái mà không được thấy Tản-viên song phượng thì đừng xưng là con gái Âu Cơ.
              Nhị Trưng còn đang quyến luyến Phương Dung chưa muốn rời, thì tiếng loa đã lại hô lớn:
              – Tổng động chúa 72 động Tây-vu tới!
              Mọi người quay lại, thấy một cụ già đầu tóc bạc phơ, ngồi trên một con ngựa ô đen không cương đang đi vào. Phía sau là một con voi trắng. Con voi có đặc điểm là hai cái ngà chéo nhau trông rất đẹp. Trên bành voi, một nữ lang ngồi với một thanh niên. Đào Kỳ ngơ ngác hỏi Trưng Nhị:
              – Tản-viên song phượng, xin tỷ tỷ cho biết họ là ai vậy?
              Trưng Nhị nói:
              – Họ là khách đấy. Nguyên phía tây vùng Mê-linh ta, là vùng núi rừng Thiên-sớ thuộc đất Tây-vu, nơi phát xuất ra Thục An-Dương vương, có 72 châu. Gần đây, 72 châu đã thống nhất, cụ Hồ Công An làm thống lĩnh.
              Phương Dung hỏi:
              – Hồ lão gia có biết võ không?
              Trưng Trắc nói:
              – Ông không biết võ, nhưng con gái và con trai ông là hai cao thủ người Mường. Tính tình họ chất phác, ngay thẳng. Suốt bao năm qua, họ sống tiêu dao, tự tại với núi rừng. Người con gái là Hồ Đề, còn người con trai là Hồ Hác.
              Hồ Công An tuổi già, sức yếu, ông lên đài ngồi, chắp tay hướng vào đài hội vái chào. Còn Hồ Đề, Hồ Hác thì đi khắp các khán đài chào mọi người. Tới khán đài có Đào Kỳ, Phương Dung gặp Đặng Thi Sách, Nhị Trưng. Hồ Đề nói:
              – Chị em chúng tôi tới đây không phải để xem lão con khỉ làm trò, nhưng tới để được gặp những người anh kiệt thời đại như Đặng chưởng môn, Nhị Trưng và các vị đây.
              Thế là họ kết thành một nhóm, đem chuyện phục quốc ra nói công khai. Một thiếu nữ đứng sau Trưng Nhị nói:
              – Xin các anh, các chị nên kín đáo thì hơn. Rừng có mạch, bức vách có tai.
              Hồ Đề nói:
              – Phải, chúng ta sẽ gặp nhau ở Mê-linh, tha hồ mà bàn.
              Nàng liếc nhìn thiếu nữ nói câu đó thì thấy đó là một thiếu nữ dáng người mảnh mai, bàn tay nhỏ đẹp, gương mặt thanh tú. Trưng Nhị giới thiệu:
              – Đây là Nguyễn Quý Lan. Lan mới đến Mê-linh với chúng tôi không lâu. Người thì nhỏ, võ công không cao, nhưng văn tài, kế hoạch thì cực lỗi lạc.
              Phương Dung hỏi Hồ Đề:
              – Chị Hồ Đề, em hơi tò mò, chị đừng trách. Chị kiếm đâu được con ngựa đen cao lớn như vậy? Hơn nữa, làm cách nào, không cần cương, cũng cỡi được?
              Hồ Đề nắm tay Phương Dung:
              – Em thắc mắc cũng phải. Nguyên nó là một con ngựa rừng, một hôm đi săn, chị gặp nó. Không những nó không sợ chị mà còn chạy đến đá, cắn ngựa của chị. Lập tức chị phi thân phóng lên lưng nó. Nó tinh lắm, dựng đứng thân lên rồi phi thẳng, làm chị đáp hụt. Chị đang ở trên cao, liền đá gió một cái, người tạt ngang, thì nắm được bờm nó, giật mạnh. Thế là người chị bay vào lưng nó. Nó hí lên rồi nhảy dựng. Nó nhảy thế nào, mặc nó, chị cũng cứ bám chặc lấy bờm. Nó thấy nhảy dựng không hất được chị ngã, nó liền phóng nước đại, rồi thỉnh thoảng lại nhảy lên. Chị mặc kệ, cứ nắm chặt bờm. Chạy được một lúc, nó ngưng lại thở, tỏ vẻ phục tùng. Nó rất tinh khôn. Chị luyện cho nó quen với âm thanh, điều khiển nó như điều khiển người vậy.
              Nói rồi Hồ Đề hú lên một tiếng dài. Lập tức thấy tiếng ngựa hí, rồi con ngựa ô phi thẳng đến gần khán đài, nghểnh cổ nhìn chủ. Trần Năng tính hiếu động, hỏi Hồ Đề:
              – Chị cho em cỡi thử được không?
              Hồ Đề cười:
              – Được chứ. Em cứ cỡi đi. Chị bảo nó chạy cho mà coi.
              Trần Năng phi thân vọt lên mình ngựa. Lưng nàng uốn cong, trông thực ngoạn mục. Hồ Đề hí lên một tiếng dài, một tiếng ngắn, con ngựa ô phi nước đại quanh khán đài. Trần Năng thấy gió ù ù bên tai, thích quá. Con ngựa chạy được một vòng rồi ngừng lại. Trần Năng nhảy xuống. Phương Dung nói:
              – Ngựa của chị hiền như vậy, coi chừng bị ăn cắp.
              Hồ Hác cười:
              – Cô nương nói đùa thì thôi. Nếu không có lệnh của chủ, ngươi khác cỡi lên thì đừng hòng yên với nó.
              Phương Dung không phục. Nàng phi thân vọt lên lưng ngựa ô. Con ngựa thấy người muốn cỡi lên lưng nó mà không có lệnh của chủ, nó dựng đứng lên, rồi hí một tiếng dài. Phương Dung lơ lửng trên không sắp rơi xuống, nàng đạp chân trên lưng ngựa, vọt lên cao, vừa lúc con ngựa đứng xuống. Nàng đã cỡi trên lưng nó. Con ngựa lại hí lên rồi phi nước đại. Phương Dung đứng một chân trên lưng ngựa. Dù ngựa phi như thế nào nàng cũng chỉ đứng một chân. Nó vẫn chưa phục thỉnh thoảng lại dựng đứng lên, nhưng chân Phương Dung vẫn bám sát lưng nó. Quan khách không biết bao nhiêu người đều nhìn Phương Dung cỡi ngựa. Họ ngạc nhiên:
              – Không hiểu một cô gái nhỏ bé thế kia mà học ở đâu được khinh công đến tuyệt mức như vậy?
              Chính Đặng Thi Sách với Nhị Trưng cũng ngẩn người ra:
              – Cô bé có khinh công đến mức ấy thì muôn vạn lần mình không bằng. Trước đây, mình nghe sư phụ nói khinh công phái Long-biên tuyệt thế vô song, hôm nay mình mới được thấy lần thứ nhất.
              Con ngựa chạy một lúc rồi ngừng lại thở, tỏ ý khâm phục. Phương Dung nhảy xuống, vỗ bờm nó, nó liếm tay nàng, tỏ ý âu yếm. Hồ Đề nói:
              – Tiểu muội muội, nếu em thích, chị tặng em con ngựa này đó.
              Phương Dung bái tạ:
              – Tính em thích đùa, cỡi thử một lúc thôi. Em không dám nhận của chị đâu.
              Hồ Đề tát yêu Phương Dung một cái:
              – Đã là chị em, còn nề hà gì nữa?
              Phương Dung đành tạ ơn, rồi hỏi Hồ Đề những âm thanh để sai khiến ngựa.
              Quan khách đã đến đủ, bọn Đặng Thi Sách, Hồ Đề về khán đài ngồi. Một đệ tử của Lôi-sơn ra giữa sân đốt lên một cây pháo cối lớn, lập tức, bốn phương tiếng pháo nổ liên hồi. Pháo dứt, Đinh Công Dũng lẫm liệt bước lên giữa đài trung ương, chắp tay xá mọi người, rồi nói:
              – Thưa quý vị huynh đệ xa gần. Hôm nay là ngày 36 trang, động Nam Mê-linh chúng tôi đại hội để thống nhất. Chúng tôi lấy làm cảm động thịnh tình quý khách từ xa tới đây chứng kiến.
              Ngừng một lúc cho mọi người vỗ tay, hắn nói tiếp:
              – Thưa quý vị huynh đệ trang chủ, động chủ 36 trang, động Nam Mê-linh, từ hơn trăm năm nay, các trang chúng ta sống rải rác, không nương tựa vào nhau, thậm chí còn coi nhau như người ngoài, chém giết lẫn nhau, tranh giành quyền lợi của nhau. Vì vậy, gần đây, tôi đã luận bàn với các vị đạo cao đức trọng trong 36 trang, động chúng ta bàn về việc hợp nhất làm một. May mắn thay, các vị đều đồng ý cả. Cho nên hôm nay, chúng ta mới hội nhau nơi đây để ra mắt anh hùng thiên hạ.
              Bỗng một động chủ trong khán đài của 36 động đứng dậy nói:
              – Đinh trang chủ nói rằng đã bàn với anh em, chẳng hay những người ấy là ai? Lão Du tôi là một động chủ mà sao không biết? Động Nam-hà của ta truyền từ trên ba mươi đời nay, lúc nào dân chúng cũng sống ấm no đầy đủ. Không bao giờ ta chịu bỏ đâu.
              Bỗng có người ngồi cạnh lão Du quát lớn:
              – Du Lợi Nhan, người có đủ tư cách làm động chủ động Nam-hà chăng?
              Du Lợi Nhan nhìn lại thì là con cựu động chủ tiền nhiệm của động Nam-hà. Ông giận quá, hỏi:
              – Trịnh Khánh Long, trong cuộc bầu cách đây bốn năm, ta thắng cử động chủ, chính ngươi cũng có dự mà? Tại sao hôm nay ngươi lại trở mặt như vậy?
              Trịnh Khánh Long nói:
              – Động chủ Nam-hà từ bao nhiêu đời nay là giòng dõi của họ Trịnh ta chủ quản, mi đã dùng thủ đoạn gian manh, cướp lấy. Hôm nay có anh hùng khắp thiên hạ tụ tập về đây, mi còn dám chường mặt ra xưng là động chủ sao?
              Du Lợi Nhan nói:
              – Cách đây bốn năm, sư phụ cho hội đồng môn, tuyên bố từ nay động Nam-hà theo lối cử người hiền lãnh đạo, chứ không theo lối lưu truyền huyết tộc nữa. Do vậy, ta mới đắc cử động chủ.
              Trịnh Khánh Long cười hà hà:
              – Ởã đời làm gì có người thương đứa học trò lưu manh hơn con mình bao giờ? Cha ta chủ tâm truyền chức động chủ cho ta, mi đã bỏ thuốc đầu độc cha ta rồi lừa dối anh em, chiếm ngôi động chủ. Hôm nay, trước anh hùng thiên hạ, ta phải trả mối thù này. Người hãy ra đây nói chuyện với ta.
              Du Lợi Nhan giận quá, vác côn đứng trước đài:
              – Ta há sợ ngươi sao?
              Trịnh Khánh Long nói:
              – Ngươi đã hại chết sư phụ là cha ta. Hôm nay ngươi có giỏi thì giết ta đi để anh hùng thiên hạ phán đoán.
              Nói rồi Khánh Long vác côn đứng đối diện với Lợi Nhan. Hai người nhảy xổ vào nhau. Họ là người đồng môn, nên họ hiểu các thế võ của nhau, khó có thể quyết thắng trong một vài chiêu được. Hai bên đã qua lại trên hai chục hiệp. Đào Kỳ hỏi Trần Năng:
              – Hùng phu nhân, việc trước mặt, phu nhân nghĩ sao?
              Trần Năng nói:
              – Thì Đinh Công Dũng xúi dục gã Trịnh Khánh Long lật đổ Du Lợi Nhan. Cháu e rằng các trang, động khác cũng làm hoàn cảnh tương tự.
              Hai người giao đấu được ít hiệp nữa thì bỏ côn, dùng quyền đấu với nhau. Phương Dung nhận không ra quyền pháp của họ, liếc hỏi Đào Kỳ. Đào Kỳ cũng lắc đầu không hiểu. Giữa lúc ấy, Khánh Long có vẻ đuối thế, lui dần. Lợi Nhan đánh liền mấy quyền veo, veo. Khánh Long chợt nhảy vọt ra xa vung tay phóng chưởng đánh lại ba chiêu liền. Chưởng nọ liên tiếp chưởng kia như vũ bão. Phương Dung, Hùng Bảo, Đào Kỳ cùng nhìn nhau:
              – Võ công Cửu-chân!
              Lợi Nhan luống cuống, chống đỡ được chưởng thứ nhất, thì chưởng thứ nhì đã tới. Y biết không đỡ nổi, vội lăn tròn người đi mới tránh được, thì chưởng thứ ba đã bao trùm người y. Bùng một cái, thân hình y văng ra xa, dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
              Khánh Long đá xác y vào góc đài, nói:
              – Cho quân lừa thầy phản bạn đền tội.
              Hắn hướng vào Đinh Công Dũng nói:
              – Đinh lão động chủ, tôi, động chủ động Nam-hà tán thành ý kiến của tiên sinh về việc thống nhất 36 động chúng ta.
              Đinh Công Dũng hỏi lại:
              – Có vị động chủ, trang chủ nào có ý kiến nữa chăng?
              Trang chủ Thượng Hồng là Hùng Trọng đứng lên giữa đài, nói:
              – Thưa các anh hùng thiên hạ! Lời Đinh lão trang chủ nói rất đúng. Chúng ta sống lẻ tẻ, không những bị ăn hiếp, mà việc canh tác, ngư nghiệp cũng không phát triển được. Nay, nếu chúng ta hiệp lại làm một, người người coi nhau như trong gia đình, còn gì tốt đẹp hơn?
              Nỗi lo lắng nhất của Đinh Công Dũng là trang Thượng-hồng và Toàn-liệt, vì hai nơi đó xưa nay vẫn chống đối y. Nay y thấy Hùng Trọng tán đồng thì y không khỏi ngạc nhiên. Tưởng mình nghe lầm, y hỏi lại:
              – Hùng hầu, như vậy là hầu tán thành?
              Hùng Trọng nói:
              – Đúng, tôi tán thành việc hợp nhất 36 trang, động làm một.
              Đinh Công Dũng không tin ở tai mình nữa, y hỏi tiếp:
              – Ý kiến của Hùng hầu coi như đã xong, còn ý kiến của Trần hầu?
              Trần Năng đứng dậy nói:
              – Cha tôi mới qua đời, tôi tạm quyền thay thế. Nay tôi đã làm dâu họ Hùng, ý kiến của bố chồng làm sao, tôi cũng đồng ý như vậy. Nhưng có một điều tôi hỏi Đinh lão gia: Ai sẽ là người thống lĩnh toàn thể 36 trang, động chúng ta?
              Đinh Công Dũng nói:
              – Việc thống nhất 36 trang, động đã xong. Bây giờ tới lượt đề cử ai là người thống lĩnh. Xin các động chủ, trang chủ cho biết ý kiến? Theo thiển kiến của tôi, người thống lĩnh phải là người đạo cao, đức trọng, võ công cao cường mới xứng đáng.
              Lập tức có tiếng nhiều người cùng hô lớn:
              – Đinh lão tiên sinh! Đinh lão tiên sinh!
              – Lôi-sơn tam hùng!
              Đợi cho tiếng hô dứt, Trần Năng mới nói:
              – Tôi không phục! Tôi không phục!
              Cử tọa im phăng phắc, hướng vào nàng. Trần Năng để cho mọi người im lặng, rồi nàng dõng dạc kể tất cả những hành vi của Đinh Công Dũng trong việc hại trang Toàn-liệt và Thượng-hồng với mọi người. Đinh Công Thắng nói:
              – Theo ý Hùng phu nhân, ai mới là người xứng đáng thống lĩnh 36 trang, động chúng ta? Có lẽ là phu quân của nàng chăng?
              Trần Năng lắc đầu:
              – Phu quân của tôi tuổi trẻ, tài sơ, đâu dám với cao. Nhưng Đinh lão trang chủ vừa nói: Phải là người đạo cao, đức trọng, võ công cao cường phải không? Tôi xin cử một người hùng tài đại lược, võ công hơn đời, không ai chê được một điểm nào cả.
              Nàng ngưng lại, làm mọi người ngơ ngác, tự hỏi:
              – Ai? Ai đây nhỉ?
              Trần Năng nghĩ một lúc rồi chỉ vào khán đài của phái Tản-viên:
              – Tôi xin đề cử Tản-viên song phượng Nhị Trưng. Nhị Trưng võ công cao cường, ôn nhu đức hạnh, đạo cao đức trọng. Ai dám chê thì xin lên tiếng?
              Đinh Công Hùng nói:
              – Đã đành Nhị Trưng đạo cao đức trọng, võ công hơn đời, nhưng người có liên hệ gì với Nam Mê-linh chúng ta?
              Trần Năng cãi:
              – Sao lại không? Tôi xin hỏi Nhị Trưng hiện là trang chủ trang nào vậy?
              Đinh Công Hùng nói:
              – Dĩ nhiên Nhị Trưng là trang chủ của 72 trang Bắc Mê-linh. Trần Năng nói:
              – Như vậy sao lại bảo không liên hệ với Mê-linh chúng ta? Nam hay Bắc cũng là Mê-linh.
              Đinh Công Hùng tắc họng, không nói được nữa. Một trang chủ của 36 trang, động Nam Mê-linh nói:
              – Phải là một người trong 36 trang, động của chúng ta mới được. Bây giờ tôi đề nghị: Trong tất cả những người của 36 trang, động Nam Mê-linh, ai muốn tranh chức thống lĩnh thì lên đài. Mỗi trang động chỉ được cử một người thôi. Sau đó, dùng võ công ăn thua, ai thắng thì làm thống lĩnh.
              Lập tức quảng trường ồn lên. Trong nhóm Toàn-liệt, Thượng-hồng bàn luận xôn xao. Phương Dung đề nghị:
              – Bây giờ Hùng phu nhân đại diện Toàn-liệt, còn phía Thượng-hồng thì tôi ra. Sau khi thắng được lão Đinh, tôi sẽ nhường cho phu nhân, nên chăng?
              Đào Kỳ nói:
              – Hay là để Hùng Bảo đại diện Thượng-hồng, còn Phương Dung đại diện Toàn-liệt? Với Hùng Bảo, tôi có thể mách nước cho được.
              Mọi người thấy rằng Hùng Bảo và Trần Năng đều không phải là đối thủ của Đinh Công Dũng. Cuối cùng đành theo đề nghị của Phương Dung. Về phía họ Đinh thì Đinh Công Dũng ra tranh tài. Về phía các trang khác thì có trang Đỗ-xá cử một nữ lang tên là Lê Ngọc Trinh.
              Hồ Đề đứng dậy, nói:
              – Đấu võ phải có quy củ, có trọng tài. Vậy quy củ như thế nào? Ai sẽ là trọng tài?
              Người này đề cử một người, người kia đề cử một người, quảng trường ồn ào hẳn lên.
              Cuối cùng, Đặng Thi Sách là người có tiếng tăm, được cử làm trọng tài.
              Ông đứng lên nói:
              – Trước mặt, chúng ta có bốn đấu thủ đại diện: Lôi-sơn thì Đinh Công Dũng tiên sinh. Toàn-liệt thì Hùng phu nhân. Thượng-hồng thì Nguyễn Phương Dung cô nương. Đỗ-xá thì Lê Ngọc Trinh cô nương. Tôi viết bốn cái thăm bỏ vào một cái hộp. Tôi dùng một con chim gắp thăm. Nó gắp hai cái thứ nhất, trúng hai đấu thủ nào thì đấu với nhau. Còn lại hai đấu thủ khác sẽ đấu với nhau. Sau đợt đầu, có hai người thắng. Bấy giờ hai đấu thủ sẽ vào chung kết.
              Ông vỗ tay một cái, người hầu đưa đến con két, lông xanh mướt, mỏ đỏ tươi. Ông vỗ tay cái nữa, con két mổ hai cái thăm ra: Phương Dung đấu với Đinh Công Dũng. Còn lại, Lê Ngọc Trinh sẽ đấu với Trần Năng.
              Đặng Thi Sách nói lớn:
              – Bây giờ tôi xin nhắc lại thể lệ cuộc đấu: Hai bên được dùng vũ khí, chưởng, quyền đấu với nhau. Cấm dùng ám khí, cấm không cho người ngoài can thiệp. Hai bên chỉ đấu với nhau đến 30 hiệp. Quá 30 hiệp là hòa. Cấm không được sát hại nhau. Nếu bên này đánh bên kia tử thương, coi như thua cuộc.
              Đào Kỳ dặn Trần Năng:
              – Hùng phu nhân, tôi không rõ võ công, chiêu số của Lê Ngọc Trinh, rất khó mà đoán. Nhưng phu nhân nên nhớ: Nếu thấy đối phương dùng nhu thì phải đánh rất gấp, phải thủ thắng trong vòng từ 10 tới 15 chiêu. Với công lực của phu nhân, sau 15 chiêu, sức sẽ giảm dần. Còn nếu đối phương dùng cương thì cứ cầm chừng cho đủ 30 chiêu cho hòa thì tốt hơn.
              Lê Ngọc Trinh là một thiếu nữ tuổi khoảng 21, 22, dáng người đậm đà, xinh đẹp. Nàng khoanh tay đứng giữa đài. Trần Năng cũng thượng đài. Đặng Thi Sách nói:
              – Cuộc tranh tài thứ nhất bắt đầu: Lê Ngọc Trinh cô nương, đại diện trang Đỗ-xá đấu với Hùng phu nhân trang chủ Toàn-liệt.
              Trần Năng đứng thủ, chưa muốn ra tay. Nàng để ý thấy Lê Ngọc Trinh lấy mũi giày chùi trên đài. Nàng nhìn lại thì thấy chữ Hòa. Trần Năng hiểu ý, gật đầu. Lê Ngọc Trinh tấn công trước. Võ công nàng cũng là võ công Tản-viên như Trần Năng. Bấy giờ Trần Năng mới tỉnh ngộ: Thì ra Lê Ngọc Trinh đã biết nàng là đồng môn, nên mới đề nghị hòa.
              Khi Lê Ngọc Trinh xuất chiêu, thì Đào Kỳ lẫn nhóm Thi Sách, Nhị Trưng đều kêu lên, kinh ngạc:
              – Úi cha!
              Đầy vẻ ngạc nhiên, Đào Kỳ tự hỏi:
              – Cô này là ai? Tại sao lại có chưởng pháp giống của Tản-viên như vậy?
              Chàng liếc nhìn sang chỗ Đặng Thi Sách, thì thấy ông lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu.
              Chính Thi Sách cũng ngạc nhiên:
              – Mình là chưởng môn Tản-viên mà sao không biết cô này là đệ tử ai? Cả đến Trần Năng cũng sử dụng võ công phái mình mà mình cũng không biết. Không lẽ cả hai đều là đệ tử của sư thúc Nguyễn Thành Công? Sư thúc tuyệt tích đã lâu, tại sao lại thu đệ tử?
              Nhưng ông chợt tỉnh ngộ, vì nhận thấy cách biến chiêu của hai người đều giống nhau. Chính chỗ biến chiêu đó, khi cha ông dạy ông, có nói rằng người đã quên mất. Nay thấy hai thiếu nữ sử dụng đầy đủ, ông đờ người ra nhìn. Trong đầu óc ông đầy nghi vấn:
              – Hay họ là đệ tử thái sư thúc Lê Đạo Sinh?
              Hai thiếu nữ trẻ tuổi, sử dụng cùng một thứ võ công dương cương cực mạnh đấu với nhau, khiến mọi người ngây mặt ra nhìn. Bỗng Thi Sách hô lớn:
              – Ngừng tay!
              Hai người thu chưởng về, đồng chắp tay:
              – Bái phục! Bái phục!
              Thi Sách tuyên bố:
              – Hai vị: Hùng phu nhân và Lê Ngọc Trinh cô nương đấu quá 30 hiệp không phân thắng bại, theo thể lệ như thế là hòa. Xin mời xuống đài.
              Trần Năng trở về chỗ, hỏi Đào Kỳ:
              – Sư thúc, sư thúc thấy thế nào?
              Đào Kỳ nói:
              – Tôi thấy dường như cả phu nhân lẫn Lê cô nương đều không dùng hết lực, giống như sư huynh, muội dợt võ với nhau vậy.
              Trần Năng nói:
              – Vì cô nương đó dùng chân viết chữ Hòa trên đài. Ý nàng muốn hòa với cháu, nên cháu cũng không dùng hết sức. Chắc chắn nàng biết rõ chân tướng cháu, mà cháu không biết rõ nàng. Có thể nàng là học trò của sư phụ cháu sai đến tiếp viện cho cháu cũng nên.
              Trận thứ nhì, Phương Dung đấu với Đinh Công Dũng. Công Dũng vừa lên đài thì bốn phương trống đánh, người hò reo ầm ĩ. Y chắp tay chào bốn phía rồi đứng giữa đài, thái độ cực kỳ ngạo mạn. Phương Dung từ dưới đài tung mình nhảy lên. Nàng mặc chiếc áo xanh, dây lưng đỏ trông rất đẹp. Đinh Công Dũng thì to lớn, nàng thì nhỏ bé, trông không xứng chút nào.
              Đinh Công Dũng nói:
              – Nguyễn cô nương, lão già này mắt kém, không biết vị cao nhân nào đã tạo được một đệ tử tài ba như cô nương?
              Phương Dung nói:
              – Tôi học võ với bố tôi.
              Đinh Công Dũng đã được báo cáo rằng thiếu nữ này từ Long-biên mới lên. Y nghĩ thầm:
              – Hôm trước nàng sử dụng một thế kiếm đã làm Đinh Công Hùng suýt chết. Nghiêm Sơn hỏi nàng liên hệ thế nào với Mai Huyền Sương, Long-biên nhị hiệp, y thị đều chối. Thế thì y thị thuộc phái nào? Tuy nhiên y thị mới từng ấy tuổi đầu, ta há sợ sao?
              Y làm mặt anh hùng nói với Đặng Thi Sách:
              – Tôi dùng chưởng đấu với kiếm của Nguyễn cô nương, nếu chẳng may tôi lỡ chết hoặc bị thương, chẳng qua là vô tình, xin vẫn để cho cô thắng.
              Y đứng khoanh tay, nhường cho Phương Dung ra tay trước. Phương Dung rút kiếm vòng lên không rồi chỉ xuống đất, đó là thế Tạ thiên, bái địa, một thế kiếm dùng để chào trước khi giao đấu... Đinh Công Dũng phóng hư chưởng đánh trả:
              – Nguyễn cô nương không nên khách sáo.
              Chưởng của y bao hàm âm nhu, biến hóa rất kỳ dị. Phương Dung vung kiếm đánh liên tiếp mười chiêu, y đều phản đòn được cả. Nàng chợt nghĩ:
              – Đã vậy, ta đánh hư chiêu.
              Nàng quay kiếm vòng lên không chuyển sang phải, sang trái toàn hư chiêu.
              Đinh Công Dũng ngơ ngác tự hỏi:
              – Kiếm này là kiếm gì vậy?
              Y mải nghiên cứu kiếm thuật, thoáng một cái đã qua 20 chiêu. Y vội vàng hít hơi, dùng hết sức phóng một chưởng. Phương Dung vung kiếm đâm vào giữa chưởng của y. Y định thu chưởng về, nhưng không kịp nữa. Sột một cái, tay y bị xuyên thủng. Người Phương Dung bay bổng khỏi đài, rơi xuống đất. Nhưng nàng đạp chân phải một vật gì mềm mềm, thì ra con ngựa ô thấy chủ rơi xuống, nó phóng lại đỡ chân nàng. Phương Dung đạp lên lưng nó trở lại đài.
              Đinh Công Dũng nói:
              – Nguyễn cô nương, tuy cô nương đả thương được ta, nhưng cô nương rơi xuống đài là thua rồi.
              Phương Dung cãi:
              – Hồi đầu Đặng chưởng môn có nói: Ai rơi xuống đất là thua, ai có người trợ giúp là thua. Nay tôi đâu có rơi xuống đất? Đâu có người trợ giúp?
              Đinh Công Dũng đành chịu nàng có lý. Y đổ quạu, vung chưởng đánh liền. Đào Kỳ hô lớn:
              – Tam hư thất thực. Tử, tử, sinh, sinh.
              Phương Dung tỉnh ngộ, rút kiếm xoẹt, xoẹt, xoẹt phóng liền ba chiêu. Đinh Công Dũng lùi đến mép đài. Y vung chưởng bổ lên đầu Phương Dung. Nàng muốn ngộp thở, ngã lăn trên đài. Đinh Công Dũng nhảy đến phóng tiếp một chưởng. Phương Dung áp dụng lý thuyết Tử, tử, sinh, sinh phóng liền 9 chiêu. Ba chiêu xuyên qua ngực Đinh Công Dũng. Y nhảy vọt lên cao, bóp cổ nàng. Nhưng người y đã hết kình lực, mắt trợn lên rồi buông nàng ra.
              Đinh Công Thắng, Đinh Công Minh cùng nhảy lên đài phóng chưởng đánh Phương Dung. Đặng Thi Sách, Trưng Nhị vội nhảy lên đỡ chưởng hai người. Chưởng lực của Thi Sách, Trưng Nhị là Phục ngưu thần chưởng, hùng mạnh vô cùng. Binh, binh bốn chưởng gặp nhau. Thi Sách, Trưng Nhị đứng nguyên còn Đinh Công Minh và Đinh Công Thắng lùi lại hai bước, oẹ một tiếng, khạc ra một búng máu.
              Đặng Thi Sách nói:
              – Thứ lỗi, thứ lỗi.
              Trưng Nhị xuống đài, Đặng Thi Sách nói:
              – Nguyễn cô nương đánh tử thương Đinh lão, trái với thể lệ, như vậy, trang Thượng-hồng thua cuộc. Nhưng Đinh lão tử thương rồi. Vậy chỉ có Hùng phu nhân với Lê cô nương rút thăm. Ai được thì làm thủ lĩnh.
              Ông viết hai cái thăm, bỏ vào hộp, vỗ tay một cái, nói:
              – Lê cô nương lớn tuổi hơn rút trước.
              Lê Ngọc Trinh thò tay vào rút, nàng mở ra thì là thăm trắng.
              Đặng Thi Sách nói:
              – Như thế, Lê cô nương thua cuộc. Tôi tuyên bố Hùng phu nhân thắng cuộc. Từ nay Hùng phu nhân thống lĩnh toàn thể 36 trang động Nam Mê-linh.
              Trần Năng lên đài giữa tiếng vỗ tay của bốn phương anh hùng. Hồ Đề lên đài chắp tay nói:
              – Đại diện 72 động vùng Tây vu và rừng Thiên-sớ, tôi xin kính mừng tỷ tỷ giữ chức thống lĩnh 36 động Nam Mê-linh. Từ đây đến Thiên sớ, đường không xa. Nếu tỷ tỷ có gì cần đến, xin cứ gọi. Tôi sẵn sàng.
              Ý Hồ Đề muốn nói, Trần Năng có bị đám dư đảng của Đinh lão gây sự thì Hồ Đề sẵn sàng tiếp ứng.
              Đặng Thi Sách cũng chắp tay nói:
              – Phái Tản-viên cũng xin cáo từ, Hùng phu nhân, Mê-linh Nam, Bắc từ nay có nhau.
              Trần Năng tiễn quan khách về hết rồi mới nói:
              – Từ nay 36 động chúng ta thống nhất một nhà. Tôi xin đề nghị đặt tên cho trang chúng ta là Lôi-sơn.
              Đám đệ tử của Đinh gia đang căm hận về cái chết của Đinh Công Dũng, nay Thấy trần Năng đặt tên cho châu mới của mình là Lôi-sơn, tức biệt hiệu của Đinh Công Dũng, thì uất hận dần dần tiêu tan.
              Trần Năng nói:
              – Tuy chúng ta có châu rồi, nhưng trong châu các trang, động vẫn giữ nguyên tên cũ. Các trang chủ, động chủ vẫn ở chức vụ điều khiển trong trang, động của mình. Riêng trang Lôi-sơn, xin lão tiên sinh Đinh Công Hùng giữ cho.
              Nói rồi, nàng xuống đài, lên ngựa cùng mọi người trở về Thượng-hồng. Về tới nơi, Phương Dung nói:
              – Tôi không ngờ chưởng lực của Đinh Công Dũng mạnh đến thế. Nếu không có con ngựa Ô thì tôi thua rồi. Võ công của lão này không thua sư thúc Đào Thế Hùng là bao. Có lẽ ngang với cha tôi chứ không ít. May nhờ có con ngựa Ô, chứ không thì thua rồi.
              Đào Kỳ nói:
              – Việc trước mắt, chúng ta phải tổ chức lại châu Lôi-sơn. Đinh Công Dũng tuy chết nhưng đệ tử thế lực của Đinh gia còn mạnh. Nếu chúng ta không tổ chức thành hệ thống, thì rút cục cái tên châu Lôi-sơn chỉ có tiếng, mà không có thực lực. Hùng phu nhân lấy quyền châu trưởng lệnh cho các trang, động đặt đội quân của họ dưới quyền điều động trực tiếp của ta. Các trang động có muốn sinh sự cũng không làm gì được.
              Chúng ta chia ra như sau: Năm người làm một Ngũ, năm Ngũ tức 25 người làm một Lượng, bốn Lượng tức 100 người làm một Tốt. Năm Tốt tức 500 người làm một Lữ. Năm Lữ tức 2.500 người làm một Sư. Đó là lực lượng nòng cốt. Cứ bốn Lữ làm việc, thì có một Lữ tập luyện trong vòng 10 ngày. Ngoài ra trai tráng từ 15 đến 18 tuổi mỗi tháng phải luyện tập trong 5 ngày, và họ cũng được tổ chức thành một Lượng. Đến tuổi 18 họ được sung vào lực lượng chính. Người trên 36 tuổi thì được xếp thành những lượng trừ bị, khi cần thì dùng đến. Những ngày đi tập được phát lương thực đầy đủ.
              Về ruộng đất chia đều theo lối đầu người, không kể nam, nữ, già trẻ, lớn bé. Nếu trong trang có người phải sung vào Sư đi chinh chiến xa, trong trang phải làm ruộng cho người đó. Nhà con một, người có cha mẹ tàn tật thì chỉ sung vào các lượng trừ bị mà thôi.
              Về cách luyện quân tôi sẽ chỉ sau.
              Nguyên hồi ở trang Thái-hà, Đào Kỳ đã học binh thư của Khương thái-công, Tô Võ Tử, Ngô Khởi nên chàng rất rành cách tổ chức. Nay chàng đem ra dạy cho Hùng Bảo để quản trị châu Lôi-sơn.
              Chàng lại chỉ cho Trần Năng gởi người về Luy-lâu, Long-biên mua quặng sắt, mướn thợ về rèn binh khí. Dạy cho người trong trang biết luyện sắt thép, chế binh khí. Chàng còn ra lệnh cho trang Văn-lạc thống thuộc châu Lôi-sơn. Ngược lại châu Lôi-sơn sẽ giúp cho trang Văn lạc lương thực, lừa, ngựa,.v.v...
              Hơn nửa tháng sau, một đêm Đào Kỳ đang luyện võ cho Hùng Bảo, Trần Năng, thì chàng lên cơn suyễn đến ngất đi hơn giờ sau, mới tỉnh dậy. Người chàng mệt nhừ, không còn chút kình lực nào.
              Phương Dung đứng cạnh chàng an ủi, chà sát lưng cho hạ cơn suyễn. Chàng vừa tỉnh dậy, thì thấy dưới ánh trăng, một bóng người mặc quần áo lụa xanh. Nhìn kỹ, đó là một phụ nữ. Chàng giật mình hỏi:
              – Chẳng hay người là ai? Đêm khuya đến đây có việc gì?
              Người đó dường như không có ác ý, từ bóng tối bước ra, mặt bịt kín, chỉ để hở hai con mắt. Phương Dung lên tiếng:
              – Ngươi tuy bịt mặt, nhưng ta cũng biết ngươi là ai rồi.Ngươi có cái lưng ong, tay chân dài, dáng tha thướt, thì ngươi là người đẹp lắm. Người đẹp như vậy thì cũng dễ tìm ra tông tích.
              Người đó vẫy Hùng Bảo, Hùng Bảo tiến tới trước mặt hỏi:
              – Cô nương là ai? Giá lâm tệ trang có điều chi dạy bảo?
              Người đó nhảy vút lên cao, hai tay chụp xuống như con chim vồ mồi. Hùng Bảo trầm người xuống đinh tấn, hai tay biến thành cầm nã, bắt xuống hai trảo người đó. Người đó biến từ trảo ra chỉ, đâm vào mắt chàng. Hùng Bảo phải lộn người đi mới tránh khỏi, kêu lên một tiếng kinh ngạc.
              Đào Kỳ cũng suýt kêu lên, vì người đò sử dụng ba tuyệt chiêu của phái Cửu chân. Những chiêu đó chỉ dạy cho nội đồ. Kình lực đó mạnh ngang với cô em họ Đào Phương Dung của chàng. Đào Kỳ nhìn kỹ, thấy người đó cao hơn Đào Phương Dung một chút, có lẽ tuổi ngang nhau.
              Hùng Bảo lên tiếng:
              – Cô nương sử dụng võ công Cửu chân, vậy chúng ta cùng môn hộ. Cô nương là ai? Tại sao lại bịt mặt như vậy?
              Người đó không nói, tiếp tục tấn công Hùng Bảo. Hùng Bảo đem hết sức ra chống lại. Công lực người đó không phải tầm thườngf. Nếu chàng không được Đào Kỳ chỉ điểm cho mấy tháng qua, thì chàng đã bị thua từ hiệp thứ mười rồi. Đấu chừng năm mươi hiệp, người đó nhảy lùi lại.
              Nàng thở dài một tiếng, rồi hướng vào Đào Kỳ tấn công. Đào Kỳ chỉ hóa giải chứ không phản công. Người đó tấn công đến trên một trăm chiêu, thủy chung Đào Kỳ cũng chỉ chiết giải. Người đó nhảy lùi lại, thở dài:
              Công cha như núi Thái sơn,
              Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
              Ta nghe lời sư phụ, hơn nữa vì sự nghiệp phục quốc của Lĩnh-Nam, nên mới tới đây trao thuốc giải cho ngươi. Thuốc này chỉ khiến cho ngươi không chết mà thôi. sau đó, ngươi phải tìm Khất đại phu, may mới thoát chết. Còn ta là ai, sau này ngươi sẽ biết. Việc họ Đinh, ta bảo đảm, không ai gây sự với các ngươi nữa đâu. Người đó đưa cho Đào Kỳ bình thuốc rồi phóng vào đêm tối. Đào Kỳ ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi Phương Dung:
              – Em đoán thử xem, người đó là ai?
              Phương Dung lắc đầu:
              – Người này vai vế ngang với Hoàng sư tỷ. Chắc y thị là người Lôi-sơn, nghĩ tình đồng môn mà giúp đỡ chúng ta.
              Trần Năng hỏi:
              – Thuốc này có thể là thuốc độc không?
              Phương Dung lắc đầu:
              – Nếu y thị có ác ý, thì chẳng cần cho thuốc, một tháng sau, Đào đại ca cũng chết. Hơn nữa người đó là đệ tử của Đào trang không lẽ lại đi giết con út của chưởng môn? Đào trang đâu có phản đồ?
              Đào Kỳ ngẫm nghĩ thấy Phương Dung có lý. Chàng cầm hai viên thuốc bỏ vào miệng nuốt. Chỉ một lát sau, chàng ho lên một tiếng, khạc ra một bãi đờm. Bao nhiêu cái khổ sở vì tức ngực, nghẹt thở đều chấm dứt. Chàng mừng lắm nói:
              – Thuốc này là thuốc giải thực rồi. Vậy mà hôm trước Đinh Công Dũng bảo là không có. Thế ra y chẳng tử tế gì với Nghiêm đại ca.
              Được hơn nữa tháng chàng nhắc Trần Năng:
              – Ngày trăng tròn là ngày phu nhân có hẹn tương hội với tôn sư. Vậy nhớ hỏi người cách trị bệnh cho ta.
              Trong suốt mấy ngày qua, Đào Kỳ tuy không nói ra, nhưng đêm đêm, thường thấy tức ngực khó thở. Chàng muốn vận khí luyện công mà không được. Chàng thường bị cơn suyễn hành hạ khổ sở. Song may mắn là cơn suyễn đó, mỗi ngày chỉ lên có một lần thôi.
              Đúng ngày trăng tròn, Trần Năng cùng Đào Kỳ tới chỗ tương hội cùng sư phụ.
              Hai người ngồi chờ tới lúc trăng lên cao cũng không thấy ông đến. Hai người đã định ra về thì thấy có tiếng ngựa. Trần Năng mừng quá, đứng dậy để đón tôn sư. Nhưng người đến là Lê Ngọc Trinh.
              Kể từ hôm đại hội đến giờ, đây là lần đầu tiên Trần Năng gặp lại Lê Ngọc Trinh. Trần Năng mừng quá nói:
              – Chị Trinh, từ hôm ấy đến giờ, chị đi đâu?
              Ngọc Trinh cười:
              – Thì còn đi đâu nữa? Chị đi hái thuốc với sư phụ. Cách đây hơn tháng, sư phụ có việc phải đi xa, người gọi chị đến dặn dò giúp em. Người còn nói: Hiện giờ bên cạnh em có người võ công không kém gì sư phụ. Em cứ việc học. Được người đó dạy, chỉ cần luyện tập trong mười lăm năm, thì bằng sư phụ rồi.
              Đào Kỳ hỏi:
              – Tỷ tỷ, tôn sư đi đâu? Bao giờ về vậy?
              Lê Ngọc Trinh nói:
              – Sư phụ tôi đi đâu, thường không bao giờ nói và cũng chẳng bao giờ cho biết ngày về.
              Đào Kỳ thất vọng ra mặt, chàng từ biệt Lê Ngọc Trinh, rồi cùng Trần Năng ra về.
              Hôm sau, chàng nói với Hùng Trọng:
              – Về võ công bây giờ Hùng Bảo, Trần Năng không thua gì chú cháu họ Đinh nữa. Tôi với Phương Dung có việc phải đi, hậu hội hữu kỳ.
              Rồi chàng với Phương Dung nhắm hướng Bắc Mê-linh tiến phát.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #22
                Hồi 21 - Ở đời được mấy anh hùng

                Hai người đi suốt một ngày mới tới Bắc Mê-linh. Hồi ấy, Bắc Mê-linh là thủ phủ của miền trung châu Bắc-việt. Dân cư đông đúc như Long-biên, Luy-lâu.
                Hai người nhìn xa xa, núi Tản-viên cao ngất trời. Phương Dung chỉ núi nói:
                – Ngày trước, phò mã Sơn Tinh cưới được Mỵ Nương rồi lên ở trên núi kia hưởng hạnh phúc. Thế nhưng người sau đặt chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương. Vua Hùng hẹn rằng ai đem lễ vật đến trước, sẽ gả công chúa cho. Sơn Tinh tới trước, cưới được Mỵ Nương. Thủy Tinh tới sau, tức quá, dâng nước lên đánh Sơn Tinh.
                Hai người đang say sưa ngắm cảnh, chợt có tiếng gọi:
                – Đào, Nguyễn, hai vị đi đâu đây?
                Hai người quay lại thì ra Quý Lan. Quý Lan nắm tay Phương Dung:
                – Bắt được em rồi nhé! Thôi vào Mê-linh chơi đi. Đặng đại ca và Nhị Trưng mong hai em lắm đó.
                Phương Dung là một cô gái hiếu động, linh lợi, tính lại ham vui, nên nàng thường không ưa những người nghiêm nghị, khách sáo, làm bộ làm tịch. Về võ công, nàng đã đạt tới trình độ hiếm có trên đời. Nhưng bản chất con người vẫn là một thiếu nữ. Từ hôm theo Đào Kỳ ra ngoài giang hồ, đi đâu cũng bị người ta coi nàng như một tiểu thư khuê các. Hồi thơ ấu ở Long-biên, nàng đã nghe tiếng Đặng Thi Sách, Nhị Trưng là những đệ nhất hào kiệt, danh vang tới Trung-nguyên. Ngay đến cha và các sư thúc của nàng mỗi khi đề cập tới cũng phải nói bằng giọng kính trọng. Nàng những tưởng ba người này sẽ làm bộ làm tịch, hoặc ít ra cũng bang bạnh như Đinh Công Dũng. Nhưng khi gặp nhau ở đại hội 36 động, nàng thấy ở Đặng Thi Sách, Nhị Trưng tỏa ra cái đạo mạo, nghiêm chỉnh của những người hào kiệt bậc nhất đương thời. Tuy nhiên, trong cái đạo mạo đó, có cái bặt thiệp, ôn nhu thân thiết. Nhất là Trưng Nhị, mới gặp mà nàng đã như không muốn rời nhau.
                Hôm nay gặp lại Quý Lan. Quý Lan chỉ mới nói một câu, nàng cũng đủ thấy ấm áp trong lòng.
                Phương Dung nói nhỏ:
                – Chúng em lên vùng này mục đích gặp Đặng đại ca và Nhị Trưng có việc quan trọng. Vì việc quan trọng nên hôm đại hội 36 trang, em không dám nói trước mặt mọi người.
                Quý Lan nhìn trước, nhìn sau không có ai, nàng xòe tay ra viết hai chữ Phục-quốc vào, rồi nhìn hai người cười.
                Đào Kỳ hỏi:
                – Chị Quý Lan, chị là người thần thông chắc? Tại sao chị biết chúng em lên đây vì việc đó?
                Quý Lan cười:
                – Có gì không hiểu đâu? Hai em còn nhỏ tuổi thế này, nam nữ thụ thụ bất tương thân. Thế mà phụ huynh để cho các em ngàn dặm xa xôi, núi đồi hiểm trở lên đây, thì chắc phải tin tưởng hai em lắm. Đó là điều thứ nhất. Khi đã được phụ huynh tin tưởng thì hai em phải có bản lãnh võ công, đạo đức không phải tầm thường, đó là điều thứ nhì. Điều thứ ba, hôm đại hội 36 động Đào hiền đệ luận bàn nghiêm chỉnh về thống nhất 36 động, toàn hướng về tổ chức, huấn luyện tráng đinh, nếu không để làm việc đó thì làm gì? Các em lên Mê-linh gặp Đặng đại ca, Nhị Trưng là những người không quen từ trước, chắc chỉ vì một điều duy nhất là nghị bàn truyện phục quốc mà thôi. Tôi đoán có đúng không?
                Phương Dung gật đầu:
                – Chị thực là người trông rộng, nhìn xa.
                Hai người theo Quý Lan vào một trang rộng lớn, nằm ngay dưới chân núi Ba-vì. Trong trang, dân chúng, người, ngựa đi lại tấp nập. Người người tránh nhau. Trẻ con gặp người già thì cúi đầu chào. Đi một lúc tới sơn trang hoa nở, cây cỏ xinh đẹp. Quý Lan chỉ vào chỗ suối chảy nói:
                – Đây là tổng đường của phái Tản-viên.
                Ba người xuống ngựa đi vào. Có tiếng tiêu, tiếng đàn thanh thoát từ trong vọng ra. Đào Kỳ ngẫm nghĩ:
                – Nếu đất nước không bị giặc Hán cai trị, ta với Phương Dung đến đây ở, đánh đàn, nghe chim hót, chẳng thần tiên lắm sao?
                Có tiếng từ trong hỏi vọng ra:
                – Không biết cao nhân nào viếng đó?
                Rồi tiếng dép lẹp kẹp, Trưng Nhị từ trong đi ra. Nhận ra Đào Kỳ và Phương Dung, Trưng Nhị mừng lắm:
                – Chị nghe một tiếng chân trầm mà khoan, một tiếng chân nhỏ như tiếng chân chim, tưởng đại cao thủ nào tới, hóa ra hai em. Vào đây, chị em chúng ta nói chuyện mấy ngày cho thỏa chí.
                Câu nói của Trưng Nhị hào sảng như nam nhi, làm Đào Kỳ khoan khoái trong lòng. Trưng Trắc, Đặng Thi Sách cũng đã đến. Sáu người cùng ngồi trong căn nhà bên bờ suối, uống nước suối, ăn trái cây, nói chuyện.
                Đào Kỳ nói:
                – Chúng em từ Long-biên lên đây để gặp anh chị, không ngờ gặp người họ Hùng, họ Trần, vướng mắc mãi hôm nay mới tới đây được.
                Trưng Trắc nói:
                – Thì ra hai em đi tìm chúng ta? Chúng ta cũng đang mong được nghe tin từ miền xuôi như thế nào?
                Đầu tiên, Đào Kỳ trình bày việc Cửu-chân rất tường tận. Từ vụ Thái-thú Nhâm Diên mưu Hán hóa người Việt. Đào Thế Hùng ra Bắc làm Huyện-úy. Còn chín nhà ở Cửu-chân thì năm nhà theo Hán, hai nhà đứng giữa, chỉ có Đinh, Đào chống lại. Cuộc đánh chiếm Đào, Đinh trang, cha mẹ chàng thất lạc ra sao, rồi chàng vào làm tôi tớ cho Thái-hà trang, gặp Đặng Thi Kế, Nguyễn Phan trong tù. Việc chàng đại náo Cổ-đại. Nguyễn Trát bàn với chàng nên tìm Đặng Thi Sách để hỏi ý kiến về đại hội hồ Tây. Trên đường đi, gặp Tô Phương, Ngũ-phương thần kiếm.
                Nghe kể, Đặng Thi Sách ngắm nhìn Đào Kỳ, tự nghĩ: Thiếu niên này tuổi bất quá 18, 19, hoàn cảnh vong quốc, được cha anh tạo thành người ưu tư thế sự. Ông hỏi Trưng Nhị:
                – Nhị muội! Theo ý nhị muội, chúng ta phải làm gì bây giờ?
                Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
                – Chúng ta có hai việc phải làm: Thứ nhất, chia rẽ Nghiêm Sơn với Tô Định, chia rẽ Ngũ-kiếm với Tô Định, để kéo Nghiêm Sơn và Ngũ-kiếm về với mình. Thứ nhì, đối phó với đại hội Tây-hồ. Hiện thời, Lê thái sư-thúc nổi tiếng là chính nhân quân tử, chúng ta có nói ra thì chắc thiên hạ không ai tin. Vậy, điều quan trọng là cứu phụ thân Đặng huynh ra đã. Nhưng tiếc rằng trong thiên hạ, hiện không có ai là đối thủ của Lê thái sư thúc.
                Quý Lan ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi:
                – Trong phái Tản-viên còn một vị nữa có thể thắng được Lê thái sư thúc, đại ca quên rồi sao?
                Đặng Thi Sách thở dài:
                – Ta đâu có quên Trần thái sư-thúc. Nhưng Thái sư-thúc như hạc nội mây ngàn, biết đâu mà tìm?
                Đào Kỳ nghĩ ra chuyện gì, tiếp:
                – Đại ca quên hai người hôm đại hội Lôi-sơn rồi sao? Chúng ta cứ theo hai người đó ắt tìm được Trần tiên sinh.
                Trưng Nhị gật đầu:
                – Có phải Đào đệ muốn nói đến Trần Năng và Lê Ngọc Trinh không? Ta thấy hai người sử dụng võ công Tản-viên rất thành thuộc. Ta không hiểu tại sao họ lại biết cả những chiêu mà sư phụ ta cũng không biết? Thì ra họ được Thái sư-thúc truyền dạy. Có điều ta thấy Trần Năng đánh nhiều chiêu mà ta nghi Thái sư-thúc cũng không biết, thế thì nàng học ở đâu?
                Phương Dung chỉ Đào Kỳ:
                – Đúng đấy, Trần Năng học võ của Trần Đại Sinh tiên tinh, rồi được Đào đại ca chỉ điểm thêm, nên mới có những chiêu thức kỳ diệu đến thế.
                Trưng Trắc gật đầu.
                Nguyễn Quý Lan bàn:
                – Bây giờ chúng ta phải thám thính phủ Thái-thú xem tình hình thế nào, rồi sẽ tìm cách chia rẽ Tô Định với Lĩnh-nam công và Ngũ-kiếm. Đêm nay, ai đi thám thính nào?
                Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
                – Phủ Lĩnh-nam công thì không cần thám thính.
                Ánh mắt Phương Dung long lanh, nàng mỉm cười :
                – Đúng đấy. Đào đại ca cứ việc đường đường chính chính đến thăm Hoàng sư tỷ. Hiện nay, Đào hầu không biết lưu lạc ở đâu? Đào đại ca có thể ở luôn trong phủ Lĩnh-nam công. Chúng ta cũng vào ở. Ngày ngày quan sát, tìm hiểu tình hình. Đào đại ca được Hoàng sư tỷ yêu thương còn hơn con đẻ, đại ca sẽ trở thành một thứ đại công tử. Muốn chạy chỗ này, muốn xem chỗ kia, ai dám hỏi? Ai dám thắc mắc? Chúng ta dùng phủ Lĩnh-nam công để làm nơi dò thám tin tức, thì đến một triệu đứa Tế tác cũng không dám nghi ngờ. Còn việc ly gián giữa Tô với Nghiêm và Ngũ-phương để chị Quý Lan xếp đặt.
                Quý Lan đứng lên thắp hương trước bàn thờ Hùng-Vương, An Dương vương lễ bốn lễ rồi quay xuống, hướng vào năm người, nói:
                – Các vị là con Rồng cháu Tiên, hãy nghe lời Quốc-tổ dạy.
                Nguyên thời bấy giờ, những người đồng chí hướng phản Hán phục Việt, có tục lệ: Khi một người truyền lệnh cho người khác, đều nhân danh Quốc-tổ mà truyền. Người nghe lệnh, tự coi như nghe lệnh của Quốc-tổ.
                Đặng Thi Sách, Nhị Trưng kính cẩn hỏi:
                – Đệ tử xin nghe.
                Đào Kỳ và Phương Dung cũng nói:
                – Đệ tử kính cẩn nghe lệnh.
                Quý Lan nói:
                – Đêm nay Trưng Nhị dẫn Đào Kỳ, Nguyễn Phương Dung thám thính phủ Thái-thú. Sáng nay chúng ta được tin Ngũ-kiếm đã về tới Luy-lâu và chiều nay thế nào cũng vào yết kiến Thái-thú tường trình mọi việc. Thái-thú trước đây được tin từ huyện lệnh Đăng-châu báo rằng Ngũ-kiếm đã giết Tô Phương. Vợ y khóc hết nước mắt. Y đã tin là thực. Nhưng Tô Định là người linh mẫn, sau cơn súc động, xét thấy Ngũ-kiếm là bạn, không có lý gì dể giết con y, nên đã sai người đi điều tra. Người đi điều tra chưa về, mà Ngũ-kiếm lại dẫn thân tơí. Tô Định đã mời Ngũ-kiếm tối nay đến tương kiến, chắc y cũng không tin lời Huyện lệnh. Vậy ta phải làm cho y tin lời Huyện lệnh, nghi ngờ Ngũ-kiếm. Có hai trường hợp xảy ra: Nếu Thái-thú tin Ngũ-kiếm, thì Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung phải lọt vào chỗ ở của vợ con Thái-thú lấy cắp hết vàng bạc, châu báu. Nếu cần, có thể giết người. Sau đó, chúng ta tìm cách dấu châu báu đó ở nhà Ngũ-kiếm, rồi Đào hiền đệ đến thăm Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn được tin Tô Định cáo giác, thế nào cũng cho phép Thái thú khám chỗ ở cũa Ngũ-kiếm. Khi khám, thấy vàng bạc, châu báu, hành lý cũa Tô Phương. Bằng chứng sờ sờ ra đó, Ngũ-kiếm không đường chối cãi. Nghiêm Sơn, Tô Định sẽ ra lệnh bắt họ, họ có võ công cao, bị hàm oan, trong tay lại có Thượng-phương bảo kiếm, họ sẽ chống lại.
                Đào Kỳ hỏi:
                – Đối với sư tỷ, tôi có cần nói rằng tin tức tôi biết, vàng bạc ở nhà Ngũ-kiếm là do mình lập kế, hay cứ đổ diệt cho Ngũ-kiếm đi cướp?
                – Không! Không nên.
                Trưng Nhị bàn: Không phải chúng ta không tin Thiều Hoa, nhưng cái gương Mỵ Châu còn đó. Đề phòng Thiều Hoa ngây thơ, nhẹ dạ. Đào hiền đệ cứ làm như biết rõ vụ trộm này là do Ngũ-kiếm gây ra thực. Thiều Hoa là người linh mẫn, bình thường không dễ gì tin chuyện đó. Nhưng tình sư tỷ, sư đệ quá sâu, Thiều Hoa sẽ tin. Còn Nghiêm Sơn, bình thường, chắc chắn y cũng không tin như vậy. Nhưng y nhất thiết thương yêu Thiều Hoa, nên cũng sẽ bị lầm lẫn trong mấy ngày. Rồi khi y biết sự thực, có hối cũng muộn.
                Đặng Thi Sách nói:
                – Chúng ta làm như vậy sẽ thành công đấy. Song vu oan cho Ngũ-kiếm thì ta thấy trái... đạo lý.
                Trưng Nhị cười:
                – Phục quốc thì đến mạng sống của chúng ta còn không thiết, huống hồ dùng sảo kế.
                Quý Lan nói tiếp:
                – Nếu trường hợp Thái-thú không tin, bắt giam Ngũ-kiếm, thì dễ quá. Bấy giờ, Đào, Nguyễn hai người cứ vào nhà lao cứu họ ra. Gây một trận đấu thiên kinh động địa. Tất cả quân sĩ, võ sĩ sẽ biết mặt hai em. Sau đó hai em trở về phủ Lĩnh-nam công thăm sư tỷ và ở đó với sư tỷ.
                Đào Kỳ ngơ ngác không hiểu, Phương Dung nói :
                – Chúng em ở phủ Lĩnh-nam, các tướng sĩ tất nhận được mặt. Chúng sẽ chẳng ngần ngại gì mà không báo cáo với Tô Định. Tô Định vốn tỵ hiềm với Nghiêm đại ca, thế là sự chia rẽ hai người đã thành công.
                Trưng Trắc nói :
                – Ta sợ khi lâm sự, Thiều Hoa lại bắt hai em giao cho Tô Định thì hỏng hết đại cuộc.
                Đào Kỳ cười hì hì :
                – Hoàng sư tỷ với em tình như chị em ruột. Từ trước đến giờ, sư tỷ chăm sóc em như mẹ đẻ. Em biết chắc, nếu cần phải chết thay cho em, người cũng làm.
                Quý Lan ngoắc tay ra hiệu chấm dứt :
                – Thôi, việc cứ thế mà làm.
                Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung ăn cơm xong, lấy ngựa lên đường. Buổi chiều hôm đó, tới Luy-lâu. Luy-lâu là thủ-phủ của đất Giao-chỉ, cũng là thủ đô của Lĩnh Nam. Người ngựa tấp nập. Quân sĩ tuần hành nghiêm mật. Trưng Nhị dắt Đào Kỳ, Phương Dung vào một tửu lầu lớn, gọi mấy món ăn, ngắm thiên hạ qua lại.
                Trưng Nhị giảng giải :
                – Chị nói cho các em nghe. Luy-lâu là thủ đô Lĩnh Nam. Phủ Lĩnh Nam công chia ra làm ba cơ quan chính. Một là tòa Tư-đồ coi về hành chính. Hai là Tư-không coi về lễ nghĩa, học hành, canh nông, tiền bạc. Ba là Tư-mã coi về quân sự. Tư-đồ, Tư-không thì không đáng kể, còn Tư-mã thì do người cầm đầu Hợp phố lục hiệp thống lĩnh. Y tên là Lưu Nhất Phương, người Hợp-phố, thuộc Quế-lâm.
                Phương Dung ngắt lời:
                – Như vậy, y là người Việt? Tại sao y là người Việt lại được Nghiêm Sơn cho giữ toàn quyền quân sự? Lỡ y phản thì sao?
                Trưng Nhị gật đầu:
                – Em đặt câu hỏi thực đúng. Ta cũng không hiểu sao Nghiêm Sơn là người Hán lại trọng dụng Hợp-phố lục hiệp. Y cho mỗi người giữ một chức vụ quan trọng. Lưu Nhất Phương võ công cao hơn Nghiêm Sơn, về tài dùng binh thì thua Nghiêm một bậc. Y được Nghiêm phong chức Uy-viễn đại tướng quân.
                Đào Kỳ hỏi:
                – Nghiêm đại ca dùng binh giỏi lắm sao?
                Trưng Nhị gật đầu:
                – Hiện khắp Trung-nguyên, không ai dùng binh giỏi bằng Nghiêm. Em phải biết phân biệt những người lãnh đạo làm ba loại: Một loại hùng tâm, tráng khí, chí những toan nuốt sao Ngưu, sao Đẩu, nhã lượng, cao trí, tính tình thuần hậu, có tài dùng người. Họ là loại đế vương như Thành Thang, Văn-vương, Hán Cao-tổ. Đất Lĩnh Nam mình như Thục An Dương vương. Hiện vua Quang Vũ nhà Hán có tài này.
                Phương Dung tán thành:
                – Loại người này cần đức chứ không cần tài. Vì tài thì đã có Y Doãn, Chu Công, Khương Thượng, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Thời Âu-Lạc mình thì có: Vạn-tín hầu Lý Thân, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung, Phương-chính hầu Trần Tự Minh.
                Trưng Nhị gật đầu:
                – Em còn nhỏ tuổi, kiến thức đã đến dường này, chỉ vài năm nữa, chị cũng không địch lại em.
                Ngừng một lúc, nàng tiếp:
                – Còn loại thứ nhì thì trông rộng, nhìn xa. Ngồi trong màn mà quyết thắng ngoài ngàn dặm. Trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Mưu thần, chước thánh. Đó là những người như Y Doãn, Chu Công, Khương Thượng, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Nghiêm Sơn là loại này.
                Phương Dung suy nghĩ rồi nói:
                – Còn loại thứ ba, họ là người biết điều binh khiển tướng, xung phong hãm trận. Đó là những chiến tướng.
                Trưng Nhị mỉm cười, vuốt tóc Phươg Dung:
                – Em thuộc loại thứ nhì. Còn Nghiêm Sơn, thì một kiếm cứu Quang Vũ, rồi giúp Quang Vũ khởi nghĩa. Trước đại chiến Vương Mãng ở Côn-dương, chiếm năm thành. Các đại tướng danh tiếng của Hán như: Đặng Vũ, Ngô Hán, Sầm Bành, Cảnh Yểm, Mã Viện... đều do một tay Nghiêm Sơn tuyển mộ, đào tạo ra. Em thấy không! Với một thanh gươm, dẫn Hợp-phố lục hiệp xuống Lĩnh Nam, khiến các Thái thú cúi đầu tuân phục. Các Thái thú theo thói cũ, vẫn giữ châu, quậän như một giang sơn riêng. Nghiêm chỉ là ông vua không quyền. Thế mà Nghiêm trở tay, nắm được Cửu-chân, Quế-lâm, rồi dần dần nắm hết sáu quận. Bấy giờ Nghiêm mới thu hết quân lính của các Thái thú. Gần đây, Mã thái hậu kiếm chuyện với Nghiêm. Nghiêm vẫn hóa giải được. Người như thế, Đào hiền đệ phải tìm cách gần y để học lấy bản lĩnh đó. Sau này, phục quốc sẽ cần dùng tới.
                Phương Dung nhìn xa xa, hỏi Đào Kỳ:
                – Đào đại ca, Trưng sư tỷ, cũng như các cao nhân Lĩnh Nam như Nguyễn Tam Trinh, cha và các sư thúc của em cũng không hiểu nổi: Tại sao Nghiêm Sơn cứ tìm cách thải dần quan lại người Hán, rồi tuyển người Việt vào thay thế. Em có cảm tưởng như Nghiêm là người Việt, định biến Lĩnh Nam trở lại thời Hùng-Vương, An Dương vương vậy. Đại ca có biết không?
                Đào Kỳ suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu.
                Trưng Nhị tiếp:
                – Tại Luy-lâu còn có phủ Thái-thú của Tô Định, và ty Tế-tác dưới quyền y. Còn phủ Đô-úy, coi về quân sự thì đóng ở Long-biên. Đô-úy hiện là Lê thái sư thúc của chị.
                Đào Kỳ hỏi:
                – Hiện quân đội của người Hán có bao nhiêu?
                Trưng Nhị đáp:
                – Tại mỗi quận thì có một Quân, tức khoảng 12,500 người, phân nửa là Quân kỵ. Đó là lực lượng từ Trung-nguyên mang sang. Mỗi châu, huyện còn có 5 Sư, tổ chức theo lối hỗn hợp, cứ hai người Hán thì có ba người Việt. Như vậy, mỗi quận lực lượng hỗn hợp có khoảng 12,500 quân nữa. Tại mỗi huyện thì có một Sư người Hán 2,500 quân, toàn kỵ binh. Và, tùy theo huyện lớn nhỏ, có từ một Sư hoặc một Lữ theo lối hỗn hợp một người Hán, bốn người Việt. Trong các châu, trang, động thì các Lạc-hầu, Lạc-tướng có tráng đinh riêng. Người nào yêu nước thì dùng tráng đinh giữ trang, ấp mình. Người nào bán rẻ lương tâm thì dùng tráng đinh để làm tay sai cho người Hán.
                Đào Kỳ tính nhẩm:
                – Tính tổng cộng, sáu quận, họ có 6 Quân, 75,000 quân Hán, 75,000 quân hỗn hợp. Còn quân địa phương của các huyện thì không đáng kể. Với 150,000 quân tinh nhuệ, chúng ta phải làm thế nào mới thắng được?
                Phương Dung hỏi:
                – Liệu chúng ta co khích Nghiêm đại ca giết Tô Định được chăng?
                Trưng Nhị lắc đầu:
                – Người Hán muôn đời vẫn là người Hán. Nếu Nghiêm Sơn giết Tô Định tất phải ly khai với Trung-nguyên. Hán đế sẽ sai quân sang đánh, thế là người Hán dùng đất Việt làm bãi chiến trường. Nghiêm Sơn bại, đất Việt bị hao tổn sinh lực vì chiến tranh, làm sao ngóc cổ dậy được? Còn nếu Nghiêm thắng, y lại trở thành một thứ Triệu Đà thứ nhì mà thôi... Hà, bây giờ chúng ta tìm chỗ trọ đi là vừa.
                Phương Dung cười:
                – Thì cứ đến phủ Lĩnh-nam công mà ở, việc gì phải tìm chỗ trọ? Ta đến đó để được ăn cơm gà, cá gỏi, do bọn Hán hầu hạ. Rồi đêm tới, ta đột nhập phủ Thái-thú có gì khó đâu?
                Rồi nàng hạ thấp giọng:
                – Nếu Nghiêm đại ca có hỏi Trưng sư tỷ là ai, chúng ta cứ nói. Đó là đệ tử của sư thúc Thế Hùng. Vừa qua mặt được Nghiêm, vừa qua mặt được Thiều Hoa. Nhưng chị nhớ phải kêu Đào đại ca bằng sư huynh đấy nhé.
                Ba người ăn xong, hỏi thăm đường tới phủ Lĩnh-nam công. Phủ Lĩnh-nam công nằm bên bờ sông, rộng mênh mông. Trông xa xa, có hàng trăm nóc nhà ngói đỏ hiện ra giữa những hàng cây xanh tươi. Giữa các dãy nhà đó, một dinh thự cao đến ba tầng nổi bật lên trên. Trước tòa nhà cao, có một cái hồ lớn. Giữa hồ, có một cái đảo nhỏ. Trên đảo dựng một căn nhà thủy tạ, có cầu bắt vòng vào bờ. Kỵ binh từng đoàn, tuần phòng ngoài hàng rào phủ.
                Đào Kỳ thấy vậy, nghĩ thầm:
                – Nghiêm đại ca oai thực.
                Chàng đi với Trưng Nhị, Phương Dung tới cổng phủ. Lính Hán giữ cửa cản lại hỏi:
                – Các người đi đâu?
                Đào Kỳ ngồi yên trên mình ngựa, hất hàm:
                – Ta muốn gặp tỷ phu ta là Nghiêm Sơn.
                Tên lính canh thấy một thiếu niên dám kêu tên chúa tướng ra thì muốn quát tháo, mắng chửi. Nhưng khi y nghĩ đến chữ tỷ phu thì giật mình:
                – Cậu là?
                Đào Kỳ không thèm nhìn hắn, ngửa mặt lên trời, nói:
                – Ta là em của Nghiêm phu nhân.
                Nghiêm Sơn trị binh rất nghiêm. Chàng là người võ lâm xuất thân, tinh thần hào sảng, thưởng phạt công minh nên được binh sĩ nể phục. Thiều Hoa lại ôn nhu văn nhã, võ công cao cường. Nàng đẹp như tiên nữ, khiến bọn lính Hán coi nàng như tiên nga giáng phàm. Nay chúng thấy một thiếu niên anh tuấn đi cùng hai thiếu nữ xinh đẹp thì tin ngay là thực. Y vội cầm cái dùi đánh ba tiếng trống. Một tên ngũ trưởng từ trong chạy ra. Tên lính chỉ Đào Kỳ nói:
                – Cậu đây là em của phu nhân.
                Tên ngũ trưởng chắp tay vái:
                – Xin cậu chờ một tý, tôi vào bẩm phu nhân.
                Một lát, Thiều Hoa từ trong đi ra. Thấy Đào Kỳ, Phương Dung đi với một nữ lang xinh đẹp, nàng cúi chào nữ lang rồi dang tay ôm đầu Đào Kỳ vào ngực, bẹo má chàng:
                – Sao mãi hôm nay em mới tới thăm chị? Chị nhớ em muốn chết được. Nào, em vào đây. Mời hai vị cô nương nữa.
                Thiều Hoa dắt tay Đào Kỳ vào phủ. Phủ là một ngôi nhà lớn hai tầng, bên trong trang trí cực kỳ hoa lệ: Mười hai cái ghế bằng da hổ, trên tường treo đầy những đèn lồng, mỗi đèn lồng có mười hai chuỗi minh châu, ánh sáng tỏa ra lóng lánh.
                Đào Kỳ chỉ Trưng Nhị nói:
                – Đặng sư muội đây là đệ tử của chú em.
                Thiều Hoa liếc nhìn Trưng Nhị không nghi ngờ:
                – Chắc võ công sư muội cao lắm nhỉ?
                Nàng bảo Đào Kỳ:
                – Bây giờ chưa tìm thấy sư phụ, sư mẫu, em phải ở đây luôn với chị để chị em có nhau.
                Thiều Hoa gọi tỳ nữ pha trà và chuẩn bị phòng ngủ cho ba người. Nàng gặp lại Đào Kỳ lòng đầy hân hoan:
                – Nghiêm đại ca đi Đăng-châu chưa về. Tối nay chị dẫn em đi chơi thành phố Luy-lâu.
                Phương Dung hỏi:
                – Ở Luy-lâu này lính tráng nhiều quá, đi chơi làm chi? Lỡ xảy ra chuyện gì thì sao?
                Thiều Hoa cười:
                – Em đừng sợ từ tướng tới binh ở đây đều biết mặt chị hết. Chúng đâu dám vô lễ, vả chúng ta là con nhà võ, há sợ bọn bất lương ư? Hồi cách đây mấy năm, Đào hiền đệ cùng chị đã đánh nhau với bọn thiết kỵ ở Long-biên để cứu cô bé Tía. Em biết chuyện đó chứ?
                – Em nghe anh Kỳ thuật lại.
                Đào Kỳ ôn lại truyện cũ trong tâm, rồi hỏi:
                – Cô bé Tía bây giờ ra sao?
                Thiều Hoa đáp:
                – Cô được Nguyễn Tam Trinh, Đệ-tứ thái bảo của phái Sài-sơn thu làm đệ tử. Cách đây mấy tháng, trong dịp đi tìm em, chị ghé qua Long-biên thăm bác Nguyễn Tam Trinh, có gặp lại cô bé đó. Cô đẹp đáo để, võ công tiến mau không thể tưởng được. Cô lặn dưới nước muốn ngang với đệ tử của bác Tam Trinh nữa. Cô nhắc đến em hoài. Nhưng hồi ấy, chị chưa tìm được em, nên không nói cho cô ấy biết. Bác Nguyễn Tam Trinh đặt cho cô một cái tên mới là Tử Vân, tức mây tím.
                Thiều Hoa đứng dậy lấy trong hộp để trước mặt ra ba cái thẻ bài đưa cho Đào Kỳ, Phương Dung, Trưng Nhị mỗi người một cái, nói:
                – Đây là tín thẻ. Người cầm thẻ này là những người vâng lệnh Quốc-công đi công tác binh sự cơ mật. Dù chưởng quản phủ Tế tác đi nữa, cũng không có quyền hạch hỏi. Người cầm tín thẻ này là đại diện của Nghiêm đại ca. Cần việc gì, thì từ cấp Thái-thú, sư-trưởng trở xuống phải nghe theo. Trường hợp các sư đệ, sư muội có gì khó khăn cứ đưa ra thì mọi chuyện sẽ êm thắm.
                Trưng Nhị nhìn Phương Dung liếc một cái, ý muốn nói:
                – Có cái này thì tha hồ mà tung hoành.
                Thiều Hoa vào phòng lấy ra mấy bộ quần áo, giày dép thực đẹp đưa cho Đào Kỳ:
                – Hôm gặp em ở Lôi-sơn, chị về may sẵn cho em đây.
                Trưng Nhị ngẫm nghĩ:
                – Người con gái Việt giàu tình cảm thế này, không thể là Mỵ Châu được. Ta nghi oan cho nàng mất rồi, quả đáng trách.
                Một buổi chiều, Thiều Hoa sai đánh ra một cỗ xe lớn, trên xe có hai hàng ghế do hai con ngựa kéo. Phu xe là một tên kỵ binh người Hán. Y khép nép cúi đầu trước Thiều Hoa. Thiều Hoa ngồi trước với Đào Kỳ, ghế sau để Trưng Nhị với Phương Dung. Nàng vẫy tay một cái, tên phu đánh xe ra cổng phủ. Bốn tên lính người Hán cúi gập người lại chào nàng.
                Phương Dung nói:
                – Em coi bộ bọn lính nó sợ oai chị lắm phải không?
                Thiều Hoa nói:
                – Sợ mà làm gì? Trong khi chị chỉ là một Mỵ Châu.
                Trưng Nhị là người đọc sách nhiều, nàng muốn giải tỏa mặc cảm cho Thiều Hoa, nên nghiêm nghị nói:
                – Sư tỷ, em muốn khuyên sư tỷ một câu được không?
                Thiều Hoa gật đầu:
                – Sư muội cứ nói.
                Trưng Nhị thong thả:
                – Cách đây mấy trăm năm, Tấn phu nhân là người nước Tấn, lấy chồng nước Tần, bà đã dùng tình yêu cản chồng, dùng uy quyền cản trở, cứu được Tấn hầu, sử sách còn ghi. Nay chị là phu nhân Lĩnh Nam công, chứ làm chánh cung hoàng hậu Hán đế cũng được đi, miễn là làm lợi cho người Việt. Trước đây, Vạn-tín hầu Lý Thân cũng làm quan với Tần nhưng ông không vì Tần để hại Việt, nên đời đời thờ kính ông. Sư tỷ với Mỵ Châu đâu có giống nhau được?
                Thiều Hoa nghe Trưng Nhị nói, nàng cảm thấy cô sư muội này đáng yêu quá. Nàng đưa mắt nhìn Trưng Nhị ngỏ ý cám ơn.
                Xe đã đi vào thành phố. Dân cư đông đúc, người Việt, người Hán chen chúc nhau. Trai thanh gái lịch, quần áo sặc sỡ đủ màu. Bây giờ là tháng bảy, trời thường hay mưa Ngâu, nhưng khí hậu oi bức. Xe đi một vòng nữa tới trung tâm thành phố, Thiều Hoa chỉ một tòa nhà lớn:
                – Kia, phủ Thái-thú kia. Tô Định đang ở trong đó. Hồi này y và Nghiêm đại ca không hòa với nhau. Y là người dưới, cầm quyền cai trị, vơ vét của dân. Nghiêm đại ca là người hiệp nghĩa, nên đã cản trở y, vì vậy hai bên bất hòa. Trước đây, y cậy con trai giữ chức chưởng quản phủ Tế tác, nên hay tò mò vào chuyện của Nghiêm đại ca. Nhưng gần đây, con y bị Ngũ-kiếm giết đi, phủ Tế tác không người trông coi, Nghiêm đại ca đã cử người thay thế. Hiện Nghiêm đại ca đang đi điều tra vụ Ngũ-kiếm giết Tô Phương, thì sáng nay, Ngũ-kiếm lại trở về. Tô Định là người linh mẫn, y cho rằng Ngũ-kiếm không giết con y, vì theo y, nếu Ngũ-kiếm giết con y mà còn về đây nạp mạng hay sao?
                Phương Dung lắc đầu:
                – Biết đâu Ngũ-kiếm về vì một mưu đồ khác thì sao?
                Thiều Hoa gật đầu:
                – Chị cũng nghi như vậy.
                Đào Kỳ hỏi:
                – Chị có biết Ngũ-kiếm hiện ở đâu không?
                Đáp:
                – Chúng cư ngụ ở Lan-trang phía nam Luy-lâu. Kìa, em nhìn thấy ngôi nhà ngói đỏ hiện lên giữa đám cây xanh, đó là Lan-trang đó.
                Xe đi một vòng rồi trở về dinh. Ăn cơm chiều xong, Trưng Nhị nháy Thiều Hoa ra góc nhà nói nhỏ:
                – Sư tỷ à! Đào sư huynh dường như muốn đi chơi riêng với Nguyễn cô nương thì phải. Ngặt vì vướng sư tỷ với em nên không dám nói ra đấy thôi.
                Thiều Hoa tin thực, gật đầu:
                – Sư đệ đã mười chín tuổi rồi, Nguyễn cô nương cũng đã mười tám. Họ có tình ý với nhau, vì vướng ta cho nên không dám bộc lộ đấy thôi. Ta phải để cho họ tự do mới được.
                Nàng bảo Đào Kỳ:
                – Tối nay em với Dung nên dẫn nhau ra phố ngắm cảnh Luy-lâu ban đêm cho vui. Chị sẽ nhờ Đặng sư muội ở nhà, giảng sách cho chị.
                Đào Kỳ nhìn Trưng Nhị tỏ vẻ hiểu ý. Trưng Nhị cất tiếng hát:
                Tinh nữ kỳ thù,
                Sĩ ngã ư thành ngung,
                Ái nhi bất kiến,
                Tao thu trì trù.
                (Có người con gái xinh đẹp, chờ ta ở góc thành. Yêu mà không gặp, vò đầu bứt rứt).
                Thiều Hoa vì ít đọc sách nên không hiểu ý bài hát này. Còn Trưng Nhị, Phương Dung, Đào Kỳ là những người đọc sách, nhìn nhau hội ý.
                Nguyên Trưng Nhị muốn nhắn Đào Kỳ đêm nay gặp nhau ở góc thành chợ Lan-trang, mà không tiện nói ra, nàng cất tiếng hát câu này trong Kinh Thi, nói về một cặp tình nhân hẹn nhau ở góc thành, người yêu không đến, vò đầu vò tóc.
                Trưng Nhị nói với Thiều Hoa:
                – Em cần ra ngoài phố tìm người nhà, có lẽ em sẽ về hơi khuya, xin phép sư tỷ cho em đi.
                Thiều Hoa dặn:
                – Nếu em tìm không thấy, ngày mai chị đi tìm với. Nhớ về sớm nghe.
                Trưng Nhị đi rồi, Đào Kỳ sang phòng Phương Dung, gõ cửa:
                – Đi thôi.
                Hai người dắt tay nhau ra phố. Đào Kỳ thuê một chiếc xe ngựa chỉ đường cho xe hướng ra góc tây thành, nơi có Lan-trang. Khi xe quẹo theo hướng bờ sông, đã thấy Trưng Nhị đứng đó. Đào Kỳ mời lên xe cùng đi. Người phu xe liếc Trưng Nhị một cái rồi ra roi cho xe chạy. Xe chạy qua mấy chỗ đường gồ ghề, ba người xuýt bị hất khỏi xe. Bỗng Trưng Nhị quát lớn:
                – Cho đến lúc này, các hạ còn chưa chịu xuất đầu lộ diện ư?
                Nói rồi nàng chụp cổ tay người phu xe. Người phu xe nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Trưng Nhị phóng chưởng theo. Người đó còn ở trên không đã biến chiêu thần tốc, tay phải biến thành chỉ phóng vào bàn tay Trưng Nhị. Nếu Trưng Nhị tiếp tục phóng chưởng, chính nàng sẽ bị thương. Nàng vội biến từ chưởng ra cầm nã chụp tay đối phương. Đối phương vung tay trái thành quyền đánh vào vai Trưng Nhị. Trưng Nhị vận vai trái chịu đòn, tay phải chụp tay trái người kia. Người kia thu tay lại, đáp xuống đất, cười ha hả:
                – Tản-viên song phượng quả là danh bất hư truyền.
                Trong đời Trưng Nhị, chưa bao giờ nàng gặp một đối thủ có bản lĩnh như thế. Nàng đã đánh dư trăm trận, thường chỉ hòa hoặc thắng, chứ chưa bao giờ gặp một đối thủ võ công cao cường, biến chiêu thần tốc như vậy.
                Người đó nói rồi cầm dây cương ghìm ngựa lại, nhảy xuống vệ đường, ngồi trên tảng đá cười hì hì, không nói gì.
                Trưng Nhị chắp tay nói:
                – Thực là cao nhân. Kẻ hèn này mắt kém không nhận được tôn giá là ai? Xin cho biết quý tính, cao danh được chăng?
                Đào Kỳ nhớ ra tiếng nói của người này khá quen thuộc. Võ công, chiêu số cũng khá quen nữa. Không biết mình đã gặp ở đâu mà không nhớ tên. Chàng chợt nhớ lại, cách đây gần năm, một đêm chàng đi với Phương Dung và anh cả của nàng là Nguyễn Anh sang Cổ-loa dò thám tin tức cha của Thánh Thiên, giữa đêm gặp vợ chồng Vũ Công Chất và con gái là Vũ Trinh Thục bị gã họ Trần đuổi theo toan giết. Rồi, Lê Đạo Sinh xuất hiện, cứu thoát.
                Hôm đó là ban đêm, hôm nay cũng vào buổi tối, vả lại người con gái đã cải trang thành phu xe, nên mãi khi nàng lên tiếng, Đào Kỳ mới nhận được:
                – Vũ cô nương, lệnh tôn và lệnh đường hiện ra sao? Quý vị không ở với Lục-trúc tiên sinh nữa ư?
                Đến lượt người phu xe giật bắn người lên, hỏi:
                – Quả xứng đáng là hào kiệt đương thời. Thiếu hiệp, sao người biết rõ chuyện của ta? À, tiểu muội mắt kém nhìn không ra, tỷ tỷ đây là Tản-viên nhất phượng hay nhị phượng? Tiểu muội cải trang có chỗ nào sơ hở mà tỷ tỷ nhận được?
                Trưng Nhị nói:
                – Không dám, tôi là Trưng Nhị. Khi lên xe tôi tuyệt không nghi ngờ cô nương là gái và biết võ công. Nhưng khi cô nương đánh xe, tay áo co lên, cổ tay trắng nõn, không hợp với da mặt hóa trang vàng khè. Đó là một điểm sơ hở. Lưng cô nương lại như lưng ong, nếu tất cả phu xe trong thiên hạ, lưng đều tròn đẹp như vậy chẳng hóa ra đất Lĩnh Nam này là thế giới thần tiên sao? Rồi khi xe gặp chỗ gập ghềnh, tôi cùng hai em đây đều bị bắn lên hết, cô nương cũng bị hất lên và đã dùng đầu bàn chân đáp xuống sàn xe nhẹ nhàng. Khinh công ấy, những người đánh xe làm gì có?
                Vũ Trinh Thục gật đầu:
                – Tiếng đồn Tản Viên song phượng quả danh bất hư truyền. Vừa rồi, tiểu muội không nhanh tay, chắc phải mất mạng.
                Trưng Nhị nói:
                – Những người ngang tuổi cô nương võ công dường ấy, liệu có được mấy người?
                Đào Kỳ tiếp lời:
                – Vũ tỷ tỷ! Tỷ tỷ là ái nữ của Đệ-ngũ thái bảo Vũ tiên sinh của phái Sài-sơn có khác, hành sự lỗi lạc. Tiểu đệ nghe nói, trong trang Phượng-lâu đến đứa trẻ cũng có khí phách hùng tráng, quả thực không ngoa.
                Vũ Trinh Thục đang thắc mắc về Đào Kỳ. Nàng thấy đã kêu được tên nàng, tên cha nàng, cả biến cố của nhà nàng bị nhục, được Lục-trúc Lê Đạo Sinh cứu nữa. Bây giờ y còn nhận ra môn hộ của nàng mới tuyệt. Nàng hỏi:
                – Tiểu huynh đệ! Tuổi ngươi chưa quá hai mươi mà kiến thức đã quảng bác đến thế, thực hiếm có trên đời. Những người như tiểu huynh đệ cũng dễ biết thôi. Ta nghe nói, người con út của Đào hầu đất Cửu-chân có cơ duyên học được võ công thượng thừa của Văn-Lang, Cửu-chân, Long-biên, Tản-biên. Phải chăng là huynh đệ?
                Đào Kỳ gật đầu:
                – Kiến văn của tỷ tỷ quả không tầm thường.
                Vũ Trinh Thục thở dài:
                – Bố tôi thường cho đệ tử giả làm phu xe trong thành Luy-lâu để dò tin tức giặc Hán. Ngặt vì phủ Tế tác của giặc Hán có nhiều người trong võ lâm làm việc cho chúng, nên chúng tôi phải hóa trang. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi hóa trang tìm gặp Nhị Trưng thì bị bại lộ. Trưng tỷ tỷ, thân phụ em lên Mê-linh để gặp Đặng chưởng môn phái Tản-viên. Chưởng môn cho biết tỷ tỷ đã về Luy-lâu, cho nên bố em vội vã trở về sai em cải trang để đón tỷ tỷ, giúp tỷ tỷ một tay.
                Trưng Nhị nói cho Vũ Trinh Thục tất cả những tin tức mình thu nhận được. Đêm nay định vào phủ Thái thú trộm đồ, để đổ oan cho Ngũ-kiếm.
                Vũ Trinh Thục bàn thêm:
                – Ở đây tai mắt của giặc rất nhiều nên chúng tôi đều giả làm người hầu bàn ở khách điếm hoặc phu xe. Nếu từ nay tỷ tỷ muốn nhắn gì, hoặc muốn đưa tin cho ai, chỉ việc đến các tửu lầu lớn, thấy những người hầu bàn hoặc trên cổ, hoặc tay có quấn khăn màu lục, thì hỏi y: Anh có biết nhà ông Văn ở đâu không?. Người đó hỏi lại:- Tôi biết có thầy lang tên Văn, nhưng ông ấy tạ thế rồi. Vậy người cần gì khác không?. Bấy giờ tỷ tỷ đáp:- Tôi cần mua một lượng Hùng hoàng. Câu đối thoại này ngụ ý chúng ta là người Văn-Lang, con cháu vua Hùng. Thế là tỷ tỷ có thể nhờ y được. Những người đánh xe cũng tương tự.
                Trưng Nhị bàn:
                – Bây giờ Đào hiền đệ cùng Phương Dung tới Lan-trang gặp Ngũ-kiếm, còn chị với Vũ sư muội đi ăn trộm ở phủ Thái thú. Sau khi ăn trộm xong, chúng ta giả làm người của khách điếm đưa hành trang đến cho hiền đệ. Chị sẽ dấu tang vật ăn trộm trong đống hành trang đó. Em đem cất vào một nơi nào thật kín trong nhà Ngũ-kiếm. Em nhớ dấu luôn tất cả những vàng, ngọc của Tô Phương cất trong hành lý của y mà em với Dung muội đã lấy được ở Đăng-châu. Tô Định khám nhà, tìm ra những thứ đó, y càng tin rằng Ngũ-kiếm đã giết con y.
                Phương Dung dục:
                – Chúng ta tới Lan-trang đi.
                Vũ Trinh Thục đánh xe chở hai người tới Lan-trang. Đào Kỳ xuống xe, làm bộ móc tiền trả Vũ Trinh Thục đàng hoàng. Rồi bước đến cổng trang.
                Phương Dung bảo hai người lính gác cửa:
                – Các người vào báo với Ngũ-phương thần kiếm rằng có Nguyễn cô nương cầu kiến.
                Ngũ phương thần kiếm là khâm mạng của Quang Vũ sang kinh lược đất Lĩnh Nam. Họ giao du rất rộng với võ lâm hào kiệt. Người Việt tới tiếp xúc với họ rất thường. Lính canh không mấy ngạc nhiên.
                Tên lính Hán vào một lát thì cả Ngũ-kiếm đều trở ra. Họ thấy Phương Dung, Đào Kỳ thì cùng reo lớn lên:
                – Nguyễn cô nương, từ hôm thất lạc ở Đăng-châu, chúng tôi đi tìm cô nương và công tử khắp mơi đều không thấy. Không ngờ lại gặp hai vị ở đây.
                Họ mời Đào Kỳ, Phương Dung vào nhà, rót trà nước mời uống. Phương Dung nói:
                – Huyện lệnh Đăng-châu thực xảo quyệt. Chúng dùng thuốc mê bắt Ngũ-kiếm rồi giết công tử. Nhưng chúng nhanh miệng nói ngược rằng Ngũ-kiếm giết công tử mới khổ chứ?
                Hoàng kiếm buồn rầu:
                – Chúng tôi bị thất lạc cô nương với công tử. Sau đêm đó trở về Đăng-châu dò thám, nhưng không ra tin tức, đành trở về báo cáo sự việc lên Thái-thú. Thái-thú đại nhân hẹn chúng tôi tối mai sẽ gặp người tại phủ để nghe chúng tôi trình bày chi tiết sự việc xảy ra.
                Đào Kỳ nói:
                – Chỉ sợ Thái thú đại nhân lại nghe lời Huyện-lệnh, nghi ngờ Ngũ-kiếm mới thực là phiền. Tôi hỏi thực quý vị, nếu Thái thú trở mặt bắt quý vị, quý vị tính sao?
                Lam kiếm lắc đầu:
                – Chúng tôi có kiếm trong tay, há để cho chúng muốn làm gì thì làm sao?
                Phương Dung tiếp:
                – Khi quý vị đại ca đi gặp Thái thú, anh em chúng tôi giả làm người tùy tòng đi theo. Nếu canh ba mà quý vị không ra, chúng tôi phải vào cứu quý vị. Dù không cứu được người, cũng dí kiếm vào cổ vợ con y, bắt y phải thả quý vị ra.
                Bạch kiếm hỏi Phương Dung:
                – Cô nương, hành lý cô nương với biểu huynh để ở đâu? Tối nay cô nương với biểu huynh ở đây chơi với chúng tôi, nên chăng?
                Ý Bạch-kiếm muốn lưu hai người lại để làm nhân chứng trong vụ này, hầu đối chất với Huyện-lệnh Đăng-châu. Họ không ngờ chính Phương Dung cũng mong như vậy.
                Đào Kỳ nói:
                – Như thế, phiền quý vị quá. Chúng tôi chỉ ở đây cho đến khi tìm được công tử mà thôi.
                Sáng hôm sau, Ngũ-kiếm lấy bảy con ngựa, rồi cùng Đào Kỳ, Phương Dung, tất cả lên đường đến phủ Thái-thú.
                Tới nơi, họ đi thẳng vào, không bị xét hỏi gì cả, bởi lính gác cổng đều thuộc phủ Tế-tác, đã thuộc mặt họ từ lâu. Vào tới sân, họ cột ngựa nơi gốc cây trong vườn hoa, dặn Đào Kỳ, Phương Dung rằng:
                – Hai vị chờ chúng tôi ở đây nghe.
                Anh em Ngũ-kiếm đi vào tòa nhà chính. Đào Kỳ, Phương Dung theo bén gót.
                Trong đại sảnh có tiếng hô lớn:
                – Ngũ phương huynh đệ thuộc phủ Tế-tác cầu kiến Tô đại nhân.
                Có tiếng nói dõng dạc:
                – Mời vào.
                Kỳ, Dung thấy hành lang bên cạnh không người. Cạnh đó có một phòng, hai người bèn đẩy cửa bước vào. Đào Kỳ lấy ngón tay đục thủng giấy dán cửa, ghé mắt nhìn. Bên trong là một sảnh đường lớn, trang trí hoa lệ, oai nghiêm. Bốn góc có bốn bộ da hổ nhồi bông, trông như bốn con hổ sống. Đại sảnh đèn đốt sáng chưng. Hai bức mành ngăn cách với hai phòng bên cạnh làm bằng những chuỗi ngọc trai. Giữa đại sảnh có một cái bàn lớn, bằng gỗ lim, khảm xà cừ, ánh sáng chiếu vào óng ánh.
                Đào Kỳ nói nhỏ vào tai Phương Dung:
                – Tên Thái-thú này mới qua mà đã giàu có muốn hơn Nghiêm đại ca nữa.
                Một người bệ vệ, mặc quần áo lụa, đứng lên chào đón Ngũ-kiếm. Đào Kỳ nhận ra y là Tô Định. Y đứng lên đón Ngũ-kiếm:
                – Ta chờ năm vị tới dự tiệc đã lâu. Nào, xin mời, rồi chúng ta sẽ bàn chuyện sau. Đời người như vó câu qua cửa sổ. Chúng ta lưu lạc sang đất Nam man này, không hưởng đi, mai sau sẽ hối tiếc.
                Tô Định vỗ tay một cái, mười hai thiếu nữ Việt thướt tha từ trong màn bước ra. Sáu người mặc quần áo lụa hồng, nhan sắc xinh đẹp, trên đầu họ đều cài ngọc trai. Sáu người mặc quần áo xanh, bưng sáu cái khay đựng sáu bình rượu. Sáu người con gái áo hồng, mỗi người cầm một nhạc khí: nhị, tiêu, sênh, phách, đàn, trống cùng tấu lên một lượt. Họ tấu nhạc Trung-nguyên. Sáu thiếu nữ áo xanh chia nhau đứng cạnh Tô Định và Ngũ-kiếm rót rượu mời. Rượu được vài tuần, Tô Định quàng tay ôm một thiếu nữ áo xanh vào lòng, rồi cười:
                – Ngũ vị huynh đệ! Năm mỹ nữ này dành cho huynh đệ đấy. Cứ tự tiện. Con gái Nam man mát da mát thịt lắm.
                Ngũ-phương kiếm tuy là người hiệp nghĩa, nhưng họ là những lãng tử giang hồ, không vợ, không con. Đi đến đâu, họ bỏ tiền ra, vào kỹ viện kiếm gái. Thời bấy giờ, người Trung-hoa coi phụ nữ như một thứ đồ chơi. Vì vậy, Ngũ-kiếm nghe Tô Định mời, thì không ngần ngại. Ngũ kiếm với tay, mỗi người ôm một cô gái vào lòng.
                Con hát nằm trong lòng Tô Định cầm ly rượu uống một ngụm, rồi ghé miệng trái đào mớm cho y. Các con hát khác cũng làm như vậy với Ngũ-kiếm. Tô Định vừa uống, vừa ăn. Tay y sờ soạng khắp người mỹ nữ. Mấy cô gái đứng hầu rượu dường như quen với cảnh đó rồi, nên họ thản nhiên đứng nhìn.
                Tô Định đặt chung rựơu xuống nói:
                – Ngũ-phương huynh đệ! Huynh đệ cùng ta từ Trung-nguyên sang đây, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Ta tin các huynh đệ lắm. Nhưng trong chuyến đi vừa qua, con ta mất tích, chắc chắn do Huyện-lệnh hại con ta. Huyện-lệnh này là người của Tích Quang, còn tên giám sở Tế-tác Lưu Chương vốn xuất thân đạo tặc. Chắc chúng mưu hại con ta chứ không sai.
                Đào Kỳ, Phương Dung ngơ ngác một lúc rồi hiểu ngay:
                – Tên Tô Định thật thâm hiểm. Con trai bị mất tích, Huyện-lệnh báo cáo rằng do Ngũ-phương giết chết để đoạt của, vậy mà y vẫn bình thản coi như không có gì.
                Hoàng kiếm thong thả thuật lại từ đầu đến cuối tất cả những diễn biến xảy ra tại Đăng-châu cho Tô Định nghe, rồi tiếp:
                – Huyện lệnh Trương Thanh biết trót gây tai họa, nên mới biết đổ diệt cho bọn tôi. Chỉ cần Tô đại nhân cho người đến nơi điều tra đám binh sĩ người Hán là biết ngay.
                Tô Định cười nhạt:
                – Như vậy, Trương Thanh không dám hại con ta đâu. Các vị, cứ uống rựu vui chơi đi, chúng ta sang đất Nam-man này cai trị, không hưởng đi còn chờ gì nữa? À, quý vị biết không, hôm qua trong phủ ta bị trộm vào lấy hết vàng bạc, châu báu của lão mẫu và bốn vị phu nhân của ta. Sáng dậy ta mới hay. Các vị phu nhân đều bị xông thuốc mê, nên không biết gì cả. Ta điều tra sơ khởi thì được biết kẻ trộm không phải là mhững người tầm thường mà là những võ lâm cao thủ bậc nhất. Lính gác đều không biết gì. Thôi! Chúng ta say đã.
                Nói rồi, y bồng mỹ nữ trong lòng đặt nằm ngang trên bàn trước mặt y. Y ghé miệng hôn lên khắp người thiếu nữ. Thiếu nữ khốn nạn nằm ngay như người chết. Mắt cô nhắm lại, hai tay buông thõng. Hôn chán, y từ từ lột quần áo cô gái ra ngắm ngía. Y nói:
                – Các vị huynh đệ chắc đã biết thuật Thái âm, bổ dương rồi thì phải. Thuật này do danh y Biểu Thước tìm ra.
                Lam-kiếm ngơ ngác hỏi:
                – Tôi có nghe nói qua, nhung chưa bao giờ được hưởng. Tô đại nhân, người đừng tiếc công chỉ bảo cho tại hạ.
                Tô Định cười:
                – Thuật này giữ cho đàn ông tráng dương bổ thận, trường sinh bất lão. Trước hết phải tìm con gái tuổi từ mười sáu tới hai mươi, không bệnh tật gì. Dùng rượu ngon đổ vào cửa mình, rồi ghé miệng mà uống. Rượu là dương chất. Âm hộ con gái là âm chất. Âm dương hòa hợp với nhau, tạo thành thuốc trường sinh bất lão. Sức khỏe dồi dào.
                Đào Kỳ, Phương Dung là đệ tử danh gia. Cha mẹ, sư huynh, sư đệ đều là người đạo đức. Một câu nói tục cũng chưa từng nghe qua. Bây giờ họ chứng kiến cảnh dâm đãng khủng khiếp của Tô Định, Đào Kỳ muốn lợm giọng, còn Phương Dung thì cúi đầu xuống, không dám nhìn.
                Ghi chú của thuật giả
                Thuật Thái-âm bổ dương này rất dài, nhưng thu gọn lại trong mấy câu quyết sau :
                Dục trường mệnh giả,
                Dương nghi trọng niên,
                Nữ đương thanh xuân.
                Dương khả triều Bắc,
                Nữ nghi Nam bình.
                Thái cực âm thủy,
                Dương tửu hòa chi.
                Âm, Dương hòa hợp,
                Mệnh tỷ Nam-sơn.
                Nghĩa là : Muốn sống lâu, thì người đàn ông phải lớn tuổi, người đàn bà phải ở tuổi thanh xuân (16-36). Khi ngủ thì đầu người đàn ông hướng về phương Bắc, người đàn bà hướng về phương Nam. Dùng nước của vị trí cực âm trong người đàn bà, hòa vơí rượu. Như thế thì âm dương hòa hợp, thọ như núi Nam-sơn.
                Về đời Tống, ngưới ta còn dùng các thiếu nữ xinh đẹp, đang tuổi thanh xuân, tắm rửa sạch sẽ, nhét táo tầu vào âm hộ, rồi cho các cô ngồi luyện khí công, đưa tinh khí xuống âm hộ. Những trái táo đó, mỗi buổi sáng, mấy ông nhắm với rượu nếp…
                Thuật này chúng tôi đã trình bầy nhiều lần trong đại hội Sexology tại Genève. (Xin đọc Giảng huấn tình dục bằng y học Trung-quốc, cùng tác giả do Thuvienvietnam.com, California, USD xb.2002)
                Uống được vài tuần, Ngũ-kiếm đều chếnh choáng. Xích-kiếm ôm đầu nói:
                – Rượu của Tô đại nhân nặng quá, tôi không chịu nổi nữa rồi.
                Y đứng dậy, định bước đi, thì trời đất xoay vần rồi ngã xuống. Tiếp theo, Hoàng, Bạch, Hắc, Lam cũng ngã gục trên bàn.
                Tô Định cười ha hả, hô lớn:
                – Bay đâu, vào trói chúng lại.
                Y vẫy tay cho tất cả mỹ nữ, hầu rượu ra ngoài để đám vệ sĩ vào dùng dây trói Ngũ phương kiếm lại.
                Y cầm ly rượu uống một hơi rồi cười ha hả:
                – Bây giờ tao chỉ việc khảo đả là ra ngay mọi việc, có khó gì đâu? Chúng mày quen thói cường đạo, giết con tao đoạt của, tao không làm gì được hẳn? Ngu lắm con ơi.
                Bấy giờ Đào Kỳ mới hiểu Tô Định muốn bắt Ngũ-kiếm mà không dám. Y phải làm bộ bình tĩnh coi thường mọi sự để Ngũ-kiếm không đề phòng, rồi mời Ngũ-kiếm uống rượu. Y biết Ngũ-kiếm là những lãng tử giang hồ, đầy kinh nghiệm, y không dám cho thuốc mê vào rượu. Y mới bày ra trò "Thái âm, bổ dương", cho thuốc mê vào âm hộ mấy thiếu nữ. Ngũ phương kiếm rót rượu vào đó uống, nếu cảm thấy có mùi vị gì khác thì chỉ tưởng đó là mùi xuất ra từ tử cung các thiếu nữ.
                Đào Kỳ, Phương Dung vội lẻn ra vườn hoa, lấy ngựa phi thẳng về nhà Ngũ-kiếm. Tới nhà thì gia nhân nói:
                – Sáng nay quý vị vừa đi khỏi thì người của khách điếm mang hành lý đến cho quý vị.
                Phương Dung mang hành lý vào phòng mở ra thì thấy một gói đầy vàng bạc, châu báu, không thiếu thứ gì. Nàng bảo Đào Kỳ:
                – Trưng Nhị với Vũ Thục Trinh thực giỏi. Vào phủ Thái thú ăn trộm như thò tay vào túi lấy đồ vậy.
                Nàng chia vàng bạc, châu báu, để lẫn với số vàng bạc, châu báu của Tô Phương, chia làm năm phần bằng nhau, rồi đem giấu dưới giường Ngũ kiếm.
                Đào Kỳ nói:
                – Ngũ-phương kiếm, các người với ta vốn không thù oán, sở dĩ ta phải bày ra việc làm trái đạo lý này cũng chỉ vì việc quang phục mà thôi.
                Xong việc, chàng cùng Phương Dung ra ngoài, gọi gia nhân dặn:
                – Chúng tôi phải tới phủ Thái thú gặp năm vị đại nhân.
                Rồi lấy ngựa phi thẳng về phủ Lĩnh-nam công. Lính gác mở cửa cho chàng với Phương Dung vào. Thiều Hoa thấy Đào Kỳ về, nàng cười tủm tỉm:
                – Em tôi với Phương Dung đi chơi vui vẻ chứ?
                Trong tâm tư, Thiều Hoa tưởng Đào Kỳ, Phương Dung đi chơi suốt một đêm với nửa ngày, nên nàng nhìn tiểu sư đệ cười tủm tỉm, chế nhạo.
                Phương Dung hỏi Thiều Hoa:
                – Sư tỷ, Đặng sư muội đâu?
                Thiều Hoa nói:
                – Đặng sư muội hôm nay dậy hơi trễ, còn ngồi trong phòng chờ các em về ăn cơm.
                Đào Kỳ vòa phòng khách thấy Trưng Nhị đang ngồi đánh đàn. Tiếng đàn du dương khi bổng, khi trầm, âm thanh réo rắt mà kéo dài vô tận. Chàng chưa được nghe bản nhạc này bao giờ, ngồi thả hồn theo tiếng nhạc. Hết khúc đàn, Trưng Nhị ngưng lại, mỉm cười.
                Thiều Hoa hỏi:
                – Đặng sư muội, sư muội đánh khúc đàn gì vậy?
                Trưng Nhị nói:
                – Đó là khúc "Xuân giang dạ vũ" (Khúc hát mùa xuân trên sông). Khúc này diễn tả lúc Trương Chi ngồi trên thuyền dưới mưa xuân, vọng lên lầu để tìm hình bóng của Mỵ Nương. Nhưng không thấy nàng, thành ra tiếng đàn buồn man mác, như nhớ, như thương.
                Một tên lính từ ngoài vào, khom lưng hành lễ:
                – Bẩm phu nhân, Quốc-công đã về.
                Thiều Hoa đứng dậy, mở cửa nhìn ra. Nghiêm Sơn cùng mấy võ quan đang ruổi ngựa vào sân. Chàng xuống ngựa vào nhà. Thiều Hoa hỏi:
                – Đại ca đã về đấy à? Có tin gì vui không?
                Nghiêm Sơn đáp:
                – Tin vui nhất của anh là được nghe tiếng em nói, được nhìn thấy em cười.
                Thiều Hoa nghiêm mặt:
                – Tiểu sư đệ với Nguyễn cô nương tới chơi từ hôm qua. Mang theo cả nữ đệ tử của sư thúc nữa.
                Nghiêm Sơn là người đạo nghĩa, chàng nhớ ơn Đào Kỳ đã tác thành cho chàng với Thiều Hoa. Nhất là cậu tiểu sư đệ này không nhớ cái thù chàng đánh phá Đào trang thủa xưa. Nên khi nghe nói Đào Kỳ đến, chàng tươi ngay nét mặt:
                – Đào tiểu sư đệ, ta mong sư đệ quá. Thế nào, Nguyễn cô nương, việc 36 động Nam Mê-linh xong cả rồi chứ? Huyện-uý Mê-linh báo về rằng 36 động đã thống nhất thành châu Lôi-sơn, do Trần Năng làm châu trưởng. Trong châu tổ chức phòng bị rất nghiêm cẩn. Về tổ chức, không còn cảnh người hiếp người, người bóc lột người nữa. Lão Đinh đã chết, như vậy ta trả xong nợ cho cô nương rồi nhé.
                Đào Kỳ chỉ Trưng Nhị giới thiệu:
                – Đây là Đặng sư muội. Sư muội là đệ tử của sư thúc. Sư muội cùng đi với chúng em lên đây để tìm người thân.
                Nghiêm Sơn yêu thương Thiều Hoa rất mực, nên những gì liên quan đến Thiều Hoa chàng đều sủng ái hết. Huống hồ, mặt Trưng Nhị đẹp như trăng rằm, dung quang khác thường. Chàng nói:
                – Nữ đệ tử Đào trang, người nào cũng xinh đẹp, mà võ công, đức hạnh còn hơn nữa.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #23
                  Hồi 22 Oan nay dẫu có kêu trời cũng xa. (Đoạn-trường tân thanh)

                  Nghiêm Sơn mời mọi người vào bàn cùng ăn cơm.
                  Đào Kỳ hỏi:
                  – Nghiêm đại ca, đại ca đã điều tra ra manh mối về vụ Tô Phương mất tích chưa? Vụ này lớn lắm chứ không nhỏ đâu.
                  Nghiêm Sơn lắc đầu:
                  – Ta đến Đăng-châu được nghe mỗi người nói một khác. Đầu tiên, ta tìm gặp chủ Anh hùng tửu lâu thì ông ta vì sợ quá, đã bán tửu lâu, cao chạy xa bay rồi. Ta biết tin ai bây giờ ngoài Huyện-úy? Huyện-úy lại chính là chú của tiểu đệ, sư thúc của Thiều Hoa. Ông là Đào Thế Hùng. Qua câu chuyện, ta thấy ông là người chính nhân quân tử, hùng tâm, đại lược. Để một người văn mô, vũ lược như ông làm một chức Huyện-úy bé bằng hạt vừng, hạt đậu, trong khi những tên vô lại, trộm cướp như Tô Định lại ngồi địa vị Thái thú đục khoét của dân… Ta tự thẹn tước phong tới Lĩnh-nam công, nghĩa đệ của Kiến Vũ thiên tử, mà chưa dám ra tay loại bỏ hết bọn quan lại người Hán hút máu mủ của dân. Tiểu sư đệ, ngươi cứ chờ đi. Nếu trong vòng hai năm nữa, ta không thay đổi được cục diện Lĩnh Nam, ta không phải là người hiệp nghĩa, là Lĩnh-nam công, là nghĩa đệ của thiên tử, mà là con dòi, con bọ.
                  Thiều Hoa, Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung nghe những lời Nghiêm Sơn mà cảm thấy mát cả ruột gan. Trong bọn người ngồi đó, Trưng Nhị và Phương Dung là người mưu sâu, chí cả. Hai người nhìn nhau, ngụ ý: Đối với Nghiêm Sơn, phải đem chữ nghĩa ra khích, hơn là chống đối.
                  Trưng Nhị xen vào:
                  – Đại ca cho phép tiểu muội được góp một vài lời, được không?
                  Nghiêm Sơn gật đầu:
                  – Sư muội với Hoàng muội như tình ruột thịt, có gì mà không nói được?
                  Trưng Nhị ngồi nghiêm trang lại, nói:
                  – Suốt hai trăm năm qua, người Việt thống hận Triệu Đà cướp nước của họ. Hiện, nhà nhà, người người đều muốn phục quốc. Nếu đại ca xin với Kiến Vũ thiên tử trả Lĩnh Nam cho người Lĩnh Nam, thì không còn hiệp nghĩa nào cao hơn. Đại ca sẽ trở thành cha mẹ của đất Lĩnh Nam. Muôn ngàn năm sau, sử sách còn ghi tên.
                  Nghiêm Sơn thở dài:
                  – Lời của sư muội nói cũng giống của Hoàng muội nói với ta. Trước khi đi Lĩnh Nam, ta đã có ý tưởng đó rồi. Ta thấy Hán đế cử sang đây một số quan lại ác độc. Đất Lĩnh Nam chẳng thu được tài nguyên gì cho triều đình, thì người Hán làm Thái thú hay người Việt làm vua, thần phục như An Dương vương có khác gì đâu? Trả Lĩnh Nam cho người Việt, dân Lĩnh Nam sẽ nhớ ơn triều đình, có phải triều đình được tiếng nhân nghĩa không? Ta biết, nếu một mình ta tâu với Kiến Vũ thiên tử, chắc người sẽ ưng thuận ngay. Ngặt vì cạnh ta còn có một hệ thống quan lại tham ô, nhũng lạm. Nếu trả Lĩnh Nam cho người Việt, ắt chúng không còn đất dung thân. Do đó, chúng chẳng ngần ngại gì mà không dùng tiền bạc đút lót triều đình. Thế rồi người này bàn ra, người kia bàn vào, chắc chắn thiên tử sẽ không nghe ta. Bên cạnh đó, còn Mã thái hậu với bọn ngoại thích đang chống ta, ta e khó thành công. Nhược bằng thiên tử nghe lời ta, chắc rằng bọn quan lại ở Lĩnh Nam sẽ nổi loạn liền.
                  Phương Dung gật đầu:
                  – Hoàn cảnh của đại ca thực khó. Em nghĩ: Hiện đại ca được võ lâm, dân chúng Lĩnh Nam tuân phục, kính trọng. Vì thế, đi đâu đại ca cũng không cần nghi vệ, hộ tống như những quan lại khác. Vậy, đại ca hãy dùng những người tuân phục đại ca để chống bọn tham ô. Rồi đại ca cử dần người hiền tài Lĩnh Nam vào hết các chức vụ quan trọng. Bấy giờ đại ca mới ra mặt tâu với thiên tử. Thiên tử có muốn không thuận cũng không được.
                  Nghiêm Sơn há hốc miệng, kinh ngạc:
                  – Sư muội, tiếc rằng sư muội là gái, chứ không ta sẽ phong sư muội làm chức Tư-đồ Lĩnh Nam, để giúp ta. Đặng sư muội trông rộng, nhìn xa, nếu là trai, ta phải mời làm Tư-mã, tổng đốc binh mã Lĩnh Nam.
                  Đào Kỳ cười:
                  – Phương Dung với Đặng sư muội không thích quan tước, vậy đại ca không cần phong làm gì. Đại ca cứ dùng họ làm quân sư riêng, thì cũng thế.
                  Nghiêm Sơn gật đầu:
                  – Được, cứ như vậy mà làm.
                  Đào Kỳ hỏi:
                  – Đại ca tiếp xúc với chú em, ông nói gì về vụ Tô Phương?
                  – Ông nói: Khó có thể kết luận rằng Ngũ-phương kiếm giết Tô Phương hay con trai huyện lệnh hại Tô Phương. Ông khuyên ta cho người theo dõi Ngũ-phương, vì nếu họ giết Tô Phương, chắc không ngoài lý do tiền bạc. Khám nhà họ, nếu thấy vàng bạc của Tô Phương, thì Tô Phương do họ giết. Còn không, cứ bắt Trương Minh Đức tra khảo, sẽ ra manh mối.
                  Phương Dung hỏi:
                  – Theo đại ca thì câu chuyện ra sao?
                  – Ta thấy lời Ngũ-kiếm đúng hơn. Nếu Ngũ-kiếm có gian ý, họ đâu dám về Luy-lâu nữa? Hôm qua Tô Định đãi tiệc Ngũ-kiếm, bỏ thuốc mê vào thức ăn của họ, rồi bắt trói lại. Theo ý Tô Định, Ngũ-kiếm vốn là đạo tặc xuất thân, chắc họ cùng Tô Phương cùng phát tài lớn trong một vụ nào đó. Ngũ kiếm đã giết Tô Phương để đoạt hết. Một việc khác xảy ra làm Tô Định càng tin hơn, đó là đêm qua, phủ Thái thú bị mất trộm. Các phu nhân của Tô Định đều bị xông thuốc mê, bao nhiêu của cải mất sạch. Tô Định nghi Ngũ-phương đã gây ra. Lát nữa, ta mang quân đi vây Lan-trang khám xét, nếu có sẽ biết ngay.
                  Thiều Hoa hỏi:
                  – Mối nghi ngờ là đôi trai gái Việt kia. Họ là ai? Tại sao lại có thể lọt vào Đăng-châu lao xá cứu Ngũ-kiếm? Làm thế nào họ có thể thoát được một lữ thiết kị vây hãm?
                  Nghiêm Sơn gật đầu:
                  – Để anh cật vấn Ngũ-kiếm, sẽ biết liền.
                  Thiều Hoa hỏi:
                  – Đại ca, anh có tìm được tung tích của sư phụ, sư mẫu và các sư huynh ra sao không?
                  Nghiêm Sơn lắc đầu:
                  – Ta tìm khắp nơi mà không thấy. Họ có tất cả gần ngàn người chứ ít đâu? Hay họ đã tấp vào một đảo nào cũng nên.
                  Thiều Hoa đứng dậy:
                  – Lát nữa, đại ca đi vây Lan-trang, cho bọn em theo có được không?
                  Nghiêm Sơn nhìn Đào Kỳ cười:
                  – Hoa muội muốn đi thì đi. Còn các vị sư đệ, muội đây có ai muốn đi không? Tiểu sư đệ, dường như em không thích lắm thì phải?
                  Đào Kỳ giả vờ lơ đãng:
                  – Đây là một mối nhục của Ngũ-kiếm, em với Phương Dung ở nhà nghỉ. Bọn em đi chơi suốt từ hôm qua đến giờ, mỏi chân lắm rồi.
                  Thiều Hoa ngạc nhiên vô cùng. Nàng biết cậu tiểu sư đệ này thích những cảnh ồn ào lắm, nay sao lại đổi tính kỳ lạ như vậy, chắc là cậu muốn ở nhà tâm tình với Phương Dung đây.
                  Trưng Nhị tính cẩn thận hơn, nàng đứng lên:
                  – Em muốn đi coi cho biết.
                  Nghiêm Sơn cười:
                  – Sư muội là Đại tư mã của ta, cần phải đi để góp ý kiến chứ.
                  Một viên võ quan vào báo:
                  – Khải Quốc-công, đã điểm xong một lữ kị binh, đang chờ lệnh Quốc-công.
                  Nghiêm Sơn cùng Thiều Hoa, Trưng Nhị lên ngựa ra đi. Nghiêm Sơn ra lệnh cho tên lữ trưởng kị binh chi tiết về cuộc hành quân. Tên này nhận lệnh xong, phất cờ một cái, đoàn thiết kị rầm rập lên đường. Nghiêm Sơn thủng thẳng cùng mấy tham tướng, Thiều Hoa, Trưng Nhị theo sau. Đi được nửa đường, có phi kị báo:
                  – Khải Quốc công, đã vây kín Lan-trang rồi.
                  Nghiêm Sơn phóng ngựa lên trước. Tới nơi, chàng ghìm cương, nhìn vào trong, hỏi:
                  – Ngôi nhà cao nhất kia là của Ngũ-kiếm đấy à?
                  Viên Lữ trưởng đáp:
                  – Vâng.
                  Nghiêm Sơn phất tay. Chàng đi trước, Thiều Hoa, Trưng Nhị cùng mấy tên tham tướng đẩy cổng bước vào trong sân. Chàng ra lệnh:
                  – Khám nhà! Nhớ khám thực kỹ!
                  Các viên tham tướng lục xét từng phòng. Khi lục đến mấy phòng ngủ, chúng cùng kêu lớn lên. Nghiêm Sơn vào xem, thấy dưới giường của Ngũ-kiếm đều có những gói châu báu lớn. Một tham tướng nói:
                  – Đây là viên ngọc dát trên mũ của Tô công tử.
                  Một tên khác ngắm nghía con dao nhỏ, nói:
                  – Đây là con dao ngọc của Tô công tử.
                  Nghiêm Sơn sai làm tờ kê khai xong rồi ra ngoài, lên ngựa cùng Thiều Hoa, Trưng Nhị về Luy-lâu.
                  Trưng Nhị hỏi:
                  – Nghiêm đại ca, đại ca thấy sao?
                  Nghiêm Sơn có vẻ bực mình:
                  – Tô Định đã đoán đúng. Ta lấy lượng quân tử đo lòng người thành ra sai. Như vậy, Tô Phương dữ nhiều lành ít. Ta phải về lấy khẩu cung Ngũ-phương kiếm xem sao mới được. Quân luật nhà Hán phạt rất nặng những người giết quan lại của triều đình. Như vậy, Ngũ-phương kiếm sẽ bị giết cả nhà, của cải sẽ bị tịch thu. Đáng tiếc. Thực đáng tiếc.
                  Thiều Hoa buồn bã:
                  – Em cảm thấy vụ này không ổn. Dường như Tô Định gài bẫy để hại Ngũ-phương kiếm thì đúng hơn, nhưng em nghĩ không ra. Chỉ đáng tiếc cho Ngũ-phương, anh hùng là thế, mà bị chết về tay Tô Định, một tên ngu xuẩn, không đáng giá một đồng xu.
                  Câu nói của Thiều Hoa như gáo nước lạnh dội vào đầu Nghiêm Sơn. Chính chàng cũng đang bị Tô Định gây khó khăn. Tô tham nhũng, tàn bạo, tiền của súc tích không biết bao nhiêu mà kể. Tô dùng của cải đó đút lót cho các quan trong triều để họ nói xấu chàng. Không biết lúc nào chàng sẽ bị hại vì y. Chàng tự nghĩ: Bất quá, giờ phút cuối, ta chặt đầu Tô Định rồi cùng Thiều Hoa qua lại giang hồ, chẳng sướng hơn sao?
                  Chàng nói với Thiều Hoa:
                  – Hoa muội về đi. Ta phải đến phủ Thái thú lấy khẩu cung Ngũ kiếm.
                  Thiều Hoa trở về dinh thấy Đào Kỳ, Phương Dung đang ngồi đọc sách. Đào Kỳ lấy binh pháp của Tôn-Tử giảng cho Phương Dung nghe. Thấy Thiều Hoa, Trưng Nhị về, hai người bỏ sách xuống, Đào Kỳ hỏi:
                  – Câu chuyện ra sao?
                  Trưng Nhị mỉm cười:
                  – Trộm cướp muôn đời vẫn là trộm cướp.
                  Đào Kỳ thấy cần phải đi gặp Vũ Trinh Thục để cứu Ngũ-kiếm, chàng nói với Thiều Hoa:
                  – Sư tỷ, em muốn đi chơi, sư tỷ lại đi vắng nên không dám tự tiện, phải đợi sư tỷ về xin phép đã.
                  Thiều Hoa tát yêu vào má Đào Kỳ, mỉm cười đùa:
                  – Tiểu sư đệ lớn rồi mà còn ngoan quá nhỉ?
                  Trưng Nhị liếc Đào Kỳ rồi nói:
                  – Sư huynh cho em đi với.
                  Đào Kỳ gật đầu. Ba người lại ra phố chơi. Đến một tửu lầu, Trưng Nhị kéo Đào Kỳ, Phương Dung lên đó ngồi ăn uống. Phương Dung bàn:
                  – Bây giờ ta đi cứu Ngũ-kiếm. Vậy, chúng ta phải hội kiến với nhóm người của Đặng Đường Hoàn mới được.
                  Ba người đang bàn tán thì một thiếu nữ hầu bàn chạy lại chắp tay hỏi:
                  – Thưa quý khách, dám hỏi quý khách có phải người nhà ông Văn không?
                  Trưng Nhị giật mình, nhớ lại lời dặn của Vũ Trinh Thục, vội nhìn lên, thấy người con gái có chiếc khăn choàng màu xanh. Nàng vội nói:
                  – Phải, tôi là người nhà ông lang Văn, nhưng ông ấy qua đời đã lâu rồi. Vậy, cô nương có cần gì khác không?
                  Người con gái ấy đáp:
                  – Tôi cần mua một lượng Hùng-hoàng. Đây, tiền đây, nhờ quý vị mua hộ.
                  Thiếu nữ nhét vào tay Trưng Nhị một mẫu giấy nhỏ rồi ra đi. Trưng Nhị mở ra coi, thấy có hàng chữ: Xuống bến xe ngựa, leo lên xe có con ngựa trắng kéo.
                  Trưng Nhị vội đưa cho Đào Kỳ, Phương Dung đọc, rồi cùng đứng lên, xuống lầu, đến bến xe ngựa. Quả nhiên trên bến có chiếc xe do con ngựa trắng kéo. Người phu xe lấy nón che mặt ngủ. Ba người không nói gì, leo lên xe ngồi. Người phu xe mở nón, ra roi cho ngựa chạy. Ngựa ra khỏi thành, đến một trang ấp. Bấy giờ, người phu xe mới lên tiếng:
                  – Mời quý khách xuống xe.
                  Ba người xuống xe, Vũ Trinh Thục đã đứng chờ sẵn. Vũ Trinh Thục nói:
                  – Tôi mời tỷ tỷ và hai em tới để bàn việc cứu Ngũ -phương kiếm.
                  Trinh Thục dẫn ba người vào nhà. Trong đó đã có sẵn bốn người gồm hai trai, hai gái. Trinh Thục giới thiệu:
                  – Đây là các sư đệ, sư muội của tôi.
                  Rồi nàng giới thiệu Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung với mọi người. Trưng Nhị bàn:
                  – Việc cứu Ngũ phương kiếm không khó, nhưng chúng ta muốn làm cho chuyện trở thành ồn ào, để chia rẽ Tô Định với Nghiêm Sơn. Tôi nghĩ, ta nên vào nhà ngục cứu là thượng sách.
                  Phương Dung gật đầu:
                  – Ngũ-kiếm bị tra khảo chết đi sống lại, tôi e rằng cứu họ không phải dễ đâu. Cái khó là phải làm sao tránh giao tranh với Nghiêm đại ca. Ở đây, Trưng sư tỷ đấu ngang tay với Nghiêm đại ca. Tôi với Đào đại ca tuy thắng được Nghiêm đại ca, nhưng không thể ra tay. Ta phải làm cách nào dẫn dụ cho Nghiêm đại ca rời Luy-lâu, lúc đó chúng ta cướp tù mới không bị cản trở.
                  Trưng Nhị hỏi Vũ Trinh Thục:
                  – Lệnh tôn hiện ở đâu?
                  Trinh Thục đáp:
                  – Hiện ở trong trang này.
                  Trưng Nhị nói:
                  – Tỷ tỷ hỏi lệnh tôn xem có thứ thuốc gì, khiến cho người ta ăn vào chân tay bải hoải một lúc hay một buổi không?
                  Trinh Thục gật đầu:
                  – Có, thứ đó sẵn lắm. Trước đây, em thường đem thuốc đó trộn vào với thực vật để trong rừng cho thú dữ ăn, rồi chỉ việc ra bắt thôi.
                  Phương Dung hỏi Trưng Nhị:
                  – Có phải chị muốn dùng thuốc đó cho Nghiêm đại ca ăn không?
                  Trưng Nhị gật đầu:
                  – Đúng đấy! Chúng ta sẽ trộn vào đồ ăn. Nghiêm đại ca tưởng mình bị bệnh, chứ đâu ngờ? Tô Định bị cướp tù, tất cầu cứu với đại ca. Nghiêm đại ca không ra tay được, hai người sẽ thêm thù hận.
                  Suy nghĩ một lúc, Trưng Nhị đứng lên ra lệnh:
                  – Tối mai chúng ta cướp tù. Vũ Trinh Thục mang ba cỗ xe chờ sẵn ở cửa Đông, đợi khi chúng ta cứu được tù ra, sẽ chạy về phía bờ sông. Tại bờ sông, phục sẵn một con thuyền, sang sông, sau đó lên ngựa chạy thẳng về Mê-linh. Riêng Đào Kỳ, mang thuốc về trộn vào tất cả các bình rượu của Nghiêm đại ca. Phải bày cách nào cho Nghiêm đại ca uống thực nhiều rượu thuốc. Tới khuya, Phương Dung, Đào Kỳ và tôi cùng vào nhà ngục cứu người. Bốn vị sư huynh, muội đây chờ sẵn ở phía ngoài dinh. Lúc chúng tôi cứu tù ra sẽ mang họ chạy trốn. Chúng tôi sẽ ở lại cản giặc.
                  Mọi người ước định xong, Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung lên xe trở về Luy-lâu lúc trời đã tối. Trưng Nhị nói với Thiều Hoa:
                  – Sư tỷ, em đã tìm thấy người nhà, sáng mai em sẽ lên đường, vậy xin cáo từ sư tỷ.
                  Thiều Hoa thấy nét mặt Trưng Nhị và các em hơi khác thường, nàng chắc rằng chắc Đặng sư muội tìm thấy người nhà có chuyện buồn, nên không tò mò gì. Sáng hôm sau, Trưng Nhị làm bộ từ tạ lên đường. Đào Kỳ, Phương Dung lại lấy bộ Tôn-tử binh pháp ra nghiên cứu. Chờ lúc Thiều Hoa ra vườn xem hoa, chàng chạy xuống nhà bếp, thấy có hai bình rượu, chàng bỏ thuốc vào cả hai, rồi lên nhà.
                  Như thường lệ, Nghiêm Sơn đi duyệt binh xong, về nhà lúc trời nhá nhem tối. Thiều Hoa đã chuẩn bị cơm rượu sẵn. Nàng dọn ra để Đào Kỳ, Phương Dung cùng ăn. Trong bữa ăn, Phương Dung cứ đem lý thuyết Tôn-Tử ra bàn với Nghiêm Sơn. Chàng ngạc nhiên, không ngờ cậu tiểu sư đệ của vợ với cô bạn gái lại hiểu rành rọt về binh pháp như thế. Chàng nói:
                  – Binh pháp là thuật dùng binh. Nhưng, người dùng binh giỏi, mà không có quân sĩ giỏi cũng vô dụng. Quân sĩ giỏi, nếu không có kỷ luật nghiêm minh, cũng như không.
                  Nhân đó, Phương Dung tò mò về cách huấn luyện quân sĩ, tổ thức quân sĩ của Hán triều ra làm sao. Nghiêm Sơn nhất nhất giảng rất kỹ. Cơm xong, Đào Kỳ nói với Thiều Hoa:
                  – Sư tỷ, chúng em đi dạo phố đây.
                  – Em cứ đi. Nhớ về sớm.
                  Đào Kỳ, Phương-Dung, dắt nhau ra phố, lên chiếc xe do con ngựa trắng kéo. Phu xe cho xe chạy về phía phủ Thái thú. Tới một vườn hoang, xe dừng lại. Hai người theo dấu đi vào, còn xe chạy thẳng. Đi một lát tới một căn nhà nhỏ, trong đó có Trưng Nhị và bốn sư đệ, sư muội của Vũ Trinh Thục.
                  Trưng Nhị nói:
                  – Lát nữa đây, ba chúng ta giả làm quân Hán, mang lệnh bài của Nghiêm đại ca tới nhà ngục. Chúng ta đưa lệnh bài trình ra nói rằng Nghiêm đại ca muốn thẩm vấn tù nhân, rồi sau đó mang họ đi.
                  Trinh Thục lấy ra ba bộ quần áo quân Hán đưa cho Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung mặc. Ba người nhắm hướng nhà lao đi tới. Viên quan giữ cổng nhà tù thấy ba người lính Hán đến, vội hỏi:
                  – Các ngươi thuộc cơ đội nào? Đến có việc gì?
                  Trưng Nhị trình lệnh bài, nói:
                  – Chúng ta là thân binh của Lĩnh-nam công. Lĩnh-nam công muốn giải tù nhân đến để người thẩm vấn.
                  Viên quan giữ ngục coi lại lệnh bài rồi hỏi:
                  – Quốc công lấy tù nhân tên gì?
                  Trưng Nhị nói:
                  – Năm tên tù nhân phản loạn giết Tô công tử.
                  Đến đây nàng mới thấy nguy, vì nàng không biết tên thực của Ngũ-kiếm.Viên quan giữ ngục bắt nàng ký vào sổ rồi sai dẫn Ngũ-kiếm ra. Năm người bị đóng gông cổ, tay không cử động được. Mặt mũi hốc hác, đầy thương tích. Trưng Nhị dẫn năm người ra khỏi nhà tù. Chợt, có người phi ngựa tới nói lớn:
                  – Tô thái thú muốn áp giải tù nhân lên cho người thẩm vấn.
                  Nói rồi, y trình lệnh bài.
                  Trưng Nhị nói:
                  – Chúng tôi tới trước, chúng tôi lĩnh trước. Các người tới sau, hãy chờ tới khi Quốc-công thẩm vấn rồi sẽ lĩnh về cho Tô thái thú thẩm vấn cũng không muộn.
                  Viên quan ở phủ Thái thú không chịu, quát lên:
                  – Thái thú là chủ đất Giao-chỉ, ngươi giao tù nhân cho ta.
                  Đào Kỳ quát:
                  – Lĩnh-nam công là chúa tể Lĩnh Nam, mi dám chống lệnh bài của người ư?
                  Phương Dung nghĩ được một kế:
                  – Thôi, đã có đại nhân đây lấy tù về cho Tô thái thú, hãy để đại nhân lĩnh. Chúng ta lĩnh sau cũng được.
                  Trưng Nhị biết Phương Dung nhiều mưu mẹo, chắc có kế gì hay đây, nên cũng nghe theo. Nàng đòi lại lệnh bài.
                  Viên quan ở phủ thái thú đưa lệnh bài ra, ký vào sổ lĩnh tù, dẫn năm người ra một cỗ xe, bắt họ leo lên, rồi cho chạy về hướng phủ Thái thú.
                  Nhưng vừa tới một chỗ vắng, bỗng có ba người nhảy ra chặn đường. Viên quan nhận ra đó là bọn ba người của phủ Lĩnh Nam công. Ba người không nói gì, nhảy lên xe, xớt một kiếm, đầu tên phu xe đã rơi xuống đất. Viên quan giải tù chưa kịp phản ứng thì kiếm đã kề cổ:
                  – Muốn sống, hãy im mồm, theo ta, ta sẽ tha cho.
                  Viên quan thất kinh hồn vía, nhưng vẫn buông lời đe dọa :
                  – Các người là binh lính mà dám phạm đến ta sẽ không yên đâu.
                  Xe đến cửa đông, lính canh cửa bắt ngừng lại , hỏi:
                  – Các người đi đâu đây?
                  Chỉ thấy thấp thoáng ánh kiếm, đầu tên lính đã bay khỏi cổ. Trưng Nhị, Đào Kỳ cùng nhảy xuống, vung mấy nhát kiếm, trên mười tên lính canh cửa đã bị bay đầu. Hai người mở cổng, cho xe ra. Viên quan phủ thái thú lăn mình xuống xe, la lớn:
                  – Phản tặc làm loạn! Phản tặc làm loạn!
                  Xe đã ra khỏi cửa. Phương Dung quay lại nói với Trưng Nhị:
                  – Chị cho xe chạy đi, chúng em cản hậu.
                  Đám lính gác cửa cùng ào ào cầm vũ khí tiến lên, nhưng bị Đào kỳ, Phương Dung cản lại. Hai người dùng kiếm đánh dạt toán quân canh cửa, toan bỏ chạy thì kị binh đã ào ào tới.
                  Đào Kỳ bảo Phương Dung:
                  – Lấy khăn bịt mặt lai.
                  Hai người vừa bịt mặt, thì đội kị binh đã tới, đi đầu là Nghiêm Sơn. Đám kị binh vây tròn hai người vào giữa. Nghiêm Sơn vung chưởng hướng Đào Kỳ phóng tới. Đào Kỳ biết chưởng lực của Nghiêm Sơn rất hùng hậu. Trong trận chiến Cửu-chân hồi trước, Nghiêm chỉ đánh một chưởng đã khiến cho cậu của chàng là Đinh Đại phải phun máu miệng. Chàng vội vận toàn lực, xuất phát thế chưởng Ngưu ngọa ư sơn, một thế cực kỳ cương mãn của Phục ngưu thần chưởng. Bùng một tiếng, Nghiêm Sơn lùi lại hai bước, người chàng rúng động, khí huyết đảo lộn. Chàng nhìn đối thủ, thấy ung dung, dáng người quen quen, nhưng cấp thời chưa nhận ra ai. Từ ngày sang Lĩnh Nam đến giờ, chàng đã từng đấu chưởng với không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, đạo tặc; Hán có, Việt có, nhưng thường thường chàng thắng, thắng hoặc hòa mà thôi. Không ngờ hôm nay gặp một đối thủ vô danh, mới đấu một chưởng, chàng đã thua sút rõ ràng.
                  Chàng nghĩ:
                  – Đối phương sử dụng chưởng pháp Phục ngưu, đúng là người của phái Tản-viên. Trong phái Tản-viên hiện thời chỉ có Lê Đạo Sinh có thể thắng được ta. Nhưng dáng ngươì Lê cao lớn, chứ không nhỏ như thế này. Vậy người này là ai?
                  Nghiêm Sơn hít một hơi chân khí, vận đủ mười thành công lực, phóng một chưởng dương dương vào bậc nhất của môn hộ gọi là Hỏa lôi chấn thiên chưởng vào đối thủ. Đào Kỳ thấy thế chưởng hung bạo, chàng vội chuyển chân khí sang nhu, phát thế chưởng Ngưu thực ư dã đỡ. Hai chưởng chạm nhau, xịt một tiếng, chưởng của Nghiêm Sơn mất tăm mất tích. Người Nghiêm lảo đảo lùi lại. Nghiêm nói:
                  – Các hạ là ai? Ta thấy vừa rối các hạ sử dụng Phục ngưu thần chưởng từ cương sang nhu. Thế chưỡng đó là Ngưu thực ư dã của Tản-viên đã thất truyền. Ta e chưởng môn Tản-viên Đặng Thi Sách cũng không biết. Vậy người là ai?
                  Đào Kỳ tuyệt không trả lời, vung tay phóng chưởng. Nghiêm Sơn vận chân khí đỡ. Hai chưởng gặp nhau, bùng một tiếng, Nghiêm Sơn lùi lại ba bước. Đào Kỳ định phóng chưởng nữa, bỗng có giọng một nữ lang quát lên:
                  – Không được hại người.
                  Người đó là Thiều Hoa. Thiều Hoa đâm liền mười kiếm để cứu chồng. Đào Kỳ từ bé tới giờ, sủng ái người sư tỷ này cực kỳ, nên chàng không chống đỡ mà chỉ nhảy tránh. Chàng thuộc lòng từng chiêu thức một của phái võ Cửu-chân, nên tránh dễ dàng. Nghiêm Sơn choáng váng một lát đã lấy lại được chân khí, chàng hỏi Đào Kỳ:
                  – Các hạ dáng người còn trẻ, võ công đã đến bậc bậc này, quả đã là vô địch Lĩnh Nam. Các hạ bịt mặt, chắc có quen biết với ta, nhưng ta tìm chưa ra. Ta thua các hạ rồi. Thôi, các hạ đi đi.
                  Nghiêm Sơn là đấng anh hùng. Chàng thua thì nhận thua, chứ không ngoan cố. Nếu chàng dùng kị binh vây đánh, dĩ nhiên sẽ bắt được hai người, nhưng hành xử như vậy, theo chàng, mất cái vẻ anh hùng.
                  Đào Kỳ, Phương Dung hú lên một tiếng, cùng chạy biến vào đêm tối. Chạy đến ngôi vườn hoang lấy áo quần thay, rồi lại trở vào phố, ung dung lên một tửu lầu ngồi uống trà, nghe hát.
                  Trong thành Luy-lâu tuy có náo loạn một lúc, nhưng rồi lại im lìm như không có gì xảy ra.
                  Đào Kỳ nói với Phương Dung:
                  – Chuyện vừa xảy ra thực quá nguy hiểm. Bây giờ chúng ta phải làm kế. Anh giả uống rượu say, Dung muội sẽ thuê xe chở về, có vậy mới che được mắt Nghiêm đại ca.
                  Đào Kỳ kêu hai bình rượu, uống sạch, chờ cho rượu ngấm, rồi để Phương Dung dìu chàng xuống, thuê xe ngựa hướng về phủ Quốc-công. Tới cổng, Phương Dung vác Đào Kỳ vào nhà. Thiều Hoa vừa dìu chồng về tới, thấy Phương Dung cũng dìu Đào Kỳ, nàng hoảng sợ hỏi:
                  – Có chuyện gì đấy?
                  Phương Dung đặt Đào Kỳ xuống nói:
                  – Đào đại ca thi uống rượu với người ta, say mèm.
                  Thiều Hoa ở với Đào Kỳ từ nhỏ, nàng coi Đào Kỳ như một người con đã quen, nên nàng bồng em lên, đem vào phòng. Nàng vận chân khí vào tay, ấn trên ngực sư đệ để đẩy thức ăn với rượu ra. Nhưng nàng bỗng kêu lên một tiếng kinh ngạc, dụt vội tay lại. Nàng cảm thấy các ngón tay như bị dao chặt đứt, đau đớn không thể tưởng tượng được.
                  Nguyên Đào Kỳ giả vờ say mèm, chàng không ngờ Thiều Hoa để tay vào ngực chàng, vận chân khí để đẩy thức ăn ra ; mà chàng không thu liễm chân khí kịp. Thiều Hoa đẩy khí vào, cơ thể chàng đầy rẫy chân khí, phản ứng lại, nên Thiều Hoa mới bị đau đớn.
                  Nàng nghĩ thầm:
                  – Ta xa cách tiểu sư đệ đã lâu, không hiểu y học được ở đâu công lực mạnh như thế này? Ta e chính sư phụ ta cũng không bằng y đã đành, đến Nghiêm đại ca cũng thua xa.
                  Nàng lại vận khí thử một lần nữa. Lần này, Đào Kỳ đã thu chân khí lại, nên Thiều Hoa không bị phản ứng nữa. Nàng vận chân khí đẩy mạnh, Đào Kỳ mửa hết rượu ra. Một lát, chàng tỉnh dậy, ngồi lên nói:
                  – Em không biết uống rượu, lại đi đấu rượu với người ta nên bị thua. Rồi say không biết gì nữa.
                  Thiều Hoa lắc đầu:
                  – Chị vừa gặp hai chuyện lạ kỳ. Chiều nay, Nghiêm đại ca uống rượu vào rồi tự nhiên người nhũn ra, không cử động được. Chị vội móc cổ cho thức ăn ọc ra hết. Vừa lúc đó, thì tin báo động rằng có ba người đến cướp Ngũ-kiếm. Nghiêm đại ca biết bọn cướp Ngũ-kiếm ắt hẳn bản lĩnh không tầm thường. Bởi vậy, đại ca đã cùng chị lấy kị binh rượt theo. Theo đến cửa Đông, thì chỉ còn hai người cản hậu. Một người và Ngũ kiếm biến mất. Nghiêm đại ca đấu chưởng với người bịt mặt, y đánh hai chưởng, Nghiêm đại ca đều thua. Đến chưởng thứ ba, chị thấy nguy, vội nhảy vào dùng kiếm đâm y mười chiêu đều thần tốc, y tránh né dễ dàng và không trả đòn.
                  Đào Kỳ ngơ ngác:
                  – Không lẽ trên đời có người chưởng lực còn mạnh hơn Nghiêm đại ca nữa sao? Còn chuyện thứ nhì?
                  – Chuyện thứ nhì, khi chị để tay vào ngực em, dồn chân khí đẩy thức ăn ra, chị bị phản ứng muốn tê liệt cả tay. Rõ ràng nội lực sư đệ mạnh không thể tưởng tượng được. Nội lực này dường như hơi khác với nội lực Cửu-chân nhà mình.
                  Đào Kỳ biết người sư tỷ này cực kỳ thông minh, nếu đối đáp nữa, có thể bị lộ, nên chàng giả bộ mệt, nằm xuống, đồng thời nắm lấy bàn tay Thiều Hoa đưa lên miệng cắn nhẹ một cái. Thiều Hoa dụt tay lại, mắng:
                  – Úi! Đồ chó cắn chị hả? Lớn rồi vẫn chưa quên võ công cẩu quyền sao?
                  Nguyên hồi nhỏ, mỗi lần Đào Kỳ đấu võ với Thiều Hoa, bị Thiều Hoa túm cổ liệng ra xa, chàng thường chụp tay sư tỷ mà cắn. Thiều Hoa lại tát yêu một cái, mắng:
                  – Này, dùng cẩu quyền này.
                  Một lúc sau, Đào Kỳ ngồi dậy, ra nhà ngoài gặp Nghiêm Sơn, Phương Dung. Chàng hỏi thăm Nghiêm Sơn về tình hình trận chiến.
                  Nghiêm Sơn buồn rầu đáp:
                  – Từ đầu đến cuối ta không biết đối thủ là ai. Y dùng Phục ngưu thần quyền khi cương, khi nhu... Những thế chưởng này của phái Tản-viên đã thất lạc từ lâu. Ta nghe trong phái Tản-viên còn có hai người đứng vào hàng thái sư thúc của Đặng Thi Sách, một là Lê Đạo Sinh, hai là Trần Đại Sinh. Nhưng hai người đều to lớn hơn người này nhiều. Còn một người nữa không đấu chưởng với ta, y người bé nhỏ, dùng kiếm đánh miên miên bất tuyệt, chiêu số rất quái dị, ta thấy hơi giống kiếm pháp Long-biên, nhưng tinh diệu hơn.
                  Thiều Hoa suy nghĩ mông lung rồi nói:
                  – Hai người đó không có ác ý với bọn ta, nếu không bọn ta khó toàn mạng. Dường như họ chỉ muốn cứu Ngũ-kiếm mà thôi. Nhân vật như vậy kiếm cũng không khó. Đất Lĩnh Nam hỏi được mấy người?
                  Nghiêm Sơn gật đầu:
                  – Trong khi giao đấu, ta thấy lưng người đó hơi quen quen, dường như đã gặp ở đâu rồi, nhưng nghĩ mãi không ra. Hoa muội, liệu người đó có phải là tôn sư không? Ta nhớ ra rồi, lưng người đó giống tôn sư.
                  Nghiêm Sơn thấy lưng người đó giống Đào Kỳ. Nhưng chàng tuyệt không nghi ngờ Đào Kỳ, bởi Đào Kỳ chỉ là tiểu sư đệ, võ công còn thua kém Thiều Hoa xa, làm sao chịu được chưởng của chàng? Bởi vậy, chàng mới nghi là Đào Thế Kiệt.
                  Đào Kỳ thất kinh hồn vía, vội dựa vào ghế thở hít làm như còn say rượu. Thiều Hoa lắc đầu:
                  – Em cũng thấy lưng người đó giống sư phụ, nhưng sư phụ làm sao có công lực mạnh dường ấy ? Hơn nữa, sư phụ đâu có biết võ công Tản-viên?
                  Nghiêm Sơn, Thiều Hoa đành bỏ qua việc ấy, đi ngủ.
                  Suốt thời gian ở Nghiêm phủ, Đào Kỳ chú ý nghe ngóng tình hình các tướng tá chỉ huy người Hán, chàng ghi chép tính tình, thói quen, tài năng từng người một. Lúc có mặt Nghiêm Sơn, chàng lại hỏi về tình hình, cách luyện quân, tổ chức quân đội, nhất là phương pháp chỉ huy.
                  Một hôm, Nghiêm Sơn nói:
                  – Ta nhận được tin bảy mươi hai động vùng Tây-vu thống nhất thành một châu lớn, tổ hợp lực đến một quân, tức 12,500 người rất hùng mạnh. Người cầm đầu là một nữ nhân tên Hồ Đề, có ý làm phản. Ta phải lên điều tra mới được. Vậy Hoa muội ở nhà với tiểu sư đệ và Phương Dung nghe. Thế nào ta cũng về trước đại hội Tây-hồ.
                  Nghiêm Sơn lên đường rồi, Đào Kỳ không còn úy kị nữa, chàng ra phố viết thư nhờ người của Vũ Trinh Thục chuyển, cho Trưng Nhị báo việc của Hồ Đề đã lộ, phải cẩn thận. Rồi chàng trở về, nói với Thiều Hoa:
                  – Đại ca đi vắng, chị em mình giả làm thường dân, đến Cổ-loa dò la tin tức của cha mẹ em xem sao?
                  Cái u uất của Thiều Hoa là nàng lấy chồng, hơn nữa, lại lấy kẻ thù của đất nước, kẻ thù của sư môn mà không được phép của sư phụ. Vì vậy, khi nghe đến việc đi tìm sư phụ, nàng mừng lắm, đồng ý liền. Nàng muốn tìm sư phụ để tạ lỗi cho yên lòng. Nàng viết mảnh giấy để lại cho Nghiêm Sơn, rồi cùng Đào Kỳ, Phương Dung lên đường đi Cổ-loa.
                  Cổ-loa thời bấy giờ thuộc huyện Long-biên. Huyện lệnh là người Hán, Huyện-úy là người Việt. Y là đệ tử của Lê Đạo Sinh, trước đây, y đã bắt giam Đào Kỳ. Đào Kỳ tính còn trẻ con, muốn trở lại đất cũ, nhìn mặt kẻ thù. Chàng nói vói Thiều Hoa:
                  – Sư tỷ, em nghĩ rằng Huyện-úy là người dưới trực tiếp của Nghiêm đại ca, vậy sư tỷ nên đến huyện đường bảo y tìm tung tích sư phụ xem sao?
                  Từ nhỏ, vốn tính nhu thuận, Thiều Hoa nuông chiều Đào Kỳ đã quen, nên thấy em nói sao thì nghe vậy.
                  Ba người đến huyện lỵ, dân chúng đông đúc chen nhau mà đi. Lính Hán đầy đường. Nàng hỏi thăm huyện đường, đến trước cổng. Tên lính Hán thấy ba người ăn mặc sang trọng, không dám hống hách, hỏi:
                  – Ba vị đến huyện có chuyện gì?
                  Đào Kỳ làm mặt hách dịch:
                  – Ngươi vào nói với Huyện-úy rằng có phu nhân Lĩnh-nam công giá lâm.
                  Tên lính nghe đến Lĩnh-nam công, biết rằng đây là vợ người chỉ huy tối cao của hắn, có thể chặt đầu hắn bất cứ lúc nào, nên vội vã chạy vào. Một lát, Huyện-úy chạy ra, chắp tay vái sát đất:
                  – Tiểu lại là Hoàng Đức xin tham kiến phu nhân.
                  Thiều Hoa đáp lễ:
                  – Không dám. Chúng tôi nhân tiện qua đây, ghé phiền Huyện-úy đôi việc.
                  Trước đây mỗi lần về Luy-lâu họp, Huyện-úy Long-biên Hoàng Đức đã được Nghiêm Sơn đưa về dinh chơi, được Thiều Hoa cho ăn uống, nên y coi đó là những cái ơn lớn lao. Lần này, đích thân Thiều Hoa đến, y được dịp lấy lòng nên vội mở rộng cửa huyện đường, rước chị em Thiều Hoa vào.
                  Y sai gọi vợ ra để tiếp Thiều Hoa. Trà nước xong xuôi, Thiều Hoa chỉ Đào Kỳ với Phương Dung, giới thiệu:
                  – Đây là tiểu sư đệ, tiểu sư muội của tôi.
                  Hoàng Đức thấy Đào Kỳ, y đã nhận ra chàng:
                  – Vâng, trước đây tiểu huynh đệ có ở Thái-hà trang của tệ sư mấy năm. Trang Thái-hà từ trên xuống dưới đều tiếp đãi như thượng khách.
                  Y quay lại nói với Đào Kỳ:
                  – Huynh đệ, ngươi còn nhớ Minh Châu, Tường Quy không?
                  Đào Kỳ nghe nhắc đến hai người, tim đau nhói lên. Chàng nhớ chuyện Lê Đạo Sinh bàn với Hoàng Đức, Đức Hiệp đưa chàng vào bẫy ái tình cho tiêu ma chí khí. Chàng nỗi giận, hỏi mát:
                  – Cũng vì chuyện hai vị cô nương Tường Quy, Minh Châu mà tôi phải theo sư tỷ tới đây. Tôi định nhờ sư tỷ đứng ra lo cho tôi.
                  Hoàng Đức giật mình hỏi Thiều Hoa:
                  – Khải bẩm phu nhân, thì ra phu nhân là đệ tử của phái Cửu-chân?
                  Thiều Hoa gật đầu:
                  – Sư phụ của tôi họ Đào, húy Thế Kiệt.
                  Nàng tiếp:
                  – Tôi muốn phiền Huyện-úy cho biết trong huyện Long-biên có người nào họ Đào không?
                  Hoàng Đức nói:
                  – Trước đây, Quốc-công có lần hỏi tới điều đó, nhưng tiểu nhân đã tìm khắp nơi, nhưng không có người nào họ Đào cả.
                  Đào Kỳ hỏi:
                  – Tôn sư hiện đang ở đâu?
                  Hoàng Đức nói:
                  – Nghiệp sư thường ở trang Thái-hà, nhưng hiện nay người đi vắng, không có ở trong trang. Dường như nghiệp sư lên vùng Tản-viên gặp chưởng môn Đặng Thi Sách để dạy dỗ y điều gì không rõ. Người có nói người sẽ trở về đây vào khoảng mồng mười tháng tám để dự đại hội Tây-hồ.
                  Thiều Hoa ăn bữa trưa ở nhà Hoàng Đức rồi từ tạ lên đường. Nàng tin rằng sư phụ, sư mẫu thế nào cũng đến vùng Cổ-loa để gặp lại nhau. Nàng biết tính sư phụ: Cẩn thận, kín đáo, dù thế nào chăng nữa, người cũng để vết tích ở Cổ-loa cho mọi người liên lạc với nhau.
                  Khi đi đường, Đào Kỳ lại lên cơn suyễn, ngực nghẹn thở, đau đớn muốn chịu không nổi. Từ hôm ở Mê-linh về đến giờ, cứ hai ngày một lần, Đào Kỳ lên cơn suyễn, nhưng chưa bao giờ nặng như hôm nay. Chuyến này, chàng theo Trưng Nhị về Long-biên mục đích tìm sư phụ của Trần Năng là Trần Đại Sinh để xin chữa bệnh. Nghiêm Sơn đã nhờ phủ Tế tác dò la tin tức, nhưng vẫn không tìm ra tung tích của ông.
                  Từ hôm bị trúng độc đến giờ, cơn suyễn của Đào Kỳ ngày một nặng hơn trước. Đúng như Đinh Công Dũng nói, nếu cứ tình trạng này, ba năm nữa chàng sẽ chết như ngọn đèn hết dầu.
                  Thiều Hoa đi bên cạnh sư đệ mà lòng đau như dao cắt. Nàng hiện là vợ một nhân vật đầu não Lĩnh Nam mà không tìm ra cách gì chữa bệnh cho người sư đệ mà nàng cực kỳ thương yêu. Ngồi trên xe ngựa, nàng ôm Đào Kỳ vào lòng, nước mắt dàn dụa.
                  Chợt nàng lóe lên một ý nghĩ:
                  – Trần Đại Sinh là sư huynh của Lê Đạo Sinh, có khi ông tới Thái-hà trang chăng? Vậy ta tới Thái-hà trang hỏi thăm tin tức xem sao. Chủ nhân Thái-hà trang là Lê Đạo Sinh, người được tôn là thái sơn bắc đẩu của võ lâm Lĩnh Nam, nhưng ông lại là Đô-úy Giao-chỉ, tức là thuộc cấp của Nghiêm đại ca. Nhờ Lê tìm Trần Đại Sinh chắc dễ hơn.
                  Một lát, Đào Kỳ hết cơn suyễn, Thiều Hoa nói:
                  – Tiểu sư đệ, chị định đưa em đến gặp một người này, may có thể chữa được bệnh của em.
                  Phương Dung hỏi:
                  – Ai vậy, sư tỷ?
                  Thiều Hoa biết Đào Kỳ đã cư ngụ ở Thái-hà trang một thời gian lâu, chàng có ác cảm với Lê Đạo Sinh, nên nàng nhấn mạnh:
                  – Lục-trúc tiên sinh là sư đệ của Trần Đại Sinh, chúng ta đến đó hỏi tin tức may ra thấy người chăng?
                  Đào Kỳ không muốn trở lại trang Thái-hà, nên chàng gạt đi:
                  – Trần tiên-sinh đi đâu rồi cũng về Mê-linh. Khi tiên sinh về, thế nào cũng liên lạc với Trần Năng. Trần Năng tất nhờ Đặng Thi Sách báo tin cho em lên để chữa bệnh. Nếu bây giờ, chúng ta đi tìm Lê Đạo Sinh thì cũng vô ích. Thêm nữa, lại phải dùng tên tuổi của Nghiêm đại ca thì không nên.
                  Chiều hôm ấy, ba người đến Cổ-loa, đi vào khu chợ chiều bên bờ sông. Một ông lão trông thấy Đào Kỳ thì kêu lên:
                  – Âu-Lạc tiểu anh hùng!
                  Đào Kỳ dừng ngựa, chắp tay đáp lễ:
                  – Lão bá! Lão bá còn nhớ cháu ư?
                  Ông lão chắp tay nói:
                  – Làm sao lão quên được tiểu anh hùng? Từ hôm tiểu anh hùng trổ thần oai giúp cho dân huyện này được miễn Ngũ-lệnh của Thái thú, chúng tôi lúc nào cũng nhắc đến tiểu anh hùng.
                  Dân chúng quanh chợ đã bu quanh Đào Kỳ, người hỏi thăm, kẻ chào mừng. Đào Kỳ vội xuống ngựa, vào đình để nói chuyện. Dân chúng gần đó nghe tin Đào Kỳ trở về, họ kéo nhau đến chào hỏi tíu tít. Lời lời truyền nhau rất mau. Mấy cụ già đặt bữa cơm để mời Đào Kỳ, Thiều Hoa và Phương Dung.
                  Từ hôm gặp nhau đến giờ, Đào Kỳ chưa có dịp kể cho sư tỷ nghe về chuyện Cổ-đại, nên Thiều Hoa không hiểu gì cả. Phương Dung vội thuật vắn tắt cho Thiều Hoa nghe. Nghe xong, nàng ngẫm nghĩ mừng trong lòng:
                  – Sư phụ ta nổi tiếng là Cửu-chân song kiệt, hào hiệp nức tiếng giang hồ, nhưng cũng không được dân chúng sùng kính bằng tiểu sư đệ ta. Như thế này, gặp lại sư phụ, kể cho người nghe, tất người mừng lắm.
                  Các bô lão trong vùng thấy Đào Kỳ đi với một thiếu phụ và một thiếu nữ, họ muốn hỏi mà không dám. Đào Kỳ giới thiệu Thiều Hoa, Phương Dung cho các bô lão. Một bô lão nói:
                  – Khi tiểu anh hùng đi rồi, dân trong châu chúng tôi sung sướng vô cùng. Trai không phải đi lao quân, dân làng không phải nộp tiền sưu dịch, cũng không bị Huyện lệnh làm khó dễ. Chúng tôi cùng hỏi nhau: Không hiểu bây giờ anh hùng ở đâu? Không ngờ hôm nay anh hùng lại về thăm chúng tôi.
                  Trên đời Đào Kỳ đã được ăn không biết bao nhiêu đồ trân quý, nhưng hôm nay chàng mới được ăn một bữa cơm ngon kỳ lạ thế này. Trong tâm chàng thoáng hiện ra người anh hùng Phù-đổng ruổi ngựa đánh giặc Ân, người anh hùng Lý Thân, Cao Nỗ, Vũ Bảo Trung đánh quân Tần. Khí hùng bốc lên, chàng bưng ly rượu uống sạch rồi nói lớn:
                  – Hôm nay cháu được các vị bá bá, thúc thúc đón tiếp thế này, thực đem lòng tri kỷ đãi nhau. Nơi đây là cố đô Âu-lạc cũ của ta, thành quách đổ nát, cây cỏ tang thương. Người Việt chúng ta mất nước tới năm thứ 188 rồi, chúng ta phải làm sao lấy lại đất nước này. Người Hán đến đây đô hộ, coi chúng ta như trâu, như lợn, muốn giết là giết, muốn hiếp là hiếp. Còn trời nào sầu bằng trời Âu-Lạc, còn đất nào đau bằng đất Văn-Lang? Nếu cháu không lấy lại được nước thì như cái chén này.
                  Chàng vận công lực vào tay bóp cái chén đến bốp một cái, rồi vỗ tay cho thành bột nhỏ, vứt xuống đất.
                  Dân chúng hô lớn:
                  – Âu-Lạc muôn năm!
                  – Văn-Lang muôn năm!
                  Tiệc tàn, chàng dẫn Thiều Hoa, Phương Dung dạo chơi cố đô. Đến nền của cung điện thời Âu-lạc, chàng chỉ cho Thiều Hoa:
                  – Đây là Ngự-triều di nguy, nơi xưa kia An Dương vương hội họp bá quan văn võ.
                  Ghi chú của thuật giả.
                  Điện, nơi vua An-Dương thiết triều, theo thơì gian bị đổ nát. Khi vua Ngô dành độc lập, đã xây lại, rồi trồng một cây đa. Trải hơn nghìn năm, Ngự-triều di nguy tuy có hư hại, đổ nát, nhưng vẫn được tu bổ, giữ nguyên công trình cũ. Cây đa hiện nay vẫn còn. Từ năm 1992, gần như hằng năm, tôi đều về Việt-Nam, với chức vụ Giám-đốc thị-trường (Directeur marketing) của CEP (Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu= Coopérative Européenne pharmaceutique). Mỗi dịp như vậy, tôi đều rủ các bạn ngươì Âu viếng thăm cố đô Âu-Lạc, dĩ nhiên tôi là người hướng dẫn. Đôi khi có những giai nhân đồng hành: Năm 1993, bác sĩ Trần An Xuân của bệnh viện Trưng-vương Sài-gòn; năm 1994, người đẹp Bùi Phương Lan Paris; năm 1998 Lê thị Kim Thanh, giai nhân Sài-gòn ; năm 1999 danh ca Thùy Hương. Mỗi lần viếng thăm, tôi đều yêu cầu những người cùng đi ký sổ vàng, tôi ra giá : Mỗi người cúng 100 USD. Tôi dịch từng bia đá, từng câu đối cho mọi ngươì nghe. Tại cố đô cũng có hướng dẫn viên di tích lịch sử . Cô còn rất trẻ, rất đẹp. Cô thuyết trình rất chi tiết. Nhưng khi cô thuật : Nơi đây đức vua cùng Tứ-trụ đại thần thiết triều thì Phương-Lan, là ngươì nghiền rất kỹ bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam. Lan hỏi : Tứ trụ đại thần là những vị nào ? Thì cô không trả lời được. Phương-Lan giảng : đó là Phương-chính hầu Trần Tự Minh, giữ chức Tể-tướng. Vạn-tín hầu Lý Thân, giữ chức Tư-mã. Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, giữ chức Tư-đồ. Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung giữ chức Tư-không.
                  Phương Dung hỏi:
                  – Chỗ chúng ta đứng ngày nay, gần hai trăm năm trước, các anh hùng đã đứng. Nhưng ngày nay họ ở đâu? Tại sao chúng ta lại hèn thế này? Tại sao chúng ta để người Hán cỡi lên đầu lên cổ chúng ta?
                  Bỗng một người ăn mày ngồi ngủ gật ở góc tường kêu lên:
                  – Chúng ta được người đời kêu là anh hùng, là hào kiệt, nhưng chúng ta lại cưỡi ngựa của giặc Hán, mặc quần áo của giặc Hán và lấy chồng giặc Hán, vậy chúng ta anh hùng ở chỗ nào?
                  Thiều Hoa thấy dường như người ăn mày này mỉa mai nàng với Đào Kỳ. Nhưng từ đầu đến cuối, cái nón đã che mất mặt, thành thử nàng nhìn không rõ người đó hình dáng ra sao? Nhưng tiếng nói dường như già rồi thì phải.
                  Đào Kỳ đến trước mặt lão ăn mày, nói:
                  – Lão bá, Âu-Lạc này tuổi còn trẻ, không hiểu đạo lý ở đời, nếu có gì sai quấy, xin lão bá dạy dỗ.
                  Người ăm mày vẫn nằm im:
                  – Sai quấy thì không. Nhưng đáng tiếc ơi là đáng tiếc.
                  Phương Dung hỏi:
                  – Lão bá, cháu có gì đáng tiếc đâu?
                  Lão ăn mày nói:
                  – Sao lại không? Kim cương bị lẫn với sỏi đá, vàng bạc bị lẫn với đất bùn, hoa ngọc lan đem cắm vào bãi phân trâu, như vậy không đáng tiếc sao?
                  Đào Kỳ thấy lời lẽ kỳ lạ, càng nhũn nhặn:
                  – Cháu trẻ người, lại xa phụ huynh từ nhỏ không được dạy dỗ, xin lão bá chỉ điểm cho những chỗ thiếu sót.
                  Lão ăn mày cười:
                  – Nếu có người, cha, mẹ, cậu, chú đều là hào kiệt nức tiếng Lĩnh Nam, anh hùng cái thế, nhưng lại ra vào cửa quyền quý người Hán, còn xưng là huynh huynh, đệ đệ với tên đầu sỏ Hán tặc nữa, thế có phải là kim cương bị lẫn với sỏi đá không? Còn một người nữa, cha mẹ đều là anh hùng, nhan sắc thuộc loại tuyệt thế, võ công ít ai bằng, thông minh hơn nam tử, nhưng lại đi cặp kè với người Hán, ăn cơm người Hán, ở nhà người Hán, thế có phải là vàng bạc bị lẫn với đất bùn không? Còn nữa, có người con gái sắc nước hương trời, sư phụ là đệ nhất hào kiệt đời nay, bị giặc Hán đánh cho tan nhà nát cửa. Sư phụ, sư mẫu, sư huynh, sư đệ phiêu bạt nơi nào không biết, đã chẳng lo tìm kiếm, xót thương, còn đi lấy kẻ thù của sư môn làm chồng, vậy có phải hoa lan cắm vào bãi cứt trâu không?
                  Phương Dung biết ông lão này là hào kiệt đương thời, đã biết rõ lý lịch ba người, nàng khẳng khái đáp:
                  – Thấy một cục vàng bụi bám, người ngu tưởng đó là cục đồng, nhưng chỉ cần thử lửa sẽ biết rõ vàng hay đồng ngay. Chúng tôi là con nhà hiệp nghĩa, nhất tâm nhất trí phục quốc cứu dân, như thế không thẹn với tổ tiên là được rồi. Người đời câu nệ, nhìn vàng tưởng đồng, nhìn ngọc tưởng sỏi đá, chấp làm chi?
                  Người ăn mày cười ha hả:
                  – Nói thì hay, nhưng làm có hay không?
                  Phương Dung gật đầu:
                  – Phàm là anh hùng hào kiệt, nói được phải làm được. Bọn ta tuổi còn nhỏ, chưa ai tới 25, nhưng trong giải đất Lĩnh Nam này, dễ mấy ai đã làm được những điều tốt đẹp cho đất nước bằng chúng ta?
                  Người ăn mày không vừa:
                  – Bắt giam đươc một tên công tử con Tô Định, giết được một tên cường hào rừng núi, cứu được năm tên giặc Hán ra khỏi nhà tù của Hán, như vậy đã tự hào là anh hùng rồi chăng?
                  Đào Kỳ cười nhạt:
                  – Anh hùng không phải chỉ làm nên những chuyện kinh thiên động địa mới là anh hùng. Người anh hùng chỉ cần làm được những điều tốt mà thế gian không ai dám làm mà thôi. Chúng tôi tự nghĩ chưa đáng là anh hùng, nhưng nếu bảo là kẻ xấu thì không đến nỗi xấu. Chị em chúng tôi có chỗ đáng tiếc, không đáng là anh hùng hào kiệt. Nhưng, thưa lão bá, xin lão bá cho biết lão bá đã làm những gì đáng gọi là anh hùng cho đất nước? Bọn chúng tôi xin rửa tai, kính cẩn nghe.
                  Lão ăn mày cười lớn:
                  – Thắng vài tên vệ sĩ của Tô Định khiến cho dân Cổ-loa khỏi chịu Ngũ-lệnh, cứu được đứa con gái ra khỏi giặc Hán giết ở Long-biên, cũng tự cho là hơn đời rồi sao? Nhỏ tuổi mà đã kiêu căng.
                  Phương Dung nói:
                  – Nhưng ai được quyền kiêu căng? Tại sao chúng tôi không được kiêu căng?
                  Lão ăn mày cũng không vừa:
                  – Vua kiêu căng thì mất nước, quan kiêu căng thì mất chức, nhà giàu kiêu căng thì mất của, chỉ có lão ăn mày như ta, trên răng, dưới khố là được quyền kiêu căng mà thôi.
                  Thiều Hoa vốn người nhu mì, ít nói, nên nàng để mặc cho Đào Kỳ, Phương Dung đối đáp với lão ăn mày. Nàng biết lão ăn mày biết bọn nàng, nàng lại không biết lão là ai, nói ra e sẽ bị thua.
                  Tới lúc đó, nàng mới xen vào một câu:
                  – Xin lão bá cho biết cao danh quý tính.
                  Lão ăn mày xì một cái:
                  – Đã ăn mày thì làm gì có danh mà cao? Làm gì có tính mà quý? Quốc-công phu nhân, phu nhân có tiền xin bố thí cho mấy đồng được chăng?
                  Phương Dung biết lão ăn mày trêu Thiều Hoa, nàng móc trong túi ra mười đồng tiền ném xuống bên cạnh lão. Lão không mở nón ra, nhưng dường như nhìn thấy tiền rồi, lão búng tay một cái, mười đồng tiền bay lên cao, lão ngửa tay bắt lấy:
                  – Cám ơn cô nương bố thí.
                  Bỗng lão co ngón tay vào búng đến teng một cái, một đồng tiền nhắm giữa mặt Phương Dung bay tới, kình lực mạnh vô cùng. Tiếng kêu vo vo nhức cả tai. Phương Dung nhận ra đồng tiền vừa quay tròn vừa bắn tới, nên dù bay chậm, tiếng kêu vẫn vang lên. Nàng né sang bên cạnh tránh khỏi. Đồng tiền bay qua gáy nàng, thì, véo một tiếng, một đồng tiền khác đã bắn trúng đồng thứ nhất, hai đồng tiền chạm nhau, gãy đôi thành bốn mảnh, bắn vào Đào Kỳ. Đào Kỳ không dám coi thường, vội vận kình lực vào tay, chụp bắt cả bốn mảnh tiền. Tuy chàng bắt được, nhưng tay tê rát vô cùng.
                  Lão ăn mày kêu ủa lên một tiếng, rồi phóng ra ba đồng tiền nữa, đồng nào cũng quay tròn kêu vo vo đến lạnh tai. Đào Kỳ đánh xéo một chưởng, ba đồng tiền đổi chiều, hướng vào lão ăn mày. Lão vội búng ra ba đồng khác trúng ba đồng trước, kêu đánh canh một cái. Cả sáu đồng tiền cùng gãy làm hai, rơi xuống đất.
                  Lão ăn mày mở nón ra, ngồi dậy, thở dài:
                  – Giỏi thực, giỏi thực. Đào công tử, người đỡ được mấy đồng tiền của ta, quả là võ công đã đến tuyệt đỉnh. Nhưng ta xem dường như nó không phải là võ công của Cửu-chân, mà là của Long-biên. Công tử học võ công Long-biên ở đâu vậy?
                  Đào Kỳ thấy ông lão ăn mày biết rõ tung tích mình rồi, chàng chẳng cần dấu diếm gì nữa:
                  – Cháu có duyên, được một vị tiền bối chỉ điểm cho. Vị tiền bối này không muốn cháu tiết lộ danh tính của người. Xin lão bá miễn chấp.
                  Lão ăn mày quát lên:
                  – Những người sử dụng được võ công Tản-viên đến trình độ của công tử đâu có mấy? Coi đây!
                  Lão ăn mày uốn cong người lại rồi bật thẳng ra, thân hình lão bay vèo vào người Đào Kỳ. Đào Kỳ chưa từng thấy lối đánh kỳ dị như vậy bao giờ. Chàng không dám chần chờ, vội phát một chưởng thuộc Cửu-chân là Hải triều lãng lãng để phản công. Người chàng nhảy lùi lại một bước.
                  Nguyên chiêu chưởng này gồm có năm lớp, lớp thứ nhất phát ra rất nhẹ, nhưng lớp thứ nhì nặng gấp đôi lớp thứ nhất. Lớp thứ ba gấp đôi lớp thứ nhì, tức gấp bốn lần thứ nhất. Nếu đánh đến lớp thứ năm, sẽ mạnh gấp 32 lần lớp thứ nhất.
                  Lão ăn mày ở trên không, vung chưởng đỡ. Đào Kỳ đánh lớp thứ nhì, lùi lại một bước. Lão ăn mày rơi xuống đất, vẫn vung chưởng chống lại lớp thứ nhì. Người lão nhảy vút vào Đào Kỳ. Đào Kỳ hoảng kinh, phát lớp thứ ba đánh vào lão, rồi lùi bước nữa. Lão ở trên không, vung chưởng đỡ lớp thứ ba. Đào Kỳ lui bước nữa, đánh lớp thứ tư. Lão đáp xuống đất, vận khí tấn công tiếp. Chưởng lực lão cực kỳ hùng hậu. Đào Kỳ đánh lớp thứ năm. Hai chưởng gặp nhau, bùng một cái, bụi cát bay tứ tung. Thiều Hoa, Phương Dung cảm thấy ngộp thở, vội lùi lại liên tiếp năm sáu bước.
                  Đào Kỳ kinh hãi, vì từ khi học được võ công trong bộ Văn Lang võ học kỳ thư đến giờ, chàng đánh đâu thắng đó. Chỉ duy có Lê Đạo Sinh, cách đây hơn một năm, chàng có kém y thực. Bây giờ, chàng đã vận đủ mười thành công lực, phát chiêu số dũng mãnh nhất của Cửu-chân mà lão ăn mày đỡ được dễ dàng. Chàng ngẩn người ra đứng nhìn lão.
                  Lão già hô:
                  – Khá lắm. Coi chưởng đây !
                  Lão vung chưởng trái từ trên không đánh xuống, kình lực cực mạnh, chưởng phải từ dưới đánh lên, vòng vào hông Đào Kỳ. Biết gặp phải kình địch, Đào Kỳ không dám coi thường, chàng bước xéo sang phải một bước, phát chiêu Ác ngưu nan độ, tay phải vận dương kình, tay trái vận âm kình đỡ hai chưởng của lão. Binh một tiếng nữa. Hai người đều lùi lại một bước. Mặt Đào Kỳ đỏ lên như máu, trong khi mặt lão ăn mày xanh lợt.
                  Lão thu tay về, lùi lại, thở dài:
                  – Ngươi... ngươi sử dụng võ công Cửu-chân bằng nội công Tản-viên, rồi dùng Phục ngưu thần chưởng bằng nội công Cửu-chân. Cước pháp của ngươi là cước pháp của Long-biên...
                  Đào Kỳ chắp tay nói:
                  – Lão bá quả là người kiến văn rộng rãi.
                  Bỗng chàng cảm thấy nghẹt thở, ngực tức như bị đá đè. Chàng biết cơn suyễn sắp hoành hành.
                  Con người ta, gốc tinh thần là ở trời đất, gốc thân xác là ở cha mẹ. Khi đau đớn tinh thần thường kêu trời, gọi đất. Khi đau đớn thân xác thường kêu cha gọi mẹ, cầu cứu anh chị. Đào Kỳ là con út trong nhà, hồi xưa, mỗi lần đau yếu, chàng được Thiều Hoa chăm sóc đã quen, nên nay thấy cơn suyễn sắp hoành hành, vội vẫy tay gọi Thiều Hoa:
                  – Sư tỷ! Sư tỷ!
                  Thiều Hoa chạy lại đỡ, ôm chàng vào lòng, lấy tay xoa ngực cho Đào Kỳ. Nước mắt nàng dàn dụa.
                  Phương Dung nói với lão ăn mày:
                  – Lão bá, Đào đại ca trước đây bị trúng độc, nên mỗi ngày thường lên cơn suyễn. Hôm nay lão bá qua lại mấy chiêu với Đào đại ca như vậy đủ rồi. Hẹn khi khác, Đào đại ca mạnh khỏe, sẽ lĩnh giáo võ công của lão bá.
                  Lão ăn mày không nói gì, vung quyền đánh vào đầu Thiều Hoa. Thiều Hoa vội dơ tay đỡ. Lão ăn mày chợt biến đòn, vung tay chụp vào ngực Đào Kỳ, nhấc chàng lên, thấp thoáng mấy cái đã mất tăm.
                  Phương Dung, Thiều Hoa chạy theo, kêu lên:
                  – Đào đại ca! Đào đại ca!
                  – Tiểu sư đệ! Tiểu sư đệ!

                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #24
                    Hồi 23 Cùng một lứa bên trời lận đận. (Bạch Cư Dị, Tỳ bà hành)

                    Bạch Cư Dị (722-846) tự Lạc Phu, hiệu Hương Sơn cư sĩ, người đất Hạ-lang. Đỗ tiến sĩ niên hiệu Trinh-nguyên, giữ chức Hiệu thư lang. Sau vì bị đố kị, ông phải biếm làm chức Tư-mã đất Giang-châu. Trên đường nhậm chức, một đêm thu, được bạn tiễn đưa qua bến Tầm-dương, giữa lúc đôi bên đang đối ẩm ly biệt, thì có tiếng dàn thanh thoát vọng đến. Ông hỏi : Tại sao bến sông vắng lại có tiếng đàn não nùng như vậy? Bạn kể cho biết tiếng đàn do một ca kỹ nổi tiếng ở đế đô, về già, lấy một người lái buôn trà. Người lái buôn xuôi ngược, vắng nhà luôn. Nàng ở lại trên bến sông một mình. Ông mời người ca kỹ sang cùng uống rượu, tâm sự. Nghe tâm sự nàng, ông cảm động khóc sướt mướt:
                    Tọa trung khấp hạ thùy tối đa,
                    Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp.
                    Phan Huy Chú dịch:
                    Lệ ai chan chứa hơn người,
                    Giang-châu tư mã đượm mùi áo xanh.
                    Đào Kỳ bị lên cơn suyễn mê mê tỉnh tỉnh. Chàng chỉ biết rằng mình bị lão ăn mày vác lên trên vai chạy đi. Chàng nghe tiếng gió vù vù bên tai không ngừng. Thỉnh thoảng lại thấy người mình nhô lên thụp xuống. Sau cùng, chàng nghẹt thở, không biết gì nữa. Trong cơn mê, chàng thấy mình cùng Phương Dung dạo chơi trên một sườn đồi đầy hoa. Chợt quân Hán kéo đến bao vây, chàng cùng Phương Dung tả xung hữu đột cũng không thoát. Cùng quá, chàng kêu lên:
                    – Thôi, chúng ta đành theo gương An Dương vương vậy.
                    Phương Dung dùng kiếm đánh dạt quân Hán. Hai người lên đỉnh ngọn đồi, toan tự vẫn. Lưỡi gươm đưa lên cổ thì thấy lạnh toát rồi giật mình thức dậy. Chàng mở mắt ra thấy tối om không có ánh sáng. Chàng đưa tay sờ xoạng thì chạm vào hai tấm ván gỗ hai bên. Chàng sờ lên đầu, trước mặt đều thấy như vậy cả. Chàng phiêu phiêu tưởng tượng:
                    – Thì ra mình đã chết rồi. Người ta đã chôn mình trong lòng đất đây.
                    Chàng sờ xoạng thấy mình nằm trên một lớp hoa, cây cỏ khô mùi thơm ngào ngạt, rất dễ chịu. Chàng tin rằng mình chết rồi, người ta đã liệm mình với hoa cỏ.
                    Chàng cố gắng nhớ lại, nhưng chỉ lờ mờ thấy mình đi Cổ-loa với Thiều Hoa và Phương Dung, rồi gặp lão ăn mày. Chàng và lão đấu chưởng. Chưởng lực của lão thâm hậu hơn Nghiêm Sơn nhiều. Rồi chàng lên cơn suyễn, lão chụp chàng chạy đi.
                    Chàng suy nghĩ:
                    – Chắc sau đó ta chết. Sư tỷ đuổi theo lão ăn mày, tìm thấy xác ta đem về chôn. Sư tỷ thương ta, nên đã chôn ta với hoa khô, cỏ thơm thế này đây. Chắc lúc chôn ta, sư tỷ đau lòng lắm. Không biết sau này gặp cha mẹ ta, ai là người minh oan cho sư tỷ đây?
                    Chàng cố gắng co chân lên, nhưng không có lực. Chàng dùng tay bẹo lên mặt mình, thấy còn đau. Chàng nghĩ tiếp:
                    – Như vậy, mình chưa chết. Hà! Mình chỉ ngất đi thôi, người ta đã vội chôn mình rồi. Ta nằm đây điều tức một lúc, khí huyết lưu thông, ta sẽ phá quan tài, đội mồ sống dậy. Ha... ha... ta đợi nửa đêm về nhà, nhát sư tỷ mới được. Sư tỷ thấy sẽ khấn : Tiểu sư đệ, đừng nhát chị.
                    Chàng bắt đầu vận khí, luyện lại tâm pháp của phái Cửu-chân. Chỉ một lúc sau, đã thấy người khỏe mạnh. Chàng dùng tay đẩy khẽ nắp quan tài và thấy ánh sáng lọt vào. Chàng lách mình nhảy ra. Khi nhìn lại, bất giác chàng mỉm cười: Chỗ chàng nằm không phải là quan tài. Đó là một cái hộp bằng gỗ đậy kín, đặt giữa nhà. Chàng quan sát căn nhà, thấy bày biện thô sơ, nhưng sạch sẽ. Đàng trước có một giàn thiên lý, hoa nở rất đẹp. Chàng bước ra sân chơi. Trước sân, một vườn hoa rộng mênh mông, trồng đủ thứ cây, cỏ, hoa lá, tiếng chim hót ríu rít. Chàng suy nghĩ:
                    – Đây là đâu? Ai đã bỏ ta vào hộp gỗ như vậy? Người bỏ ta vào hộp gỗ chắc không phải để hại ta. Nếu họ muốn hại ta, chắc đã cho ta một dao rồi. Vậy, họ cho ta vào hộp gỗ để làm gì? A, hay họ dùng thuốc để cứu ta đây? Đúng rồi. Họ cho ta vào thùng với đầy cây thuốc để ta thở hít như vậy, mới khỏi bệnh được.
                    Chàng trở vào nhà, thấy một cái tủ lớn, chia thành nhiều ngăn nhỏ. Chàng mở tung ra xem. Đúng như chàng đã nghĩ, trong các ngăn đầy những vị thuốc. Chàng nhìn khắp nhà, thấy chỗ nào cũng để đầy những cây, cỏ làm thuốc. Chàng định ra vườn, thì thấy một cô bé tuổi khoảng 14-15 chạy vào. Cô bé thấy Đào Kỳ thì kêu lên:
                    – Ngươi... ngươi sống lại rồi ư?
                    Đào Kỳ chú ý quan sát cô bé, thấy mắt cô ta đen, mặt trái xoan đầy vẻ hiền dịu, ngây thơ. Chàng tự nghĩ:
                    – Giá ta có một cô em bé như vậy, có phải vui biết mấy không?
                    Cô bé không thấy Đào Kỳ trả lời, lại hỏi:
                    – Ngươi... ngươi sống lại rồi ư?
                    Đào Kỳ cười:
                    – Không phải đâu. Ta chết rồi, chết từ lâu rồi. Khi ta xuống gặp Diêm-vương, người bảo ta phải về trần thế làm một việc, nên ta hiện hồn về nhát ngươi đây. Ngươi có sợ không?
                    Cô bé mở to mắt ra nhìn Đào Kỳ, rồi nói:
                    – Ngươi nói láo. Rõ ràng ngươi sống lại cho nên nắp quan tài gỗ của ngươi đã mở ra. Nếu ngươi hiện hồn về, xác ngươi vẫn phải nằm trong hộp gỗ chứ?
                    Đào Kỳ trêu cô:
                    – Ta chết thực rồi đấy chứ. Hồn ta tìm xác nhập vào, ta là quỷ nhập tràng đây. Người có sợ không?
                    Cô bé có vẻ hơi sợ:
                    – Ngươi đừng dọa ta. Quỷ nhập tràng thì chân tay cứng đơ, ngươi đã ngồi được ắt không phải quỷ nhập tràng.
                    Đào Kỳ đứng lên, bước lại gần cô bé, chân tay giả bộ cứng đơ như quỷ nhập tràng. Cô bé hoảng sợ, run run nói:
                    – Thì ra ngươi là quỷ nhập tràng thực à? Ngươi đừng hại ta. Ông ngoại ta chữa bệnh cho ngươi mấy tháng nay, không ngờ ngươi vẫn bị chết. Trong cơn mê, ngươi gọi tên Thiều Hoa, rồi Tường Quy, rồi Phương Dung. Toàn tên con gái không à. Ba người này là ai vậy?
                    Đào Kỳ làm bộ thè lưỡi nhát:
                    – Đó là ba con quỷ cái bạn của ta. Chúng ta hẹn nhau đến đây nhát ngươi.
                    Chợt cô bé cười hắc hắc:
                    – Ngươi nói láo. Rõ ràng ngươi sống đây, thế mà ngươi lại bảo rằng ngươi đã chết rồi. Ta thấy ngực ngươi nhô lên, thụp xuống, tức là ngươi thở. Quỷ nhập tràng không biết thở.
                    Cô bé dậm chân nói:
                    – Ông ngoại bảo chiều nay ngươi tỉnh lại là người sống, còn chiều nay người không tỉnh lại thì người chết. Sao người không nằm yên trong hộp gỗ để xông cho hết chất độc? Ông ngoại nói người bị trúng phấn độc của loại sâu đã mấy năm rồi. Chất độc này ghê gớm lắm, nếu để hai năm nữa, ngươi sẽ nghẹt thở rồi chết.
                    Đào Kỳ thấy cô bé nói năng dễ thương quá, nguồn vui dâng lên, chàng muốn làm quen với cô:
                    – Cô bé ơi, tên cô là gì vậy?
                    Cô bé đáp:
                    – Tôi đố anh biết tên tôi là gì đấy.
                    Đào Kỳ thấy trên tay nàng cầm mấy bông hoa quỳnh, hương thơm ngào ngạt. Trên đầu nàng dắt một bông hoa quế (hồng) chưa nở. Chàng suy nghĩ muốn tìm một câu gì đùa với cô bé cho vui, bèn nói:
                    – Cô bé xinh đẹp thế này, chắc tên cũng đẹp lắm. Cô ôm hoa quỳnh, giắt hoa quế, vậy tên cô là Quế Quỳnh hay Quỳnh Quế phải không?
                    Cô bé trợn mắt lên ngạc nhiên:
                    – Anh thực giỏi, đã đoán ra tên tôi. Tôi là Quỳnh, em tôi là Quế, chúng tôi là hai chị em sinh đôi. Hôm nay chị tôi theo ông ngoại ra chợ. Còn tôi ở nhà coi chừng anh. Ông ngoại dặn rằng khi anh tỉnh dậy thì múc cháo cho anh ăn. Vậy anh vào nhà để lấy tôi lấy cháo cho mà ăn.
                    Cô bé bước thoăn thoắt vào bếp lấy bát múc cho Đào Kỳ một bát cháo, bưng ra để trước mặt chàng:
                    – Cháo đây, anh ăn đi.
                    Đào Kỳ cầm thìa múc cháo ăn. Chàng thấy một mùi thơm kỳ lạ bốc lên mũi. Chàng ăn một thìa cháo, hương thơm tỏa khắp người. Chàng cố gắng tìm hiểu xem đây là cháo gì, nhưng nghĩ mãi không ra. Cháo trắng, có những hạt hình trám nhỏ xíu như hạt bắp, chàng ăn thấy bùi, béo ngậy xông lên mũi. Chàng hỏi cô bé:
                    – Cô Quỳnh ơi! Cháo gì mà ngon vậy?
                    Quỳnh lắc đầu nói:
                    – Tôi không biết. Ông ngoại cùng với mấy người nữa, thêm chị em tôi lặn lội trong rừng đến mấy ngày mới tìm được hai trăm tổ sâu, rồi lấy con nhộng trong tổ sâu ngâm với thuốc một ngày nữa, sau mới nấu cháo cho anh ăn đó.
                    Đào Kỳ cảm thấy ớn da gà:
                    – Thì ra mình ăn sâu non mà không biết. Chắc con nhộng sâu này có thể chữa bệnh được cho mình đây, nên họ mới nấu cháo cho mình ăn.
                    Chàng ăn liền một lúc hết cả nồi cháo, rồi hỏi Quỳnh:
                    – Này em bé này, thế ông em tên gì vậy?
                    Quỳnh lắc đầu:
                    – Tôi gọi anh là anh, sao anh cứ gọi tôi là cô bé vậy? Tôi có còn bú mẹ đâu mà gọi là cô bé?
                    Đào Kỳ nghe sư tỷ nói nhiều lần rằng, con gái tuổi 14-15 đã khôn lắm rồi. Đứng trước các chàng trai, các cô thường muốn được coi như là người lớn. Muốn cho các cô vui lòng, phải coi các cô như đã trưởng thành rồi.
                    Đào Kỳ xin lỗi:
                    – Tôi xin lỗi cô nương, năm nay cô nương bao nhiêu tuổi, lệnh ngoại tổ cao danh quý tánh là gì?
                    Quỳnh tươi mặt lên:
                    – Tôi mới 15 tuổi. Ngoại tổ tôi ấy à? Tôi không biết tên ông là gì, tôi chỉ quen gọi là ông thôi. Ông ngoại tôi năm nay già lắm rồi, đến bảy mươi là ít đấy, bởi bác Cả tôi cũng đã ngoài năm mươi rồi.
                    Quỳnh dẫn Đào Kỳ ra vườn chơi. Khu vườn nhà này trồng toàn cây thuốc, rộng có đến chục mẫu. Bướm, ong bay lượn, chim hót ríu rít trên cành. Quỳnh dẫn Đào Kỳ đi chỉ hết hoa này đến quả kia. Tới một cây ổi, trái to bằng nắm tay, cô bé hỏi:
                    – Này, anh có muốn ăn ổi không?
                    Đào Kỳ ngạc nhiên nghĩ thầm: Sao cô bé này biết ta thèm ổi? Nhưng chàng không hỏi, chỉ gật đầu. Cô bé chỉ một quả ổi trên cành cao, tuy da xanh nhưng đã ngả màu trắng:
                    – Da ổi bao giờ cũng xanh và đét. Khi ổi chín, da hơi biến thành trắng và mọng lên. Vì vậy, quả nào đã mọng là sắp chín đấy.
                    Cô nhặt một viên đá nhỏ bằng hạt nhãn búng đánh véo một cái, trúng cuống trái ổi. Cuống bị tiện đứt, trái ổi rơi xuống. Cô bắt lấy, đưa Đào Kỳ:
                    – Anh ăn đi, ngon lắm đấy.
                    Đào Kỳ cầm trái ổi hít hà, thấy thơm ngát. Chàng cắn một miếng kêu rau ráu, mùi ổi vừa thơm, vừa ngọt tỏa khắp miệng.
                    Cô bé nói:
                    – Ổi phải ăn khi còn ương ương, chứ chín rồi ăn nó mất hết vị ngon. Khi chín, thịt ổi sẽ nhão. Phải ăn ổi khi còn cứng vừa chua, vừa ngọt mới thú.
                    Đào Kỳ vừa ăn ổi, vừa cố tìm chiêu số võ công của cô bé. Chàng thấy thủ kình của cô bắn ổi vừa rồi giống hệt thủ kình của lão ăn mày. Vậy, lão ăn mày bắt chàng không phải vì muốn hại chàng, mà mang chàng về đây để chữa trị. Nhưng lão là ai? Đây là đâu?
                    Chàng hỏi Quỳnh:
                    – Quỳnh cô nương, tôi đến đây đã lâu chưa?
                    Quỳnh tính đốt ngón tay, nói:
                    – Ba tháng rồi. Sáng nay ông tôi đi xa, dặn tôi ở nhà coi anh. Ông tôi nói chiều nay mới về.
                    Khi Đào Kỳ ăn hết quả ổi, cô bé lại búng viên sỏi nữa, một trái khác lại rơi xuống.
                    Đào Kỳ cầm quả ổi, nói:
                    – Cám ơn cô nương. Võ công của cô nương cao lắm nhỉ! Nếu không, sao chỉ một cái búng, viên sỏi kêu véo một cái như vậy? Cô tập võ lâu chưa?
                    Quỳnh gật đầu:
                    – Tôi tập võ từ năm lên sáu tuổi, do ông ngoại tôi dạy. Tôi cũng không biết võ công tôi cao hay thấp, vì tôi chưa có dịp đấu với người ta. Này anh, tên anh là gì vậy?
                    – Tôi họ Đào, tên là Kỳ.
                    – Thế anh có biết võ không? Sư phụ anh là ai?
                    – Có chứ. Tôi cũng tập võ từ thuở nhỏ như cô. Bố tôi là sư phụ của tôi.
                    – Thế anh có đấu với ai bao giờ chưa?
                    Đào Kỳ gật đầu. Cô bé thích chí reo lên:
                    – Ừ! Nếu vậy, bao giờ anh khỏi bệnh, tôi sẽ đấu với anh.
                    Có tiếng xe ngựa kêu lách cách, cô bé reo lên:
                    – A! Ông ngoại đã về.
                    Cô chạy ra mở cổng. Chiếc xe ngựa chạy vào trong sân. Trên xe, một cô bé giống Quỳnh như hai giọt nước, khó có thể phân biệt được. Đào Kỳ biết đây là Quế. Hai cô chỉ khác nhau một điều: Quỳnh mặc áo vàng, còn Quế mặc áo hồng. Trên xe còn có lão ăn mày mà Đào Kỳ đã có dịp giao đấu ít hiệp.
                    Lão trông thấy Đào Kỳ thì mừng lắm, nói:
                    – Đào công tử, ngươi tỉnh rồi à?
                    Đào Kỳ chắp tay hành lễ:
                    – Đa tạ lão bá cứu mạng cho tiểu bối.
                    Lão ăn mày vẫy tay nói:
                    – Giữa đường thấy người bị nạn, ra tay cứu giúp, đó là y đạo vậy.
                    Lão kéo Đào Kỳ vào nhà rồi nói:
                    – Bệnh của công tử rất phức tạp. Đầu tiên, công tử tập võ công của phái Cửu-chân, thiên về cương dương. Nội công Cửu-chân lại luyện ở dưới sông, biển, thành ra trong cái dương có cái âm. Sau đó, công tử lại luyện võ công của Tản-viên. Võ công Tản-viên gốc ở Sơn Tinh. Sơn Tinh là người trên núi, luyện nội công thiên về dương cương. Như vậy, trong cái dương còn có cái dương nữa. Rồi không biết cơ duyên nào, công tử lại luyện võ công của phái Long-biên. Phái Long-biên thiên về âm nhu. Thế là ba thứ võ khác nhau ở trong cơ thể của công tử. Công tử không biết thành ra cứ sử dụng. Khi thì âm, khi thì dương. Rút cục tam âm, lục mạch bị thương cả. Kịp đến khi công tử bị hít phải phấn tằm độc, phấn chạy vào phổi. Công tử biết dùng tía tô xông lên, tự cứu được mạng, nhưng tằm độc vẫn còn trong cơ thể. Phấn tằm độc dính vào phổi không khu trục ra được, nên thỉnh thoảng phổi tấy lên, công tử bị suyễn. Đúng ra, nếu công tử chuyên tập một thứ võ, có thể chống chọi được ba năm mới nguy. Đàng này, công tử lại tập tới ba thứ võ công khác nhau... cơ thể rối loạn, khi trúng độc, không biết nguy hiểm ngừng ngay để tìm thầy chạy chữa. Công tử lại đi đấu chưởng với người, thành ra suýt bỏ mạng.
                    Đào Kỳ bội phục vô cùng. Lão ăn mày chỉ chẩn mạch đã biết được rõ những võ công chàng đã tập, quả lão không phải người thường. Lão nói tiếp:
                    – Quan trọng nhất là cách đây mấy ngày, công tử vừa đấu chưởng với một đại cao thủ bật nhất, bậc nhì của người Hán, rồi sau đó uống rượu vào... và cuối cùng đấu chưởng với lão già này, nên độc chạy sâu vào tam âm, lục mach. Không biết lão có chữa được không. Công tử, ngươi đấu chưởng với cao thủ người Hán tên gì vậy? Không ngờ trong hàng ngũ quân Hán cũng có một đại cao thủ như thế.
                    Đào Kỳ nói:
                    – Hán quan đó là chồng của sư tỷ vãn bối.
                    Lão ăn mày thở dài:
                    – À, thì ra thế. Tại sao công tử lại đấu chưởng với y? Phải chăng hai người xung đột ý tưởng?
                    Đào Kỳ thấy không thể dấu diếm lão ăn mày được, chàng bèn lược thuật qua vụ cứu Ngũ-kiếm cho lão nghe. Lão gật đầu:
                    – Đúng là mưu thâm. Ngũ-kiếm là người của giặc. Thắng Ngũ-kiếm đã là anh hùng rồi. Đàng này, không những đã thắng Ngũ-kiếm, còn biến Ngũ-kiếm thành kẻ thù của giặc, tức đã thắng giặc hai lần.
                    Bé Quế hỏi lão ăn mày:
                    – Ông ơi, tại sao lại thắng hai lần?
                    Lão ăn mày nói:
                    – Coi như Ngũ-kiếm bằng 500 quân, ta cũng cần 500 quân mới đánh lại họ. Ta được Ngũ-kiếm thành ra có tới 1,000 quân, có phải ta có lực lượng gấp đôi địch không?
                    Đào Kỳ kính cẩn nói:
                    – Tiểu bối không dám thỉnh cao danh lão bá?
                    Lão ăn mà cười:
                    – Cao danh à? Lão không có tên đâu. Lão chuyên nghề chữa bệnh, người ta gọi lão là Đại-phu. Nhưng lão hay đi ăn mày, nên người ta ghép tên lão thành Khất đại phu, tức ông thầy thuốc ăn mày.
                    Đào Kỳ à lên một tiếng:
                    – Ngay khi cháu bị trúng độc, đệ tử của lão bá là Trần Năng đã đi thỉnh lão bá ở núi Tản-viên, nhưng không gặp lão bá. Cháu đã đi khắp nơi dò tin tức lão bá, không ngờ bá lại ở đây.
                    Lão già đó tên thật là Trần Đại Sinh, sư huynh của Lê Đạo Sinh. Tuy võ công lão rất cao, nhưng ít giao dấu với người đời, nên nào ai biết bản lãnh của lão. Lão nghiên cứu y khoa rất tường tận, dùng y đạo cứu đời. Lão thường dùng một người, một lừa, lang thang khắp nơi chữa bệnh cho người. Ai trả tiền, lão không nhận. Nhưng ai mời ăn, đãi rượu, lão không từ chối. Vì vậy, người đời kính trọng lão, đặt cho lão tên hiệu là Khất đại phu. Đại phu là ông thầy thuốc, Khất là ăn mày. Tiếng tăm, đạo hạnh của lão vang lừng Lĩnh Nam, cả đến những vùng Kinh-châu, Tứ-xuyên của Trung- nguyên cũng biết danh lão.
                    Đào Kỳ không ngờ, mình tìm lão khắp nơi, không biết tin tức gì, đến lúc nguy kịch, thì gặp lão, đấu chưởng với lão, được lão đem về đây trị bệnh. Chàng thắc mắc:
                    – Hồi nãy lão bá nói đến tam âm, lục mạch, cháu không hiểu là gì, xin lão bá dạy dỗ cho.
                    Khất đại phu gật đầu:
                    – Cơ thể người ta do âm và dương kết hợp lại. Các bộ phận trong người cũng chia thành âm, dương. Những bộ phận đặc là âm, gồm có: can, tỳ, thận, phế, tâm và tâm bào. Những bộ phận rỗng thuộc dương, gồm có: tam tiêu, đại trường, tiểu trường, bàng quang, đởm và vị. Trong sáu bộ phận âm phân ra thái âm, thiếu âm, khuyết âm. Trong sáu bộ phận dương cũng phân ra thái dương, thiếu dương và dương minh.
                    Đào Kỳ gật đầu:
                    – Thế mà từ trước tới nay, cháu chỉ biết có âm dương mà thôi.
                    Khất đại phu tiếp:
                    – Tất cả những bộ phận trong người, nối với bên ngoài bằng những đường kinh. Trên tay có ba kinh âm, ba kinh dương. Dưới chân cũng có ba kinh âm, ba kinh dương. Như vậy, tổng số là tam âm.
                    Đào Kỳ hiểu ra:
                    – Cộng cả ba âm, ba dương thành sáu mạch, bởi vậy mới gọi là lục mạch.
                    Khất đại phu giảng thêm:
                    – Trên cơ thể còn những đường nối các kinh lại với nhau, nhưng không thuộc bộ phận nào trong người, đó là nhâm mạch, đốc mach, dương kiêu, âm kiêu, dương duy, âm duy, xung và đới, cộng lại thành kỳ kinh bát mạch. Lắm lúc lão nghĩ, làm sao trong võ học cũng phải đặt trên cơ sở y lý mới tiến xa được. Hiện giờ từ Trung-nguyên cho tới Âu-Lạc ta, chưa có ai hợp được y học với võ học. Lão mới thí nghiệm, thấy thành công. Như đốc mạch là tổng hợp các kinh dương. Lão làm cho chân khí trên các kinh dương và đốc mạch lưu thông. Rồi khi ta đấu chưởng với người khác, vận chân khí ra các kinh dương ở tay, khi đó, phóng chưởng sẽ mãnh liệt vô cùng.
                    Nói xong, Khất đại phu lấy viên đá nhỏ búng một cái bay về phía trước, rít lên veo véo, trúng vào cây chuối đánh bộp một cái, rồi rơi xuống. Ông bảo Đào Kỳ:
                    – Ngươi bóp ngón tay giữa ta một cái.
                    Đào Kỳ bóp thử thấy cứng vô cùng. Khất đại phu hít một hơi khí rồi cầm viên sỏi búng đến véo một cái, viên sỏi trúng vào cây chuối đàng trước, chui phập vào trong. Ông bảo Đào Kỳ:
                    – Ngươi bóp tay ta thử xem.
                    Đào Kỳ bóp ngón tay giữa của ông. Chàng thấy có luồng điện rung rất mạnh, rồi hất chàng bắn lui lại một bước. Đào Kỳ lắc đầu không hiểu.
                    Khất đại phu nói:
                    – Cái búng thứ nhất của ta chưa vận chân khí ra ngón tay, nên kình lực không mạnh. Ngươi bóp tay ta không sao. Cái búng thứ nhì ta đã vận chân khí, nên kình lực mạnh, ngươi bóp tay ta bị chân khí phản công, hất ngươi ra xa.
                    Đào Kỳ ngạc nhiên hỏi:
                    – Thế nghĩa là thế nào?
                    Khất đại phu giảng:
                    – Từ tiền cổ đến giờ, võ lâm luyện võ, chỉ biết vận chân khí ra chân, ra tay tấn công người, hoặc vận chân khí vào đơn điền, rồi từ đó chuyển sang từng kinh một, thấy không có gì khó khăn cả. Sau ta thử vận chân khí vào một kinh thì thấy chân khí mạnh như vũ bão. Ta mới tự giải thích rằng: Chân khí của toàn người, nếu vận ra chân, tay chiến đấu thì vừa lâu, vừa khó, lại không mạnh. Nếu ta vận vào từng kinh một, thì lại có thừa. Vừa rồi ta vận khí từ kinh tam tiêu ra ngón giữa, ngươi đã thấy qua kết quả.
                    Nói rồi, không đợi Đào Kỳ có đồng ý hay không, ông chỉ lên đồ hình trên tường với những đường kinh và kỳ kinh bát mạch. Nhờ có trí nhớ tốt, ông nói đến đâu, Đào Kỳ thuộc đến đó. Ông nhấn mạnh:
                    – Nhâm mạch là nơi tổng hội các kinh âm, khí của sáu kinh âm đổ về đó như nước các sông đổ ra biển. Đốc mạch là nơi tổng hội của các kinh dương. Dương khí của sáu kinh dương đều luân lưu qua.
                    Đào Kỳ hỏi:
                    – Như vậy đốc mạch và nhâm mạch có thông với nhau được không?
                    Khất đại phu như gặp người tri kỷ, ông hứng trí quá, giảng:
                    – Có chứ. Nhâm, đốc mạch giao hội nhau ở huyệt Trương cường, gần hậu môn. Đó là chỗ giao nhau bên dưới. Chúng còn giao hội nhau ở huyệt ngân giao tại môi trên. Vận chân khí hai mạch này thông với nhau, là hòa hợp được âm, dương.
                    Đào Kỳ góp ý kiến:
                    – Nếu hợp được như vậy, công lực sẽ tăng lên không biết đâu mà lường được. Trong cơ thể có khí âm, khí dương. Phái Tản-viên, Cửu-chân, Hoa-lư thiên về dương cương. Phái Long-biên thiên về âm nhu. Người luyện nội công chỉ chuyên một thứ. Dương sinh ra không có âm để tựa. Âm sinh ra không có dương để hòa hợp, vì vậy, tập thì nhiều, nhưng sau đó, chân khí mất đi đến bảy tám phần. Cho nên phải luyện một thời gian lâu lắm mới có kết quả. Nếu biết hòa hợp âm dương thì thời gian luyện công một năm sẽ bằng mười năm.
                    Khất đại phu há hốc miệng ra hỏi:
                    – Tiểu hữu, ngươi... ngươi cũng biết y học à?
                    Sự thực Đào Kỳ không biết gì về y học. Ngày nọ ở Thái-hà trang, chàng nghe Lục Mạnh Tân giảng về học thuyết âm, dương trong kinh Dịch. Rồi từ đó chàng hội hợp được chân khí âm dương của Tản-viên với chân khí âm của Long-biên mà công lực luyện tập một năm bằng mười năm. Bây giờ, được Khất đại phu giảng về kinh mạch, chàng suy nghĩ và phát biểu ý kiến, nên ông kinh ngạc đến ngơ ngẩn, xuất thần.
                    Đào Kỳ chợt reo lên:
                    – Nếu lão bá có thể vận chân khí đưa tất cả khí của sáu kinh âm vào nhâm mạch, nhâm mạch như cái hồ chứa âm kình. Khi đấu với người, lão bá vận chân khí tự nhâm mạch ra bất cứ một kinh âm nào để đánh địch, thì một chiêu mạnh bằng sáu chiêu. Còn lão bá vận chân khí sáu kinh dương vào đốc mạch, khi đấu với đối thủ, lão bá truyền chân khí ra một kinh dương tấn công, đối thủ làm sao chịu nỗi?
                    Khất đại phu giật mình:
                    – Ngươi... ngươi... đã luyện qua phép này rồi à?
                    Đào Kỳ thản nhiên:
                    – Cháu suy luận mà nghĩ như thế, rồi bàn rộng thêm. Ngày trước Sơn Tinh chế ra Phục ngưu thần chưởng chỉ toàn dương cương. Sau Vạn-tín hầu là người học chưởng pháp đó, nhưng ngài là người tập võ âm nhu, nên chưởng thành nhu. Bởi vậy Phục ngưu chưởng khi thì nhu, khi thì cương, nhưng hai tay phải đánh dương cương của Sơn Tinh, hay âm nhu của Vạn-tín hầu. Nếu như tay trái đánh âm nhu của Vạn-tín hầu, rồi bất thình lình vận khí trong người: tay phải vận âm chưởng, tay trái vận dương chưởng, luân lưu như vậy sẽ thành anh hùng vô địch. Hiện nay, tiểu bối chỉ có thể vận âm kình, dương kình rời rạc, chứ chưa liên tục được. Thời gian vận như vậy rất chậm chạp.
                    Nghĩ một lúc, chàng tiếp:
                    – Nếu tiền bối có thể vận chân khí lưu thông từ đốc mạch sang nhâm mạch và từ nhâm mạch sang đốc mạch, khi phát chiêu âm hay dương mạnh bằng 12 chiêu thường.
                    Khất đại phu gật đầu:
                    – Tiểu hữu nói đúng đó. Như trong cơ thể tiểu hữu, nào là nội công Tản-viên, nào là Long-biên, nào là Cửu-chân. Chân khí hỗn độn, chạy loạn cả lên, cho nên bệnh mới nặng. Nếu bây giờ tiểu hữu chuyển tất cả chân khí âm nhu về nhâm mạch, chân khí dương cương về đốc mạch, sau đó cho hòa hợp với nhau, thì bệnh khỏi được mà công lực cũng sẽ mạnh kinh hồn.
                    Đào Kỳ tỉnh ngộ:
                    – Từ trước đến giờ, ta chỉ có thể sử dụng nội công Cửu-chân, Long-biên, Tản-viên rời rạc, nếu bây giờ tập trung cả lại, ví như ta có 5 độ Cửu-chân, hợp với 5 độ Long-biên thành 25 độ. Hợp thêm 5 độ Tản-viên, ta sẽ có tới 125 độ.
                    Đào Kỳ đứng dậy, chắp tay thưa:
                    – Tiểu bối xin kính cẩn nghe lão bá dạy dỗ.
                    Khất đại phu nói chậm rãi:
                    – Nào bây giờ tiểu hữu ngồi xếp chân luyện công nhưng mắt thì nhìn vào đồ hình các kinh mạch này đi.
                    Đào Kỳ xếp chân lại, nhìn lên đồ hình.
                    Khất đại phu nói:
                    – Trong con người có ngũ khí phát ra từ ngũ tạng, đó là tâm, can, tỳ, phế và thận. Khi thức làm việc, ngũ khí nảy sinh, chạy khắp cơ thể. Bây giờ tiểu hữu nhắm mắt dưỡng thần, bỏ hết ý nghĩ ra ngoài, đó là Giải trừ tạp niệm. Khi những ý tưởng rời cơ thể, con người như ngủ đi. Khi con người ngủ đi như vậy, ngũ khí sẽ không luân lưu nữa, mà chạy trở về gốc của nó là ngũ tạng. Ta tạm dùng danh từ cho cách vận khí này là Ngũ khí triều nguyên, nghĩa là năm khí trở về gốc.
                    Ông nói đến đâu, Đào Kỳ làm theo tới đó. Chàng cảm thấy người khoan khoái nhẹ nhàng, không bút nào tả siết. Tuy rằng chàng biết mình ngồi vận công, có Khất đại phu bên cạnh, nhưng ý tưởng như quên hết đi. Một lúc sau, chàng mở mắt ra, thở đánh phào một cái. Chân khí chạy rần rật khắp người.
                    Khất đại phu giảng:
                    – Khi luyện công, tiểu hữu phải nhớ làm sao cho tinh, khí, thần thăng bằng. Tinh là tinh khí là vật chất, là xác thịt. Thần là tư tưởng, là trí nhớ, là hiểu biết. Khí là chân khí vậy. Tinh thuộc âm, nếu tinh thịnh quá thì người nặng nề. Nếu thần mạnh quá thì người căng thẳng, hay cáu, hay giận. Nếu khí mạnh quá thì người bứt rứt, khó chịu. Khí và thần thuộc dương. Vậy phải cho tinh, thần, khí thăng bằng. Tinh, thần, khí là ba bông hoa quý của cơ thể, nên ta gọi phương pháp thăng bằng tinh, thần, khí là Tam hoa tụ đỉnh.
                    Ông tiếp:
                    – Bây giờ chúng ta vận chân khí cho thông các kinh mạch đã. Khi 12 kinh thông rồi, ta sẽ vận khí lưu thông ở kỳ kinh bát mạch. Chúng ta bắt đầu từng kinh một trước. Kinh đầu tiên là Thủ thái âm phế kinh. Thủ thái âm phế kinh, khởi từ phế, chạy xuyên qua vị, màng cách xuống đại trường, rồi đi ngược lên, xuất ra nách, theo mặt âm của tay, tận cùng bằng huyệt thiếu thương ở ngón cái.
                    Ông nói tới đâu, Đào Kỳ vận tới đó. Cuối cùng, chân khí dồn ra ngón tay cái. Ngón tay cái của chàng muốn rung lên. Chàng lại nhắm mắt, cho Ngũ khí triều nguyên, thì thấy ngón tay bớt căng.
                    Khất đại phu tiếp:
                    – Bây giờ tới Thủ khuyết âm tâm bào kinh, khởi từ Tam tiêu xuất ra mặt Âm của tay, tận cùng bằng huyệt Trung xung ở ngón giữa.
                    Đào Kỳ lại làm theo. Khất đại phu tiếp:
                    – Tiếp tục tới Thủ thiếu âm tâm kinh, khởi từ tâm thông xuống tiểu trường, xuất ra ở nách, tận cùng bằng huyệt Thiếu xung ở ngón út.
                    Đào Kỳ làm theo.
                    Khất đại phu cho Đào Kỳ vận đi vận lại suốt ba kinh âm ở tay, từ lồng ngực ra tay, từ tay về lồng ngực, chuyển vào nhâm mạch. Xong ông lại bắt chàng tiếp tục vận khí từ lồng ngực, xuống bụng, ra đầu ngón chân của ba kinh âm dưới chân: Túc thái âm tỳ kinh, Túc khuyết âm can kinh, Túc thiếu âm thận kinh.
                    Đào Kỳ luyện trong hơn một tháng thì thông hết 12 kinh và thông cả nhâm, đốc mạch.
                    Một hôm Khất đại phu dẫn chàng ra một khu rừng, rồi bảo chàng:
                    – Bây giờ chúng ta áp dụng vào việc sử dụng ngoại công. Tiểu hữu, ngươi ngồi ngay ngắn lại đi, và làm theo lời ta nói.
                    Ông hô lên:
                    – Giải trừ tạp niệm.
                    Đào Kỳ làm theo.
                    Ông lại hô:
                    – Ngũ khí triều nguyên...Tam hoa tụ đỉnh.
                    Đào Kỳ làm theo.
                    Ông hô tiếp:
                    – Vận chân khí từ Thủ tam dương kinh, Túc tam dương kinh một lúc. Dẫn chân khí của Thủ kinh đến cùi chỏ, của Túc kinh tới đầu gối...Tiếp tục dẫn tới vai, tới đùi...Đưa vào đốc mạch...
                    Đào Kỳ thấy người nóng bừng lên, cơ thể căng như cái bong bóng. Khất đại phu hô:
                    – Cho chân khí lưu thông theo đốc mạch... Dồn chân khí lên đến huyệt đại trùy, đưa ra kinh đại trường, dẫn tới huyệt khúc trì... tiếp tục tới huyệt thương dương...
                    Đào Kỳ thấy ngón tay trỏ căng thẳng, rung động mạnh. Chàng chịu không nổi, phải bật ngón tay một cái. Một tiếng véo phát ra, xé gió cực mạnh. Đầu ngón tay của chàng vô tình hướng vào bình trà, cái bình trà kêu choang một tiếng, vỡ tan tành.
                    Đào Kỳ và Khất đại phu cùng kêu lên:
                    – A!
                    Rồi một già, một trẻ đều trợn mắt lên. Không ai hiểu tại sao cả. Khất đại phu hỏi:
                    – Này bạn trẻ, ngươi đã tập phương pháp này rồi à?
                    Đào Kỳ lắc đầu. Chàng tường thuật vụ được Lục Mạnh Tân giảng cho về học thuyết Âm-Dương ở kinh Dịch ra sao, rồi chàng dùng nó hợp nội công dương cương của Tản-viên, Cửu-chân, cho nên chàng chỉ tập trong sáu tháng, chỉ với một chưởng nhẹ đã đánh Hoàng Đức bị thương nặng. Nguyên lý đó, chàng tọi là Âm dương hỗ căn. Vì âm gốc ở dương, dương gốc ở âm. Hợp cả hai lại, có thể con người giống như một cái hồ chứa mọi thứ nước chảy vào. Có điều, khi muốn vận âm kình, dương kình thì rất chậm chạp. Trong lúc giao đấu, chỉ sử dụng hoặc âm kình, hoặc dương kình mà không sử dụng một tay dương, một tay âm.
                    Khất đại phu cùng ngồi xếp chân, nhắm mắt luyện công, vận khí, bất thình lình ông chĩa ngón tay cho hướng vào một cành thông khô, cách ông đến gần trượng mà bật một cái. Véo, kình lực rít lên chói tai, cành thông kêu rắc một tiếng, rồi gãy làm đôi, rơi xuống.
                    Ông nghĩ đến một điều rồi nói với Đào Kỳ:
                    – Tiểu hữu, chúng ta thử dùng chỉ lực đấu với nhau xem kết quả ra sao.
                    Một già, một trẻ ngồi vận khí, rồi họ cùng chĩa ngón trỏ hướng vào nhau mà bật. Véo, véo hai tiếng, cả hai đều cảm thấy thân hình rung động, cùng lùi lại.
                    Khất đại phu gật đầu:
                    – À, thì ra thế. Hôm ta đấu với ngươi ở Cổ-loa, thấy ngươi tuổi bất quá 20 là cùng, sao công lực đã đến dường ấy. Thì ra, ngươi thông minh, táo bạo, tự tập lấy, rồi đem lý thuyết âm dương của kinh Dịch ra áp dụng. Ngươi đã gặp qúa nhiều may mắn. Vì vậy, vừa rồi ta chỉ dạy cho ngươi chuyển tất cả chân khí các kinh dương về đốc mạch, đưa ra kinh tam tiêu, tấn công địch thủ... Nhưng chân khí ở ngươi mạnh quá, xuất ra ở huyệt thương dương đến độ như núi lở, băng tan. Ngươi với ta chế ra được một thứ chỉ pháp kỳ lạ này. Bây giờ ngươi thử lại một chỉ nữa xem sao.
                    Đào Kỳ chợt nghĩ ra điều gì đó:
                    – Tiền bối, bây giờ chúng ta cùng chuyển chân khí ra một lúc ba kinh dương rồi phát chưởng xem thế nào? Biết đâu chúng ta chẳng gặp may mắn?
                    Nói rồi, chàng vận thử. Nhưng chưởng không ra.
                    Đào Kỳ lại ngẫm nghĩ một lúc, rồi vận khí làm lần thứ nhì. Lạ lùng thay, khí vẫn không tụ được. Chàng ngồi xuống đất suy nghĩ, vận thử mấy lần nữa, khí vẫn không tụ lại. Chàng quay sang nhìn Khất đại phu, thấy ông cũng đang ngồi xuất thần, vận khí theo các kinh dương, xuất chưởng, nhưng chưởng cũng không ra.
                    Đào Kỳ cảm thấy mệt mỏi. Chàng mơ mơ màng màng suy nghĩ về cách vận khí. Chàng thấy lúc chuyển khí từ sáu kinh dương về đốc mạch, nhưng chân khí không chịu chạy về đốc mạch, mà lại tụ về trung đơn điền. Chân khí ở trong đơn điền phát ra ở các huyệt thận du, tỳ du, can du, tâm du và phế du rồi tụ vào đốc mạch. Chàng vận chân khí về huyệt đại trùy, chuyển ra thủ tâm kinh thì thấy chưởng rung động phát ra. Chàng hướng chưởng vào một thân cây thông lớn. Cây thông gẫy làm đôi, đổ xuống. Chàng giật mình tỉnh giấc, thì ra một giấc mị. Mị khác với mộng. Mộng là thần thức làm việc lúc ngủ. Còn mị là thần thức làm việc lúc mơ mơ, tỉnh tỉnh.
                    Khất đại phu hỏi:
                    – Tiểu hữu, ngươi tìm ra được rồi ư?
                    Đào Kỳ lắc đầu. Chàng thử vận khí lại, dẫn chân khí về trung đơn điền, rồi cho chân khí phát ra ở các du huyệt trên lưng, nhập vào đốc mạch, rồi phát chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục ngưu thần chưởng, hướng vào một cây thông lớn bằng bắp đùi. Rầm một tiếng, cây thông bị tiện từ gốc bằng phẳng như bị búa chặt.
                    Khất đại phu reo lên:
                    – Thành công rồi!
                    Đào Kỳ không tin rằng mình đã làm được điều đó. Chàng vận khí làm lại một lần nữa, cũng kết quả như lần đầu. Lúc đó, chàng mới đem lý thuyết ra nói với Khất đại phu.
                    Ông nghĩ một lúc rồi gật đầu:
                    – Đúng thế. Chưởng khác với chỉ. Chỉ thì chân khí ít cũng có thể đánh ra được. Còn chưởng, phải có chân khí toàn thân.
                    Ông vận chân khí làm như Đào Kỳ nói. Quả nhiên, chưởng phát ra mạnh kinh người.
                    Khất đại phu, Đào Kỳ, một già, một trẻ, cứ thế tiếp tục luyện trong hơn tháng thì có thể tòng tâm sử dụng chỉ ở huyệt thương dương, quan xung và thiếu trạch. Chưởng dương cương như ý muốn.
                    Lúc đầu, Khất đại phu định dạy khí công cho Đào Kỳ để quy liễm chân khí hỗn tạp của Cửu-chân, Tản-viên và Long-biên về nhâm mạch, đốc mạch rồi cho hai thứ Dương-kình, Aâm-kình tụ ở nhâm, đốc thông với nhau bằng huyệt ngân giao và trương cường, hầu trị bệnh cho chàng. Không ngờ kết quả lại đưa đến hai ngươì sáng chế ra một thứ chỉ pháp kỳ diệu và một thứ chưởng dũng mãnh như núi lở, như băng tan.
                    Ông dạy Đào Kỳ quy liễm chân khí về sáu kinh âm, chuyển vào nhâm mạch, phát ra các ngón tay thành âm chỉ, âm chưởng dễ dàng.
                    Trước kia, Đào Kỳ tập chưởng dương cương, âm nhu thực, nhưng muốn vận âm chưởng, dương chưởng một lúc thì không được. Nghĩa là chàng chỉ có thể phát âm chưởng rồi ngưng lại để phát dương chưởng. Bây giờ nhờ có học thuyết âm dương mà chàng rút ra từ kinh Dịch áp dụng, rồi lại được Khất đại phu giảng về kinh mạch, chàng vận dương kình, âm kình rất mau bằng lối quy tụ dương khí, âm khí về nhâm và đốc mạch.
                    Thế rồi, một già một trẻ, ngày ngày vào rừng luyện chỉ pháp và chưởng pháp bằng lối vận chân khí ra kinh mạch, chứ không vận theo lối cổ điển nữa.
                    Hơn tháng nữa, bệnh Đào Kỳ đã khỏi hẳn. Nhưng có một điều, chàng với Khất đại phu làm chưa được: Khi đã tụ dương khí về đốc mạch, âm khí về nhâm mạch, rồi cho nhâm, đốc thông với nhau, hai khí âm dương không hòa hợp được. Khất đại phu với Đào Kỳ là người ít tham vọng, thấy không thành công thì ngừng lại.
                    Đào Kỳ nói:
                    – Trước kia, tiểu bối muốn vận âm kình hay dương kình thì phải mất từ một tới hai tiếng đập của trái tim. Muốn đang từ dương chuyển sang âm phải từ 5 tới 10 tiếng đập của tim. Bây giờ đã tòng tâm sử dụng được. Đó là một điều kỳ diệu. Vận lực theo lối cổ điển, lực tụ không mạnh, lúc chiến đấu, nguyên khí mau hao tổn. Bây giờ, vận lực theo kinh lạc thì lực mạnh gấp bội, nguyên khí được bảo tồn. Chúng ta còn chế ra được chỉ pháp. Như vậy đủ rồi.
                    Khất đại phu nói:
                    – Còn hai vấn đề chúng ta cần phải đạt tới: Hòa hợp được âm khí, dương khí cho chạy luân lưu giữa nhâm mạch và đốc mạch. Thứ nhì là cho chân khí luân lưu khắp 12 đường kinh và kỳ kinh bát mạch. Ta già rồi, không biết cho tới lúc chết có tìm ra được không? Riêng tiểu hữu còn trẻ, ngươi cần chuyên tâm luyện tập. Biết đâu chẳng có ngày tìm ra?
                    Một hôm Khất đại phu gọi Đào Kỳ đến nói:
                    – Ngày mai lão phải đi xa một thời gian, vậy nhờ tiểu hữu ở nhà chiếu cố dùm hai đứa cháu nhỏ. Nhất thiết tiểu hữu không được rời nhà này đi đâu, cũng không được ngưng tập một ngày, vì bệnh tình tiểu hữu hiện chưa khỏi hẳn.
                    Đào Kỳ nhất nhất ghi nhớ.
                    Hàng ngày, chàng cùng Quỳnh và Quế dậy sớm tưới cây thuốc, sau đó chàng ra sông luyện võ. Trưa về ăn cơm, chiều lại ra sông luyện tiếp. Tối hôm đó, trăng lưỡi liềm lơ lững lưng trời, Quỳnh, Quế muốn Đào Kỳ đánh xe đưa chúng đi chơi. Từ hôm Đào Kỳ gặp hai cô bé, chàng cảm thấy như được hai cô em gái. Hai cô bé nói gì, chàng cũng chiều ngay. Chàng đánh xe, Quế chỉ đường. Chiếc xe đi dưới trăng, trời trong không một chút mây. Chàng chợt nhớ tới Thiều Hoa, Phương Dung không hiểu giờ này ra sao? Còn phủ Lĩnh Nam công hay đi chỗ khác?
                    Xe đi một quãng nữa thì Quỳnh chỉ vào một ngôi nhà nói:
                    – Đây là đền thờ Hùng-vương.
                    Chàng nhìn theo tay Quỳnh, thấy ngôi đền khá quen thuộc. Chàng suýt bật lên tiếng kêu, vì, đó là ngôi đền trước đây chàng thường từ trang Thái-hà trốn ra luyện võ. Vậy, từ nhà của Khất đại phu đến trang Thái-hà không xa là bao. Chàng nhẩm tính lại, chỉ còn 13 ngày nữa là đại hội Tây hồ rồi, không biết tới hôm đó chàng đã khỏi bệnh chưa? Có đi dự được không? Chàng hy vọng tại đại hội này, chàng sẽ gặp lại cha mẹ, cậu, chú, sư huynh, sư đệ cũng như những người thân thuộc khác.
                    Chàng đánh xe trở về, tự nhủ:
                    – Tối nay, chờ Quỳnh, Quế ngủ rồi, ta phải trở lại trang Thái-hà dò thám xem tình hình ra sao mới được.
                    Về tới nhà, chàng vào phòng ngủ, thay quần áo, đeo kiếm vào lưng, đợi khuya mới ra khỏi nhà, hướng trang trại Thái-hà đi tới.
                    Chàng ngẫm nghĩ:
                    – Ta rời Thái-hà trang đã gần ba năm, không biết trong trang đã có gì thay đổi? Ta hiện đã lớn, người trong trang không nhận được ta nữa. Nhưng ta cần dấu diếm tông tích thì hơn.
                    Chàng xé vạt áo, che mặt lại cẩn thận, rồi cứ lần theo con đường cũ vào trang không khó khăn gì lắm. Chàng lần mò đến phía đại sảnh, thấy đèn nến sáng chưng. Chàng men tới gần, lấy ngón tay chọc cửa sổ nhìn vào. Cảnh trí bên trong khiến chàng nổi gai ốc: Trong phòng không biết bao nhiêu người đều ngồi im lặng, không ai nói với ai một lời. Chàng kiểm điểm thấy đủ cả: Lê Đạo Sinh, Phong Châu song quái, Chu Bá, Đức Hiệp, Mai Huyền Sương, Lê Nghĩa Nam, Hoàng Đức Tiết, Đinh Công Hùng, Đinh Công Thắng, Đinh Công Minh, Đinh Hồng Thanh...
                    Một người quay lưng về phía chàng, đi đi lại lại, dường như đang thuyết trình thì phải. Chợt người đó lên tiếng:
                    – Đại hội Tây-hồ là một đại hội tối quan trọng, giúp cho cuộc trị an Giao-chỉ được yên ổn. Đại hội này quy tụ võ lâm thiên hạ của Lĩnh Nam, nhưng yếu tố chính là tập hợp võ lâm đất Giao-chỉ. Các chính phái chỉ có sáu. Tình hình như thế nào? Xin Phong Châu song quái cho biết rõ.
                    Vũ Hỷ đứng lên nói:
                    – Phái Quế-lâm hiện chia làm hai, một nửa tự cho rằng Quế-lâm đã thành đất Hán rồi, tự nhiên phải tuân phục Hán triều. Chưởng môn phái này là Triệu Anh Vũ, nguyên giòng dõi Triệu Đà, nhất tâm nghe lệnh của triều đình. Nhưng Anh Vũ chỉ có một mình và đám đệ tử. Phe chống đối do Lương Hồng Châu, bao gồm các cao thủ Nam Quế-lâm, cho rằng phần đất này trước thuộc nước Văn-lang, giòng Bách Việt, không muốn thần phục nhà Hán. Hồng Châu quy tụ dưới tay trên trăm cao thủ. Đó là việc đáng ngại. Nhưng, chúng tôi đã có cách an định.
                    Người thuyết trình lại lên tiếng, lần này Đào Kỳ nhận ra, đó là tiếng của Tô Định:
                    – Phái Cửu-chân thế nào, xin Vũ tiên sinh cho biết?
                    Vũ Hỷ lại nói:
                    – Từ khi Nhâm thái thú cho đánh hai trang Đào, Đinh đến giờ thì bảy trang còn lại chịu phép, không dám chống đối nữa. Riêng Đinh Đại, Đào Thế Kiệt cùng tộc thuộc chạy thoát trên năm chiến thuyền, không biết trôi dạt về đâu, tìm khắp nơi cũng chưa thấy. Chỉ có tam đệ tử của Kiệt hiện là phu nhân của Lĩnh Nam công.
                    Ngừng giây lát, Vũ Hỷ nói tiếp:
                    – Khoảng trăm tráng đinh, đệ tử do Trịnh Quang điều khiển đang sống tại Hoa-lư. Tuy vậy, tôi vẫn thấy có mối nguy là tự nhiên mấy tháng nay, bảy trang của Cửu-chân đã đổi hẳn thái độ, không tuân phục triều đình, thi nhau luyện tập võ nghệ, chiêu mộ tráng đinh, tích trữ lương thảo. Tôi có cảm tưởng như Đào Thế Kiệt, Đinh Đại đã ở chỗ nào đó cho người về liên lạc lại, mưu tạo phản.
                    Lê Đạo Sinh hỏi:
                    – Vũ Hỷ, ngươi có biết đứa con út của Đào Thế Kiệt không? Ta nghe thằng nhỏ này không biết cơ duyên nào học được cả võ công Long-biên, Tản-viên đều đến trình độ thượng thừa. Hiện nó xuất hiện đâu đây thì phải.
                    Vũ Hỷ ngơ ngác hỏi:
                    – Đào Kỳ bất quá là đứa bé 20 tuổi. Khi trận đánh Cửu-chân diễn ra, nó mới 13, võ công học được là bao? Làm sao đến trình độ thượng thừa được?
                    Lê Đạo Sinh lắc đầu:
                    – Không phải thế đâu. Nó mới xuất hiện cách đây hai năm tại Cổ-đại. Một mình thắng được bốn võ sĩ cao thủ bậc nhất của Tô thái thú, khiến thái thú phải bỏ Ngũ lệnh cho đất Cổ-đại, Cổ-lễ, Cổ-loa.
                    Tô Định gật đầu:
                    – Thằng nhỏ đó có đởm lược, có bản lãnh tuyệt vời, vung chưởng đánh ngã con trâu trước mắt ta. Võ công đó không phải tầm thường.
                    Hoàng Đức xen vào:
                    – Thằng bé đó hiện ở trong phủ Lĩnh Nam công, vì Lĩnh Nam công phu nhân là sư tỷ của nó. Phu nhân rất cưng chiều thằng nhỏ này, còn Quốc-công rất sủng ái phu nhân. Tôi nghĩ chúng ta không nên gây sự với nó, vì, gây với nó tức sẽ gây với phu nhân. Mà gây với phu nhân có khác gì gây với Quốc-công!
                    Lê Đạo Sinh quay lại nhìn Vũ Hỷ:
                    – Nó mới vừa cùng con gái Nguyễn Trát lên Mê-linh, giúp cho con gái Trần hầu đoạt được chức thống lĩnh 36 động Nam Mê-linh thành châu Lôi-sơn, tổ chức lại Lôi-sơn giống như Đào trang ngày trước. Thôi, bây giờ đến phái Long-biên, xin Lê tiên sinh cho biết tình hình.
                    Lê Nghĩa Nam đứng lên:
                    – Chúng tôi ba người, khi trở lại để đoạt chức chưởng môn Long-biên, bị con gái út Nguyễn Trát dùng kiếm pháp Long-biên đánh bại bọn tôi. Kiếm pháp của nó e rằng không kém gì sư phụ của tôi xưa kia nữa.
                    Mọi người đều oà lên một tiếng.
                    Lê Nghĩa Nam tiếp:
                    – Con gái Nguyễn Trát đi với thằng nhỏ Đào Kỳ hơn hai năm, bỗng trở về khóc lóc, cho biết Đào Kỳ bị trúng độc của Đinh Công Dũng khó thoát khỏi cái chết, lại bị một người ăn mày bắt đi rồi. Vì vậy, phái Long- biên chúng tôi nắm chắc trong tay.
                    Lê Đạo Sinh dơ tay làm hiệu như thể đã thành công rồi:
                    – Phái Tản-viên chúng tôi thì dễ rồi. Đặng Thi Sách dưới tôi hai vai, tôi chỉ việc khoanh tay nói mấy câu, chúng nó không dám chống lại đâu. Còn phái Sài-sơn thì tám vị Thái-bảo đều đóng cửa không màng chuyện đời. Vả lại, họ cũng không phải là những cao thủ đáng sợ. Phái Hoa-lư chuyên về cung nỏ, chúng ta không cần lý tới.
                    Tô Định hỏi:
                    – Kế sách đã định, tất cả cứ như vậy thi hành. Ai còn điều gì thắc mắc không?
                    Đinh Công Minh hướng về Tô Định, nói:
                    – Trong buổi hội đó, xin thái thú giúp bọn tôi đoạt lại chức thống lĩnh châu Lôi-sơn. Cha chúng tôi hao tổn không biết bao nhiêu tâm huyết mới tổ chức được đại hội thống nhất 36 động. Không ngờ con gái Nguyễn Trát xuất hiện, giết cha tôi, chiếm chức thống lĩnh. Nếu chúng tôi không đoạt lại được, cũng chẳng sao, nhưng lực lượng 36 động mới là mối lo cho thái thú.
                    Tô Định gật đầu:
                    – Được, ta hứa... Ta tóm tắt lại, các vị phải đoạt cho được chức Lĩnh Nam võ lâm chí tôn, rồi dẫn đại diện các chưởng môn sang yết kiến Kiến Vũ hoàng đế, hầu được ngài thụ phong chức tước và cho phép tập võ. Có như vậy, từ nay, ngoài các vị được thụ phong ra, kẻ nào tập võ, ta sẽ mang chặt đầu hết.
                    Ngừng giây lát, Tô Định nói tiếp:
                    – Trong đại hội này, ta sẽ thỉnh Lĩnh Nam công lên đài chủ toa. Nếu Lục trúc tiên sinh đoạt được chức Thái sơn Bắc đẩu Lĩnh Nam, võ lâm thiên hạ đồng tuân phục cử người sang Trung-nguyên cầu phong… thì thôi. Còn họ không chịu, phá phách đại hội, ta sẽ cho đội thiết kỵ xuất trận, bắt hết, đem về chặt đầu là yên chuyện.
                    Đến đây Đào Kỳ mới hiểu lý do Tô Định đặt ra Ngũ-lệnh. Thì ra Ngũ-lệnh là cái vòng siết cổ tất cả võ lâm thiên hạ không phục tùng nhà Hán. Làm như vậy, chỉ những người phục tùng nhà Hán mới được dạy võ. Những người phục tùng đều là người của thái thú, thế là dân Việt không bao giờ phục quốc được nữa. Thâm độc thực là thâm độc. Chàng tự nhủ, bằng mọi giá, thế nào cũng phải phá cho nát bét đại hội mới được. Chàng chắc giờ này Thi Sách, Nhị Trưng với các chưởng môn nhân đã họp để tìm kế để đối phó rồi đây. Vì không tiếp xúc với họ hơn năm rồi, nên chàng không biết đấy thôi.
                    Bỗng có tiếng quát lớn:
                    – Ai, đứng lại.
                    Đào Kỳ giật mình, vì cảm thấy có người tập kích phía sau mình. Chàng không kịp quay lại, chỉ thuận tay vung chưởng đỡ quyền của người kia. Bạch một cái, người kia bị dội lại. Chàng vội vàng nhảy qua bồn hoa để chạy, đã thấy bốn phía, bốn cao thủ vây kín: Lê Đạo Sinh, Chu Bá, Phong Châu song quái. Từ ngày ra đời đến giờ, Đào Kỳ là đứa trẻ gan lì, trên không sợ trời, dưới không sợ đất, ai chàng cũng dám so tay hết. Nhưng hoàn cảnh hôm nay, cao thủ ở đây như rừng, chàng liệu có địch lại không? Chàng thấy hơi sợ nhưng vẫn làm gan, giả giọng khàn khàn nói:
                    – Ta là con vua Hùng, cháu vua Thục. Ta có chân ta đi, có mũi ta thở.
                    Lê Đạo Sinh là vai chủ nhân, y nói với Tô Định:
                    – Xin thái thú để nó cho tôi.
                    Y nhìn kỹ Đào Kỳ rồi hỏi:
                    – Thiếu hiệp là ai, giá lâm Thái-hà trang mà không cho lão biết để tiếp rước, thực có lỗi.
                    Đào Kỳ giả giọng khàn khàn, nói:
                    – Tôi thiếu tiền nên ghé xin mấy đồng tiêu. Quý vị là cao nhân, không cho thì thôi, sao lại vây tôi như thế này?
                    Đạo Sinh không muốn mang tiếng lớn ăn hiếp nhỏ, nên ra hiệu cho Phong Châu song quái:
                    – Hai người này là đệ tử của ta, họ muốn thiếu hiệp bỏ khăn che mặt ra.
                    Phương Anh vung tay phải đánh một quyền vào mặt Đào Kỳ, tay trái khoa thành trảo chụp lấy khăn che mặt chàng. Đào Kỳ đã học kỹ võ công Văn-lang, nên chàng biết rõ cái chụp đó còn một biến chiêu. Chàng lắc đầu tránh khỏi, tay trái, vận nhu chưởng đặt vào tay thị. Hai tay chạm nhau, bạch một cái, Phương Anh cảm thấy cánh tay tê dại. Thị quát lớn:
                    – Thì ra ngươi là một cao thủ.
                    Nói rồi, thị vận đủ mười thành công lực phát chưởng Ngưu tẩu như phi trong Phục ngưu thần chưởng. Chưởng này vừa mau, vừa biến thẳng ra vòng cầu, rồi chụp lên đầu đối phương.
                    Đào Kỳ cười thầm:
                    – Tưởng mi sử dụng gì chứ chiêu này ngươi thua ta xa.
                    Rồi chàng cũng phát chiêu Ngưu tẩu như phi, chiêu phát sau mà chưởng lại tới trước. Bùng một cái, Phương Anh lùi lại đến ba bước mới đứng vững. Còn Đào Kỳ vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Vũ Hỷ chạy lại hỏi vợ:
                    – Có sao không?
                    Phương Anh đáp:
                    – Không sao. Để đấu tiếp chiêu nữa đã.
                    Nói rồi, thị vận công, phóng chiêu thứ nhì. Chiêu này rất cương mãnh, gọi là Thanh ngưu quy gia. Chưởng phong ào ào tuôn ra. Đào Kỳ đợi chưởng mụ chụp lên đầu mình rồi cũng ra chiêu Thanh ngưu quy gia nhưng chàng biến thành nhu. Hai chưởng đụng nhau, đến bạch một cái. Người Phương Anh rung lên liên tiếp, thị phải lùi lại hai bước mới đứng vững. Thị hít một hơi, đánh thẳng vào mặt Đào Kỳ bằng chiêu Aùc ngưu nan độ. Đào Kỳ cũng trả lại bằng chiêu Aùc ngưu nan độ. Hai chưởng dính liền nhau. Cuộc đấu nội lực bắt đầu.
                    Chu Bá đứng ngoài suy nghĩ:
                    – Nguy tai, người trẻ này không kinh nghiệm chút nào, y còn trẻ công lực có là bao mà dám đấu nội lực với Phương Anh, đã luyện hàng 20 năm nội công, y sẽ nguy mất.
                    Nhưng khi nhìn kỹ lại thì thấy người Phương Anh rung lên. Vũ Hỷ đứng ngoài thấy đối phương ra cùng chiêu, nhưng thuộc loại âm nhu rất quái dị, y không khỏi ngạc nhiên, tự nghĩ: Chiêu này sư phụ ta nói chỉ có thuần dương cương thôi, còn cách vận âm nhu đã thất truyền từ lâu, sao thằng nhỏ này lại biết?
                    Thấy vợ lâm nguy đến nơi, y bất cần danh phận, vội ra chiêu Ác ngưu nan độ, đánh vào hông Đào Kỳ. Đào Kỳ vội vận dương chưởng, cũng ra chiêu Ác ngưu nan độ, đỡ chưởng của Vũ Hy. Bùng một tiếng, hai chưởng dính vào nhau.
                    Đào Kỳ bị hai bên hai luồng nội lực của song quái đẩy vào người, chàng thấy người rung lên, tự nghĩ:
                    – Nguy rồi. Ta làm sao địch lại hai người?
                    Những cao thủ chung quanh thấy Đào Kỳ có dáng dấp của một thiếu niên mà võ công đã luyện đến trình độ chỉ một hai chiêu đã làm cho Phương Anh lạc bại, thì sinh lòng cảm phục. Họ thấy song quái cùng đánh chàng, không khỏi bực mình. Có người kêu lên:
                    – Song quái! Thu chưởng về mau.
                    – Hai người đánh một à? Hai vị là cao nhân sao lại có hành vi như vậy?
                    Nhưng song quái muốn thu chưởng về cũng không được nữa. Đào Kỳ tuy gặp kỳ duyên nội công âm nhu của Long -biên, dương cương của Tản-viên, nhưng thời gian luyện tập chưa được là bao. Trong khi đó, vợ chồng Phong Châu song quái đã có hàng ba chục năm luyện tập, lại khét tiếng võ lâm về nội công.
                    Đấu thêm được một lúc nữa, Đào Kỳ đã vận hết công lực ra để chống trả. Trên đầu chàng bốc lên một làm khói trắng lờ mờ. Trong khi song quái cũng thấy mồ hôi nhỏ giọt.
                    Đào Kỳ phân tâm một chút, chân khí của Vũ Hỷ xuyên qua Thủ tam dương kinh của chàng, xuyên lên huyệt đại trùy, tràn vào đốc mạch. Đầu óc chàng choáng váng, khiến tay chống với Vũ Phương Anh yếu một chút. Chân khí của Vũ Phương Anh theo Thủ tam âm kinh vào ngực, làm chàng tức ngực, muốn nôn ọe. Chân khí dồn vào nhâm mạch, chạy đến huyệt ngân giao, trương cường thì chạm với chân khí của Vũ Hỷ. Hai người là anh em ruột, lại là sư huynh muội, công lực ngang nhau, chân khí lọt vào hai kinh âm dương khác nhau, nên từ từ hợp làm một. Âm dương kết lại thành nội tức mới, chạy khắp thân thể Đào Kỳ.
                    Đào Kỳ đang lâm nguy, tự nhiên thấy người khoan khoái vô cùng. Nội lực của song quái thi nhau rót vào người chàng.
                    Về song quái, khi hai người dồn nội lực đánh Đào Kỳ, thấy chàng choáng váng thì mừng lắm. Họ ra sức phát huy nội lực. Được một lát, cả hai cảm thấy như nội lực ào ào tuôn ra, không thu về được nữa. Họ kinh hãi nhưng không thể nào ngăn chặn được. Họ muốn mở miệng nói, giật tay về, nhưng họ càng dùng sức, nội lực càng bị mất.
                    Chỉ một lúc sau, chân khí của họ đã dồn hết sang người Đào Kỳ. Người song quái run lẩy bẩy, rồi ngã ngồi xuống đất.
                    Đào Kỳ cũng không hiểu rõ nguyên lý ra sao.
                    Tất cả những người có mặt tại đương trường không ai hiểu thiếu niên này dùng thứ võ công kỳ quái gì để đánh ngã được hai quái. Bởi ngay chính Đào Kỳ cũng không hiểu nổi.
                    Đào Kỳ không hiểu được là phải. Thuở nhỏ, chàng tập luyện nội công phái Cửu-chân do cha dạy cho, vốn thuộc dương cương. Nội công này xuất phát từ An Dương vương. Sau đó, chàng lại tập nội công âm nhu do Nguyễn Phan của phái Long-biên dạy cho. Phái Long-biên gốc từ Vạn-tín hầu Lý Thân thuần nhu. Vô tình trong người chàng hai thứ âm, dương hợp được với nhau, khiến nội lực chàng tăng lên rất mau. Trong khi chàng thấy nội công Cửu-chân với Long-biên có chỗ không hòa hợp được với nhau, chàng lại tìm được nội công trong cây gậy đồng. Đó là nội công dương cương của Sơn Tinh, hơi giống Cửu-chân, và nội công âm nhu của Vạn-tín hầu. Mà hai thứ nội công này đã được Vạn-tín hầu hòa hợp cho bớt mâu thuẫn nhau. Chàng tập được cả hai. Nhưng lúc đó chàng mới chỉ có thể phát ra một lúc hoặc âm nhu hoặc dương cương mà thôi. Sau vô tình, nhờ liều lĩnh, chàng hợp được, có thể phát một tay âm, một tay dương, nhưng chàng vẫn chưa thể cùng một bên đang nhu chuyển sang cương được. Nhờ thảo luận y lý với Khuất đại phu, chàng đã biết cách chuyển nội lực. Chàng để cho nội lực dương cương vào đốc mạch và nội lực âm nhu vào nhâm mạch. Hai mạch thông với nhau bằng huyệt hội âm và ngân giao. Thế là hai chân khí chạy vòng quanh người chàng như một vòng tròn. Đó là vòng Tiểu chu thiên. Khi chàng muốn phát nhu thì chuyển từ đơn điền ra các kinh âm, còn muốn phát cương thì chuyển từ đơn điền ra huyệt đại chùy rồi đưa vào kinh dương. Vừa rồi, trong lúc nguy nan, chàng đưa chân khí của song quái vào đốc mạch hết, rồi từ đốc chuyển vào Nhâm mạch, chàng chuyển ra Thủ tam dương đánh Phương Anh, và từ đại chùy chuyển ra Thủ tam dương đánh Vũ Hỷ. Chàng không bị mất một tí công lực nào, trong khi hai quái lại bị kiệt quệ. Đó là điều ngoài sự tưởng tượng của Đào Kỳ và các cao thủ có mặt.
                    Lê Đạo Sinh, Hoàng Đức, Đức Hiệp đều nhận ra thiếu niên này là người hơn năm trước đã đấu với họ tại trang Thái-hà, nhưng họ đã không tìm ra lai lịch. Hôm nay y trở lại, võ công đã cao hơn trước gấp bội.
                    Lê Đạo Sinh tiến lên nói:
                    – Bạn nhỏ, thì ra là ngươi. Trước đây ngươi đã đánh Hoàng Đức, Đức Hiệp bị trọng thương, nay võ công ngươi tới trình độ này, có khi hơn cả ta rồi đó. Nếu ngươi đỡ được ta ba chưởng, ta sẽ để ngươi tự do rời khỏi nơi đây. Còn nếu ngươi thua, ta chỉ yêu cầu ngươi lột cái khăn ra cho mọi người biết mặt mà thôi.
                    Đào Kỳ biết Lê Đạo Sinh là cao thủ đệ nhất đương thời, nhưng vốn tính can đảm và bướng bỉnh, chàng vẫn không sợ, đứng nhìn đối phương gật đầu.
                    Lê Đạo Sinh phóng một chưởng rất hời hợt. Đào Kỳ nhận ngay ra đó là chiêu Thanh ngưu ư hà, chàng bèn vận khí từ các nơi về đơn điền, rồi chuyển qua các huyệt thận du, tâm du, tỳ du, can du và phế du, chuyển vào đốc mạch. Từ đốc mạch, đến Thủ tâm dương kinh, phát chiêu Loa thành nguyệt hạ. Chưởng phong phát ra ào ào, áp lực làm mọi người chung quanh muốn nghẹt thở. Hai chưởng chạm nhau đến bùng một tiếng. Lê Đạo Sinh bật lên tiếng kêu ái chà. Y lùi lại hai bước, chân tay như tê liệt. Còn Đào Kỳ chỉ thấy cánh tay hơi rung động mà thôi.
                    Lê Đạo Sinh thấy căn bản chưởng của Đào Kỳ là chưởng Cửu-chân, nhưng kình lực phát ra nhỏ, sắc như dao như búa, cương mãnh chưa từng có. Y kinh hãi, nghĩ:
                    – Đây là võ công gì? Tại sao ta chưa thấy qua? Dường như thằng nhỏ này luyện tập chưa thành thuộc, chứ nếu không, vừa rồi nó bồi tiếp một chưởng, ta làm sao chống nổi?
                    Y thở ra một hơi, rồi nói:
                    – Ta phát chiêu thứ nhì đây.
                    Y vung tay ra chiêu. Đào Kỳ nhận ra chiêu thức của Phục ngưu thần chưởng, chàng cũng trả lại một chưởng Phục Ngưu, nhưng vận âm kình. Bạch một cái, cánh tay chàng như muốn tê liệt, còn Lê Đạo Sinh, mặt đỏ gay. Y ngẫm nghĩ:
                    – Thiếu niên này là ai lại biết sử dụng Phục Ngưu thần chưởng cả âm lẫn dương? Ngay chính sư phụ ta cũng không biết nữa.
                    Y nói:
                    – Này thiếu hiệp, đỡ chưởng thứ ba đi.
                    Lần này y không dùng Phục ngưu chưởng nữa, mà đánh một chưởng của phái Long-biên. Đào Kỳ không biết chưởng đó, chàng thuận tay phóng một chưởng, đó là chưởng của phái Cửu-chân Hải triều lãng lãng. Chàng phóng lớp thứ nhất, Lê Đạo Sinh đỡ được. Chàng lùi lại một bước phóng lớp thứ hai, y đỡ mà thấy rung động cả tay. Chàng lùi lại một bước nữa, phóng lớp thứ ba. Đạo Sinh phải dùng cả hai tay để đỡ. Chàng phóng liền lớp thứ tư, thứ năm. Đạo Sinh vận đủ mười thành công lực đỡ vào giữa chưởng. Đào Kỳ cảm thấy mắt hoa, đầu váng, chàng té ngồi xuống đến ạch một cái.
                    Trong lúc nguy nan, chàng vận khí về đốc mạch rồi phát ra ở Thủ dương minh đại trường kinh. Ngón tay trỏ bật một cái. Véo một tiếng, chỉ lực của chàng đã điểm trúng ngực Lê Đạo Sinh. Lợi dụng lúc y chưa phục hồi công lực, chàng hú lên một tiếng dài, rồi phóng vào đêm tối.
                    Đào Kỳ ra khỏi trang Thái-hà, nhắm hướng Nam chạy thẳng một hơi về đến nhà. Vừa mở cửa vào nhà, chàng thấy người lảo đảo, suýt ngã, thì may, Khất đại phu đã đứng đó từ lúc nào, đỡ chàng nằm xuống. Ông bắt mạch chàng, rồi lấy hai viên thuốc nhét vào miệng chàng. Chàng nằm điều khí một lúc thì thấy khỏe như thường.
                    Khất đại phu thở dài:
                    – Tiểu hữu, ngươi vừa mới đấu chưởng với người của phái Tản-viên?
                    Đào Kỳ gật đầu:
                    – Đúng rồi. Tiểu bối đấu với ba người của phái Tản-viên.
                    Khất đại phu nhíu mày:
                    – Ngươi đấu với hai đại cao thủ của phái Tản-viên, dường như là Phong Châu song quái, họ cùng đánh ngươi một lúc, không hiểu ngươi làm cách nào thắng được họ. Sau đó, ngươi đấu hai chưởng với đệ nhất cao thủ phái Tản-viên, chưởng lực cực mạnh, có lẽ chỉ Lê Đạo Sinh mới có công lực này. Cuối cùng, ngươi dùng chỉ pháp đánh người, rồi chạy thoát về đây.
                    Đào Kỳ phục vô cùng. Chàng thuật lại chi tiết mọi chuyện cho Khất đại phu nghe. Chàng nêu thắc mắc về những điều chàng áp dụng. Khất đại phu suy nghĩ một lúc, rồi nói:
                    – Tiểu hữu, vừa rồi Phong Châu song quái đấu nội lực với ngươi. Vũ Hỷ là nam, thuộc dương, đánh vào Thủ tam dương. Vũ Phương Anh là nữ, thuộc âm, đánh vào Thủ tam âm. Hai đứa dùng một môn hộ, cùng một nội công, đứa nữ thì dồn vào kinh âm, đứa nam thì dồn vào kinh dương, vô tình chung làm thông nhâm, đốc mạch cho tiểu hữu. Âm dương của chúng hợp với nhau trong người tiểu hữu. Tiểu hữu hút hết công lực của hai đứa.
                    Ngưng một lát, ông tiếp:
                    – Đáng lẽ với công lực của tiểu hữu, cộng thêm công lực của song quái sẽ cao hơn Lê Đạo Sinh nhiều. Nhưng, tiểu hữu vừa thu được nội tức của song quái, chưa kịp vận chuyển cho lưu thông hợp với nội tức của mình, nên không đấu lại Lê Đạo Sinh.
                    Ông cười:
                    – Tiểu hữu, ngươi vừa sáng chế ra một thứ luyện công cực kỳ lợi hại. Như vậy, ngươi tiếp tục luyện tập, có thể luân phiên biến đổi bên âm, bên dương. Một tay có thể biến từ âm sang dương và ngược lại. Chúng ta hãy tưởng tượng: Tay phải ngươi dùng Cửu-chân chưởng thuộc dương cương, tay trái ngươi dùng Tản-viên chưởng cũng thuộc dương cương. Bất thình lình tay phải ngươi lại xuất âm nhu chưởng của Long-biên, tay trái ngươi xuất dương cương chưởng của Tản-biên, như vậy một lúc ngươi biến thành bốn người. Ngươi sẽ thành anh hùng vô địch trên thế gian này.
                    Đào Kỳ mừng lắm. Suốt ngày hôm đó, chàng cùng Khất đại phu luận bàn cách vận khí, chuyển từ nhâm sang đốc mạch, và từ đốc sang nhâm mạch. Chàng cứ vận như thế suốt ngày, dù ngay cả trong giấc mơ. Sáng hôm sau, chàng lại xuống sông Hồng-hà luyện nội lực. Chàng áp dụng lối vận công luân lưu tay phải, tay trái, âm dương ở dưới nước.
                    Cứ thế, mười ngày sau, chàng đã làm một cách thông thạo. Khất đại phu nói:
                    – Bây giờ, tiểu hửu đánh đến mười tên Lê Đạo Sinh cũng chết, chứ đừng nói một mình Lê Đạo Sinh.
                    Đào Kỳ mừng quá, nhảy lên cây ca hát vui mừng. Đêm đó, dưới ánh trăng, chàng suy nghĩ:
                    – Khất đại phu là ai? Chắc chắn ông là người của phái Tản-viên rồi. Nhưng ông lại không biết các chưởng âm nhu. Chỉ có điều chắc chắn: Ông là người tốt. Ta không cần thắc mắc chi nữa.
                    Sáng hôm sau là ngày rằm tháng tám. Đào Kỳ giật mình thức giấc, mặt trời đã lên cao. Chàng chạy đi tìm Khất đại phu với Quế, Quỳnh thì không thấy đâu cả. Chàng ra chuồng ngựa, xe với ngựa đều không có ở đó. Chàng nghĩ:
                    – Chắc ông cháu nhà họ đi chợ rồi đây.
                    Chàng ăn cơm trưa. Vẫn không thấy họ trở về. Chàng đành ra chợ thuê một chiếc xe ngựa, bảo đưa chàng lên Long-biên. Đến chiều thì tới nơi. Chàng biết hôm nay là đại hội Tây-hồ, võ lâm từ các nơi sẽ kéo đến đông đủ. Chàng đi mua một bộ quần áo cũ cùng với hồ, mực để hóa trang thành một thanh niên ăn mày. Hóa trang xong, Đào Kỳ kiếm tấm gương soi, chàng ngạc nhiên đến sững sờ. Vì, chính chàng cũng không nhận ra mình nữa.
                    Yên tâm, chàng kiếm một tửu lầu đánh chén một bữa rồi đến hồ Tây dự đại hội.
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #25
                      Hồi 24 - Đại hội hồ Tây

                      Đào Kỳ thảnh thơi ngồi ăn trên tửu lầu, chàng tự xếp đặt:
                      – Đại hội này, phe tà do Lê Đạo Sinh chủ trì, có Tô Định đứng sau. Họ khéo tập họp những người bất mãn, những loại người nhiều tham vọng hành sự. Ta không hiểu sao Lê Đạo Sinh đã là Thái-sơn Bắc-đẩu hiện thời, vậy y còn tham vọng gì nữa đây? Quan chức đã tới chức Đô-úy rồi, vậy chủ ý của y là gì? Khổ cho mình một nỗi, trong đại hội còn có Nghiêm đại ca. Không biết Nghiêm đại ca đóng vai gì trong đại hội? Về công danh, địa vị, đại ca đã là chúa tể vùng Lĩnh Nam, vả lại, đại ca đâu phải là người ham công danh! Còn Hoàng sư tỷ, nhất định người sẽ đi. Người nhớ nhung bố ta lắm, thế nào người cũng đi tìm bố ta. Từ hôm thất lạc ta, chắc người tưởng ta chết rồi? Người sẽ liên lạc trong đại hội để thăm tin tức ta. Còn Phương Dung? Chắc nàng trở về với cha. Đại hội này, phái Long-biên sẽ kéo đi đông đủ. Ta hy vọng nhất ở phái Tản-viên. Đặng Thi Sách với Nhị Trưng là những anh hùng thời đại, hào sảng, mưu cơ viễn lự, được anh hùng bốn phương quy phục, chắc sẽ về dự, chắc họ có kế hoạch để đối phó với Lê Đạo Sinh. Ta cải trang thế này sẽ không ai nhận ra nổi, còn tiếng nói ta cũng phải đổi đi mới được.
                      Nhìn về phía quầy hàng hoa quả, thấy có đủ mọi thứ, họ còn để một ít quả mây cho đẹp nữa. Chàng nhớ hồi bé, có lần ăn cỏ mây, chàng đã bị khan tiếng. Bị bố mắng, chàng đã khóc, rồi được Thiều Hoa bế ra sân an ủi. Chàng chợt nghĩ:
                      – Ừ, tại sao ta không ăn mấy quả cho khan tiếng?
                      Chàng gọi người hầu bàn, xin một đĩa hoa quả, với ít chùm mây. Xưa nay, quả mây để trang hoàng cho đẹp, chứ có ai ăn đâu? Lần đầu tiên, người hầu bàn thấy có khách đòi ăn, y ngẩn người ra một lúc, rồi cũng đem cho Đào Kỳ. Đào Kỳ bóc ăn liền. Chàng ăn chầm chậm cho nước chát của mây ngấm vào cổ, rồi chàng lên tiếng nói một mình. Quả nhiên, chính chàng cũng không nhận ra tiếng nói của mình nữa.
                      Chàng liếc sang bàn bên cạnh, thấy một đám gần mười người ngồi, người nào cũng đeo kiếm bên mình. Nhìn kỹ cả bàn, chàng thấy người cầm đầu là một thiếu phụ dáng điệu khoan hòa, tuổi tuy lớn, nhưng coi còn đẹp lắm. Bên cạnh có bốn nam, bốn nữ đều còn trẻ. Người nào cử chỉ cũng nghiêm trang, uy vũ, rõ ra vẻ một danh môn chính phái. Chàng đoán vị nữ lưu kia là sư phụ, tám người còn lại là đệ tử. Người con gái quay lưng lại phía chàng, chàng thấy có dáng quen quen, nhưng chưa biết là ai. Chàng cố moi đầu óc cũng không tìm ra. Chàng nghĩ:
                      – Mình làm bộ ăn mày đi về phía trước nhìn mặt người con gái kia xem là ai mới được.
                      Nghĩ là làm, chàng đứng lên đi vòng qua góc lầu bên kia và sau đó, quặt trở lại. Chàng suýt bật lên tiếng kêu, vì người con gái đó chính là Đông-triều nữ hiệp Lê Chân, người chàng đã gặp ở Đăng-châu. Tính trẻ con tinh nghịch nổi dậy, chàng nghĩ:
                      – Mình giả ăn mày thế này không biết có ai nhận ra không? Chi bằng mình giả bộ xin ăn xem Lê Chân có nhận ra mình không? Nếu nữ lang kia là sư phụ của nàng, thì chắc là Nam-hải nữ hiệp lừng danh thiên hạ đây.
                      Nghĩ rồi, chàng tiến đến bàn Lê Chân, đưa tay ra, cất tiếng ca:
                      Con cá nó sống vì nước,
                      Con người sống vì đồng tiền bát cơm.
                      Xin ông đi qua, xin bà đi lại,
                      Làm ơn bố thí, phúc đức đầy nhà...
                      Người con gái ngồi bên Lê Chân liếc mắt nhìn Đào Kỳ, rồi nói:
                      – Sư phụ, thiếu niên này đói quá rồi đây, con cho y ăn có được không?
                      Nam-hải nữ hiệp nói:
                      – Không được.
                      Cô nữ đệ tử hỏi:
                      – Hắn đói quá, mình cho hắn ăn mà!
                      Nam Hải nữ hiệp nói:
                      – Con nhớ, võ công ta không thể nào bằng các cao thủ Tản-viên, không thể nào bằng Long-biên nhị hiệp, Cửu-chân song kiệt. Nhưng về hiệp nghĩa, chúng ta đứng đầu. Con ngồi ăn, lại bưng bát canh thừa cho thiếu niên này, đâu còn nghĩa chữ hiệp nữa? Không mời người ăn thì đâu còn chữ nghĩa? Con hãy đứng lên mời thiếu niên này ăn như bạn vậy. Xuân Nương, đứng dậy mời khách đi.
                      Tám người đệ tử đều gật gù, ghi nhớ lời dạy của sư phụ. Xuân Nương đứng dậy, kéo thêm ghế, rồi nói với Đào Kỳ:
                      – Này chú em, sư phụ ta cùng sư huynh, sư đệ mời chú em cùng ngồi ăn cho vui. Chú muốn ăn món gì, cứ kêu.
                      Đào Kỳ không ngần ngại, ngồi xuống, nói:
                      – Đa tạ bà với các vị đại hiệp. Tôi thèm ăn món biển, mà ngặt không biết kêu. Xin nữ hiệp gọi dùm.
                      Lê Chân nói:
                      – Để tôi kêu dùm cậu nghe.
                      Rồi nàng gọi một món chả mực, một món ám cá biển và món cá chim kho. Đào Kỳ nhớ lại đêm ở Đăng-châu, chàng được Lê Chân cho ăn mấy món biển, lại còn giảng giải cho nghe, khiến chàng không bao giờ quên. Chàng hỏi Lê Chân:
                      – Nữ hiệp, những món nữ hiệp gọi, tôi chưa từng nghe bao giờ. Xin nữ hiệp giảng cho tôi được không?
                      Lê Chân vốn người hào hiệp, thấy cậu ăn mày nói năng lễ độ, nàng cũng thấy vui vui, liền giảng:
                      – Phàm ăn cơm muốn ngon, phải có món canh, món xào và món kho. Món kho vốn khô, thuộc về dương. Nhưng ăn món kho, khô quá khó nuốt, phải thêm món canh. Món canh thuộc về âm so với món kho. Tuy vậy, vẫn thiếu mùi thơm nồng, phải thêm món xào, nửa âm nửa dương. Chả mực coi như một món xào vậy. Cá biển nấu ám, nếu không biết làm sẽ bị tanh, ăn đâu còn ngon nữa? Cá nấu ám, phải chọn cá vẩy trắng ăn mới ngon. Đánh vảy cho sạch, dùng nước lạnh rửa sạch máu, nhớt đi, rồi để khô. Nếu rửa với nước nóng thì tanh lắm. Chờ cá khô nước, cho vào rán sơ, rồi mới nấu.
                      Xuân Nương hỏi:
                      – Tại sao phải rán sơ trước?
                      – Phải rán sơ trước để thớ thịt của cá săn lại. Cá đã rán sơ, khi có hơi lửa vào, nó mới nở các thớ cá ra, nước ngọt của cá mới tiết ra ngoài được, và mắm muối dễ ngấm vào cá. Có vậy, khi ăn mới thấy đậm đà. Sau khi chiên sơ, cho vào nồi, nếu là nồi đất sẽ thơm ngon hơn nồi đồng, vì nồi đồng gặp me chua dễ bị tanh. Cho vào cá, một thìa mắm tôm hoặc bốn thìa nước mắm. Me phải lọc cho kỹ, gọi là đồ. Không có me, có thể thay bằng bứa, sấu như bứa, sấu không ngon bằng me. Bây giờ cho vào nồi nấu. Đun sôi rồi để nhỏ lửa. Đun như vậy khoảng nửa giờ, chớ có quậy, vì nếu quậy, cá sẽ bị nát. Đợi cá nhừ, lúc sắp bắt ra mới thái thì là, xương xông trần qua. Cứ một con cá bằng bàn tay thì một vun tay thì là, xương xông. Sau đó múc ra ăn thực nóng mới ngon. Ăn nguội sẽ mất mùi thơm.
                      Đến đây, người hầu bàn bưng cá ám lên. Lê Chân lấy muỗng múc ra bát cho sư phụ, rồi tới Đào Kỳ và các sư huynh, sư muội, mỗi người một muỗng để nếm thử. Đào Kỳ kính phục trong lòng:
                      – Nàng quả không thẹn với cái tên Đông-triều nữ hiệp. Nàng múc cho sư phụ trước, rồi tới ta là khách, một tên ăn mày, sau đó mới tới các sư huynh, sư muội, cuối cùng mới tới nàng. Ta lớn rồi, phải học cung cách này mới được.
                      Cả bàn cùng ăn cơm với cá ám. Một lát sau, món cá kho đưa lên.
                      Xuân Nương hỏi:
                      – Sư tỷ, còn cá chim kho thì làm thế nào? Có chiên sơ như trước không?
                      – Không. Cá chim mới đánh lên, rửa sạch, kẹp vào hai thanh tre thực tươi mà nướng. Nướng tái đi rồi mới kho. Phải tre tươi mới được. Khi nướng, nước chát của tre chảy ra, thấm trên cá, nên khi ăn có mùi vị ngọt ngọt, thơm thơm kỳ lạ. Cá cắt ra làm hai, cho vào nồi đất, đổ kẹo đắng, muối, hồ tiêu vào kho. Kho cho đến hết nước, thành keo hãy ăn.
                      Mọi người nhìn hai niêu cá trên bàn, quả đúng, còn đang sủi bọt, keo dính vào cá thơm lừng.
                      Đào Kỳ hỏi:
                      – Nữ hiệp, còn chả mực thì làm thế nào?
                      – Mực rửa sạch, lấy mai vứt đi, để cho khô nước, rồi mới giã nhỏ ra. Sau khi đã giã nhỏ sẽ trộn với trứng. Cứ nửa mực, nửa trứng. Chả mực muốn thơm phải có rau thì là và lá tỏi tươi. Thì là, lá tỏi thái thực nhỏ, trộn lẫn với trứng, mực, cho thêm vài thìa nước mắm, rồi mới rán lên. Khi rán, nhớ để nhỏ lửa, đợi lúc chả hơi vàng mới lấy ra. Lúc ăn, mùi trứng, mùi mực lẫn với mùi tỏi, mùi thì là, vừa thơm ngậy, vừa đậm đà.
                      Đào Kỳ được ăn những món lạ, được giảng giải cách nấu nướng, nên chàng ăn rất ngon miệng.
                      Nam Hải nữ hiệp hỏi:
                      – Cháu trai, năm nay cháu bao nhiêu tuổi? Tại sao phải đi xin ăn?
                      Chàng thấy bà là người nồng nàn, hiệp nghĩa, chàng không muốn nói dối bà, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, chưa cho phép chàng nói thực. Chàng nhớ lời Trưng Trắc nói với Đặng Thi Sách: "Vì đại cuộc, mạng sống còn không cần, nói gì tới những việc khác". Chàng nói:
                      – Thưa bà, cháu là con một gia đình danh gia, nhưng quân Hán đến đánh phá trang ấp, cha mẹ, anh chị cháu hiện nay sống chết, lưu lạc phương nào, cháu cũng không biết. Năm nay cháu 20 tuổi.
                      Xuân Nương nói:
                      – Thì ra em mồ côi từ nhỏ. Tội quá nhỉ. Em có muốn về Đông-triều ở với chị không? Ở đó có biển, ngoài biển còn có nhiều động đá đẹp lắm.
                      Đào Kỳ giả đò muốn đi ngay:
                      – Thế bao giờ đi?
                      Lê Chân nhìn Đào Kỳ với vẻ tội nghiệp:
                      – Tối nay, chị phải ra Tây-hồ dự hội. Sau đó, độ ba hay bốn ngày mới về lại Đông-triều.
                      Đào Kỳ làm bộ ngây thơ:
                      – Mấy hôm nay, em thấy nhiều người đeo kiếm, đeo đao đến Long-biên này nhiều lắm. Đại hội hồ Tây là đại hội của người học võ à? Thế chị là người phe theo Hán hay phe Văn-lang, Âu-lạc?
                      Xuân Nương ngẩn người ra nhìn Đào Kỳ:
                      – Chị là phe Văn-lang. Làm sao cậu biết có hai phe?
                      Đào Kỳ cười:
                      – Em ăn mày khắp khu vực này nên biết như vậy. Em biết phe theo Hán họ định giết hết người phe Văn-lang, Âu-lạc.
                      Nam Hải nữ hiệp giật mình:
                      – Lát nữa ra ngoài chúng ta hãy nói chuyện đó.
                      Lê Chân trả tiền rồi cả bọn kéo nhau xuống lầu, đi về phía bờ sông Hồng-hà.
                      Đào Kỳ ghé tai Xuân Nương nói nhỏ:
                      – Có một thằng, lúc ở trên lầu, nó ngồi phía sau chị, luôn luôn nghe trộm bọn ta. Bây giờ nó đang đi theo xa xa phía sau kia kìa. Không biết nó là người của Hán hay Việt? Nó giả bộ bán lạc rang đấy.
                      Lê Chân giật mình, xấu hổ, vì nàng nổi danh là Đông-triều nữ hiệp, lại không cẩn thận bằng một đứa ăn mày. Nàng liếc mắt nhìn lại sau, quả thấy tên bán lạc rang đang theo phía xa. Nàng ra hiệu cho mọi người biết, và thản nhiên đi như không có chuyện gì xảy ra.
                      Tới một bãi cỏ cạnh bờ sông, thấy không có ai, Xuân Nương hỏi:
                      – Chú em, chú nghe được những chuyện gì, nói cho bọn ta biết được không?
                      Đào Kỳ nói:
                      – Em ăn mày ở trên lầu, có một lần nghe họ bàn với nhau, nên biết hết...
                      Rồi chàng thuật lại những gì đã thấy ở trang Thái-hà cho mọi người nghe. Trí nhớ của chàng rất tốt, nên chàng kể không sai một lời.
                      Nam Hải nữ hiêp nhìn trước sau không có ai, nói:
                      – Ta được tin của chưởng môn phái Tản-viên cho biết Tô Định đã bày kế đó. Đặng Thi Sách với Nhị Trưng đã có kế hoạch đối phó rồi. Nhưng ta e rằng khi chúng ta thắng, Tô Định không ngại gì không dùng thiết kỵ bao vây, tiêu diệt hết chúng ta. Hà... các con nhớ lời ta dặn: Nếu sự việc xảy ra đúng như vậy, các con không được vì cái vũ dũng nhất thời mà quên việc lớn. Các con phải tìm đường chạy trốn, không được ham chiến. Cần để dành tấm thân hữu dụng dâng cho đại cuộc. Các con trở về thôn trang của mình, chiêu mộ hào kiệt, khởi nghĩa ngay, không chờ được nữa. Trước kia ta không cho các con khởi nghĩa là còn chờ thời. Nay thời đã đến rồi đấy. Võ lâm thiên hạ đều căm giận giặc Hán, cấm không cho tập võ là mất hết tương lai khởi nghĩa. Thà khởi nghĩa rồi có thất bại cũng cam.
                      Bỗng Xuân Nương quát lớn:
                      – Đứng lại!
                      Nàng vung tay. Một sợi giây dài đã bay véo về hướng bụi cây gần đó. Tên bán lạc rang vùng chạy, bị sợi dây quấn chặt hai chân. Y ngã sóng xoài xuống đất. Một nam đệ tử chạy tới, chỉ kiếm vào cổ y, rồi gỡ sợi dây ở chân y ra, hỏi:
                      – Ngươi là ai? Theo chúng ta làm gì?
                      Tên kia run lẩy bẩy, nói không ra lời.
                      Lê Chân ra lệnh:
                      – Quang Minh, sư đệ khám trong người nó xem có gì không?
                      Người nam đệ tử đó là Quang Minh, lục trong túi tên bán lạc rang, thấy có mấy đồng tiền và một cái thẻ bài rất nhỏ, đề tên hắn là Trịnh Long, làm việc cho phủ Tế-tác. Ngoài ra, còn hai bình nhỏ đựng bột thuốc. Quang Minh lấy ra ngửi, rồi hỏi sư phụ:
                      – Sư phụ, dường như là thuốc độc.
                      Nam Hải nữ hiệp gật đầu:
                      – Ngươi hỏi cung nó đi.
                      Quang Minh hỏi:
                      – Ngươi theo bọn ta làm gì? Thuốc này là thuốc gì?
                      Trịnh Long trợn mắt lên:
                      – Các ngươi dám tra khảo người của phủ Tế-tác ư? Ta cho bọn mi hay, bọn mi mà đụng đến ta, thì dù có đến trăm cái đầu cũng không còn.
                      Xuân Nương không nói gì, rút trong túi ra cây kim, búng một cái, cây kim cắm phập vào đùi Trịnh Long. Nàng cười:
                      – Nếu ngươi không nói, chỉ nữa giờ sau, thuốc độc phát tác, ngươi sẽ chết ngay. Ngươi ngoan ngoãn nói đi, ta sẽ cho thuốc giải.
                      Thuốc độc đã ngấm. Trịnh Long ngứa ngáy chịu không được, nó đưa tay gãi sồn sột trên đùi, kêu lên:
                      – Ngứa quá, ngứa quá! Tôi xin nói!
                      Thì ra phủ Tế-tác Giao-chỉ cùng với sở Tế-tác Long-biên có bổn phận theo dõi tất cả các trang, các phái dù theo Hán hay phản Hán, cũng đều bám sát hết. Trang, phái nào có người của họ nằm vùng thì khỏi. Những tin tức theo dõi đó sẽ báo cáo về phủ, rồi nếu cần, phải bỏ thuốc mê, hoặc thuốc độc vào thức ăn, thức uống của họ.
                      Lê Chân giật mình kinh sợ:
                      – Sư phụ, như vậy, các trang, các phái dữ nhiều lành ít. Mình phải làm sao bây giờ?
                      Xuân Nương lấy giẻ nhét vào mồm Trịnh Long, trói y lại quăng vào bụi rậm, nói sẽ vào tai y:
                      – Ngươi cứ nằm đây, sáng mai thuốc độc hết hành, ngươi sẽ đi được.
                      Nguyên những mũi châm của phái Sài-sơn đều tẩm thuốc độc, nhưng chỉ làm cho ngứa ngày, tê tê trong một ngày mà không làm chết người. Xuân Nương phóng châm vào đùi Trịnh Long, nó thấy tê tê, vì sợ hãi nên mới khai ra.
                      Lê Chân hỏi Đào Kỳ:
                      – Chú em, chú biết đường đi hồ Tây không?
                      Đào Kỳ chỉ vào bờ sông:
                      – Chị cứ men bờ sông này đi về phía Bắc khoảng năm dặm là tới.
                      Đoàn người theo bờ sông, hướng về phía Bắc. Trời gần tối, trăng tháng tám tròn như một cái đĩa màu vàng từ từ hiện lên ở phía Đông. Đi hơn khắc, bọn họ gặp một đám người nữa. Đào Kỳ không nhận được họ thuộc môn phái nào. Họ nói tiếng rất khó nghe.
                      Xuân Nương ghé tai Lê Chân nói:
                      – Họ thuộc phái Quế-lâm đấy. Họ nói tiếng Quảng rất khó nghe.
                      Phái đoàn của phía Quế-lâm liếc nhìn phái đoàn Sài-sơn rồi lầm lũi đi. Phía sau, có một đoàn người ngựa đi tới. Người đi đầu, lưng đeo cung tên, trông cực kỳ oai phong hùng vĩ, theo sau khoảng 50 người, đều đeo dung tên.
                      Người đi đầu nói lớn:
                      – Đi phía trước kia có phải các huynh đệ Sài-Sơn đó chăng?
                      Đám Sài-sơn ngừng lại. Nam-hải nữ hiệp hỏi:
                      – Phải chăng Trường-yên Cao đại hiệp đó chăng?
                      Đào Kỳ nghe đến tên Trường-yên đại hiệp, mới nhớ ra, là người mà bố chàng thường nhắc đến. Ông là Cao Cảnh Minh, chú của chưởng môn Cao Cảnh Sơn, võ công, nghĩa hiệp nức tiếng giang hồ.
                      Quả nhiên, người cưỡi ngựa đi đầu tiến lên chào Nam-hải nữ hiệp:
                      – Tại hạ là Cao Cảnh Minh cùng chư đệ tử phái Hoa-lư ra mắt quý vị phái Sài-sơn. Tại hạ mắt kém, không nhìn ra vị Thái-bảo nào phía trước?
                      Nam-hải nữ hiệp nói:
                      – Tại hạ là Trần Phương Châu.
                      Cao Cảnh Minh nói:
                      – Thì ra Đệ-nhất Thái-bảo Sài-sơn, Nam-hải nữ hiệp. Mấy năm nay, lão phu ở Trường-yên nghe danh hiền đồ là Đông-triều nữ hiệp, Hạ-long tam hiệp nức tiếng anh hùng, hôm nay mới hân hạnh được tiếp kiến.
                      Hai phái đoàn chào hỏi, giới thiệu nhau xong, Cao Cảnh Minh hỏi:
                      – Tiếp được thư của Đặng Thi Sách và Nhị Trưng, lão phu vội đi trước, xá điệt Cao Cảnh Sơn sẽ xuất lĩnh đệ tử đi sau. Chắc lát nữa sẽ gặp nhau.
                      Nam-hải nữ hiệp kể lại cho Cao Cảnh Minh nghe hết những gì Đào Kỳ đã kể cho bà, và nhất là vụ Trịnh Long kể phủ Tế-tác muốn đánh thuốc độc mọi người. Cao Cảnh Minh râu tóc dựng ngược lên, nói:
                      – Vậy ta phải cẩn thận.
                      Ông dặn đệ tử chỉ ăn lương khô, không mua lương thực ở Luy-lâu, nhất thiết phải nấu ăn, khi nấu ăn phải cử người canh gác cẩn thận.
                      Đoàn người tới bờ hồ Tây lúc trăng đã nhô lên khỏi ngọn cây, tỏa ánh sáng vằng vặc xuống mặt hồ. Gió thổi hiu hiu. Mặt hồ lăn tăn gợn sóng như muôn vàn con rắn vàng bơi lội trên mặt nước.
                      Tây-hồ là một cái hồ cực lớn, rộng đến mấy trăm mẫu. Hồ có con sông thông với sông Hồng-hà.
                      Ghi chú của thuật giả
                      Thời bấy giờ, hồ Tây bao gồm cả thành phố Hà-nội hiện nay. Sau này đất bồi lên, hồ bị cắt ra thành những hồ nhỏ như hồ Trúc-bạch, hồ Thuyền-quang, hồ Hòan-kiêm.
                      Lê Chân ngắm cảnh hồ, than:
                      – Đất này là đất kỳ lạ. Nói rằng hùng vĩ cũng có vẻ hùng vĩ, nói rằng có vẻ tiêu dao cũng có vẻ tiêu dao. Trong cái thơ mộng có cái oai phong, trong cái oai phong có cái thơ mộng. Đất này phải dùng làm đế đô mới phải.
                      Nơi đại hội nằm ở phía tây của hồ, ở giữa có một ngọn núi nhỏ. Khu đại hội được rào chung quanh bằng những cọc tre vững chắc, cao khoảng một thước. Bốn góc có bốn cái cổng đề rõ: đông, tây, nam, bắc. Trên cổng, mấy chữ viết rất đẹp:
                      Lĩnh Nam Anh hùng đại hội.
                      Gần đến cổng, một đám đệ tử của Thái-hà trang ra tiếp đón. Họ mặc toàn đồ trắng. Quang Minh hỏi Lê Chân:
                      – Sư tỷ, sao bọn họ mặc quần áo bốn màu khác nhau vậy?
                      Lê Chân tuy có đọc sách, nhưng nàng chưa học kinh Dịch, thành ra không hiểu ý nghĩa về mầu sắc. Đào Kỳ là người đọc sách, nghiên cứu binh thư, kinh Dịch nhiều nên chỉ liếc qua chàng đã hiểu. Trong lúc vui vẻ, chàng quên mất mình là đứa ăn mày, được người ta chiếu cố như chiếu cố đứa con nít. Chàng buột miệng giảng:
                      – Đại ca, bốn cổng đại hội hướng về bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc. Hướng Đông thuộc mộc thì họ mặc đồ xanh. Hướng Tây thuộc kim thì họ mặc đồ trắng. Hướng Nam thuộc hỏa thì họ mặc đồ đỏ. Hướng Bắc thuộc thủy thì họ mặc đồ đen. Lát nữa, vào trung ương tất sẽ có người mặt đồ vàng. Bởi, trung ương thuộc thổ, thuộc màu vàng. Họ trang phục theo thuyết Âm-dương Ngũ-hành đấy.
                      Xuân Nương nhìn Đào Kỳ ngạc nhiên:
                      – Cậu em, sao cậu em biết rõ vậy?
                      Đào Kỳ buộc miệng nói ra, biết mình đã lỡ lời, chàng vội kiếm cách chống chế:
                      – Hồi bé, cha em có dạy em về Âm-dương Ngũ-hành nên em biết.
                      Đám đệ tử áo trắng khom lưng làm lễ:
                      – Đệ tử Thái-hà trang cung kính nghinh tiếp Nam-hải nữ hiệp và các vị huynh đệ.
                      – Đệ tử Thái-hà trang cung nghinh đại giá Trường-yên đại hiệp và các vị huynh đệ.
                      Quả nhiên vào đến trung ương, có đám đệ tử mặc quần áo vàng cung kính tiếp đón lên đài. Đào Kỳ đếm thấy có 32 đài. Cứ 8 đài làm theo một hình bát quái. Phía sau, thêm hai đài nữa, cộng 32 đài. Tại trung ương, một đài lớn, rất cao cũng hình bát quái, có tám cầu thang đi lên. Đám đệ tử áo vàng dâng nước, trái cây. Lê Chân liếc mắt hỏi sư phụ xem có nên ăn không. Thấy sư phụ gật đầu, nàng mới ra hiệu cho các sư huynh đệ ăn uống.
                      Cứ mỗi lần có một phái đoàn đến là tiếng loa ở cổng trước xướng lên, rồi tiếng loa ở trung ương cũng xướng theo.
                      – Sài-sơn đệ tứ Thái-bảo và đệ tử đến.
                      Đào Kỳ liếc mắt thấy Nguyễn Tam Trinh cùng một đoàn đệ tử đi vào, trong đó có cả cô bé Tử Vân. Mặc dù xa cách bảy năm, nàng đã lớn lên, nhưng Đào Kỳ vẫn nhận được mặt. Nguyễn Tam Trinh đến trước đài chắp tay chào Nam-hải nữ hiệp:
                      – Đại sư tỷ! Tiểu đệ chậm chân hơn đại sư tỷ một bước rồi.
                      Nam-hải vui vẻ:
                      – Tứ sư đệ! Ta ở Đông-triều, nghe tiếng sư đệ đã làm được nhiều điều hiệp nghĩa, danh tiếng, ta rất kính phục.
                      Sáng tổ phái Sài-sơn là Phù-đổng Thiên-vương, lấy hiệp nghĩa để sắp xếp vị thứ, chứ không lấy võ công cao thấp. Từ khi phái thành lập đến nay, chưa từng xảy ra một việc ô danh môn hộ. Sư huynh, sư đệ đối với nhau như tình ruột thịt. Cho đến các đệ tử bậc dưới cũng nhường nhịn nhau. Trong dân chúng đã truyền tụng câu: "Nghĩa Sài-sơn, ơn Cửu-chân". Ý nói nghĩa hiệp của phái Sài-sơn, ban ơn cho thiên hạ như biển cả. Phái Cửu-chân cũng chuyên thi ân, bố đức cho thiên hạ. Cho nên, trong suốt các vùng từ Quế-lâm, Giao-chỉ tới Cửu-chân, Nhật-nam, Hợp-phố và Tượng-quận, cứ nghe thấy người của Sài-sơn là tỏ lòng kính trọng.
                      Nguyễn Tam Trinh đến ngồi bên Nam-hải nữ hiệp, chuyện trò. Luật lệ phái Sài-sơn cũng không quá nghiêm khắc, nên giữa thày trò được tự do trao đổi tin tức.
                      Nguyễn Tam Trinh hỏi Lê Chân:
                      – Tre già măng mọc. Sư thúc nghe danh Đông-triều nữ hiệp cũng thấy hãnh diện lây. Sư tỷ của ta quả thực mát tay. Đệ tử người nào người nấy giống sư phụ y hệt.
                      Xuân Nương lễ phép hướng về Tam Trinh, hỏi:
                      – Sư thúc, điệt nữ nghe nói sư thúc bắt sống Lĩnh-nam công rồi thả ra, có đúng như vậy không? Tại sao sư thúc bắt rồi lại thả? Hắn là người cầm quân ở đất này, sư thúc không sợ hắn mang quân tàn sát mình ư? Người Hán vốn xảo quyệt và ác độc lắm mà.
                      Luật lệ từ mấy ngàn năm nay của phái Sài-sơn là những việc đã làm của bất cứ ai, dù là sư tổ, sư phụ, các đệ tử cũng có quyền hỏi để học hỏi kinh nghiệm. Hoặc là những việc quấy, người dưới cũng có quyền chất vấn. Câu hỏi của Xuân Nương vừa ngụ ý thắc mắc về phương diện kinh nghiệm lẫn trách cứ sư thúc.
                      Nguyễn Tam Trinh nói:
                      – Đây là điều sư thúc muốn giảng cho các cháu biết cho thêm kiến thức, kinh nghiệm. Chúng ta là người nghĩa hiệp, khi gặp người nghĩa hiệp, chúng ta phải đem cái hiệp ra để đối đãi, mang cái nghĩa ra làm nòng cốt. Bất cứ ở đâu cũng có người xấu, người tốt. Kẻ thù của ta có cái tốt, ta cũng phải công nhận, chứ không nên giữ quan niệm ta luôn tốt hết và kẻ thù đều xấu hết. Đừng có cái lối cái tốt của kẻ thù là của ta, cái xấu của ta là của kẻ thù. Người Hán tàn bạo, nhưng vẫn có Khổng-tử, Mạnh-tử. Tô Định ác độc tham tàn, nhưng vẫn có Nghiêm Sơn hào sảng, anh hùng, nghĩa hiệp. Từ ngày y sang Giao-chỉ đến giờ, y luôn chống đối Tô Định tham tàn. Y đã từng xử tử nhiều bạo quan người Hán, chưa từng giết một người Việt. Chống Tô Định bênh người Việt là hiệp. Giết người Hán bạo tàn là minh. Không tham của là nghĩa. Bản lĩnh ta thua y, y bị ta dùng kế bắt được, y vẫn nhận ta và phục ta, đó là dũng. Ta tha về, y theo lệ, mang trâu đến thế mạng là tín. Ta đang là kẻ thù của y, mà y tôn là bậc trưởng thượng, cầu xin ta đứng chủ hôn cho y lấy một người con gái Việt, đệ tử của Cửu-chân song kiệt, đó là bậc trí. Một người đủ: Nhân, Nghĩa, Lễ., Trí, Tín, Hiệp, Minh như vậy... hà... khó tìm được ngay trong đám người Việt mình chứ đừng nói là người Hán.
                      Rồi ông tường thuật đầy đủ việc bắt Nghiêm Sơn, gặp Đào Kỳ, làm lễ cưới cho Thiều Hoa, nhất nhất kể lại.
                      Lê Chân cũng nhân đó kể lại những việc đã làm với Đào Kỳ, Phương Dung.
                      Nguyễn Tam Trinh nói:
                      – Đào Kỳ và Phương Dung là hai đứa trẻ ngàn năm mới có. Khi phất cờ, phải để cho hai người vào chức nguyên soái mới đúng. Rất tiếc, gần đây ta được tin Đào Kỳ bị trúng độc và mất tích. Còn Phương Dung không hiểu ra sao.
                      Tiếng loa lại tiếp tục. Chỉ một lát sau, cả tám vị Thái-bảo phái Sài-sơn và đệ tử tề tựu đông đủ. Tổng cộng lên tới gần 500 người. Họ trao đổi kinh nghiệm, trò chuyện thực vui vẻ.
                      – Nhật-nam thất hiệp và chư đệ tử tới.
                      Mọi người nhìn ra thấy bảy người mặc quần áo màu tím dắt một đoàn đệ tử rất đông tới. Nhật-nam thất hiệp không cùng một môn phái, mỗi người là một nhà khác nhau, nhưng họ đều là người nghĩa hiệp, sống đoàn kết. Võ công của họ không cao, nhưng họ là những người hòa thuận, kiên nhẫn, sống rất thanh bạch. Họ ở sát biên giới phía nam của giống Bách Việt, người ta gọi họ là Việt Thường. Họ ít đi lại với miền Bắc, ít ai biết rõ võ công của họ ra sao. Chỉ thấy dân chúng truyền tụng họ là những người đạo đức mà thôi. Thất hiệp đi khắp các khán đài chào mọi người rồi mới về chỗ.
                      – Long-biên nhị hiệp và đệ tử phái Long-biên đến.
                      Mọi người nhỏm dậy, nhìn thấy từ phía Đông, một đoàn người đang đi vào. Dẫn đầu, hai nhân vật ôn nhu văn nhã, trông như người đọc sách, nhưng ai cũng biết đó là Nguyễn Trát và Phan Đông Bảng, nổi tiếng về kiếm thuật.
                      Cách đây mười năm, trong dịp chọn Lĩnh Nam võ lâm chí tôn, hai người đã đứng hạng nhì, chỉ sau có Tản-viên song hùng mà thôi. Hai vị này tượng trưng cho văn võ song toàn. Họ có võ công cao, đọc nhiều, hiểu rộng, lại là người cương quyết với tấm lòng son phản Hán phục Việt, cho nên ân đức của họ trải khắp nơi. Họ hiền hòa nên môn phái của họ không đụng chạm, ân oán với phái nào khác. Hai người đi chào hỏi khắp nơi. Khi đến chỗ tám vị Thái-bảo phái Sài-sơn, Nguyễn Trát hỏi:
                      – Tại hạ ở Long-biên, mà nghe tiếng nghĩa hiệp của Đông-triều nữ hiệp, Hạ-long tam hiệp, Nguyệt-điện nữ hiệp Đàm Ngọc Nga. Phái Sài-sơn là đệ tử của thánh Gióng có khác, toàn những đệ tử nức danh thiên hạ. Xin kính phục, tâm phục.
                      Nam-hải nữ hiệp hỏi:
                      – Nguyễn chưởng môn! Tại hạ muốn hỏi thăm một người của quý phái, không biết hiện giờ ở đâu?
                      Nguyễn Trát cung kính:
                      – Chẳng hay tiền bối muốn biết tin tức ai?
                      – Một người năm nay khoảng 18, 19 tuổi, tiếng tăm hiệp nghĩa, mưu trí quá trượng phu, võ công tuyệt thế vang dội từ Long-biên, tới Đăng-châu, lên Mê-linh... tên là Phương Dung, nay ở đâu?l
                      Phương Dung bước tới chắp tay chào:
                      – Sư bá, cháu xin tham kiến sư bá.
                      Nam-hải nữ hiệp, Nguyễn Tam Trinh, Lê Chân, Đàm Ngọc Nga, Phùng Vĩnh Hoa đồng chạy ra nắm lấy tay nàng thăm hỏi. Lê Chân rưng rưng nước mắt vì mừng, vì cảm động:
                      – Hôm chị em mình chia tay nhau, em lên Mê-linh, chị nghe chuyện của em với Đào Kỳ hợp 36 động thành châu Lôi-sơn mà phục quá. Em tôi... giỏi quá. Bây giờ mưu trí của em đã vượt xa chị với Vĩnh Hoa rồi. Chỉ vài năm nữa, chị e đến Trưng Nhị cũng thua xa em nữa.
                      Phương Dung chỉ vào Phùng Vĩnh Hoa:
                      – Chị biết không, trên đường đi Đăng-châu, Mê-linh, nhiều khi gặp cảnh ngộ khó khăn em không biết giải quyết ra sao. Lúc bấy giờ em ước: Giá có chị Phùng Vĩnh Hoa bên cạnh thì hay biết mấy. Hôm nay gặp chị đây, em phải ngồi bên chị để hỏi nhiều chuyện mới được.
                      – Đặng chưởng môn và Nhị Trưng phái Tản-viên đến.
                      Tản-viên là phái võ lớn nhất Giao-chỉ. Người đông, võ công vào bật nhất thiên hạ. Năm trước đây, Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công đã được xếp hạng nhất. Nhưng trong phái lại chia làm hai chi nhánh khác nhau, nên người tuy nhiều, cùng thề nhất tâm phản Hán phục Việt mà chưa thành công. Những năm gần đây, xảy ra vụ Phong Châu song quái, phản sư môn, gây sóng gió suốt vùng Lĩnh Nam làm cho thiên hạ táng đởm kinh hồn. Nhưng cũng do vậy, người ta càng sợ võ công Tản-viên hơn.
                      Kể từ phe Phong Châu là Đặng Thi Sách và phe Mê-linh là Trưng Trắc hợp nhất do cuộc hôn nhân, thanh thế phái Tản-viên trở lại hùng mạnh rưc rỡ, đến nỗi Hán Quang Vũ phải lo sợ, tìm kế phá hoại.
                      Đặng Thi Sách cùng với Nhị Trưng và ngàn cao thủ đi vào. Thi Sách tuy làm chưởng môn phái võ lớn nhất, cũng như Nhị Trưng, oai danh lừng lẫy, nhưng cả ba tính tình ôn hòa, nên mọi người đều quý phục.
                      Trưng Nhị chào hỏi Nguyễn Trát, rồi nắm tay Phương Dung:
                      – Từ hôm ở Luy-lâu đến giờ, chị nhớ em quá, mong từng ngày một đến ngày hội để gặp em.
                      Phương Dung kể chuyện Đào Kỳ mất tích, có lẽ chết rồi cho mọi người nghe. Ai cũng cảm thán. Đào Kỳ đứng bên cạnh, thấy Phương Dung đến, muốn chạy ra nắm lấy tay để tâm tình, nhưng chàng nhất tâm dấu hình tích để đối phó với Tô Định nên đành im lặng.
                      Mặt trăng đã lên khá cao, các môn phái cũng đã tề tựu đầy đủ. Tất cả có 6 phái và 36 trang khác nhau, ước khoảng 5000 .
                      Ba hồi chiên trống báo giờ khai mạc đã đến, mọi người trở về chỗ. Quảng trường im lặng hoàn toàn.
                      Tiếng loa xướng:
                      – Lục trúc tiên sinh ra mắt võ lâm.
                      Lê Đạo Sinh từ dưới đài khoan thai bước lên đài trung ương. Giữa đài, một cái đỉnh bằng đồng, hương khói nghi ngút. Tám góc đài, tám ngọn đuốc chập chờn. Đạo Sinh chắp tay, hướng tứ phương chào đại hội, rồi dõng dạc nói:
                      – Kính thưa quý vị võ lâm đồng đạo, lão phu Lê Đạo Sinh, thuộc phái Tản-viên, trang chủ Thái-hà trang, được chư vị đạo cao đức trọng ủy cho tổ chức đại hội võ lâm đất Lĩnh Nam. Được các vị cao nhân đồng đạo thương mến, tề tựu đông đủ, lão phu thực cảm kích. Xin kính gửi đến chư vị đồng đạo lời chào nồng nhiệt.
                      Tiếng vỗ tay vang dội khắp nơi. Đợi cho tiếng vỗ tay dứt, Đạo Sinh nói tiếp:
                      – Từ khi xảy vụ Vương Mãng tạo phản, Kiến Vũ hoàng đế từ Côn-dương đến đuổi được giặc dữ, tái lập cơ nghiệp ngàn năm của nhà Đại Hán. Thứ sử Đặng Nhượng, các thái thú Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật Nam, Quế-lâm, Tượng-quận và Hợp-phố đồng quy phục thiên triều. Gần đây, có kẻ phao vu rằng chúng ta tập luyện võ nghệ để mưu chống thiên triều, khiến Kiến Vũ hoàng đế ban Ngũ-lệnh đặc biệt, cấm mọi nhà không được tập võ và chịu nhiều thuế dịch cơ cực. Thánh thiên tử ở xa, đèn trời xét không tới... Bởi vậy, lão phu tổ chức đại hội, mỗi gia mỗi phái cử người đạo cao đức trọng sang Trung-nguyên triều kiến Thiên tử để giải bày tự sự. Như vậy, chúng ta lại được tiếp tục luyện võ, giữ vững môn hộ. Vì vậy, chúng tôi mạo muội đề nghị như sau:
                      – Mỗi phái lớn đề cử một người võ công cao nhất.
                      – Mỗi động, mỗi châu, mỗi trang tùy theo số người, cử đại diện tháp tùng phái đoàn.
                      Nhưng việc lựa chọn người võ công cao nhất thì lấy ai làm giám khảo? Lão phu xin đề nghị như sau:
                      –Việc tuyển chọn phải thực hiện ngay tại bờ hồ này.
                      – Kính thỉnh Lĩnh Nam công, Tô thái thú và hai vị võ công cao nhất làm giám khảo.
                      Xin quý vị, nếu đồng ý, cho biết nên chọn ai?
                      Lập tức quảng trường ồn lên như họp chợ:
                      – Lục trúc tiên sinh là một.
                      –Chưởng môn Tản-viên.
                      – Nguyễn Trát tiên sinh.
                      – Chưởng môn nào cao niên nhất thì cử vào.
                      – Chưởng môn nào đức hạnh nhất thì cử vào.
                      Cuộc thảo luận kéo dài, ồn ào, nhưng cuối cùng, Lê Đạo Sinh, thái thượng chưởng môn phái Tản-viên và Nam Hải nữ hiệp, chưởng môn phái Sài-sơn cử lên làm trọng tài. Về phía chính quyền, dĩ nhiên là Lĩnh Nam công Nghiêm Sơn và thái thú Tô Định. Bốn người lên bốn chiếc ghế đặt trên khán đài trung ương ngồi vào vị trí.
                      Có tiếng loa gọi:
                      – Phái Cửu-chân đến.
                      Mọi người đều nhìn ra ngoài, thấy một thanh niên trẻ tuổi, dẫn trên trăm người đi vào. Chuyện phái Cửu-chân bị tan vỡ, ai cũng biết. Phái Cửu-chân hiện bị người Hán truy lùng rất gắt, nhưng nay ở đâu mọc ra một đám người này? Đào Kỳ muốn lại chào hỏi, nhưng ở xa quá, vả lại chàng đang muốn dấu tung tích, nên đành ngồi im.
                      Tiếng loa lại gọi lớn:
                      – Thái thượng chưởng môn phái Long-biên đến.
                      Cả quảng trường đều ồn lên, nhìn ra phía cửa nam. Đào Kỳ liếc theo thấy Lê Nghĩa Nam, Mai Huyền Sương và Hoàng Đức Tiết dẫn hơn 500 người đi vào. Bọn họ cũng đi quanh các khán đài, chào hỏi mọi người.
                      Bỗng Lê Nghĩa Nam hướng về khán đài nói:
                      – Lĩnh Nam công, Tô thái thú, Lục trúc tiên sinh, Nam Hải nữ hiệp, xin các vị đạo cao đức trọng đứng chủ trì cho chúng tôi một việc.
                      Nam Hải nữ hiệp hỏi:
                      – Lê tiên sinh! Tiên sinh có điều chi cần đến chúng tôi, xin cứ nói ra, liệu sức làm được, chúng tôi đâu dám từ nan?
                      Lê Nghĩa Nam đáp:
                      – Môn phái chúng tôi kể từ khi Vạn-tín hầu thành lập đến nay có dư 200 năm, lúc nào cũng lấy nghĩa khí làm trọng. Nhưng khổ thay, cách đây mười năm, sư phụ chúng tôi tự nhiên mất tích. Lập tức chúng tôi cho người điều tra, được biết rằng tên nghịch đồ là Nguyễn Thuật đã ám hại sư phụ...
                      Cả quảng trường ồ lên những tiếng ồn ào.
                      Đợi cho những tiếng ồn ào lắng dịu, Lê Nghĩa Nam tiếp:
                      – Sau đó, Nguyễn Thuật dùng gian kế hãm hại chúng tôi chiếm lấy chức chưởng môn. Nhưng trời không dung, đất không tha, y sống được có năm năm thì chết. Con y là Nguyễn Trát tự nhận làm chưởng môn. Bây giờ, Nguyễn Trát có mặt nơi đây, xin quý vị đứng ra chủ trì công đạo cho.
                      Lê Đạo Sinh quay hỏi Nguyễn Trát:
                      – Việc của quý phái hư thực thế nào? Nguyễn tiên sinh cho biết rõ hơn được chăng?
                      Nguyễn Trát nói lớn:
                      – Thái sư phụ tự nhiên mất tích, bản phái từ trên xuống dưới không ai mà không đau sót. Sau đó, các vị sư huynh sư đệ tranh dành chức chưởng môn. Cuối cùng các vị đã đồng ý tỷ đấu, võ công ai cao nhất sẽ được giữ chức chưởng môn. Gia phụ đã thắng các vị sư bá, sư thúc, tiếp nhận chức chưởng môn. Khi gia phụ sắp qua đời, đã chỉ định tại hạ kế nhiệm sự nghiệp. Cách đây hai năm, ba vị sư bá, sư thúc có đến bổn phái để tranh dành. Nhưng đã bị bại, bỏ đi. Sao hôm nay còn đến gây sự nữa?
                      Nguyễn Trát tránh không nói đến vụ ba người bị Phương Dung đả thương.
                      Mai Huyền Sương quát lớn:
                      – Các vị nghe đây, chúng tôi là sư thúc, sư bá của Nguyễn Trát mà y dám bảo thắng được chúng tôi, thực là hồ đồ, xấc láo. Nếu các vị muốn tìm hiểu lời của y nói có đúng hay của chúng tôi đúng, yêu cầu y tỷ đấu với chúng tôi sẽ rõ.
                      Lê Đạo Sinh đã biết rõ mọi chuyện, nên nói:
                      – Chưởng môn không nhất thiết là người võ công cao nhất. Nguyễn tiên sinh là chưởng môn cũng là chuyện thường. Như bản phái chẳng hạn, tiểu điệt nhi giữ chức chưởng môn, nhưng y có phải là người võ công cao nhất đâu?
                      Câu nói này đã làm Nguyễn Trát cảm thấy mát lòng, hả dạ. Nhưng Đạo Sinh lại tiếp:
                      – Nhưng đại hội hôm nay nhằm đề cử người võ công cao nhất các môn phái đi Trung Nguyên. Vậy việc ai sẽ là chưởng môn, xin để ngày khác.
                      Có tiếng loa gọi:
                      – Hồ thống lĩnh 72 động Tây-vu đến.
                      Từ xa nổi lên những tiếng gầm gừ, tiếng hú rung động một góc trời. Tất cả đại hội đều không hiểu sự việc gì đang xảy ra? Một lát, trong đám bụi mờ, dưới ánh trăng, mọi người đều như sởn gai ốc: Đi đầu là một nữ nhân còn trẻ, đeo kiếm, ngồi trên bành voi trắng, ngà chéo nhau. Đàng sau có 12 người, chia ra: Hai người ngồi trên lưng voi, hai người ngồi trên lưng cọp. hai người ngồi trên lưng gấu, hai người trên lưng tê giác, hai người trên lưng sư tử và hai người ngồi trên một bành tròn do hai con trăn cuốn lại. Sau cùng là một đoàn tới hằng trăm người, người nào cũng dắt cọp, tê giác, voi, sư tử, beo, gấu và hàng đàn trăn to lớn.
                      Đào Kỳ nhận ra người đi đầu là Hồ Đê, thống lĩnh 72 châu, động vùng Tây-vu, mà chàng đã gặp hôm đại hội thống nhất 36 động Nam Mê Linh. Tại đây, Hồ Đề đã tặng Phương Dung con ngựa ô tinh khôn. Bất giác chàng đưa mắt nhìn Phương Dung, nhưng lúc đó, Phương Dung còn đang cao hứng nói cười với Phùng Vĩnh Hoa.
                      Mặt Tô Định tái mét, y nói với Lê Đạo Sinh:
                      – Xin Lê tiên sinh bảo họ để thú ở ngoài.
                      Lê Đạo Sinh nhảy xuống đài, tiến lên vái chào Hồ Đề, nói:
                      – Hồ Thống lĩnh, xin Thống lĩnh vui lòng để thú ở ngoài, đừng cho vào quảng trường, sợ chúng làm ồn ào.
                      Hồ Đề cười rất tươi, vẫy tay một cái. Tất cả những người điếu khiển thú vội dẫn thú ra ngoài chờ đợi. Còn nàng, đi quanh khắp khán đài chào hỏi cử tọa. Đến chỗ Phương Dung, Hồ Đề bẹo má nàng một cái, nói:
                      – Cô em xinh đẹp thông minh, lâu lắm chị mới gặp lại em. Đào hiền đệ đâu rồi?
                      Phương Dung rơm rớm nước mắt:
                      – Mất tích rồi. E khó còn trên thế gian này. Cám ơn chị đã cho em con ngựa ô. Hiện em cột nó ở gần đây.
                      Rồi nàng thuật sơ lược câu chuyện cho Hồ Đề nghe. Sau đó, Hồ Đề cùng 12 huynh đệ về khán đài ngồi.
                      Lê Đạo Sinh tiếp:
                      – Bây giờ chúng ta cử người võ công cao nhất của các phái hầu đi Trung-nguyên. Trước tiên là phía nam. Xin Nhật Nam thất hiệp cử người võ công cao nhất cho.
                      Một người trong Nhật Nam thất hiệp nói:
                      – Tại hạ là Nhật Nam đệ nhị hiệp xin thưa: Ngươi võ công cao nhất trong anh em chúng tôi là Thiên-thủ Viên-hầu Lại Thế Cường. Thiên-thủ Viên-hầu là sư huynh của chúng tôi.
                      Người được giới thiệu là Thiên thủ Viên hầu dáng người gầy và cao, tướng đi như khỉ, bước lên đài chào mọi người rồi ngồi vào ghế của mình.
                      Lê Đạo Sinh lại tiếp:
                      – Bây giờ đến phái Sài-sơn.
                      Bảy vị Thái-bảo đồng chắp tay thưa:
                      – Ngừời võ công cao nhất trong chúng tôi là Nam Hải nữ hiệp, đại sư tỷ của chúng tôi.
                      Nam Hải nữ hiệp đứng trên đài, chắp tay vái bốn hướng, rồi ngồi vào ghế.
                      Lê Đạo Sinh lại tiếp:
                      – Xin phái Hoa-lư cử người có võ công cao nhất.
                      Cao Cảnh Sơn, chưởng môn, nói:
                      – Người có võ công cao nhất bản phái là Trường- yên đại hiệp, gia thúc Cao Cảnh Minh.
                      Cao Cảnh Minh người to lớn như hộ pháp, đứng dậy chào mọi người, rồi lên đài ngồi vào ghế.
                      Lê Đạo Sinh tiếp:
                      – Xin phái Tản-viên cử người có võ công cao nhất.
                      Đặng Thi Sách đứng lên, chắp tay cung kính:
                      – Người có võ công cao nhất bản phái là Lục Trúc tiên sinh, thái sư thúc của chúng tôi.
                      Lê Đạo Sinh chắp tay hướng vào mọi người chào rồi nói tiếp:
                      – Xin phái Quế-lâm cử người có võ công cao nhất.
                      Triệu Anh Vũ, chưởng môn Quế-lâm đứng lên nói:
                      – Người có võ công cao nhất bản môn là trưởng tử của Nghiêm đại sư huynh chúng tôi, hiện là Lĩnh Nam công, Bình Nam đại tướng quân.
                      Nghiêm Sơn đứng dậy, hướng chào bốn phía, rồi ngồi xuống.
                      Lê Đạo Sinh lại tiếp:
                      – Xin phái Cửu-chân cử người có võ công cao nhất.
                      Một nữ lang từ đám đệ tử phái Cửu-chân đứng lên nói:
                      – Thưa chư vị anh hùng! Bản phái từ mấy trăm năm nay có chín trang thì hết năm trang đã ly khai môn hộ, hai trang rửa tay gác kiếm, chỉ còn có hai trang Đinh, Đào. Nhưng mấy năm trước đây xảy ra đại nạn. Từ ngày đó đến nay không biết sư phụ, sư thúc, đệ tử lưu lạc nơi đâu. Hiện tại chúng tôi chỉ còn đệ nhị sư huynh là vai vế võ công cao nhất mà thôi. Không biết các vị còn nhìn là phái Cửu-chân nữa hay không?
                      Nam Hải nữ hiệp nói:
                      – Tiếc thay. Phái Cửu-chân mấy trăm năm nay anh hùng là thế. Cửu-chân song kiệt võ công, nhân nghĩa hơn đời, thế mà bỗng chốc tai biến xảy ra, không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu? Bảy năm qua rồi, các võ lâm đồng đạo ở đây có ai biết tung tích của người không?
                      Khắp vùng Lĩnh Nam ai cũng biết Đinh, Đào hai nhà bị thái thú Nhâm Diên tung quân đánh phá. Nay nghe Nam Hải nữ hiệp nói thế, họ hiểu ngay nữ hiệp kết tội người Hán tàn bạo.
                      Đào Kỳ nghe Nam Hải hỏi võ lâm, nhưng không ai biết tung tích cha mẹ đâu. Trong thâm tâm, chàng cho rằng đoàn chiến thuyền đã bị chìm sâu dưới đáy biển rồi, hoặc thái thú Nhâm Diên đã cho thủy quân đuổi theo tiêu diệt cũng nên.
                      Lê Đạo Sinh tiếp:
                      – Cửu Chân song kiệt đã không còn tại thế, đệ tử của người sẽ đại diện môn phái. Trịnh thiếu hiệp, ngươi lên đài đi.
                      Trịnh Quang bước lên đài, ngồi vào ghế.
                      Bỗng có tiếng quát thanh thoát:
                      – Khoan!
                      Cử tọa đổ dồn mắt về hướng có tiếng quát thì thấy một người nhỏ bé từ đám khán giả dân chúng nhảy lên đài. Trông y phục rõ ra một nữ lưu. Người đó bịt mặt, hướng vào Trịnh Quang, hỏi:
                      – Ngươi chưa biết sư phụ, sư mẫu, sư thúc ở đâu, đã dám cho mình có võ công cao nhất ư?
                      Trịnh Quang giật mình, lùi một bước:
                      – Ngươi là ai? Ta là đại diện phái Cửu-chân, có gì liên hệ tới ngươi đâu? Nếu ngươi là người của phái Cửu-chân, tại sao ta không biết?
                      Nữ lang không nói gì. Nàng dùng cầm nã thủ chụp vào vai Trịnh Quang. Trịnh Quang nhận ra đó là chiêu số của Cửu-chân, vội lùi lại tránh. Nhưng trảo thủ của nữ lang lại chuyển đến ngực y, kình lực mạnh ghê gớm. Biết nguy hiểm, y vội nhảy lùi thêm hai bước nữa. Chỉ một thoáng, hai người đã chiết với nhau hơn hai chục chiêu.
                      Bỗng nữ lang đứng lại nói:
                      – Trịnh Quang, những chiêu thức vừa rồi có phải của bản phái không?
                      Trịnh Quang đáp:
                      – Dĩ nhiên là võ công của bản phái. Nhưng, ngươi là ai?
                      Nữ lang đáp:
                      – Ta là ai, không cần mi hỏi. Ta lên đây chỉ muốn nói mi không phải là người võ công cao nhất bản môn, thế thôi.
                      Nữ lang lại phóng chưởng tấn công Trịnh Quang, chưởng pháp đúng là của Cửu-chân. Trịnh Quang vung chưởng chống lại. Chưởng của Cửu-chân với thuần dương, nên khi hai chưởng chạm nhau, kêu đến bùng một tiếng. Trịnh Quang lảo đảo lùi lại, trong khi nữ lang vẫn đứng nguyên. Nữ lang lại phóng liền ba chưởng, Trịnh Quang đỡ được đến chiêu thứ nhì thì khí huyết muốn đảo lộn. Nữ lang phóng chưởng thứ ba, Trịnh Quang lùi tới góc đài. Bỗng y biến chiêu, phản công hai chưởng. Nữ lang vung chưởng đỡ. Cứ mỗi chiêu, nàng lại lùi lại một bước, thái độ rất ung dung.
                      Hai người quần thảo với nhau trên đài, người của phái Cửu-chân nhận thấy nữ lang dùng toàn võ công Cửu-chân, còn Trịnh Quang đã phải dùng một thứ võ công khác chống lại.
                      Từ khi Hoàng Thiều Hoa bị Trịnh Quang họp sư huynh đệ kết tội nàng là Mị Châu, rồi sau đó nàng thành vợ Nghiêm Sơn thực... Nay thấy huynh, muội đồng môn đến, nàng ngồi im một chỗ, không dám tiến ra chào hỏi. Bây giờ, thấy một nữ lang xuất hiện, giao đấu với sư huynh, mà võ công cao hơn, nàng ngạc nhiên không ít.
                      Những người phái Tản-viên kêu lên:
                      – Võ công Tản-viên!
                      Quả thực, Trịnh Quang đã sử dụng võ công Tản-viên để chống với nữ lang. Hai người ngang sức. Dường như nữ lang chỉ đánh cầm chừng cho Trịnh Quang trổ hết sở trường mà thôi.
                      Nghiêm Sơn là chồng Thiều Hoa, chàng đã biết rõ võ công Cửu-chân. Chàng thấy võ công của nữ lang cao hơn Thiều Hoa, Trịnh Quang rất nhiều.
                      Đào Kỳ đứng phía sau phái Sài-sơn, thấy nhị sư huynh dùng võ công Tản-viên đến trình độ tinh thục, cũng ngạc nhiên vô cùng. Đồng thời, chàng cũng tự hỏi: Nữ lang kia là ai mà võ công cao đến thế?
                      Đến đây, Trịnh Quang bị dồn vào một góc đài. Y cố sức chống trả, như ngọn đèn hết dầu. Rồi, bỗng y hít một hơi, vung chưởng đánh ra. Nữ lang cũng vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả hai cùng lùi lại. Phía dưới, có nhiều tiếng kêu:
                      – Phục ngưu thần chưởng!
                      Nữ lang quát lên:
                      – Trịnh Quang! Ngươi là nhị đệ tử của Cửu-Chân song kiệt, sao lại sử dụng võ công Tản-viên?
                      Trịnh Quang bị tấn công tới tấp, chân tay luống cuống, y đã sử dụng hết ba chưởng Phục ngưu mà vẫn không làm gì được nữ lang.
                      Về phía phái Tản Viên, Thi Sách, Nhị Trưng đều tự hỏi:
                      – Tại sao Trịnh Quang lại biết Phục-ngưu thần chưởng? Biết ba chưởng như mình? Y là học trò ai? Với tuổi y, y không thể là học trò Đặng Thi Kế, Nguyễn Thành Công được. Y cũng không phải đệ tử của Lê Đạo Sinh, vậy, y là đệ tử của ai?
                      Đến đây, nữ lang tấn công liền sáu chưởng như vũ bão. Trịnh Quang còn đang luống cuống, nàng đã nhảy lùi lại, nói:
                      – Xin các vị anh hùng lưu ý. Y là đệ nhị đệ tử của Cửu-chân song kiệt, mà y lại sử dụng võ công của Tản-viên, vậy, y có thể là đại diện của phái Cửu-chân nữa không?
                      Nam Hải nữ hiệp là người chí công vô tư, bà nói ngay:
                      – Trịnh thiếu hiệp! Ngươi xuống đài đi thôi.
                      Trịnh Quang định xuống đài, bỗng nữ lang phát chưởng cản lại:
                      – Khoan! Đâu có dễ dàng như thế được?
                      Trịnh Quang tái mặt:
                      – Ta đã chịu nhường ngươi thì thôi chứ? Ngươi là ai? Hay là gian tế của bản phái? Ngươi hãy mở khăn bịt mặt ra cho các anh hùng cùng biết.
                      Nữ lang cười lên khanh khách, nói:
                      – Cái đó chưa cần thiết. Ta muốn hỏi ngươi ít câu, nếu ngươi đáp được, ta sẽ mở khăn cho mọi người biết ta là ai?
                      Rồi, nữ lang hướng về phía đám đệ tử Cửu-chân, hỏi:
                      – Đêm hôm thái thú Cửu-chân xua quân đánh Đào trang, sư phụ sai người đón vợ con. Đáng lẽ đi một lát thì về, thế nhưng ngươi đã vắng mặt từ đầu đến cuối. Vậy người đi đâu?
                      Trịnh Quang giật bắn người lên, nói lắp bắp:
                      – Ta...ta... về đón vợ con rồi bị kẹt...
                      – Bị kẹt? Hừ, thế vợ con ngươi đâu?
                      – Vợ con ta do tên mã phu Nguyễn Danh bảo vệ đi sau. Khi ta đến cảng Bắc thì bị thất lạc.
                      Nữ lang cười nhạt:
                      – Nói láo! Nhưng thôi được. Thế trong trận cảng Bắc, ngươi bị đánh trọng thương đến ngất đi, nên đã lạc sư phụ, sư mẫu. Ngươi đã tập võ lâu năm, công lực không tầm thường, ngươi chỉ bị ngoại thương thôi, mà ngươi lại mê man bất tỉnh là tại sao?
                      Trịnh Quang nín thinh, không trả lời. Nữ lang tiếp:
                      – Ta nói cho ngươi biết, ta biết hết rồi. Trong khi trận đánh cảng Bắc diễn ra, ngươi đã ra đền Mỵ Châu họp với hai người, đó là Phong Châu song quái. Cuối cùng, người đã dẫn đường cho song quái rượt theo sư phụ, sư thúc. Song quái đánh sư phụ, sư mẫu bị thương rồi, đã giả bộ bắt ngươi đi, đánh ngươi bị ngoại thương, ném ngươi vào rừng, đánh lừa sư tỷ Hoàng Thiều Hoa. Sư tỷ thấy ngươi bị thương mê man nên tưởng thật, đã săn sóc cho ngươi. Ta tinh tế hơn tam sư tỷ, đã khám phá ra ngươi giả bị trọng thương. Đêm đó, ta đi lấy nước uống, ngươi theo đánh ta một chưởng rơi xuống đồi. Ngươi tưởng ta chết rồi nên đã trở về, tiếp tục giả đò bị trọng thương.
                      Trịnh Quang kêu lên:
                      – Ngươi là...
                      Nữ lang mở khăn bịt mặt ra. Đám đệ tử Đào trang cùng kêu lên:
                      – Tường Loan!
                      Người đó là Tường Loan. Nàng nói tiếp:
                      – Ngươi và sư tỷ tưởng ta chết rồi, nên bỏ ta vào động đá rồi lấp đá lại. Nhưng sau đó ta tỉnh dậy và tiếp tục theo dõi ngươi. Ban ngày, ngươi giả đò bị thương, nằm trên cáng cho sư huynh, sư đệ khiêng. Ban đêm, ngươi đi ra ngoài, để lại dấu vết cho Song-quái theo dõi, biết tông tích của môn hộ.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #26
                        Hồi 25

                        Đã mang lấy nghiệp vào thân,
                        Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
                        (Kiều)


                        Thiều Hoa nghe Tường Loan nói, chợt tỉnh ngộ:
                        – Mình đáng chết thực. Bản lĩnh của nhị sư huynh không phải tầm thường. Hôm đó, nhị sư huynh chỉ bị ngoại thương rất nhẹ. Người giả bộ mê man đến độ trở mình không nổi, thế mà mình cũng tin được.
                        Nàng nhớ lại, hôm đó, Tường Loan đã thắc mắc rằng: Nhị sư huynh công lực rất cao, không thua gì đại sư huynh, nên dù cho có bị nội thương trầm trọng cũng không đến nỗi như thế... Nàng nghe qua, nhưng đã không lưu ý.
                        Nàng lại nhớ, nhị sư huynh đã thuật lại rằng: Nghiêm Sơn đấu chưởng với sư thúc. Sư thúc bị phun máu miệng, bị thương nặng. Còn Phong-châu song quái đấu chưởng với sư phụ, sư mẫu... Song quái định giết sư phụ, sư mẫu, nhưng bị Nghiêm đại ca cản lại, vì y cảm phục thái độ đường đường chính chính của phái Cửu-chân. Hơn nữa Nghiêm đại ca hối hận về việc nghe theo lời bịa đặt của Thái-thú Cửu-chân là Nhâm Diên, mang quân trợ giúp y đánh Đinh, Đào trang. Nhâm Diên nói rằng Đào, Đinh trang là hai trang của trộm cướp. Nhưng khi giao chiến với ta và tiểu sư đệ, Nghiêm đại ca thấy ta và tiểu sư đệ là người ngay thẳng. Hơn nữa, giữa lúc nhà tan cửa nát, tại trận tiền, chúng ta không thù hằn đại ca. Đại ca quả có con mắt tinh đời, đã hiểu người của phái Cửu-chân ta, hiểu ta với tiểu sư đệ... Thế nên, ngày nay, ta mới là vợ người. Sau đó, Phong-châu song quái bắt nhị sư huynh đi. Vậy, chuyện y bắt nhị sư huynh đi là không thực. Song quái với nhị sư huynh chắc có liên hệ gì đây.
                        Thiều Hoa từ ghế ngồi của đệ nhất phu nhân Lĩnh-nam bước lên đài, hỏi Trịnh Quang:
                        – Nhị sư huynh! Thì ra nhị sư huynh là người của Phong-châu song quái cài vào phái Cửu-chân để hại người. Hôm đó, Song-quái bắt nhị sư huynh đi, bày ra vụ sư huynh bị thương, hầu có thể theo dõi ta với tiểu sư đệ. Nhưng, sư muội Tường Loan đã nhìn thấy cái sơ hở của ngươi, nên ngươi giết Tường Loan. Thực ông trời có mắt nên Tường Loan không chết, còn được sư phụ thu làm nội đồ... Trên đường từ Cửu-chân đi Hoa-lư, bất cứ chúng ta ẩn tránh thể nào, Song-quái cũng theo kịp. Thì ra ngươi đã để dấu vết lại cho bọn chúng tìm bọn ta. Tới lúc ở nhờ phái Hoa-lư, ngươi lên mặt đạo đức, hô hào sư huynh, sư muội giết ta để bịt miệng. Ngươi thật là tàn bạo.
                        Mọi người thấy Thiều Hoa từ chỗ dành cho đệ nhất phu nhân Lĩnh-nam lên đài, thì biết nàng là phu nhân của Lĩnh-nam công. Khi nghe nàng nói mấy câu đó, mới hay nàng là đệ tử của Đào Thế Kiệt. Dưới ánh trăng, tà áo nàng bay phất phới, nhan sắc nàng càng thêm huyền ảo.
                        Người người truyền nhau:
                        – Nàng đẹp như thế không trách Lĩnh-nam công đặt nàng làm phu nhân cũng phải. Thực là tiên nữ giáng phàm.
                        Tường Loan nói tiếp:
                        – Ta dò thám biết hết âm mưu của ngươi. Khi đến Hoa-lư ở nhờ phái này, ngươi lên mặt đạo đức, họp sư huynh sư muội kể tội tam sư tỷ là Mỵ Châu, định giết sư tỷ. Ngươi làm thế vì tam sư tỷ cũng khám phá ra ngươi giả đò bị thương. Ngươi định giết người để bịt miệng ư? Khó lắm, Trịnh Quang.
                        Ngừng một lát, nàng nói tiếp:
                        – Trịnh Quang, cha ngươi xuất thân là quân trộm cướp, phiêu bạt sang xứ Lão-qua làm ăn. Sau, được sư phụ đem về, giao cho chức bang trưởng một sóc dân ở rừng núi. Khi ngươi được mười mấy tuổi, cha ngươi chết. Mẹ ngươi không biết dạy con, nên, anh em ngươi đều trở thành những đứa trẻ lêu lổng. Hai em gái ngươi, một đứa lấy chồng làm quân giặc cướp, một đứa lấy chồng lính Hán, một thứ vợ thằng Ngô. Còn ngươi, làm rể nhà Nguyễn Cao. Bà dì của vợ ngươi làm tỳ nữ cho sư phụ. Bà xin sư phụ nhận ngươi làm đệ tử. Sư phụ dạy võ công cho ngươi, tạo sự nghiệp cho ngươi. Là đệ tử danh ngôn chính phái, không hiểu sao ngươi lại chui đầu vào làm gian tế cho Song-quái. Cách đây bảy năm, ngươi đánh trộm ta, nhưng ta không chết. Hôm nay, ngươi phải đền tội trước mặt anh hùng thiên hạ.
                        Tường Loan phóng chưởng đánh liền. Bây giờ nàng mới đem bản lĩnh chân thực ra. Chưởng lực của nàng hùng hậu vô cùng. Trịnh Quang lại dùng Phụ-ngưu thần chưởng chống đở. Nhưng, võ công y thấp quá, cứ phải lùi dần đến góc đài. Tường Loan ngừng lại cho y thở một chút, rồi vận chân khí phóng một chưởng. Đám đệ tử Cửu Chân cùng kêu lên:
                        – Hải triều lãng lãng!
                        Trịnh Quang biết chưởng này rất lợi hại, nên y cũng vội ra chiêu Hải triều lãng lãng chống lại.
                        Hai bên cùng là đệ tử Đào gia, cùng phát một chiêu, công lực ai mạnh, người đó sẽ thắng.
                        Đào Kỳ ngồi dưới đài lo nghĩ:
                        – Bố ta mới thu nhận Tường Loan làm nội đồ gần đây. Công lực của nàng không biết có đủ để đối phó với gã Trịnh Quang hay không?
                        Trên đài, hai chưởng chạm nhau. Bình một tiếng, cả hai cùng lui lại. Hai người cùng phát lớp thứ nhì. Chưởng phong ào ào chụp xuống.
                        Nghiêm Sơn ngồi trên đài tự nhủ:
                        – Chiêu số này kình lực mạnh thực. Ngày nọ mình với Thiều Hoa có thử đối nhau mấy chiêu. Thiều Hoa ra chiêu này, khiến mình thấy tay tê buốt.
                        Lần này chưởng lực đụng nhau, Trịnh Quang bị bật lùi đến góc đài, trong khi Tường Loan tiến lên một bước. Hai người đều hít một hơi dài, phát lớp thứ ba. Chưởng lực chạm vào nhau đến tẹt một cái. Hai bên thi diễn cuộc đấu nội lực.
                        Trong khi Tường Loan phiêu phiêu hốt hốt, ung dung nhàn nhã thì Trịnh Quang phải dùng hết sức để chống đỡ.
                        Đấu được một lúc, trên đầu Trịnh Quang đã có làn khói bốc lên. Công lực của y đã gần cạn hết. Y muốn lên tiếng van xin Tường Loan, nhưng không dám mở miệng, vì, nếu y mở miệng, chân khí sẽ đoạn tuyệt, y sẽ hộc máu mà chết.
                        Một lát trôi qua, Trịnh Quang lảo đảo sắp ngã. Tường Loan thu nội lực về, khiến y ngã ngồi xuống đài.
                        Tường Loan hướng về phía đám đệ tử Cửu-chân, hỏi:
                        – Các sư huynh, sư đệ! Tường Loan có nên giết chết tên phản đồ này không?
                        – Giết chết đi!
                        – Giết tên gian tế đi!
                        Trong khi Tường Loan mải nói với đồng môn, Trịnh Quang đã bò, lết lui dần ra phía sau nàng. Tường Loan giật mình quay lại đúng lúc Trịnh Quang đứng dậy, định nhảy xuống đài. Nàng tát cho y một cái khiến y ngã chúi đầu xuống đất.
                        Lê Đạo Sinh nói:
                        – Tường Loan cô nương! Ngươi đã thắng được Trịnh Quang rồi thì thôi, hà tất phải giết nhau? Chỗ này là nơi tuyển người võ công cao nhất các phái, không phải là chỗ để trả thù nhau. Nếu ngươi muốn trả thù thì sau này thiếu gì cơ hội? Võ công người cao nhất Cửu-chân, vậy ngươi ngồi vào ghế đại diện đi.
                        Tường Loan lắc đầu:
                        – Thưa các vị anh hùng! Phái Cửu-chân chúng tôi gồm chín nhà, đều là giòng dõi trung lương của Âu-lạc. Bản phái trong mấy trăm năm qua, lúc nào cũng nằm gai nếm mật vì hận vong quốc, cố công luyện tập võ nghệ để phản Hán phục Việt. Nhưng gần đây, tên Thái-thú Nhâm Diên thâm độc, mưu đồ Hán hóa người Việt, bị nghiêm sư Đào tiên sinh khám phá ra, tỏ ý chống đối. Y bỏ tiền, lung lạc được năm trong chín trang theo y với cái bả học được văn minh người Hán, quên gốc Việt. Y lại đe dọa, khiến hai trang nữa phải rửa tay gác kiếm. Cuối cùng, còn Đào, Đinh trang, y bất thần đem kỵ binh Cửu-chân cộng thêm với thiết kỵ của Giao-chỉ vào đánh phá, thành ra hai trang tan nát. Nghiêm-sư và sư thúc tuy nhà tan cửa nát, nhưng cũng chiếm được năm chiến thuyền, chạy đến một nơi bí mật ẩn thân. Nghiêm-sư cho tiểu nữ đến đây để báo cho các vị võ lâm đồng đạo biết rằng bản phái không bao giờ cho đệ tử Cửu-chân tham dự trong đoàn đi cầu phong Hán đế. Hán là Hán, Việt là Việt. Tại sao chúng ta là con cháu Hùng-vương, An-Dương vương lại phải đi cúi đầu cầu xin Hán để được thọ phong? Sao Hán đế không sang cầu chúng ta phong cho? Chúng ta đang âm thầm chuẩn bị đuổi giặc Hán, lại đi cúi đầu lạy giặc Hán, việc này không bao giờ có thể xảy ra được.
                        Nàng quay lại phía đệ tử của Cửu-chân nói:
                        – Các vị sư huynh, sư đệ! Sư phụ hãy còn tại thế, ngươi đã luyện võ đến trình độ cao thâm khôn lường. Trước kia, tôi là ngoại đồ, sau khi xảy ra vụ Trịnh Quang, đã được sư phụ thu làm đệ tử, truyền thụ võ công, nên ngày nay tôi mới thắng được tên Trịnh Quang.
                        Đào Kỳ nghe phụ thân còn sống, mừng muốn run người lên, nhưng chàng chợt nghĩ mình đang giả trang, nên không tiện lên tiếng hỏi thăm. Chàng nghĩ: Sau đây, ta sẽ hỏi sư tỷ Tường Loan để biết chỗ ở của cha mẹ ta, tìm đến thăm người cũng chưa muộn.
                        Thiều Hoa nắm tay Tường Loan hỏi:
                        – Sư muội! Ngươi còn nhớ ta không?
                        Tường Loan đáp:
                        – Sư tỷ! Chuyện của sư tỷ, sư phụ biết hết rồi. Ngươi không trách phạt sư tỷ đâu. Ngươi nói: Sư tỷ là người lòng dạ rất tốt. Sư tỷ đối với tiểu sư đệ như con. Sư tỷ tuy là vợ Lĩnh-nam công, nhưng người Hán cũng có người xấu, kẻ tốt. Nghiêm công là người anh hùng nghĩa hiệp, đủ cả: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng, Minh... đó là người anh hùng khó kiếm trong thiên hạ. Chính đệ tứ Thái-bảo phái Sài-sơn đã nói thì sai thế nào được?
                        Thiều Hoa nước mắt như mưa:
                        – Sư phụ, sư mẫu! Con ghi nhớ ơn người đời đời!
                        Nàng dắt tay Tường Loan về phía đám đệ tử Cửu-chân.
                        Nghiêm Sơn ngồi trên đài, thấy những biến chuyễn của phái Cửu-chân mà chàng không nói được một lời. Từ ngày lấy vợ đến giờ, chàng hết lòng chiều đãi, nhưng Thiều Hoa lúc nào cũng buồn về việc nàng bị ám ảnh bởi cái nhục Mỵ Châu... Nay, cái ách đó đã gỡ ra được, nhưng chàng lại gặp điều không may. Nguyễn Tam Trinh, Đào Thế Kiệt đều khen chàng, võ lâm Lĩnh-nam kính phục chàng, nhưng Tô Định thì đang lo hại chàng. Tô Định từ mấy năm nay kiếm cớ để tấu về triều, nói rằng chàng mưu lập Lĩnh-nam làm giang sơn riêng. Nay Tường Loan nói lời bạo nghịch như vậy, rồi Thiều Hoa bỏ chỗ ngồi về chỗ của phái Cửu-chân, rõ ràng là đã có mưu đồ phản Hán. Chắc chắn Tô Định sẽ lợi dụng tình thế để hại chàng. Chàng nhủ thầm:
                        – Bất quá ta bỏ quan chức, cùng Thiều Hoa rong ruổi giang hồ chẳng hạnh phúc hơn sao?
                        Lê Đạo Sinh nói lớn:
                        – Phái Cửu-chân không tham dự vào việc xin cầu phong sau này sẽ không được dạy võ nữa. Ta cứ mặc phái Cửu-chân. Mỗi người mỗi chí. Bây giờ đến 36 động Lôi-sơn. Ai là người võ công cao nhất Lôi-sơn, xin châu trưởng Trần nữ hiệp chỉ định cho.
                        Hùng Trọng nói:
                        – Người võ công cao nhất của Lôi-sơn chúng tôi là châu trưởng Trần Năng chứ còn ai nữa?
                        Trần Năng vừa bước lên đài, đã thấy một người cũng nhảy lên khoanh tay đứng trước mặt nàng. Đó là Đinh Công Minh, con trai Đinh Công Dũng. Năm trước đây, trong trận đấu ở Nam Mê-linh dành chức châu trưởng 36 động, Công Dũng đã bị Phương Dung giết chết. Trần Năng hỏi:
                        – Đinh thiếu hiệp! Năm trước đây trong dịp tranh chức Thống-lĩnh 36 động Nam Mê-linh, ba động Lôi-sơn đã chịu thua rồi, không lẽ thiếu hiệp quên hay sao, mà còn lên đây tranh dành?
                        Đinh Công Minh chắp tay hướng vào tứ phương hành lễ rồi nói:
                        – Thưa chư vị anh hùng! Năm trước đây gia phụ có ý tổ chức đại hội 36 động Nam Mê-linh để thống nhất thành châu. Con nhỏ này đã dùng một người ngoài để sát hại gia phụ của tại hạ. Dùng gian kế như vậy để đoạt chức châu trưởng, hỏi có xứng đáng hay không? Hôm nay là ngày các phái tổ chức chọn người võ công cao nhất, chứ không chọn người cầm quyền cao nhất. Y thị dùng gian kế đoạt chức châu trưởng đã không xứng đáng, thêm nữa, võ công y thị có được là bao? Xin chư vị xét cho.
                        Lê Đạo Sinh gật đầu:
                        – Điều đó đúng. Ở đây chỉ chọn người có võ công cao nhất mà thôi. Nếu Đinh thiếu hiệp không phục Trần nữ hiệp, xin các vị cứ việc tỷ đấu.
                        Đinh Công Minh hướng vào Trần Năng nói:
                        – Trần châu trưởng! Nếu ngươi biết thân phận, cứ việc lui xuống đài. Còn nếu ngươi tự thị võ công cao nhất, xin hãy chỉ dạy cho tại hạ ít hiệp.
                        Hùng Bảo ở dưới thấy Đinh Công Minh lên đài, tự biết sẽ không ổn. Chàng biết võ công của vợ là võ công Tản-viên, tuy hùng hậu thực, nhưng đem tỷ đấu với Công Minh, thuộc võ công Trung-nguyên, thì, võ công ai cao hơn thì người đó thắng. Trần Năng không phải đối thủ của y. Còn võ công của chàng là võ công Cửu-chân, đã được nghiên cứu để khắc chế võ công Trung-nguyên; nên, mỗi khi giao đấu, mỗi chiêu mỗi thức của võ công Trung-nguyên sẽ bị võ công Cửu-chân khắc chế. Vì vậy, chàng vội nhảy lên đài, nói:
                        – Đối phó với ngươi, không cần phải Trần châu trưởng ra tay. Ta ra tay cũng đủ.
                        Đinh Công Minh cười ha hả nói:
                        – Nam nhi trượng phu phải biết tu thân, tề gia rồi mới trị được quốc. Nhà ngươi đi cúi đầu, quỳ gối trước đàn bà, đội vợ lên đầu mà không biết nhục, sao còn dám lên đây dương oai diệu võ? Ta khuyên ngươi nên trở về lo chuyện trong nhà là hơn.
                        Hùng Bảo nghiêm trang nói:
                        – Ta họ Hùng, con cháu 18 đời vua Hùng. Chúng ta là người Văn-lang, đều là con rồng cháu tiên. Có bao giờ quốc tổ Lạc-long quân khinh rẻ tổ mẫu Âu Cơ đâu? Xưa kia, Quốc-tổ, Quốc-mẫu sinh 100 người con, 50 theo mẹ, 50 theo cha. Mẹ cũng thế, mà cha cũng vậy. Trải qua mấy ngàn năm, người Việt chúng ta đều coi nam nữ như nhau. Ai có tài sẽ ra gánh vác việc đời, cần gì phải phân nam với nữ?
                        Chàng ngừng một lát rồi nói tiếp:
                        – Phái Sài-sơn nổi tiếng hiệp nghĩa anh hùng, đệ nhất Thái-bảo là Nam-hải nữ hiệp, có ai phân biệt nam, nữ đâu? Như phái Tản-viên, Thái-sơn Bắc-đẩu hiện thời, trong phái có Nhị Trưng, uy danh lừng Lĩnh-nam, có ai phân biệt nam, nữ đâu? Ngay bản thân ta đây, bái một nữ hiệp phái Cửu-chân làm sư phụ mà học được nghệ. Còn phu nhân của ta, nhờ võ công Tản-viên đã đoạt chức châu trưởng, mấy năm nay đã làm cho châu thêm giàu mạnh, có ai dám phủ nhận? Ta hãnh diện vì có phu nhân tài ba, ta kém tài nên ở duới quyền người, chẳng có gì là nhục cả.
                        Hồ Đề từ chỗ 72 động Tây-vu lên đài hỏi:
                        – Đinh thiếu hiệp, ngươi nói hơi quá rồi. Lên đài để đấu võ chớ không phải để miệt thị nam nữ!
                        Đinh Công Minh cười nhạt:
                        – Ta nói tên Hùng Bảo chui đầu vào trong quần vợ nó, chứ ta có nói nó chui đầu trong quần cô nương đâu?
                        Hồ Đề không nói gì, vung quyền đánh thẳng vào mặt Đinh Công Minh. Công Minh ngửa đầu ra sau tránh. Hồ Đề quét chân một cái, khiến y ngã chúi đầu, nằm dài trên sàn đài. Nàng đá vào đít y một cái, cả thân hình y bay vào chân Trần Năng. Trần Năng đã đứng ở mé đài, tránh không kịp, nàng vội xoạc chân ra, thân hình Công Minh chui tuột qua háng nàng, rơi xuống đài. Nhưng y là một cao thủ, nên chỉ xoay mình một cái đã đứng dậy được. Y phóng mình lên đài, tấn công Hồ Đề để trả thù.
                        Nguyên y học võ tại Trung-nguyên, bản lãnh không phải tầm thường. Vừa rồi, vì mải nói, không phòng bị, trong khi Hồ Đề lại ra tay một cách thần tốc, tuyệt không có triệu chứng gì báo trước nên y mới bị bại.
                        Hồ Đề lui lại đỡ quyền của y, rồi nói:
                        – Ngươi bảo Hùng hầu chui đầu trong quần Trần châu trưởng, tại sao ngươi cũng chui đầu dưới quần Trần châu trưởng như vậy? Ta lên đây để dạy dỗ ngươi liệu lời mà ăn nói, thế thôi. Còn chuyện tranh phong với người trong châu, thì mặc ngươi với Hùng hầu.
                        Nói rồi nàng nhảy xuống đài. Đinh Công Minh bị làm nhục, không biết đổ cái uất đó vào đâu, y phóng chưởng đánh Hùng Bảo. Hùng Bảo ra chiêu đỡ. Hai người quấn lấy nhau giao đấu.
                        Cứ như bản lĩnh do Thiều Hoa truyền dạy, muôn ngàn lần Hùng Bảo không thể là đối thủ của Công Minh. Nhưng trong những ngày gần Đào Kỳ, được Đào Kỳ chỉ dẫn tường tận, bản lĩnh chàng đã khá cao. Lại nữa, võ công của chàng thuộc Cửu-chân, gốc từ Âu-lạc, vốn bao hàm khắc chế với võ công Trung-nguyên, nên dù không bằng Công Minh, nhưng y cũng chưa thể thắng được chàng.
                        Dưới đài, Đào Kỳ thấy rõ Hùng Bảo không thể tiếp tục được quá 30 chiêu nữa, chàng chưa biết làm cách nào để giúp Hùng Bảo. Chính Lê Chân, Xuân Nương, Đàm Ngọc Nga cũng nhận thấy như thế.
                        Đào Kỳ hỏi Đàm Ngọc Nga:
                        – Tỷ tỷ ơi! Có cách nào giúp Hùng Bảo không? Anh ấy thua đến nơi rồi.
                        Đàm Ngọc Nga lắc đầu. Đào Kỳ nói:
                        – Kìa, chị trông. Giá Hùng Bảo đánh thấp tí nữa thì trúng y rồi. Đàm Ngọc Nga trố mắt nhìn Đào Kỳ:
                        – Cậu cũng biết võ à?
                        Đào Kỳ vội chữa:
                        – Em ăn mày lâu ngày, ở tửu lầu thấy người ta đấu võ nhiều nên biết thế thôi. Em có thuộc một bài ca của thầy phù thủy, cứ ca lên là chị muốn bên nào thắng được ngay.
                        Đàm Ngọc Nga thấy ngồ ngộ, hỏi:
                        – Cậu ca thử xem nào.
                        Đào Kỳ nói khẽ:
                        – Nếu em ca, chị phải ca tiếp liền. Ca cho Hùng Bảo và Đinh Công Minh cùng nghe thấy mới có kết quả.
                        Lê Chân gật đầu:
                        – Được, cậu cứ hát. Chị hát theo liền.
                        Đào Kỳ nhìn trên đài rồi nói:
                        – Nhũ yến quy sào.
                        Lê Chân la lớn lên:
                        – Nhũ yến quy sào.
                        Hùng Bảo trước đây đã được Đào Kỳ nhắc mà thắng Đinh Công Hùng. Nay chàng đang bị Đinh Công Minh tấn công muốn không thở được. Chợt nghe đến tên chiêu võ của Cửu-chân, chàng không nghĩ ngợi, lao đầu như người té về phía trước, hướng vào ngực Đinh Công Minh. Công Minh vội thu chưởng về, một tay đở ngực, một tay đánh trên cổ chàng.
                        Đào Kỳ la:
                        – Bạch vân thiên tải.
                        Lê Chân vội la lớn:
                        – Bạch vân thiên tải.
                        Hùng Bảo biến chiêu từ húc bằng cách lòn người trở ra, hai chân phóng vào ngực Đinh Công Minh. Bình một cái, Công Minh bị đá văng xuống đài.
                        Lê Chân và Đàm Ngọc Nga không phải người ngu, nên nghe Đào Kỳ nhắc có hai câu mà Hùng Bảo đang từ bại đã chuyển thành thắng, hai người biết ngay Đào Kỳ là người có võ công cao.
                        Ba người bàn luận đều không qua mắt được vị đệ tứ Thái-bảo Nguyễn Tam Trinh. Ông liếc nhìn Đào Kỳ một cái, cười nói:
                        – Thì ra đây là một vị cao nhân của phái Cửu-chân. Tại hạ mắt kém không nhìn ra được thiếu hiệp là đệ tử của vị nào trong phái Cửu chân, xin thứ lỗi.
                        Phùng Vĩnh Hoa là người cơ mưu tuyệt vời. Nàng đoán cậu bé ăn mày này là Đào Kỳ, nên nàng lôi Đào Kỳ đến bên cạnh, lấy ngón tay cốc lên đầu chàng hai cái, nói:
                        – Cậu em này, bây giờ lớn quá rồi hả? Dám qua mặt các chị.
                        Rồi nàng cốc thêm hai cái nữa. Lê Chân ngơ ngác không hiểu. Vĩnh Hoa ghé tai Lê Chân nói:
                        – Đào tiểu đệ chúng ta đã gặp ở Đăng-châu đó, sư tỷ quên rồi sao?
                        Lê Chân nhìn kỹ, quả là Đào Kỳ. Nàng nắm lấy tai Đào Kỳ kéo một cái, rồi ghé vào tai, nói khẽ:
                        – Gớm thật, dám qua mặt chị cả.
                        Đinh Công Minh đã trở lại đài. Y muốn đấu nữa.
                        Nghiêm Sơn phất tay:
                        – Đinh thiếu hiệp! Võ công ngươi cao hơn Hùng hầu nhiều, nhưng ngươi đã bị đánh rơi xuống đài, ngươi đã bị bại rồi.
                        Đinh Công Minh cãi:
                        – Nhưng...y được người của phái Sài-sơn ám trợ.
                        Nam Hải nữ hiệp lên tiếng:
                        – Phái Sài-sơn của ta đâu biết võ Cửu-chân để nhắc cho Hùng hầu? Chẳng qua là một cao nhân phái Cửu-chân ngồi chung với Sài-sơn nhắc nhở con em mà thôi.
                        Đào Kỳ giật bắn người lên. Thì ra Nam Hải nữ hiệp đã biết tung tích chàng từ lâu rồi, nhưng bà thâm trầm, không nói ra đó thôi. Bất giác chàng khâm phục vô cùng, nói nhỏ với Lê Chân:
                        – Tôn sư quả thực minh mẫn. Em giả trang đến như chị Vĩnh Hoa cũng không nhìn ra, thế nhưng người lại biết. Hèn chi, tám vị Thái-bảo không tôn người là đệ nhất?
                        Trên đài, Đinh Công Thắng đã thượng đài nói với Hùng Bảo:
                        – Hùng hầu! Đinh lão tam mỗ muốn lĩnh giáo những chiêu thức cao siêu của Hùng hầu.
                        Đào Kỳ lo sợ cho Hùng Bảo:
                        – Võ công của Đinh Công Thắng ngang hàng với phụ thân ta. Ngay tam sư tỷ cũng chỉ chịu được mười hiệp là cùng. Hùng Bảo địch sao lại y? Ngày nọ, Phương Dung dùng kiếm giết chết Đinh Công Dũng cũng phải khó khăn lắm, suýt nữa mất mạng về tay y. Nay, Công Thắng võ công cao hơn Công Dũng nhiều, lại nung nấu ý chí trả thù, Hùng Bảo nguy mất.
                        Lê Chân hỏi Đào Kỳ:
                        – Này, chú bé ăn mày, chú có cách gì cứu Hùng Bảo không?
                        Đào Kỳ lắc đầu:
                        – Tỷ tỷ là Đông-triều nữ hiệp, tỷ tỷ có cách gì không?
                        Lê Chân gật đầu:
                        – Đông-triều thì không có, nhưng Vĩnh Hoa thì có dư.
                        Phùng Vĩnh Hoa cười:
                        – Nếu em chịu gọi ta bằng Chị cả ba tiếng, ta sẽ chỉ cho.
                        Đào Kỳ nheo mắt:
                        – Từ ngày gặp chị, không biết em đã kêu đến mấy ngàn tiếng rồi, đâu phải đợi tới bây giờ?
                        Trên đài, Hùng Bảo đã bắt đầu đấu với Đinh Công Thắng. Bảo dùng võ công Cửu-chân rất tinh vi, nhưng công lực chưa đủ. Trong khi Công Thắng rất cẩn thận, vừa công vừa thủ, dường như hắn đợi Hùng Bảo kiệt lực rồi mới ra tay. Phùng Vĩnh Hoa lấy bút viết mấy chử vào giấy, vo tròn lại, rồi bảo Đào Kỳ:
                        – Em có chỉ lực mạnh, hãy nhắm bắn viên giấy này sang chỗ chị Hồ Đề, sẽ có kế cứu được Hùng Bảo.
                        Đào Kỳ nhìn Vĩnh Hoa tự hỏi:
                        – Ta mới học được phép đàn chỉ đây, sao chị này đã biết được?
                        Chàng búng viên giấy một cái. Viên giấy quay tròn kêu lên những tiếng vo vo, nhưng bay rất chậm, hướng về phía đệ tử Tây-vu. Hồ Đề thấy viên ám khí quay tròn, rít lên những tiếng vo vo không ngừng, từ từ bay đến trước mặt. Nàng ngạc nhiên tự nhủ:
                        – Trên thế gian này sao lại có thứ ám khí quay nhanh đến độ phát ra tiếng kêu như thế kia, rồi lại đến rất chậm, thế là nghĩa lý gì?
                        Thấy kình lực mạnh, Hồ Đề không dám bắt. Nàng rút dao định gạt, bỗng viên ám khí bay chậm dần, rồi vù một cái, mở ra thành tờ giấy, rơi xuống trước mặt nàng. Hồ Đề cầm lên coi, thì ra một lá thư. Nàng nhẫm đọc, miệng tủm tỉm cười, hướng về phía Phùng Vĩnh Hoa gật đầu, tỏ ý hiểu.
                        Hùng Bảo đã bị Đinh Công Thắng dồn đến góc đài. Bỗng Công Thắng quát lớn:
                        – Đại ca, em trả thù cho đại ca đây.
                        Rồi, y phóng một chưởng vào hạ bàn Hùng Bảo. Hùng Bảo vội nhảy lên cao. Công Thắng chuyển chưởng lực từ dưới vào bụng Hùng Bảo. Bảo vội phóng chưởng đỡ, rồi mượn sức chưởng đối phương, lộn một vòng trên không. Công Thắng đánh thêm một chưởng cực mạnh vào ngực Hùng Bảo. Bảo vội vung chân đá, Công Thắng đã biến chưởng thành cầm nã, hai tay tà tà đánh ra như cái kéo. Y định đánh gãy chân tay Hùng Bảo.
                        Giữa lúc đó, Đinh Công Thắng cảm thấy như tay mình vướng vào vật gì khiến kình lực phát không ra. Y nhìn lại, đó là một sợi dây mềm, lớn bằng cổ tay, ai đã tung lên quấn vào hai tay y.
                        Trong khi đó, Hùng Bảo từ từ hạ xuống. Công Thắng giật tay gỡ dây ra, nhưng càng gỡ, giây càng siết chặt. Sợi dây có mùi tanh hôi không thể tưởng tượng được. Rồi một sợi dây thứ nhì từ khán đài đệ tử Tây-vu bay đến. Sợi dây quay tròn trên không rồi cuốn trước ngực Công Thắng hai vòng, siết chặt. Tiếp theo sợi thứ ba cuốn tròn chân y lại.
                        Đinh Công Thắng kinh hãi nghĩ:
                        – Trên đời sao lại có thứ võ công tung giây ở xa, cuốn lại trói người kỳ lạ thế này? Không lẽ sợi dây là ám khí nên có mùi hôi tanh khủng khiếp?
                        Tới khi nhìn kỹ, y mới giật mình kinh hoảng. Đó không phải giây mà là mấy con trăn, mùi hôi tanh bốc lên khiến y muốn nôn oẹ. Mấy con trăn quấn chặt chân tay y, đầu hướng vào mặt y, lưởi phun phè phè như cố ý đe dọa.
                        Chính Hùng Bảo khi đáp xuống, nhìn thấy tình trạng của Công Thắng cũng hoảng hốt.
                        Chợt một bóng hồng bay lên đài, thân pháp cực nhanh và đẹp mắt. Đó là một thiếu nữ thanh tú, mỹ lệ. Nàng vút kiếm vung lên định chém trăn để cứu Công Thắng, thì một tiếng hú dài vang lên từ phía 72 động Tây-vu, mấy con trăn buông Công Thắng ra, vọt xuống đài, biến mất.
                        Thiếu nữ lên tiếng hỏi:
                        – Chúng ta, 36 động Lôi-sơn đấu võ để quyết định người có võ công cao nhất, tại sao người của Tây-vu lại dùng rắn ám hại? Nếu là anh hùng hảo hán, hãy lên đây cùng ta tỷ đấu?
                        Nguyễn Tam Trinh hỏi Đào Kỳ:
                        – Này cháu, nữ lang đó là ai vậy?
                        Đào Kỳ đáp:
                        – Nàng là con gái Đinh Công Dũng. Nghe nói tâm địa nàng rất lương thuần. Đã nhiều lần khuyên cha, chú nên hợp tác với Thi Sách và Nhị Trưng, nhưng cha, chú không nghe lời. Không biết nàng học võ ở đâu và học với ai. Còn nàng tên là Đinh Hồng Thanh.
                        Bên khán đài Tây Vu, Hồ Đề hướng lên đài trả lời Hồng Thanh:
                        – Những thú vật ta nuôi, vốn ở rừng núi đã quen, thường không cắn ai cả. Chúng chỉ thích xơi thịt những tên Việt muốn bán tổ tiên Việt mà thôi. Cô nương, ta xem dung nhan cô thực mặn mà hiếm có. Thế khinh thân thượng đài vừa qua cũng không tầm thường. Ta thấy mà nể. Nhưng cô nương thách thức ta đấu võ, thì ta đành phải nhận lời.
                        Nàng hướng vào các vị trọng tài, hỏi:
                        – Nam Hải nữ hiệp, người là đại diện cho đạo đức, nghĩa hiệp võ lâm, xin người cho biết tiện nữ có quyền mượn khán đài, qua lại vài hiệp với Đinh nữ hiệp không?
                        Hồ Đề là người cương trực, tính tình như nam tử. Nàng không coi Lê Đạo Sinh, Nghiêm Sơn, Tô Định vào đâu, nên nàng chỉ hỏi một mình Nam Hải nữ hiệp mà thôi.
                        Nam Hải đoán được ý nàng, nên nói:
                        – Hồ Thống-lĩnh! Ngươi là chủ của 72 động, thân phận không nhỏ, chấp chi lời của một thiếu nữ nhỏ tuổi?
                        Hồ Đề chắp tay vái:
                        – Đinh cô nương! Nam Hải nữ hiệp không những là đệ nhất Thái-bảo của phái Sài-sơn, mà còn là đệ nhất Thái-bảo của võ lâm nữa. Người đã dạy, chúng ta khỏi cần đấu nữa.
                        Đinh Công Thắng cãi:
                        – Chưa chắc.
                        Hồ Đề cười:
                        – Đinh Tam Hiệp! Ngươi là một trong Lôi-sơn tam hùng, mà không đạt đạo lý chút nào cả. Nói về võ công, chưa hẳn phái Sài-sơn là đệ nhất. Nhưng xưa nay, những người được gọi là anh hùng hiệp sĩ đâu phải chỉ nhờ ở võ công cao? Nhưng chính nhờ ở hành vi đạo đức. Đạo đức xưa nay vẫn được tôn thờ. Ngang thời với Khổng-tử, có biết bao nhiêu người là công, hầu bá... nhưng ngày nay có ai thờ họ đâu? Thiên hạ chỉ thờ ngài, bởi ngài là một người đạo đức. Chúng ta là người Việt, ngài là người Hán, mà chúng ta cũng thờ ngài. Nay, phái Sài-sơn nổi danh đạo đức, nghĩa hiệp, Nam Hải nữ hiệp đứng đầu phái này, chúng ta không tôn ngài là Nam-thiên đệ nhất, thì tôn ai đây?
                        Đinh Công Thắng bị Hồ Đề dồn cho một hồi, đành ngậm miệng. Đinh Hồng Thanh nói:
                        – Hồ Thống-lĩnh! Nếu ngươi chịu thua như vậy thì xuống đài đi.
                        Hồ Đề cười:
                        – Ta không chấp ngươi vì ta nghe lời Nam Hải nữ hiệp, nhưng ngươi đã cố ý, ta sẽ cùng ngươi đánh cuộc. Có như vậy mới không làm tổn thương đến lời dạy dỗ của Nam Hải nữ hiệp.
                        Đinh Hồng Thanh hỏi:
                        – Ngươi muốn đánh cuộc gì?
                        Hồ Đề cười khanh khách như đàn ông:
                        – Ta cùng ngươi tỷ thí. Nếu ta thua, ta nguyện đem chức Thống-lĩnh 72 động Tây-vu trao cho người. Còn nếu ngươi bại, ngươi phải làm cho ta ba điều. Những điều đó không trái với đạo nghĩa.
                        Hồng Thanh gật đầu:
                        – Trong cuộc đấu, ngươi không được dùng đến thú vật của ngươi, cũng không được dùng người ngoài trợ giúp. Nếu ai vi phạm, coi như thua.
                        Hồ Đề gật đầu:
                        – Được, ta nhận lời.
                        Từ ngày Hồ Đề đến Mê-linh dự đại hội đến giờ, đám người của Tản-viên như Thi Sách, Nhị Trưng lẫn Đào Kỳ, Phương Dung đều không biết võ công, chiêu số của nàng ra sao. Họ rất muốn nàng trổ tài để có dịp mở rộng kiến thức.
                        Hồng Thanh rút kiếm chĩa chênh chếch xuống đài. Dưới ánh trăng, gió hồ thổi lên, y phục màu hồng của nàng bay phất phới, trông giống như một tiên nga. Còn Hồ Đề, dùng một cây roi, cán dài khoảng hai thước (50cm), chuôi là những sợi da. Đầu mỗi sợi da có buộc một cái nhạc ngựa. Khi nàng rút roi ra, nhạc kêu leng keng. Hồ Đề cũng thủ thế đứng nhìn Hồng Thanh:
                        – Đinh nữ hiệp! Ta lớn tuổi hơn ngươi, vậy, ngươi ra chiêu trước đi.
                        Thái độ của Hồ Đề rất ung dung, ra vẻ đàn chị. Bên phái Tản-viên, Trưng Trắc nói với em:
                        – Người này quả thực xứng đáng thống lĩnh Tây-vu. Đừng nói 72 động, chứ làm đại tướng quân cũng được. Đất Việt mình nảy ra được một người như thế thực đáng mừng. Sau đại hội, ta phải kết thân với nàng mới được.
                        Hồng Thanh chắp tay hành lễ. Thái độ tiêu sái, ung dung của một đệ tử danh môn chính phái. Dưới ánh trăng rằm, sắc đẹp của nàng trông thật huyền ảo, như có, như không, khiến các anh hùng điều tấm tắc khen thầm.
                        Hồ Đề cũng đáp lễ. Hồng Thanh tay trái bắt quyết, tay phải khoa kiếm thành một chiêu từ vai Hồ Đề xuống tới ngực, rồi chuyễn từ ngực sang phiá trái, rồi lại từ trái vòng xuống bụng. Tất cả điều là hư chiêu, như thể muốn biểu diễn.
                        Bên phái Cửu-chân, Tường Loan nói với Thiều Hoa:
                        – Sư tỷ, người con gái này đẹp đâu kém sư tỷ?
                        Thiều Hoa cũng nhận thấy thế:
                        – Ta nghĩ nàng còn đẹp hơn ta thì đúng hơn.
                        Tường Loan phân tích:
                        – Nói về ôn nhu, văn nhã, thùy mị, sư tỷ hơn nàng. Nói về sắc sảo, huyền bí, nàng hơn sư tỷ.
                        Bên này, Nguyễn Tam Trinh hỏi Đào Kỳ:
                        – Cháu có nhận ra chiêu số của Hồ Đề không?
                        Đào Kỳ gật đầu:
                        – Cháu thấy về bộ pháp thì rỏ ràng của phái Tản-viên, còn những đường roi, dường như của phái Hoa-lư thì phải, nhưng không hoàn toàn giống.
                        Nguyễn Tam Trinh nói:
                        – Cháu tinh mắt lắm. Quả đúng như vậy. Còn võ công Đinh Hồng Thanh?
                        Đào Kỳ nhìn lên đài:
                        – Rõ ràng là Cửu-chân nhà cháu. Từ ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ khiêm cung với địch thủ giống hệt đệ tử Đào gia.
                        Nguyễn Tam Trinh lại gật đầu:
                        – Ta thấy nàng phiêu phiêu, hốt hốt, ôn nhu văn nhã giống như sư tỷ Thiều Hoa của cháu như đúc. Thì ra đệ tử Cửu-chân đều được huấn luyện theo một khuôn mẫu.
                        Đào Kỳ quan sát trận đấu, tiếp:
                        – Bản lĩnh của Hồng Thanh đến trình độ này, không thể là đệ tử đời thứ ba được. Có lẽ nàng ngang vai vế với cháu. Vậy, có thể nàng là đệ tử của phụ thân, hay của thúc phụ, cữu phụ cháu cũng nên.
                        Tư thái của Hồng Thanh như thực, như hư, như phải, như trái, giống một vị tiên nữ. Còn đường roi của Hồ Đề, vì có những cái nhạc ngựa, nên reo lên những tiếng vi vu nghe rất êm tai. Một người thì phiêu phiêu, hốt hốt, một người thì biến hóa kỳ diệu, khó có thể đoán được ai sẽ thắng.
                        Thiều Hoa hỏi Tường Loan:
                        – Ngoài em ra, gần đây, sư phụ, sư thúc có nhận thêm đệ tử nào không? Hồng Thanh có phải là đệ tử của sư phụ, hay sư thúc không? Tường Loan gật đầu:
                        – Không. Em quả quyết với chị, Hồng Thanh không phải là đệ tử của sư phụ hoặc sư thúc.
                        Thiều Hoa chợt nhớ ra:
                        – Chị nhớ ra rồi. Nàng là đệ tử của sư thúc Thế Hùng. Đúng rồi. Ngày nọ Nghiêm Đại ca với chị ghé thăm Đinh Công Dũng ở Lôi-sơn, Công Dũng đã khoe rằng Hồng Thanh trọ tại nhà bà cô tại Đăng-châu, theo học trường Khổng-môn của người Hán, và được một hào kiệt đương thời thu làm đệ tử. Võ công của Hồng Thanh không thua gì y.
                        Trên đài, Hồng Thanh lộn người đi một vòng, tránh thế roi của Hồ Đề, thuận tay phóng một chưởng. Chưởng đó là chiêu Hải triều lãng lãng. Hồ Đề không biết nhiều về võ học Cửu Chân nên phát chiêu đỡ. Bộp một cái, cả hai cùng lùi lại. Hồng Thanh phóng lớp thứ nhì, Hồ Đề thấy thế mạnh như vũ bão, vội vận khí đỡ. Bùng một cái, nàng phải lùi lại hai bước. Hồng Thanh tiến tới một bước, phóng lớp thứ ba. Hồ Đề biết nguy, nhưng nàng là người mưu trí, vội chuyển roi thành vòng cầu, quấn vào cổ Hồng Thanh, với ý đồ nếu cần, cả hai cùng chết. Hồng Thanh vội vung kiếm đỡ roi của Hồ Đề, trong khi chưởng lực của nàng vẫn đánh tới. Đào Kỳ thấy Hồng Thanh là người nhà, đồng thời Hồ Đề lại là người kính trọng, vội kêu lên:
                        – Thần ưng thăng thiên.
                        Đây là thế võ của Hoa-lư. Hồ Đề nhớ ra, vội vọt người lên cao, trong khi chưởng lực của Hồng Thanh đi qua dưới chân cũng đã làm chân nàng tê buốt.
                        Hồng Thanh chuyển hướng từ dưới hướng lên trên đánh vào người Hồ Đề. Hồ Đề không mất bình tĩnh phóng chưởng đánh xuống. Hai chưởng gặp nhau, Hồ Đề lại bay vọt lên cao. Hồng Thanh chuyễn thế chưởng theo. Đây là lớp thứ năm, mạnh vô cùng, như núi đổ, như thủy triều tràn lên. Hồ Đề lộn trên không ba vòng, kình lực đã hết, trong khi lớp thứ năm của chiêu Hải triều lãng lãng như lớp sóng dồn dập đánh tới.
                        Hồ Đề than thầm:
                        – Thôi mạng ta cùng rồi!
                        Bỗng một bóng trắng từ dưới đài vọt lên xen vào giữa chưởng của Hồng Thanh. Cử tọa chỉ nghe bùng một cái, bóng trắng bay bổng lên không, rồi rớt xuống đài, nằm yên không cựa quậy. Còn Hồ Đề bị dư lực của chưởng đánh bay xuống đài. Cử tọa nhìn lại, bóng trắng đem thân đở đòn cho Hồ Đề, thấy dường như đã bỏ mạng, nằm yên bất động trên đài.
                        Nguyên Hồ Đề là người Mường, sống ở rừng núi Tây-vu, tiêu dao với thiên nhiên. Nàng nuôi đủ loại thú rừng, huấn luyện chúng để sai khiến người. Đi đâu nàng cũng đem theo đủ loại nào vượn, nào cọp, nào trăn để hộ vệ. Trong đám thú, có Bạch-viên tinh khôn như người. Nàng thương nó lắm nên lúc nào cũng để bên cạnh. Bạch-viên là linh vật, thấy chủ gặp nguy hiểm, tính mạng như treo trên sợi tóc, nó kêu lên một tiếng, lao lên khán đài, đưa lưng đỡ đòn cho chủ.
                        Hồ Đề rơi xuống đài thì con voi trắng từ xa đã chạy đến đưa lưng đỡ chân chủ. Hồ Đề vội nhảy từ bành voi lên đài, tay chuyển roi tấn công Hồng Thanh. Hồng Thanh đưa kiếm đỡ. Roi, kiếm quấn vào nhau, cả hai cùng dùng sức giật lại. Hồ Đề nhanh trí buông roi ra, nhảy sát vào chụp cổ Hồng Thanh. Hồng Thanh buông kiếm chụp vai Hồ Đề, hai người vật nhau trên sàn.
                        Đào Kỳ la lên:
                        – Hồng Thanh thua rồi.
                        Lê Chân ngạc nhiên:
                        – Tại sao?
                        – Có gì đâu? Võ công Cửu-chân thiên về cương, võ công Hoa-lư thiên về nhu, Hồng Thanh đi vật nhau với Hồ Đề là thua chắc rồi. Vả lại Hồ Đề ở rừng, đánh nhau với thú đã quen, Hồng Thanh địch sao nổi?
                        Trên đài, hai người vật lộn mấy vòng. Bỗng Hồ Đề kêu lên:
                        – Ngưng tay!
                        Hồng Thanh tưởng thực, buông tay ra, bị Hồ Đề chụp lấy tay bẻ quặt ra sau, nhấc bổng lên, nói:
                        – Tiểu muội! Ngươi mắc mưu ta rồi. Chúng ta đấu keo khác.
                        Hồng Thanh lắc đầu nói:
                        – Chị dùng trí chứ không dùng lực, em nhẹ dạ, thua là đáng lắm. Thua trí hay thua lực cũng thế. Ban nãy chúng ta đánh cuộc, chị bảo em thua thì phải làm cho chị ba điều. Vậy, những điều đó là những điều gì, chị cứ nói, Hồng Thanh sẵn sàng làm hết sức mình.
                        Hồng Thanh đã xinh đẹp, tiếng nói lại ôn nhu nhã nhặn, rõ ràng nàng là đệ tử danh môn chính phái, xử sự đường hoàng khác hẳn với anh nàng là Đinh Công Minh, nói năng thô lỗ, tục tằn.
                        Hồ Đề ghé vào tai Hồng Thanh nói mấy câu. Hồng Thanh ngần ngừ một lúc rồi gật đầu. Những người trên đài, dưới đài đều không hiểu Hồ Đề yêu cầu Hồng Thanh làm những việc gì? Nhưng dường như Hồng Thanh đã đồng ý thì phải.
                        Đến đây, Nghiêm Sơn nói:
                        – Như vậy, người võ công cao nhất châu Lôi-sơn là ai?
                        Hồng Thanh nói:
                        – Dĩ nhiên là Trần châu trưởng. Đinh gia chúng tôi thua rồi.
                        Lê Đạo Sinh có chủ ý riêng, cãi:
                        – Có lý nào thế được? Hùng hầu bị thua Đinh tam hiệp nhưng Đinh tam hiệp bị trăn cuốn, chứ có thua đâu? Tôi đề nghị hai người nên tái đấu.
                        Hồng Thanh ghé tai Đinh Công Thắng nói mấy câu. Công Thắng cau mặt suy nghĩ, rồi đưa mắt hỏi ý Đinh Công Minh. Công Minh đưa mắt sang phái Tản-viên như hỏi điều gì. Nguyễn Quý Lan ngồi bên Trưng Nhị gật đầu liên tiếp mấy cái. Công Minh bấy giờ mới ghé tai nói nhỏ với Công Thắng mấy câu.
                        Nghe xong, Đinh Công Thắng nói:
                        – Đó là mệnh trời, chứ có ai ngờ đâu thú vật lại can thiệp vào việc người? Về võ công, tôi thắng Hùng hầu, nhưng âm đức thua xa, tôi xin nhường.
                        Thiều Hoa nghĩ, hiện giờ, nàng là người có vai vế cao nhất của phái Cửu-chân tại đây, nên chạy lại bên Hồng Thanh, hỏi:
                        – Sư muội, phải chăng em là đệ tử của sư thúc Thế Hùng?
                        Hồng Thanh chắp tay hành lễ:
                        – Đúng. Sư phụ em hiện ẩn thân, không muốn người thế tục biết đến. Sư tỷ, tiểu sư huynh Đào Kỳ hiện nay ra sao? Sư phụ em rất tin tưởng vào người.
                        Thiều Hoa kể sơ chuyện Đào Kỳ rồi nói:
                        – Cho đến giờ phút này, ta cũng không biết tiểu sư đệ ở đâu nữa.
                        Đến đây, Đào Kỳ, Trần Năng, Hùng Bảo cùng nhớ lại một đêm trăng ở trang Thượng-hồng, có một thiếu nữ bịt mặt, dùng võ công Cửu-chân tấn công Hùng Bảo, rồi Đào Kỳ. Sau đó, nàng lấy thuốc giải đưa cho Đào Kỳ. Nàng còn hứa rằng, từ nay Đinh gia không làm khó dễ Trần Năng nữa. Thì ra, nàng là Đinh Hồng Thanh, đệ tử của Đào Thế Hùng.
                        Nguyên Đinh Hồng Thanh được cha gửi trọ học ở nhà bà cô tại huyện Đăng-châu. Cha nàng muốn nàng học chữ. Một ngày nọ, nàng làm quen với bạn học là Đào Phương Dung. Đào Phương Dung xin với cha thu Hồng Thanh làm đệ tử. Từ đấy, nàng trở thành đệ tử yêu của nhân vật khét tiếng phái Cửu-chân. Trong khi theo học, nàng với Đào Hiển Hiệu có tình ý với nhau. Đào Thế Hùng định nhờ người mai mối với Đinh Công Dũng, hỏi nàng làm vợ cho con trai. Việc chưa thành thì Công Dũng chết. Hồng Thanh là đệ tử danh môn chính phái, nàng chống lại chủ trương theo giặc của cha và chú. Trước cái chết của cha, nàng không biết phải giải quyết thế nào. Một đêm, nàng định đột nhập trang Thượng-hồng, giết Hùng Bảo, Trần Năng trả thù cho cha, thì gặp Đào Kỳ. Nàng biết sư phụ rất thương yêu Đào Kỳ, nên nàng lấy thuốc giải cứu cho chàng. Rồi, lời thày dạy thoang thoảng bên tay, nàng đứng ra khuyên chú, anh, không nên trả thù, phá hại đại cuộc.
                        Hôm nay, nàng đấu võ bị thua trí Hồ Đề, phải làm cho Hồ Đề ba việc. Hồ Đề ghé tai nàng yêu cầu việc thứ nhất phải coi việc phục quốc là điều quan trọng, bỏ tư thù với Trần Năng. Điều thứ nhì, khuyên chú, anh quay về với đất nước. Điều thứ ba, phải tuyệt đối tuân lệnh Trần Năng. Vì vậy, nàng mới khuyên Đinh Công Thắng. Công Thắng khuyên lại Đinh Công Minh. Công Minh vì có tình ý với Quý Lan, sư muội của Trưng Nhị, khi chàng đưa mắt hỏi ý nàng, nàng cũng gật đầu đồng ý.
                        Lê Đạo Sinh đứng lên nói:
                        – Xin mời Trần Châu trưởng lên đài cho.
                        Trần Năng lên đài, chào khắp bốn phương rồi nói:
                        – Xin các vị anh hùng nghe đây. Hơn một năm trước, khi lên cầm quyền thống lĩnh 36 động Nam Mê-linh, tôi có hứa rằng, hai năm sau sẽ tìm người có tài, có đức để kế vị. Hôm nay, tôi xin mượn nơi đây, nhờ Nam Hải nữ hiệp phái Sài-sơn, Cao tiên sinh phái Hoa-lư, Nguyễn tiên sinh phái Long-biên, Đặng đại ca và Nhị Trưng phái Tản-viên chứng kiến cho cuộc truyền chức này.
                        Gần đây, thế lực 36 động Lôi-sơn nổi lên rất lớn, ngang với 72 động Tây-vu và bằng Bắc Mê-linh của Thi Sách. Cử toạ hồi hộp, không biết Trần Năng sẽ truyền chức cho ai. Nàng vẫy tay gọi Đinh Hồng Thanh lên đài, rồi nói:
                        – Hôm nay, trước mặt các vị cao nhân võ lâm, ta, châu trưởng Lôi-sơn đời thứ nhất, truyền chức cho Đinh Hồng Thanh làm châu trưởng đời thứ nhì.
                        Cả quảng trường ào lên những tiếng ngạc nhiên.
                        Hồng Thanh lắp bắp:
                        – Em... em làm sao được?
                        Trần Năng nói:
                        – Ta là gái, ta làm được, em cũng làm được. Em là đệ tử của một đại hiệp giàu lòng yêu nước, võ công, nhân phẩm hơn ta nhiều. Em hãy nhận lời đi. Có việc gì khó khăn thì Đinh nhị, Đinh tam tiên sinh, Đinh đại ca của em, rồi chúng ta nữa, sẽ cùng giúp em. Đã là đệ tử Cửu-chân, đừng nói làm Thống-lĩnh, làm vua cũng cứ được đi.
                        Nói rồi, nàng trao cây gậy ngắn bằng ngà voi, tượng trưng uy quyền châu trưởng cho Hồng Thanh.
                        Hồng Thanh quỳ xuống tiếp nhận, tuyên thệ:
                        – Tôi, Đinh Hồng Thanh, hôm nay được truyền chức châu trưởng Lôi-sơn, xin tuyên thệ: Một là hết lòng lo cho dân chúng trong châu, coi họ như anh em ruột thịt. Thứ nhì, luôn luôn tôn thờ, theo di chỉ của Hùng-vương, An-Dương vương. Thứ ba, coi các châu, các phái khác như bạn hữu. Nếu sai lời thì trời chu, đất diệt.
                        Quần hào hoan hô vang dậy một góc trời. Người lớn hoan hô vì thấy việc làm khôn khéo của Trần Năng. Nàng truyền chức cho Hồng Thanh thì lực lượng Cửu-chân sẽ có ảnh hưởng ở Giao-chỉ. Mà Cửu-chân thì phản Hán phục Việt. Truyền chức cho Hồng Thanh đương nhiên Công Thắng, Công Minh phải nhất tâm nhất trí phục vụ cho cháu. Lại không sợ Hồng Thanh làm bậy, vì nàng là đệ tử danh môn chính phái. Trong khi bọn trẻ hoan hô vì thấy nàng đẹp như một tiên nga giáng phàm được cắt cử trọng trách.
                        Thiều Hoa, Tường Loan và các đệ tử Cửu-chân đồng đến chào mừng Hồng Thanh.
                        Nam Hải nữ hiệp nói:
                        – Trần phu nhân, ngươi... ngươi là học trò cao nhân nào mà tài đến như thế? Ta... ta khâm phục ngươi vô cùng. Ngươi tuy nhỏ tuổi, nhưng trí lực cao hơn bọn ta.
                        Trần Năng chắp tay thưa:
                        – Thưa Nam Hải nữ hiệp, ngươi là cao nhân đạo đức đệ nhất đương thời, đáng lẽ người hỏi, cháu phải khai sự thật. Nhưng, tiếc rằng sư phụ cháu khi dạy cháu không nhận cháu làm đồ đệ. Sau đó, cháu gặp tiểu sư thúc của chồng cháu là con út của Cửu-chân song kiệt Đào tiên sinh dạy dỗ cho cháu rất nhiều về võ công Văn-lang... Vậy, có thể coi cháu là đệ tử của Cửu-chân.
                        Nàng nói đến võ công Văn-lang khiến cả quảng trường ồn lên, rồi im lặng.
                        Lê Đạo Sinh lớn tiếng nói:
                        – Bây giờ đến phái Long-biên. Chưởng môn phái Long-biên trước đây là Nguyễn Phan lão hiệp. Nhưng mười năm trước đây, bỗng nhiên lão hiệp mất tích, đệ tử của người là Nguyễn Thuật đã thắng các sư huynh, sư đệ để làm chưởng môn. Nhưng Nguyễn Thuật đại hiệp lại mới qua đời. Con trai của người là Nguyễn Trát lên kế vị. Nguyễn Trát và sư đệ Phan Đông Bảng nổi danh là Long-biên nhị hiệp hiện có mặt tại đây, có thể cho biết ai là người võ công cao nhất của quý phái không?
                        Nguyễn Trát bước lên đài, vòng tay thành quyền, hướng vào tứ phương chào, rồi khoan thai đáp:
                        – Nói về vai vế trong tệ phái, tại hạ là người cao hơn hết. Nhưng nói về võ công, sư đệ Phan Đông Bảng là người cao hơn hết. Vậy, Phan sư đệ sẽ là người đại diện bản phái đi Trung-nguyên.
                        Rồi, ông vẫy tay xuống đài, nói:
                        – Phan sư đệ! lên đài đi.
                        Phan Đông Bảng bước lên đài, vòng tay thành quyền, hướng vào bốn phía hành lễ, rồi ngồi xuống ghế dành cho phái Long-biên.
                        Hốt nhiên, từ ba góc đài, ba người phi thân nhảy lên, thân pháp cực kỳ thần tốc. Vừa lên đài, một người đã vung quyền tấn công Đông Bảng. Đông Bảng lùi lại đỡ thì người kia biến quyền thành chỉ đâm vào mắt ông. Ông lui lại hai bước nữa thì người kia đã ngồi vào chiếc ghế dành cho phái Long-biên.
                        Bấy giờ Nguyễn Trát mới nhìn rõ: Ba người vừa nhảy lên đài là Lê Nghĩa Nam, Hoàng Đức Tiết và Mai Huyền Sương. Người tấn công Đông Bang và ngồi vào ghế là Lê Nghĩa Nam.
                        Mai Huyền Sương quát:
                        – Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng! Chúng bay là hàng hậu bối, dám tự cho mình là võ công cao nhất bản phái ư? Người láo đến như vậy, ta không thể tha thứ cho ngươi được.
                        Nguyễn Trát nói lớn:
                        – Lê, Hoàng Mai tiền bối! Cách đây năm năm, các vị tranh chức chưởng môn với tiên sư, hứa rằng, nếu các vị bại sẽ ra khỏi môn phái. Sau khi các vị bị bại dưới tay tôn sư, các vị bỏ đi từ ngày đó đến giờ. Cách đây hơn năm, các vị có trở lại Cối-giang, cũng đã bị đánh bại rồi. Nay các vị còn dám xưng mình là người phái Long -biên nữa ư?
                        Mai Huyền Sương lớn tiếng nói:
                        – Hôm nay, ba sư huynh muội chúng tôi tới đây để xin các anh hùng thiên hạ chủ trì cho một việc. Tôn sư tiên sinh chúng tôi là Nguyễn Phan tiên sinh tự nhiên mất tích sau khi đi thăm Nguyễn Thuật về. Chúng tôi đã cho điều tra, tìm kiếm khắp nơi đều không thấy. Cật vấn Nguyễn Thuật thì y trả lời một cách gượng gạo. Cho nên, chúng tôi nghi rằng sư phụ chúng tôi đã bị y đánh thuốc độc rồi giết chết để đoạt lấy chức chưởng môn. Ba chúng tôi họp lại chất vấn và hắn đã dùng xảo kế để chiếm ngôi. Nguyễn Thuật làm việc ác độc như thế nên trời không thương, đất không tha cho hắn. Hắn mới tiếm chức chưởng môn được năm năm thì chết. Con hắn là Nguyễn Trát lại tiếp tục tiếm chức.
                        Nam Hải nữ hiệp nói:
                        – Mai nữ hiệp nói thế, nhưng Nguyễn Thuật tiền bối giết sư phụ có gì làm bằng chứng không?
                        Mai Huyền Sương cười lớn:
                        – Khi chúng tôi chất vấn y, y đã im miệng không nói gì. Như thế cũng đủ rõ y giết sư phụ rồi.
                        Nguyễn Trát quát lớn:
                        – Mai tiền bối ngậm máu phun người. Tiên sư quyết không có hại thái sư phụ. Nay tiên sư qua đời rồi, ngươi muốn nói gì chẳng được? Ngươi... ngươi thực là độc ác, bịa đặt ra những điều phi nhân để đổ cho người quá cố. Ngươi thực hèn hạ hết chỗ nói.
                        Lê Đạo Sinh nói:
                        – Ở đây không phải là chổ tranh chức chưởng môn. Thể lệ chúng ta đặt ra là tuyển người có võ công cao nhất đi Trung-nguyên. Vậy, trong phái Long-biên, ai có võ công cao nhất thì ngồi vào ghế.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #27
                          Hồi 26 Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây, (Nguyễn Công Trứ)

                          Tô Định lên tiếng:
                          – Ai phải, ai trái, không cần biện minh. Hôm nay chúng ta hội nhau ở đây để tuyển cao nhân của các môn phái. Hai vị có cãi nhau đến một trăm năm hầu phân trắng, đen cũng vô ích. Vậy, hai vị hãy dùng võ công để phân cao, thấp.
                          Tô Định vốn ít nói, nhưng y là người xảo quyệt, nên lời nói của y khó ai cãi nổi. Chủ ý của y là đưa bọn Nghĩa Nam lên làm đại diện phái Long-biên sang Trung-nguyên cầu phong. Khi bọn chúng đã được sắc phong của Hán-đế, Tô Định tha hồ sai khiến. Bọn Nghĩa Nam được thụ phong, chỉ họ mới được dạy võ. Nguyễn Trát, Đông Bảng muốn được dạy võ, phải quy phục bọn tay sai Tô Định, nếu không, Tô sẽ căn cứ vào Ngũ-lệnh đem ra chặt đầu. Trước mắt, đấu võ thì Phan, Nguyễn muôn ngàn lần không phải là đối thủ của sư bá, sư thúc.
                          Nguyễn Trát biết ý Tô Định, nên nói với Đông Bảng:
                          – Chúng ta phải động võ thôi! Hôm nay, anh em chúng ta sẽ lấy cái chết để báo ơn liệt tổ. Nghĩa sĩ tuy chết, nhưng tinh thần còn để lại cho ngàn sau.
                          Phan Đông Bảng tự biết, ông không phải là đối thủ của một trong ba người sư bá, sư thúc. Ông nổi tiếng thiên hạ về đạo đức, hiệp nghĩa. Võ lâm kính trọng ông vì ông chỉ biết có phản Hán phục Việt. Bây giờ, bọn sư bá, sư thúc vì ham bả công danh phú quý, bán liệt tổ Âu-lạc, bán rẻ lương tâm, mặc cho đồng bào nguyền rủa, có đem đạo lý ra nói với họ cũng không khác gì đàn gảy tai trâu.
                          Ông quyết định: Thà không còn phái Long-biên, chứ không thể để phái Long-biên trở thành đầy tớ cho người Hán. Ông rút kiếm đứng giữa đài, hướng vào anh hùng thiên hạ hành lễ, rồi nói:
                          – Thưa chư vị anh hùng bốn phương. Phái Long-biên do Vạn-tín hầu thành lập trải đã hai trăm năm. Đời nào cũng giữ một tâm niệm, đem võ công để hành hiệp. Lấy nhân, nghĩa làm đầu. Chẳng may mấy năm gần đây, ba phản đồ ra làm quan với người Hán, dùng võ công của tổ tiên sát hại người Việt. Chúng mang đệ tử, tráng đinh đi bắt dân xung vào lao binh. Chúng lại bắt dân chúng thu góp lúa gạo, lừa ngựa, đưa sang Trung-nguyên dùng vào chiến tranh. Các trang ấp thuộc quyền chúng, nhà nhà, người người đều kêu than. Tiếng khóc mối hận bốc lên tới trời. Bây giờ, chúng còn bước xa hơn, mưu đánh chiếm trang ấp của tệ sư huynh Nguyễn Trát và của các sư đệ Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang, Trần Khổng Chúng và tôi. Chúng tiến xa hơn nữa, bắt tất cả đệ tử phái Long-biên thành trâu cày cho người Hán, thành chó giữ nhà cho người Hán. Vì vậy, chúng tôi nguyện đem cái chết để báo ơn liệt tổ Âu-lạc.
                          Ông hướng về Nam Hải nữ hiệp:
                          – Nam Hải nữ hiệp! Người là đệ nhất Thái-bảo của phái Sài-sơn. Phái Sài-sơn mấy trăm năm nay, tượng trưng cho đạo lý, vậy, xin nữ hiệp phán cho một điều: Những người đã ly khai môn hộ, có còn đủ tư cách lên đài tranh phong nữa hay không?
                          Mọi người im lặng, chờ Nam Hải lên tiếng. Bà chậm rãi đứng lên, nói:
                          – Từ xưa đến giờ, người tập võ lấy môn hộ làm trọng yếu. Những ai đã rời môn hộ sẽ không được nhân danh môn hộ nữa. Ba vị Lê, Hoàng, Mai! Ba vị đã rời phái Long-biên rồi, không còn đủ tư cách lên đài tranh phong là người có võ công cao nhất phái này.
                          Quảng trường vỗ tay rào rào.
                          Lê Nghĩa Nam hướng vào Tô Định:
                          – Tô đại nhân! Nếu cuộc đại hội hôm nay chỉ để đề cử người chưởng môn thì đại hội này trở thành đại hội chưởng môn sao? Chúng tôi tiếp được thẻ tre của Lục-trúc tiên sinh nói rằng: Đến đại hội Tây-hồ để cử đệ nhất cao nhân các môn, các phái. Tại sao bây giờ lại thay đổi thế này?
                          Lê Đạo Sinh đã chủ trương đưa bọn Nghĩa Nam làm đại diện phái Long-biên nên y đứng dậy, nói:
                          – Sáng kiến tổ chức đại hội là do Thái-hà trang chúng tôi. Tôi là người đứng ra tổ chức, tôi xin giải thích rõ: Không cần biết ai là chưởng môn, ai là đệ tử. Chỉ cần tuyển người võ công cao nhất mà thôi. Như phái Tản-viên của tôi, bất cứ ai biết sử dụng võ công bản phái, đều có thể trở thành người có võ công cao nhất.
                          Mai Huyền Sương cười the thé:
                          – Nguyễn Trát! Người chưa xuất trận đã hoảng sợ, thế còn xưng là chưởng môn được nữa hay không? Ta nghĩ, người nên về nhà đuổi gà cho vợ thì hơn.
                          Phan Đông Bảng giận run ngưòi, rút kiếm, nói:
                          – Lê, Hoàng, Mai! Xin mời ba vị ra đối chiêu cùng ta. Ta có chết cũng là anh hùng hào kiệt. Chỉ sợ sau này, ngươi chết đi, sẽ không còn mặt mũi nào nhìn liệt tổ dưới suối vàng nữa.
                          Lê Nghĩa Nam cười gằn:
                          – Ta là sư bá của ngươi, dù cho đến sư phụ ngươi cũng phải lui bước. Ngươi dám đấu với ta, quả ngươi to gan thực. Thôi được, ngươi ra tay đi. Chúng ta sẵn sàng dạy dỗ bọn hậu bối các người.
                          Y ngưng lại một chút rồi vẫy Mai Huyền Sương:
                          – Sư muội! Ngươi lên dạy dỗ cho tên sư điệt này mấy chiêu.
                          Thái độ của y đầy ngạo mạn, coi Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng không vào đâu cả.
                          Mai Huyền Sương từ chỗ ngồi, nhấp nhô mấy cái đã tới khán đài. Y thị nhảy lên đài. Khi còn lơ lửng trên không, đã rút kiếm nhắm đầu Phan Đông Bảng đâm xuống, uy thế cực kỳ mãnh liệt. Đồng thời, tay trái còn phóng thêm một chưởng.
                          Phan Đông Bảng cũng đánh một chưởng lên không hướng vào Mai Huyền Sương. Tay trái rút kiếm, ra chiêu đâm vào ngực y thị. Hai kình lực chạm nhau. Người Mai Huyền Sương bay vọt lên cao, lộn hai vòng ở trên không. Lúc đáp xuống, y thị khoa kiếm phóng năm chiêu, bao trùm lấy người Đông Bảng. Đông Bảng cũng phản lại bằng năm chiêu kiếm. Khi Mai Huyền Sương đáp xuống đài, hai người đã chiết đủ năm chiêu.
                          Từ trước đến giờ, anh hùng hào kiệt Lĩnh Nam nghe đồn kiếm pháp Long-biên vô địch thiên hạ. Bây giờ họ mới được thấy lần đầu, đều sinh lòng kính phục.
                          Khán giả được coi võ công Long-biên do hai đệ nhất cao thủ đấu với nhau trên đài, họ tự an ủi:
                          – Mình mất công đi dự đại hội, được kiến thức những võ công kỳ diệu như vậy, cũng không uổng công.
                          Mai Huyền Sương, tay trái bắt kiếm quyết, tay phải vòng kiếm tà tà hướng vào ngực Đông Bảng, thái độ phiêu hốt, như đùa cợt. Nhưng Phan Đông Bảng đâu phải tầm thường? Ông phóng liền chín chiêu kiếm veo, veo, veo khiến Mai Huyền Sương không còn dám coi thường ông nữa.
                          Hai người quấn lấy nhau. Ánh kiếm lấp lánh như chớp. Lúc đầu, người ta còn nhìn rõ, ai là Huyền Sương, ai là Đông Bảng. Nhưng rồi sau không ai phân biệt được hai người nữa.
                          Nguyễn Trát thấy sư đệ bản lãnh cao hơn mình thì nhường cho ông là người võ công cao nhất, chứ thực sự, ông cũng không biết trình độ võ công của Đông Bảng tới đâu. Bây giờ được thấy bản lãnh thực sự của sư đệ, ông mới thán phục.
                          – Mấy năm nay sư đệ luyện tập không ngừng. Võ công sư đệ đã tới trình độ này thì hơn ta gấp bội.
                          Bỗng Mai Huyền Sương nhảy vọt lên cao, chém liền chín chiêu, thế kiếm xiêu vẹo rất kỳ quái. Đông Bảng vừa đỡ vừa tự hỏi:
                          – Kiếm này là kiếm gì?
                          Chính Đào Kỳ cũng tự hỏi:
                          – Kiếm này không phải kiếm của Long-biên. Huyền Sương học ở đâu, giờ này mụ mới đưa ra?
                          Nguyên bọn Mai Huyền Sương cưỡng bức sư phụ truyền khẩu quyết về 72 thức trấn môn và bài quyết biến hóa không được. Họ đã họp nhau cùng nghĩ ra những chiêu thức mới để thay thế. Tuy không ảo diệu bằng sư phụ, nhưng cũng là những chiêu thức sát thủ. Trong lúc đấu với Đông Bảng, mụ đã sử dụng hết võ công của Long-biên mà không hạ được ông, mụ mới dùng đến.
                          Phan Đông Bảng thấy kiếm pháp kỳ lạ, ông hơi bỡ ngỡ, lùi dần về góc đài.
                          Đào Kỳ thấy Đông Bảng chống đỡ yếu ớt, chàng vội đến bên Phùng Vĩnh Hoa định vấn kế. Vĩnh Hoa đoán trước, cười nói:
                          – Cậu em ngoan ngoản, cậu muốn chị cứu Phan Đông Bảng phải không? Được. Nhưng cậu phải hứa sau này phải làm cho chị ba việc. Đào Kỳ gật đầu:
                          – Nếu lợi cho Âu-lạc thì dù một ngàn hay một vạn việc em cũng xin tuân. Chị mau cứu Phan Đông Bảng tiên sinh đi.
                          Phùng Vĩnh Hoa viết mấy chữ vào tờ giấy, bảo Đào Kỳ:
                          – Cậu lại búng đến trước mặt Hồ Đề đi.
                          Đào Kỳ cầm viên giấy, búng đến vèo một cái. Viên giấy bay đến trước mặt Hồ Đề thì mở bung ra và từ từ rơi xuống. Thấy tờ giấy do Đào Kỳ bắn đến, Hồ Đề cầm lấy đọc qua, tủm tỉm cười. Mắt nàng sáng lên, hướng về phía Phùng Vĩnh Hoa gật đầu, tỏ ý đã hiểu. Trên đài, Phan Đông Bảng chỉ còn chống đỡ yếu ớt, chiêu thức đã rời rạc. Mai Huyền Sương quát lớn:
                          – Ta cắt bao kiếm ngươi đây.
                          Xoẹt một cái, bao kiếm đeo bên mình Phan Đông Bảng đã rơi xuống đất. Mai Huyền Sương lại nói:
                          – Ta cắt râu ngươi đây!
                          Ánh thép loáng qua, râu Phan Đông Bảng rơi lả tả xuống đài. Khán giả nín thở, mắt không chớp, chờ diễn biến trên đài. Mai Huyền Sương lại la lên:
                          – Ta khoét mắt trái của ngươi đây!
                          Kiếm mụ vung lên tà tà phóng vào mắt Phan Đông Bảng. Nhưng, bất thình lình một vật to bằng bắp tay bay đến trước mặt Đông Bảng. Cử tọa giựt mình, ngơ ngác:
                          – Trên đời làm gì có ám khí lớn, thô kệch đến thế kia? Ám khí gì mà lại bay chậm như thế?
                          Mũi kiếm Mai Huyền Sương sắp đâm vào mắt Đông Bảng thì bị ám khí chạm phải, đánh choang một cái. Mũi kiếm bị lệch đi. Phan Đông Bảng nhảy vọt lên cao, lộn một vòng, đáp xuống giữa đài. Huyền Sương coi lại ám khí thì thấy đó là một cái bình bằng sành, lớn hơn bắp chân. Bình bị kiếm đánh vỡ, một chất lỏng thơm ngát trong bình bắn tung toé vào người mụ. Mụ sợ chất lỏng có độc, vội quay kiếm phong kêu lên vo vo. Tuy nhiên, chất lỏng cũng đã bám vào người mụ khá nhiều. Kiếm của mụ đánh vào chất lỏng, bay khắp nơi. Tô Định ngồi gần chỗ mụ nhất, người y với đám vệ sĩ bị chất lỏng bắn vào. Một giọt chất lỏng bắn vào môi, Tô thấy mùi thơm ngọt, thì ra là ... mật ong.
                          Tô Định hướng mắt vào nơi xuất phát của cái bình, thấy đó là khán đài của đệ tử 72 động Tây-vu. Từ lúc Hồ Đề đến, Tô đã có ý úy kỵ người con gái ngỗ nghịch, tính tình hào sảng như nam tử này. Y quay lại hỏi Nghiêm Sơn:
                          – Thưa Quốc-công! Quốc Công đã điều tra về Hồ Đề, gốc tích nàng ra sao? Xin Quốc-công dạy cho.
                          Nghiêm Sơn tuy ghét Tô Định vì y tàn ác, tham nhũng, nhưng dù sao y cũng là kẻ dưới quyền mình. Khi kẻ dưới quyền thỉnh thị sự hiểu biết, chàng phải trả lời y:
                          – Tại vùng núi Thiên-sớ có 72 động, nằm chung quanh núi Tây-vu. Ở đấy, dân chúng đều thuộc sắc dân Mường. Người Mường sống với núi rừng, thú dữ quanh năm, nên họ bắt thú nuôi, dạy dỗ để sử dụng. Cách đây năm mươi năm, họ họp nhau lại bầu lấy người thống lĩnh 72 động. Thể lệ cứ năm năm bầu lại một lần. Năm trước đây, một thiếu nữ trẻ là Hồ Đề được suy cử làm Thống-lĩnh. Lực lượng động Tây-vu có hơn một quân, gồm toàn tráng đinh, leo núi, băng rừng rất giỏi. Về thú vật, họ có đội Thần-hổ 500 con, đội Thần-báo 500 con, đội Thần-tượng 200 con, đội Thần-ngao 2.000 con, đội Thần-xà hơn vạn con, đội Thần-ưng 3.000 con, đội Thần-phong hơn hai mươi triệu con. Ta nghe địa phương báo cáo rằng nàng có ý làm phản, nên ta đã tới Tây-vu điều tra. Hồ Đề không có ý khởi binh, nàng chỉ không ưa bọn tham quan mà thôi. Nàng tiếp đãi ta rất nồng hậu, còn tặng ta một cái bao kiếm bằng ngà voi nữa. Nàng rất thân với phu nhân của ta.
                          Nghiêm Sơn chưa dứt lời, đã có những tiếng u u từ xa vọng lại. Rồi một bầy ong bay đến, nhào xuống đốt Mai Huyền Sương. Bất ngờ bị ong tấn công, đốt đau quá, mụ lấy tay phủi những con bu trên người rồi dùng kiếm múa tít tạo thành một vòng rào bảo vệ khắp cơ thể. Ánh kiếm như quả cầu bạc khiến đàn ong không xâm phạm vào người mụ được. Nhưng người mụ cũng đã sưng vù vì đợt tấn công đầu tiên bất ngờ của đàn ong. Mụ cảm thấy đau nhức không thể chịu được.
                          Có tiếng huýt sáo vọng lên từ phía 72 động Tây-vu. Đàn ong tức thời ngưng tấn công, bay lên cao lượn vòng tròn đầy vẻ đe dọa. Mai Huyền Sương đã bị hơn trăm con ong đốt, nọc ong khiến mụ phát khùng. Thấy ong đã bay lên cao, nhưng mụ vẫn cầm kiếm, ngửa mặt lên trời, đề phòng.
                          Phan Đông Bảng đang lúc nguy cấp, tự nhiên có đàn ông bay đến giải cứu, ông biết đã có người cứu mình. Ông đưa mắt nhìn về nơi phát ra tiếng sáo, đó là khán đài của đệ tử Tây-vu. Ông gật đầu, tỏ ý cám ơn, rồi ôm kiếm đứng thủ.
                          Đàn ong cứ bay lượn trên đầu hai người như diễu cợt, như đe dọa. Thỉnh thoảng hàng trăm con bất thần nhào xuống, khi Mai Huyền Sương khoa kiếm gạt, ong lại bay lên cao.
                          Một lát sau, có tiếng huýt sáo nữa. Đàn ong chia làm hai ngả. Một bay sang đông, một bay sang tây. Hai đàn ong bay đi bay lại, ngược chiều nhau. Đôi khi lại vọt lên cao. Phía các trọng tài cũng thấy ớn da gà, không biết đàn ong sẽ đáp xuống lúc nào. Bỗng tiếng vo vo nổi lên, một đàn ong chia làm ba nhào xuống phía trọng tài, tấn công Tô Định, Nghiêm Sơn và Lê Đạo Sinh. Bấy giờ người ta mới biết đàn ong này do người nào đó không ưa Hán, thả ra để phá đám đại hội, đám người Hán trên đài. Chỉ riêng Nam Hải nữ hiệp và Phan Đông Bảng không bị ong tấn công. Bên khán đài Sài-sơn, đệ ngũ Thái-bảo là Nam-thiên đại hiệp Đặng Đường Hoàn tính tình cương trực, ghét cay ghét đắng bọn người Việt theo Hán, thấy vậy bảo khẻ Vĩnh Hoa:
                          – Cháu hay thực! Đem bọn nó ra làm trò cười cho thiên hạ. Sư thúc biết Hồ Đề chỉ huy được đàn ong, nhưng không có sáng kiến. Cháu chế tạo ra cách trêu bọn Hán cho bõ ghét, làm trò cười cho chúng ta.
                          Vũ Trinh Thục ghét cay ghét Lê Đạo Sinh, ghé tai Phùng Vĩnh Hoa nói nhỏ:
                          – Sư tỷ! Chị làm sao cho ong đốt lão Lê Đạo Sinh kia mới thú. Cách đây hai năm, y đã sai đệ tử của y tấn công phụ thân em, rồi hắn xuất hiện đánh đuổi, ra bộ nghĩa hiệp, đem phụ thân em với em về trang Thái-hà trị bệnh. Hắn đợi lúc phụ thân em cảm kích, hắn muốn kéo theo hắn để mưu đồ bá chủ võ lâm. Nhưng phụ thân em đã từ chối, cho rằng việc đó người không có quyền. Tất cả phải do tám vị Thái-bảo cùng quyết định đồng ý mới được....
                          Trên đài, Tô Định, Lê Đạo Sinh, Nghiêm Sơn cùng vung chưởng đánh dạt đàn ong ra xa. Nhưng đàn ong hướng Nghiêm Sơn không tấn công chàng, lại bay ra phía sau tấn công đám đệ tử của Tô Định. Trên đài náo loạn cả lên. Tô Định bị một vài con ong lọt lưới đốt y. Y la hét vang trời. Cử tọa được dịp cười đến chảy nước mắt.
                          Vĩnh Hoa lại cầm bút viết vào mảnh giấy, vo viên lại, đưa cho Đào Kỳ. Đào Kỳ dùng đàn chỉ búng đến véo một cái tới trước mặt Hồ Đề. Hồ Đề đón tờ giấy, đọc xong nàng cười như nắc nẻ, nhìn sang phía Sài-sơn gật đầu. Rồi, nàng quay lại nói vài câu với một con vượn ngồi gần. Con vượn nhảy về phía sau, biến mất.
                          Hồ Đề huýt sáo mấy tiếng. Đàn ong không tấn công nữa, tập họp thành ba đoàn, bay vòng tròn trên đài, đầy vẻ đe dọa.
                          Tô Định, Lê Đạo Sinh, Mai Huyền Sương không phải dùng võ đuổi ong nữa. Tô Định ngồi xuống ghế. Bỗng hắn nhảy choi choi lên như con khỉ, tay xoa đít vẻ đau đớn, miệng la oai oái.
                          Khán giả cười ầm lên, vỗ tay đôm đốp tỏ vẻ khoái chí. Nghiêm Sơn để ý thấy một bầy ong từ dưới khán đài thình lình tập kích dưới chân Tô Định.
                          Khán giả chưa cười xong thì tới lượt Lê Đạo Sinh. Nguyên Đạo Sinh thấy Tô Định vì mải nhìn lên nên bị tấn công phía dưới, y vội nhìn xuống quan sát, đề phòng. Nhưng đàn ong phía trên lại nhào xuống tấn công vào mặt y.
                          Thực ra, với bản lãnh của y, y dư sức phát hiện tiếng bay dù của một con ong nhỏ. Nhưng Vĩnh Hoa đã dặn Hồ Đề cho ong đốt Tô Định, để khán giả vỗ tay, khiến Lê Đạo Sinh không còn nghe được tiếng ong bay, nên đã bị ong từ trên nhào xuống đốt. Đạo Sinh bị ong chích, bị chế diễu, y tức quá, hoá khùng, vung chưởng hướng vào đàn ong. Giữa lúc đó, Tô Định cũng phóng chưởng về phía đàn ong. Hai chưởng gặp nhau, bùng một tiếng. Cả hai cùng cảm thấy tê dại cả cánh tay, người lảo đảo. Hai người nhìn nhau:
                          – Xin lỗi! Xin lỗi!
                          Hai người vì sơ hở, lại bị mấy con ong tấn công từ trên xuống. Tô, Lê đều là những nhân vật uy nghi, quyền thế, hách dịch nhất Giao-chỉ. Bây giờ bị ong đốt phải nhảy choi choi trên đài, khiến khán giả được dịp cười đến bò lăn ra.
                          Hồ Đề tuy biết điều khiển ong, nhưng nàng không thông minh bằng Vĩnh Hoa, nên nàng đọc mảnh giấy, thấy Vĩnh Hoa bảo sao, nàng làm y như vậy, không ngờ kết quả lại ngoài sức tưởng tượng của nàng. Hồ Đề khoái chí, cười khúc khích.
                          Nam Hải nữ hiệp và Nghiêm Sơn ngồi trên đài thấy ong không tấn công mình, mà chỉ tấn công Tô Định, Lê Đạo Sinh, Mai Huyền Sương.... thì biết ngay có người nghịch ngợm. Liếc về phía Hồ Đề, thấy nàng hướng về phía Sài-sơn. Bà nhìn theo, thấy bảy sư đệ, sư muội của mình đang hướng về phía Phùng Vĩnh Hoa vừa cười vừa nói. Bà biết ngay Vĩnh Hoa bày mưu cho Hồ Đề làm việc này.
                          Tô Định là người cực kỳ thông minh. Y thấy Nam Hải nữ hiệp nhìn về phía phái đoàn Tây-vu và Sài-sơn thì cũng nhìn theo. Y biết gốc của sự phá rối là ở hai phía này, nhưng y không có chứng cớ. Y đứng lên nói lớn:
                          – Phàm là anh hùng, đại trượng phu thì phải quang minh lỗi lạc. Ai là người phá phách, hãy xuất hiện, đấu cùng ta trăm chưởng. Tại sao lại dùng thủ đoạn hèn mọn như vậy? Ta... úi dza... úi dza....
                          Trong khi y mãi nói, bọn ong nhào xuống đốt vào lưng y. Y nhảy chồm chồm, làm cho khán giả cười rú lên, bò lăn bò lộn.
                          Thấp thoáng một cái, năm người đã nhảy lên đài, rút kiếm đứng sau y, múa đánh dạt ong ra. Đàn ong từ từ bay đi mất trong đêm. Năm tên vệ sĩ của Tô Định chửi đổng:
                          – Bọn chó Việt nào cắn trộm như vậy?
                          Y vừa chửi, vừa hướng mắt khắp bốn phương đầy vẻ hung dữ. Nhưng bỗng cả bọn cùng nhảy lên chồm chồm vì thấy dưới chân bị một vật gì mềm mềm trườn qua, trườn lại. Chúng nhảy lên mới nhìn rõ đó là những con rắn màu lục. Bọn chúng mới sang Giao-chỉ, nghe nói ở đất này có loại rắn Lục, sau khi bị cắn, chỉ nửa giờ sau là chết. Năm tên cùng bị rắn cắn. Chúng chụp lấy mấy con rắn liệng lên trời, dùng kiếm chặt đứt. Mặt chúng tái mét.
                          Tô Định hướng về phía Nam Hải nữ hiệp, nói:
                          – Trần phu nhân là con cháu Phù-đổng Thiên-vương tại sao lại đi nuôi ong, nuôi rắn hại người? Như vậy đâu phải anh hùng?
                          Nam Hải nữ hiệp Trần thị Phương Châu đứng dậy, nói:
                          – Thưa các anh hùng thiên hạ! Bản phái từ xưa đến giờ chỉ biết hành hiệp nhân, nghĩa, chưa từng biết nuôi ong, nuôi rắn. Tô Thái-thú nói thế e quá lời chăng? Trên đài có bốn trọng tài, tại sao ong chỉ đốt có Thái-thú và Lục-trúc tiên sinh? Còn Quốc-công với tôi không bị? Ngoài kia, Mai nữ hiệp bị ong đốt, còn Phan tiên sinh lại không việc gì cả?
                          Dưới đài có tiếng la:
                          – Ong chỉ đốt bọn ác độc!
                          – Ong chỉ đốt bọn bán nước!
                          – Rắn chỉ cắn bọn lưu manh!
                          Mai Huyền Sương hướng vào Hồ Đề:
                          – Hồ Thống-lĩnh! Giữa phái Long-biên chúng tôi với Hồ Thống lĩnh không thù không oán, sao Hồ Thống-lĩnh lại ra tay hạ độc thủ? Mối hận này Hồ Thống-lĩnh định giải quyết ra sao?
                          Hồ Đề đứng dậy cười:
                          – Giữa phái Long-biên với 72 động Tây-vu không những không thù oán, mà còn thân thiện là đàng khác. Chúng tôi đâu dám động đến người của phái Long-biên. Tôi công nhận ong, rắn là của tôi nuôi. Ong, rắn này được dạy dỗ nhân nghĩa, nên nó chỉ cắn, chỉ đốt bọn phản đồ, bọn bất nhân mà thôi. Tô đại nhân bảo ai là Anh hùng đại trượng phu lên đấu với ngài. Thưa Tô Thái-thú, thứ nhất, tôi không phải anh hùng; thứ nhì, tôi cũng không phải là đại trượng phu. Tôi là con gái mà!
                          Nàng là người Mường, phải uốn cong lưỡi lên để nói tiếng Việt. Nàng tiếp:
                          – Ong, rắn của tôi đã đốt người vô đạo đức, nên phải có người đạo đức nói nó mới nghe. Vậy các vị trên đài, ai tự nhận là người đạo đức, hãy lên tiếng đi, bọn chúng sẽ trở về liền.
                          Trong khi Hồ Đề nói, đàn ong vẫn bay đi bay lại trên cao, đầy vẻ hăm dọa, làm mọi người trên đài cứ phải nhìn theo để đề phòng. Phan Đông Bảng hướng vào Hồ Đề, nói:
                          – Hồ Thống lĩnh! Xin người thu ong về được chăng?
                          Đông Bảng vừa nói dứt câu, bỗng đàn ong tụ lại, rồi bay vào bóng đêm.
                          Hồ Đề cười, nói:
                          – Phan tiên sinh! Không phải tôi nghe lời tiên sinh đâu nhé. Chính bầy ong nghe lời tiên sinh đấy.
                          Năm tên vệ sĩ của Tô Định biết nếu chậm trễ sẽ nguy. Chúng nháy nhau, rồi cùng hướng về phía Hồ Đề, rút kiếm, phi thân xuống. Hồ Đề biết mình không phải là đối thủ của chúng, nên nàng đưa cây tù và lên miệng thổi một hồi. Lập tức có hàng vạn tiếng gầm gừ rung chuyển trời đất, rồi một đàn vừa beo, vừa cọp, vừa sư tử từ sau khán đài ào ào chạy ra, nhe răng, múa vuốt đe dọa năm tên vệ sĩ của Tô Định. Ai nhìn thấy cảnh đó cũng sởn gai ốc. Năm tên vệ sĩ thấy vậy, ớn da gà, vội vung kiếm thủ thế.
                          Tô Định thấy nguy, quát lớn:
                          – Thiết kỵ đâu! Ra tay mau!
                          Khi chuẩn bị đại hội Tây-hồ, Tô Định đã bàn với Đạo Sinh mang hai lữ thiết kỵ đóng gần đó, phòng khi hữu sự sẽ kịp thời ra tay. Nhưng, người có quyền ra lệnh cho kỵ binh lại là Nghiêm Sơn chứ không phải Tô Định, nên hai lữ trưởng kỵ binh vội liếc mắt nhìn Nghiêm Sơn để hỏi ý kiến. Nghiêm Sơn lắc đầu. Họ lại trở về chỗ ngồi. Tô Định giận lắm, hỏi Nghiêm Sơn:
                          – Quốc công! Tại sao Quốc-công không chịu ra tay?
                          Nghiêm Sơn quắc mắt nhìn y:
                          – Kỵ binh của Thiên-tử không dùng để giết người vô cớ. Tô Thái-thú! Tôi là Bình-nam đại tướng quân, trách nhiệm mọi vấn đề an ninh. Đại hội Tây-hồ nhằm để tuyển người tài về yết kiến Thiên-tử, chứ không phải là dịp để giết anh tài, hại hào kiệt. Thái-thú không được làm chuyện trái đạo lý như vậy.
                          Người mà Tô Định sợ nhất là Nghiêm Sơn. Từ ngày sang Giao-chỉ, y cứ phải nhờ vả Nghiêm hoài. Y thường dùng lời ngọt ngào để đưa đẩy. Hôm nay, bị ong đốt, bị mang ra làm trò cười, y tức quá mới dám buông lời cộc cằn. Y biết mình thất thố, vội vàng chắp tay:
                          – Xin Quốc-công rộng dung.
                          Nghiêm Sơn chỉ vào năm tên vệ sĩ của Tô Định, nói với Hồ Đề:
                          – Hồ cô nương! Năm vị đây quả có đôi lời xúc phạm tới cô nương. Xin cô nương đại ân đại đức ban cho chúng thuốc giải.
                          Hồ Đề nhìn sang khán đài Sài-sơn, thấy Đào Kỳ gật đầu nàng hú lên một tiếng. Lập tức, đàn thú dữ thứ tự lui ra sau khán đài. Rồi nàng vẫy tay một cái, một con vượn trắng chạy tới, trên cổ có đeo một bình sành. Nàng lấy bình, đổ ra năm viên thuốc, đưa cho nó rồi chỉ Nghiêm Sơn. Con vượn trắng băng mình nhảy lên đài, hướng vào Nghiêm Sơn hành lễ, đưa năm viên thuốc.
                          Hồ Đề hướng lên đài nói:
                          – Nghiêm đại hiệp! Nể lời đại hiệp, tôi xin tặng năm viên thuốc giải nọc rắn độc. Cứ uống vào, một trăm ngày sau sẽ khỏi. Trong một trăm ngày đó, cấm không được uống rượu, cấm gần đàn bà. Nếu không giữ được hai điều đó, đừng có chê thuốc của tôi không hiệu nghiệm.
                          Năm tên vệ sĩ vội chắp tay tạ Hồ Đề, rồi lên đài đến trước Nghiêm Sơn qùy xuống lĩnh thuốc:
                          – Đa tạ Quốc-công cứu mạng.
                          Trưng Nhị nói với Thi Sách:
                          – Anh thấy không? Hồ Đề tặng thuốc là tặng Nghiêm Sơn. Tặng một đại hiệp chứ nàng không coi Nghiêm Sơn là vua Lĩnh-nam. Thiếu nữ này hào sảng, lỗi lạc, quang minh chính đại như một quân tử của đạo Khổng. Ước gì Lĩnh-nam có thêm mấy người như vậy nữa.
                          Lê Nghĩa Nam thấy Hồ Đề ra tay hai lần đều có âm độc vô cùng, y là người khôn ngoan, vội tiến lên, nói:
                          – Hồ Thống-llĩnh! Tôi khẩn cầu Thống-llĩnh ban cho một chút thuốc giải độc cứu sư muội tôi. Nguyện sẽ báo đáp.
                          Lê Đạo Sinh đứng lên nói:
                          – Hồ Thống-lĩnh! Phái Long-biên đang cử người võ công cao nhất, tại sao Hồ Thống-lĩnh lại xen vào như vậy?
                          Hồ Đề cười khúc khích:
                          – Tôi có can thiệp đâu? Lục-trúc tiên sinh nói nghe lạ tai quá! Thế tôi can thiệp bằng võ công thì tôi đã đánh những chiêu nào? Đã dùng võ công nào? Chẳng qua tôi thấy Phan tiên sinh đánh võ mệt quá, vội biếu người một bình mật ong. Không ngờ Mai nữ hiệp dùng kiếm đập vỡ. Ong thấy mật thì bay đến hút, cho nên Mai nữ hiệp mới ra cớ sự như vậy. Thôi, tôi tặng thuốc giải đây.
                          Hồ Đề huýt sáo một tiếng. Con vượn trắng lại tiến tới trước mặt nàng, chắp tay hành lễ. Hồ Đề lựa một lọ trong số mấy lọ đeo lủng lẳng trên cổ con vượn, lấy ra ba viên, đưa cho Nghĩa Nam:
                          – Người mau đưa cho Mai nữ hiệp uống. Nhớ uống nhiều nước.
                          Mai Huyền Sương uống vào, một lát đã thấy hết đau đớn. Mụ đưa mắt hận thù nhìn sang phía 72 động Tây-vu rồi bước lên đài, chĩa kiếm vào Đông Bảng, nói:
                          – Ta lại dạy dỗ mi mấy chiêu!
                          Mụ đưa kiếm đánh vèo một cái, đâm vào ngực Đông Bảng. Phan Đông Bảng đưa kiếm đánh trả. Hai người lại cuộn lấy nhau như trước. Nhưng lần nầy kiếm của Mai Huyền Sương chậm lại một chút, vì ảnh hưởng của trận bị ong đốt vừa rồi. Đến trên hai trăm hiệp, Đông Bảng bắt đầu đuối sức, kiếm pháp đã rối loạn. Bỗng choang một tiếng, kiếm của Đông Bảng bị đánh bay lên trời, còn Mai Huyền Sương bị lùi lại góc đài. Đông Bảng vai bị thương, máu chảy ướt đẫm cả áo.
                          Nguyễn Trát la lớn:
                          – Sư đệ! Sư đệ!
                          Ông nhảy lên đài. Huyền Sương vung kiếm tấn công liền. Nguyễn Trát rút kiếm chống lại. Hai người quần thảo với nhau. Dưới ánh trăng, hai kiếm bay lượn như hai con rắn bạc.
                          Anh hùng các nơi thấy Nguyễn Trát đấu với Mai Huyền Sương, kiếm pháp hai người hư hư thực thực, lấp lánh dưới ánh trăng như hai quả cầu bạc. Họ tấm tắc khen ngợi:
                          – Kiếm pháp Long-biên do Vạn-tín hầu sáng chế ra, ngày xưa đã từng thắng phò mã Sơn Tinh. Ngài dùng kiếm pháp này sang Hàm-dương đấu với các võ sĩ của Tần, không ai chịu nổi là phải.
                          Có người bàn:
                          – Người ta nói kiếm pháp Long-biên tuyệt hảo, hôm nay mới được thấy sự thực. Nếu mình đấu với Nguyễn Trát, chắc đã bị bại từ lâu rồi.
                          Đào Kỳ nhìn thế kiếm hai người, suy nghĩ:
                          – Mình có nên ra tay không? Nếu cứ đà này, Nguyễn tiên sinh bại là cái chắc rồi. Nhưng nếu mình lên đài, sẽ ăn nói ra sao? Mình phải hiển hiện nguyên hình, như vậy người ta sẽ không đồng ý vì mình thuộc phái Cửu-chân.
                          Quả nhiên, nghe đến choang một cái, kiếm của Nguyễn Trát bị đánh văng lên cao, rồi rơi xuống đài. Mai Huyền Sương dí kiếm vào cổ ông. Mụ nói:
                          – Qùy xuống van xin ta sẽ tha mạng cho.
                          Nguyễn Trát khẳng khái nói:
                          – Ta thà chết, chứ không chịu đầu hàng bọn phản đồ các người.
                          Mai Huyền Sương cười nhạt:
                          – Cái đó dễ lắm. Ngày này năm sau là ngày giỗ của ngươi đây.
                          Huyền Sương cất kiếm lên. Nhiều người nhắm mắt lại. Bỗng một bóng xanh từ phái Long-biên nhảy lên đài. Người chưa tới mà ánh kiếm bạc đã đổ ụp xuống người Huyền Sương:
                          – Ngừng tay!
                          Ánh kiếm hướng vào cổ Huyền Sương. Thế kiếm cực kỳ quái dị và thần tốc. Huyền Sương thấy thế kiếm phóng tới nhanh quá, không dám giết Nguyễn Trát nữa, vội hướng kiếm lên đỡ thế kiếm của bóng xanh.
                          Nguyễn Trát nhờ vậy nhặt được kiếm, nhảy lùi lại đỡ sư đệ Phan Đông Bảng.
                          Bóng xanh thấy Huyền Sương đưa kiếm đỡ, vội đổi chiêu, mũi kiếm hướng chênh chếch vào ngực y thị. Huyền Sương thất kinh, vội uốn cong người, rồi lộn một vòng để tránh. Nhưng người kia đã đáp xuống đài, mũi kiếm theo sát Huyền Sương chĩa vào thái dương y thị. Y thị vội thụp người xuống, nhưng mũi kiếm biến ảo khôn lường vẫn theo sát y thị. Huyền Sương kinh hoảng, lăn tròn đi hai vòng, rồi nhảy vọt lên mới thoát khỏi.
                          Người kia ngừng tấn công, quay hỏi Đông Bảng:
                          – Sư thúc! Người có sao không?
                          Bấy giờ mọi người mới nhìn rõ. Người tấn công Mai Huyền Sương là một cô gái nhỏ tuổi. Chính là Phương Dung.
                          Huyền Sương đỡ chín chiêu thần tốc của Phương Dung, chiêu nào cũng làm cho mụ suýt bỏ mạng. Bây giờ mụ mới mở mắt nhìn đối thủ thì thấy đó chỉ là một cô gái mới khoảng 18, 19, cực kỳ xinh đẹp. Mụ chống kiếm nhìn đối thủ và nhận được mặt Phương Dung.
                          Nguyễn Trát ôm Phan Đông Bảng nhảy xuống đài. Ông quay lại bảo Phương Dung:
                          – Con phải cẩn thận nghe!
                          Mai Huyền Sương đã hoàn hồn, mụ nghĩ:
                          – Con nhỏ này nhân lúc ta không chú ý, chỉ nhờ bất thần tấn công nên đã chiếm được tiên cơ đấy thôi.
                          Nghĩ rồi, mụ quát lớn:
                          – Mi là ai?
                          Phương Dung đáp:
                          – Ta là con gái của chưởng môn Long-biên tên Phương Dung.
                          Huyền Sương nói:
                          – Đến cha mi còn hụt chết, bản lãnh ngươi được là bao mà dám lên đây múa may? Ta là người trên không chấp kẻ dưới. Ngươi khôn hồn, hãy xuống đài ngay. Ta tha chết cho.
                          Khi Phương Dung nhảy lên đài, chỉ những người của phái Long-biên với Đào Kỳ là không ngạc nhiên mà thôi. Còn tất cả cử tọa đều ngẩn người ra vì nàng còn quá trẻ, công lực, kiếm thuật được là bao mà dám chống với Mai Huyền Sương?
                          Phương Dung thấy cha lâm nguy, vội nhảy lên đài, tuyệt nhiên nàng không dám nghĩ tới việc phải đấu với Mai Huyền Sương. Sau khi cứu được cha, nàng mới cảm thấy e ngại. Nàng không muốn tranh chức cao nhân phái Long-biên. Nay thấy Mai nói vậy, nàng vội vàng bước xuống đài.
                          Mai Huyền Sương quát:
                          – Con nhà mất dạy! Ta tha chết cho mà ngươi không cúi lạy ư?
                          Mụ phát tay tát Phương Dung một cái. Phương Dung không dám đưa tay đỡ, vì nàng biết công lực Mai Huyền Sương mạnh vô cùng. Nàng vội đẩy mũi kiếm vào cùi chỏ mụ. Nếu mụ tiếp tục tát, cùi chỏ mụ ắt bị thương. Mụ hoảng hồn, vội chuyển tay từ dưới lên trên, biến thành trảo chụp vào đầu nàng. Phương Dung hươi mũi kiếm lên trời, hướng vào bàn tay mụ, rồi không hiểu nàng làm thế nào, mũi kiếm quay tít hai vòng, kiếm quang bao trùm lấy đầu mụ. Mụ biết nguy hiểm, vội ngồi thụp xuống, lăn sang bên cạnh. Lưỡi kiếm của Phương Dung theo sát chĩa vào ngực mụ. Huyền Sương vội nhảy vọt lên cao để tránh lưỡi kiếm, nhưng Phương Dung đã xê dịch theo, hướng mũi kiếm vào bụng. Nếu Huyền Sương rơi xuống ắt bị thủng ngực. Mụ thất kinh, la lên một tiếng, đưa kiếm chém vào kiếm Phương Dung, định mượn đà nhảy ra xa. Nhưng Phương Dung đã chuyển động thân pháp, thu kiếm về làm mụ đỡ hụt, rồi véo một cái, lưỡi kiếm đã cắt đứt đai đeo kiếm của mụ.
                          Tất cả khán giả thấy Mai Huyền Sương sử dụng những thế võ kỳ diệu để tránh, trong khi Phương Dung biến kiếm chiêu để tấn công. Mắt họ không nhắm, tim muốn ngừng đập. Đến đây, mọi người thấy Huyền Sương thoát hiểm mới thở phào một cái. Tiếng vỗ tay vang lên. Người ngạc nhiên nhất là Hoàng Thiều Hoa. Nàng vốn thương tiểu sư đệ Đào Kỳ. Thấy Đào Kỳ, Phương Dung quấn quýt bên nhau, nàng sinh ra có cảm tình với cô bé này. Nàng cứ nghĩ rằng võ công Đào Kỳ còn kém nàng rất xa, do đó võ công của Phương Dung cũng chẳng hơn gì. Hôm nay thấy Phương Dung sử dụng những chiêu kiếm kỳ lạ, nàng mới kinh hoàng, ngạc nhiên.
                          Huyền Sương thoát chết, mặt mũi xám ngắt, đứng ở góc đài. Mụ nhận ra kiếm chiêu kỳ ảo của Phương Dung giống hệt thứ kiếm của sư phụ mụ. Trong đầu óc mụ nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn:
                          – Sư phụ đã bị anh em ta bắt giao cho Lê Đạo Sinh giam cầm, làm sao có thể dạy kiếm cho con nhỏ này? ừ, hay biết đâu lão quái chẳng bí mật chép tâm pháp rồi truyền ra ngoài cho con nhỏ này?
                          Mụ nắm chặt đốc kiếm thủ thế, nhìn đối thủ, tự nhủ:
                          – Con nhỏ này còn ít tuổi, y thị xưng là con Nguyễn Trát, nhưng ta thấy kiếm thuật Nguyễn Trát cũng tầm thường thôi. Vậy kiếm thuật này nó học ở đâu? Trên đời này chỉ có những người chưởng môn của Long-biên là được học những chiêu kiếm kỳ diệu này mà thôi. Nhưng từ khi sư phụ ta mất tích, những chiêu kiếm này đã thất truyền, sao con nhỏ này lại học được?
                          Lê Nghĩa Nam hỏi:
                          – Sư muội thế nào? Có sao không?
                          Huyền Sương run run đáp:
                          – Để thử lại xem. Có lẽ nó có tà thuật.
                          Phương Dung thuận tay ra chiêu chống Huyền Sương, nàng đã dùng tới một trong những chiêu thức trấn môn của Long-biên để tự cứu mình. Nhưng nàng vì chưa có kinh nghiệm nên hết chiêu đó thì ngừng lại. Nếu không, Huyền Sương đã mất mạng rồi.
                          Mai Huyền Sương quát lên một tiếng, phóng kiếm đâm vào ngực nàng. Phương Dung lại thuận tay đẩy ra một chiêu khác. Nàng ra chiêu sau, nhưng kiếm lại tới trước. Huyền Sương thấy kiếm phóng tới mạn sườn, vội nghiêng mình tránh. Nhưng kiếm của Phương Dung vẫn bám theo, hướng vào cổ mụ. Mụ vội thụp người xuống, mũi kiếm lại chỉ vào vai. Mụ phải lăn đi một vòng mới tránh khỏi. Nhưng vừa toan đứng dậy, mũi kiếm của Phương Dung đã tới vai. Sột một tiếng, vai thị đã trúng kiếm và thanh kiếm của mụ cũng vuột khỏi tay, rơi xuống đài. Phương Dung thu kiếm lùi lại, nói:
                          – Mai tiền bối! Người xuống đài đi!
                          Mai Huyền Sương tay bưng vết thương, mặt tái mét, run run đi muốn không vững:
                          – Con nhỏ kia! Kiếm thuật của ngươi đến trình độ đó, ngươi đã hơn cả Nguyễn Trát rồi. Ai là sư phụ của ngươi? Ngươi nói cho ta biết được chăng?
                          Phương Dung đáp:
                          – Đây là kiếm pháp Long-biên. Không do cha ta thì do sư thúc ta dạy cũng thế. Những chiêu ta sử dụng, ngươi đều biết cả rồi, có gì lạ đâu mà phải hỏi?
                          Câu nói này làm tất cả anh hùng hiện diện đều tỉnh ngộ: Rõ ràng những chiêu kiếm của Phương Dung là kiếm pháp Long-biên, ai cũng biết, nhưng Phương Dung đã sử dụng nó một cách thần tốc và biến chiêu kỳ ảo mà thôi. Nhất là các chiêu đã được nối liền với nhau một giây, không gián đoạn.
                          Dưới đài, Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng và các đệ tử Long-biên đều ngạc nhiên. Họ tuyệt không ngờ Phương Dung đã xử dụng kiếm thuật Long-biên đến trình độ siêu việt như vậy. Chính đám Lê Nghĩa Nam, Hoàng Đức Tiết, Mai Huyền Sương cũng ngạc nhiên không ít. Họ thấy kiếm thuật của Phương Dung giống hệt kiếm thuật của sư phụ họ. Nhưng rõ ràng sư phụ họ đã bị bắt giao cho Lê Đạo Sinh giam lại từ lâu. Gần đây không có tin tức gì nữa. Họ cho rằng sư phụ đã qua đời rồi. Bao nhiêu nghi vấn đến với họ: Hay là sư phụ họ còn sống, rồi truyền dạy võ cho con nhỏ này? Họ tuyệt không ngờ Phương Dung đã học kiếm thuật của Nguyễn Phan nên không biết Phương Dung sử dụng kiếm thuật gì? Họ chỉ biết Phương Dung đã sử dụng một thứ kiếm thuật giống Long-biên, xong cực kỳ thần tốc, biến chiêu quái dị.
                          Lê Nghĩa Nam bàn:
                          – Con nhỏ này sử dụng kiếm thuật của bản môn. Nhưng biến chiêu đó, chỉ người chưởng môn mới biết. Vậy, có lẽ lão quái sư phụ của chúng ta còn sống và đã dạy cho nó. Vậy, bây giờ Hoàng sư đệ lên đánh với nó. Cố gắng làm tiêu hao hết công lực của nó. Khi đó, ta sẽ xuất hiện, có thể sẽ thắng nó dễ dàng.
                          Hoàng Đức Tiết bước lên đài nói với Phương Dung:
                          – Tiểu cô nương! Kiếm thuật của cô nương quả là kiếm thuật bản môn, đã đến trình độ xuất thần nhập hóa. Vì vậy, ta phải lên đây lãnh giáo mấy chiêu.
                          Nói rồi, y rút kiếm ra chiêu Nguyệt quang hải thượng, ánh kiếm loang loáng chụp lên đầu Phương Dung. Phương Dung xê dịch chân một cái, chiêu Nguyệt quang hải thượng vòng xuống dưới, đưa ngược vào ngực Đức Tiết. Y dùng kiếm gạt, nhưng kiếm vừa chuyển động thì kiếm của Phương Dung lại chuyển từ ngực lên cổ. Xoẹt một cái, búi tóc của Đức Tiết rơi lả tả xuống sàn đài. Đức Tiết mặt tái ngắt, nhảy lui lại, đứng ở góc đài, nói không ra hơi.
                          Dưới đài, Thi Sách, Nhị Trưng cho tới Hồ Đề đều ngẩn người ra, bởi họ thấy kiếm pháp của Phương Dung so với ngày gặp nhau ở Mê-linh đã tiến vượt bực. Trưng Nhị hỏi Thi Sách:
                          – Tỷ phu! Tại sao kiếm thuật của Long-biên lại có đến hai loại. Rõ ràng Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng và bọn Lê Nghĩa Nam cùng sử dụng một thứ kiếm với Phương Dung, nhưng kiếm của Phương Dung thần tốc dị thường. Chiêu thức của những người kia thì rời rạc, nên giữa chiêu này với chiêu kia đều có một khoảng trống. Còn Phương Dung, thì dường như các chiêu nối liền thành một sợi, hư hư, thực thực, không biết nguy hiểm sẽ chụp lên người đối thủ lúc nào. Nếu tỷ phu là Hoàng Đức Tiết, tỷ phu sẽ đối phó ra sao?
                          Thi Sách lắc đầu:
                          – Thú thật ta cũng đang xuất thần vì những chiêu kiếm này. Nếu ta là Hoàng Đức Tiết, ắt cũng bị những chiêu kiếm kia giết mà thôi. Ta nghe nói những người chưởng môn trước kia của phái Long-biên đều được giữ lại một pho kiếm đặc biệt. Pho này gồm những chiêu kết hợp với những chiêu kiếm thông thường của phái. Do đó, kiếm pháp trở nên hư hư, thực thực, các chiêu sẽ nối liền thành một giây. Ngày Phương Dung đánh với Đinh Công Dũng, có lẽ nàng đã được học rồi, nhưng chưa luyện đến nơi đến chốn mà thôi, cho nên mới bị Đinh đánh ngã, nhưng rốt cuộc Đinh cũng bị giết. Từ đó tới giờ, nàng luyện tập đã thuần thục nên mới kỳ ảo như vậy. Ta nghe nói, chưởng môn đời trước là Nguyễn Phan bị mất tích, thành ra từ đời sư phụ Nguyễn Trát về sau, các chiêu kiếm này mới bị thất truyền. Nay không hiểu Phương Dung học ở đâu?
                          Trên đài, Phương Dung đang chiết chiêu với Hoàng Đức Tiết. Đa số những chiêu Đức Tiết ra tay trước, còn Phương Dung ra tay sau nhưng lại đến trước. Nàng như muốn đùa với Đức Tiết hơn là đánh thực sự.
                          Ánh trăng rằm vằng vặc như ban ngày. Tám ngọn đuốc ở tám góc đài chiếu ánh sáng chập chờn vào hai thanh kiếm. Phương Dung xê dịch, hốt phải, hốt trái, hốt lên, hốt xuống. Người ta chỉ nhìn rõ bộ quần áo xanh với chiếc giây lưng đỏ ở ngang lưng nàng. Nàng vừa ra chiêu, vừa gọi tên.
                          – Yến tử hồi xuân.
                          Miệng nói, tay trái bắt kiếm quyết, tay phải ra chiêu, mũi kiếm hướng vào đùi Đức Tiết, bỗng thoắt chuyển lên trên.
                          – Đại bàng triển dực.
                          Kiếm từ trên bổ véo xuống vai, rồi vào ngực.
                          Những chiêu này, Đức Tiết đã biết hết, nhưng Phương Dung sử dụng thần tốc quá. Y vừa nghe thì kiếm đã đổi chiêu rồi.
                          Phan Đông Bảng liếc nhìn Nguyễn Trát, nghĩ ngợi.
                          Đào Kỳ ngồi bên cạnh phái Sài-sơn thấy Phương Dung ra chiêu kỳ ảo, chàng biết Phương Dung đã luyện xong tất cả những chiêu thức trong pho kiếm mà Nguyễn Phan đã dạy chàng, rồi chàng truyền lại cho nàng.
                          Tất cả khán giả, từ người Hán cho tới người Việt, đều ngẩn người ra trước những chiêu kiếm của Phương Dung.
                          Nghiêm Sơn càng ngơ ngác hơn nữa. Chàng tự nghĩ:
                          – Phương Dung là bạn của tiểu sư đệ. Nàng đã đến ở trong phủ ta một thời gian dài, ta tuyệt không biết kiếm thuật của nàng tinh diệu đến thế. Ta thấy ngay bọn thái sư bá, sư thúc của nàng như Nghĩa Nam, Đức Tiết, Huyền Sương võ công đều ngang với ta. Nếu ta là Đức Tiết, ta cũng không biết làm thế nào để chống lại những chiêu thức của nàng. Bấy lâu ta ở bên nàng, coi nàng như tiểu sư đệ, không ngờ võ công của nàng cao đến như vậy.
                          Hốt nhiên, Phương Dung vòng kiếm ba vòng, rồi lùi lại, tra kiếm vào vỏ, đứng khoanh tay cười. Trong khi đó, kiếm của Đức Tiết đã rơi xuống sàn. Còn y đang ôm tay, máu me đầm đìa.
                          Nghiêm Sơn nói:
                          – Hoàng tiên sinh! Tiên sinh xuống đài cho.
                          Đức Tiết nhặt kiếm, ôm tay xuống đài. Lê Nghĩa Nam bước lên đài, chắp tay nói:
                          – Tiểu cô nương! Ta không muốn đấu với cô, nhưng ta muốn thỉnh cô một điều là ai đã dạy cô những kiếm quyết của bản môn?
                          Phương Dung cười:
                          – Những chiêu kiếm mà tôi đã sử dụng, chính tiền bối cũng biết, có gì lạ đâu? Nhưng nghệ thuật sự dụng của mỗi người mỗi khác, thế thôi. Nếu tiền bối muốn chỉ dạy, xin cứ rút kiếm ra.
                          Nghĩa Nam thấy nàng đang nói, có phần phân tâm đôi chút, nên vội rút kiếm đâm liền ba chiêu. Phương Dung biết toàn là hư chiêu nên nàng không rút kiếm phản công, cũng không tránh né. Đợi ba chiêu hết, nàng mới lùi lại. Chỉ thấy ánh bạc lấp lánh, nàng đã phóng liền chín chiêu kiếm.
                          Nghĩa Nam nhảy nhót, lùi tránh khó nhọc mãi mới thoát được. Khi hết chín chiêu, y đã lùi tới sát mép đài.
                          Khi thấy Phương Dung sắp biến chiêu, y vội rút trong túi ra một trái pháo liệng xuống sàn. Ánh lửa lóe lên, đùng một cái, khói tỏa mịt mờ.
                          Phương Dung không kinh nghiệm chiến đấu, thấy khói tỏa, đang luống cuống, thì Nghĩa Nam đã phóng kiếm vào ngực nàng... Phương Dung hoảng hốt lùi lại. Nhưng sột một tiếng, vai nàng đã bị trúng kiếm, máu chảy ròng ròng. Biết nguy cơ, nàng vội vung kiếm đánh liền ba chiêu, biến thành chín và chín biến thành 81 chiêu.
                          Nguyên phái Long-biên có một chiêu kiếm tuyệt vời. Khởi đầu chỉ có ba chiêu như một đợt sóng, nhưng ba đợt đó đổ xuống biến thành chín đợt nhỏ. Từ chín đợt nhỏ, biến thành 81 chiêu. Chiêu này, chính Phương Dung phải luyện trong vòng ba tháng mới xong. Nay, trong lúc nguy cơ, nàng đem sử dụng chỉ một chiêu, hy vọng cứu vãn tình thế.
                          Nghĩa Nam chưa kịp phản ứng, thì sột một cái, người y nghiêng đi, kiếm xuyên qua ngực. Lại, sột, sột, sột ba tiếng nữa: cổ, ngực, bụng y đều bị kiếm xuyên qua. Chiêu này không ngừng lại được, thành ra người y bị chín mũi kiếm đâm trúng. Y lảo đảo, té xuống đài.
                          Phương Dung ôm vai loạng choạng muốn ngã. Nàng thấy mắt hoa đầu váng.
                          Nguyên trái hỏa lựu này là ám khí của Lê Đạo Sinh chế ra, chỉ các đệ tử của y mới được giữ mỗi người một trái để phòng thân mà thôi. Trước đây, cháu ngoại y là Chu Quang đã dùng định giết Đào Kỳ. Vì cùng mưu đồ với nhau, nên Đạo Sinh đã cho bọn Nghĩa Nam mỗi người một trái. Nghĩa Nam gỡ trái hỏa lựu ra, bắt chước theo để chế tạo. Y còn trộn thuốc độc vào các mảnh chì, để khi ném xuống, khói độc dính vào mảnh chì, ai bị thương sẽ chết liền sau đó.
                          Lê Đạo Sinh thấy Nghĩa Nam đã sử dụng trái hỏa lựu mà y cũng vẫn bị chết, nên thở dài, rồi nói:
                          – Nguyễn cô nương kiếm thuật thần thông, xứng đáng võ công đệ nhất phái Long-biên.
                          Dưới đài, Đức Tiết, Huyền Sương thấy Phương Dung trúng độc bị thương, cả hai nháy nhau, cùng nhảy lên đài, phóng chưởng từ hai bên đánh vào đầu, sườn Phương Dung. Phương Dung không còn một chút kình lực để chống trả. Nàng cố lùi lại phía sau, đưa kiếm đâm vào chưởng của đối phương. Nhưng kiếm mới tới nửa chừng, thì nàng đã mất hết lực. Keng một tiếng, kiếm rơi xuống đài. Nguyễn Trát, Đông Bảng thấy Phương Dung lâm nguy, cùng nhảy vọt lên đài, phát chưởng chống lại Đức Tiết và Huyền Sương. Bốn chưởng chạm nhau, Nguyễn Trát, Đông Bảng bật trở lại, bay xuống đài.
                          Đức Tiết, Huyền Sương cùng nhìn nhau, phóng tiếp hai chưởng vào người Phương Dung mong kết liễu tính mạng nàng.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #28
                            Hồi 27

                            Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
                            So chính khí đã đầy trong trời đất


                            Thấy Phương Dung sắp sửa mất mạng trong chốc lát, quảng trường cùng la hét lên:
                            – Ngừng tay!
                            – Tại sao lại hai người đánh một!
                            Nhưng Đức Tiết, Huyền Sương đời nào chịu ngừng tay. Nghiêm Sơn trước đây vốn có cảm tình với Phương Dung, nay thấy nàng sắp mất mạng, Công vội phát chưởng đánh vào Mai Huyền Sương, hy vọng cứu được nàng. Nam Hải nữ hiệp cũng phát chưởng đánh vào Hoàng Đức Tiết. Vì quyết giết cho được Phương Dung nên Đức Tiết với Huyền Sương vung chưởng trái chống lại, còn tay phải rút kiếm đâm nàng.
                            Bùng, bùng hai tiếng. Mai Huyền Sương cảm thấy người rúng động, khí huyết đảo lộn, bật lùi lại một bước, trong khi Đức Tiết cảm thấy như mình đánh vào một bao bông gòn, chưởng lực mất tăm, người lảo đảo lùi lại. Tuy nhiên, mũi kiếm của y với Huyền Sương vẫn hướng vào Phương Dung.
                            Quảng trường nhắm mắt lại không dám nhìn một thiếu nữ đẹp như hoa nở chết thảm. Bỗng có tiếng rú lên như những tiếng cú kêu inh tai nhức óc, rồi tám mũi tên từ phía phái Hoa-lư bay lại khán đài. Tên bằng thép, bay dưới ánh trăng phản chiếu, lóng lánh như ánh sáng của tám ngôi sao chổi. Bốn mũi hướng vào Mai Huyền Sương, bốn mũi hướng vào Hoàng Đức Tiết: Cùng một bộ vị, một mũi hướng đầu, hai mũi hướng hai vai, một mũi hướng vào mũi kiếm.
                            Vì vừa phải đối chưởng với Nghiêm Sơn và Nam Hải nữ hiệp, cả hai Đức Tiết và Huyền Sương còn đang choáng váng, nay bị một lúc bốn mũi tên, nên tránh không kịp. Chỉ nghe bịch, bịch, bịch ba tiếng, cả sáu mũi tên đều trúng đầu, vai của họ. Rồi keng một tiếng, hai mũi tên khác đã trúng kiếm của họ, kình lực mạnh không thể tưởng tượng được, đẩy văng hai thanh kiếm lên trời.
                            Tô Định thấy cảnh hỗn loạn, vội hô lớn:
                            – Ngừng tay!
                            Nghiêm Sơn và Nam Hải nữ hiệp cùng nói:
                            – Xin lỗi!
                            Rồi về chỗ ngồi.
                            Còn Đức Tiết với Huyền Sương nhảy lùi lại góc đài, mặt tái mét.
                            Khi hai người nhảy lên đài, họ mong kết liễu tính mạng Phương Dung vì thấy kiếm pháp của nàng quả là kiếm pháp trấn môn của Long-biên. Nếu không giết nàng, họ sẽ không còn chỗ đứng trong thiên hạ. Hơn nữa, Phương Dung sẽ đại diện cho phái Long-biên sang Trung-nguyên cầu phong, khi trở về, nàng đương nhiên là người có quyền thế trong phái. Bọn họ sẽ suốt đời là kẻ không môn hộ, mất chỗ đứng. Giữa lúc họ định kết liễu tánh mạng Phương Dung, họ không ngờ Lĩnh-nam công, người cùng với Thái-thú Tô Định phác họa kế hoạch cho họ, lại ra tay cứu nàng. Họ còn bị ba mũi tên bắn trúng người, một mũi bắn văng mất kiếm. Hai người thấy tuy trúng tên, nhưng ba mũi bắn trúng họ kình lực rất nhanh, chỉ chạm người họ rồi rơi xuống. Họ cúi nhìn, thấy đầu mũi tên đã bị bẻ đi. Còn các mũi tên bắn vào kiếm họ thì kình lực mạnh khủng khiếp, đã đánh bay kiếm của họ lên trời.
                            Huyền Sương nhìn Đức Tiết. Cả hai đều hú hồn. Họ như cùng hiểu ngầm, người bắn tên chỉ có ý cảnh cáo họ và cứu Phương Dung, chứ nếu người đó muốn ra tay giết họ, thì họ đã mất mạng rồi.
                            Phương Dung lảo đảo lượm kiếm đứng giữa đài. Tô Định nói lớn:
                            – Xin các vị ngừng tay. Việc của phái Long-biên, chúng ta không nên can thiệp vào.
                            Nam-hải nữ hiệp chỉ vào Mai Huyền Sương, nói:
                            – Mai nữ hiệp! Hai vị đã thua, nhảy xuống đài rồi, tại sao còn nhân lúc người ta bị thương, hai vị lại lên đài, hai người đánh một? Như vậy đâu phải anh hùng. Đâu phải cao nhân?
                            Đức Tiết sau khi đụng một chưởng với Nam-hải nữ hiệp mới thấy võ công của đệ nhất Thái-bảo Sài-sơn không phải tầm thường. Y nói:
                            – Nam-hải nữ hiệp đã là trọng tài, sao còn ra chiêu?
                            Trong khi Tô Định thấy Nghiêm Sơn ra tay, cũng nói:
                            – Quốc công! Người Việt giết nhau chúng ta không nên xen vào.
                            Nghiêm Sơn vì lòng nghĩa hiệp ra tay cứu Phương Dung đã làm ngược với kế hoạch của Tô Định, Lê Đạo Sinh và nhóm Nghĩa Nam. Chàng nghĩ mình là Lĩnh-nam công lại ra tay cứu đệ tử của môn phái phản Hán phục Việt thì còn ra thể thống gì nữa? Liếc nhìn Tô Định, bằng đôi mắt lạnh lùng, uy nghiêm của một ông vua, chàng nói chậm chạp:
                            – Dù Hán, dù Việt, dù người nước nào chăng nữa, cũng phải có luật pháp, có đạo lý. Khi đã thua, rơi xuống đài, lại còn ỷ đông, lên hai người giữa lúc người ta trúng thương. Hành vi như vậy là hèn hạ. Ta không muốn trong đất Lĩnh-Nam của ta có kẻ vô liêm sỉ, đê tiện như vậy, nên mới phải ra tay. Người Việt, người Hán, người Mèo, người Mường gì chăng nữa cũng là con dân Đại-hán.
                            Tô Định cúi đầu:
                            – Tiểu nhân kính cẩn nghe lời dạy của Quốc-công.
                            Nghiêm Sơn trở về chỗ ngồi. Qua hành động của Nghiêm Sơn, quần hào nhìn nhau, như cùng hội ý: Lĩnh-nam công dường như muốn che chở cho chủ trương phản Hán phục Việt. Trong đầu óc họ nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn. Bởi vì, từ mấy năm nay, không biết phát xuất ở đâu đã có dư luận nói rằng Nghiêm Sơn là người Việt chứ không phải người Hán. Những điều họ được biết chính thức: chàng sinh ở Trường-sa, thân phụ làm tướng cho Trường-sa vương.
                            Họ còn biết rõ, Nghiêm là nghĩa đệ của Hán Quang-Vũ. Hiện trong thiên hạ, Nghiêm chỉ ngồi dưới một mình Kiến-Vũ thiên tử. Các tướng lĩnh của triều đình Hán như: Sầm Bành, Đặng Vũ, Ngô Hán, Phùng Dị, Mã Viện đều do một tay Nghiêm đào tạo ra.
                            Mai Huyền Sương hướng vào phái Hoa-lư, nói:
                            – Việc của phái Long-biên chúng tôi, xin để chúng tôi giải quyết với nhau. Tại sao phái Hoa-lư lại can thiệp vào? Món nợ này không biết Cao hầu, Cao chưởng môn tính sao đây?
                            Cao Cảnh Sơn mặt đỏ phừng phừng, lớn tiếng:
                            – Hai vị là cao nhân, đã được Nguyễn cô nương tha chết tại sao trong lúc người ta trúng độc, lại hai người đánh một? Do đó, Cao mỗ phải ra tay. Mỗ chỉ bắn có một phát tám mũi tên. Sự thực, Cao mỗ muốn kết liễu tính mạng quý vị thì cũng dễ thôi. Các vị có muốn thưởng thức ít mũi nữa không?
                            Huyền Sương biết Cao Cảnh Sơn nói thực. Nếu vừa rồi, ông định giết hai người, thì 6 mũi tên đã không bẻ đầu và cũng không nhẹ như vậy. Họ thấy Cảnh Sơn bắn 1 phát 8 mũi, hướng về 8 nơi, với 2 thứ kình lực khác nhau, thì run sợ. Họ không muốn gây hấn với ông:
                            – Đã không có ác ý thì thôi. Hà tất phải thù hận?
                            Mai Huyền Sương hướng vào Phương Dung:
                            – Con nhỏ này! Mi giết chết đại sư huynh ta, mi phải đền tội.
                            Mụ hướng vào Phương Dung tấn công liền. Phương Dung người không còn khí lực, lảo đảo đưa kiếm lên đỡ, nhưng kiếm lại rơi xuống đài.
                            Bỗng một bóng xanh từ phái Tản-viên vọt lên trời như con diều hâu, đáp xuống, chụp Phương Dung rồi nhảy lùi lại. Kiếm của Huyền Sương đâm vào quãng không.
                            Tô Định muốn để Mai Huyền Sương giết Phương Dung, nên y vung chưởng tấn công bóng xanh. Chưởng lực của y trông rất thô kệch, nhưng trầm trọng úp xuống. Bóng xanh đợi cho chưởng lực sắp tới mới nhảy vọt lên cao. Chưởng lực đi sướt dưới chân. Ở trên cao, bóng xanh phóng chưởng đánh vào đầu Tô Định. Tô Định hoảng kinh, thu chưởng về, phát chiêu thứ nhì chống lại. Nhưng lúc đó, bóng xanh đã hướng chưởng vào cột cờ giữa đài. Bình một tiếng, cột cờ rung động, lắc lư. Bấy giờ mọi người mới nhìn rõ, bóng xanh đó là Trưng Nhị.
                            Nguyên Trưng Nhị đã ở cùng Phương Dung ít lâu, hai người thân thiết như ruột thịt. Nay thấy nàng sắp lâm nguy, vội nhảy lên đài cứu. Đúng ra, võ công Trưng Nhị chưa chắc bằng Tô Định. Nhưng nhờ thông minh, nàng đã chiếm được lợi thế trong chốc lát.
                            Võ lâm Lĩnh Nam từng nghe Tô Định là người võ công cao không biết đâu mà lường. Từ khi sang Giao-chỉ, y chưa đấu với ai bao giờ.
                            Đây là lần đầu tiên y ra chiêu. Bản lãnh hắn có cao hơn bọn Nghĩa Nam, có lẽ không kém gì Đạo Sinh bao nhiêu.
                            Trước khi sang Giao-chỉ, Tô Định được sư phụ cho biết võ công y đã thuộc hàng cao thủ võ lâm, nhưng có hai thứ của Giao-chỉ y không thể nào địch nổi. Một là Phục ngưu thần chưởng của phái Tản-viên. Hai là Long-biên kiếm pháp. Chính sư phụ y trước đây đã bị bại về chưởng pháp này.
                            Khi y tới nơi mới vỡ lẽ ra chưởng này về phần âm nhu đã bị thất truyền hoàn toàn. Phần dương cương chỉ còn mười hai chiêu. Có hai người sử dụng được, đó là Khất đại phu Trần Đại Sinh với Lê Đạo Sinh.
                            Tô Định nghe võ lâm Lĩnh Nam nói: Phục ngưu thần chưởng chỉ có uy lực vô địch khi biết đủ 36 chiêu. Chiêu nọ nối với chiêu kia thành một giây, biến hóa không biết đâu mà lường. Y đã xem Lê Đạo Sinh sử dụng, thấy chưởng lực hùng hậu, chiêu số kỳ diệu. Y nghe người ta nói Đạo Sinh tuy là sư đệ, nhưng võ công cao hơn sư huynh là Trần Đại-Sinh nhiều. Từ đó, Tô mới yên lòng, vì Lê thì giữ chức Đô-úy dưới quyền y. y sai phái gì chẳng được? Còn Trần Đại Sinh, đã từ lâu, không biết phiêu bạt nơi nào.
                            Mối lo thứ nhì của y là kiếm pháp Long-biên. Pho kiếm pháp thần diệu này chỉ có người chưởng môn mới được học hết. Mà chưởng môn trước đây là Nguyễn Phan đã bị học trò bắt giao cho Thái-thú Tích Quang giam giữ. Ba tay cao thủ hạng nhất của Long-biên thì hai người là Huyện-úy, thuộc loại chân tay của y. Y thấy yên tâm hoàn toàn. Nay trong đại hội bỗng nhiên thấy một cô bé biết sử dụng kiếm pháp ảo diệu, khiến y kinh hoàng. May mắn thay, cô bé lại bị Lê Nghĩa Nam dùng hỏa lựu làm cho bị trúng độc. Y muốn kéo dài thời giờ để Phương Dung bị thuốc ngấm mà chết, hoặc bị Huyền Sương giết ngay là hay hơn hết. Bây giờ, Trưng Nhị, người phái Tản-viên lên đài cứu nàng, y phát chưởng ngăn lại. Y nhận thấy võ công Trưng Nhị thua y. Nhưng nàng khôn khéo, thành ra đã đoạt tiên cơ.
                            Bị mất mặt, y nổi giận vung chưởng phát đủ mười thành công lực, hướng vào Trưng Nhị. Trưng Nhị ôm Phương Dung nhảy ra sau cột cờ.
                            Y vội hướng chưởng theo. Ầm một cái, cột cờ gãy làm đôi, đổ xuống. Võ lâm Lĩnh-Nam đều khủng khiếp vì võ công của y.
                            Y vung chưởng thứ nhì đánh vào Trưng Nhị. Chưởng phong vừa phát ra, Trưng Nhị đã vội tung Phương Dung lên cao, vung chưởng đỡ.
                            Hoàng Đức Tiết chỉ chờ có thế, y vội rút kiếm hướng về phía Phương Dung mà đâm.
                            Đào Kỳ ngồi tại khán đài của phái Sài-sơn, khá xa khán đài trung ương. Lúc đầu, thấy Phương Dung lâm nạn, chàng muốn lên đài cứu.
                            Nhưng những diễn biến đã dồn dập xảy ra, khiến chàng đã đến gần đài, nhưng phải ngưng lại. Nay thấy Tô Định phát chưởng mãnh liệt quá, Trưng Nhị không đỡ nổi. Chàng vội nhảy vọt lên đài. Người còn lơ lửng trên không, chàng đã quy tụ chân khí về Đốc-mạch, Nhâm-mạch, rồi phát hai chưởng một lúc. Một chưởng dương cương xuất ra ở Thủ thái-dương Tiểu trường kinh, Thủ dương minh Đại trường kinh và Thủ thiếu dương Tam tiêu kinh. Chưởng thứ nhì thuộc âm nhu, xuất ra ở Thủ thái âm Phế kinh, Thủ thiếu âm Tâm kinh, Thủ khuyết âm Tâm bào kinh. Kình lực mạnh như núi lở, băng tan. Dương chưởng hướng vào Hoàng Đức Tiết, âm chưởng hướng vào Tô Định. Tô, Hoàng cùng các trọng tài ngồi trên khán đài đều cảm thấy bị nghẹt thở. Cao nhân các phái công lực kém như Trần Năng, Lại Thế Cường, vội nhảy khỏi đài để khỏi bị sức ép làm nghẹt hơi.
                            Tô, Hoàng thấy một thiếu niên rách rưới từ dưới đài nhảy lên, còn cách đài tới mấy trượng đã phát chưởng, thì chúng đều nghĩ như nhau:
                            – Ở đời làm gì có thứ chưởng lực đánh từ xa như vậy?
                            Ý tưởng vừa thoáng qua, chưởng phong đã chụp xuống. Tô, Hoàng vội bỏ tấn công Trưng Nhị, xuất chưởng đỡ.
                            Đào Kỳ xuất hai tay cùng một chiêu, thuộc võ công Cửu-chân Cương phong bạt sơn, có ba lớp.
                            Trưng Nhị lợi dụng thời cơ bồng Phương Dung nhảy xuống đài.
                            Bùng, bùng hai tiếng. Hoàng Đức Tiết bay vọt lên cao rồi rơi xuống đài. Còn Tô Định cảm thấy tê dại cả chân tay. Y phải hít mạnh một hơi chân khí mới lấy lại được bình tĩnh. Y quát lớn:
                            – Thiếu niên này! Mi... mi là người phái Cửu-chân?
                            Đào Kỳ đứng im không trả lời.
                            Hoàng Đức Tiết ỷ có Tô Định hỗ trợ, y lại nhảy lên đài, cùng Mai Huyền Sương rút kiếm tấn công Đào Kỳ.
                            Khi Đào Kỳ nhảy lên đài, phóng chưởng, tất cả quần hùng Lĩnh-Nam đều rúng động, tự hỏi:
                            – Thiếu niên dơ bẩn này là ai? Sao lại ngồi với phái Sài-sơn?
                            Nguyễn Tam Trinh và những người phái Sài-sơn đều ngạc nhiên không ít. Trước đây, họ chỉ thấy võ công Đào Kỳ với Phương Dung cũng khá vậy thôi. Họ nghĩ chắc cũng không hơn Lê Chân bao nhiêu. Nay thấy kiếm pháp Phương Dung đã tới trình độ ảo diệu, xuất thần nhập hóa, họ đều ngẩn ngơ. Tiếp đến Đào Kỳ một lúc phát hai chưởng. Một chưởng hất Hoàng Đức Tiết văng xuống đài, họ đã sợ rồi. Chính Nguyễn Tam Trinh đã từng đấu với Tiết và còn thua y xa.
                            Ở đây, Đào Kỳ mới phóng nhẹ một chưởng, Tiết đã rơi xuống đài. Thật là ngoài sức tưởng tượng của họ. Nhất là Đào Kỳ lại đỡ được chưởng của Tô Định. Trông vẻ mặt chàng vẫn ung dung như thường, còn Tô Định thì nhăn nhó. Như vậy, phần thắng bại đã rõ.
                            Tô Định là người khôn ngoan. Y biết có đánh nữa, chưa chắc y đã thắng nổi Đào Kỳ. Y lẳng lặng về chỗ ngồi, hỏi:
                            – Phái Sài-sơn sao lại can thiệp vào nội bộ phái Long-biên? Xin Nam-hải nữ hiệp dạy cho vài lời.
                            Nam Hải nữ hiệp không trả lời. Bà quay hỏi Đào Kỳ:
                            – Cháu ngoan! Cháu là đệ tử của ai? Cháu thuộc phái nào?
                            Câu hỏi đó nhắm trả lời cho Tô Định rằng thiếu niên dơ bẩn đó không phải là đệ tử phái Sài-sơn.
                            Đào Kỳ lắc đầu:
                            – Thưa Nam-hải nữ hiệp! Nữ hiệp là cao nhân đạo đức, đáng lẽ nữ hiệp hỏi, cháu phải thưa ngay, nhưng vì cháu chịu lời ủy thác của cao nhân tiền bối phải làm một việc cơ mật, nên cháu không thể khai sư môn ra được. Cháu hứa khi đã làm xong việc, sẽ thân đến Sài-sơn lễ tạ Phù-đổng Thiên-vương và tạ lỗi với nữ hiệp.
                            Khi Đào Kỳ giả ăn mày đi theo phái Sài-sơn, Nam Hải nữ hiệp đã biết chàng là đệ tử danh môn chính phái. Bà đoán chàng đưọc sư phụ sai đến thông báo tin tức đại hội cho bà mà thôi. Cho nên, dù biết chàng giả dạng ăn xin, bà cũng lờ đi, không cật vấn.
                            Xin nhắc lại, Nam-hải nữ hiệp là một đệ nhất cao nhân đương thời. Bà hành hiệp từ năm 16 tuổi, đến nay bà đã ở tuổi gần 60, kinh lịch khéo léo có thừa. Sư đệ của bà là Nguyễn Tam Trinh, phải đợi đến khi Đào Kỳ giúp đỡ Hùng Bảo, ông mới biết.
                            Trong tâm Nam-hải nữ hiệp đặt ra không biết bao nhiêu nghi vấn:
                            – Thiếu niên này bản lãnh đến dường ấy, ai là sư phụ của hắn? Nhất định hắn là người có thiện cảm với phái Sài-sơn rồi. Nhưng, sư phụ hắn là ai thì ta chịu, không đoán ra.
                            Khi Đào Kỳ lên đài, Thiều Hoa đã nhận ra chàng là người cứu Ngũ-kiếm đêm nọ. Nàng nhìn Nghiêm Sơn, thấy Nghiêm Sơn cũng nhìn nàng gật đầu, như cùng thông cảm:
                            – Đây là người đã nhường nàng 10 thế kiếm. Cũng là người đã đánh Nghiêm mấy chưởng hôm trước. Vậy, thiếu niên này nhất định là người thân với nàng.
                            Thiều Hoa hỏi Tường Loan:
                            – Gần đây sư phụ, sư thúc có thu nhận thêm một đệ tử nào không?
                            Tường Loan lắc đầu. Tuy hỏi câu đó, song Thiều Hoa đã biết ngay nàng vô lý, bởi, nàng thấy thiếu niên này công lực gấp bội sư phụ, vậy làm sao là đệ tử sư phụ được?
                            Khi Trưng Nhị nhảy lên đài, Thiều Hoa giật mình nhìn Nghiêm Sơn như hỏi chàng rằng thiếu nữ lên đài ôm Phương Dung xuống, tại sao lại ngồi ở chỗ phái Tản-viên? Rõ ràng tiểu sư đệ với Phương Dung giới thiệu nàng họ Đặng, đệ tử của sư thúc Đào Thế Hùng. Nay lại là người ngồi ở hàng ghế đầu phái Tản-viên, vậy nàng phải có võ công ngang với chưởng môn Đặng Thi Sách. Qua mấy chiêu Trưng Nhị sử dụng để cứu Phương Dung, Thiều Hoa nhận thấy võ công của nàng cao ngang với sự phụ nàng là Đào Thế Kiệt.
                            Nàng hỏi Tường Loan:
                            – Sư muội! Em có biết thiếu nữ áo xanh lên đài bồng Phương Dung xuống là ai không? Hôm trước, tiểu sư đệ với Phương Dung đã đi cùng nàng đến phủ Lĩnh-nam công chơi ít ngày. Tiểu sư đệ giới thiệu nàng là đệ tử của sư thúc Đào Thế Hùng.
                            Tường Loan lắc đầu:
                            – Sư tỷ! Chị bị tiểu sư đệ xí gạt rồi. Nàng đó là Trưng Nhị của phái Tản-viên đấy!
                            Tiếng tăm Tản-viên song phượng vang lừng thiên hạ về võ công, đạo đức, nhất là chủ trương phản Hán phục Việt, khắp Lĩnh Nam ai cũng biết. Thế mà khi nàng giả dạng nữ đệ tử của Thế Hùng vào phủ Lĩnh-nam công, Thiều Hoa là phu nhân Lĩnh-nam công lại không biết gì, thì thật rắc rối.
                            Ký ức giúp Thiều Hoa nhớ lại những cuộc đi chơi bất thường của Đào Kỳ, Phương Dung, Trưng Nhị. Nàng chắc ba người có liên quan đến việc xáo trộn Luy-lâu hồi đó như: Trộm vào phủ Thái-thú, hai người bí mật cứu Ngũ kiếm...
                            – Mình đáng chết thực. Thì ra tiểu sư đệ với Trưng Nhị đã mượn ngay phủ Lĩnh-nam công làm nơi trú ngụ hoạt động phản Hán phục Việt. Thực là bất lợi cho Nghiêm đại ca. Ừ! Tuy ta có lỗi với Nghiêm đại ca thực, nhưng, ngược lại, đối với Lĩnh-nam, đối với sư phụ, ta cũng có chút công.
                            Tô Định hướng vào Đào Kỳ, quát:
                            – Thiếu niên này, mi là ai? Tại sao lại can thiệp vào chuyện của phái Long-biên?
                            Đào Kỳ chỉ và Đức Tiết, Huyền Sương:
                            – Tô đại nhân hỏi tôi lên đài làm gì ư? Tôi được một người bề trên ủy thác tới đây để đòi hai người này món nợ.
                            Cả quảng trường đều cười ầm lên. Vì Hoàng Đức Tiết làm chủ đến ba trang lớn, dân đinh lên tới hàng vạn người. Y lại là một Huyện-úy, quyền cao chức trọng. Còn Mai Huyền Sương cũng là chủ hai ấp, chồng cũng là Huyện-úy giàu có. Bây giờ, một thiếu niên quần áo rách rưới như Đào Kỳ lại nhảy lên đài đòi nợ, ai cũng cho là chàng đùa.
                            Đức Tiết đã nếm mùi chưởng lực của chàng, đã có ý hơi e ngại:
                            – Thiếu niên này, nếu ngươi thiếu tiền tiêu, hãy ghé qua trang ấp của ta, ta hứa tặng ngươi ít nén vàng chi tiêu. Ngươi đừng bày trò đùa đòi nợ nữa, chỉ làm cho thiên hạ chê cười mà thôi.
                            Đào Kỳ hướng vào bốn phương:
                            – Thưa các anh hùng Lĩnh-Nam. Chúng tôi xin quý vị đáp cho một câu hỏi này: nếu có một đứa trẻ mồ côi nghèo khổ, được quý vị mang về nuôi nấng dạy dỗ như con đẻ, dạy võ công đạt tới bản lĩnh thiên hạ vô địch, vậy, đứa trẻ đó có phải đã nợ quý vị một món nợ lớn hay không?
                            Cử tọa im lặng. Nhưng hầu hết đều gật đầu.
                            Đào Kỳ vận khí vào đơn điền nói lớn:
                            – Thế rồi đứa trẻ mà quý vị nuôi nấng, dạy dỗ, lại vì chút vàng bạc của Thái-thú Tích Quang, đánh thuốc mê sư phụ. Giao sư phụ cho Thái-thú giam vào nhà kín, hàng đêm dùng cực hình tra khảo bắt khai hết bí quyết võ công của môn phái. Thế, món nợ đó có nên đòi không?
                            Những câu nói của chàng khiến cả quảng trường đều gật đầu, nhưng vẫn chưa hiểu chàng định nói ai. Còn Đức Tiết, Huyền Sương thì mặt mày tái mét, giọng run run:
                            – Ngươi... ngươi....
                            Đào Kỳ chỉ vào Tiết, Sương, nói lớn:
                            – Hai người này xuất thân là trẻ mồ côi, được lão tiên sinh Nguyễn Phan của phái Long-biên mang về nuôi nấng, dạy cho một bản lãnh vô địch. Thế rồi, một ngày kia, họ được tên ngụy quân tử, đại diện Tích Quang đến trao tặng mấy trăm lạng vàng, rồi hứa rằng, nếu bắt được Nguyễn Phan tiên sinh nạp cho y, y sẽ ban cho chức Huyện-úy nữa. Hai tên này bàn với tên Lê Nghĩa Nam. Chúng bỏ thuốc mê vào rượu cho sư phụ uống. Nguyễn tiên sinh bị trúng độc. Chúng bắt trói, nạp cho Thái-thú Tích Quang. Tích Quang gửi Nguyễn Phan tiên sinh cho một tên ma đầu giam giữ. Hàng đêm, ba tên phản đồ vào ngục tra tấn tiên sinh bằng những cực hình tàn độc, buộc tiên sinh phải khai ra 72 chiêu kiếm trấn môn và bài quyết biến hóa, nhưng Nguyễn tiên sinh đã không chịu khai. Chúng nhẫn tâm cắt gân chân tiên sinh. Tiên sinh hiện giờ phiêu bạt nơi đâu, tôi không rõ. Khi gặp nhau, tiên sinh dặn tôi rằng: Sau này nếu gặp ba tên phản đồ, hãy thay tiên sinh thanh lý môn hộ dùm. Hôm nay, trời có mắt, một tên đã đền tội. Còn hai tên này, quý vị hãy ngồi mà xem chúng trả nợ.
                            Đạo Sinh đứng lên chỉ vào mặt Đào Kỳ:
                            – Tên ăn mày dơ dáy kia! Hãy đi chỗ khác mà nói láo. Đây là chỗ đại hội anh hùng Lĩnh-Nam. Người không có tư cách đại diện cho ai để lên đây nói láo. Hãy xuống đài ngay!
                            Đào Kỳ cười gằn:
                            – Lê tiên sinh! Người được tôn là Lục trúc quân tử, tại sao lại không cho tôi lột mặt nạ những tên lừa thầy phản bạn? Đáng lẽ đây là việc của tiên sinh phải làm mới phải chứ? Hay là tiên sinh đồng phạm với bọn họ?
                            Có hai người từ dưới đài nhảy lên, hướng chưởng đánh vào hai bên Đào Kỳ. Đào Kỳ nhận ra hai người đó là Chu Bá với vợ là Lê-thị Hảo. Chàng lùi lại một bước, đẩy chưởng của Chu Bá hướng vào vợ y. Bùng một tiếng, chưởng của Chu Bá và Lê-thị Hảo đụng nhau. Cả hai đều lộn đi một vòng. Suýt nữa cả hai rơi xuống đài.
                            Đào Kỳ phát một lúc hai chưởng đánh Hoàng Đức Tiết và Tô Định, cử tọa đã sửng sốt, kinh ngạc. Bây giờ chàng dùng kình lực, đẩy chưởng của hai vợ chồng Chu Bá đánh vào nhau, họ càng thắc mắc hơn:
                            – Võ công này là võ công gì? Ta chưa từng thấy qua. Chu Bá và Lê-thị Hảo đâu phải người tầm thường? Sao bị đánh thua dễ dàng như vậy?
                            Đào Kỳ cười rộ:
                            – Đạo lý của Lục trúc quân tử là hai người đánh một chăng? Thực trên đời mới có một!
                            Chu Bá đưa mắt nhìn vợ, rồi cùng phát chiêu tấn công. Đức Tiết, Huyền Sương cũng rút kiếm nhảy vào. Quần hùng thấy chàng bị bốn đại cao thủ vây đánh, đồng thất kinh la lên.
                            Nguyễn Tam Trinh nói lớn:
                            – Phải cẩn thận.
                            Cao Cảnh Sơn đặt tám mũi tên vào cung, chờ đợi. Nếu thấy Đào Kỳ sơ xuất sẽ buông dây liền.
                            Đào Kỳ hú lên một tiếng dài, chàng vọt người lên cao như chiếc pháo thăng thiên. Bốn cao thủ đánh vào chỗ không. Huyền Sương, Đức Tiết hướng kiếm theo đâm hai chiêu thần tốc. Đào Kỳ ở trên cao, vận khí về Thủ dương minh kinh, phóng một chỉ bằng huyệt Thương-dương ở đầu ngón tay chỏ. Véo một tiếng chói tai. Hai thanh kiếm của Đức Tiết, Huyền Sương kêu lên hai tiếng choang, choang gẫy làm đôi, dư lực bay vọt lên cao, lấp lánh dưới ánh trăng. Tay trái chàng phát chưởng, đẩy chưởng Chu Bá vào Huyền Sương, chưởng của Lê Thị Hảo vào Hoàng Đức Tiết. Hai người vừa bị chưởng bay mất kiếm, lại bị chưởng lực đánh tới, họ vội nhảy vọt lên cao mới tránh khỏi.
                            Đào Kỳ đáp xuống đài, khoanh tay cười nhạt.
                            Lê Đạo Sinh hỏi Nghiêm Sơn:
                            – Quốc Công! Thiếu niên này vừa sử dụng võ công Quế lâm, vậy y có phải là người thân của Quốc công không?
                            Nguyên Đào Kỳ gần Nghiêm Sơn một thời gian, chàng thấy Nghiêm Sơn sử dụng võ công nhiều lần, nên trong lúc vội vã, tòng tâm sử dụng thế vọt người lên cao của phái Quế lâm.
                            Khi thấy chàng sử dụng thế này chính Nghiêm Sơn cũng ngạc nhiên:
                            – Thiếu niên này là ai? Sao lại biết sử dụng võ công nhà mình? Sao công lực của y lại hùng mạnh như vậy được?
                            Nghĩ rồi Nghiêm Sơn vội hỏi Đào Kỳ:
                            – Thiếu hiệp! Người thuộc võ phái nào?
                            Đào Kỳ sợ nói nhiều Nghiêm Sơn sẽ nhận ra chàng, chàng vẫn nín thinh. Bọn Huyền Sương, Chu Bá nháy nhau rồi cùng nhảy vào tấn công bốn phía.
                            Đào Kỳ suy nghĩ:
                            – Đã vậy, ta không sử dụng võ công của môn phái nào, xem tụi bay có tìm được chân tướng ta không?
                            Rồi chàng cứ len lỏi giữa bốn cao thủ, khi thì sử dụng võ Cửu-chân, khi thì của Long-biên, khi thì của Tản-viên. Đôi khi lại thêm vài chiêu của Sài-sơn, Hoa-lư. Có lúc chàng lại sử dụng Lĩnh-nam chỉ pháp do chàng với Khất đại phu chế ra.
                            Trên đài Lê Đạo Sinh nhìn Nghiêm Sơn ngụ ý hỏi xem chàng là người sống lâu năm ở Lĩnh Nam, có biết chân tướng của Đào Kỳ không. Chính Nghiêm Sơn cũng phải lắc đầu.
                            Các vị tôn sư cũng thấy võ công của bọn Huyền Sương, Đức Tiết, với vợ chồng Chu Bá cực kỳ tinh vi. Nhưng Đào Kỳ cứ như con cá trê trơn tuột, tránh né dễ dàng. Họ chỉ chỏ luận bàn, giảng giải từng chỗ lợi hại cho các đệ tử nghe, hầu học hỏi kinh nghiệm.
                            Được khoảng hai trăm hiệp, bỗng có một con lừa kéo một chiếc xe vào giữa quãng trường. Cử tọa đổ mắt nhìn xuống thì thấy một lão già râu tóc bạc phơ ngồi ở giữa xe. Người đánh xe là một thiếu nữ mặc áo lụa vàng, thắt giải khăn màu xanh.
                            Lão già đầu bạc hừ một tiếng rồi cùng, rồi cùng thiếu nữ phi thân lên đài. Cả hai cùng hô lớn :
                            – Ngừng tay!
                            Đào Kỳ vận sức đánh ra một chưởng Phục ngưu tên Ác ngưu nan độ quay vòng tròn, đẩy văng bốn cao thủ ra bốn phía. Rồi chàng nhảy lùi lại. Chàng nhận ra người vừa nhảy lên đài là lão già Nguyễn Phan mà chàng đã gặp trong nhà giam Thái-hà trang. Chàng buột miệng kêu lớn:
                            – Nguyễn Phan tiên sinh!
                            Nguyễn Phan chỉ thiếu nữ áo vàng nói:
                            – Đây là đệ tử mới của lão, tên là Phật Nguyệt.
                            Phật Nguyệt hướng vào Đào Kỳ hành lễ:
                            – Đào đại ca!
                            Đào Kỳ cũng đáp lễ:
                            – Không dám! Tiểu đệ xin ra mắt tỷ tỷ!
                            Quần hùng nghe Đào Kỳ kêu lên tiếng Nguyễn Phan tiên sinh thì đều im lặng, nghển cổ nhìn lão già đầu bạc. Họ thấy râu tóc lão bạc phơ, hai tay chống nạng, còn hai chân thì lủng lẳng ở giữa, tỏ ra lão què chân như Đào Kỳ nói hồi nãy. Đức Tiết, Huyền Sương khi nhìn thấy sư phụ, đều kinh hãi, lắp bắp:
                            – Mi... mi....
                            Trước đây mười năm, Nguyễn Phan là Thái-ơn bắc đẩu võ lâm, dù cho Lê Đạo-Sinh, Trần Đại Sinh, gì chăng nữa, cũng không chịu được quá ba mươi hiệp của ông. Ông từng du lịch sang Trung-nguyên. Đi đến đâu cũng mang tấm lòng từ ái cứu giúp người khốn cùng. Rồi bỗng nhiên thấy ông vắng bóng, và trong phái Long-biên xảy ra cuộc tranh dành ngôi chưởng môn giữa bốn huynh đệ bọn Lê Nghĩa Nam, Nguyễn Thuật, Lê Đức Tiết, Mai Huyền Sương. Cuối cùng Nguyễn Thuật giữ chức chưởng môn. Còn bọn Nghĩa Nam, Đức Tiết và chồng Mai Huyền Sương đều trở thành Huyện úy. Tiếp đến Nguyễn Thuật qua đời Nguyễn Trát kế vị. Cho đến hôm nay, xảy ra cuộc tranh dành. Phương Dung giết chết Nghĩa Nam, và một thiếu niên bịt mặt, võ công cao cường, lên đài đấu với bốn đại cao thủ, trên ba trăm hiệp mà vẫn chưa kém thế. Bãy giờ thấy Nguyễn Phan xuất hiện với đôi nạng, họ biết rằng lời Đào Kỳ tố cáo là đúng.
                            Huyền Sương Đức Tiết thấy sư phụ chống nạng không coi vào đâu. Hai người đưa mắt ra hiệu cho nhau, rồi cùng phóng kiếm đâm vào người lão.
                            Phật Nguyệt đứng ở cạnh mé đài. Nàng uốn cong người, vọt lên cao, chuyển động thân hình một cái, đã đứng ở bên cạnh lão. Ánh sáng lấp lánh, người tinh mắt thấy nàng rút kiếm, rồi tra kiếm vào vỏ rất nhanh. Hai thanh kiếm của Huyền Sương, Đức Tiết đã rơi xuống đài. Cổ tay hai người máu tuôn xối xả.
                            Quần hùng thấy chiêu kiếm của Phật Nguyệt thần tốc, quái dị giống hệt chiêu thức, kiếm pháp của Phương Dung, cùng kêu lên:
                            – Úi chà!
                            Nguyễn Phan chỉ Đức Tiết, Huyền Sương nói:
                            – Trước đây hai ngươi là trẻ mồ côi, ta đem về nuôi dạy, thương yêu như con. Thế mà, chỉ vì chút vàng và chức Huyện úy, mà các ngươi đã bắt ta đem nộp cho Thái thú Tích Quang giam giữ, tra khảo, cắt gân ta để ta thành tàn phế... mục đích đòi ta truyền thụ 72 chiêu kiếm trấn môn và bài quyết biến hóa.
                            Ông hướng vào quần hùng Lĩnh Nam tiếp:
                            – Các vị nghe đây! Kiếm pháp phái Long biên chúng tôi do Vạn-tín hầu Lý Thân sáng chế có 72 thức, mỗi thức có 36 chiêu. Biến hóa, cộng thành 5.184 chiêu. Trong bài quyết biến hóa dạy Tam hư thất thực, cổng thành 51.861 chiêu. Với kiếm pháp này, Vạn-tín hầu đã thắng hết mọi võ sĩ của Tần Thủy hoàng, đánh Hung nô, trở thành anh hùng vô địch. Trải qua 200 năm nay, chỉ có 2.592 chiêu dạy cho đệ tử mà thôi, còn biến hóa ra Tam hư thất thực thì chỉ người chưởng môn mới được biết. Điều này tạo ra cho người chưởng môn có uy quyền lớn, nhưng ngược lại, cũng dễ làm cho môn phái sụp đổ.
                            Ông thở dài tiếp:
                            – Như vừa rồi, Thái thú Tích Quang muốn lấy được bí quyết đó, đã bỏ vàng bạc, chức tước ra mau chuộc ba tên phản đồ, bắt giam lão phu. Suýt nữa lão phu đã chết trong ngục tối...
                            Ông ngừng lại chỉ Đào Kỳ:
                            – May lão phu gặp được bạn trẻ đây, lọt vào nhà tù cứu lão phu. Lão phu truyền bí quyết biến hóa và 72 chiêu kiếm trấn môn cho y. Nhờ y truyền lại cho hậu thế.Y đã làm đúng như lời lão phu, truyền lại cho con gái của Nguyễn Trát. Con gái Nguyễn Trát vừa hiển dương kiếm pháp, thì nào Tô Định, nào Lê Đạo Sinh, nào bọn phản đồ đều muốn tiêu diệt. Người ta bất chấp đạo lý dùng bốn cao thủ vây đánh một thiếu niên. Hỡi ơi! Võ đạo Lĩnh Nam đã cùng rồi!
                            Lão ngừng một lát nói tiếp:
                            – Để khỏi làm mất tinh hoa của Vạn tín hầu, để mọi người học được Long biên kiếm pháp, lão phu quyết định dạy kiếm pháp đó tại đây. Ai muốn học thì lắng nghe.
                            Ông nói câu này làm mấy nghìn người ngồi ở dưới đều ngóng cổ, im lặng nghe. Nguyễn Phan bảo Phật Nguyệt:
                            – Con biểu diễn thứ tự 72 thức kiếm căn bản trấn môn đi!
                            Phật Nguyệt đứng giứa đài biểu diễn từng chiêu một. Võ lâm thiên hạ trố mắt nhìn, vì sợ nếu lỡ chớp mắt sẽ mất một chiêu. Phật Nguyệt biễu diễn 72 thức rồi, Nguyễn Phan giảng:
                            – Mỗi thức có 36 biến hóa. Tại sao biến hóa tới 36? Đó là căn cứ vào Kinh Dịch với 8 quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Từ 8 đánh về sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới, cộng thành 36. Tổng cộng là 2.592 chiêu.
                            Ông ngừng lại hỏi Mai Huyền Sương:
                            – Huyền Sương ngươi đã học được đến đây rồi phải không?
                            Dưới đài, nhóm Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng, Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang cùng tự gật đầu, vì họ cũng đều học được những chiêu như trên.
                            Còn Mai Huyền Sương nghe đến đó, y thị cũng gật đầu.
                            Nguyễn Phan nói tiếp:
                            – Nhưng trong 2.592 chiêu đó phân làm âm dương, tổng cộng thành 5.184 chiêu. Trong mỗi chiêu phải có công, có thủ. Công là dương, thủ là âm. Muốn cho âm dương đều hòa cơ thể để khỏi mệt thì mỗi chiêu công hay thủ, chỉ mình biết mà thôi. Khi tấn công không vận lực đó là âm, là thủ. Khi tấn công vận lực đó là dương, là công.
                            Đức Tiết và Huyền Sương nghe tối đó như bừng tỉnh giấc, họ rút kiếm ra múa lên, đánh xuống, kiếm quang như mây bay, nước cuốn, khác hẳn với những chiêu kiếm cũ của họ. Phía khác, nhóm Nguyễn Trát, Đông Bảng cũng múa tương tự. Họ nghĩ: Chỉ mấy lời của Thái sư phụ, bằng họ luyện tập cả một đời.
                            Nguyễn Phan tiếp:
                            – Những phép biến hóa thì cứ ba chiêu hư, bảy chiêu thực, nên thành 15.552 chiêu hư và 36.309 chiêu thực. Tổng cộng là 51.861 chiêu.
                            Ông nói đến đâu thì đồ tử, đồ tôn múa kiếm đến đó. Còn người ngoài chẳng hiểu gì cả. Kiếm quang bay vù vù, liên miên bất tuyệt.
                            Ông tiếp:
                            – Kiếm biến hóa đã đành, nhưng làm sao cho thần tốc? Đó là vấn đề nội công. Phải học nội công. Sau đây là 90 câu quyết về nội công để biến hóa. Các ngươi cần ghi nhớ kỹ để nằm lòng:
                            Hư, hư, thực, thực thị chân truyền.
                            Thượng hạ chuyển luân, ý chí kiên.
                            Ninh, ninh, tĩnh, tĩnh,nhiên thị thắng.
                            Minh tầm nhật nguyệt hạc phi thiên.
                            . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
                            Tiếng ông giảng thao thao bất tuyệt về cách luyện nội công. Đám Đông Bảng, Nguyễn Trát ngớ ngẩn không hiểu. Riêng Đào Kỳ, Phương Dung thì hiểu rất rõ.
                            Nguyên 90 câu quyết này, ông đã truyền cho bọn Huyền Sương, Đức Tiết 20 câu đầu trong khi ông ở tù rồi. Bây giờ ông bỏ 20 câu đó, chỉ giảng đoạn sau, nên họ hiểu hết mà nhóm Nguyễn Trát lại không hiểu chi cả. Đành đứng ngây ra nghe.
                            Nguyễn Phan nói với Nguyễn Trát:
                            – Nguyễn Trát! Ta giảng những câu quyết này cho đệ tử của ta nghe mà thôi. Các ngươi là đồ tôn không hiểu gì đâu. Đừng có cưỡng nghe mà vô ích. Ngươi nhớ lấy.
                            Nguyễn Trát và Đông Bảng là những người quân tử, nghe Thái sư phụ nói vậy, thì tự biết mình không vận khí nữa. Còn đám Huyền Sương, Đức Tiết thì cho rằng sư phụ ưu ái bọn họ. Họ sung sướng ra mặt, vận khí, vung kiếm vèo vèo.
                            Nguyễn Phan nói tiếp:
                            – Minh tâm là gì? Là để lòng trong sáng, tức không suy nghĩ, ý, chí hợp nhất, đưa chân khí lên xuống lồng ngực rồi dẫn tới cổ.
                            Đào Kỳ nghe đến đó thì giật mình nghĩ:
                            – Ông cụ này lầm rồi. Lần trước ông bảo mình phân ra làm hai. Ý nghĩ một lối, kiếm chiêu một lối, đưa khí xuống chân. Nay ông giảng ngược lại là làm sao? Ông là đại cao nhân chắc có ý gì đây?
                            Đức Tiết, Huyền Sương chống kiếm, vận khí. Họ dẫn lên đến cổ thì tắc. Họ buông lỏng, vận lại, nhưng vẫn tắc.
                            Nguyễn Phan nói:
                            – Ý nghĩ đưa khí lên đầu, thì tụ khí sẽ rời khỏi cổ.
                            Hai người vội vận thử, khí bật lên đầu. Họ đồng la lên một tiếng khủng khiếp, té lăn xuống đải mắt trợn ngược, miệng méo xệch. Máu mồm, máu mũi tuôn ra xối xả.
                            Quần hùng Lĩnh nam giật mình, không ai hiểu gì hết. Nguyễn Phan nói:
                            – Ta đã nói rồi, luật lệ bản môn từ trước tới giờ, chỉ truyền 72 chiêu trấn môn và bài quyết biến hóa cho những người lòng dạ trong sáng mà thôi. Đâu phải ai cũng học được? Khi các người bắt giam ta, ta bảo không truyền cho các ngươi vì sẽ nguy hại vô cùng. Các ngươi không nghe còn cắt gân ta. Hôm nay trước mặt anh hùng thiên hạ, ta truyền cho các ngươi. Các ngươi tập rồi mua lấy kết quả này. Khí đưa lên đầu, mạch máu trên đầu sẽ đứt. Các ngươi sẽ đau đớn khôn cùng trong một thời gian bảy lần bảy là bốn mươi chín ngày, rồi miệng méo, bán thân bất toại. Trong thiên hạ, không còn ai chữa cho các ngươi được nữa.
                            Khi Nguyễn Phan nói câu này chỉ có ba người hiểu rằng ông nói dối. Thực ra ông đã dạy ngược để trừng phạt ba tên phản đồ. Ba người đó là Đào Kỳ, Phương Dung và Phật Nguyệt.
                            Đám đệ tử của Đức Tiết và Huyền Sương vội tới vực sư phụ về chỗ ngồi.
                            Nguyễn Phan hướng vào Đào Kỳ:
                            – Tiểu hữu! Ta muốn nhờ ngươi một việc nữa, được chăng? Trước kia, khi chưa bị chặt chân, lưỡi kiếm của ta có coi phường ngụy quân tử ra gì đâu? Bây giờ, chân ta hư rồi. Ta nhờ ngươi: Xin ngươi hãy dùng khí hạo nhiên đứng ra chủ trì công đạo, giết chết tên đệ nhất ma đầu hiện đại cho ta được chăng?
                            Quần hùng nhìn Nguyễn Phan chờ đợi, xem ông bảo ai là đệ nhất ma đầu? Người đó chắc phải ghê lắm.
                            Nguyễn Phan đưa mắt nhìn một lượt quanh khắp các khán đài, rồi chỉ vào Lê Đạo Sinh:
                            – Tên Lê Đạo Sinh là đệ nhất ma đầu hiện đại. Ngụy quân tử. Ngươi phải giết hắn để trừ hại cho Lĩnh Nam ta.
                            Khắp quãng trường đều im lặng không một tiếng động. Vì đối với võ lâm Lĩnh Nam, Lê Đạo Sinh là người đạo đức quân tử. Y là Thái thượng chưởng môn phái Tản viên, một phái người nhiều, thế mạnh. Chưởng môn hiện giờ là Đặng Thi Sách cùng vợ là Trưng Trắc thêm em vợ là Trưng Nhị vang danh thiên hạ về đạo đức, võ công. Nhất là phái Tản viên lúc nào cũng ấp ủ hoài bão Phản Hán, phục Việt. Lê Đạo Sinh có 10 đệ tử, đã có tới 5 người làm Huyện úy, kiêm cai quản 5 trang rất lớn. Còn 5 người nữa, người nào cũng cai quản hàng chục trang. Có thể nói một phần ba đất Giao chỉ thuộc về Lê rồi. Thế mà nay Nguyễn Phan lại nói y là đại ma đầu, hỏi ai không ngạc nhiên?
                            Lê Đạo Sinh thực không thẹn là cao nhân đương thời. Y bị Nguyễn Phan chửi như vậy, nhưng vẫn thản nhiên, hỏi:
                            – Nguyễn Phan tiên sinh! Tiên sinh là tiền bối, muốn mắng tại hạ thì mắng, muốn đánh thì đánh, việc gì phải bày ra chuyện này, e thiên hạ cười cho đấy!
                            Nguyễn Phan cười rung động cả quảng trường rồi nói:
                            – Ai bảo ngươi là một quân tử? Ta, ta bảo ngươi là một tên ngụy quân tử. Tại sao Thái thú Tích Quang lại giam ta ở trong nhà tù? Nhà tù đó lại ở trang Thái hà ? Ngươi trả lời đi?
                            Đào Kỳ chỉ Lê Đạo Sinh nói:
                            – Ngươi không chối được đâu. Để ta nói cho ngươi nghe. Trước thư phòng ngươi có ao sen. Dưới ao có đường hầm dẫn vào nhà tù. Ngươi có làm một cái chấn song. Nhưng ta đã dùng dao cắt một đốt chấn song ngầm, lặn qua, vào thám thính nhà tù. Lần thứ nhất, ta gặp đệ tử của ngươi là Đức Hiệp đi cùng với bọn phản đồ Lê Nghĩa Nam tra khảo Nguyễn Phan tiền bối. Khi Đức Hiệp ra về, ta chú ý theo dõi. Mỗi ngày y vào phòng lấy chìa khóa để mở cửa nhà tù, cho tù ăn. Ta thừa lúc y đi vắng, lẻn vào phòng, đem hai viên đất ấp vào chìa khóa tủ, làm thành cái khuôn. Ta đi Cổ loa nhờ thợ rèn làm chìa khóa theo đúng cái khuôn. Mấy hôm sau ta lại theo đường hầm vào nhà tù, mở cửa, gặp lão tiên sinh Nguyễn Phan. Lão tiên sinh nhờ ta học 72 chiêu kiếm trấn môn và bài kiếm quyết, để tìm người có tâm huyết truyền lại. ta đem truyền cho Nguyễn Phương Dung cô nương. Cho nên Nguyễn cô nương mới giết chết được Lê Nghĩa Nam.
                            Lời nói của Đào Kỳ làm Lê Đạo Sinh bừng tỉnh. Bấy giờ y mới hiểu những bí mật xảy ra trong trang của y.
                            Y vội hỏi:
                            – Thế kho tàng của ta, cũng do mi lấy phải không?
                            Đào Kỳ cười:
                            – Đúng! Ta dùng chìa khóa nhà tù tra vào ổ khóa kho tàng của ngươi, thấy gần vừa, ta gọt đi một chút thì mở được. Bao nhiêu vàng bạc, châu báu của ngươi ta lấy hết. Ta còn lấy cả cái búa của Tổ sư Sơn Tinh và thanh gươm của Hùng vương đi nữa.
                            Nói rồi chàng cởi cái bao trên lưng, vuốt một cái dây buộc đứt hết, lộ ra một thanh kiếm đen thui. Chàng dơ lên nói:
                            – Đây là thanh kiếm đó.
                            Rồi chàng lại lấy trong người ra, một cái búa rất đẹp, đưa ra:
                            – Đây! Búa đây! Ta ở trong trang ngươi làm bấy nhiêu việc, ngươi không biết, quả ngươi ngu thật. Ngươi đã biết ta là ai chưa? Đừng nóng. Lát nữa sẽ biết. Một đêm kia, ta đang rình nghe trộm ba tên phản đồ phái Long biên, đệ tử ngươi là Hoàng Đức phát giác ra. Y tấn công ta, nhưng bị ta đánh cho một chưởng suýt bỏ mạng.
                            Lê Đạo Sinh hỏi:
                            – Ta hỏi ngươi, ngươi là ai? Học võ ở đâu mà chỉ một chưởng đã làm cho Hoàng Đức thập tử nhất sinh?
                            Câu hỏi này của Lê Đạo Sinh, cũng là câu hỏi chung của anh hùng thiên hạ. Vì họ biết Hoàng Đức là cao đồ của Lê Đạo Sinh, võ công cực cao. Đào Kỳ làm thế nào đánh y bị thương dễ dàng như vậy?
                            Đào Kỳ cười gằn:
                            – Chưởng pháp ta đánh Hoàng Đức bị thương, chính là Phục ngưu thần chưởng của phái Tản viên.
                            Ngừng một lát chàng tiếp:
                            – Ta lần mò vào thăm tù, tình cờ cũng gặp được hai nhân vật cực kỳ quan trọng, cũng bị ngươi giam giữ, đó là Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công tiên sinh.
                            Đào Kỳ nói đến đó đã làm rúng động khắp quần hùng, nhất là đám đệ tử Tản viên. Bởi vì họ biết trước đây Thi Kế và Nguyễn Thành Công là những người thân tín nhất của Lê Đạo Sinh. Sau đó mất tích. Không ngờ họ bị Đạo Sinh cầm tù.
                            Đào Kỳ tiếp:
                            – Ngươi khóa Thi Kế, Thành Công tiên sinh bằng những sợi xích kiên cố, đao kiếm chặt không được. Ta phải lần mò ăn cắp cây búa của Thánh Tản viên, hy vọng chặt được xích. Ta vào tù cứu họ. Ngươi đã cho các đệ tử Hoàng Đức, Đức Hiệp, Chu Bá và Lê Thị Hảo vây ta, còn tù nhân ngươi chuyển lên giam ở Luy lâu. Bị vây hãm ta bắt sống con gái của ngươi là Phương Lan để thoát thân. Thế nhưng, Phương Lan là phu nhân của thầy ta là Lục Mạnh Tân tiên sinh. Trọng thầy, nên ta để nàng trở về nhà mà không giết. Trong khi chiến đấu, ngươi thấy ta sử dụng võ công Cửu-chân, ngươi đã cho rằng ta là cao nhân phái Cửu-chân ẩn nấp trong trang ngươi. Ngươi giả vờ chiều đãi ta, vì ta là sư đệ của Lĩnh-nam công phu nhân. Thực ra ngươi đã dùng ta làm con mồi để đánh bẫy cao nhân phái Cửu-chân. Ngươi ngu quá, vì ngươi đâu biết rằng, cao nhân phái Cửu-chân đó chính là ta.
                            Đến đây Đào Kỳ lột khăn bịt mặt ra. Bấy giờ mọi người mới biết chàng là Đào Kỳ.
                            Thiều Hoa nhảy lên đài:
                            – Tiểu sư đệ! Thế ra em đấy à? Em ngoan lắm, em chưa chết. Trời ơi! Hơn năm qua, chị khóc hết nưốc mắt. Đã tưởng em chết rồi chứ!
                            Đào Kỳ chạy lại nắm lấy tay Thiều Hoa:
                            – Sư tỷ! Em ở ẩn trong trang được ít tháng, thì Lê Đạo Sinh cho em đi chơi với con gái Hoàng Đức là Minh Châu cô nương và cháu ngoại ông ta là Tường Quy. Lúc đầu em tưởng y là người có lòng tốt. Sau, em khám phá ra y dùng cháu ngoại để làm mồi giết em, em vội bỏ đi. Khi đi em đấu với Đức Hiệp một chưởng, y suýt mất mạng. Em ra Cổ-đại đánh bại bốn cao thủ của Tô thái thú, cứu dân Cổ-đại thoát khỏi Ngũ lệnh. Mọi chuyện sau này chị đều biết cả. Em ẩn thân ở Cổ-đại, chờ một đêm, bí mật vào nhà tù cứu Nguyễn Phan, Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công tiên sinh ra. Nhưng em chỉ cứu được hai vị Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công thôi, còn Nguyễn Phan tiên sinh thì do ngài Trần Khổng Chúng cứu ra.
                            Đào Kỳ quay lại nói với Nghiêm Sơn:
                            – Nghiêm đại ca! Đại ca có giận em không?
                            Khi chàng hỏi câu này, người ngoài không ai hiểu gì, chỉ trừ chàng Nghiêm Sơn và Thiều Hoa. Bây giờ Nghiêm Sơn mới biết rằng người đánh mình ba chưởng cứu Ngũ kiếm là cậu tiểu sư đệ của vợ mình. Chàng dở khóc, dở cười.
                            – Tiểu sư đệ ! Ngươi giỏi lắm. Ta mừng cho sư đệ, ta không giận ngươi đâu.
                            Lê Đạo Sinh nghe Đào Kỳ nói thì y chết điếng trong lòng. Y gượng hỏi:
                            – Nhưng tại sao ngươi lại biết võ công Tản viên nhà ta?
                            Đào Kỳ cười:
                            – Đó là do Phong châu song quái giúp ta. Khi ngươi mưu đồ cùng Thái-thú Nhâm Diên đánh Đào, Đinh trang, cửa nhà ta tan nát. Song quái theo dõi bọn ta. Y bắt cóc ta, trong lúc ta đang mượn cây gậy của Cao-cảnh hầu Cao Nỗ biễu diễn võ. Y mang cả gậy theo. Nào có ngờ đâu, sau này ta khám phá ra trong cây gậy có những tấm thẻ đồng, khắc tất cả nội công dương cương của phái Cửu-chân, Tản-viên, lẫn nội công âm nhu của Long-biên. Ta lấy ra luyện cả hai. Rồi ta học đủ 36 chưởng dương cương lẫn 36 chưởng âm nhu của Phục-ngưu thần chưởng. Chưởng ta đánh Đức Hiệp suýt bỏ mạng là một chưởng âm nhu trong Phục-ngưu thần chưởng. Chàng nói đến đó thì Nguyễn Phan đã được Phật Nguyệt rước về chỗ khán đài phái Long-biên ngồi. Trên đài chỉ còn chàng với vợ chồng Chu Bá.
                            Đặng Thi Sách từ khán đài Tản-viên, hỏi chàng:
                            – Đào tiểu hữu! Ngươi cứu phụ thân với sư thúc ta ra rồi, hiện ngươi để ở đâu? Có thể nào cho ta gặp được không?
                            Đào Kỳ chưa kịp nói thì có hai bóng người nhảy lên đài, nói:
                            – Chúng ta đã ở đây từ lâu rồi!
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #29
                              Hồi 28 - Cầm chính đạo để tịch tà cự bí

                              Mọi người cùng đổ mắt nhìn xem, thì ra Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công.
                              Thi Sách kêu lên :
                              – Phụ thân ! Sư thúc !
                              Đặng Thi Kế hướng vào Lê Đạo Sinh :
                              – Sư thúc ! Người bắt giam tôi chỉ vì muốn biết pho Văn-lang vũ học kỳ thư ở đâu. Sư thúc ơi, người đã bị dục vọng che lấp mất thần minh đi rồi. Nếu thực sự tôi giữ bộ sách đó, tôi đã luyện tập để trở thành anh hùng vô địch thiên hạ, chứ đâu để cho sư thúc bắt giam khổ sở như vậy ? Khi xưa, sáng tổ môn phái là Tản Viên. Ngài xuất thân là tiều phu. Nhờ võ công cao cường, được vua Hùng gả công chúa cho. Vua muốn dùng ngài làm tướng, song ngài là người của hạc nội mây ngàn. Ngài đã trốn lên đỉnh núi Tản Viên hưởng thanh phúc với công chúa Mỵ Nương.
                              Ngừng một lát, Đặng Thi Kế tiếp :
                              – Ai cũng biết núi Tản Viên cao ước 1.500 trượng. Từ dưới lên đến 600 trượng thì thoai thoải. Từ 600 trượng trở lên lại phình ra như cái bầu, làm sao lên được ? Vậy mà trên đỉnh, tổ sư lại xây điện đài để ở, vậy ngài biết bay hay sao ? Sư thúc ! Người thử đoán xem sư tổ xây thành bằng cách nào ?
                              Lê Đạo Sinh trả lời từ từ bằng cái lắc đầu.
                              Đặng Thi Kế cười nhạt, nói :
                              – Không có gì khó hiểu cả. Từ chân núi lên đỉnh, có một cái hang. Hang gồm 600 bậc. Tổ sư đã đi theo đường hang đó lên đỉnh vậy. Ngày nay, chúng ta đứng dưới nhìn lên đỉnh chỉ thấy mây trắng bao phủ. Ngày nào tốt trời, mây tan đi, sẽ thấy mờ mờ một tòa điện đài. Trước kia, chưởng môn phái Tản Viên biết đường đi lên. Từ đời chưởng môn thứ 12, bất ngờ bị người Hán giết chết, vì vậy, các đời sau không ai biết cửa hang ở đâu. Tổ sư để lại một cây búa. Cây búa nhỏ như vậy làm sao đục được đá, lên núi được ? Chẳng qua đó chỉ là cái chìa khóa mở cửa hang mà thôi.
                              Nguyễn Thành Công tiếp lời :
                              – Sư thúc ! Từ trước đến sau, tôi kính trọng người như sư phụ. Người dạy gì, tôi cũng nghe. Có bao giờ tôi chống người đâu ? Không biết vì lý do gì người lại thu nhận cặp phản đồ Vũ Hỷ, Vũ Phương Anh, dạy võ cho chúng, xui chúng phản tôi ? Làm như vậy người có được gì không ? Ác nghiệp của người cao quá rồi. Người đừng tưởng võ công người cao, không ai làm gì được người đâu. Cao nhân tắc hữu cao nhân trị. Người đừng quên điều đó.
                              Nói rồi, hai ông cùng nhảy xuống đài, đi về phía khán đài của phái Tản-viên.
                              Đào Kỳ tiếp :
                              – Sau này, do duyên đưa đẩy, ta gặp Khất đại phu. Người dạy ta về học thuyết Kinh lạc, luyện khí công theo các đường kinh. Ta với người cùng sáng chế ra Chỉ pháp Lĩnh-nam, hợp được âm dương làm một.
                              Nghe Đào Kỳ nói, cử tọa ngơ ngác tự hỏi :
                              – Gã thiếu niên này có nói láo không ? Âm là âm, dương là dương. Âm dương khắc chế nhau, làm sao có hể hợp làm một được ?
                              Lê Đạo Sinh quát lên :
                              – Thằng mọi con ! Ngươi là tôi tớ của ta bấy lâu nay, bây giờ lên đây nói láo phải không ? Làm sao có thể hợp được âm dương với nhau ?
                              Đào Kỳ cười gằn :
                              – Ngươi không tin ư ? Được ! Ta thí nghiệm cho ngươi coi để ngươi mở rộng tầm mắt ra.
                              Nói rồi, chàng bèn hít một hơi, dẫn khí về Đơn điền, phân tán khắp cơ thể. Rồi bất thình lình phát chưởng ra tay bằng Thủ tam âm kinh, hướng vào cột cờ gãy, ra chiêu "Ác ngưu nan độ". Kình lực âm nhu mạnh không thể tưởng tượng được. Cây cột cờ gãy bị trúng chưởng nghe vù một tiếng, bị tiện đứt khúc trên các thớ gỗ bị đánh tan, bay lên không trắng xóa, rơi lả tả xuống đất.
                              Cử tọa kinh hãi đến ngơ ngẩn, xuất hồn. Họ nghĩ :
                              – Nếu chưởng này đánh vào người, thì xương cốt, ngũ tạng sẽ tan nát ra mà chết, chứ còn đấu gì được nữa ?
                              Lê Đạo Sinh hỏi :
                              – Ngươi có dám qua lại mấy chiêu với ta không ?
                              Đào Kỳ không nói không rằng, vận chân khí ra Thủ tam đương kinh, chàng phát chiêu Loa thành nguyệt ảnh hướng vào Lê Đạo Sinh. Chưởng phong rít lên, xoáy tròn, chụp xuống người y. Đạo Sinh thấy chưởng lực đó đổ xuống như thác, y kinh hồn, vội vọt người lên cao. Chưởng của Đào Kỳ đánh trúng cái ghế làm bằng ghỗ lim chỗ y ngồi. Cái ghế vỡ tan tành. Mảnh văng lên không. Khán đài thủng một lỗ.
                              Sợ Đào Kỳ đánh tiếp, Đạo Sinh đá gió một cái, người bật ra xa, tà tà đáp xuống.
                              Lê Đạo Sinh gật đầu :
                              – Bản lĩnh của ngươi thì ta tin. Còn ngươi bảo sư huynh ta dạy võ công cho ngươi thì ta không tin. Khi xưa, ta với sư huynh nhập môn cung một lúc. Chúng ta cùng luyện võ. Bản lãnh ngang nhau. Từ năm bốn mươi tuổi về sau, sư huynh ta mải mê nghiên cứu y học, công lực người kém xa ta, làm sao có thứ võ công đó để dạy ngươi ?
                              Bỗng có bóng người từ dưới đài nhảy lên nói lớn :
                              – Sao lại không ? Bây giờ bản lĩnh của ta bỏ xa ngươi rồi.
                              Trần Năng từ ghế ngồi kêu lớn lên :
                              – Sư phụ ! Sư phụ ! Người đi đâu làm đệ tử nhớ người muốn chết ?
                              Lê Đạo Sinh cũng kêu lên :
                              – Sư huynh ! Người vẫn mạnh ?
                              Trần Đại Sinh đến xoa đầu Trần Năng :
                              – Con bé ngạnh đầu ! Ngươi giỏi lắm. Ngươi đã làm được những việc ta không ngờ tới. Hôm nay ta thu ngươi làm đệ tử.
                              Trần Năng phủ phục xuống đài lạy đủ bốn lạy.
                              Trần Đại Sinh tiếp :
                              – Ngươi ngoan lắm ! Sư phụ hãnh diện về ngươi.
                              Đào Kỳ thấy Trần Đại Sinh xuất hiện, Lê Đạo Sinh chắc khó thoát, nên chàng nhảy xuống đài, đến thăm tình trạng thương tích của Phương Dung.
                              Trần Đại Sinh quay lại nói với Đạo Sinh :
                              – Sư đệ ! Cách đây mấy năm ta đi săn gấu, kiếm mật để làm thuốc cứu người, ta đã gặp con bé ngạnh đầu này. ta quăng giây thắt cổ gấu thì nó bắn tên giết gấu. Ta chậm tay hơn nó một chút, thành ra kể như con gấu thuộc về nó. Ta tranh luận với nó một lúc, mới vỡ lẽ ra rằng nó là một con bé xinh đẹp, nhưng cứng đầu nhất thiên hạ. Dĩ nhiên, cuộc tranh luận đó, ta thua, thua hoàn toàn. Sau khi thắng được ta, nó đã tặng con gấu cho ta, còn mời ta về nhà đãi rượu, rồi cho ta hàng chục cái mật gấu. Nó xin ta dạy cho nó cách quăng giây bắt thú. Ta đành nhận lời, dạy nó nội công, rồi dạy quăng giây. Trong khi dạy nó, ta gặp một chuyện cơ mật phải làm. Nó nắm lấy cơ hội đó, đòi ta dạy võ. Nó hăm nếu ta không dạy nó, nó sẽ nói cho mọi người biết. Cuối cùng ta phải dạy võ nó, nhưng không nhận nó làm học trò. Học trò phái Tản-viên phải là người có đạo hạnh, nhưng nó cứng đầu như vậy, làm sao ta dám nhận ?
                              Ông ngừng lại, cười :
                              – Trên đường đi chữa bệnh, ta được tin sư đệ muốn làm bá chủ võ lâm. Sư đệ đứng sau Lôi-sơn tam hùng, xúi họ thống nhất 36 động Nam Mê-linh, hầu ăn thua đủ với 36 động Bắc Mê-linh của Thi Sách và Nhị Trưng. Ta nghĩ : bọn chúng là đồ tử, đồ tôn, bảo chúng quỳ gối lúc nào cũng được, tại sao phải làm thế ? Thì ra ngươi đã giam cha chúng và sư thúc chúng. Ngươi sợ một ngày kia chúng biết, sẽ trở mặt, nên ngươi mưu đồ phục sẵn một lực lượng đối kháng bên cạnh. Ngươi thống nhất 36 động Nam Mê-linh thì mặc ngươi, tại sao ngươi lại xúi Đinh Công Dũng giết Trần-hầu ở trang Toàn-liệt ? Sư đệ! Ngươi thực tàn nhẫn quá! Ngươi làm vậy để chuẩn bị nhắm dùng Trần-hầu, Hùng-hầu làm lực lượng chuẩn bị sẵn sàng đối phó khi Đinh Công Dũng trở mặt, có đúng thế không ?
                              Ông lắc đầu, nói tiếp :
                              – Ta đứng trong bóng tối nhưng đã biết hết. Trời xui đất khiến ở đâu. Đào tiểu hữu đây là con út của Đào-hầu ở Cửu-chân, đã cùng Nguyễn cô nương tới Mê-linh. Hùng Bảo, con Hùng-hầu lại là đệ tử của sư tỷ Đào tiểu hữu, tức Quốc công phu nhân. Sư thúc, sư điệt họ nhận được nhau. Đào tiểu hữu, Nguyễn cô nương đã giúp trang Thượng-hồng, Toàn-liệt chiếm chức vụ thống lĩnh 36 động Nam Mê-linh. Ta vội cho đệ tử là Lê Ngọc Trinh xuất hiện, trợ giúp con bé ngạnh đầu, làm Đinh Công Dũng bị thất bại. Châu Lôi-sơn được thành lập, nay trở thành hùng mạnh. Ngươi còn khích động cho anh em họ Đinh chiếm lại Lôi-sơn, nhưng ngươi đâu ngờ Đinh Hồng Thanh là đệ tử của Đào gia. Ta nhờ Hồ Đề cô nương bảo Hồng Thanh phải thề không được phản sư môn họ Đào. Con bé ngạnh đầu đã khôn khéo nhường chức vụ thống lĩnh 36 động Nam Mê-linh cho Hồng Thanh. Từ nay, họ Đinh, họ Trần hết thù oán. Châu Lôi-sơn có đệ tử chính phái thống lĩnh. Mưu đồ của ngươi hóa thành công cốc. Ngươi giận ta lắm phải không ? Ta không thù oán ngươi, nhưng vì ngươi ác độc quá, ta là sư huynh phải sửa chữa mà thôi. Cũng vì thế, hôm nay ta nhận con bé ngạnh đầu làm đệ tử.
                              Tô Định thấy kế hoạch của mình bị thất bại, y vội cứu Lê Đạo Sinh :
                              – Chúng ta đang tuyển người võ công cao nhất phái Long-biên. Vậy, ai là chưởng môn phái Long-biên ? Ai là người võ công cao nhất phái Long-biên ? Lão già ăn mày kia ! Ngươi hãy đi chỗ khác. Đây không có cơm thừa canh cặn cho ngươi đâu. Xuống đài ngay !
                              Trần Đại Sinh là đệ nhất cao nhân Lĩnh Nam. Tính ông xuề xòa, lang thang khắp nơi đem tài y học cứu người. Vì vậy, người người đều nghe danh. Họ coi ông như một vị tiên, kính trọng như cha già. Tô Định không biết điều đó nên đã buông lời nhục mạ ông. Quần hùng yên lặng nhìn y với vẻ căm hờn.
                              Bỗng có tiếng quát lớn :
                              – Tên Tô Định gian tham kia ! Mi bất quá chỉ là một thứ trộm cướp ổ vùng Mân Việt, gặp thời loạn mà đắc chí. Mi sang đây làm quan, đáng lý ra phải biếtứng dụng đạo Thánh, chăn dắt trăm họ, chiêu hiền đãi sĩ. Thế mà mi mới sang, đã xàm tấu với Kiến-Vũ thiên tử, ban hành Ngũ lệnh, tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng khi xưa.Đối với một bậc lão giả, khả kính như một tiên ông mà mi dám xách mé, làm nhục người giữa chốn anh hùng hội tụ thế này, ta lấy làm nhục nhã vì là người Hán với mi !
                              – Mọi người nhìn lại và nhận ra đó không phải là người trong võ lâm. Người đó khoan thai lên đài. Bây giờ cử tọa mới để ý : ông ta trang phục theo lối Nho sĩ, tuổi khoảng 40.
                              Quần hùng có người nhận ra ông, kêu lên :
                              – Lục Mạnh Tân tiên sinh !
                              Lục Mạnh Tân hướng vào quần hùng, nói lớn :
                              – Tôi, Lục Mạnh Tân, người Hán. Tôi xin thưa với các vị, người Hán cũng có Hán quân tử, Hán tiểu nhân. Nếu Hán có Văn Vương thì cũng có Trụ Vương. Các vị đừng vì lời nói ngu xuẩn của Tô Định mà thù hằn chung người Hán.
                              Tô Định quát lên :
                              – Tên hủ nho kia ! Ngươi xuống đài ngay, nếu không, ta giết ngươi liền.
                              Vệ sĩ của Tô Định là Cửu Thiết từ dưới đài nhảy lên, rút đao lia vào cổ Lục Mạnh Tân.
                              Quần hào cùng kêu lớn :
                              – Không được hại người !
                              – Ngừng tay !
                              Khất đại phu đứng gần Lục Mạnh Tân, định bắt đao cứu người, thì, dưới đài, Đào Kỳ đã quát lớn :
                              – Không được hại sư phụ ta !
                              Miệng nói, chàng vọt người lên, theo thức thăng thiên của phái Long-biên. Tay chàng phát Lĩnh-nam chỉ hướng vào Cửu Thiết. Kình lực rít lên vo vo, inh tai nhức óc. Đao của Cửu Thiết vừa chạm cổ Lục Mạnh Tân, bị trúng chỉ đánh choang một tiếng. Đao gãy làm năm, sáu mảnh bay lên trời. Đào Kỳ đánh bồi theo một chưởng, mấy mảnh đao vọt lên không, bay ra tận bãi cát cạnh bờ hồ mới rơi xuống.
                              Cửu Thiết quyết giết Lục Mạnh Tân. Y phóng một quyền vào đầu ông. Đào Kỳ vội đánh một chỉ nữa. Tay Cửu Thiết chưa kịp chạm vào đầu Lục Mạnh Tân, ngực y đã bị thủng một lỗ, máu phun ra như một vòi nước. Y trợn ngược mắt, lảo đảo ngã xuống đài.
                              Đào Kỳ chỉ Lục Mạnh Tân nói lớn :
                              – Đây là sư phụ của ta. Dù người học võ hay văn, đều lấy Sư đạo làm trọng. Lục sư phụ của ta là đức thánh Khổng tái sinh. Kẻ nào có gan thì đụng vào người. Ta quyết giết cả nhà nó.
                              Thái độ của Đào Kỳ làm những người Hán có mặt trong đại hội đều khoan khoái trong lòng. Họ gật đầu :
                              – Đúng là danh gia đệ tử. Biết phân biệt kẻ tốt, người xấu. Như vậy, người Việt đâu có thù hằn người Hán ? Họ có thù hận là thù hận bọn tham ô mà thôi.
                              Tô Định định làm nhục Khất đại phu. Lục Mạnh Tân đem đạo lý mắng Tô Định. Đào Kỳ giết Cửu Thiết bảo vệ Lục Mạnh Tân. Diễn biến đó khiến người Việt, người Hán nhìn nhau bằng con mắt thiện cảm hơn.
                              Đào Kỳ nói với Tô Định :
                              – Tô Thái thú ! Người có bênh Lê Đạo Sinh cũng không nên thất lễ với một tiên ông như Khất đại phu. Nếu Khất đại phu thù hằn ngươi, liệu ngươi và gia đình có sống được ở Giao-chỉ này chăng ? Võ công Thái-thú tuy cao, nhưng không thể nào địch nổi đại phu đâu. Chưởng lực, chỉ lực tại hạ vừa biểu diễn, là do đại phu dạy tại hạ đó.
                              Tô Định biết mình lỡ mồm. Y nói lảng :
                              – Phái Long-biên, ai là đệ nhất cao nhân ?
                              Nguyễn Phan vẫy Nguyễn Trát lại gần, nói :
                              – Nguyễn Trát ! Quỳ xuống nghe lệnh đây !
                              Nguyễn Trát quỳ xuống.
                              Nguyễn Phan nói :
                              – Hôm nay, trước anh hùng Lĩnh Nam, chưởng môn đời thứ 20 phái Long Biên là Nguyễn Phan, truyền chức chưởng môn cho đệ tử đời thứ 22 là Nguyễn Trát. Nguyễn Trát ! Ngươi hãy nghe : Tổ sư giáo huấn, người chưởng môn phái Long-biên phải nghĩ đến quang phục đất Lĩnh Nam. Nếu trái lời, sẽ bị ngàn kiếm phân thây.
                              Nguyễn Trát nhắc lại :
                              – Đệ tử nghe rõ. Xin thề trung thành với lời giáo huấn của liệt tổ.
                              Nguyễn Phan gật đầu :
                              – Thôi ngươi đứng dậy đi. Ngươi cứ lấy người võ công cao nhất bản môn để sang Trung nguyên.
                              Nguyễn Trát chỉ Phật Nguyệt :
                              – Thưa Thái sư phụ ! Đệ tử nghĩ rằng ngoài Thái sư phụ ra, chỉ nên đề cử sư thúc Phật Nguyệt mới đúng.
                              Nguyễn Phan nói :
                              – Theo ta, nên cử Phương Dung là hơn. Phật Nguyệt còn phải ở bên cạnh ta, để ta sai một vài việc.
                              Nguyễn Trát nhìn sang phái Tản Viên, thấy Trần Đại Sinh đang chữa trị cho Phương Dung. Nàng đã tỉnh, đang ngồi nói chuyện với Trưng Nhị. Ông chắp tay lạy tạ Trần Đại Sinh :
                              – Khất đại phu tiên sinh ! Phái Long-biên xin cảm tạ đại ân đại đức của tiên sinh đã chữa cho cháu Phương Dung. Không biết đến bao giờ cháu mới trở lại bình thường ?
                              Trần Đại Sinh cười :
                              – Xong rồi ! Khỏi rồi ! Bây giờ đã có thể đấu kiếm ngay được rồi !
                              Phương Dung nói với Trần Đại Sinh :
                              – Khất đại phu ! Đại phu là người lòng dạ như biển, nếu cháu nói cám ơn đại phu, cháu coi cái ơn ấy có thể đổi được, có thể trả được ư ? Vậy cháu xin giữ cái ơn ấy suốt đời.
                              Trần Đại Sinh vuốt râu cười :
                              – Lão phu suốt đời thích những con bé ngoan ngoãn, lại chỉ gặp những con bé ngạnh đầu. Nguyễn chưởng môn ! Phương Dung còn ngạnh đầu hơn cả đệ tử Trần Năng của lão nữa.
                              Nguyễn Trát hướng lên đài, nói :
                              – Nam-hải nữ hiệp ! Thái sư phụ của tôi dạy cho cháu Phương Dung là người võ công cao nhất phái Long-biên.
                              Phương Dung hướng về khán đài rồi nhảy vọt lên như chiếc pháo thăng thiên. Nàng tà tà đáp xuống đài, thân pháp cực kỳ xinh đẹp.
                              Bỗng Đặng Thi Sách nhảy lên đài nói lớn :
                              – Thưa chư vị anh hùng ! Thái sư thúc của tôi là Lê tiên sinh đã có những hành động ác nhân thất đức, tàn hại đồng môn, bổn phái quyết định trục xuất khỏi môn hộ. Lê tiên sinh không còn là người đại diện cho phái Tản-viên nữa. Phái Tản-viên xin đề cử Khất đại phu là người võ công cao nhất, đại diện sang Trung-nguyên cầu phong.
                              Lê Đạo Sinh cười ha hả :
                              – Thằng bé con Thi Sách kia ! Ngươi tưởng cái chúc chưởng môn của ngươi có giá trị lắm sao ? Ngươi liệu đệ tử trong môn phái có theo ngươi hay chăng ? Võ công ngươi được là bao mà dám lên đài để nhục mạ ta ?
                              Tô Định nói lớn :
                              – Quy ước đại hội Tây-hồ là đề cử người võ công cao nhất chứ không cần biết đến chưởng môn hay không chưởng môn. Vậy phái Tản-viên, ai là người có võ công cao nhất sẽ được đề cử. Khất đại phu, Lục trúc tiên sinh ! Các vị nên qua lại ít chiêu để cho hậu thế được chiêm ngưỡng võ công của hai vị thái sơn bắc đẩu, nên chăng ?
                              Lê Đạo Sinh ung dung bước ra giữa đài :
                              – Sư huynh ! Tiểu đệ không hiểu vì lý do nào sư huynh lại nghe lời người ta, bịa đặt đủ chuyện bôi xấu tiểu đệ. Tuy nhiên, tiểu đệ không giận sư huynh đâu. Bây giờ, một trong hai chúng ta phải đại diện môn phái sang Trung nguyên cầu phong, hầu được tiếp tục dạy võ của liệt tổ để lại. Tiểu đệ biết khó thắng được sư huynh, nhưng cũng phải ra tay.
                              Lê Đạo Sinh hướng về phía đệ tử :
                              – Các người nghe đây ! Phái Tản-viên ta, người nhiều thế mạnh, nhưng đời nào cũng bị chia rẽ vì lý do này, lý do khác. Trước đây, chúng ta chia ra làm Nam và Bắc hai chi. Ta phải tốn công lắm mới kết hợp được cuộc hôn nhân giữa Thi Sách với Trưng Trắc, phái Tản-viên hợp làm một. Rồi bây giờ, sắp sửa có vụ chia rẽ giữa nhà họ Lê ta và nhà họ Đặng. Vậy, ta có lời giáo huấn trước : Ta cũng như sư huynh hay bất cứ ai tranh cử chức võ công môn phái... Chẳng may ta có thiệt mạng, tuyệt đối các ngươi không được thù oán, không được chia rẽ. Ai trái lời, những người khác phải họp nhau lại mà tru diệt.
                              Nam-hải nữ hiệp gật đầu :
                              – Lời của Lê tiên sinh đúng là quân tử.
                              Lê Đạo Sinh hướng về Nam-hải nữ hiệp :
                              – Có những âm mưu mai phục bôi xấu lão phu. Nhưng với sự minh oan của Đệ nhất Thái bảo Sài-sơn, như vậy đã quá đủ. Đa tạ nữ hiệp.
                              Thái độ của Lê Đạo Sinh tỏ ra là một người quyết tâm với đại cuộc.
                              Trong khi trên đài, phái Tản-viên biện luận với nhau, Đào Kỳ đã đi khắp các phái chào hỏi. Chàng đến phái Sài-sơn chào các vị Thái-bảo xong. Phùng Vĩnh Hoa đã gõ vào đầu chàng một cái, nói :
                              – Từ ngày chị ra đời đến giờ, em là người đầu tiên qua mắt được chị đấy. Giỏi thực.
                              Lê Chân, Phùng Vĩnh Hoa, Đàm Ngọc Nga, Xuân Nương, Vũ Trinh Thục cùng đám con Nguyễn Tam Trinh...v.v...đều quen biết Đào Kỳ từ trước, họ lại ngang tuổi với chàng, nên ríu rít chuyện trò. Cô bé Tía mà chàng cứu ở chợ Long-biên ngày trước, bây giờ đã là thiếu nữ 17, vóc dáng xinh đẹp. Tía thấy chàng thì tíu tít kể chuyện những ngày nàng ở Mai-động cùng với Nguyễn Tam Trinh.
                              Đào Kỳ rời phái Sài-sơn đến phái Tản-viên thì cô bé Tía, bây giờ có tên là Tử Vân, cũng đi theo chàng luôn. Đặng Thi Kế cười nói với chàng :
                              – Tiểu hữu ! Lòng dạ ngươi thực tốt. ngươi đã lật được bộ mặt giả dối, ác đức nhất thiên hạ. Ta nghe Trưng Nhị kể những việc ngươi đã làm, mới hay rằng con nhà trung lương Âu Lạc đâu có phải tầm thường ?
                              Đào Kỳ thấy thoang thoảng mùi hoa Quế, hoa Quỳnh bên cạnh, rồi có hia bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại nắm lấy tay chàng. Chàng quay lại thì ra Quế và Quỳnh. Quế nói :
                              – Đại ca ! Người thực là tệ ! Người bảo khi nào người khỏi bệnh, sẽ đấu võ với ta. Thế rồi, người bỏ đi mấy hôm nay, làm ông ngoại chúng ta tìm người muốn chết. Thì ra người giả làm ăn mày. Ta để dành cho người cái này đây.
                              Rồi, nàng đưa cho Đào Kỳ một cái giỏ tre. Chàng mở ra thấy bên trong nào chuối, nào ổi, nào cam, nào quýt thơm phức. Chàng nhìn Quế, nói :
                              – Ta muốn tìm hai cô thực dễ, cứ nhíu mày đánh hơi, hễ thấy mùi Quế, mùi Quỳnh là tìm thấy ngay. Còn hai cô, cứ nhíu mũi, hễ thấy mùi hôi thối, thì đúng là ta.
                              Hai cô bé mỉm cười, lại đi theo chàng.
                              Khi chàng đến chỗ phái Hoa-lư, thấy Cao Cảnh Sơn, chàng lạy phục xuống đất :
                              – Cháu là Đào Kỳ, xin tham kiến sư bá. Muôn vàn cảm tạ sư bá đã chia nhà, xẻ cửa, cứu giúp anh chị em chúng cháu trong cơn hoạn nạn.
                              Cao Cảnh Sơn đỡ Đào Kỳ dậy, nói :
                              – Từ khi mất tin của cha cháu, ta ngày đêm lo buồn, càm thấy như mất một tay. Nay được tin cha cháu còn tại thế, võ công tuyệt đỉnh, ta mừng không thể tưởng được.
                              Đào Kỳ nhớ ra điều gì, vội hỏi :
                              – Hồi nãy, sư bá bắn tên cứu Phương Dung, cháu mới nhớ ra một chuyện, là, trong cây gậy của Cao-cảnh hầu để lại có ghi rõ chi tiết cách chế lẫy nỏ thời Âu Lạc nhà ta.
                              Cao Cảnh Sơn mở to mắt, mồm há hốc :
                              – Thế... thế... cháu... để... ở đâu ?
                              Đào Kỳ móc trong bọc ra một gói nhỏ, trong đó có 40 thẻ đồng, cúi đầu, hai tay đưa cho Cao Cảnh Sơn :
                              – Sư bá với cháu đều là con cháu, thần dân Âu Lạc. Đây là di vật của Âu Lạc, cháu xin dâng sư bá.
                              Cao Cảnh Sơn hô lớn :
                              – Đệ tử Hoa-lư ! Quỳ xuống !
                              Tất cả đệ tử Hoa-lư đều tuân lệnh. Cao Cảnh Sơn quỳ trước, hai tay tiếp gói thẻ đồng, hô lớn :
                              – Toàn thể đệ tử phái Hoa-lư cung nghinh thánh vật của sáng tổ.
                              Rồi ông kính cẩn tiếp lấy. Ông nói với Đào Kỳ :
                              – Cháu ngoan ! Sau này khi cử sự, ta là người đứng sau cháu đấy !
                              Đào Kỳ từ tạ, trở về vị trí phái Cửu-chân. Đệ tử Cửu-chân thấy chàng võ công cao cường, có nhiều uy ín như vậy, cùng xúm lại hỏi han. Chàng hỏi thăm Tường Loan về tình trạng gia đình. Thì ra, sau khi rời cảng Bắc, đoàn thuyền bị chiến thuyền của Thái thú Nhâm Diên vây đánh. tất cả phải đổ bộ lên một hòn đảo nhỏ không có dân cư. Khi chiến thuyền của giặc tới, chúng đổ bộ lên đảo, đã bị Đào Thế Kiệt phục kích giết hết, không còn một đứa. Từ ngày đó, ông cho đệ tử đi khắp nơi dò la tin tức. ông đã biết hết mọi chuyện ở lục địa. Cho nên ông sai gọi Tường Loan về đảo, thu làm đệ tử, truyền thụ võ nghệ, cho nàng đến dự đại hội Tây Hồ, lột mặt nạ tên phản đồ Trịnh Quang.
                              Thiều Hoa vuốt tóc Đào Kỳ :
                              – Sư đệ ! Bây giờ chị không dám gọi em là tiểu sư đệ nữa rồi. Em gớm lắm ! Dám nói dối chị, giới thiệu Trưng Nhị là sư muội.
                              Đào Kỳ cười :
                              – Bố em thường nói : Vì việc phản Hán phục Việt, đến cái chết còn không sợ, đừng từ nan cái gì thấy có lợi cho nước mà không làm. Em nghĩ làm như vậy tuy có lỗi với sư tỷ và Nghiêm đại ca, em sẽ tạ lỗi với Nghiêm đại ca sau.
                              Thiều Hoa cười :
                              – Nghiêm đại ca là người nghĩa hiệp. Vả lại đại ca thương em lắm, chắc không trách gì em đâu.
                              Trên đài, Lê Đạo Sinh với Trần Đại Sinh bắt đầu động võ. Cả hai đều là đệ nhất cao nhân đương thời, do đó, chiêu số, võ công hai người cực kỳ tinh vi. họ đều dùng võ công Tản Viên để đấu với nhau. tuy nhiên cả hai vẫn chưa vận dụng hết công lực. Dường như họ vờn nhau để chờ đợi một cái gì.
                              Tường Loan nói với Đào Kỳ :
                              – Tiểu sư đệ ! Ngươi đã học được võ công của Văn Lang, Vạn-tín hầu và Cửu-chân, vậy ngươi hãy lên đài, dùng võ công Tản-viên đoạt chức võ công cao nhất phái này có hơn không ? Đặng Thi Sách không chừng còn hoan hô ngươi hơn Lê Đạo Sinh nữa, vì Tô Định đã nói : Ai có võ công Tản-viên cao nhất là được mà ?
                              Đào Kỳ lắc đầu :
                              – Sư tỷ nói sai rồi. Bố em dặn sư tỷ rằng phái Cửu-chân không tham dự vào cuộc cầu phong. Nếu em đoạt chức vô địch phái Tản-viên, xin đi cầu phong sẽ trái lời bố dạy. Khi đã trái lời cha thì đâu còn là con người nữa ?
                              Trên đài, bất thình lình Lê Đạo Sinh nhảy lùi lại, phóng một chưởng. Đào Kỳ nhận ra đó là chiêu Lưỡng ngưu tranh phong. Bùng một cái, cả hai cùng lảo đảo, lùi lại.
                              Trần Đại Sinh quát lên :
                              – Sư đệ ! Ngươi cùng ta dùng võ công phái Tản-viên tranh phong, sao ngươi lại dùng nội công của phái Long-biên ?
                              Thì ra, Lê Đạo Sinh cùng với bọn Lê Nghĩa Nam mưu đồ riêng tư với nhau, nên đã trao đổi nội công tâm pháp. Lê Đạo Sinh dạy Nghĩa Nam tâm pháp Tản-viên, còn Nghĩa Nam dạy y tâm pháp phái Long-biên. Phái Tản-viên thiên về dương cương, phái Long-biên thiên về âm nhu. Lê luyện tập cả hai rồi hợp làm một, cùng một nguyên tắc hợp lại của Đào Kỳ. Cho nên nội công của y tiến rất mau. và y trở thành thái sơn bắc đẩu nhờ đó.
                              Lê Đạo Sinh không trả lời. Y phóng chưởng thứ nhì. Chưởng pháp rất quái dị, hơi giống Phục ngưu thần chưởng. Còn Trần Đại Sinh thì phóng chiêu Ác ngưu nan độ. Chưởng lực của hai đại cao thủ áp lực cực mạnh. Những người nội công thâm hậu như Tô Định, Nghiêm Sơn, Nam-hải nữ hiệp, Phương Dung thì còn chịu được. Còn những người khác gần như muốn nghẹt thở. Bùng một tiếng. Lê Đạo Sinh vẫn đứng nguyên, trong khi Trần Đại Sinh bị lùi lại một bước.
                              Tường Loan giật mình, hỏi Đào Kỳ :
                              – Sư đệ ! Coi chừng Khất đại phu thua mất !
                              Đào Kỳ cũng đang nghĩ như thế. Chàng vội rời phái Cửu-chân đến chỗ phái Sài-sơn, thì thấy Nguyễn Tam Trinh và Trần Công Minh cũng đang bàn tán phân vân. Phùng Vĩnh Hoa hỏi Đào Kỳ :
                              – Đào hiền đệ ! Ngươi có cách nào nhắc Khất đại phu không ? Nếu không sẽ nguy mất. Tại sao Khất đại phu không dùng Lĩnh Nam chỉ pháp cùng với chưởng pháp mà người với em đã sáng chế ra ?
                              Đào Kỳ lắc đầu :
                              – Nếu Khất đại phu dùng những thứ đó thì lại không phải là võ công Tản-viên. Nếu dùng võ công khác, còn đâu tước vị võ công cao nhất của Tản-viên nữa ?
                              Trên đài, hai cao thủ đã đấu với nhau đến chiêu thứ 12, và hai chưởng đã dính liền nhau. Cuộc đấu võ đã trở thành một cuộc đấu nội lực. Đào Kỳ không dám chớp mắt, vì chàng sợ Khất đại phu có gì sơ suất chăng. Chợt chàng nhớ lại lời Khất đại phu :
                              – Tay có ba kinh dương là Thủ dương minh Đại trường kinh, Thủ thái dương Tiểu trường kinh và Thủ thiếu dương Tam tiêu kinh. Ba kinh này dùng để chuyển dương khí. Còn ba kinh âm là : Thủ thái âm Phế kinh, Thủ khuyết âm Tâm bào kinh và Thủ thiếu âm Tâm kin để chuyển âm khí. Nay Đạo Sinh học được nội công âm nhu của Long-biên nên tất cả sáu kinh đều chuyển được khí ra chống Khất đại phu. Còn ngược lại, Khất đại phu chỉ chuyển được có ba kinh dương thôi, nên yếu thế.
                              Chàng thấy Khất đại phu trên đầu đã có khói trắng bốc lên. Chàng biết rằng ông đã nguy kịch lắm rồi. Chàng nhớ hôm gặp Nguyễn Phan ở nhà tù Thái-hà, chàng dùng phương pháp quy liễm âm kình ở ngoài hợp với dương kình, thành ra công lực của chàng mạnh kinh khủng, đến nỗi chàng mới luyện tập nội công âm nhu, nhưng đã đánh bại Hoàng Đức dễ dàng. Bây giờ, chàng có thể nhắc khéo cho Khất đại phu, để ông sử dụng. Chàng đem ý đó bàn với Phùng Vĩnh Hoa. Vĩnh Hoa nói :
                              – Những lý thuyết về kinh mạch thì Khất đại phu biết. Nhưng liệu Lê Đạo Sinh có biết không ? Nếu y biết thì hỏng bét.
                              Trần Công Minh phất tay :
                              – Những lý thuyết về kinh mạch cháu vừa nói, ta e rằng chỉ một mình Khất đại phu biết mà thôi. Còn hợp y học, võ học làm một thì tiên sinh dạy cho cháu, chỉ có hai người biết. Nếu cháu lên tiếng nhắc người, Lê Đạo Sinh không biết được đâu.
                              Nguyễn Tam Trinh rút ống tiêu ra :
                              – Cháu định nói gì, cứ đứng trước mặt ta mà nói. Ta sẽ thổi tiêu, rót tiếng tiêu hướng vào tai Khất đại phu, sẽ không còn ai nghe thấy để có thể trách chúng ta nữa.
                              Nguyên Nguyễn Tam Trinh là người giỏi về âm nhạc, võ công của ông cao cường. Ông phát minh ra lối dùng nội công thượng thừa chuyển vào tiếng sáo, dẫn đến những nơi mình muốn. Hôm nay, gặp trường hợp đặc biệt, ông bảo Đào Kỳ nhắc Khất đại phu, rồi ông dùng tiếng sáo đưa đến tai người. Ông để sáo lên miệng thổi. Dưới ánh trăng rằm tháng tám, hai đại cao thủ đang đấu nội lực, hàng vạn người nín thinh hồi hộp theo dõi, bỗng nhiên có tiếng sáo ôn nhu vang lên. Đào Kỳ đứng trước Nguyễn Tam Trinh, chàng nói :
                              – Khất đại phu ! Cháu là Đào Kỳ đây. Đại phu mau buông lỏng Thủ tam âm kinh, để cho âm khí của Lê Đạo Sinh theo đó vào cơ thể đại phu. Đại phu dẫn khí đó vào huyệt Thượng-tiêu, đưa xuống Trung-tiêu. Âm khí sẽ hợp với dương khí của đại phu, thành chân khí mới. Đại phu đem dương khí đó theo Thủ tam dương kinh ra ngoài, chống lại Thủ tam dương khí của Lê Đạo Sinh.
                              Trên đài, Trần Đại Sinh đấu nội lực với Lê Đạo Sinh đang đến chỗ nguy hiểm nhất. Ông thấy công lực mình ngày càng yếu dần, mà sư đệ, mỗi lúc một tăng. Ông biết phen này nguy đến nơi, bỗng nhận được tiếng nói của Đào Kỳ. Ông suy nghĩ :
                              – Đằng nào mình cũng chết, tại sao mình không thử làm như Đào tiểu hữu đã nhắc ? Biết đâu không thành công ?
                              Ông buông lỏng Thủ tam âm kinh. Quả nhiên, chân khí của Lê Đạo Sinh ào ào chuyển vào người ông không ngừng. Ông dẫn nó theo Thủ tam âm kinh vào Thượng-tiêu, đưa xuống Trung-tiêu. Quả nhiên chân khí ở Trung-tiêu của ông đang lập lờ như ngọn đèn trước gió, bỗng mạnh vô cùng. Ông vội đưa lên Thủ tam dương kinh ra ngoài, thì thấy người Lê Đạo Sinh rung động lên cực mạnh.
                              Lê Đạo Sinh đang đấu nội lực với sư huynh, tưởng chừng sẽ giết được sư huynh trong chốc lát. Bỗng nhiên y thấy nội lực trên tay bị Trần Đại Sinh hút mất một số, cuồn cuộn ra đi. Rồi lại thấy kình lực trên tay sư huynh tăng lên khủng khiếp. Y không hiểu tại sao , vội vận chân khí tấn công nữa. Y càng tấn công, càng cảm thấy mất hút, và Trần Đại Sinh càng mạnh hơn lên. Một lát, trên đầu y khói trắng bốc lên ngùn ngụt. Mặt y đỏ như quả gấc vì âm khí bị hút mất hết. Tình trạng nguy ngập của y chỉ có những cao thủ như Tô Định, Nghiêm Sơn, Phương Dung, Nam-hải, Nguyễn Phan, Đào Kỳ... biết mà thôi.
                              Một lát sau, y thấy công lực tiêu hết. Y định mở miệng lên tiếng van xin sư huynh, nhưng nếu y mở miệng, chân khí sẽ tuyệt, y sẽ hộc máu chết tươi.
                              Trần Đại Sinh thấy tình trạng người sư đệ như ngọn đèn trước gió, ông nghĩ :
                              – Sư đệ làm ác đã nhiều, nhưng ta trừng phạt y như thế này cũng đủ rồi. Bây giờ, công lực y đã mất hết, ít ra phải tập trong một thời gian lâu nữa mới có thể trở lại như cũ. Khi thân bại, danh liệt rồi, y không còn làm hại người được nữa.
                              Ông bèn thu công lực lại. Lê Đạo Sinh lảo đảo, thở hổn hển :
                              – Đa... tạ... sư huynh...
                              Rồi y ngã xuống sàn. Lập tức mười người từ dưới đài cùng nhảy lên vung chưởng hướng vào Trần Đại Sinh đánh một lúc. Đó là mười đại đệ tử của Lê Đạo Sinh. Trần Đại Sinh phát chiêu Thanh ngưu ưu hà trong Phục ngưu thần chưởng, rồi quay một vòng. Cả mười người đều bị hất tung trở lại.
                              Diễn biến đó làm quần hùng kinh ngạc không ít. Chính ngay Trần Đại Sinh, Đào Kỳ cũng ngạc nhiên. Không biết nội lực ở đâu, đến với ông mạnh như vậy.
                              Nguyên Trần Đại Sinh trị bệnh cho người lâu ngày, hàng ngày nghĩ đến kinh mạch, nên các kinh mạch đều thông. Nay ông áp dụng tâm pháp của Đào Kỳ, thu nội lực của sư đệ làm nội lực của mình, nên nội lực của ông bây giờ mạnh gấp đôi lúc thường.
                              Đánh dạt mười đệ tử của Lê Đạo Sinh ra rồi ông quát lớn :
                              – Bọn ngươi định làm gì đây ? Định mười người đánh một chăng ? Ta vì tình đồng môn tha cho sư phụ các ngươi, các ngươi còn định ỷ đông lên đây tính hại ta chăng ? Nếu ta phóng chưởng này xuống, liệu sư phụ các ngươi có còn sống được chăng ?
                              Nói rồi ông phát chưởng nhắm đầu Lê Đạo Sinh chụp xuống. Binh một tiếng, ván khán đài thủng một lỗ bằng miệng thúng, tròn trịa, nhẵn thín.
                              Tô Định thấy Trần Đại Sinh đã thắng Lê Đạo Sinh, bèn hỏi :
                              – Có ai phản đối Trần tiên sinh là võ công đệ nhất phái Tản-viên không ?
                              Không có tiếng trả lời. Khất đại phu chỉ Lê Đạo Sinh :
                              – Sư đệ, ngươi hãy về tu tỉnh lại. Khổng Tử nói rằng : Hữu quá tắc cải. Sư đệ là một trong đệ nhất cao nhân đương thời, nếu ngươi hành sử quang linh lỗi lạc, lấy nhân nghĩa cứu đời, hỏi cả đất Lĩnh Nam này, có ai bằng được ngươi ?
                              Hoàng Đức lên võ đài đỡ sư phụ xuống. Nghiêm Sơn đứng lên dõng dạc nói :
                              – Thưa các vị anh hùng ! Như vậy, chúng ta đã tuyển xong cao nhân của các môn phái, của các châu, động. Chúng ta cần định ngày để cùng lên đường.
                              Rồi chàng chậm chạp nói :
                              – Tôi xin nhắc lại, các vị đại diện võ lâm Lĩnh Nam như sau : Phái Sài-sơn : Đệ nhất Thái-bảo Trần Thị Phương Châu, tức Nam-hải nữ hiệp. Phái Hoa-lư : Cao Cảnh Minh, tức Trường-yên đại hiệp. 72 động Tây-vu : Hồ Đề, tức Sơn trung nữ hiệp. Phái Nhật-nam : Lại Thế Cường, tức Thiên thủ viên hầu đại hiệp. Phái Quế-lâm : Nghiêm Sơn. Phái Long-biên : Nguyễn Phương Dung, tức Việt nữ thần kiếm nữ hiệp. Phái Tản-viên : Trần Đại Sinh, tức Khất đại hiệp. Phái Cửu-chân không cử ngườ tham dự.
                              Phái đoàn sang cầu phong Kiến-Vũ hoàng đế sẽ gồm các vị trên. Mỗi vị được quyền mang theo nhiều nhất là 500 người tùy tùng, kể cả xe, ngựa, thú vật, đồ dùng. Phủ Thái thú, Đô-úy sẽ đề cử mỗi nơi thêm năm người để giúp đõ đoàn cầu phong. Tiền lộ phí do phủ Thái-thú đài thọ. Tuy nhiên, các vị nên bầu lấy một người làm trưởng đoàn. Ngày mai, mời các vị cao nhân các môn phái dẫn người tùy tùng cùng đến phủ Lĩnh-nam công để bàn chuyện lên đường.
                              Nghiêm Sơn nói xong, vẫy các võ quan theo hầu :
                              – Cảm phiền quý huynh đệ ra về trước. Tôi có nhiều việc riêng phải làm, sẽ về sau.
                              Chàng đến chỗ phái đoàn Cửu-chân. Đào Kỳ ra chận trước mặt chàng :
                              – Đại ca ! Em xin lỗi về vụ Ngũ kiếm đêm nọ.
                              Nghiêm Sơn phất tay :
                              – Nếu ta là sư đệ, ta cũng làm thế. nhưng có điều ta không bao giờ ngờ là Trưng Nhị với sư đệ lại đi cứu Ngũ kiếm. Bây giờ họ ở đâu ? Sự thực việc này ra sao ? Hôm ta đến Đăng-châu điều tra, được biết có đôi trai gái cùng đi với Tô Phương, té ra hiền đệ với Phương Dung. Bây giờ ta đã biết người con gái bán quán cứu hiền đệ là Đông Triều nữ hiệp Lê Chân, rồi Nguyệt điện Đàm Ngọc Nga, Hạ-long nữ hiệp Xuân Nương, Đăng Châu nữ hiệp Phùng Vĩnh Hoa... nhất nhất đều có tham dự vào việc Đăng-châu. Đến nay ta đoán ra rằng Ngũ Kiếm bị oan, rồi hiền đệ cứu Ngũ kiếm, nhưng Tô Phương đâu ?
                              Đào Kỳ đã có chủ tâm, nên nói :
                              – Tô Phương bị Trương Thanh bắt giam, nay không rõ ra sao. Không chừng y đã bị giết rồi cũng nên.
                              Nghiêm Sơn không tin lời Đào Kỳ, nhưng ông là người quân tử, nên cũng không quan tâm mấy :
                              – Điều ta cần là đi yết kiến phụ thân của hiền đệ, để nghe lời người phán một điều về Thiều Hoa. Nếu không, suốt đời sư tỷ ngươi sẽ sầu muộn, ta thực không yên lòng. Tường Loan sư muội ! Ngươi có tin ta không ? Nếu ngươi tin ta, ngày mai, sau khi họp, chúng ta cùng đi gặp lão nhân gia.
                              Tường Loan gật đầu :
                              – Em tin Nghiêm đại ca. Em sẽ dẫn Nghiêm đại ca tới gặp sư phụ, sư mẫu. Em tin rằng người sẽ hân hoan về vụ này, chứ không trách phạt sư tỷ đâu.
                              Nghiêm Sơn cùng Thiều Hoa lên ngựa về phủ. Đào Kỳ ở lại cùng đám đệ tử Đào trang. Đệ tử Đào trang cắm trại ngay cạnh phái Hoa-lư. Cao Cảnh Sơn cảm ơn Đào Kỳ về vụ tặng cho ông 40 thẻ đồng khắc cách chế nỏ thần, nên giữa hai phái càng thêm thân. Họ nấu cơm, ăn chung với nhau. Hầu hết đám đệ tử Đào trang hồi ở Hoa-lư đã quen với đám đệ tử Hoa-lư, nên họ không bỡ ngỡ gì trong cách xưng hô, trò chuyện.
                              Phái Long-biên vì ở gần nên không cắm trại ở lại, kéo nhau ra về. Phái Sài-sơn thì kéo về trang Mai-động của Nguyễn Tam Trinh. Các phái khác, cắm trại quanh hồ.
                              Từ lúc gặp nhau, Tử Vân với Quế Hoa, Quỳnh Hoa cứ theo sát bên Đào Kỳ. Riêng Đào Kỳ thấy có ba cô em gai cứ ríu rít bên cạnh thì cao hứng vô cùng. trăng rằm tháng Tám chiếu xuống mặt hồ trông như mờ như ảo. Đào Kỳ lâu ngày mới gặp lại anh chị em Đào trang, nên chuyện trò không kể hết. Bỗng thấy một nữ đệ tử vào báo :
                              – Tiểu sư đệ ! Có nhiều người muốn gặp người.
                              Chàng nhìn ra ngoài thấy Phương Dung đi theo Nguyễn Phan, Nguyễn Trát cùng đến, phía sau có Phùng Vĩnh Hoa, Trưng Nhị. Chàng ngạc nhiên, mời vào trong lều ăn cơm.
                              Trưng Nhị nghiêm trang nói :
                              – Đào hiền đệ ! Đêm khuya ta đến đây để khuyên hiền đệ một điều. Ta rất mong hiền đệ nghe theo.
                              Đào Kỳ ngạc nhiên :
                              – Các vị ! Không hiểu việc gì quan trọng đến nỗi phải phiền đại giá các vị đến đây để dạy bảo. Vậy đó là việc gì ? Xin các vị cứ nói ra.
                              Trưng Nhị ngồi ngay ngắn lại, nói :
                              – Trong chuyến đi Trung-nguyên này, phái Cửu-chân không tham dự do quyết định của Đào lão bá, chúng ta không dám can thiệp vào. Nhưng mỗi cao nhân được mang theo nhiều người, ta nghĩ hiền đệ nên xung vào phái nào để cùng đi với chúng ta mới được. Hiện đây, có Phương Dung kiếm thuật thần thông, Khất đại phu chưởng lực hùng hậu. Còn lại tuy võ công trác tuyệt thực, nhưng chúng ta vẫn còn lo lực lượng chưa đủ. Khi tới Lạc-dương, thế nào Hán đế cũng bắt chúng ta đấu với cao thủ Trung-nguyên. Trận đấu này chắc chắn phải long trời lở đất chứ không tầm thường đâu. Vì vậy, chúng ta yêu cầu hiền đệ tháp tùng bất cứ môn phái nào cũng được để cùng đi.
                              Đào Kỳ đứng dậy, nói :
                              – Sư tỷ đã nói, việc gì tiểu đệ cũng phải nghe theo. Nhưng tiểu đệ là đệ tử Cửu-chân, thân phụ tiểu đệ là chưởng môn, người đã không đồng ý cho phái Cửu-chân tham dự, thì muôn ngàn lần tiểu đệ cũng không dám. Vì vậy việc này xin quý vị miễn cho.
                              Phùng Vĩnh Hoa cười khúc khích :
                              – Đào hiền đệ, hồi nãy ngươi có hứa với ta rằng, ta giúp ngươi mưu kế, sau này ngươi phải làm cho ta một việc, ngươi có nhớ không ? Việc mà ta yêu cầu là hiền đệ đi theo với đại sư bá ta sang Trung nguyên. Tuy nhiên, ta cũng giúp hiền đệ thoát khỏi khó khăn : Hiền đệ ngày đêm phi ngựa tìm lão bá, rồi xin phép lão bá cùng đi với chúng ta, sẽ không còn gì trở ngại nữa. Đây, ta có mang bức thư của đại sư bá ta viết cho thân phụ của hiền đệ đây. Ta tin rằng thân phụ của hiền đệ sẽ đồng ý. Chúng ta nên nhớ rằng, uy tín đạo đức của Nam-hải nữ hiệp rất lớn, xưa nay võ lâm dù chính phái, dù tà phái bà nói một lời, họ đều răm rắp nghe theo. Bây giờ, bà thân viết thư cho Đào lão bá, ta tin rằng Đào lão bá cũng sẽ đồng ý.
                              Đào Kỳ cầm thơ, cúi đầu từ tạ mọi người.
                              Trưng Nhị đứng lên, vẫy mọi người ra về. Chỉ có Phương Dung ở lại.
                              Tử Vân hỏi Đào Kỳ :
                              – Đại ca ! Anh đi Trung-nguyên, đem em theo được không ?
                              Quỳnh Hoa cũng nói :
                              – Hai đứa em cũng cùng đi.
                              Phương Dung thấy Đào Kỳ có ba cô em gái dễ thương thì thích lắm, cùng ngồi nói chuyện. Tử Vân là đệ tử phái Sài-sơn nên nàng rất giỏi âm nhạc. nàng lấy tiêu ra thổi những khúc cổ của Trương Chi. Phương Dung khen :
                              – Em thổi tiêu mà chị muốn đứt từng khúc ruột ra vậy. Sau này em định sẽ làm gì ?
                              Tử Vân buồn buồn :
                              – Em sẽ phản Hán phục Việt để trả nợ cho đất nước.
                              Đào Kỳ vuốt tóc nàng :
                              – Em giỏi lắm. Thế võ công em học đến đâu rồi ?
                              Tử Vân xấu hổ :
                              – Sư phụ dạy võ cho em ở dưới nước. Người bảo sau này em sẽ làm Thủy sư Đô-đốc, chỉ huy hải quân đánh giặc.
                              Đào Kỳ nhìn Phương Dung :
                              – Mai-động lão bá quả thực là người trông rộng nhìn xa.
                              Tường Loan vẫy Đào Kỳ ra chỗ vắng :
                              – Tiểu sư đệ ! Ngày mai chúng ta cùng với Nghiêm đại ca, tam sư tỷ lên đường về đảo gặp sư phụ ngay. Sư phụ được tin em, chắc người trẻ lại mười tuổi chứ không ít đâu.
                              Sáng hôm sau, mọi người đều thức trễ vì đêm trước, hầu như họ đã cùng thức đến sáng. Đào Kỳ rất vui vẻ trong lòng nên chàng ngủ rất ngon. Khi thức giấc, chàng được tin Phương Dung đã cùng các cao nhân khác đến phủ Quốc công họp rồi. Chàng dậy ăn sáng rồi ngồi nói chuyện với Tử Vân, Quế Hoa, Quỳnh Hoa. Bỗng có người cưỡi ngựa đến trước lều đưa cho chàng một phong thư. Chàng nhìn người đó, thấy bụi bám đầy người, tỏ vẻ vừa trải qua một quãng đường trường vất vả. Chàng mở thư ra đọc, chỉ thấy vỏn vẹn có mấy chữ :
                              " Thanh thanh tử khâm,
                              Du du ngã tâm ".
                              Nét chữ đúng là của Tường Quy. Đây là hai câu thơ trích trong Kinh Thi, khi chàng rời Thái-hà trang viết cho Tường Quy. Chàng ngây người ra hỏi :
                              – Bây giờ nàng ổ đâu ?
                              Người kia nói :
                              – Cách đây vài chục dặm, đang chờ công tử.
                              Đào Kỳ vào lều viết cho Phương Dung, Cao Cảnh Sơn mấy chữ, rồi lấy ngựa đi theo người kia. Hai người ruổi ngựa đi về phía Đông. Sau khi vượt qua một ngọn đồi nhỏ, người dẫn đường chỉ về phía trước :
                              – Phía trước kia là ngọn suối. Tiểu thư đang chờ công tử ở đó.
                              Đào Kỳ cho ngựa đi đến bờ suối. Quả thấy một người mặc quần áo lụa xanh ngồi bên tảng đá, quay lưng về phía chàng. Biết là Tường Quy, chàng cột ngựa vào gốc cây, rồi se sẽ men theo suối đến gần chỗ nàng ngồi.
                              Bỗng Tường Quy quay lại, dơ tay vẫy chàng, mỉm miệng cười. Chàng đứng ngây ra nhìn, rồi tiến tới bên nàng.
                              Thình lình, chàng thấy dưới chân chuyển động, như xụp xuống hố. Chàng vội nhún chân nhảy vọt lên, nhưng không kịp. Chàng đã rơi xuống một hố sâu. Chàng vội nhún người vọt lên cao, thì bị một cái lưới, rồi hai, rồi ba, rồi... mười cái chụp vào người. Hơn mười ngườI nhảy ra cột chàng vào lưới cứng như khúc gỗ, không cử động được nữa. Chàng thấy trong đó có Đức Hiệp, Vũ Hỷ, Hoàng Đức... toàn đệ tử của Thái-hà trang. Chàng không cựa quậy được nữa, biết mình bị mắc mưu, chàng tự chửi mình :
                              – Đào Kỳ hỡi Đào Kỳ, ngươi chỉ vì một người con gái mà chết, thực đáng kiếp. Bây giờ đã lọt vào tay Lê Đạo Sinh thế nào cũng bị cắt chân, cắt tay như Nguyễn Phan mà thôi.
                              Chàng nhìn Tường Quy, không nói một lời. Tường Quy chạy lại, nói với Đức Hiệp :
                              – Sư bá ! hôm qua sư bá hứa, nếu con gọi được chàng đến, ông ngoại sẽ cho con kết hôn với chàng. Con tin thực mới gọi chàng đến. Sao sư bá lại đào hố để bẫy chàng ? Bây giờ sư bá định mang chàng đi đâu ?
                              Đức Hiệp lắc đầu :
                              – Đây là kế hoạch của ông ngoại. Ta không có quyền quyết định. Con chờ lát nữa gặp, rồi sẽ nói với ông ngoại.
                              Bọn họ cho Đào Kỳ xuống một cái thuyền lớn, rồi cho chạy xuôi dòng nước. Đi khoảng hơn một giờ, thuyền cặp vào một thuyền khác. Rồi có hai người khiêng chàng sang một thuyền lớn hơn, mở cửa khoang, đưa chàng vào trong. Chúng cởi lưới ra, trói chàng lại bằng những chiếc thừng lớn, rồi khiêng chàng vào khoang trong. Nơi đó đã có Phong-châu song quái và Lê Đạo Sinh.
                              Đạo Sinh cười lạt :
                              – Đào công tử ! Người vẫn mạnh chứ ?
                              Đào Kỳ nín thinh không nói gì.
                              Lê Đạo Sinh cười :
                              – Kể ra chúng ta mời Đào công tử thế này cũng hơi quá đáng, nhưng sự bất đắc dĩ phải làm thế.
                              Đào kỳ nổi giận, quát :
                              – Ngươi là cao nhân đương thời, lại dùng thủ đoạn hèn mọn bắt ta đến đây để làm gì ?
                              Vũ Hỷ cười :
                              – Cũng chả làm gì đâu. Ta đưa công tử đến Đăng-châu giao cho Huyện-lệnh Trương Thanh để y đem ngươi ra giữa chợ, chém ngươi ra làm mấy mảnh, vì ngươi dám dụ dỗ con dâu y. Sau đó, chúng ta đem xác ngươi đi hết các huyện để phơi giữa chợ. Trên đề : Con trai út của Đào Thế Kiệt, chưởng môn phái Cửu Chân, dùng võ công đột nhập huyện Đăng-châu hãm hiếp con dâu Huyện lệnh, bị chém để trị tội.
                              Phương Anh gật đầu :
                              – Như vậy, Đào Thế Kiệt ở xa nghe thấy, y sẽ uất lên, cắn lưỡi mà chết.
                              Vũ Hỷ tiếp :
                              – Ta sẽ lấy cái quần của Tường Quy chụp vào đầu ngươi và cho Trương Minh Đức hàng ngày tiểu vào để trả thù.
                              Nghe song quái nói, Đào Kỳ biết chúng là hạng nói được là làm được. Chàng tự biết mình u mê vì tình, có chết vì tình cũng đáng. Một liều, ba bảy cũng liều, chàng cười lên hô hố, nói :
                              – Ta chả có gì đáng thẹn cả. Ta yêu Tường Quy, Tường Quy yêu ta. Ta có vì nàng mà chết, cũng chẳng uổng một đời người. Còn các người muốn bêu xác ta, nói xấu ta, thì đó là sự thực. Ta khác Lê Đạo Sinh ở chỗ Lê làm mà không dám nhận. Còn ta dám làm thì dám nhận. Ngươi bảo trùm quần nàng vào đầu ta ư ? Quần nàng cũng như khăn của nàng, áo của nàng đều ấp vào da thịt nàng hằng ngày, có gì khác đâu ? Quần nàng chụp vào người ta cũng như da thịt nàng sát vào người ta. Ta cầu mà không được vậy.
                              Vũ Hỷ thấy đe dọa không xong, chưa biết phải làm thế nào. Y vẫy hai tên gia nhân mang Đào Kỳ giam vào khoang thuyền, rồi đóng cửa lại.
                              Chàng nằm một mình trong khoang, mơ mơ tỉnh tỉnh ngủ được một giấc, bỗng thấy có tiếng động, rồi cửa khoang thuyền hé mở, một người mặc quần áo xanh khẽ lén vào trong, đóng cửa lại. Đào Kỳ nhìn rõ ra là Tường Quy.
                              Tường Quy nói khẽ :
                              – Anh đừng lên tiếng. Em vào cứu anh đây.
                              Nàng lấy con dao nhỏ cắt khóa tay cho chàng. Nhưng con dao nhỏ quá, khóa lại lớn, nên nàng loay hoay mãi cũng chưa được. Tường Quy khóc :
                              – Anh Kỳ ! Anh có giận em không ?
                              Đào Kỳ lắc đầu :
                              – Không phải lỗi ở em. Đó là kế của ông ngoại em. Em làm sao biết được ? Nhưng em có biết ông ngoại định bắt anh để làm gì không ?
                              Tường Quy gục đầu vào ngực chàng, đặt lên môi chàng một cái hôn. Trong khung cảnh nguy hiểm, nhưng chàng thấy như mình đang bay lên mây xanh. Hơi thở của Tướng Quy thơm như hương mùi hoa huệ. Một lúc sau, Tường Quy mới lên tiếng thở dài :
                              – Ông ngoại em bắt anh để đòi những tấm thẻ đồng khắc Phục ngưu thần chưởng, kiếm pháp Long-biên và nội công dương cương, âm nhu trong cây gậy đồng.
                              Đào Kỳ đã đoán ra nội vụ, nên khi nghe Tường Quy nói, chàng không lấy gì làm ngạc nhiên.
                              Tường Quy lại ôm lấy chàng mà hôn. Hai người mê mê tỉnh tỉnh trong hương nồng tình yêu. Chợt, có tiếng cười nhạt của Đức Hiệp :
                              – Con Tường Quy thực giỏi. Ngươi dám trốn vào đây tình tự với kẻ thù của nhà mình, lại còn muốn cứu y nữa. Ta phải giết ngươI mới được.
                              Cánh cửa mở tung. Vũ Hỷ nhảy vào chụp Tường Quy xách ra ngoài. Tường Quy kêu lớn :
                              – Ông ngoại ! Ông ngoại tha cho cháu.
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #30
                                Hồi 29

                                Bây giờ rõ mặt đôi ta,
                                Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao


                                Một lát sau, hai tên gia nhân đến mở cửa khoang dẫn Đào Kỳ lên mặt thuyền. Thì ra, đây là một chiếc lâu thuyền của người đi biển. Trên boong có đến ba cột buồm lớn. Mỗi cột buồm có năm cây. Một cây thẳng đứng trên có móc sắt móc dây kéo cột buồm. Bốn góc tỏa ra bốn cột để treo các cánh buồm. Từ trên mặt có bốn cửa để đi xuống hai tầng dưới. Cửa có cánh đóng chắc chắn, tránh sóng gió tung nườc vào khoang thuyền. Đào Kỳ nhìn ra đó là một chiếc thuyền của người Hán. Thủy thủ đứng trên mặt để chiến đấu. Tầng thứ nhất chia thành nhiều phòng. Từng thứ nhì có nhiều cửa sổ, mỗi cửa sổ là hai mái chèo. Tầng này, thường ngày dùng làm phòng ăn. Khi hữu sự, đó là phòng của các thủy thủ chèo thuyền. Tầng dưới cùng để chứa lương thảo, nước ngọt và giam tù nhân.
                                Nghiêm Sơn là Lĩnh-nam công, ở Luy-lâu chàng có ba chiến thuyền được sửa đổi trang trí để du ngoạn. Chàng đã đưa Thiều Hoa, Đào Kỳ xuống du thuyền ngắm trăng. Nên khi vừa bước lên sàn thuyền, Đào Kỳ đã nhận ra. Chàng đưa mắt nhìn phía trước, cột buồm treo lá cờ màu đỏ, thêu chữ Thái-hà rất lớn. Trên thuyền tráng đinh đi lại hùng tráng, lưng đeo vũ khí, người đều nghiêm trang, tỏ ra chủ nhân trị người rất kỷ luật.
                                Chàng liếc nhìn phía trước, phía sau, bất giác giật mình : Tổng cộng có đến năm chiến thuyền, dàn thành hình chữ nhất, đang tiến xuôi dòng nước. ChànG tự hỏi :
                                – Trong năm con thuyền này, có đến trên ngàn tráng đinh. Những người này ta chưa hề gặp mặt, chắc không phải là người của Thái hà trang. Có lẽ thuộc những trang, những châu của đệ tử Lê Đạo Sinh. Lê đi đâu mà muốn tráng đinh theo thế này ?
                                Tráng đinh mở cửa một phòng, đẩy chàng vào. Trong phòng chỉ có vợ chồng Song quái với Tường Quy bị trói ngồi đấy. Mặt nàng ủ rũ, nước mắt chảy dài, trông giống như một đóa hoa nhài đầy sương mai.
                                Vũ Hỷ nhìn Đào Kỳ cười ;
                                – Đào công tử ! Đêm qua ngủ ngon chứ ?
                                Đào Kỳ nổi giận định lên tiếng thống mạ, nhưng chàng chợt nghĩ lại : Mình là con một chưởng môn phái Cửu chân, giòng dõi vua An Dương, trải qua bao đời là người nhân nghĩa đạo đức. Võ công mình lại đứng hàng đầu Lĩnh Nam, mình lại là người đọc sách, vậy phải áp dụng câu của Khổng tử: Người quân tử dù gặp cảnh ngộ nào cũng nhàn nhã, thanh thản. Chàng tự lập lại Quân tử thãn đãng đãng . Vi vậy, chàng cười đáp lại :
                                – Đa tạ Phong-châu nhị vị. Đêm qua tại hạ được ngủ một giấc ngon. Cảnh trí đêm trăng mười sáu, du thuyền trôi trên sông Hồng. Cảnh yên tỉnh của trăng, cảnh sóng reo của sông nước, trước vẻ hùng vĩ, nên thơ của đất Lĩnh Nam, tưởng không còn gì khoái lạc hơn.
                                Phương Anh cười tủm tỉm :
                                – Tôi tưởng ngày đêm qua Đào công tử bay lên cung trăng cùng với Hằng Nga chứ đâu có ở dưới trần thế ? Công tử ! Người giận chúng ta vô ích đấy. Ta nghe ngươi là đệ tử của Lục Mạnh Tân tiên sinh, tất đã thông đạt đạo lý mới phải chứ ?
                                Đào Kỳ chợt nhớ lời cha dạy :
                                – Phàm làm người phải biết ân oán cho phân minh. Lễ nghĩa cho đầy đủ. Ơn là ơn, oán là oán. Không nên lấy ơn làm oán. Cái gì của quân thù tốt, phải công nhận là tốt. Cái gì của mình xấu, cũng phải biết là xấu. Đừng có cái lối : cái xấu của ta là của người, cái tốt của người là của ta. Như vậy là thiếu minh mẫn.
                                Đêm qua, chàng tuy bị khóa tay giam dưới khoang thuyền, nhưng được Tường Quy ở bên cạnh, quả tình chàng đã quên mất cả thế gian. Lời nói của Phương Anh không sai. Lời nói của Phương Anh không sai. Chàng tuy bị giam nhưng được gần Tường Quy, được hưởng diễm phúc hiếm có. Chàng nghĩ :
                                – Trên đời này ta chỉ có ba điều khoái lạc. Một là phục được VIệt phản được Hán. Điều này ta đã làm được nhiều rồi tuy chưa thành công, nhưng cũng gọi là có kết quả không ít. Thứ nhì là được sống bên cha mẹ ta. Điều này, ta đã được hưởng đến 13 năm, kể cũng không ít. Còn điều thứ ba, ta mơ ước được ở bên Tường Quy. Hồi ở Thái hà, ta được nàng đưa xuống thuyền đánh đàn cho nghe. Hồi ở Đăng-châu, ta với nàng được gần nhau suốt đêm trên hoang sơn. Sau nàng tặng cho ta bộ áo lụa xanh. Đêm đêm, ta thường áp mặt vào, hôn bộ quần áo đó. Y phục của nàng mang theo hương thơm, cho nên dù có Phương Dung bên cạnh, ta vẫn không quên được nàng. Chú thím ta đã hỏi Phương Dung cho ta. Nàng với ta là bạn tri kỷ, nhưng ta gặp nàng, khi hình bóng của Tường Quy đã in sâu trong lòng ta. Ừ nhỉ ! Tại sao Tường Quy không làm được những việc như Phương Dung ? Tình cảm của Phương Dung không được đằm thắm như Tường Quy.
                                Trong phút chốc Đào Kỳ tự than : Tường Quy là người ta yêu. Phương Dung là tri kỷ của ta. Than ôi ! Người ta yêu không phải là tri kỷ, người tri kỷ lại chẳng phải là người ta yêu.
                                Chàng nhìn Tường Quy cười :
                                – Hai vị bảo rằng đêm qua ta được lên cung trăng, thực phải. Ta nghĩ chỉ được trông thấy ánh mắt long lanh, khuôn mặt nhu mì của nàng, dù có bị giam vào cũi chó, chuồng trâu ta cũng cam lòng. Huống hồ còn được nàng ở bên cạnh một đêm, ta không oán hận hai vị đâu, hai vị nói đúng, ta cảm ơn hai vị.
                                Phương Anh nhìn Tường Quy:
                                – Trương phu nhân ! Trước đây tôi nghe nói phu nhân lấy Trương công tử rồi nhưng lòng không vui, thường tơ tưởng đến người yêu, tôi không tin. Sau này tôi nghe nói Đào công tử nửa đêm đột nhập Huyện đường Đăng châu, vượt thiên binh vạn mã thăm phu nhân. Y bị phu nhân đâm một kiếm, thích một dao, đánh một chưởng suýt bỏ mạng đến như vậy. Y muốn được chết dưới tay phu nhân đấy. Hồi đó ta tưởng phu nhân vì bảo vệ thanh danh mà đâm, mà giết y, nay ta mới biết là không phải. Võ công y đâu phải tầm thường. Y thuộc vào hàng cao nhân đệ nhất đương thời. Ngày nọ, tại Thái hà trang y một chưởng đánh bại vợ chồng ta. Y đã tự nguyện đứng yên, để được phu nhân đánh, giết, quả thật trên đời này không có người thứ hai đa tình như vậy đâu. Đào công tử đa tình như thế, trách gì phu nhân chẳng ngày tưởng, đêm mơ ? Trương phu nhân ơi ! Ở đời chỉ cần được một tình lang như vậy, dù có chết đến muôn ngàn lần cũng đáng, phải không phu nhân ?
                                Nguyên trước đây, Vũ Hỷ, Phương Anh là hai anh em ruột, cùng là đệ tử Nguyễn Thành Công, phái Tản viên. Họ yêu thương nhau, bị thầy cấm đoán, mới phản môn hộ đi lại trên giang hồ. Họ ưa làm những điều trái với luân lý, nên đời đặt cho biệt hiệu Phong châu song quái. Theo luân lý đương thời, người đàn bà có chồng bị người đàn ông nắm lấy tay, phải chặt tay đi để giữ danh tiết. Chị dâu sắp chết đuối, em chồng được cầm tay kéo lên để cứu sống mà thôi. Luân lý Khổng Mạnh dạy rằng : Nam nữ thụ thụ, bất tương thân, nghĩa là nam nữ muốn đưa vật gì cho nhau, phải để xuống rồi người kia cầm lấy, chứ không được cầm tay trao cho nhau. Chỉ có thầy thuốc là được đụng vào thân hình bịnh nhân mà thôi. Luân lý đó không được phổ biến áp dụng tại những gia đình bình dân người Việt. Còn trong các gia đình quý tộc như Huyện-lệnh Đăng-châu, Huyện-úy Bắc-đái thì vô cùng khắt khe. Tường Quy là con Chu Bá lấy con trai Trương Thanh, cả hai gia đình đều thuộc loại quý tộc nên áp dụng luân lý rất chặt chẽ. Thế nhưng Tường Quy lại hẹn hò tình tự với Đào Kỳ , đó là tội nặng. Theo luật nhà Hán của Tiêu Hà, nàng sẽ bị tội phanh thây. Tội nhân sẽ bị xử như sau : Tội nhân sẽ bị đem ra giữa chợ, đánh trống tập hợp dân chúng đến xem đông đủ. Sau khi đọc bản án, người ta cột chân, tay, đầu tội nhân vào đầu năm con trâu, rồi dùng roi đánh chúng, cho chúng chạy ra năm phía. Tội nhân bị xé làm năm mảnh.
                                Thế nhưng Song quái lại khen, vì họ thấy nàng cũng có hành vi "quái" như họ.
                                Vũ Hỷ cầm cái bọc của Đào Kỳ để ra trước mặt :
                                – Đào công tử ta mạn phép lục lọi của ngươi đây. Phàm làm nam nhi đại trượng phu, phải làm cho đường đường chính chính. Chúng ta mời công tử tới đây, chỉ vì muốn tìm những võ công trong những tấm thẻ đồng của Vạn tín hầu để lại mà thôi. Ngươi đừng trách ta vô lễ.
                                Phương Anh mở bọc ra, đầu tiên thấy ba bộ quần áo của chàng, rồi tới một túi nhỏ, trong có mấy trăm đồng tiền, một nén vàng, mấy nén bạc. Đây là tiền Thiều Hoa cho chàng. Còn kho tàng của Lê Đạo Sinh, chàng chưa từng dùng tới. Phương Anh tiếp tục lục nữa thì thấy cái khăn gói một thẻ đồng. Y thị sáng mắt, mở ra coi, nhưng đó là lịnh bài của Lĩnh nam công mà Thiều Hoa đã cho chàng để dùng khi hữu sự. Từ khi có tấm lịnh bài đến giờ, chàng chưa dùng đến một lần.
                                Phương Anh cười :
                                – Đào công tử ! Lệnh bài này do Quốc công cho ngươi hay ngươi lấy trộm ? Ngươi cứ nói thực đi.
                                Đào Kỳ động tâm linh, vì hiện giờ, Vũ Hỷ là Đô sát quận Cửu chân, lại thống lĩnh hai trang Đào, Đinh, tức là dưới quyền sinh sát trực tiếp của Ngiêm Sơn. Chàng nghĩ có thể đem Nghiêm Sơn ra dọa y :
                                – Vũ phu nhân ! Nghiêm đại ca là tỷ phu của tôi. Người đừng quên Tam sư tỷ Thiều Hoa là phu nhân Quốc công. Sư tỷ hồi nhỏ đã được cha mẹ tôi nuôi dạy cho tới ngày khôn lớn. Từ ngày lạc lõng cha mẹ, sư tỷ đã nuôi nấng tôi. Người là sư tỷ của tôi, nhưng thực ra đối với tôi e rằng còn hơn tình mẹ con nữa. Tôi ở với tỷ phu Nghiêm Sơn, dĩ nhiên tôi phải có lịnh bài này.
                                Vũ Hỷ nghĩ :
                                – Thằng nhỏ này con Đào Thế Kiệt, nó tự hào nhân nghĩa, lại là học trò Lục Mạnh Tân, chắc nó không nói sai đâu. Nghiêm Sơn lấy tam đệ tử của Đào trang là Thiều Hoa. Ta nghe nói Lĩnh nam công hết sức sủng ái cô vợ Việt này. Nàng nói gì cũng nghe. Phu nhân lại rất cưng chiều thằng nhỏ này. Tuy y đã 18 tuổi, mà phu nhân còn săn sóc y như vối một đứa trẻ. Đinh Công Thắng nói năm trước đây, phu nhân gặp Đào Kỳ ở trang Thượng hồng, đã không tỵ hiềm nam nữ, đến bồng y lên, khóc lóc thảm thiết. Bây giờ Lê Đạo Sinh bắt y, giao cho chúng ta khảo để tìm võ công. Tìm được thì không sao. Nếu không tìm được sẽ nguy to. Nếu tin này lan đến tai Nghiêm công, ta có thoát chết, cũng mất chức Đô sát Cửu chân. Thế là bao công phu, đạt được chút danh vọng, hóa ra một trường ảo mộng sao ?
                                Y đưa mất nhìn vợ nh cùng thông cảm, rồi quyết định :
                                – Ta khám trong người y, nếu tìm được bí quyết võ công thì giết phắt y đi, rồi mai danh ẩn tích tập luyện. Khi ta đã có bản lãnh nghiêng trời lệch đất rồi, ta đâu cần sợ Nghiêm Sơn nữa ? Còn nếu không có, ta phải đối xử với y thực tử tế. Sau này quốc công không trách ta được.
                                Y tiếp tục lục và thấy một tờ giấy. Y mở ra coi . Đó là sắc chỉ của Kiến vũ hoàng đế phong cho Tô Phương làm Đô sát quận Giao chỉ. Tờ sắc chỉ này, Đào Kỳ đã lấy được trong hành lý của Tô Phương ở Đăng châu.
                                Vũ Hỷ biết qua chuyện Tô Phương nên hỏi :
                                – Đào công tử ! Cái này của Tô công tử, sao lại ở trong bọc của ngươi ? Ngươi có biết Tô công tử hiện ra sao.
                                Đào Kỳ đã có lập trường cứ đổ tội lên đầu Ngũ kiếm là xong để chia rẽ Ngũ kiếm với Tô Định, nên trả lời :
                                – Ngũ kiếm với Tô Phương cùng kiếm được một kho tàng khá lớn, Ngũ kiếm giết Tô Phương đoạt hết. Tỷ phu ta khám Lan trang tìm thấy sắc chỉ này. Tỷ phu giao cho ta giữ để sáng mai đi cùng người vào phủ Thái thú, thì ta bị bắt tới đây.
                                Vũ Hỷ càng hoảng kinh :
                                – Vụ này lại liên quan đến phủ Thái thú nữa rồi.
                                Cuối cùng Vũ Hỷ thấy có một bọc nhỏ, rất nhẹ, gói bằng khăn lụa màu xanh, có giải đỏ buộc ngoài. Y từ từ mở ra và không khỏi ngẩn người. Bên trong có một bộ quần áo đàn bà bằng lụa xanh lá cây lợt. Chiếc áo có thêu một cành đào, màu sắc đỏ tươi trông rất sống động. Y lật ra xem trong có ghi chép bí quyết võ học gì không, nhưng chỉ thấy dưới cành đào có dòng chữ :
                                Thanh thanh tử khâm,
                                Du du ngã tâm.
                                Nghĩa là : Tà áo xanh xanh, làm cho ta nhớ người, lòng buồn sầu không nguôi.
                                Nguyên bộ quần áo đó do Tường Quy gửi tặng Đào Kỳ ngày chia tay ở Đăng châu. Lúc nào Đào Kỳ cũng mang theo bên mình. Những lúc vắng vẻ, chàng lại đem ra ngắm, áp vào mặt tưởng tượng như đang áp mặt vào người nàng. Khi chia tay, Tường Quy đã viết cho chàng, nói rằng : Đã mặt bộ quần áo này một tuần, để quần áo mang hơi nàng theo chàng trên vạn dặm gian nan. Những uẩn khúc như vậy làm sao Vũ Hỷ hiểu nổi ? Y nhìn Đào Kỳ và Tường Quy, thấy mặt hai người có sắc rất lạ lùng, nhưng y không đoán được chất lãng mạn trong người chàng và Tường Quy đến độ nào.
                                Phương Anh suy nghĩ không ra, hỏi :
                                – Đào công tử bộ quần áo này của Nghiêm phu nhân chăng ?
                                Nhưng chợt mụ thấy rằng sai. Vì Thiều Hoa dáng người cao hơn. Nàng là đệ tử họ Đào, ắt không bao giờ dám thêu cành đào trước ngực như vậy. Thế bộ quần áo này chắc của Tường Quy, cho nên Đào Kỳ mới cất giữ cẩn thận như vậy.
                                Y thị nhìn Tường Quy :
                                – Trương phu nhân ! Ngươi thực là người có diễm phúc. Ngươi cũng thực là người đa tình. Ngươi đã tặng cả quần áo của mình cho Đào công tử. Đào công tử lúc nào cũng mang theo bên cạnh. Trên thế gian này quả không có người thứ hai như Đào Kỳ đâu !
                                Tường Quy nhìn Đào Kỳ, trong lòng nàng cực kỳ sung sướng. Nàng đâu ngờ Đào Kỳ lại sủng ái nàng đến mức đó. Nàng bật thành tiếng khóc :
                                – Đào đại ca ! Em... em dù có chết cũng không đền đáp được mối ân tình này của anh. Em... em làm anh bị bắt, anh có giận em không ?
                                Đào Kỳ thở dài :
                                – Nếu bảo anh bị bắt là một tai họa, cũng không phải. Còn bảo anh bị bắt là điều không đúng. Anh đã nói : Chỉ cần được nhìn thấy em, dù có bị cắt da xẻo thịt anh cũng cam tâm. Huống hồ...huống hồ đêm qua, em đã ở cạnh anh suốt đêm, dù anh có chết đi mấy lần cũng không xứng đáng. Em đừng nghĩ đây là tai họa, có khi lại là điều may mắn của chúng ta.
                                Phong Châu song quái được Lê Đạo Sinh bày mưu thiết kế gây chia rẽ giữa Thái thú Nhâm Diên với Đào Thế Kiệt, Đinh Đại, đưa đến chuyện Nhâm Diên hành quân đánh phá hai trang, đưa Vũ Hỷ làm Đô sát thống lĩnh hai trang. Song quái đang là một cặp vơ( chồng nghèo khổ, lưu lạc giang hồ, đi đến đâu cũng bị đời khinh khi. Nay trở thành Đô sát, có hai trang cựu lớn, tiền rừng bạc biển, phú quý sung sướng, Vũ Hỷ lúc nào cũng nhớ ơn Lê Đạo Sinh. Nay nhân đại hội Tây hồ, vợ chồng y ra Bắc tham dự, rồi xảy ra vụ Lê Đạo Sinh bị Trần Đại Sinh đánh cho suýt mất mạng. Lê khám phá ra Đào Kỳ sở dĩ có võ công cao đến mức không tưởng tượng được, nhờ đã tìm được bộ Văn lang võ học kỳ thư. Lê bàn với vợ chồng Song quái bắt sống Đào Kỳ để tra hỏi các thẻ đồng. Họ nghĩ muốn bắt Đào Kỳ phải dùng Tường Quy. Lê Đạo Sinh viết thư cho Trương Thanh nói rằng y đau yếu, xin Thanh cho con dâu là Tường Quy về gặp ông ngoại. Tường Quy về gặp Lê Đạo Sinh, nàng đã khóc lóc thảm thiết vì ông chồng không ra gì. Lê Đạo Sinh lúc đầu không tin. Bảo rằng nếu đúng vậy, nàng phải tìm cách nào gọi Đào Kỳ đến, y sẽ gã nàng cho Đào Kỳ. Nàng tin thực. Không ngờ vì nàng mà Đào Kỳ bị bắt.
                                Song quái khám phá ra Đào Kỳ, Tường Quy là một cặp tình nhân hiếm có trên đời. Tự nhiên họ thấy có cảm tình với Tường Quy. Phương Anh nói :
                                – Trương phu nhân ! Phu nhân muốn được cùng Đào công tử suốt đời bên nhau cũng không khó gì cả. Phu nhân chỉ cần khuyên Đào công tử trao cho ta các tấm thẻ đồng. Ta sẽ cúi đầu tạ lỗi, tha Đào công tử với phu nhân ra khỏi đây ngay. Hai vị tự do sống hạnh phúc bên nhau, có phải là duyên thắm, tình nồng không ?
                                Tường Quy liếc mắt nhìn Đào Kỳ.
                                Đào Kỳ nghĩ :
                                – Song quái là hai đứa không có đạo nghĩa giang hồ, ta không thể tin chúng được. Hồi nãy thấy ta có thẻ bài của Quốc công, chúng đã sợ. Nhưng nay chúng lại dụ dỗ ta để hy vọng đoạt được võ công. Được võ công rồi, chúng chẳng ngại ngần giết ta và Tường Quy để đề phòng hậu hoạn. Dù y có tha ta chăng nữa, Lê Đạo Sinh cũng không tha cho ta. Tường Quy là cháu ngoại của Đạo Sinh, chắc Vũ Hỷ không dám hại nàng đâu.
                                Chàng trả lời :
                                – Vũ phu nhân ! Sau khi luyện tập xong, tôi đã hủy bỏ các tấm thẻ đồng đó rồi. Võ kinh quý như thế, nếu tôi cất dấu, ắt có ngày sẽ lọt vào tay người khác. Tôi tội gì mà giữ lại ?
                                Chàng nói với Tường Quy :
                                – Tường Quy ! Biết vậy ngày ấy, khi luyện tập xong, anh cất thẻ đồng đi để nay đưa cho Vũ phu nhân, thì hạnh phúc biết bao ? Nhưng làm thế nào bây giờ ?
                                Vũ Hỷ cười :
                                – Thẻ đồng bị hủy rồi, thì công tử sẽ là thẻ đồng sống. Công tử chịu khó chép cho tôi, những yếu quyết công tử đã luyện, có được không ? Điều đó đâu có gì khó ?
                                Đào Kỳ lắc đầu :
                                – Hai vị đã luyện tập võ công chắc cũng biết. Khi lấy sách, theo đó luyện thì dễ. Nay chép lại để cho người khác là điều cực kỳ khó khăn. Sợ rằng tôi chép không được như nguyên bản.
                                Phương Anh gật đầu :
                                – Không sao Đào công tử, người cứ chép cho tôi đi. Phương Anh tiến lại lấy chìa khóa, mở một tay cho Đào Kỳ, khóa tay trái chàng vào tay phải Tường Quy, rồi lại khóa chân trái chàng vào chân phải nàng. Thành ra giữa chàng và Tường Quy dính với nhau bằng sợi xích sắt. Tay phải chàng được tự do để viết. Phương Anh gõ cửa một tiếng có người chạy vào. Phương Anh ra lệnh :
                                – Ngươi đi lấy giấy mực sang đây. Mang cho ta một bình trà và cây đờn, ống tiêu sang luôn.
                                Một lát người hầu mang đủ thứ đến. Vũ Hỷ nói :
                                – Đào công tử ! Khoang thuyền này có cửa sổ thông ra sông. Có trà, có hoa quả, có đàn, có tiêu để Chu tiểu thư tấu nhạc cho công tử nghe. Công tử ngồi viết lại võ công thẻ đồng cho chúng ta. Chúng ta nguyện hậu tạ.
                                Nói rồi hai vợ chồng y ra ngoài, không quên đóng chặt cửa khoang thuyền lại.
                                Đào Kỳ suy nghĩ :
                                – Võ công ta may mắn học được, ta cũng không muốn giữ một mình, ta định đem truyền cho người khác. Nhưng nếu ta truyền cho Lê Đạo Sinh và Song quái, thực nguy cho thiên hạ không ít. Ta thà chết, thà Tường Quy chết, chứ không thể để đất nước điêu linh vì bọn chúng. Nhưng hoàn cảnh của ta phải làm sao đây ?
                                Chàng chợt nhớ đến Nguyễn Phan khi bị bắt, bị giam, bị cắt chân rất tàn bạo. Nếu chàng không khai, có lẽ chúng sẽ cắt chân chàng như vậy cũng nên.
                                Tường Quy ngồi tựa đầu vào vai chàng. Chàng vuốt ve hai vai mềm mại của nàng. Người chàng lại bay bỗng lên mây, không tự chủ được, chàng lại kéo nàng vào lòng mình.
                                Đến trưa, có người đưa cơm vào cho chàng. Cơm nước rất tinh khiết. những món ăn đều được nấu nướng rất thơm ngon. Chàng cùng Tường Quy ngồi ăn. Đây là lần đầu tiên chàng được ngồi ăn cơm với Tường Quy.
                                Tường Quy như sợ mất chàng, không dám rời khỏi lòng chàng. Nàng ngồi trong lòng chàng, cả hai cùng ăn. Vừa ăn, chàng vừa nghĩ tìm cách nào để giải quyết vấn đề.
                                Chàng chợt nhớ đến hôm trước, Nguyễn Phan giảng nội công cho Hoàng Đức Tiết, Mai Huyền Sương, tất cả đều giảng đúng cho họ không ngờ, rồi bất thình lình giảng sai một chút cho chúng bị đứt mạch máu đầu, thành bán thân bất toại, tàn tật suốt đời.
                                Chàng không nỡ với Phong châu song quái, nhưng khi nghĩ tới Lê Đạo Sinh, chàng không tự chủ được :
                                – Phong châu song quái, Lê Đạo Sinh đều là những kẻ thù của gia đình ta và của Lĩnh Nam. Vậy ta có giết chúng cũng đáng. Nhưng có điều ta chép sai nhưng phải cẩn thận, kẻo chúng biết. Trong 36 chưởng dương cương Phục ngưu, Lê Đạo Sinh đã biết 12 chưởng. Trong 12 chưởng đó ta cứ chép đúng. Còn tất cả ta chép sai. Sai đôi chút cũng đủ vô hiệu lực rồi, cần gì phải sai hết.
                                Chàng ngồi dậy, cầm bút viết. Chàng chép Phục ngưu thần chưởng trước. Đầu tiên chàng chép bài ca quyết Tổng quyết 72 câu . Mỗi câu chàng đều đổi ý chính đi một chút. Như câu khí tụ đơn điền, chàng đổi là khí tụ hung trung, tức khí tụ lồntg ngực. Chép xong 72 câu, chàng buông bút nghỉ, vì đêm đãxuống.
                                Trong khi chàng chép võ kinh, thuyền vẫn tiếp tục chạy xuôi. Cơm chiều xong, chàng mệt quá, nằm gối đầu lên đùi Tường Quy ngủ.
                                Cứ thế chàng ở trong khoang thuyền với Tường Quy đầy hạnh phúc và chép võ kinh cho Phong châu song quái.
                                Một hôm thuyền ra đến biển và quay hướng về Nam. Đào Kỳ chép đến một câu mà chàng không hiểu: Nếu dẫn khí về đơn điền, không tâm, vận lực, thì cây cỏ cũng biến thành sắt thép.
                                Chàng ngẫm nghĩ : Không tâm là gì ? Chàng lơ đãng xuất thần, tay cầm con dao nhỏ đâm xuống sàn thuyền. Mỗi nhát đâm đều nghe tiếng kịch, vì sàn thuyền bằng đồng. Nghĩ mãi không hiểu, chàng lơ đãng nghĩ đến ngày gặp cha, mẹ, rồi vận lực vào tay đâm xuống sàn thuyền, nghe đến chít một tiếng.
                                Tường Quy giật mình kêu lên :
                                – Anh... anh làm gì thế ?
                                Đào Kỳ nhìn lại thì ra chàng đã đâm thủng sàn thuyền. Chàng tỉnh ngộ, thì ra khi dẫn khí về đơn điền, thì không là không nghĩ gì, để lòng trống rỗng, rồi vận lực, thì cây cỏ cũng cứng như sắt đá. Vì vậy, khi chàng vận lực vào con dao nhỏ, thì nó trở nên sắc bén vô cùng. Chàng thử lại một lần nữa, nhưng lại không có kết quả. Chàng nhớ ra một điều. Tại sao không vận lực ra Thủ tam âm kinh, khí tụ đơn điền, không tâm ? Chàng làm thử, cầm con dao đâm xuống sàn. Chít một tiếng, con dao cắm ngập xuống sàn thuyền bằng đồng.
                                Chàng tỉnh ngộ :
                                – Như vậy ta có thể cắt xích sắt, cùng Tường Quy tẩu thoát. Khi chân tay ta tự do, thì đến mười Lê Đạo Sinh ta cũng không sợ. Hà ! Ta cần phải kín đáo, nếu không, chúng sẽ bỏ thuốc độc cho ta với Tường Quy ăn vào thì nguy.
                                Tường Quy thấy mặc Đào Kỳ hiện ra vẻ khác lạ, nàng không hiểu và cho rằng chàng vì buồn bực mà thôi.
                                Đào Kỳ hỏi Tường Quy :
                                – Em ơi ! Từ hôm xuống thuyền đến giờ, anh không thấy em luyện công, anh cũng vậy. Bây giờ, chúng ta cần luyện công. Nếu không, công lực sẽ dần mòn mất đi.
                                Tường Quy ngoan ngoãn, ngồi xếp bằng luyện công. Đào Kỳ thấy nàng dùng tâm pháp Tản viên, nhưng nghe hơi thở, chàng biết nàng chỉ được học những thức nhập môn. Chàng thấy tội nghiệp, bèn hỏi :
                                – Anh quên không hỏi, em đã học những gì về nội công tâm pháp ?
                                Tường Quy kể sơ một lượt rồi hỏi :
                                – Em nghe người ta nói, anh luyện được cả nội công dương cương của thánh Tản viên, lẫn nội công âm nhu của Vạn tín hầu. Anh lại có thể hợp cả hai thứ nội công đó. Vạn-tín hầu chỉ có thể, lúc phát chiêu dương, lúc phát chiêu âm, còn anh có thể phát một lúc, cả dương lẫn âm ở hai tay khác nhau. Người ta còn nói anh có thể tay trái đánh dương, lập tức chuyển sang âm.
                                Đào Kỳ lắc đầu :
                                – Họ nói quá đấy. Điều họ phong cho anh, chính là điều mà anh đang ước mơ. Em thử nghĩ xem, nếu tay phải anh đánh một chưởng dương cương thuộc phái Cửu chân, tay trái ra chiêu Phục ngưu âm nhu, rồi bất thình lình tay trái đổi dương cương Phục ngưu, tay phải âm nhu Phục ngưu, địch thủ còn biết đâu mà tránh nữa ? Hoặc cả hai tay toàn cương hoặc toàn nhu ?
                                Đào Kỳ giảng cho nàng bài tổng quyết về nội công dương cương của Văn lang, rồi dạy cho nàng 12 thức nội công tâm pháp, cùng kinh nghiệm luyện. Tường Quy tập trung tinh thần luyện chỉ một lát đã thành thạo 12 thức dễ dàng.
                                Đào Kỳ ngẫm nghĩ :
                                – Tường Quy không phải là người thông minh như Trưng Nhị, Phương Dung, tại sao nàng luyện mau như vậy ? Không lẽ do nàng với ta yêu thương nhau mà nảy ra ?
                                Suy nghĩ một lúc, chàng thấy không phải. Nhưng chàng nhớ lời Khất đại phu kể với chàng rằng : Nội công Long-biên thuộc loại âm nhu, cần phải những người cực kỳ thông minh mới học được. Còn nội công Tản-viên thì ngược lại, người nào chân thật, tính tình nhu thuận, học sẽ dễ hơn. Cho nên trẻ con học mau hơn người lớn, vì tâm tính đơn thuần. Tường Quy tính tình đơn sơ, giản lược nên nàng luyện rất mau. Chàng để Tường Quy luyện. Còn chàng cũng trở về luyện thức Khí tụ đan điền, không tâm vận lực. Chàng vận sức, chu lưu chân khí theo kinh mạch ra tay, không tâm, cầm dao cắt thử một khoen xích, sột một tiếng khoen xích đứt ngon. Biết có kết quả, chàng cứ để nguyên vậy tiếp tục luyện tập.
                                Đợi đến khuya, lúc Tường Quy đã ngũ ngon, chàng vận sức khẽ kéo một cái, khoen xích đã mở ra. Chàng từ từ nhích xa nàng, chui qua cửa sổ trông ra biển. Chàng nhìn ra xa thấy ánh sáng, biết mình đang ở gần bờ. Trên thuyền hoàn toàn im lặng. Chàng nhìn sang phía trước thấy hai con thuyền lớn, cũng bỏ neo im lìm. Trên một con thuyền có ánh sáng chiếu xuống nước. Chàng bám vào sợi dây neo, từ từ tụt xuống biển, bơi đến chỗ con thuyền có ánh sáng, bám giây neo, leo lên. Trên sàn vắng lặng. Có lẽ thủy thủ đã đi ngủ. Chàng lần lại gần nơi có ánh sáng, đó là một khoang thuyền lớn, trong có người đang hội họp. Chàng ghé mắt vào kẽ hở giữa hai tấm ván, nhìn vào. Trước mắt chàng đủ cả : Lê Đạo Sinh, Đức Hiệp, vợ chồng Chu Bá, vợ chồng Song quái, vợ chồng Lục Mạnh Tân..
                                Vợ Chu Bá là Lê Thị Hảo mặt buồn rười rượi ,nói :
                                – Thưa cha ! Cháu Tường Quy từ bé đến giờ là đứa trẻ ngoan ngoãn, dễ dạy, ôn nhu văn nhã. Cha hứa gã cho con trai Trương Thanh, nó đã khóc lóc khốn khổ, vì nhiều người nói xa, nói gần rằng nó là một thứ Mỵ Châu. Con đã phải dỗ dành nó một thời gian mới tạm yên. Rồi trên đường về Thái hà trang tạm biệt cha trước khi đi lấy chồng, nó gặp Đào Kỳ. Chúng nó ngang tuổi nhau, gặp gỡ nhau, mối tình nảy nở. Khi về nhà chồng, gặp Trương Minh Đức là đứa lêu lôûng, bất tài, khiến nó u sầu thảm thiết. Đào Kỳ lại xuất hiện. Một bên Trương Minh Đức coi nó như tôi mọi. Một bên Đào Kỳ để cho nó đánh, nó giết... không đỡ, không tránh. Chúng nó đã qua đêm trong rừng với nhau, tình yêu như nước, như mây. Nhưng rồi cũng phải chia tay. Nó đau ốm một trận, chữa chạy mãi mới khỏi. Nay cha gọi nó về thăm, dùng nó làm bẫy bắt Đào Kỳ. Đã bắt được Đào Kỳ thì thôi, tại sao cha còn xích nó với Đào Kỳ gần tháng nay ? Bây giờ, chúng nó đã như vợ chồng, sau này phải chia tay, con e nó sẽ chết, chứ không chịu nổi cái khổ này đâu.
                                Đức Hiệp thở dài :
                                – Cháu Tường Quy thực đáng thương. Nhưng, việc thiên hạ là việc lớn. Chúng ta đang mưu đồ lập một nước Lĩnh Nam, dù có hy sinh một cháu hay hy sinh tất cả chúng ta cũng đành phải chịu. Sư muội, ngươi nên nghĩ lại thì hơn. Khi đại cuộc thành rồi, chúng ta sẽ đền đáp cho Tường Quy.
                                Lục Mạnh Tân là thầy Đào Kỳ. Ông vốn có cảm tình với chàng, nên nói :
                                – Thưa nhạc phụ đại nhân ! Đào Kỳ là thiếu niên văn võ kiêm toàn, hơn nữa lại anh tuấn.Tại sao cứ phải coi y là cừu thù, mà không coi y là người trong nhà ? Con nghĩ, người nên đứng ra chủ trương gả Tường Quy cho y, y ắt cảm động, sẽ hiếu với nhạc phụ là Chu huynh đây. Ngày nọ, y hầu hạ Lan Phương, được con giảng sách cho, thế mà y nhớ mãi. Y nói cả đời y chỉ quỳ gối trước vua Hùng, vua An-dương và người trưởng thượng. Con là người Hán duy nhất mà y quỳ gối. Y chống Hán, nhưng không coi con là cừu thù, chỉ vì con đã dạy dỗ y. Y là một thiếu niên có chí khí, biết ơn, biết nghĩa như vậy, e rằng khó kiếm được hai người. Xin nhạc phụ nghĩ lại.
                                Song quái lắc đầu :
                                – Đào Kỳ có thể ơn ta, nhưng Đào Thế Kiệt rất khó. Lục sư đệ đừng quên, chúng ta đánh phá Đào, Đinh trang, làm cho Đào Thế Kiệt tan nát sự nghiệp, lúc nào y cũng nuôi chí phục thù.
                                Lục Mạnh Tân liếc nhìn Song quái, tỏ ý phản đối :
                                – Vũ huynh ! Tôi cho rằng huynh đã nghi quá chăng ? Nghiêm Sơn cầm quân đánh Đào trang, thế mà chính Đào Kỳ lại là người đưa ra ý tưởng cho sư tỷ Thiều Hoa kết hôn với y. Thiều Hoa lấy Nghiêm Sơn mà Thế Kiệt còn khen, không truy tội.. Nếu bây giờ ta gã Tường Quy cho Đào Kỳ, không chừng Thế Kiệt còn theo nữa.
                                Lê Đạo Sinh vuốt râu nói :
                                – Mạnh Tân ! Con với Song quái bàn cãi chi cho mệt ? Bây giờ cha đem tất cả võ công Đào Kỳ chép vừa rồi, coi lại thì biết y tốt hay xấu. Nếu y chép đúng, y là người tốt với ta. Nếu y chép sai, y là ngưới xấu. Trắntg đen sẽ phân biệt.
                                Đức Hiệp nói :
                                – Sư phụ ! Làm thế nào sư phụ biết rằng thực ?
                                Đạo Sinh cười :
                                – Có gì khó đâu ? Trong 36 chưởng Phục ngưu ta đã biết được 12. Nếu 12 chưởng này y chép đúng, 36 chưởng kia đều đúng cả.
                                Song quái đưa tập sách Đào Kỳ chép trình cho Lê Đạo Sinh. Y liếc mắt đọc trang thứ nhất, gật đầu :
                                – Nó chép đúng cả ! Phần tổng quyết không sai trật tí nào. Từ cách vận công, phát chiêu lẫn biến hóa. Mạnh Tân có lẽ con đoán đúng. Để ta đọc sang các chiêu xem sao.
                                Lê Đạo Sinh tiếp tục đọc. Tờ thứ nhất ghi Ác ngưu nan độ. Y cười :
                                – Đây Đào Kỳ chép chiêu Ác ngưu nan độ, các ngươi đều đã học qua. Ta đọc lên để các ngươi biết mà đo lường sự thực hư của y.
                                Nói rồi y đọc lớn :
                                – Ác ngưu nan độ là chiêu thuần dương, nhưng gần với âm nhất, được gọi là trong dương có âm, trong âm có dương. Chiêu thức dùng để tấn công thẳng về phía trước, như gặp phải con trâu dữ chặn đường. Mục đích dùng chưởng lực đánh thắng, nhưng vận kình đẩy xéo về một bên. Khi đối thủ bị đánh tạt sang một bên, kình lực lại đánh thẳng góc vào phía ngang.
                                Y đọc đến đâu, mọi người lại vận khí làm theo, thấy quả đúng như đã học, có điều Đào Kỳ chép chi tiết hơn. Lục Mạnh Tân nhìn Vũ Hỷ mặt tươi hẳn lên.
                                Đạo Sinh đọc tiếp :
                                – Về vận khí, khi phát chưởng phải hít một luồng không khí đầy phổi, chuyển vào Đơn điền, khí trầm tại đây. Một luồng lực đạo tự sinh, chuyển thẳng ra hai vai, tới cùi chỏ, bật tay phóng về phía trước.
                                Lê Đạo Sinh gật đầu, đọc tiếp :
                                – Biến chiêu : Chưởng có thể phát thẳng, có thể sang phải, sang trái. Vì chưởng thuộc loại dương, mạnh, nên khi đẩy sang phải thì bước xéo về trái. Khi đẩy sang trái thì bước xéo về phải.
                                Lê Đạo Sinh gật đầu :
                                – Chỗ này chúng ta bị thất truyền nên không có biến hóa, còn Đào Kỳ đã biết hết. Trước đây ta đã cảm thấy nguyên lý này, nhưng chưa đặt thành luật lệ.
                                Y đọc tiếp :
                                – Khi chưởng trúng đối thủ rồi, lập tức tay quay một vòng, thu trở về và phát tiếp các chiêu "Thanh ngưu ư hà, Ngưu thực ư dã, Lưỡng ngưu tranh phong". Khi phát chiêu tâm phải ghi ý niệm, đánh vỡ núi, gẫy cây, cường lực sẽ mạnh hơn lên.
                                Chu Bá gật đầu :
                                – Như vậy, thằng bé này chép đúng, chứ không phải nó chép sai đâu. Xin nhạc phụ đọc tiếp các chiêu khác xem.
                                Lê Đạo Sinh nói :
                                – Nó mới chép được tám chiêu. Trong đó có bốn chiêu ta đã biết, còn bốn chiêu chưa biết. Trong bốn chiêu đã biết này nó đều chép đúng cả. Thôi ta tạm tin được. Bây giờ chúng ta phải đối xử với nó thực tốt, nhưng vẫn không nên cởi xiềng, bởi bắt hổ thì khó, tha hổ thì dễ. Ở đây Đức Hiệp, Hoàng Đức có nhiều điều ác cảm với nó, không nên xuất hiện. Vợ chồng Chu Bá cũng không nên. Mạnh Tân, Lan Phương, hai con là người có nhiều thiện cảm với nó, nên sang ở chung thuyền, để cùng chuyện trò, mua cảm tình với nó. Vậy từ nay chỉ có vợ chồng Mạnh Tân ở với nó mà thôi. Nó với Tường Quy đã làm chuyện vu sơn rồi, không cần khóa chân tay Tường Quy nữa.
                                Ngưng một lúc, Đạo Sinh nói tiếp :
                                – Chúng ta mang 700 tráng đinh của ba trang Ngọc-cục, Xuân-trường, Linh-cơ đi kỳ này để giúp cho Vũ Hỷ. Cách nay bảy năm ta đã gây chia rẽ giữa Đào, Đinh trang với Thái thú Nhâm Diên, để Thái thú đánh phá Đào, Đinh trang và chín trang nữa họp thành huyện Biện-sơn. Sau vụ này, Lĩnh-nam công xử tử Nhâm Diên, nắm lấy Cửu-chân. Vũ Hỷ được cảm tình của người, nên đặc cách cho giữ chức Đô sát Cửu-chân. Ngươi nên nhớ các chức vụ Tế tác, không bao giờ giao cho người Việt, nhưng ngươi, một bước lên tới chức Đô-sát, thực tiền vô cổ lai. Người cũng cử Phùng Chính Hòa làm Huyện úy Ngọc-đường. Kể ra Lĩnh-nam công đối với ta quá tốt.
                                Ngừng một lát Đạo SInh tiếp :
                                – Nghiêm tốt với chúng ta, nhưng có một mối đe dọa Vũ Hỷ từ lâu nay. Nghiêm Sơn lấy vợ Việt. Nghiêm phu nhân lại là đệ tử thứ ba của Đào trang. Nghiêm sủng ái phu nhân đến độ phu nhân nói gì người cũng nghe. Người định tìm Đào Thế Kiệt về đặt vào chức vụ Thái thú, Đinh Đại vào chức vụ Đô úy. Các ngươi thử nghĩ xem, Đào, Đinh thù Vũ Hỷ biết chừng nào ? Nếu Đào, Đinh trở về, Vũ Hỷ phải rời khỏi Đào, Đinh trang là điều không ổn. Vì vậy ta phải tổ chức cuộc hành quân bí mật tiêu diệt trọn vẹn người của Đào, Đinh trang, hầu tránh mối họa sau này.
                                Hoàng Đức nói :
                                – Sư phụ đã trình bày việc này cho Thái thú Giao-chỉ chưa ?
                                Lê Đạo Sinh gật đầu :
                                – Chính Tô Định khuyên ta tổ chức cuộc hành quân này. Tô nói rằng, sau khi diệt xong Đào, Đinh, người sẽ tâu về triều rằng chính người đã diệt bọn cướp biển ngoài hải đảo. Bọn cướp này là sư phụ của phu nhân Lĩnh-nam công. Mã thái hậu sẽ căn cứ vào đó, xuống chỉ xử tử Hoàng Thiều Hoa.
                                Vũ Hỷ vỗ tay reo :
                                – Chắc chắn Lĩnh-nam công sẽ không tuân theo chỉ của triều đình. Một là người sẽ bỏ đi lưu lạc giang hồ. Hai là người sẽ làm phản.
                                Đức Hiệp hỏi :
                                – Liệu Lĩnh-nam công có làm phản không ?
                                Lê Đạo Sinh lắc đầu :
                                – Nghiêm Sơn xuất thân là người nghĩa hiệp, coi tình bạn hơn tính mệnh. Nghiêm Sơn kết bạn sinh tử với Hoàng đế, Nghiêm sẽ không làm phản, mà chỉ bỏ chức, dắt Thiều Hoa đi tiêu dao sơn thủy.
                                Lục Mạnh Tân hỏi :
                                – Nhạc phụ ! Tại sao mình phải về phe với Thái-thú Tô Định chống Nghiêm công ? Theo con nghĩ, hai người họ tranh dành quyền lợi, cứ mặc họ. Mình cứ ôm gối ngồi cao, có hơn không ?
                                Đạo Sinh lắc đầu :
                                – Con biết một mà không biết hai. Nếu ta không dựa vào Tô Định, sẽ không có quyền đánh Đào, Đinh. Để Đào, Đinh, Thế Kiệt gặp Nghiêm Sơn, có khác gì ta đã giết chết Vũ Hỷ, Phùng Chính Hòa không ? Ta biết Quốc công đối với chúng ta ân nặng như núi, nếu chúng ta phản người thì có chỗ bất nhẫn. Nhưng con phải nhớ câu này :
                                Lượng tiểu phi quân tử,
                                Vô độc bất trượng phu.
                                Vũ Hỹ hỏi :
                                – Kế hoạch đánh đảo, sư phụ định thế nào ?
                                Đạo Sinh cười :
                                – Với 700 trang 1 đinh tinh nhuệ, ta sẽ đổ bộ lên đảo bao vây. Sau đó, chúng ta chính thức xuất hiện, sử dụng luật lệ võ lâm, dùng võ công thắng vợ chồng Đào Thế Kiệt với Đinh Đại. Đám đệ tử còn lại như rắn mất đầu, ta phất tay thu phục, ta sẽ được một lực lượng lớn. Chứ nếu chỉ dẫn tráng đinh đánh nhau, hai bên sẽ cùng tổn hại cả, trong khi ta đang cần người. Thôi các ngươi ai về thuyền nấy.
                                Đào Kỳ tuột xuống nước, bơi về thuyền mình, leo cửa sổ chui vào khoang. Tường Quy còn say sưa trong giấc mộng. Đào Kỳ hôn lên môi nàng một cái, lấy xích sắt của nàng móc vào xích mình, vận khí cho hai mắt xích khép lại như cũ.
                                Sang hôm sau, Đào Kỳ vừa ăn điểm tâm xong, thấy Lục Mạnh Tân với Phương Lan mở cửa vào. Chàng chấp tay :
                                – Đào Kỳ xin tham kiến thầy. Thầy cô vẫn được mạnh khỏe luôn ?
                                Mạnh Tân nhìn chàng đầy vẻ ái ngại :
                                – Thầy biết con là người có ý chí phản Hán phục Việt. Con thấy thầy là người Hán, con không nghi ngờ, vẫn nhớ ơn thầy. Con biết Lĩnh-nam công là người Hán, Nghiêm còn xua quân đánh phá Đào trang, con cũng không thù, không oán. Còn có nhã ý giúp Nghiêm công và Tam sư tỷ nên vợ chồng. Như vậy quả con có tài xét đoán người rất giỏi. Con phục Việt, vì sợ đất Lĩnh-nam sẽ trở thành một quận của Trung-nguyên. Con chống Hán, là chống những bọn tham ô, ác độc. Hiện thầy là con rể của Lục-trúc tiên sinh, con là học trò thầy, thầy phải thương yêu con như con thầy, cho nên thầy đã nói với nhạc phụ không nên gây ác cảm với con nữa. Vì vậy, nhạc phụ để thầy cùng thuyền với con và đưa Song quái sang thuyền khác. Tuy nhiên, nhạc phụ dặn thầy, chỉ được mở khóa cho Tường Quy, mà không được mở khóa cho con. Sư đạo không cho phép thầy nhìn học trò bị xích. Thầy cãi lời nhạc phụ, mở xích cho con, dù biết rằng võ công của con rất cao. Con trở tay một cái là lấy được mạng thầy và những người trên thuyền.
                                Đào Kỳ đã biết chuyện này, chàng hiểu Mạnh Tân là người đạo đức, ông nói đúng sự thật. Đứng giữa tình thầy trò, và chữ hiếu của con rể đối với nhạc phụ, ông nghiêng về phía chàng.
                                Lục Mạnh Tân mở khóa cho chàng với Tường Quy. Hai người được tự do. Tường Quy hỏi Lan Phương :
                                – Dì Út ơi ! Bố mẹ cháu đâu rồi ?
                                Lan Phương chưa biết trả lời sao, Mạnh Tân đã nói :
                                – Cháu cứ yên tâm ở đây với Đào Kỳ. Chú với dì hứa sẽ đứng ra lo cho cháu với Đào Kỳ được mãi mãi bên nhau. Cha mẹ cháu ở thuyền phía trước. Việc này, mẹ cháu cũng đau lòng lắm, chứ có vui gì.
                                Đào Kỳ thấy Lục Mạnh Tân đối xử đúng ra vẻ người quân tử, thật thà ngay thẳng chàng càng phục. Chàng tiếp tục chép võ công cho Lê Đạo Sinh. Cứ chỗ nào Lê biết rồi, chàng chép thực đầy đủ chi tiết. Chỗ nào Lê chưa biết chàng chép sai.
                                Thuyền cứ tiếp tục đi về hướng Nam. Ngoài những lúc chép võ kinh ra, Đào Kỳ lại được Lục Mạnh Tân giảng giải về các sách của Hàn Phi, Thương Ưởng. Nhưng Đào Kỳ thích nhất được nghe giảng về chiến quốc sách. Mỗi đoạn trong sách chàng đều thu được kinh nghiệm, phương cách xử thế ở đời.
                                Một hôm thuyền đến cửa một con sông và buông neo, đậu lại. Đào Kỳ nhìn lên bờ thấy quen quen, nhưng chàng không nhớ ra là đâu. Lúc nhìn vào bờ, gần bãi biển thấy có một ngôi đền cổ với ba cây đa cao ngất tầng mây. Chàng chợt nhớ ra, đây là đền thờ Cao cảnh hầu, nơi chàng đã cùng sư bá Phạm Bách, sư tỷ Thiều Hoa đi qua. Trong đền thờ chàng đã mượn cây gậy đồng của Cao cảnh hầu biểu diễn côn pháp. Nhờ cây côn ấy chàng đã học được võ công kinh người. Chàng nghĩ ?
                                – Vậy thuyền đi về phía Cửu chân đây.
                                Có một chiếc mủng nhỏ chở hai người từ thuyền khác sang thuyền chàng. Lục Mạnh Tân vội nói với Đào Kỳ :
                                – Chắc Song quái sang thuyền này để đổi cho thầy. Bây giờ thầy cô phải trở về thuyền bên kia. Con hãy vào khoang cho thầy khóa chân lại. Nếu không Vũ Hỷ sẽ kiếm chuyện với thầy. Thầy là văn nhân, không biết võ công, có nhiều phiền phức lắm.
                                Đào Kỳ vào khoang. Lục Mạnh Tân khóa chân chàng lại, song quái cũng vừa tới. Song quái bước vào khoang, hỏi chàng :
                                – Đào công tử ! Chắc ngươi tự hỏi trong lòng rằng chúng ta đưa người đi đâu phải không ? Ta nói cho công tử nghe cũng chẳng sao. Chúng ta đưa công tử về Cửu-chân chơi. Viếng lại cảnh cũ chắc công tử cảm động lắm.
                                Ký ức Đào Kỳ nhớ lại trước kia Lê Đạo Sinh giam chàng để làm mồi bắt cha mẹ chàng, không lẽ bây giờ chúng muốn làm nữa ? Đối phó với cha mẹ chàng, cần gì chúng phải mời cả Lê Đạo Sinh theo ? Vậy chủ ý của chúng là gì đây ?
                                Sáng hôm sau thuyền dương buồm chạy thẳng về hướng Đông. Trên sàn thuyền, Song quái tụ họp tráng đinh lại, truyền lệnh phải chuẩn bị vũ khí để chiến đấu.
                                Đến chiều, thấy xa xa hiện ra một hải đảo, sóng vỗ vào bờ trắng xóa. Đào Kỳ vừa lo lắng, vừa vui mừng. Lo, vì không biết cha mẹ mình có chống đỡ nổi cuộc tấn công này không ? Mừng, vì sắp sửa gặp mặt Cha Mẹ, Cậu, Mợ. Chàng ngó đầu ra ngoài cửa sổ nhìn, thấy trên đảo cũng có ba chiến thuyền rất lớn đậu ở đó. Chàng nghĩ, có lẽ đây là những chiến thuyền mà cha mẹ chàng đã cướp được trong trận đánh cảng Bắc xưa kia chăng ?
                                Ba con thuyền của Thái hà trang đến gần đảo, trời đã hoàng hôn. Họ dàn hàng ngang, thả neo ở ngoài khơi.
                                Bỗng cánh cửa khoang bật mở. Vũ Hỷ vẫy Tường Quy :
                                – Cháu ra đây ta dẫn đi gặp ông ngoại và cha mẹ cháu.
                                Tường Quy lưỡng lự, rồi nhìn Đào Kỳ nói :
                                – Em sẽ xin với ông ngoại tha anh ra.
                                Đào Kỳ nhìn vào đảo. Chàng thấy xa xa có 6 cái mủng nhỏ. Trên mủng chở Lê Đạo Sinh, vợ chồng Chu Bá, Song quái, vợ chồng Lục Mạnh Tân, Hoàng Đức, Đức Hiệp, và cả Tường Quy nữa. Các mủng đang bơi vào bờ.
                                – Ta phải vào bờ khẩn cấp hầu có thể cứu viện bố mẹ, cậu mợ.
                                Trời tối dần, chàng vận sức vào tay kéo sợi xích, lấy bọc quần áo đội lên đầu cho khỏi ướt, rồi trườn theo cửa sổ, xuống nước bơi vào bờ.
                                Hồi thơ ấu Đào Kỳ thường cùng các anh, các sư huynh luyện võ dưới nước. Chàng được đặt cho biệt hiệu là con rái cá Cửu-chân. Vì vậy, chàng bơi rất nhanh. Lát sau đã tới bờ.
                                Chàng lên bãi cát, nhìn quanh. Đây là một đảo hoang khá lớn cây cối um tùm, xa xa có nhiều dãy nhà cùng một lối kiến trúc của Đào trang trước kia. Lòng tưởng nhớ bố mẹ, cậu mợ, các anh làm chàng muốn bay ngay vào giữa đảo.
                                Chàng nhìn những luống hoa, những bụi cây cắt xén, ký ức đưa chàng trở về thời thơ ấu, lòng chàng nôn nao khó tả.
                                Thình lình có tiếng hỏi :
                                – Quý khách là ai ? Giá lâm đảo này vào giữa đêm khuya có việc gì chăng ?
                                Đào Kỳ nghe rõ giọng nói vùng Cửu-chân, chàng cũng dùng giọng Cửu-chân đáp lại :
                                – Chúng tôi bị người của Thái-hà trang cầm tù, lợi dụng đêm tối, bơi vào bờ trốn. Xin nhân huynh rộng lượng cho tôi trú ngụ ít ngày.
                                Một toán mười người đeo kiếm cùng xuất hiện. Vì trời quá tối, Đào Kỳ không nhận ra người nào quen mặt. Toán người thấy Đào Kỳ chân tay có xích sắt thì tin ngay.
                                Một người nói :
                                – Tân sư đệ ! Sư đệ dùng búa chặt xích cho thiếu niên này đi. Anh ta bơi vào bờ chắc đói rồi. Đưa anh ta vào nhà khách và cho ăn uống cẩn thận.
                                Người tên Tân kéo Đào Kỳ lại bên tảng đá, dùng búa chặt mấy nhát, bao nhiêu xích với khóa đã đứt rời ra. Anh ta vẫy Đào Kỳ đi theo.
                                Tân tuổi ngang Đào Kỳ, khổ người nhỏ nhắn. Anh ta dẫn Đào Kỳ đi giữa hai luống hoa, tỉa cắt công phu.
                                Tới một căn nhà lớn, Tân đẩy cửa dẫn Đào Kỳ vào, chỉ một cái giường bằng tre, nói :
                                – Nhân huynh chờ ở đây, để tôi trình đại sư ca đã.
                                Đào Kỳ ngắm nhìn căn nhà. Vẫn lối trang trí như hồi ở lục địa. Chỉ khác một điều, các vật dụng trong Đào trang thì cũ kỹ, còn các vật dụng ở đây đều mới làm sau này.
                                Một người dáng điệu hùng vĩ đi vào. Chàng nhận ra đại sư huynh Trần Dương Đức. Suýt chút nữa chàng đã đứng bật dậy chào. Tính trẻ con trở lại, khiến chàng bất động xem đại sư huynh có nhận ra chàng không ?
                                Hồi rời Cửu-chân, Đào Kỳ mới có 13 tuổi, bây giờ chàng đã 20. Thời gian cách biệt, nay chàng đã thành người lớn, nên Dương Đức không nhận ra. Dương Đức thấy một chàng trai trẻ, người rất uy nghi ngồi đó, bèn hỏi :
                                – Chú em ! Chú làm gì để Thái hà trang bắt giam ?
                                Đào Kỳ cúi mặt xuống :
                                – Nguyên cha mẹ tôi đều là Lạc hầu, nhưng không chịu khuất phục người Hán. Thái thú sai Lê Đạo Sinh đánh phá trang ấp, tôi bị lạc mất cha mẹ, bị bắt giam làm nô bộc. Nhân người canh gác bất cẩn, tôi nhảy xuống biển, bơi vào bờ. Xin đaÏi ca làm ơn cho trú ngụ.
                                Trần Dương Đức bảo người sư đệ tên Tân :
                                – Sư đệ ! Chú em này cũng đáng thương. Sư đệ lấy cho bộ quần áo mượn để thay. Dẫn chú sang phòng bên, ta có chuyện chưa thể tiếp chú được.
                                Tân lấy cho Đào Kỳ một bộ quần áo của đệ tử Đào trang thay bộ quần áo ướt. y dẫn chàng sang dãy nhà bên, chỉ vào một phòng, nói :
                                – Trong phòng có giường nhân huynh cư ngụ ở đó.
                                Đợi Tân ra rồi, Đào Kỳ nghĩ :
                                – Ta không nên xuất hiện vội. Ta cứ ẩn thân xem bọn Lê Đạo Sinh định làm gì cha mẹ ta, rồi ta hãy ra tay cứu viện cũng chưa muộn.
                                Chàng lấy con dao, cắt một ít tóc tỉa thành bộ râu, rồi chàng mở bọc lấy keo dán vào cằm. Tiếp đó chàng vận khí lên cổ khạc hai ba cái cho giọng nói trở thành khàn khàn. Chàng mở cửa, hướng đại sảnh đi tới.
                                Phía ngoài đại sảnh có nhiều người gác. Họ thấy chàng mặc quần áo giống đệ tử trong trang., trời lại tối, họ để cho chàng vào. Đào Kỳ vào sảnh đường hai bên đèn nến sáng trưng. Các đệ tử ngồi phía dưới. Phía trên là hai hàng ghế ngang đối diện nhau. Hàng thứ nhất có cha mẹ cậu chàng ngồi. Phía sau có đại sư huynh Trần Dương Đức, hai anh Nghi Sơn và Biện Sơn, hai người em họ con cô, con cậu là Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương và đệ tử của cậu là Quách Lãng.
                                Hàng ghế đối diện có : Lê Đạo Sinh, Đức Hiệp, Song quái....v.v... Tường Quy ngồi ở hàng ghế phía sau.
                                Thấy cha mẹ, chân tay chàng run lên, chỉ muốn chạy lại ôm chầm lấy mẹ. Chàng cố cầm lòng để xem biến chuyển ra thế nào.
                                Đức Hiệp đang đứng nói :
                                – Thưa Đào-hầu, Đinh-hầu. sư phụ tôi hiện là thái dương, bắc đẩu, người đã không ngại đường sá xa xôi dịu vợi, đến đây thưa chuyện với các vị. Thế nhưng quý vị nhất định bỏ lời nói của người ngoài tai. Thực các vị không tự biết mình.
                                Đào Kỳ cười thầm :
                                – Con mẹ mày, thằng Đức Hiệp. Chúng mày định dở trò thối tha gì đây ? Chắc chúng mày muốn bố mẹ tao cúi đầu nhập vào hệ thống Thái-hà trang, ta e còn khó hơn bắc thang lên trời nữa.
                                Nguyên ba chiến thuyền Lê Đạo Sinh còn cách xa đảo, tráng đinh canh gác trên viễn vọng đài đã phát hiện và thổi tù và báo động. Đào Thế Kiệt cùng em vợ là Đinh Đại vội cho các đệ tử bố phòng nghiêm mật, vì ông tưởng Hải đội quân Hán tới tấn công.
                                Lát sau thấy sáu cái mủng chở hơn hai mươi người đổ bộ lên đảo, ông mới biết rằng không phải. Ông cùng Đinh Đại ra bãi biển đứng chờ. Bọn Lê Đạo Sinh mới cặp đảo, ông đã nhận ra Song quái.
                                Trong thâm tâm Đào Thế Kiệt, ông biết điều bất tường sắp xảy ra. Nhưng, ông vẫn thản nhiên coi như không có gì. Song quái giới thiệu từng người một. Đào Thế Kiệt chỉ tay vào sảnh đường.
                                – Thực hân hạnh cho Đào, Đinh gia chúng tôi được đón tiếp vị thái sơn bắc đẩu võ lâm tới thăm. Nào, mời chư vị.
                                Đại đệ tử Trần Dương Đức ra hiệu cho đệ tử tráng đinh chia lực lượng ra làm hai. Một nữa bố phòng trên bãi biển, một nữa vào đại sảnh đường ngồi.
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X